Hoạt động Xuất khẩu rau quả của tổng Công ty rau quả Việt Nam, thực trạng và giải pháp

Lời nói đầu Trong xu thế quốc tế hoá đời sồng kinh tế thế giới và khu vực, nền kinh tế thế giới ngày càng trở thành một chính thể kinh tế thống nhất. Bên cạnh các quan hệ ngoại giao, việc mở rộng mối quan hệ kinh tế đối ngoại là một tất yếu khách quan. Ngoài các quan hệ đầu tư quốc tế, các quan hệ thương mại quốc tế cũng đặc biệt phát triển. Trong đó xuất khẩu là một hoạt động cơ bản của thương mại quốc tế. Với bối cảnh đó, việc mở rộng hoạt động của các doanh nghiệp ra thị trường nước ngoài

doc50 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1210 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hoạt động Xuất khẩu rau quả của tổng Công ty rau quả Việt Nam, thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
là một xu hướng tất yếu khách quan. Điều đó tạo ra những cơ hội đồng thời cả những thách thức đối với cẩ nền kinh tế nói chung và môĩ doanh nghiệp nói riêng. Bên cạnh những doanh nghiệp có kim ngạch xuất khẩu cao hiện nay như doanh nghiệp hàng may mặc - giày dép, các doanh nghiệp xuất khẩu trong khu chế xuất, khu công nghiệp… thì Tổng công ty rau quả Việt Nam (Tên giao dịch quốc tế là: Vietnam National vegatable and Fruit Corporation) trụ sở chính đặt tại số 2 Phạm Ngọc Thạch - Đống Đa - Hà Nội. Cơ quan đại diện tại Moscow - Liên Bang Nga, Philadelphia - Mỹ. Tổng công ty rau quả Việt Nam là một doanh nghiệp nhà nước được thành lập theo nghị định số 63 NNN-TCCB/QD ngày 11/12/1988 của Bộ nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm (Nay là Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn), mặt hàng xuất khẩu trực tiếp của Tổng công ty là: rau quả tươi, rau quả chế biến, hoa và cây cẩnh, gia vị, giống rau quả, nông lâm hải sản, thực phẩm, hàng thủ công mỹ nghệ và hàng hoá tiêu dùng. Trong giai đoạn hiện nay để nâng cao hiệu qủa và tăng kim ngạch xuất khẩu thì Tổng công ty rau quả Việt Nam cần có những giải pháp gì để khắc phục khó khăn mà hoạt động xuất khẩu rau quả gặp phải.Với lý do đó, đề tài “Hoạt động xuất khẩu rau quả của tổng công ty rau quả Việt Nam, thực trạng và giải pháp” được lựa chọn nghiên cứu. Mục đích của đề án là nhận định, đánh giá thực trạng việc xuất khẩu rau quả của Tổng công ty trong thời gian qua và đưa ra một số giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu mặt hàng rau quả trong thời gian tới. Đề án được trình bày chủ yếu trong ba chương: Chương I : Những vấn đề lý luận chung về xuất khẩu. Chương II : Thực trạng xuất khẩu rau quả của Tổng công ty. Chương III : Phương hướng và một số giải pháp chủ yếu để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu rau quả của Tổng công ty hiện nay. Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo hướng dẫn GS.TS Nguyễn Duy Bột cùng các thầy cô giáo trong khoa Kinh Tế và Kinh Doanh Quốc Tế đã tận tình giúp đỡ trong quá trình làm đề án môn học.Cùng tập thể sinh viên lớp Thương mại Quốc tế khoá 29 đã đóng góp nhiều ý kiến bổ ích để đề án được hoàn chỉnh hơn. Do trình độ và thời gian có hạn, đề án môn học chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quí báu của thầy cô giáo và các bạn sinh viên để bài viết được hoàn thiện hơn. S/v : Nguyễn Hồng Tuấn Lớp: TMQT 29. Chương I Những vấn đề lý luận chung về xuất khẩu I. khái niệm, vai trò và các hình thức xuất khẩu chủ yếu. 1. Khái Niệm. Xuất khẩu là việc bán hàng hoá hoặc cung cấp dịch vụ cho nước ngoài trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương tiện thanh toán. Xuất phát điểm của hoạt động xuất khẩu là hoạt động mua bán và trao đổi hàng hoá trong nước. Khi sản xuất phát triển, việc trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia có lợi hơn, hoạt động này đã được mở rộng ra ngoài phạm vi biên giới các quốc gia hoạc giữa thị trường nội địa và khu chế xuất trong nước. Xuất khẩu là hoạt động cơ bản của ngoại thương, đã xuất hiện từ lâu và ngày càng phát triển mạnh mẽ cả về chiều rộng và chiều sâu. Hình thức cơ bản của nó là hoạt động trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia. Cho đến nay nó đã phát triển rất mạnh mẽ, được biểu hiện dưới nhiều hình thức. Hoạt động xuất khẩu ngày nay diễn ra trên phạm vi toàn cầu, trong tất cả các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế không chỉ giới hạn ở hàng hoá hữu hình mà còn mở rộng sang cả hàng hoá vô hình và mặt hàng này chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong tỷ trọng mậu dịch quốc tế. 2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu. Xuất khẩu là một nội dung chính của hoạt động ngoại thương và là hoạt động đầu tiên trong thương mại quốc tế. Nó có vai trò đặc biệt quạn trọng đối với các doanh nghiệp củng như sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. 2.1. Đối với nền kinh tế mỗi quốc gia. Xuất khẩu là một trong những nhân tố cơ bản để thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Để tăng trưởng và phát triển kinh tế mỗi quốc đều cần phải có bốn điều kiện sau: vốn, nguồn nhân lực, tài nguyên và kỹ thuật công nghệ. Nhưng hầu hết các quốc gia đang phát triển đều thiếu vốn và kỹ thuật. Xuất khẩu là một biện pháp để khắc phục điểm yếu này, cụ thể là: Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu, phục vụ công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Công nghiệp hoá - hiện đại hoá đòi hỏi số lượng vốn lớn để nhập khẩu máy móc thiết bị tiên tiến. Để có nguồn vốn nhập khẩu, mỗi nước có thể huy động từ nguồn viện trợ, vay nợ, đầu tư nước ngoài, thu từ hoạt động du lịch, đặc biệt là từ hoạt động xuất khẩu đây là nguồn thu chủ yếu quan trọng nhất. Xuất khẩu thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phát triển sản xuất. Dưới tác động của xuất khẩu, cơ cấu sản xuất và tiêu dùng của thế giới đã và đang thay đổi mạnh mẽ. Xuất khẩu góp phần làm dịch chuyển cơ cấu kinh tế của mỗi quốc gia từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Nếu các thị trưòng thế giới là mục tiêu để tổ chức sản xuất và xuất khẩu thì có tác động tích cực đến phát triển các ngành nghề và mở rộng thị trường tiêu thụ sản xuất được thúc đẩy phát triển, thể hiện ở những điểm sau: xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển thuận lợi. Chẳng hạn, khi phát triển ngành dệt xuất khẩu sẽ tạo điều kiện cho việc phát triển ngành sản xuất nguyên liệu như bông hay thuốc nhuộm. Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ góp phần cho sản xuất phát triển và ổn định. Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế -kỹ thuật nhằm cải tạo và nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Xuất khẩu đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn thiện công việc quản trị sản xuất kinh doanh. Xuất khẩu góp phần làm tăng dự trữ ngoại tệ và đặc biệt đối với những nước đang phát triển nó góp phần vào tăng trưởng và phát triển kinh tế. Khi cán cân thương mại của một quốc gia thặng dư (xuất khẩu lớn hơn nhập khẩu) có khả năng dẫn đến tăng dự trữ ngoại tệ hay qui mô của quỹ bình ổn hối đoái. Điều này đồng nghĩa với tăng sức mạnh của quốc gia trong việc tác động đến cán cân thanh toán và tỷ giá hối đoái nhằm khuyến khích xuất khẩu nâng cao khả năng sản xuất và tăng trưởng kinh tế. Xuất khẩu có tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống nhân dân. Tác động của xuất khẩu đến đời sống bao gồm rất nhiều mặt. Trước hết sản xuất hàng xuất khẩu là hoạt động thu hút hàng triệu lao động vào làm việc và có thu nhập không thấp. Xuất khẩu còn tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời sống và đáp ứng ngày một phong phú thêm nhu cầu tiêu dùng của nhân dân. Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy quan hệ của mỗi quốc gia. Xuất khẩu là hoạt động chủ yếu cơ bản, là hình thức ban đầu của hoạt động kinh tế đối ngoại. Xuất khẩu phát triển tạo điều kiện cho các quan hệ khác phát triển theo như: du lịch quốc tế, bảo hiểm quốc tế, đầu tư quốc tế ... Ngược lại, sự phát triển của các ngành này lại là điều kiện tiền đề cho hoạt động xuất khẩu phát triển. 2.2. Đối với mỗi doanh nghiệp. Vươn ra thị trường nước ngoài là xu hướng chung của các quốc gia và các doanh nghiệp. Việc xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ sẽ đem lại cho doanh nghiệp rất nhiều lợi ích như: doanh nghiệp trong nước có cơ hội tham gia vào cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả và chất lượng. Xuất khẩu đòi hỏi các các doanh nghiệp luôn đổi mới và hoàn thiện công tác quản trị kinh doanh đồng thời có ngoại tệ để tái đầu tư cho quá trình sản xuất không những về chiều rộng mà còn cả chiều sâu; doanh nghiệp có cơ hội mở rộng quan hệ buôn bán kinh doanh với nhiều đối tác nước ngoài trên cơ sở đôi bên cùng có lợi, doanh nghiệp sẽ thu hút được nhiều lao động tạo thu nhập ổn định, tạo ra ngoại tệ để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng đáp ứng nhu cầu đa dạng của nhân dân. 3. Các hình thức xuất khẩu chủ yếu. Với mục tiêu đa dạng hoá hình thức kinh doanh xuất khẩu nhằm phân tán rủi ro, các doanh nghiệp có thể lựa chọn các hình thức xuất khẩu khác nhau như: 3.1. Xuất khẩu trực tiếp. Xuất khẩu trực tiếp là việc xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ do chính doanh nghiệp sản xuất ra hoặc thu mua từ các đơn vị sản xuất trong nước tới khách hàng nước ngoài thông qua hệ thống tổ chức của mình. Ưu điểm của hình thức xuất khẩu trực tiếp là giảm bớt chi phí trung gian do đó tăng lợi nhuận doanh nghiệp, biết được nhu cầu tức thời của khách hàng và tình hình bán hàng ở nước ngoài từ đó có thể thay đổi sản phẩm và điều kiện bán hàng trong trường hợp cần thiết để đáp ứng tốt như cầu của thị trường. Bên cạnh đó, xuất khẩu trực tiếp có nhược điểm là rủi ro trong kinh doanh cao, yêu cầu cao về trình độ, yêu cầu vốn lớn, nghiệp vụ của các cán bộ kinh doanh trong lĩnh vực xuất khẩu. 3.2. Xuất khẩu gia công uỷ thác. Đây là hình thức kinh doanh mà trong đó đơn vị ngoại thương đứng ra nhập nguyên liệu hoặc bán thành phẩm cho doanh nghiệp gia công sau đó thu hồi thành phẩm để xuất lại cho bên nước ngoài. Đơn vị được hưởng phí uỷ thác theo thoả thuận với các doanh nghiệp uỷ thác. Ưu điểm của hình thức này là các đơn vị ngoại thương không cần bỏ vốn ra kinh doanh nhưng vẫn thu lợi nhuận trong khi rủi ro ít hơn. Nhược điểm là nó đòi hỏi phải tiến hành nhiều công việc, nhiều thủ tục xuất khẩu đồng thời cán bộ kinh doanh phải có trình độ nghiệp vụ cao. 3.3. Xuất khẩu uỷ thác. Là hình thức kinh doanh trong đó đơn vị ngoại thương đóng vai trò trung gian thay cho người sản xuất ký kết các hợp đòng mau bán, tiến hành các thủ tục cần thiết cho xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ nhằm thu lại một khoản hoa hồng, thù lao, phí giao dịch nhất định. Ưu điểm của hình thức này là rủi ro thấp, không cần bỏ vốn ra kinh doanh, tạo công ăn việc làm cho người lao động ở nước tiến hàng hoạt động xuất khẩu này. Bên cạnh đó đơn vị trực tiế tiến hành nghiệp vụ lại thu được những khoản tiền nhất định. Tuy nhiên bên cạnh những ưu điểm nghiệp vụ xuất khẩu này có những nhược điểm không thể tránh được như: trách nhệm xử lý tranh chấp thuộc về người sản xuất, lợi nhuận thu được thường là không cao. 3.4. Mua bán đối lưu. Là phương thức mua bán trong đó xuất khẩu kết hợp với nhập khẩu, người bán thường là người mua và lượng hàng đem ra trao đổi thường có giá trị tương đương. Ưu điểm của hình thức mua bán đối lưu là tránh được những biến động, rủi ro về tỷ gia hối đoái trên thị trường ngoại hối mà vẫn mua được hàng cuả nước khác trong trường hợp thiếu ngoại tệ, có thể làm cân bằng hạng mục thường xuyên trong cán cân thanh toán quốc tế. Nhược điểm là mất nhiều thời gian khi tìm đối tác có như cầu hợp với nhu cầu của mình. 3.5. Giao dịch qua trung gian. Là phương thức giao dịch mà mọi việc thiết lập quan hệ giữa người mua và người bán đều thông qua người thư ba hay còn gọi là trung gian mua bán. Trên thị trường họ chủ yếu là các đại lý hay môi giới. Ưu điểm của hình thức này là trung gian thường hiểu rõ tình hình thị trường,pháp luật và tập quán địa phương. Do đó họ có khả năng đẩy mạnh việc buôn bán và tránh bớt rủi ro cho người uỷ thác. Nhược điểm là lợi nhuận thu được từ hình thức này không cao. 3.6. Gia công quốc tế. Là hình thức kinh doanh có một bên (gọi là một bên xuất) nhập khẩu nguyên liệu hoặc bán thành phẩm của bên kia (bên đặt gia công) để chế biến ra sản phẩm giao lại cho bên đặt gia công, thu lại một khoản phí gọi là phí gia công. Hình thức này chủ yếu được áp dụng cho các nước đang phát triển, có nhiều tài nguyên, lao động dư thừa và rẻ, nhưng lại thiếu vốn công nghệ và thị trường tiêu thu sản phẩm. Đối với bên đặt gia công, phương thức này giúp họ lợi dụng được giá rẻ về nguyên vật liệu và nhân công nước nhận gia công. Đối với nước nhận gia công, sẽ giải được công ăn việc làm cho nhân dân lao động trong nước hoặc nhập máy móc thiết bị lao động xây dựng cho một nền công nghiệp dân tộc. Nhược điểm: Bên nhận gia công phải có trình độ kỹ thuật công nghệ hiện đại, trình độ đội ngũ nhân viên phải phù hợp. 3.7. Xuất khẩu tại chỗ. Là hình thức xuất khẩu mà hàng hoá không qua biên giới quốc gia. Đây là hình thức kinh doanh mới đang phát triển mạnh mẽ. Nó có ưu điểm là doanh nghiệp không phải thuê phương tiện vận tải, không phải mua bảo hiểm cho hàng hoá... Do đó có thể giảm được một khoản chi phí khá lớn tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. 3.8. Tái xuất khẩu. Là việc xuất khẩu mà trước đây đã nhập khẩu mà chưa tiến hành các hoạt động chế biến sang một nước thứ 3. Chủ thể tham gia tái xuất khẩu gồm nước xuất khẩu, nước nhập khẩu, nước tái xuất khẩu. Ưu điểm của hình thức này là: Doanh nghiệp có thể thu được lợi nhuận cao mà không cần tổ chức mở rộng sản xuất Nhược điểm: Đòi hỏi trình độ nghiệp vụ của cán bộ XNK cao, phải có sự nhạy bén về tình hình thị trường, giá cả và sự hiểu biết chặt chẽ trong các hợp đồng mua bán. 3.9. Xuất khẩu theo nghị định thư. Đây là hình thức xuất khẩu hàng hoá (thường là hàng trả nợ) được ký kết theo nghị định thư của hai chính phủ. Xuất khẩu theo hình thức này có những ưu đãi như: khả năng thanh toán chắc chắn (Do nhà nước trả cho các đơn vị sản xuất, giá cả hàng hoá dễ chập nhận). Trên đây là một số loại hình kinh doanh xuất nhập khẩu chủ yếu được thực hiện ở các đơn vị kinh doanh xuât nhập khẩu. Ngoài ra tuỳ theo luật pháp của mỗi nước và điều kiện cụ thể của mỗi doanh nghiệp mà có thể có những loại hình kinh doanh XNK khác. III. Nội dung cơ bản và các nhân tố ảnh hưởng, một số chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh tế của hoạt động xuất khẩu. 1. Các bước tiến hành hoạt động xuất khẩu. Hoạt động xuất khẩu có tính phức tạp và độ rủi ro cao do đó muốn xuất khẩu thành công thì phải thực hiện các bước sau: 1.1. Lựa chọn mặt hàng xuất khẩu. Đây là bước đầu tiên cơ bản nhất, rất quan trọng và cần thiết để tiến hành hoạt động xuất khẩu. Để lựa chọn được mặt hàng mà thị trường đang cần đòi hỏi doanh nghiệp phải có quá trình nghiên cứu, phân tích một cách hệ thống về nhu cầu thị trường cũng như khả năng của doanh nghiệp. Đồng thời phải dự đoán xu hướng biến động của thị trường, cơ hội, thách thức mà mình sẽ gặp phải qua đó giúp cho doanh nghiệp nâng cao hiệu quả xuất khẩu. 1.2. Lựa chọn thị trường xuất khẩu . Sau khi đã lựa chọn được mặt hàng xuất khẩu, doanh nghiệp phải tiến hành lựa chọn thị trường xuất khẩu mật hàng đó. Việc lựa chọn thị trường đòi hỏi doanh nghiệp phải phân tích tổng hợp nhều yếu tố bao gồm cả yếu tố vi mô và vĩ mô và nhả năng của doanh nghiệp. Thông thường đó là các yếu tố về văn hoá, xã hội luật pháp, kinh tế, cạnh tranh và các yếu tố thuộc môi trường taì chính. 1.3. Lựa chọn bạn hàng. Việc lựa chọn bạn hàng phải thông qua nguyên tắc hai bên cùng có lợi. Khi lựa chọn bạn hàng các doanh nghiệp cần quan tâm đến các doanh nghiệp khác. Các bạn hàng này thường được phân theo khu vực thị trường và tuỳ thuộc vào sản phẩm mà doanh nghiệp lựa chọn để buôn bán quốc tế và các quốc gia đối tác ưu tiên.. 1.4. Lựa chọn phương thức giao dịch. Phương thức giao dịch là phương thức mà doanh nghiệp sử dụng để thực hiện các mục tiêu và kế hoạch kinh doanh của mình trên thị trường thế giới. Phải lựa chọn được phương thức giao dịch bảo đảm thực hiện tốt các mục tiêu sản xuất kinh doanh của đơn vị mình. 1.5. Đàm phán và ký kết hợp đồng xuất khẩu. Là một trong những khâu quan trọng, trong hoạt dộng xuất khẩu, nó quyết định tính khả thi hoặc không khả thi của kế hoạch sản xuất kinhdoanh. Kết quả của đàm phán là một hợp đồng được ký kết. Đầm phán có thể thông qua thư tín, điện thoại, hoặc trực tiếp. Sau đàm phán các bên tiến hành ký kết hợp đồng xuất khẩu trong đó quy định quyền và nghĩa vụ của người mua và người bán 1.6. Thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Sau khi ký kết hợp đồng xuất khẩu, các bên sẽ thực hiện các điều khoản đã cam kết trong hợp đồng với tư cách là người xuất khẩu, doanh nghiệp sẽ thực hiện theo sơ đồ sau. Sơ đồ. Trình tự các bước thực hiện hợp đồng Mở L/C và kiểm tra L/C Xin giấy phép xuất khẩu Chuẩn bị hàng hoá xuất khẩu Kiểm định hàng hoá Uỷ thác thuê tàu Giải quyết tranh chấp (nếu có) Làm thủ tục thanh toán Giao hàng lên tàu Làm thủ tục hải quan Làm bảo hiểm hàng hoá Đây là trình tự công việc chung nhất để thực hiện hợp đồng xuát khẩu. Tuy nhiên, trên thực tế tuỳ theo thoả thuận của các bên trong hợp đồng mà người xuất khẩu có thể bỏ qua một hoặc một vài công đoạn. 2. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu. Xuất khẩu ra thị trường thế giới nghĩa là doanh nghiệp đang hoạt động trong một môi trường kinh doanh xa lạ, đầy thử thách và cạnh tranh khốc liệt. Môi trường này có ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động xuất khẩu thông qua các yếu tố sau: * Các yếu tố về chính trị. Các yếu tố về chính trị có mối quan hệ mật thiết với các yếu tố kinh tế vĩ mô. Nó có thể khuyến khích và hạn chế quá trình quốc tế hoá hoạt động kinh doanh. Ví dụ, chính sách của chính phủ có thể làm tăng cường sự liên kết của các thị trường và thúc đẩy tốc độ tăng trưởng hoạt động xuất khẩu bằng việc dỡ bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế quan. Sự không ổn định về chính trị sẽ cản trở sự phát triển kinh tế của đất nước và tạo tâm lý không tốt cho các nhà kinh tế đó là thuế quan và phi thuế quan. Nếu thuế xuất khẩu cao thì nó sẽ hạn chế lượng xuất khẩu và ngược lại... còn các công cụ phi thuế quan ngày càng được áp dụng nhiều với tính chất mềm dẻo và linh hoạt hơn. * Các yếu tố cạnh tranh. Cạnh tranh có tác động đến hoạt động xuất khẩu. Một mặt nó thúc đẩy các doanh nghiệp đầu tư máy móc thiết bị... để nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm để chiếm lĩnh thị trường, nhưng mặt khác doanh nghiệp khó có khả năng đáp ứng những thay đổi của môi trường kinh doanh * Yếu tố tỷ giá hối đoái: Trong buôn bán quốc tế, đồng tiền thanh toán thường là ngoại tệ đối với một trong hai bên hoặc cả hai bên. Do vậy khi đồng tiền dùng làm phương tiện thanh toán biến động thì lợi ích của một trong hai bên sẽ bị thiệt hại, do đó họ xem xét lại xem có nên tiếp tục quan hệ thương mại với nhau nữa không. Khi lợi ích của họ không được đảm bảo thì hoạt động ngoại thương có thể bị ngưng trệ. Hơn nữa khi tỷ giá hối đoái tăng làm cho giá hàng hoá trở nên đắt đỏ, sức cạnh tranh, dẫn đến thị trường xuất khẩu bị thu hẹp. * Các yếu tố về công nghệ: Hiện nay, có rất nhiều công nghệ tiên tiến ra đời tạo cơ hội cũng như thách thức đối với doanh nghiệp xuất khẩu công nghệ tác động vào làm tăng hiệu quả của công tác xuất khẩu của doanh nghiệp, giảm chi phí đi lại. Các doanh nghiệp có thể nhanh chóng nắm bắt được các thông tin mới nhất về thị trường. Khoa học và công nghệ tác động vào hoạt đông xuất khẩu thông qua việc tác động vào các lĩnh vực như vận tải hàng hoá, công nghệ, ngân hàng... * Cuộc khủng hoảng thiếu hàng hoá, cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ... cũng là một trong những nhân tố ảnh hưởng rất lớn tới công việc xuất khẩu, chẳng hạn như cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực châu á năm 1997 vừa qua là một ví dụ quan trọng đối vói hoạt động xuất khẩu gặp rất nhiều khó khăn. Việc phá giá đồng tiền hàng loạt trong khu vực trong khi đó đồng tiền Việt Nam bị mất giá rất ít do đó làm cho giá cả hàng hoá xuất khẩu của ta cũng tăng lên tương đối so với hàng hoá của các nước trong khu vực. Theo số liệu thống kê của IMF, trong 10 tháng đầu năm 1997 xuất khẩu của Việt Nam sang các nước ASEAN và Nhật Bản, Hàn Quốc chiếm tỷ trọng 59,8% so với tổng số xuất khẩu của Việt Nam. Với tỷ trọng đó đã làm thiệt hại khá lớn, theo ước tính sơ bộ việc xuất khẩu của Việt Nam thiêt hại khoảng 500 triệu USD. Nhìn chung trên đây là các yếu tố cơ bản nhất ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động xuất khẩu. 3. Một số chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh tế của hoạt động xuất khẩu: Lợi nhuận: Lợi nhuận là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, nó phản ánh kết quả cuối cùng các tác động của tất cả các yếu tố vào hoạt động xuất khẩu. Lợi nhuận (LN) là phần dôi ra của doanh thu (DT) so với chi phí (CP): LN = DT - CP Tỷ suất hoàn vốn đầu tư (TSHVĐT) TSHVĐT = Lợi nhuận ròng = Lợi nhuận ròng Bình quân tổng số tài sản Vốn sản xuất Chỉ tiêu này cho biết nếu bỏ ra một đồng vốn thì thu được bao nhiêu lợi nhuận Tỷ suất lợi nhuận của tổng chi phí (TSLN): TSLN = Lợi nhuận Tổng chi phí Chỉ tiêu này cho biết để thu được một đồng lợi nhuận thì phải chi phí hết bao nhiêu tiền. Hiệu quả sử dụng vốn lưu động (HQ SDVLĐ) HQ SDVLĐ = Lợi nhuận Vốn lưu động Hiệu quả sử dụng vốn lưu động cho biết một đồng vốn làm ra bao nhiêu đồng lợi nhuận trong một kỳ. Nó còn được phản ánh gián tiếp qua chỉ tiêu số vòng luân chuyển vốn lưu động trong một năm (SVLC) SVLC = Tổng giá trị kinh doanh Vốn lưu động Ngoài ra, hiệu quả kinh tế của xuất khẩu được xác đinh bằng so sánh số ngoại tệ thu được với những chi phí bỏ ra cho việc sản xuất hàng hoá xuất khẩu đó (Hx=Tx/Cx) Chỉ tiêu này cho biết số thu ngoại tệ đối với chi phí trong nước... IV. Đặc điểm, xu hướng xuất khẩu rau quả trên thế giới. 1. Đặc điểm rau quả xuất khẩu. Sản phẩm rau quả cũng là một mặt hàng xuất khẩu quan trọng, sản phẩm rau quả rất giàu Vitamin và khoáng chất cung cấp đều đặn cho con người hàng ngày trong cuộc sống. Mặc dù vậy, để giữ được tươi và tinh chất đầy đủ của sản phẩm rau quả thì đây là một vấn đề hết sức nan giải đối với một quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển, chậm phát triển với nền khoa học công nghệ kém phát triển. Bởi đặc điểm và cũng là nhược điểm lớn nhất của sản phẩm rau quả là “sáng tươi - trưa héo - chiều thối” . Do đó mà, sản phẩm rau quả tươi phải đòi hỏi có một hệ thống lạnh đồng bộ từ thu hái, xử lý- vận chuyển- đến tiêu thụ. Đây là công việc bảo quản hoàn toàn khác đối với các hàng hoá xuất khẩu khác, và chỉ trong một thời gian ngắn. Một đặc điểm nữa là, các sản phẩm rau quả hộp tuy đã giải quyết được công tác bảo quản rau quả, nhưng một vấn đề đặt ra là các sản phẩm rau quả hộp có giữ được độ tới ngon, tinh chất của rau quả tươi nưa không, thêm vào đó thì các sản phẩm rau quả hộp chỉ được bảo quản trong thời gian dài nhất là một tháng mà thôi. Đây là điểm khác biệt lớn nhất của rau quả so với hàng hoá khác. Do đó mặt hàng rau quả cần được xuất khẩu nhanh- tiêu thụ nhanh. Sản phẩm rau quả khác với sản phẩm khác ngay từ khâu đầu tiên là khâu chọn giống rau quả đem gieo trồng cho tới khâu cuối cùng là khâu thu hoạch- bảo quản- vận tải và tiêu thụ (xuất khẩu). Sản phẩm rau quả mang tính thời vụ nên hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu phải phụ thuộc vào thời điểm, thời gian, tiến độ sản xuất. Nhìn chung, các loại sản phẩm rau quả cùng có đặc điểm là có chu kỳ sản xuất ngắn. Các sản phẩm rau quả được chế biến theo dây chuyền công nghệ ngay trong cùng một phân xưởng, thời gian công nghệ, thời gian chuẩn bị và vận chuyển tính cho một đơn vị sản xuất là khá ngắn. 2. Xu hướng xuất khẩu rau quả trên thế giới hiện nay. Cùng với sự đa dạng về sản xuất xuất khẩu rau quả thì thị trường rau quả thế giới ngày càng được mở rộng do xu hướng khu vực hoá và toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới tạo nên. Thị trường rau quả Trung Quốc và thế giới. Trung Quốc là nước xuất khẩu rau quả lớn nhất thế giới. Trong năm 1998/1999 xuất khẩu quýt đóng hộp của Trung Quốc tăng 13% so với năm 1997/1998. Nhật Bản là thị trường nhập khẩu chính với mức tăng 44%. Xuất khẩu sang Mỹ- Thị trường xuất khẩu lớn thứ hai đối với quýt đóng hộp - tăng 9% tăng trưởng xuất khẩu của mặt hàng này sang EU chậm lại, trong đó xuất khẩu sang Đức giảm 11%, Hà Lan giảm 49%.. tuy nhiên sang Anh tăng 70%. Trong năm 1998/1999 xuất khẩu dứa đóng hộp đã tăng gấp đôi, xuất sang Đức, Mỹ tăng 3 lần, sang Anh tăng 46%, Hà Lan 75%, Hồng Kông 46%, các tiểu vương quốc ả-rập thống nhất tăng 47%. Số liệu về xuất khẩu hoa quả đóng hộp của Trung Quốc Năm Mặt hàng 1997/1998 1998/1999 1999/2000 Quýt(48/11ounce) 5349,6 6629,8 7524,2 Đào (29/21/23) 1859,3 1656,1 1661,6 Dứa (24/25) 766,5 1441,1 3883,9 Lê (24/21/25) 207,9 327,1 167,2 Thị trường hoa quả đóng hộp của thế giới. Theo số liệu của Bộ Nông Nghiệp Mỹ, trong năm 1999/2000, sản xuất đào đóng hộp tại EU sẽ tăng 18% so với năm trước đạt 565.300 tấn. Tại Hy Lạp nước xuất khẩu đào đóng hộp lớn nhất thế giới - sản lượng sẽ tăng 25% đạt 360.000 tấn, Mỹ đạt 362.000 tấn. Tuy nhiên, xuất khẩu đào đóng hộp thế giới năm 1998/1999 giảm 3%, đạt 498.800 tấn do EU thiếu nguồn chế biến và giá thành phẩm tăng cao. Sản xuất hoa quả tổng hợp đóng hộp (đào, mơ, lê) tại EU năm1999/2000 sẽ giảm 3% còn 96.600 tấn; xuất khẩu giảm còn 88.500 tấn. Sản xuất tại Nam bán cầu trong năm1998/1999 đã tăng 8% đạt 75.500 tấn, tuy nhiên xuất khẩu giảm 14% còn 53.500 tấn. Sản xuất lê đóng hộp thế giới năm 1998/1999 đạt 193.400 tấn theo dự báo, sản xuất mặt hàng này tại Bắc Bán Cầu trong năm nay sẽ giảm 15%, còn khoảng 107.400 tân. Dự báo trong năm 1999/2000 xuất khẩu lê đóng hộp của Italia sẽ giảm 7%, còn 40.000 tấn; còn xuất khẩu của Tây Ban Nha và Pháp tăng tương ứng 9% và 66%. Sản xuất mơ đóng hộp thế giới năm 1998/1999 đã giảm 6%, đạt 67.200 tấn. Dự báo trong năm 1999/2000 sản xuất mơ tại Hy Lạp sẽ tăng 90% (đạt 15.600 tấn), và xuất khẩu mơ của Bắc bán cầu sẽ tăng 28% (đạt 24.000 tấn). Xuất khẩu đào, mơ và lê đóng hộp của thế giới ĐV: nghìn tấn Mặt hàng 97/98 98/99 99/00(dự tính) Bắc bán cầu Đào 383,8 382,3 457,1 Mơ 18,3 18,8 24 Lê 57,6 57,0 57,0 Đồ hộp tổng hợp 84,4 89,5 88,3 Nam bán cầu Đào 124,2 116,5 - Mơ 30,8 38,8 - Lê 58,0 48,0 - Đồ hộp tổng hợp 62,2 53,5 - Qua đó, ta có thể thấy, thị trường xuất khẩu rau quả ngày càng được mở rộng, cơ cấu xuất khẩu rau quả ngày càng có những thay đổi lớn, sự thay đổi về chủng loại mặt hàng rau quả như ngoài các sản phẩm rau tươi, thì hoa quả cũng là mặt hàng xuất khẩu chính. Sự thay đổi từ xuất khẩu rau quả tươi sang xuất khẩu rau quả hộp và đặc biệt là hoa quả đóng hộp ngày càng được chú trọng phát triển sản xuất xuất khẩu. Tỷ trọng xuất khẩu rau quả chế biến ngày càng tăng trong kim ngạch xuất khẩu của thế giới nói chung và các quốc gia nói riêng. Do sản phẩm rau quả là sản phẩm mang tính thời vụ, do đặc điểm của sản phẩm rau quả cho nên để giữ được độ tươi nguyên, tinh chất của rau quả, đảm bảo cho việc xuất khẩu quanh năm thì làm tốt công tác bảo quản, rau quả chế biến như rau quả đông lạnh, rau quả đóng hộp, rau quả sấy muối... là một phương pháp bảo quản tốt nhất mặc dù chỉ trong thời gian ngắn và rau quả chế biến trở thành mặt hàng xuất khẩu chủ lực của mỗi quốc gia nói riêng và toàn thế giới nói chung. Chương II Thực trạng xuất khẩu rau quả của tổng công ty rau quả Việt Nam I. Thực trạng hoạt động xuất khẩu rau quả của tổng công ty. Năm 1999 tình hình thế giới và khu vực có nhiều biến động về kinh tế và chính trị đã tác động trực tiếp đến tốc độ tăng trưởng kinh tế nước ta nói chung và hoạt động xuất nhập khẩu của tổng công ty nói riêng. Trong bối cảnh đó, các công ty kinh doanh xuất nhập khẩu đã có nhiều cố gắng tìn mọi biện pháp khắc phục, thể hiện quyết tâm cao để tăng kim ngạch xuất khẩu bảo đảm kinh doanh có hiệu quả và đóng góp tích cực vào việc hoàn thành kế hoạch chung của tổng công ty. 1. Kim ngạch xuất khẩu rau quả. Từ năm 1998 tới nay, tuy còn gặp nhiều khó khăn nhưng với tinh thần đoàn kết chủ động trong kinh doanh, lại được sự ủng hộ của BNN và PTNT, tổng công ty rau quả đã duy trì được hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu đều đặn, thị trường xuất khẩu ngày càng mở rộng, doanh thu ngày càng tăng qua các thời kỳ cụ thể thông qua số liệu sau. (Bảng 1). Bảng 1. Kim ngạch xuất khẩu qua các thời kỳ. Đơn vị: USD. Thời kỳ Tổng KNXK KNXKBQ/ năm Mức tăng (%) 1988-1990 46.038.358 15.346.119 - 1991-1996 53.358.458 8.893.076 15,9 1997-1999 63.705.593 21.235.197 19,4 Từ bảng 1 ta có nhận xét: Mặc dù tổng kim ngạch xuất khẩu tăng đều đặn qua các thời kỳ cụ thể, thời kỳ 1991-1996 tăng 15,9% so với thời kỳ 1988-1990 và thời kỳ 1997-1999 tăng 19,1% so với thời kỳ 1991-1996 nhưng kim ngạch xuất khẩu bình quân (KNXKBQ) qua các năm tăng không ổn định. Nếu như thời kỳ 1988-1990 KNXKBQ là 15.346.119 USD/ năm thì thời kỳ 1991-1996 KNXKBQ là 8.893.067 USD/ năm. Sở dĩ KNXKBQ thời kỳ này giảm một cách đáng kể là do thời kỳ 1991-1996 nền kinh tế nước ta chuyển mạnh từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường đồng thời chịu tác động của sự biến động chính trị tại các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu và Liên Xô cũ đã dẫn đến cuộc khủng hoảng thị trường xuất khẩu, các thiết bị, công nghệ chế biến rau quả còn cũ kỹ lạc hậu, giá thành cáo khó cạnh tranh nên sản lượng xuất khẩu thời kỳ này giảm dần. Nhưng do tích cực thay đổi có cấu mặt hàng, mẫu mã bao bì, đẩy mạnh sản xuất tiêu thụ trong nước nên hiệu quả chung của thời kỳ này đã tăng 15,9% so với thời kỳ trước. Thời kỳ 1997-1999 KNXKBQ đạt mức cao nhất nảy vọt qua các thời kỳ trước với tổng giá trị 21.235.197 USD/ năm. Để đạt được kết quả này tổng công ty đã chủ động trong kinh doanh xuất nhập khẩu, duy trì hoạt động xuất khẩu đều đặn, mở rộng thị trường xuất khẩu, thay đổi cơ cấu nguồn hàng xuất khẩu, nâng cao chất lượng hàng rau quả xuất khẩu, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Kết quả hoạt động xuất khẩu qua các năm của thời kỳ 1997-1999 được thể hiện trong bảng 2 dưới đây. Bảng 2. Kim ngạch xuất khẩu của các năm thời kỳ 1997-1999. Đơn vị: USD. Năm Tổng KNXNK KNXK So sánh % KH97 TK96 KH 98 TH97 KH99 TH98 1997 36.046.157 19.722.745 103 119,4 - - - - 1998 42.997.191 22.924.201 - - 104,3 116,23 - - 1999 40.456.522 21.058.647 - - - - 100,3 91,86 Qua số liệu tại bảng 2 ta có thể thấy nhìn chung tình hình hoạt động xuất khẩu của tổng công ty là không ổn định trong 3 năm gần đây mặc dù kim ngạch xuất khẩu qua các năm đều vượt kế hoạch mà Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đặt ra cho tổng công ty. Năm 1998 kim ngạch xuất khẩu đạt giá trị cao nhất là 22.924.201 USD, tăng 16,23% so với thực hiện xuất khẩu của năm 1997 và cao hơn 1999 là 1.865.554 USD. Nguyên nhân đạt được những kết quả đáng mừng nói trên là do nền kinh tế nước ta đang có bước phát triển vững vàng, cơ chế chính sách đang dần được hoàn thiện. Nhà nước luôn chú trọng đề ra những biện pháp khuyến khích xuất khẩu, đảm bảo cung ứng cho nền kinh tế quốc dân về thiết bị, vật tư, ng._.uyên liệu, công nghệ... nhằm thúc đẩy nhanh quá trình CNH-HĐH đất nước. Hiện nay nhà nước đã quan tâm đến việc phát triển của ngành rau quả, bước đầu đã có chính sách khuyến khích xuất khẩu. Đây là thời cơ thuận lợi để tổng công ty đầu tư đổi mới hệ thống rau quả, đầu tư đổi mới theo chiều sâu các nhà máy chế biến rau quả cũ có thiết bị lạc hậu để làm tăng khả năng cạnh tranh của hàng rau quả xuất khẩu Việt Nam. Bên cạnh đó, sự thay đổi cơ chế điều hàng xuất nhập khẩu của nhà nước và sự điều chỉnh tỷ giá của đồng USD cũng gây cho tổng công ty không ít những khó khăn trong kinh doanh xuất nhập khẩu trong năm 1999. Theo bảng 2 thì kết quả kim ngạch xuất khẩu năm 1999 là 21.058.647 USD, bằng 91,86% so với thực hiện năm 1998 tức là giảm 8,14% so với năm 1998 mặc dù đã vượt kế hoạch đề ra 0,3%. Nhìn chung hoạt động xuất khẩu của tổng công ty rau quả Việt Nam trong những năm qua là không ổn định. Thật vậy, điều đó được thể hiện rõ ràng trong sơ đồ sau. Sơ đồ 1. Diễn biến xuất khẩu các năm (% so với thực hiện hàng năm) 0 20 40 60 80 100 120 140 1996 1997 1998 1999 Theo sơ đồ 1, diễn biến xuất khẩu trong những năm 1996-1999 có xu hướng giảm trong hai năm 1998 và 1999. Đó là do bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực năm 1997 thêm vào đó là tình hình cạnh tranh trên thế giới ngày càng diễn biến phức tạp không những trong ngành nông sản mà còn trong ngành rau quả chế biến và rau quả tươi. Hiện nay không chỉ có tổng công ty rau quả kinh doanh ngành hàng này mà hầu hết các công ty khác trong nước đều kinh doanh tổng hợp do đó tính chất cạnh tranh ngày càng quyết liệt. Cụ thể là năm 1999 hoạt động xuất khẩu giảm đáng kể, kim ngạch xuất khẩu chỉ bằng 91,86% so với thực hiện năm 1998. Song trong bối cảnh chung của thế giới, khu vực và nền kinh tế nước ta thì những gì mà tổng công ty đạt được thực sự là một cố gắng lớn. 2. Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của tổng công ty rau quả Việt Nam. Cơ cấu tỷ lệ các nhóm hàng rau quả xuất khẩu của tổng công ty ngày càng giảm trong những năm qua, cụ thể được thể hiện dưới bảng sau. Bảng 3. Tỷ lệ nhóm hàng rau quả xuất khẩu. Đơn vị: USD. Nhóm hàng Thời kỳ Năm 1999 1988-1990 1991-1996 1997-1998 Rau quả hộp 25,6% 38,24% 33,86% 28% Rau quả đông lạnh 21,1% 3,76% 0,11% 0% Rau quả tươi 17,4% 9,2% 3,43% 2,6% Rau quả sấy muối 16,1% 15,9% 14,8% 10,6% Các loại rau quả khác 10,8% 32,9% 47,8% 58,8% Qua bảng 3 ta có thể thấy việc phát triển của ngành rau quả chưa đáp ứng được yêu cầu xuất khẩu và chưa tương xứng với nhiệm vụ của một tổng công ty chuyên ngành trong cả nước. Trong cơ cấu hàng xuất khẩu, mặt hàng rau quả chiếm tỷ lệ tương đối cao đặc biệt là thời kỳ 1988-1990 là 80,2% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của tổng công ty nhưng lại giảm rất mạnh trong thời kỳ sau, cụ thể thời kỳ 1991-1996 chiếm 67,1% giảm so với thời kỳ trước là 13,1%, thời kỳ 1997-1998 chiếm 52,25 và năm 1999 chỉ còn chiếm 41,% giảm đi 39% so với thời kỳ 1988-1990. Trong đó rau quả hộp xuất khẩu chiếm tỷ lệ cao nhất trong hàng rau quả xuất khẩu nhưng cũng không ổn định mà ngày càng giảm ở thời kỳ sau như thời kỳ 1997-1998 chiếm tỷ lệ 33,86% nhưng năm 1999 chỉ còn 28% giảm đi 5,86%. Mặt hàng rau quả sấy muối giảm nhẹ qua các thời kỳ nhưng hai mặt hàng rau quả tươi và rau quả đông lạnh thì giảm một cách nhanh chóng. Nếu như thời kỳ 1988-1990 chiếm tỷ lệ 21,1% thì đến năm 1999 tỷ lệ mặt hàng này là 0% tức là không còn khả năng xuất khẩu nữa. Nguyên nhân chính của việc giảm tỷ lệ xuất khẩu hàng rau quả trong thời gian qua đặc biệt là năm 1999 của tổng công ty rau quả Việt Nam là thị trường tiêu thụ hàng rau quả chủ yếu là Nga, Nhật, Mỹ, Trung Quốc không ổn định, các thị trường xuất khẩu khác ở xa muốn mua nhiều nhưng công nghệ bảo quản chế biến, cơ sở vật chất để đảm bảo xuất khẩu tươi của tổng công ty chưa đáp ứng được yêu cầu, thứ đến là do công tác tạo nguồn hàng xuất khẩu của tổng công ty trong những năm qua gặp không ít khó khăn. Đối với nguồn hàng xuất khẩu nội bộ tổng công ty thì do hiện tượng El Nino, nhiệt độ trung bình tăng cao đã tác động đến việc sản xuất các cây ăn quả như nhãn, vải, cam, quýt, dứa.. (quả nhỏ, năng suất thấp) do đó không cung cấp đủ nguyên liệu để chế biến rau quả hộp xuất khẩu. Đối với nguồn hàng ngoài thì lại phải mua với giá trôi nổi trên thị trường dẫn tới giá thành sản phẩm cao. Ví dụ giá vải đóng hộp của Thái Lan nhập về thấp hơn giá vải hộp xuất khẩu tiêu thụ tại thị trường trong nước do đó hàng rau quả xuất khẩu không cạnh tranh nổi. Để có thể làm rõ ràng hơn về mặt hàng xuất khẩu rau quả trong thời gian qua ta có thể xem xét trong ba năm gần đây. Trong thời kỳ này các nhóm hàng xuất khẩu chính của tổng công ty rau quả Việt Nam là rau quả tươi, rau quả hộp, rau quả sấy muối, rau quả đông lạnh, gia vị, nông sản, thực phẩm chế biến và các hàng hoá khác. Trong cơ cấu hàng xuất khẩu, kim ngạch xuất khẩu các nhóm mặt hàng chính và tỷ trọng của nhóm hàng này xin xem bảng số liệu sau. Bảng 4. Tỷ trọng hàng xuất khẩu thời kỳ 1997-1999. Đơn vị: USD. Mặt hàng 1997 1998 1999 Kim ngạch Tỷ trọng (%) Kim ngạch Tỷ trọng (%) Kim ngạch Tỷ trọng (%) Rau quả hộp 7.204.619 36,53 7.259.575,23 31,67 5.879.789 28 Rau quả sấy muối 2.949.772 14,96 3.360.811,34 14,66 2.230.002 10,6 Rau quả tươi 679.600 3,45 782.467,77 3,41 545.798 2,6 Rau quả đông lạnh 30.216,35 0,15 16.980 0,08 - - Gia vị 3.661.048 18.56 3.948.176 17,22 4.865.123 23,1 Nông sản chế biến 4.451.320 22,57 5.539.997,8 24,17 6.876.362 32,65 Hàng hoá khác 746.128 3,78 2.016.123 8,79 661.538 3,14 Tổng 19.722.745 100 22.924.201 100 21.058.647 100 Từ bảng số liệu ta nhận thấy rằng: + Mặt hàng xuất khẩu chủ lực là rau quả hộp, giá trị xuất khẩu luôn đứng đầu và chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng kim ngạch xuất khẩu của từng năm trong thời kỳ 1997-1999 với giá trị xuất khẩu trong cả kỳ là 20.373.565 USD chiếm 32% tổng giá trị xuất khẩu trong cả kỳ. Tuy nhiên mặt hàng xuất khẩu này không ổn định mà có xu hướng giảm dần theo các năm. Nếu như năm 1997 chiếm tỷ trọng 36,53% thì năm 1998 chiếm tỷ trọng 31,67% và năm 1999 chỉ còn 28% bởi vì mặt hàng rau quả hộp của tổng công ty bị ép giá rất mạnh trên thị trường thế giới do khả năng cạnh tranh kém, giá thành cao hơn so với sản phẩm rau quả hộp của thế giới và khu vực nhất là của Thái Lan. + Mặt hàng rau quả sấy muối là mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu đứng thứ 4 sau mặt hàng rau quả hộp, hàng nông sản và thực phẩm chế biến nhưng đứng thứ hai trong nhóm hàng rau quả sau rau quả hộp với kim ngạch xuất khẩu thời kỳ 1997-1999 là 8.540.585 USD chiếm 13,36%. Mặc dù là một trong những mặt hàng xuất khẩu truyền thống của tổng công ty nhưng trong 3 năm gần đây thì mặt hàng này cũng đang giảm dần dần, cụ thể năm 1997 chiếm tỷ lệ 14,96%, năm 1998 là 14,66% và năm 1999 là 10,6%. + Mặt hàng rau quả tươi là mặt hàng xuất khẩu truyền thống của tổng công ty nhưng kim ngạch xuất khẩu cũng không ổn định trong những năm gần đây. Mặt hàng rau quả tươi có kim ngạch xuất khẩu đứng thứ năm trong tổng kim ngạch xuất khẩu của tổng công ty và là mặt hàng xuất khẩu đứng thứ ba trong nhóm rau quả sau rau quả hộp và rau quả sấy muối với kim ngạch xuất khẩu thời kỳ 1997-1999 là 2.007.865 USD chiếm tỷ trọng 3,15%. Hiện nay thị trường xuất khẩu rau quả tươi là Nga không ổn định, công tác bảo đảm rau quả tươi sau khi thu hoạch là kém, cơ sở vật chất để bảo đảm công tác xuất khẩu tươi lạc hậu do đó mặt hàng này đang có xu hướng giảm dần. + Rau quả đông lạnh là mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch xuất khẩu thấp nhất trong tổng kim ngạch xuất khẩu của tổng công ty với kim ngạch xuất khẩu thời kỳ 1997-1999 là 47.196,35 USD chiếm tỷ trọng 0,074%. Do khả năng cạnh tranh của mặt hàng này kém trên thị trường quốc tế bởi công nghệ làm đông lạnh rau quả của nước ta còn rất lạc hậu so với công nghệ bảo quản của các nước phát triển cho nên mặt hàng rau quả đông lạnh không còn khả năng xuất khẩu trong năm 1999. Đây là một thiệt thòi rất lớn cho tổng công ty. + Gia vị bao gồm những mặt hàng quế, hoa hồi, hạt tiêu, riềng bột, ớt bột.. với kim ngạch xuất khẩu 12.474.353 USD chiếm 19,58% tổng kim ngạch xuất khẩu cả thời kỳ 1997-1999. Ngược lại với các mặt hàng trên, mặc dù sản lượng xuất khẩu có giảm, cụ thể sản lượng xuất khẩu năm 1997 là 1534,525 tấn và sản lượng xuất khẩu năm 1999 là 1449,971 tấn nhưng giá trị xuất khẩu vẫn tăng, cụ thể năm 1997 là 3,661.048 USD, năm 1999 là 4.465.129,73 USD, tăng 32,89%. Điều đó chứng tỏ giá cả xuất khẩu hàng gia vị trên thị trường quốc tế có xu hướng tăng lên. Đây là điều kiện thuận lợi để tổng công ty tăng cường xuất khẩu trong những năm sau. + Nông sản và thực phẩm chế biến là mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu khá cao sau mặt hàng rau quả hộp của tổng công ty với kim ngạch xuất khẩu thời kỳ 1997-1999 là 16.867.661,7 USD chiếm 26,48% tổng kim ngạch xuất khẩu. + Hàng hoá khác cũng góp phần vào tăng trưởng và phát triển của tổng công ty, kim ngạch xuất khẩu thời kỳ 1997-1999 là 3.423.789,8 USD chiếm 5,37% tổng kim ngạch xuất khẩu. Tuy hai mặt hàng trên không phải là chuyên ngành của tổng công ty rau quả Việt Nam nhưng để kim ngạch xuất khẩu như vậy cũng thể hiện sự năng động trong kinh doanh xuất nhập khẩu, sự thay đổi cơ cấu hàng xuất khẩu cho phù hợp với yêu cầu của thị trường thế giới. Nói tóm lại, tổng kim ngạch xuất khẩu thời kỳ 1997-1999 đạt 63.705.593 USD chia theo cơ cấu nhóm hàng như sau Hàng rau quả xuất khẩu đạt 43.443.566 USD chiếm tỷ trọng 68,19%. Hàng nông sản, thực phẩm chế biến đạt 16.867.661 USD chiếm tỷ trọng 26,48%. Hàng hoá khác đạt 3.423.789.8 USD chiếm tỷ trọng 5,33%. 3. Tham gia xuất khẩu của các đơn vị. Các công ty xuất nhập khẩu đều rất chủ động trong việc tìm kiếm thị trường, linh hoạt trong kinh doanh, thực hiện được chủ trương lãnh đạo của tổng công ty là: trong cơ chế thị trường khi xuất khẩu gặp khó khăn thì đẩy mạnh nhập khẩu lấy nhập bù xuất cao cho đạt hiệu quả. Chính vì thế mà trong thời gian qua tất cả các công ty đều đạt mức tăng trưởng khá, đóng góp vào thành tích chung của tổng công ty như liệt kê ở bảng 5. Bảng 5. Tham gia xuất khẩu của các đơn vị thời kỳ 1997-1999. Đơn vị Kim ngạch XNK (RCN-USD) Tỷ trọng (%) 1997 1998 1999 1997 1998 1999 Cty XNK rau quả I 3.082.665 5.791.858,8 6.649.054 15,63 15,22 16,44 Cty XNK rau quả II 650.850,58 946.516,89 1.400.845 3,3 2,49 3,46 Cty XNK rau quả III 7.825.985,2 14.675.277 13.703.774 39,68 38,55 33,94 Cty vật tư XNK 2.950.522,6 8.430.554,3 11.634.165 14,96 22,54 28,76 Cty GN-XNK Hải Phòng 660.711,95 897.353,56 2.025.327 3,35 2,36 5 Cty SXDVXK rau quả - - 480.865 - - 1,19 Công ty TPXK Tân Bình - - 71.040 - - 0,17 Văn phòng tổng công ty 3.072.803,6 5.552.800,9 4.464.452 15,58 14,59 11,03 Từ bảng 5 dễ dàng nhận thấy rằng kim ngạch xuất nhập khẩu tham gia của công ty xuất nhập khẩu rau quả III vào tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của tổng công ty đạt giá trị cao nhất là 36.205.036 USD chiếm tỷ trọng 31,6% thời kỳ 1997-1999. Việc đạt được thành tích trên là do trong kim ngạch xuất nhập khẩu của công ty xuất nhập khẩu rau quả III có phần xuất khẩu uỷ thác cho xí nghiệp sản xuất và dịch vụ xuất khẩu rau quả. Tuy nhiên nếu xét theo từng năm thì kim ngạch xuất nhập khẩu tham gia của công ty xuất nhập khẩu rau quả III là không ổn định, nếu như năm 1998 tăng 87,52% so với năm 1997 thì đến năm 1999 lại giảm 6,26% so với năm 1998. Tỷ trọng tham gia xuất nhập khẩu của công ty xuất nhập khẩu rau quả III cũng giảm dần qua các năm 1997 (39,68%), 1998 (38,55%), 1999 (33,94%). Nguyên nhân là do cuối năm 1998 nhà nước thay đổi cơ chế điều hành xuất nhập khẩu, mở rộng cho phép các doanh nghiệp trực tiếp xuất nhập khẩu thì hai đơn vị mới là công ty sản xuất dịch vụ xuất khẩu rau quả và công ty thực phẩm xuất khẩu Tân Bình đã nhanh chóng triển khai thực hiện tìm thị trường xuất nhập khẩu trực tiếp. Chính vì thế mà kim ngạch xuất nhập khẩu của tổng công ty rau quả III giảm xuống nhiều so với năm 1998 và so với kế hoạch bởi các đơn vị trên cuối năm không uỷ thác xuất nhập khẩu qua công ty rau quả III nữa. Công ty vật tư xuất nhập khẩu cũng đóng góp phần lớn vào tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của tổng công ty trong thời kỳ 1997-1999 với kim ngạch xuất nhập khẩu tham gia đạt 23.015.241,6 USD đứng thứ hai sau công ty xuất khẩu rau quả III chiếm tỷ trọng 20,09%. Đây cũng là đơn vị có mức tăng trưởng cao nhất và đều đặn trong bao năm 1997,1998,1999. Cụ thể, năm 1998 tăng 185,73% so với năm 1997 và năm 1999 tăng 45,4% so với kế hoạch năm 1999 và tăng 38% so với thực hiện năm 1998, góp phần xứng đáng vào thực hiện kế hoạch của tổng công ty rau quả Việt Nam. Công ty xuất nhập khẩu rau quả I cũng đóng góp đáng kể vào kim ngạch xuất nhập khẩu chung của tổng công ty với kim ngạch xuất nhập khẩu là 15.523.577,8USD đứng thứ ba sau kim ngạch xuất nhập khẩu của công ty xuất nhập khẩu rau quả III và công ty vật tư xuất nhập khẩu, chiếm tỷ trọng 13,55%. Điều đáng mừng là công ty xuất nhập khẩu rau quả I ngày càng tăng kim ngạch xuất nhập khẩu qua những năm gần đây. Cụ thể, năm 1998 tăng 87,88% so với năm 1997 và năm 1999 tăng 14,8% so với năm 1998. Văn phòng tổng công ty đóng góp cũng không nhỏ, đạt kim ngạch 13.090.056,5 USD chiếm tỷ trọng 11,43% đứng thứ tư sau ba đơn vị kể trên. Công ty thực phẩm xuất khẩu Tân Bình cũng đóng góp một phần không nhỏ trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của tổng công ty. 4. Cơ cấu thị trường xuất khẩu. Trong kinh doanh xuất nhập khẩu, tổng công ty luôn quan tâm đến việc giữ vững và phát triển thị trường. Các hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu trong thời kỳ nền kinh tế đóng cửa, thị trường chính của tổng công ty là Liên Xô cũ và các nước Đông Âu. Sản phẩm được xuất khẩu sang các nước này theo nghị định thư giữa hai chính phủ, có thể để trả nợ, do đổi hàng lấy vũ khí, lương thực hay máy móc thiết bị. Vào thời kỳ đó, thị trường xuất khẩu của tổng công ty là ổn định, ít biến động do được sự bảo đảm của nhà nước. Nhưng từ khi có những biến động về chính trị ở Đông Âu, tại thị trường truyền thống của tổng công ty, nhu cầu hàng hoá do tổng công ty xuất khẩu giảm mạnh. Đứng trước tình hình đó, các cán bộ kinh doanh đã phải tìm cách tiếp cận những thị trường mới. Từ năm 1988-1990, tổng công ty mới chỉ quan hệ với 18 nước trên thế giới, nhưng đến năm 1992 đã tăng lên 29 nước và năm 1993 là 34 nước, năm 1997 là 36 nước và năm 1998 là 43 nước. So với năm 1998, năm 1999 thì 9 thị trường mới được mở thêm là Canada, Latvia, Libăng, Pakistan, Israen, Mondavia, áo, Srilanka, Rumani song lại giảm đi 2 thị trường là Sip và Airơlen. Những thị trường có kim ngạch xuất nhập khẩu từ 500.000 USD trở lên với tổng kim ngạch ngày càng tăng: Năm 1997: 16 với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu là 33.898.061 USD. Năm 1998: 15 với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu là 36.627.071 USD. Năm 1999: 18 với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu là 40.331.529 USD. Tuy rằng có những thị trường có kim ngạch rất nhỏ bé, chỉ trên dưới 10.000 USD nhưng đã thể hiện được tinh thần chịu khó tìm kiếm thị trường của các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu, đồng thời cũng là tiền đề để tổng công ty tăng kim ngạch xuất nhập khẩu trong năm tới. Sau đây là cơ cấu thị trường của tổng công ty trong những năm gần đây. Bảng 6. Cơ cấu thị trường xuất khẩu (% giá trị hàng xuất khẩu) Thị trường xuất khẩu 1997 1998 1999 Nga 37,03 25,62 23,53 Các nước ASEAN 16,39 18,36 13,95 Nhật Bản 8,83 10,77 9,54 Mỹ 6,70 8,3 7,01 Tây Âu 5,25 11,05 12,61 Mông Cổ 6,82 4,25 2,3 Đài Loan 5,75 5,4 5,78 Đông Âu 4,04 2,08 2,73 Trung Quốc 2,5 4,9 5,72 Thị trường khác 6,63 9,27 16,86 Như vậy nhìn vào bảng trên ta thấy rõ sự biến động về cơ cấu thị trường nói chung và thị trường xuất khẩu của tổng công ty nói riêng. Nếu như những năm trước 1994 tổng công ty chỉ biết đến những thị trường ở các nước xã hội chủ nghĩa và chưa xuất khẩu sang các nước Tây Âu, Nhật Bản thì đến những năm gần đây đã có sự thay đổi. Thị trường Nga vẫn là thị trường lớn nhất và tương đối ổn định trong những năm qua. Tuy nhiên tỷ lệ % giá trị hàng xuất khẩu ơ thị trường Nga cũng đang giảm dần trong 3 năm gần đây, năm 1997 là 37,03% xuống còn 23,53% năm 1999. Thị trường các nước Đông Âu cũng không ổn định, năm 1997 chiếm tỷ lệ 4,04% xuống 2,73% năm 1999. Như vậy quy mô thị trường truyền thống giảm trong thời gian qua do nền kinh tế Nga gặp nhiều khó khăn và điều đó ảnh hưởng đến kim ngạch xuất khẩu của tổng công ty. Thay vào đó là sự tăng lên của thị trường các nước ASEAN, Nhật Bản, Mỹ, Tây Âu. Thị trường các nước ASEAN với tỷ lệ % giá trị hàng xuất khẩu đứng thứ hai sau thị trường Nga nhưng cũng không ổn định trong bao năm gần đây, năm 1997 là 16,39%, năm 1998 là 18,36% và năm 1999 là 13,95%. Trước những năm 1991, Tây Âu, Nhật Bản, Mỹ còn là những cái tên xa lạ với tổng công ty. Nhưng từ năm 1992 đặc biệt là năm 1997 thị trường Tây Âu đã chiếm 5,25% đến năm 1998 tăng lên là 11,05% và năm 1999 là 12,61%. Còn Nhật Ban, tổng công ty cũng đã từng bước xâm nhập thị trường với tỷ lệ năm 1997 là 8,83%, năm 1998 là 11,05% và năm 1999 là 9,54% mặc dù là không ổn định nhưng vẫn tồn tại và đứng vị trí thứ bao sau Nga và ASEAN. Đối với thị trường Mỹ, đây cũng là một thị trường đầy tiềm năng đối với tổng công ty. Cho dù việc thâm nhập vào thị trường này là rất khó khăn vì yêu cầu của thị trường là rất khắt khe, mặt khác tổng công ty đang gặp trở ngại do hàng rào thuế quan. Nhưng tổng công ty luôn cố gắng giữ vững và phát triển thị trường này. Chính vì vậy mà tỷ lệ góp phần của thị trường trong tổng kim ngạch xuất khẩu của tổng công ty là không ổn định ttong những năm gần đây, cụ thể năm 1998 tăng lên 8,3% nhưng đến năm 1999 lại giảm xuống còn 7,01% tổng kim ngạch xuất khẩu của tổng công ty. Đứng trước khó khăn đó, tổng công ty đã giải trình trở ngại với bộ NN và PTNT và đã được nhà nước trợ giá để tiếp tục thâm nhập từng bước vào thị trường Mỹ. Ngoài ra hàng xuất khẩu của tổng công ty còn được xuất khẩu sang thị trường lớn khác như Trung Quốc, Đài Loan, Mông Cổ.. trong đó hai thị trường Đài Loan và Trung Quốc thì tổng công ty đang dần có những bước tiến vững chắc trên hai thị trường lớn này. Tóm lại, trong giai đoạn hiện nay, mục tiêu chủ yếu của tổng công ty rau quả Việt Nam là tăng cường khảo sát, tìm hiểu, tham gia các hội chợ về rau quả, cụ thể là ở các khu vực thị trường như châu á, châu Âu, Nga, Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản đặc biệt là cử các chuyên gia sang Mỹ nghiên cứu những vấn đề về thuế quan, hàng rào chất lượng, tình hình cạnh tranh của sản phẩm cùng loại nhằm củng cố thị trường truyền thống và phát triển các thị trường mới góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu của tổng công ty trong thời gian tới. II. Một vài đánh giá về hoạt động xuất khẩu tại tổng công ty rau quả Việt Nam. 1. Những ưu điểm trong hoạt động xuất khẩu của tổng công ty. Xuất khẩu là một trong những chức năng hoạt động chủ yếu của tổng công ty rau quả Việt Nam. Do đó, Nếu như hoạt động xuất khẩu thu được kết quả tốt thì nó sẽ góp phần vào sự phát triển của tổng công ty và ngược lại sẽ gây ảnh hưởng xấu đến kết quả sản xuất kinh doanh của tổng công ty. Tuy trong những năm gần đây, do tác động của nhiều nhân tố chủ quan và khách quan, hoạt động xuất khẩu của tổng công ty có những vướng mắc nhưng nhìn chung tổng công ty có một số ưu điểm sau đây: Về mặt thị trường, tổng công ty đã duy trì được mối quan hệ truyền thống từ mấy chục năm nay với các bạn hàng cũ như Nga, Ba Lan đặc biệt là thị trường Nga rộng lớn và tương đối ổn định nhất của tổng công ty. Ngoài ra trong những năm gần đây tổng công ty đã mở rộng thêm nhiều thị trường mới như Mỹ, Trung Quốc, Đức, Hà Lan, Nhật Bản và một số nước trong khu vực Đông Nam á. Đây là một hướng đi tất yếu phù hợp với hoàn cảnh hiện tại của tổng công ty và của toàn bộ nền kinh tế trong thời kỳ mở cửa. Về mặt cải tiến chất lượng hàng hoá và đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh xuất khẩu. Mặc dù với một cơ sở hạ tầng kém, trang thiết bị lạc hậu từ những năm 60 và hạn chế về vốn song tổng công ty luôn đặt chất lượng hàng xuất khẩu lên hàng đầu, như một biểu hiện của chữ tín với khách hàng. Do nguồn hàng phần lớn từ sản xuất nên chất lượng được kiểm soát rất chặt chẽ, tổng công ty chỉ xuất khẩu những hàng hoá đã qua kiểm tra chất lượng và có chứng nhận chuyên môn của bộ phận KCS trong tổng công ty. Một ưu điểm nữa trong hoạt động xuất khẩu của tổng công ty là nỗ lực trong việc đa dạng hoá chủng loại hàng hoá, cơ cấu hàng xuất khẩu. Tổng công ty đã căn cứ vào những nguồn thông tin thu được về nhu cầu, thói quen tiêu dùng của khách hàng trên mỗi thị trường để có những loại hàng hoá phù hợp. Ví dụ dưa chuột lọ khẩu vị Đức, khẩu vị Hà Lan, khẩu vị Ba Lan..). Về mặt huy động vốn cho sản xuất kinh doanh xuất khẩu, để khắc phục tình trạng thiếu vốn cho việc tạo nguồn hàng xuất khẩu nên trong các thoả thuận về thanh toán, tổng công ty thường yêu cầu bên mua hàng đặt trước một lượng tiền hàng nhất định theo phần trăm của hợp đồng ký kết. Bằng cách này, tổng công ty chắc chắn giữ được khách hàng của mình và phần nào giúp cho khâu thu mua nguyên vật liệu để sản xuất hàng xuất khẩu. Bên cạnh đó, để thu hút thêm nguồn vốn sản xuất kinh doanh xuất khẩu, tổng công ty thực hiện đẩy mạnh cổ phần hoá và năm 1998 tổng công ty đã hoàn thành việc chuyển nhà máy Mỹ Châu thành công ty in và bao bì Mỹ Châu, đẩy mạnh hợp tác liên doanh. Tổng công ty đã có hai liên doanh là công ty thực phẩm nước giải khát DONA NEWTOWER và nhà máy hộp sắt TOVECO. Hiện nay tổng công ty đang tập trung giúp cho LUVECO đi vào hoạt động. Đây là cơ sở liên doanh giữa nhà máy thực phẩm xuất khẩu Nam Hà với tập đoàn Lulu Trung Quốc. Về mặt tổ chức, để hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả, công tác tổ chức từ tổng công ty cho đến các đơn vị thành viên phải được củng cố và hoàn thiện. Sắp xếp, tổ chức cơ quan tổng công ty, thành lập phòng tư vấn đầu tư phát triển, củng cố phòng kinh doanh rau quả tươi, bổ sung lãnh đạo trung tâm KCS. Trên đây là một số ưu điểm trong hoạt động xuất khẩu tại tổng công ty rau quả Việt Nam, tuy còn khiêm tốn song tổng công ty luôn cố gắng nghiên cứu để tiếp tục phát huy những ưu điểm đó nhằm hoàn thiện công tác xuất khẩu ở doanh nghiệp mình. 2. Những vấn đề tồn tại trong hoạt động xuất khẩu của tổng công ty rau quả Việt Nam. Qua phân tích ở phần thực trạng ta nhận thấy rằng tình hình xuất khẩu của tổng công ty trong những năm gần đây có xu hướng giảm sút. Vậy những yếu tố nào đã trực tiếp gây nên thực trạng và những tồn tại trong xuất khẩu của tổng công ty là gì? Trước hết, kim ngạch xuất khẩu hàng năm của tổng công ty mới chỉ đạt ở mức hơn 50% tổng doanh thu. Như vậy chứng tỏ lượng hàng hoá xuất khẩu ra thị trường thế giới vẫn còn thấp, chưa tương xứng với quy mô và tiềm năng của tổng công ty. Ngoài ra, vấn đề thị trường cũng là một vấn đề cần giải quyết của tổng công ty. Nếu công tác nghiên cứu tiếp cận thị trường thu được kết quả tốt sẽ làm tăng kim ngạch xuất khẩu. Tuy nhiên thực tế mặc dù tổng công ty đang tìm cách mở rộng thị trường song thị trường của tổng công ty vẫn còn rất manh mún, bị xé nhỏ bởi nhiều đối thủ cạnh tranh khác. Trong khi đó công tác nghiên cứu thị trường của tổng công ty gặp phải những khó khăn về tài chính, nhân lực hạn hẹp, chưa có điều kiện nghiên cứu chi tiết thị trường. Tổng công ty chưa đề cập đến vấn đề phân đoạn thị trường nên không nhận rõ đặc tính của từng đoạn, đặc biệt là đoạn thị trường trọng điểm, làm giảm hiệu quả các chính sách Marketing. Chất lượng hàng xuất khẩu của tổng công ty tuy có lợi thế hơn những doanh nghiệp khác trong nước không tự sản xuất song Nếu so với hàng rau quả hộp của thế giới như hàng của những đối thủ cạnh tranh Thái Lan, Trung Quốc, Braxin thì chất lượng hàng hoá của tổng công ty vẫn ở mức thấp hơn. Bên cạnh đó, bao bì hàng hoá cũng là một vấn đề của tổng công ty. Chi phí cho bao bì của tổng công ty chiếm đến 41% đối với hàng hoá có bao bì nhập ngoại và 60% đối với hàng hoá có bao bì tự sản xuất. Phần lớn bao bì là hộp, lọ thuỷ tinh, hộp sắt nhưng kích cỡ, chủng loại còn chưa phù hợp với mọi đối tượng sử dụng cho mục đích khác nhau. Hơn nữa, giá bán hàng hoá của tổng công ty lại ở mức cao hơn bình thường do chi phí sản xuất và chi phí xuất khẩu cao, làm giảm khả năng cạnh tranh với các loại hàng hoá cùng loại khác trên thị trường quốc tế. Cụ thể là giá hàng xuất khẩu của tổng công ty thường cao hơn các nước khác trong khu vực là 20-30% trong khi không có sự nổi trội hơn về chất lượng hàng hoá hay những yếu tố khác. Ngoài ra, vấn đề dự trữ hàng hoá cho xuất khẩu cũng là một vấn đề tồn tại cho tổng công ty. Mặt hàng rau quả có tính thời vụ nhưng nhu cầu tiêu dùng của con người lại thường xuyên, thậm chí còn thích rau quả trái mùa hơn nên để đảm bảo thoả mãn tốt nhu cầu của khách hàng cần phải có công tác bảo quản dự trữ tốt. Thế nhưng ở tổng công ty khâu bảo quản dự trữ hàng hoá xuất khẩu còn chưa đạt hiệu quả cao do công nghệ kỹ thuật bảo quản còn lạc hậu nên vẫn xảy ra tình trạng thiếu hàng xuất trong nhiều trường hợp khẩn cấp nhưng lại phải huỷ hàng hoá mất phẩm chất. Điều này làm giảm kết quả của hoạt động xuất khẩu hàng hoá trong tổng công ty. Tạo nguồn hàng xuất khẩu ở tổng công ty cũng là một vần đề cần được xem xét đến. Hàng xuất của tổng công ty chủ yếu là do tự sản xuất, điều này có một số ưu điểm nhưng cũng có một số tồn tại. Đó là, do mặt hàng mùa vụ phải phụ thuộc nhiều vào chọn giống rau quả, chăm sóc vun trồng, điều kiện khí hậu đất đai, kỹ thuật thu hoạch, bảo quản nên tổng công ty không thể chỉ tập trung vào xuất khẩu hay nói cách khác độ chuyên môn hoá xuất khẩu không cao Trên đây là một số nhận xét đánh giá sơ bộ về thành công và hạn chế của công tác xuất khẩu tại tổng công ty rau quả Việt Nam. Những kết quả mà tổng công ty đạt được còn rất khiêm tốn nhỏ bé so với tiềm năng và triển vọng phát triển đang mở ra của tổng công ty. Sự cần thiết phải đẩy nhanh tốc độ và mở rộng quy mô xuất khẩu là đòi hỏi cấp bách có thể thực hiện được Nếu biết tháo gỡ những cản trở đang còn tồn tại, đồng thời có những biện pháp đặc biệt phù hợp nhằm không ngừng đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của tổng công ty. Chương III Phương hướng biện pháp và một số kiến nghị thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng rau quả Việt Nam I. Tính cấp thiết phải đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu tại Tổng công ty. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay các doanh nghiệp đều phải tìm ra cho mình những mục tiêu, những hướng đích để đạt đến. Đặc biệt là trong xu thế tự do hoá thương mại nói chung và thực hiện công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu thì mục tiêu của hoạt động kinh doanh xnk là thu được kết quả tốt qua các nghiệp vụ xnk, cụ thể là tăng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá, bốung nguồn thu ngoại tệ để góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động nhập khẩu (máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu, hay hàng hoá nước ngoài ...). Nhưng với mỗi doanh nghiệp tuỳ theo đặc điểm, lĩnh vực kinh doanh, thực trạng kinh doanh và các yếu tố về môi trường khác nhau mà họ tự tìm ra cho mình những cách khác nhau để đạt được kết quả đó. ở Tổng công ty ra quả Việt Nam, thực tế đề ra là phải tìm mới và áp dụng những biện pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Tổng công ty- đó cũng là một yêu cầu, một hướng đi nhằm kết quả là mang lại sự phát triển vững chắc cho Tổng công ty trong thời gian tới. Tuy nhiên trong bối cảnh hiện nay, một trong những khó khăn của Tổng công ty là do vấp phải sự cạnh trang của một số lượng khá lớn những đối thủ trong cũng lĩnh vực kinh doanh, nếu như Tổng công ty không khẳng định được vị thế của mình trên thị trường thì rất dễ bị nhấn chìm trong “biển” hàng hoá rau quả. Chính vì thế, để vượt lên các đối thủ cạnh tranh khác (cả trong nước và ngoài nước) Tổng công ty cần phải tìm các biện pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu. Hơn nữa, rõ ràng xuất khẩu là hoạt động chính của Tổng công ty hiện nay nên trong mục tiêu dài hạn cũng như trung hạn và ngắn hạn, yêu cầu đầu tiên là tăng kim ngạch xuất khẩu qua từng năm trên mỗi thị trường. Đây là nguồn thu chủ yếu của Tổng công ty để chi trả cho các khoản mục chi phí cần thiết và thực hiện nghĩa vụ nộp ngân sách Nhà nước hàng năm. Tổng công ty sẽ không thể tồn tại và phát triển nếu như hoạt động xuất khẩu ở Tổng công ty trở nên ngày càng sa sút, giảm mạnh về doanh thu và không có hiệu quả. Các khoản doanh thu khác ngoài xuất khẩu mà Tổng công ty thu được là rất nhỏ so với nhu cầu doanh thu của Tổng công ty. Do đó hiển nhiên là Tổng công ty phải tìm giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu. Nhà nước ta thực hiện chính sách “hướng về xuất khẩu” nên mọi hoạt động xuất khẩu đều được khuyến khích, thế nên Tổng công ty cần phải tận dụng triệt để lợi thế về chính sách này để tăng cường công tác xuất khẩu của mình. Nếu Tổng công ty “làm ăn” phát đạt thì nó không chỉ mang lại lợi ích cho bản thân của Tổng công ty như hoàn thành ba mục tiêu coư bản của doanh nghiệp là lợi nhuận, an toàn, vị thế; giải quyết thu nhập cho người lao động trong Tổngct, mở rộng quy mô hoạt động ... mà còn mang lại lợi ích cho toàn xã hội như tạo công ăn việc làm cho người lao động, thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng phù hợp với quốc gia và quốc tế, bổ sung quỹ tiền tệ cho quỹ tiền tệ quốc gia, cải thiện quan hệ giữa Việt Nam và các nước trên thế giới. Chính vì thế, mặc dù kinh doanh trong cơ chế thị trường, mà đặc biệt là kinh doanh xuất nhập khẩu gặp phải nhiều khó khăn, vướng mắc, nhưng tất cả các doanh nghiệp xuất nhập khẩu nói chung và Tổng công ty rau quả Việt Nam nói riêng đều tìm những biện pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu ở đơn vị mình, cố gắng nâng cao uy tín của Tổng công ty, của sản phẩm xuất khẩu trên thị trường quốc tế, quyết tâm tăng kim ngạch xuất khẩu và tăng thị phần của Tổng công ty trên toàn thế giới. Vì thế, yêu cầu đưa ra các biện pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu ở Tổng công ty rau quả Việt Nam vừa là đòi hỏi chủ quan, vừa là đòi hỏi khách quan. II. Phương hướng xuất khẩu trong thời gian tới. 1. Tổng kim ngạch và tiến độ xuất khẩu. Định hướng kim ngạhc xuất khẩu được chia thành 3 giai đoạn: Năm 2000 xuất khẩu 40 triệu USD. Năm 2005 xuất khẩu 100 triệu USD. Năm 2010._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVV435.doc