Kế toán quản trị và công tác lập dự toán tại công ty May 19/5 – Bộ Công An

Tài liệu Kế toán quản trị và công tác lập dự toán tại công ty May 19/5 – Bộ Công An: PHẦN I : MỞ ĐẦU 1.1. Sự cần thiết phải nghiên cứu đề tài Trong nền kinh tế thị trường, vai trò của KTQT ngày càng được khẳng định và nó được xem như là một trong những công cụ hữu hiệu nhất cho quản lý nội bộ doanh nghiệp. Để thực hiện tốt công việc quản lý, từ khâu lập kế hoạch bao gồm việc xác định các mục tiêu của doạnh nghiệp cũng như xác định các phương tiện để đạt được các mục tiêu đó đến việc kiểm tra, phân tích và ra các quyết định, các nhà quản trị cần phải đến rất nhiều thông tin. Tu... Ebook Kế toán quản trị và công tác lập dự toán tại công ty May 19/5 – Bộ Công An

doc71 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1373 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Kế toán quản trị và công tác lập dự toán tại công ty May 19/5 – Bộ Công An, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
y nhiên, trong đó thông tin về tiềm lực và tổ chức nội bộ của doanh nghiệp do KTQT cung cấp là bộ phận quan trọng nhất, quyết định chất lượng của công tác quản lý. Xét từ phương diện kế toán, thông tin chủ yếu nhất mà KTQT xử lý và cung cấp cho các nhà quản trị là thông tin về chi phí. Trong quá trình kinh doanh của các doanh nghiệp, chi phí thường xuyên phát sinh, gắn liền với mọi hoạt động và có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận thu được. Hơn nữa, trên giác độ quản lý, chi phí phần lớn phát sinh trong nội bộ doanh nghiệp, chịu sự chi phối chủ quan của nhà quản trị, do vậy kiểm soát và quản lý tốt chi phí là mối quan tâm hàng đầu của nhà quản trị. Để sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có thể tiến hành một cách thường xuyên, liên tục, các doanh nghiệp phải thiết lập các kế hoạch. Mọi hoạt động của doanh nghiệp đều được tiến hành theo kế hoạch ngắn hạn, trung hạn, dài hạn đã xây dựng. Trong đó việc lập dự toán chi phí giữ vai trò hết sức quan trọng vì:dự toán là cơ sở định hướng và chỉ đạo mọi hoạt động kinh doanh cũng như phối hợp các chương trình hành động ở các bộ phận; Dự toán được lập là cở sở để kiểm tra kiểm soát các nội dung chi phí cũng như nhiệm vụ của từng bộ phận; Thực hiện chức năng này KTQT phải tổ chức việc thu thập thông tin cần thiết để lập dự toán gồm thông tin về tổ chức, về định mức, về chi phí tiêu chuẩn, các thông tin kế toán tài chính, thống kê cũng như kỹ thuật tính toán, ước tính phục vụ cho việc lập dự toán ở doanh nghiệp. Qua các dự toán này, nhà quản trị dự tính được những gì sẽ xảy ra trong tương lai, kể cả những điều bất lợi, thuận lợi cho doanh nghiệp trong quá trình thực hiện dự toán. Các dự toán này đóng vai trò hạt nhân quan trọng trong việc thực hiện các chức năng hoạch định, kiểm tra, kiểm soát của quản trị. Thực hiện mục tiêu này, KTQT phải đảm bảo truyền đạt các thông tin dự toán và thông tin khác cho bộ phận liên quan trong nội bộ doanh nghiệp. Dự toán phải được lập một cách toàn diện, đầy đủ tất cả các bộ phận. Hàng năm tại công ty May 19/5 – BCA đã tiến hành lập dự toán chung cho toàn công ty và giao chỉ tiêu đến các xí nghiệp thành viên. Song công tác lập dự toán tại công ty vẫn còn nhiều bất cập cần giải quyết. Nhận thức được tầm quan trọng của việc lập dự toán tại doanh nghiệp, em tiến hành thực hiện đề tài: “ Kế toán quản trị và công tác lập dự toán tại công ty May 19/5 – Bộ Công An”. 1.2. Mục tiêu nghiên cứu 1.2.1.Mục tiêu chung Tìm hiểu về nội dung KTQT và công tác lập dự toán tại công ty may 19/5 – Bộ Công An. 1.2.2 Mục tiêu cụ thể Tìm hiểu cơ sở lý luận về nội dung của KTQT và công tác lập dự toán; Tìm hiểu về thực trạng bộ máy KTQT tại công ty; Thực trạng về công tác lập dự toán tại công ty; Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện nội dung công tác KTQT nói chung và công tác lập dự toán nói riêng tại công ty. 1.3 Phạm vi nghiên cứu 1.3.1 Phạm vi về không gian Nội dung được nghiên cứu tại công ty May 19/5 - Bộ Công An. 1.3.2. Phạm vi về thời gian Đề tài được thực hiện từ tháng 1/2009 đến tháng 5/2009 Tìm hiểu công tác lập dự toán năm 2009 tại công ty. 1.3.3. Về nội dung Xây dựng dự toán giá thành giày da nam ngắn cổ + giao thông thuỷ PHẦN II CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 2.1 Cơ sở lý luận 2.1.1 Nội dung của kế toán quản trị 2.1.1.1 Qúa trình phát triển của KTQT Nhìn chung, quá trình phát triển của KTQT chủ yếu có thể được chia thành 4 giai đoạn chính: Giai đoạn 1: Trước năm 1950, KTQT chủ yếu quan tâm vào việc xác định chi phí và kiểm soát tài chính, thông qua việc sử dụng các kỹ thuật dự toán và kế toán chi phí. Giai đoạn 2: Vào năm 1965, sự quan tâm của KTQT đã chuyển vào việc cung cấp thông tin cho hoạt động lập kế hoạch và kiểm soát của nhà quản trị, thông qua việc sử dụng các kỹ thuật như phân tích quyết định và kế toán trách nhiệm. Giai đoạn 3: Vào năm 1985, KTQT tập trung quan tâm vào việc làm giảm hao phí nguồn lực sử dụng trong các quá trình hoạt động hoạt động sản xuất kinh doanh, thông qua việc sử dụng các kỹ thuật phân tích quá trình và quản lý chi phí. Giai đoạn 4: Vào năm 1995, KTQT chuyển qua quan tâm vào việc tạo ra giá trị bằng cách sử dụng hiệu quả các nguồn lực, thông qua việc sử dụng các kỹ thuật đánh giá các yếu tố tạo nên giá trị cho khách hàng, giá trị cho cổ đông và sự thay đổi cho tổ chức. Tuy quá trình phát triển của KTQT được ghi nhận thành bốn giai đoạn nhưng sự thay đổi từ giai đoạn này qua giai đoạn khác của quá trình đó đan xen vào nhau và chuyển hoá dần dần. Mỗi giai đoạn của quá trình phát triển thể hiện một sụ thích nghi với những điều kiện mới đặt ra cho tổ chức, bổ sung thêm nội dung quan tâm và các kỹ thuật sử dụng. Mỗi giai đoạn là sự kết hợp giữa cái mới với cái cũ, trong đó cái cũ được kết cấu lại để phù hợp với cái mới trong bối cảnh các điều kiện mới của môi trường quản trị. 2.1.1.2 Khái niệm KTQT Theo Luật kế toán Việt Nam, KTQT “ là việc thu nhận xử lý, phân tích và cung cấp thông tin kinh tế, tài chính theo yêu cầu quản trị và quyết định kinh tế, tài chính trong nội bộ đơn vị kế toán”. Theo định nghĩa của Viện kế toán viên quản trị Hoa Kỳ thì KTQT “là quá trình nhận diện, đo lường, phân tích, diễn giải và truyền đạt thông tin trong quá trình thực hiện các mục đích của tổ chức. KTQT là một bộ phận thống nhất trong quá trình quản lý, và nhân viên kế toán quản trị là những đối tác chiến lược quan trọng trong đội ngũ quản lý của tổ chức”. Nhận diện: là sự ghi nhận và đánh giá các nghiệp vụ kinh tế phát sinh nhằm có hành động kế toán thích hợp. Đo lường: là sự định lượng, gồm cả ước tính, các nghiệp vụ kinh tế đã xảy ra hoặc dự báo các sự kiện kinh tế có thể xảy ra. Phân tích: là sự xác định nguyên nhân của các kết quả trên báo cáo và mối quan hệ của các nguyên nhân đó với các sự kiện kinh tế. Diễn giải: là sự liên kết các số liệu kế toán hay số liệu kế hoạch nhằm trình bày thông tin một cách hợp lý, đồng thời đưa ra các kết luận rút ra từ các số liệu đó. Truyền đạt: là sự báo cáo các thông tin thích hợp cho nhà quản trị và những người khác trong tổ chức. Có nhiều khái niệm về KTQT, được hiểu chung nhất là khoa học thu nhận, xử lý và cung cấp thông tin về hoạt động sản xuất kinh doanh một cách cụ thể, phục vụ cho các nhà quản lý trong việc lập kế hoạch, điều hành, tổ chức thực hiện kế hoạch và quản lý hoạt động kinh tế, tài chính trong nội bộ doanh nghiệp. Bản chất của KTQT như sau: KTQT không chỉ thu nhận, xử lý và cung cấp các thông tin về các nghiệp vụ kinh tế đã hoàn thành, đã ghi chép hệ thống hoá mà còn xử lý và cung cấp các thông tin phục vụ cho việc ra quyết định quản lý. Sử dụng các phương pháp khoa học để phân tích, xử lý chúng một cách cụ thể phù hợp với nhu cầu thông tin của nhà quản trị. KTQT chỉ cung cấp những thông tin về hoạt động kinh tế tài chính trong phạm vi yêu cầu của nội bộ doanh nghiệp. KTQT là một bộ phận của công tác kế toán nói chung và là một công cụ quan trọng không thể thiếu được đối với công tác quản lý nội bộ doanh nghiệp. 2.1.1.3 Mục tiêu của kế toán quản trị Do nhu cầu thông tin khác nhau cho từng đối tượng, phạm vi thông tin cần đáp ứng khác nhau nên kế toán được chia thành KTTC và KTQT. Các thông tin báo cáo tài chính tổng hợp cần cho các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp còn các nhà quản trị doanh nghiệp cần các thông tin chi tiết, cụ thể hơn để ra các quyết định quản lý. Quản trị doanh nghiệp cần có các loại thông tin khác nhau để đi đến mục tiêu một cách thành công, vì vậy KTQT có mục tiêu: Cung cấp thông tin cho quá trình ra quyết định và lập kế hoạch, tham gia một cách tích cực với vai trò là một thành phần của đội ngũ quản lý, vào quá trình ra quyết định và lập kế hoạch; Hỗ trợ các nhà quản lý trong việc định hướng và kiểm soát các mặt hoạt động kinh doanh; Thúc đẩy các nhà quản trị và nhân viên nhằm vào các mục đích của tổ chức; Đo lường kết quả của các mặt hoạt động, các đơn vị, các nhà quản trị và nhân viên trong tổ chức;. Đánh giá vị trí cạnh tranh của tổ chức, làm việc cùng với các nhà quản trị để đảm bảo cạnh tranh lâu dài của tổ chức trong ngành. 2.1.1.4 Chức năng, nhiệm vụ của kế toán quản trị Để đảm nhận được vai trò cung cấp thông tin cho nhà quản trị, KTQT phải có các chức năng sau: Phân tích cách ứng xử của chi phí Phân tích cách ứng xử của chi phí là một nội dung cơ bản của quản trị chi phí. Không thể dự toán, hoạch định, cũng như kiểm soát mà không biết rõ đặc điểm và phân loại một cách cụ thể các loại chi phí. Trong khi phân tích chi phí cần xem xét nội dung, bản chất của từng loại chi phí cũng như các hình thức biểu hiện của chi phí thông qua nhiều tiêu thức sắp xếp khác nhau. Có thể dựa vào bản chất, nội dung, công dụng kinh tế của chi phí, cũng có thể dựa vào hành vi ứng xử, đặc điểm kiểm soát cũng như mối quan hệ giữa chi phí với các phương pháp kế toán để phân loại chi phí… Trong đó việc phân tích hành vi ứng xử của chi phí, được xem là nguồn gốc phát sinh của KTQT, tất cả các chức năng khác của KTQT chỉ có thể được thực hiện và nghiên cứu một cách đầy đủ sau khi chức năng này được thực hiện một cách đầy đủ. Thực hiện chức năng này cần phân loại chi phí, phân tích chi phí theo ứng xử của chi phí khi mức độ hoạt động thay đổi cũng như theo các mục đích sử dụng, Đồng thời khi xem xét chi phí, lúc nào nhà quản trị cũng phải đặt trong mối quan hệ với khối lượng và lợi nhuận mong muốn của doanh nghiệp. b) Lập dự toán và truyền đạt thông tin Để sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có thế tiến hành một cách thường xuyên, liên tục các doanh nghiệp phải thiết lập các kế hoạch. Mọi hoạt động của doanh nghiệp đều được tiến hành theo kế hoạch ngắn hạn, trung hạn, dài hạn đã xây dựng. Trong đó việc lập dự toán chi phí giữ vai trò hết sức quan trọng. c) Kiểm tra đánh giá và cổ động KTQT có nhiệm vụ thực hiện việc kiểm tra, kiểm soát hoạt động kinh doanh từ trước, trong và sau quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Kiểm tra là quá trình so sánh kết quả thực hiện với dự toán được lập nhằm điều chỉnh dự toán và đánh giá việc thực hiện. Thông qua kết quả so sánh cho thấy sự khác nhau giữa thực hiện với dự toán đã lập, tìm ra các nguyên nhân ảnh hưởng để có thể điều chỉnh quá trình thực hiện cũng như đánh giá được kết quả, thành tích của từng cá nhân, bộ phận hỗ trợ. Trên cơ sở đó, các nhà lãnh đạo mới có thể có các biện pháp hỗ trợ, cổ động đến các nhân viên, các bộ phận trong doanh nghiệp. Việc kiểm tra, kiểm soát của KTQT được thực hiện thông qua hệ thống kiểm soát nội bộ trong cơ cấu tổ chức hoạt động và các quy định quản lý nội bộ của doanh nghiệp. Và hệ thống kiểm soát nội bộ được thực hiện qua việc phân công, phân cấp quản lý, từng tổ, đội, từng khâu của công việc. d) Hỗ trợ ra quyết định Ra quyết định là một công việc thường xuyên ảnh hưởng đến mọi hoạt động của doanh nghiệp. Qúa trình này rất cần các thông tin cụ thể từ nhiều nguồn thông tin, trong đó chủ yếu là thông tin của KTQT. Các doanh nghiệp thường đứng trước nhiều phương án khác nhau. Mỗi phương án gắn liền với mỗi tình huống, với số lượng, chủng loại, các khoản mục chi phí, thu nhập khác nhau liên quan đòi hỏi KTQT cũng phải được tổ chức để có thể cung cấp các thông tin cụ thể này. Quá trình ra quyết đinh của nhà quản trị thường là xem xét, cân nhắc, lựa chọn từ các phương án khác nhau để có được phương án tối ưu với hiệu quả cao và rủi ro ít nhất. Các thông tin có sẵn có thường rất nhiều loại, hình dạng khác nhau. Với chức năng này, KTQT phải có công cụ thích hợp giúp các nhà quản trị phân biệt được các thông tin thích hợp và không thích hợp nhằm xác định thông tin phù hợp theo từng phương án. Việc nhận diện thông tin phù hợp, bỏ qua các thông tin không thích hợp sẽ tập trung sự chú ý của nhà quản trị vào vấn đề chính cần giải quyết, giảm thời gian ra quyêt định mới có thể đáp ứng được yêu cầu hiện nay của nhà quản trị trong tình hình cạnh tranh gay gắt, thay đổi liên tục 2.1.1.5 Vị trí, chức năng, nhiệm vụ của nhân viên KTQT trong tổ chức a) Vị trí của nhân viên KTQT Trong môi trường cạnh tranh hiện nay, nhân viên KTQT đã trở thành một thành phần của đội ngũ quản lý, tham gia vào quá trình xây dựng và thực hiện chiến lược. Nhân viên KTQT có thể chuyển xu hướng của chiến lược thành các thước đo hoạt động và quản trị. Thay vì chỉ là những người quan tâm và thu thập số liệu hay là những người viết báo cáo về hoạt động đã qua, họ còn là những người thiết kế các phương pháp thông tin quản lý quan trọng trong tổ chức. Nhân viên KTQT làm việc với các uỷ viên thuộc quản lý cấp cao, nhân viên Marketing và bán hàng, kỹ sư thiết kế, quản lý các mặt hoạt động, chuyên gia pháp lý, nhân viên kiểm soát chất lượng và tất cả các nhân viên chuyên ngành khác trong tổ chức. Đội ngũ quản lý được hình thành nhằm ra quyết định, tham gia vào các bài toán lập kế hoạch, hay chỉ ra những vấn đề hoạt động kinh doanh từ nhiều quan điểm khác nhau. Do các vấn đề tài chính và KTQT rất quan trọng trong việc chỉ ra các vấn đề kinh doanh nên nhân viên KTQT thường có vai trò quan trọng trong các nhóm đa chức năng này. b) Chức năng, nhiệm vụ của nhân viên KTQT Nhiệm vụ của nhân viên KTQTgồm: Phân tích chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp nhằm tính toán chi phí sản phẩm. Thí dụ, chi phí sản xuất sản phẩm X là bao nhiêu? Làm sao để so sánh chi phí này với chi phí của các nhà cung cấp khác? Làm sao để phân bổ chi phí liên kết cho các sản phẩm và dịch vụ? Phân tích cách ứng xử của chi phí, giúp xác định phạm vi chi phí tăng lên hay giảm đi theo các mức hoạt động. Kiến nghị cho quyết định về những sản phẩm hay dịch vụ nào nên sản xuất, hay hoạt động nào nên tiếp tục hoạt động trong khuôn khổ các nguồn lực có giới hạn. KTQT dựa trên những nguyên tắc kinh tế học và nghiên cứu hoạt động khi khai triển các nguyên tắc về tính chi phí nhằm ra quyết định. Chẳng hạn: Chúng ta nên mở rộng hay thu hẹp các mức hoạt động? Chúng ta nên tự thực hiện dịch vụ hay mua ngoài của một nhà chuyên cung cấp ở bên ngoài? Với những nguồn lực có giới hạn, chúng ta nên tập trung cho những hoạt động nào? Chúng ta có nên đóng cửa một trung tâm chỉ vì nó không sử dụng chi phí có hiệu quả? Xây dựng giá bán cho sản phẩm: KTQT có thể hỗ trợ bằng rất nhiều cách khác nhau để giải quyết vấn đề định giá. Một số sản phẩm được định giá theo chi phí cộng thêm( nghĩa là gồm toàn bộ giá thành đơn vị cộng thêm một mức lợi nhuận mong muốn ). Trong trường hợp không thể có sự chọn lựa thực sự mà phải sản xuất sản phẩm ở một mức chi phí phù hợp với giá thị trường, KTQT sẽ vận dụng nguyên tắc về xác định chi phí tiêu chuẩn. Nếu các sản phẩm, tiền công, dịch vụ hay thiêt bị thì phải được tính như thế nào cho sự chuyển nhượng này? Thí dụ, chúng ta phải tính giá nào cho công việc mà bộ phận máy tính trung tâm đã làm cho các bộ phận khác sử dụng? Phân tích quan hệ chi phí - lợi ích và đánh giá đầu tư để tính các chi phí và các dòng tiền thích hợp với các quyết định đầu tư vốn. Những quyết định này, thường xem xét các dòng tiền của nhiều năm, nên cũng cần xem xét giá trị thời gian của tiền tệ và sử dụng các nguyên tắc chiết khấu dòng tiền. Kiểm soát dự toán: Nội dung gồm Xây dựng chi phí tiêu chuẩn của sản phẩm và dịch vụ cung cấp. Các tiêu chuẩn thường được xây dựng ở các mức khó khăn khác nhau( tiêu chuẩn lý tưởng và tiêu chuẩn kỳ vọng). Tiêu chuẩn kỳ vọng được sử dụng trong các quá trình kiểm soát dự toán bình thường còn tiêu chuẩn lý tưởng thì thích hợp cho các quá trình phân tích chuyên môn nhằm giảm chi phí. Khi chi phí tiêu chuẩn được thấy là lạc hậu hay ước tính không đúng, chúng sẽ được điều chỉnh để phản ánh các giá trị ước tính hợp thời nhất. Do vậy phải có sự phân biệt giữa các biến động hoạch định(chênh lệch giữa tiêu chuẩn ban đầu với tiêu chuẩn đã điều chỉnh ) với các biến động hoạt động( chênh lệch giữa tiêu chuẩn đã điều chỉnh với kết quả thực tế ). So sánh giữa kết quả với dự toán và đưa ra các kiến nghị về hành động sửa sai. Dự báo điều chỉnh về kết quả trong tương lai. Kiến nghị về sử dụng chi phí hiệu quả: Để làm giảm chi phí của tổ chức, nhân viên KTQT đưa ra các kiến nghị về các giải pháp cắt giảm chi phí ngắn hạn. Tuy nhiên, để đảm bảo sự phát triển lâu dài và bền vững của tổ chức, KTQT thường nhằm vào những kiến nghi cho chiến lược dài hạn về sử dụng hiệu quả chi phí thay vì những giải pháp ngắn hạn trong dự toán ngắn hạn. Đo lường kết quả: Không một tổ chức kinh doanh nào có thể thoát khỏi quy luật khắc nghiệt của thị trường: lãi hay phá sản. Do vậy thước đo kết quả cơ bản cho các tổ chức là lợi nhuận hoặc một số vốn đầu tư sử dụng. Tuy nhiên, không có ai từng cải thiện lợi nhuận bằng cách nghĩ về lợi nhuận. Để cải thiện lơi nhuận cần có những hành động đặc thù( thí dụ tăng đầu ra, cải thiện chất lượng và sự hữu hiệu). Do đó nhân viên KTQT không chỉ gò bó trong nhiệm vụ tạo ra thông tin xác định chi phí mà còn đóng góp đáng kể vào việc xây dựng các thước đo chất lượng và sự hữu hiệu. KTQT thường sử dụng các chi phí liên quan với chất lượng dưới đây để đánh giá chất lượng và sự hữu hiệu: Chi phí ngăn ngừa( chi phí của việc ngăn ngừa chất lượng kém) Chi phí đánh giá( chị phí của việc điều tra chất lượng) Chi phí thiệt hại nội bộ( chi phí của những hàng hoá hoặc dịch vụ không đạt tiêu chuẩn được phát hiện nội bộ). Chi phí thiệt hại bên ngoài( chi phí của những hàng hoá hoặc dịch vụ không đạt tiêu chuẩn được phát hiện bên ngoài). 2.1. 2 Nội dung kế toán quản trị và công tác lập dự toán Xác định các chỉ tiêu quản lý cần thiết phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tổ chức thu nhận, xử lý và cung cấp thông tin một cách cụ thể, kịp thời. Vận dụng các cách phân loại chi phí, các phương pháp phân tích chi phí để thu nhận, tổng hợp và cung cấp các thông tin cần thiết cho việc lập các kế hoạch, các dự toán chi phí, doanh thu, lợi nhuận, phân tích chi phí…phục vụ cho việc điều hành quản lý, kiểm soát chi phí, đề ra các phương án kinh doanh. Xây dựng các định mức về chi phí sản xuất, chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp, giá phí hàng mua làm cơ sở cho việc ra các quyết định và kiểm tra quá trình thực hiện. Phân tích chi phí một cách cụ thể chi tiết theo yêu cầu quản lý của doanh nghiệp, theo từng hoạt động kinh doanh, từng địa điểm kinh doanh, từng nhóm sản phẩm…bằng các phương pháp nghiệp vụ cụ thể. Thiết kế các biểu mẫu báo cáo chủ yếu phục vụ cho việc lập dự toán và soạn thảo các báo cáo kế toán quản trị. 2.1.3 Nội dung công tác lập dự toán Trong các chức năng của quản trị, lập kế hoạch là chức năng quan trọng không thể thiếu đối với mọi doanh nghiệp. Kế hoạch là xây dựng mục tiêu của doanh nghiệp và vạch ra các bước thực hiện để đạt mục tiêu đã đặt ra. Dự toán cũng là một loại kế hoạch nhằm liên kết các mục tiêu cụ thể, chỉ rõ các tài nguyên phải sử dụng đồng thời dự tính kết quả thực hiện trên cơ sở các kỹ thuật dự báo. Dự toán là tổng thể các dự đoán về khối lượng được thể hiện theo một cơ cấu nhất định, là sự cụ thể hoá bằng các con số các kế hoạch, dự án. Dự toán có thể thể hiện tình trạng tài chính hoặc phi tài chính theo một đơn vị đo lường nhất định có thể là kg, lít, số giờ...Chỉ tiêu số lượng trong dự toán có thể là các con số trong quá khứ hoặc số liệu trong các cuộc nghiên cứu. Trong trường hợp dự toán bán hàng thí số liệu được rút ra từ phân tích thị trường, từ các phương pháp điều tra của thống kê. Theo nghĩa hẹp, dự toán là việc ước tính toàn bộ thu nhập, chi phí của doạnh nghiệp trong một thời kỳ để đạt được một mục tiêu nhất định. Theo nghĩa rộng, dự toán được hiểu là dự kiến các công việc, nguồn lực cần thiết để thực hiện các mục tiêu trong một tổ chức. Qúa trình dự toán cũng phải đặt ra: ai làm dự toán và ai sẽ thực hiện dự toán theo phân cấp quản lý doanh nghiệp. Công việc này được thực hiện nhằm gắn liền với trách nhiệm của mỗi bộ phận, mỗi cá nhân với mục tiêu của doanh nghiệp. Như vậy, dự toán của doanh nghiệp không chỉ gắn liền với việc tổ chức thực hiện mà còn là cơ sở để thực hiện công tác kiểm tra, kiểm soát sau này. 2.1.3.1 Ý nghĩa việc lập dự toán Dự toán doanh nghiệp là chức năng không thể thiếu được đối với các nhà quản lý hoạt động trong môi trường cạnh tranh ngày nay. Trong KTQT, dự toán là một nội dung trung tâm quan trọng nhất. Nó thể hiện mục tiêu, nhiệm vụ của toàn doanh nghiệp; đồng thời dự toán cũng là cơ sở để kiểm tra kiểm soát cũng như ra quyết định trong doanh nghiệp. Dự toán là sự tiên liệu tương lai có hệ thống nhằm cung cấp cho nhà quản lý các mục tiêu hoạt động thực tiễn, trên cơ sở đó kết quả thực tế sẽ được so sánh và đánh gía. Biện pháp này nâng cao vai trò kế toán trách nhiệm trong kế toán quản trị. Dự toán là cơ sở để nhà quản lý tổ chức thực hiện nhiệm vụ của doanh nghiệp, là phương tiện để phối hợp các bộ phận trong doanh nghiệp và giúp nhà quản lý biết rõ cách thức hoạt động trong doanh nghiệp liên kết lại với nhau. Dự toán là phương thức truyền thông để các nhà quản lý trao đổi các vấn đề liên quan đến mục tiêu, quan điểm và kết quả đạt được. Lập dự toán cho phép các nhà quản lý xây dựng và phát triển nhận thức về sự đóng góp của mỗi hoạt động đến hoạt động chung của toàn doanh nghiệp. 2.1.3.2 Yêu cầu của quá trình lập dự toán Đảm bảo sự tiếp tục của kế hoạch đề ra; Đo lường trong từng thời kỳ những điều kiện để đạt được mục đích đề ra; Đánh giá tính kinh tế, hiệu suất, hiệu quả của quá trình quản lý; Can thiệp để điều chỉnh kế hoạch; Đánh giá lại mục tiêu và chiến lược của một tổ chức; Dự toán là một công cụ để lập kế hoạch và kiểm tra được sử dụng rất rộng rãi trong quá trình hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Hiện nay, trong bất kỳ doanh nghiệp nào cũng có hệ thống các bản dự toán, dự toán là phương tiện đắc lực cho các nhà quản lý trong việc điều hành doanh nghiệp. Theo một số nghiên cứu, 90% doanh nghiệp ở Mỹ lập các dự toán tổng thể gọi là “ dự toán chủ đạo”. Tỷ lệ này là 93% ở Nhật, 95% ở Úc và 100% ở Anh và Hà Lan. Dự toán không chỉ đơn thuần là tổng thể các số liệu dự đoán mà còn cung cấp các số liệu cũng như các thể thức thực hiện dự án. Lập dự toán chính là quá trình lập kế hoạch dần dần từng bước tiến trình thực hiện dự án. Nói cách khác đây là việc trù bị chiến lược và chi phí cho dự án. Số liệu của dự toán là các chuẩn mực để đánh gía thành tích của doanh nghiệp. 2.1.3.3 Các loại dự toán Dự toán là một công cụ của các nhà quản lý, chính vì thế đòi hỏi họ phải biết thích ứng dự toán với từng nhu cầu riêng rẽ và với hoàn cảnh cụ thể của doanh nghiệp. Vì vậy dự toán có rất nhiều loại khác nhau. Chẳng hạn, người ta có thể triển khai thực hiện kế hoạch theo loại nghiệp vụ, theo các loại nguồn lực khác nhau, theo hoạt động, theo từng trung tâm trách nhiệm, theo quá trình...Trong cùng một dự toán, quá trình thực hiện dự toán cũng có thể thay đổi. Doanh nghiệp cần lựa chọn loại hình dự toán theo mục tiêu, phương pháp tiến hành của từng dự án. Như vậy dự toán có thể được phân loại theo những tiêu thức sau. Dự toán theo đơn vị đo lường: dự toán sản xuất kinh doanh, dự toán tài chính Dự toán theo phương pháp phân loại hoạt động: dự toán theo nguồn lực, dự toán theo hoạt động Dự toán theo cách nhóm các tài khoản: dự toán theo trung tâm trách nhiệm, theo quá trình thực hiện Dự toán theo cách ứng xử của chi phí: dự toán cố định, dự toán điều chỉnh Dự toán theo mức độ phân tích; dự toán mức bình thường và dự toán cơ sở số không 2.1.3.4 Dự toán theo đơn vị đo lường `Mỗi năm doanh nghiệp lập một dự toán tổng thể để kiểm tra quá trình sản xuất kinh doanh và dự đoán kết quả tài chính. Dự toán tổng thể là tổng hợp nhiều dự toán của mọi hoạt động của doanh nghiệp, có liên hệ với nhau trong một thời kỳ nào đó. Dự toán tổng thể có thể lập cho nhiều thời kỳ như tháng, quý, năm. Hình thức và số lượng các dự toán thuộc dự toán tổng thể tuỳ thuộc vào từng loại hình doanh nghiệp. Dự toán tổng thể bao gồm hai phần chính: dự toán hoạt động và dự toán tài chính. Dự toán hoạt động là dự toán phản ánh mức thu nhập và chi phí đòi hỏi để đạt mục tiêu lợi nhuận. Dự toán tài chính là dự toán phản ánh tình hình tài chính theo dự kiến và cách thức tài trợ cần thiết cho các hoạt động đã lập dự toán. Mỗi loại dự toán trên lại bao gồm nhiều dự toán bộ phận có liên quan chặt chẽ với nhau: 1) dự toán tiêu thụ; 2) dự toán sản xuất; 3) dự toán chi phí vật tư và cung ứng vật tư cho sản xuất; 4) dự toán lao động trực tiếp; 5)dự toán chi phí sản xuất chung; 6) dự toán giá vốn hàng bán; 7) dự toán chi phí bán hàng; 8) dự toán chi phí quản lý doanh nghiệp; 9) dự toán chi phí tài chính. 2.1.3.5 Trình tự và phương pháp xây dựng dự toán theo đơn vị đo lường a) Dự toán tiêu thụ Dự toán tiêu thụ là nền tảng của dự toán tổng thể doanh nghiệp, vì dự toán này sẽ xác lập mục tiêu của doanh nghiệp so với thị trường, với môi trường. Tiêu thụ được đánh giá là khâu thể hiện chiến lược hoạt động của doanh nghiệp. Hơn nữa, về mặt lý thuyết tất cả các dự toán khác của doanh nghiệp suy cho cùng đều dựa vào loại dự toán tiêu thụ. Dự toán tiêu thụ chi phối đến các dự toán khác, nếu xây dựng không chính xác sẽ ảnh hưởng đến chất lượng của dự toán tổng thể của doanh nghiệp. Dự toán tiêu thụ được lập dựa trên dự báo tiêu thụ. Dự toán tiêu thụ bao gồm những thông tin về chủng loại, số lượng hàng bán, gía bán và cơ cấu sản phẩm tiêu thụ. Dự toán doanh thu = Dự toán sản phẩm tiêu thụ x Đơn giá bán theo dự toán Ngoài ra dự toán tiêu thụ còn dự báo cả mức bán hàng thu bằng tiền và bán hàng tín dụng cũng như phương thức tiêu thụ. Khi lập dự toán tiêu thụ, các nhà quản lý cần xem xét ảnh hưởng chi phí Marketing đến hoạt động tiêu thụ tại doanh nghiệp.Trong doanh nghiệp, bộ phận kinh doanh hoặc Marketing có trách nhiệm trực tiếp cho việc lập dự toán tiêu thụ. Sau khi xác lập mục tiêu chung của dự toán tiêu thụ, dự toán còn có trách nhiệm chi tiết hoá nhiệm vụ của từng thời kỳ, từng bộ phận. Việc xem xét khối lượng tiêu thụ theo thời kỳ còn dựa vào chu kỳ sống của sản phẩm. Trên cơ sở mục tiêu theo từng thời kỳ của doanh nghiệp, dự toán tiêu thụ phải được lập cụ thể theo từng vùng, theo từng bộ phận, từng sản phẩm. Như vậy, nó không những giúp đỡ nhà quản trị trong việc tổ chức thực hiện mà còn cho phép đánh giá kết quả và thành tích của các vùng khi so sánh kết quả thực hiện mà mục tiêu đặt ra. Khi lập dự toán tiêu thụ cũng cần quan tâm đến chính sách bán hàng của doanh nghiệp để ước tính dòng tiền thu vào liên quan đến bán hàng trong các thời kỳ khác nhau. b) Dự toán sản xuất Việc xây dựng dự toán sản xuất nhằm xác định số lượng, chủng loại sản xuất trong kỳ. Để xây dựng dự toán sản xuất cần dựa vào: Số lượng sản phẩm tồn kho đầu kỳ được ước tính theo thực tế của kỳ trước; Số lượng sản phẩm tiêu thụ dự toán được xác định theo dư toán tiêu thụ; Nhu cầu sản phẩm tồn kho cuối kỳ theo mong muốn của nhà quản trị. Đây chính là mức dự trữ tối thiểu cần thiết để phục vụ tiêu thụ cho thời kỳ sau thời kỳ dự toán. Mức tồn kho cuối kỳ dự tính nhiều hay ít thường phụ thuộc vào độ dài của chu kỳ sản xuất. Nhu cầu có thể được xác định theo một tỷ lệ phần trăm nhu cầu tiêu thụ của kỳ sau. Khả năng sản xuất của doanh nghiệp Số lượng sản phẩm cần sản xuất trong kỳ là: Số lượng sản phẩm cần sản xuất trong kỳ = Nhu cầu sản phẩm tồn kho cuối kỳ + Số sản phẩm tiêu thụ trong kỳ - Số sản phẩm tồn kho theo dự toán Tuy nhiên không phải doanh nghiệp lúc nào cũng có thể đảm nhận tất cả nhu cầu, điều đó còn tuỳ khả năng sản xuất trên cơ sở năng lực hiện có. Do vậy, khối lượng sản xuất dự toán = Min(Khối lượng sản xuất theo yêu cầu, khối lượng sản xuất theo khả năng). Khi lập dự toán sản xuất cần chú ý đến phân chia công việc cho các đơn vị cũng nhự theo thời gian thực hiện, từng công đoạn. Việc phân bố cụ thể công việc cho phép doanh nghiệp tổ chức thực hiện công việc tốt hơn, đồng thời kiểm tra kiểm soát được công việc một cách dễ dàng. Phân bổ công việc theo thời gian thường là hàng tháng cho phép lựa chọn các cách thức điều chỉnh tuỳ thuộc vào đặc điểm hoạt động doạnh nghiệp và tính chất, nội dung sản phẩm. Phân bổ công việc theo bộ phận nhằm lập dự toán nội bộ là công việc rất quan trọng và nó là cơ sở để lập dự toán chi phí sản xuất theo bộ phận cũng như theo thời gian. Phân bổ công việc vừa theo thời gian vừa theo bộ phận trước hết phải quan tâm đến cấu trúc tổ chức của doanh nghiệp để qua đó xem xét tiềm năng của từng bộ phận. Các nhân tố quan trọng cần xem xét khi thực hiện công việc là khả năng tồn kho dự trữ, lực lượng lao động chủ yếu, sự phù hợp giữa mức trang bị tài sản cố định. c) Dự toán chi phí sản xuất Trong giai đoạn này, lập dự toán chi phí sản xuất nhằm xác định toàn bộ chi phí để sản xuất một khối lượng sản phẩm đã được xác định trước. Chi phí sản xuất sản phẩm bao gồm 3 khoản mục là chi phi nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung, nên dự toán chi phí sản xuất phải thể hiện đầy đủ ba loại chi phí này. Nhiệm vụ đặt ra trong phần này không chỉ xác định chi phí sản xuất cụ thể từng loại, từng đơn vị mà còn phải chú ý đến nhiệm vụ cắt giảm chi phí mà doanh nghiệp có thể thực hiện. Dự toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp Dự toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp phản ánh tất cả chi phí nguyên vật liệu trực tiếp cần thiết để đáp ứng yêu cầu sản xuất đã được thể hiện trên dự toán khối lượng sản phẩm sản xuất. Để lập dự toán Nguyên vật liệu trực tiếp cần xác định: định mức tiêu hao Nguyên vật liệu để sản xuất một sản phẩm; Đơn gía xuất nguyên vật liệu: thông thường đơn giá xuất ít thay đổi.Tuy nhiên để có thể phù hợp với thực tế và làm cơ sở cho việc kiểm tra, kiểm soát khi dự toán đơn gía này cần phải biết doanh nghiệp sử dụng phương pháp tính giá hàng tồn kho nào: phương pháp LIFO, FIFO, giá đích danh hay đơn giá bình quân. Mức độ dữ trữ Nguyên vật liệu trực tiếp vào cuối kỳ dự toán được tính toán trên cơ sở lý thuyết quản trị tồn kho. Như vậy: Dự toán lượng nguyên vật liệu sử dụng = Định mức tiêu hao nguyên vật liệu x Số lượng sản phẩm sản xuất theo dự toán Và dự toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp xuất dùng cho sản xuất sẽ là: Dự toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp = Dự toán lượng nguyên vật liệu sử dụng x Đơn giá xuất nguyên vật liệu Trong trường hợp doanh nghiệp sử dụng nhiều loại vật liệu có đơn giá khác nhau để sản xuất nhiều loại sản phẩm khác nh._.au thì công thức xác định CPVL = ∑∑ QiMijGj n m i j chi phí vật liệu như sau: Trong đó: Mij là mức hao phí vật liệu j để sản xuất một sản phẩm i GJ là đơn giá vật liệu loại j (j= 1,m) Qi là số lượng sản phẩm i dự toán sản xuất( i= 1,n ) n là số loại sản phẩm m là số loại vật liệu Dự toán cung cấp nguyên vật liệu Dự toán cung cấp nguyên vật liệu được lập cho từng loại nguyên vật liệu cần thiết để thực hiện quá trình sản xuất trên cơ sở số lượng nguyên vật liệu dự toán cần thiết sử dụng và chính sách dự trữ tồn kho của doanh nghiệp theo công thức sau Số lượng nguyên liệu mua vào = Số lượng nguyên liệu sử dụng theo dự toán + Số lượng nguyên liệu tồn cuối kỳ theo dự toán - Số lượng nguyên liệu tồn thực tế đầu kỳ Số tiền cần thiết phải chuẩn bị để mua nguyên vật liệu được tính toán dựa vào việc dự báo đơn giá mua nguyên vật liệu và dự toán mua nguyên vật liệu trực tiếp được xây dựng. Đơn giá nguyên vật liệu là giá thanh toán với nhà cung cấp. Dự toán tiền mua nguyên vật liệu trực tiếp = Dự toán lượng nguyên vật liệu mua vào x Đơn giá nguyên vật liệu Dự toán mua nguyên vật liệu còn tính đến thời điểm, và mức thanh toán tiền mua nguyên liệu căn cứ vào chính sách bán hàng của nhà cung cấp. Đây là cơ sở để lập dự toán vốn bằng tiền tại doanh nghiệp. Dự toán chi phí nhân công trực tiếp Dự toán chi phí nhân công trực tiếp được xây dựng từ dự toán khối lượng sản xuất. Dự toán này cung cấp những thông tin quan trọng liên quan đến quy mô của lực lượng lao động cần thiết cho kỳ dự toán . Mục tiêu cơ bản của dự toán này là duy trì lực lượng lao động vừa đủ để đáp ứng yêu cầu sản xuất, tránh tình trạng lãng phí hoặc bị động trong sử dụng lao động. Dự toán lao động còn là cơ sở để doanh nghiệp lập dự toán về đào tạo, tuyển dụng trong quá trình hoạt động sản xuất. Chi phí nhân công trực tiếp thường là biến phí trong mối quan hệ với khối lượng sản phẩm sản xuất. Trong một số ít các trường hợp chi phí nhân công trực tiếp không thay đổi theo mức độ hoạt động, đó là trường hợp ở doanh nghiệp sử dụng công nhân có trình độ tay nghề cao, không thể trả công theo sản phẩm. Để lập dự toán chi phí này, doanh nghiệp phải tính toán dựa vào số lượng nhân công, quỹ lương, cách phối lương và nhiệm vụ của doanh nghiệp. Đối với biến phí nhân công trực tiếp, để lập dự toán doanh nghiệp cần xây dựng: Định mức lao động để sản xuất sản phẩm CPNCTT = ∑∑ QiMijGj hoặc CPNCTT = ∑ Qi Li n m i j m i Tiền công cho từng giờ lao động hoặc từng sản phẩm nếu doanh nghiệp trả lương theo sản phẩm. Và chi phí nhân công trực tiếp được xác định: Với: Mij là mức hao phí lao động trực tiếp loại j để sản xuất một sản phẩm i Gj là đơn giá lương của lao động loại j Li là đơn giá lương tính cho mỗi sản phẩm Qi là số lượng sản phẩm i dự toán sản xuất Số liệu về chi phí nhân công phải trả còn là cơ sở để lập dự toán tiền mặt Dự toán chi phí sản xuất chung Chi phí sản xuất chung là các chi phí liên quan đến phục vụ và quản lý hoạt động sản xuất, phát sinh trong phân xưởng. Chi phí sản xuất chung bao gồm cả yếu tố chi phí biến đổi và chi phí cố định, nên dự toán chi phí sản xuất chung phải tính đến cách ứng xử chi phí để xây dựng định mức dự toán phí hợp lý trong kỳ. Cũng có thể dự toán chi phí sản xuất chung theo từng nội dung kinh tế cụ thể của chi phí. Tuy nhiên cách, cách làm này khá tốn phức tạp, tốn nhiều thời gian không phù hợp đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ như ở nước ta hiện nay. Dự toán này ở các doanh nghiệp thường được xem là một nơi tập trung chủ yếu nhằm giảm thấp chi phí và giá thành sản phẩm. Tuy nhiên với xu hướng gía thành ngày càng giảm, việc đấu tranh chống tăng chi phí là nhiệm vụ khá quan trọng. Các chi phí này thông thường không liên quan trực tiếp đến sản phẩm cụ thể. Nếu sử dụng cách tính toán giá thành toàn bộ, việc tăng giảm của các chi phí này thuộc về trách nhiệm của nhà quản trị từng khu vực, từng trung tâm. Các chi phí này thường độc lập tương đối với mức độ hoạt động, nó liên quan chủ yếu với cấu trúc của phân xưỏng, phải sử dụng các kỹ thuật tách biệt phần biến phí và định phí đối với chi phi phí hỗn hợp. Như vậy, chi phí sản xuất chung hoàn toàn có thể kiểm tra được. Dự toán chi phí sản xuất chung = Dự toán định phí sản xuất chung + Dự toán biến phí sản xuất chung Biến phí sản xuất chung có thể được xây dựng theo từng yếu tố chi phí cho một đơn vị hoạt động( chi phí vật liệu gián tiếp, chi phí nhân công gián tiếp,...). Tuy nhiên thường cách này làm khá phức tạp, tốn nhiều thời gian. Do vậy khi dự toán chi phí này, người ta thường xác lập biến phí sản xuất chung cho từng đơn vị hoạt động. Dự toán biến phí sản xuất chung = Dự toán biến phí đơn vị xuất chung x Số lượng sản xuất theo dự toán Dự toán biến phí cũng có thể được lập theo tỷ lệ trên biến phí trực tiếp, khi đó biến phí sản xuất chung dự toán sẽ xác định: Dự toán biến phí sản xuất chung = Dự toán biến phí trực tiếp x Tỷ lệ biến phí theo dự kiến Dự toán định phí sản xuất chung cần thiết phải phân biệt định phí bắt buộc và địnhm phí tuỳ ý. Đối với định phí bắt buộc, trên cơ sở định phí chung cả năm chia đều cho 4 quý nếu là dự toán quý hoặc chia đều cho 12 nếu là dự toán tháng. Còn đôí với định phí tuỳ ý thì phải căn cứ vào kế hoạch của nhà quản trị trong kỳ dự toán. Dự toán định phí hàng năm có thể được lập dựa vào mức độ tăng giảm liên quan đến việc trang bị, đầu tư mới ở doanh nghiệp. Dự toán định phí sản xuất chung = Định phí sản xuất chung thực tế kỳ trước x Tỷ lệ % tăng ( giảm) định phí sản xuất chung theo dự kiến Dự toán giá vốn hàng bán Gía vốn hàng bán thực chất là tổng giá thành của khối lượng sản phẩm tiêu thụ trong kỳ tính theo phương pháp giá toàn bộ. Như vậy trên cơ sở số lượng sản phẩm sản xuất theo dự tóan, gía thành dự toán để sản xuất sản phẩm, số lượng sản phẩm dự trữ dự toán vào cuối kỳ, dự toán giá vốn hàng xuất bán được xây dựng như sau: Dự toán giá vốn hàng xuất bán = Gía thành sản phẩm sản xuất trong kỳ theo dự toán + Gía thành sản phẩm tồn kho cuối kỳ dự toán - Gía thành sản phẩm tồn đầu kỳ thực tế Nếu đơn vị không có tồn kho sản phẩm hoặc chi phí đơn vị tồn kho tương tự nhau thì giá vốn hàng bán có thể được tính bằng tích của sản lượng tiêu thụ nhân với gía thành sản xuất đơn vị sản phẩm. Tương tự như dự toán chi phí nguyên vật liệu, khi lập dự toán giá vốn hàng bán phải chú ý các phương pháp đánh gía hàng tồn kho mà doanh nghiệp sử dụng để tính toán chính xác. d) Dự toán chi phí bán hàng Các loại chi phí này được lập tương tự như chi phí sản xuất chung. Tuy nhiên, chi phí bán hàng có thể ảnh hưởng nhất định đến hoạt động tiêu thụ của doanh nghiệp và ngược lại nên khi lập dự toán chi phí bán hàng phải tính đến mối liên hệ với dự toán tiêu thụ của doanh nghiệp. Dự toán chi phí bán hàng phản ánh các chi phí liên quan đến việc tiêu thụ sản phẩm dự toán kỳ sau. Dự toán này nhằm mục đích tính trước và tập hợp các phương tiện chủ yếu trong quá trình bán hàng. Khi xây dựng dự toán cho các chi phí này cần tính đến nội dung kinh tế của chi phí cũng như yếu tố biến đổi và yếu tố cố định trong thành phần chi phí. Dự toán chi phí bán hàng = Dự toán định phí bán hàng + Dự toán biến phí bán hàng Dự toán định phí bán hàng Yếu tố định phí thường ít biến đổi trong một phạm vi phù hợp gắn với các quyết định dài hạn, và có thể dự báo một cách dễ dàng dựa vào chức năng kinh doanh của doanh nghiệp. Các chi phí này cũng có thể thay đổi trong trường hợp phát triển thêm mạng phân phối mới, thêm các dịch vụ mới sau bán hàng, dịch vụ nghiên cưư phát triển thị trường... Khi dự báo các yếu tố này cần phân tích đầy đủ các dữ liệu quá khứ của doanh nghiệp. Thông thường các mô hình hồi quy cho phép ta tách biệt các thành phần định phí và biến phí bán hàng của doanh nghiệp, đồng thời làm cơ sở tính toán tỷ lệ thay đổi dự kiến. Dự toán định phí bán hàng = Định phí bán hàng thực tế kỳ trước x Tỷ lệ % tăng( giảm) theo dự kiến Dự toán biến phí bán hàng Các biến phí bán hàng của doanh nghiệp có thể là biến phí trực tiếp như hoa hồng, lương nhân viên bán hàng... Biến phí gián tiếp là những chi phí liên quan đến bộ phận bán hàng như chi phí bảo trì, xăng dầu, hỗ trợ bán hàng... và thường dự toán trên cơ sở số lượng hàng bán dự toán hoặc xác định một tỷ lệ biến phí bán hàng theo thống kê kinh nghiệm nhiều kỳ. Dự toán biến phí bán hàng = Dự toán biến phí đơn vị bán hàng x Sản lượng tiêu thụ theo dự toán Hoặc Dự toán biến phí bán hàng = Dự toán biến phí trực tiếp x Tỷ lệ biến phí theo dự kiến e) Dự toán chi phí quản lý doanh nghiệp Dự toán chi phí quản lý doanh nghiệp thường phụ thuộc vào cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp. Chi phí này liên quan đến toàn bộ doanh nghịêp, chứ không liên quan đến từng bộ phận, đơn vị hoạt động nào. Tương tự như dự toán bán hàng, việc lập dự toán biến phí quản lý doanh nghiệp thường dựa vào biến phí quản lý đơn vị nhân với sản lượng tiêu thu dự kiến. Dự toán biến phí QLDN = Dự toán biến phí đơn vị QLDN x Sản lượng tiêu thụ theo dự toán Dự toán biến phí QLDN cũng có thể sử dụng phương pháp thống kế kinh nghiệm, trên cơ sở tỷ lệ biến phí QLDN trên biến phí trực tiếp trong và ngoài khâu sản xuất ở các kỳ kế toán. Công thức để xác định biến phí này như sau: Dự toán biến phí QLDN = Dự toán biến phí trực tiếp x Tỷ lệ biến phí QLDN Số liệu từ dự toán này còn là cơ sở để lập dự toán tiền mặt và báo cáo kết quả kinh doanh dự toán của doanh nghiệp. Còn định phí quản lý doanh nghiệp thường không thay đổ theo mức độ hoạt động. Các thay đổi của loại chi phí này chủ yếu do việc trang bị đầu tư thêm cho bộ phận quản lý của doanh nghiệp. Lập dự toán bộ phận này cần căn cứ vào dự báo các nội dung cụ thể của từng yếu tố chi phí để xác định chính xác định phí theo dự toán. f) Dự toán chi phí tài chính Thu nhập và chi phí tài chính liên quan đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Thu nhập và chi phí tài chính bao gồm rất nhiều nội dung. Theo chế độ kế toán hiện nay, chi phí và thu nhập tài chính phải được tính toán đầy đủ trong kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Để dự toán chị phí tài chính trong phần này ta cần quan tâm đến chi phí lãi vay- bộ phận lớn nhất trong chi phí tài chính mà doanh nghiệp phải trả. Cơ sở để lập dự toán chi phí lãi vay là số tiền cần vay dài hạn và ngắn hạn trong mỗi kỳ lập dự toán cũng như lãi suất vay phải trả từng khoản vay. g) Dự toán báo cáo kết quả kinh doanh Trên cơ sở các dự toán bộ phận đã lập, bộ phận kế toán quản trị lập các báo cáo kết quả kinh doanh dự toán. Số liệu dự toán trên báo cáo tài chính này thể hiện kỳ vọng của các nhà quản lý tại doanh nghiệp và có thể được xem như một công cụ quản lý doanh nghiệp cho phép ra các quyết định về quản trị, nó cũng là cơ sở để đánh gía tình hình thực hiện dự toán đã đề ra. Dự toán báo cáo kết quả kinh doanh được lập căn cứ vào các dự toán doanh thu, dự toán giá vốn và các dự toán chi phí ngoài sản xuất đã được lập. Dự toán này có thể lập theo phương pháp tính giá toàn bộ hoặc theo phương pháp tính gía trực tiếp. Dự toán báo cáo lãi lỗ theo phương pháp tính giá toàn bộ Dự toán báo cáo lãi lỗ theo phương phương pháp tính giá trực tiếp Doanh thu Gía vốn hàng bán Lợi nhuận gộp Chi phí bán hàng và QLDN Lợi nhuận từ HĐKD XXX XXX XXX XXX XXX Doanh thu Biến phí SX hàng bán Biến phí bán hàng và QLDN Số dư đảm phí Định phí sản xuất chung Định phí bán hàng và QLDN Lợi nhuận thuần từ HĐKD XXX XXX XXX XXX XXX XXX XXX h) Dự toán vốn bằng tiền Dự toán vốn bằng tiền được tính bao gồm việc tính toán các luồng tiền mặt và tiền gửi ngân hàng thu vào và chi ra liên quan đến các mặt hoạt động của doanh nghiệp trong các thời kỳ. Dự toán này có thể được lập hàng năm, hàng quý và nhiều khi cần thiết phải lập hàng tháng, tuần, ngày. Dự toán vốn bằng tiền là một trong những dự toán quan trọng của doanh nghiệp. Vì qua đó nó thể hiện khả năng đáp ứng nhu cầu thanh toán bằng tiền cho người lao động, các nhà cung cấp và đáp ứng các nhu cầu chi tiêu khác. Dự toán vốn bằng tiền là cơ sở để doanh nghiệp có dự toán vay mượn, phát hành trái phiếu, cổ phiếu... kịp thời khi lượng tiền mặt thiếu hoặc có kế hoạch đầu tư sinh lợi khi lượng tiền mặt tồn quỹ thừa. Khi lập dự toán vốn bằng tiền, doanh nghiệp cần chú ý đến các điểm sau: Dự toán vốn bằng tiền được lập từ các khoản thu nhập và chi phí của dự toán hoạt động, dự toán vốn và dự toán chi phí tài chính. Phải dự đoán khoảng thời gian giữa doanh thu được ghi nhận và thời điểm thu tiền bán hàng thực tế. Phải dự đoán khoảng thời gian giữa chi phí đã ghi nhận và thời điểm thực tế trả tiền cho các khoản chi phí. Phải loại trừ các khoản chi không tiền mặt Phải xây dựng số dư tồn quỹ tối thiểu tại đơn vị. Tồn quỹ tiền tối thiểu và các kết quả dự báo về luồng tiền thu chi là cơ sở để doanh nghiệp sử dụng hợp lý tiền của mình. Công tác lập dự toán vốn bằng tiền giữ vai trò quan trọng trong hoạt động của doanh nghiệp. Dự toán vốn bằng tiền là cơ sở để các nhà quản lý có dự toán vay nợ thích hợp, kịp thời, đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh. Dự toán vốn bằng tiền cũng là cơ sở để doanh nghiệp sử dụng tài nguyên của mình có hiệu quả nhất. Trong điều kiện tin học hoá hiện nay trong kế toán, dự toán vốn bằng tiền có thể lập cho từng ngày, tuần, tháng, nhờ vậy công tác quản lý tiền tại đơn vị được chăt chẽ hơn. i) Lập Bảng cân đối kế toán dự toán Trên cơ sở các dự toán về vốn bằng tiền, về tồn kho... mà các bộ phận đã lập, phòng kế toán lập bảng cân đối kế toán dự toán. Dự toán được lập căn cứ vào bảng cân đối kế toán của thời kỳ trước và tình hình nhân tố của các chỉ tiêu được dự tính trong kỳ. Kết cấu của bảng cân đối kế toán dự toán có kết cấu trên cơ sở của KTTC với mẫu sau: TÀI SẢN Sô tiền NGUỒN VỐN Số tiền Tài sản ngắn hạn 1.Tiền 2. Đầu tư tài chính ngắn hạn 3. Nợ phải thu ngắn hạn 4. Hàng tồn kho 5. Tài sản ngắn hạn khác B. Tài sản dài hạn 1. Nợ phải thu dài hạn 2. Tài sản cố định 3. Bất động sản đầu tư 4. Đầu tư tài chín dài hạn 5. Tài sản dài hạn khác A Nợ phải trả 1. Nợ ngắn hạn 2. Nợ dài hạn B Vốn chủ sở hữu 1. Vốn chủ sở hữu 2. Nguồn kinh phí và quỹ khác Tổng cộng 2.2 Cơ sở thực tiễn 2.2.1 Kế hoạch hàng năm do bộ giao Hàng năm, công ty gửi bản báo cáo năng lực sản xuất lên Tổng Cục Hậu Cần - Bộ Công An. Căn cứ vào nhu cầu về quân trang quân phục của cán bộ chiến trong ngành và căn cứ vào năng lực sản xuất tại công ty. Tổng cục trưởng sẽ tiến hành giao chỉ tiêu kế hoạch từng loại, từng thông số kỹ thuật xuống công ty thông qua các hợp đồng. Công ty phải có trách nhiệm lập dự toán giá thành cho từng loại sản phẩm để trình lên bộ duyệt, lấy đó làm cơ sở để thanh toán hợp đồng giữa tổng cục và công ty. 2.2.2 Chỉ tiêu định mức do bộ giao 2.2.2.1 Chi phí nguyên phụ liệu Định mức nguyên phụ liệu lấy theo định mức H14 giao. Gía nguyên phụ liệu theo giá thực tế tại mặt bằng thị trường năm trước mà công ty đã mua và dự báo về biến động thị trường năm nay. 2.2.2.2 Chi phí gia công trực tiếp Căn cứ Nghị định 28/CP ngày 28/3/1997 và thông tư số 04/2002/ TTLTBLĐTBXH – BTC ngày 9/1/2002 của Bộ Lao Động và Thương Binh Xã Hội hướng dẫn thực hiện quản lý tiền lương và thu nhập đối với doanh nghiệp Nhà nước hoạt động công ích. Căn cứ thông tư số 04/2003/ TT- BLĐTBXH ngày 17/02/2003 của Bộ Lao Động Thương Binh và Xã Hội hướng dẫn thực hiện quản lý tiền lương và phụ cấp trong các doanh nghiệp Nhà nước và công văn số 421/ LĐTBXH – TL về việc xây dựng và đăng ký định lao động kế hoạch lợi nhuận, đơn giá tiền lương năm 2003 đối với doanh nghiệp Nhà nước. Căn cứ quyết định số 253/2002/QĐ- BCA (X11) ngày 03/04/2002 của Bộ trưởng BCA về việc ban hành quy đinh một số chế độ chính sách đối với cán bộ CNV trong các doanh nghiệp Nhà nước hoạt động công ích của lực lượng CAND. Căn cứ Nghị định 203 + 204 /2004/NĐ –CP ngày 14/12/2004 của Chính Phủ về chính sách tiền lương mới đựơc thực hiện từ tháng 10/2004. Căn cứ thông tư 07+ 09/ 2005/ TT – BLĐTBXH ngày 05/01/2005 của Bộ Lao Động Thương Binh và Xã Hội quy định quản lý lao động tiền lương, thu nhập và hướng dẫn tính năng suất lao động bình quân, tiền lương, thu nhập bình quân trong các công ty Nhà nước theo Nghị định 206/ 2004/ NĐ- CP ngày 14/12/2004 của Chính Phủ. Căn cứ thông 12/ 2006. TT – BLĐTBXH ngày 14/09/2006 của Bộ Lao Động- Thương Binh và Xã Hội về hướng dẫn thực hiện điều chính tiền lương và phụ cấp lương trong doanh nghiệp theo Nghị định 94/2006/ NĐ- CP ngày 07/09/2006 của Chính Phủ. PHẦN III : ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1 Đặc điểm công ty May 19/5 - Bộ Công An 3.1.1 Qúa trình hình thành và phát triển của công ty Vào cuối những năm 80 đầu những năm 90, khi nền kinh tế chuyển từ cơ chế tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước, lực lượng công an nhân dân vốn được Nhà nước bao cấp hoàn toàn bằng hiện vật cũng được cơ cấu theo hướng giảm dần về hiện vật, tăng tỷ lệ tiền tệ hoá để các đơn vị tự mua sắm trang bị. Mặt khác, do yêu cầu về sắp xếp lại tổ chức, công tác giảm biên chê tạo sức ép giải quyết việc làm cho số cán bộ chiến sỹ dư thừa trong toàn lực lượng và con em cán bộ chiến sỹ không có việc làm, đồng thời đòi hỏi việc trang bị máy móc thiết bị ngày càng chính quy hiện đại, Bộ Công An đã nghiên cứu, đề xuất và được Chính Phủ chấp thuận cho ra đời một số đơn vị, một số loại hình sản xuất kinh doanh mang tính đặc thù, trước hết là để đảm bảo các nhu cầu công tác trong nội bộ ngành và nếu năng lực dư thừa thì tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh phục vụ cho nền kinh tế của đất nước và tự trang trải một phần kinh phí. Công ty May 19/5 đã ra đời trong hoàn cảnh đó và đã trải qua các giai đoạn phát triển như sau: Giai đoạn 1: Từ năm 1988 – 1993 Năm 1988 xí nghiệp may 19/5 và xí nghiệp sản xuất trang phục được thành lập theo quyết đinh của Bộ trưởng bộ nội vụ( nay là Bộ Công An), do Tổng cục hậu cần Công An Nhân Dân trực tiếp quản lý. Ở thời gian đầu, do quy mô nhỏ, năng lực bị hạn chế nên 2 xí nghiệp này cũng chỉ đáp ứng được một phần nhu cầu của ngành. Giai đoạn 2: Từ năm 1993- 1996 Do yêu cầu của công tác sắp xếp lại tổ chức, hợp lý hoá sản xuất trong các doanh nghiệp của Nhà nước nói chung và của ngành Công An nói riêng, thực hiện Nghị định 338/ HĐBT của hội đồng bộ trưởng( nay là Chính Phủ ), theo quyết định số 302/ QB-BNV ngày 9/7/1993, xí nghiệp may 19/5 và xí nghiệp sản xuất trang phục thành 2 doanh nghiệp Nhà nước hạch toán độc lập. Giai đoạn 3: Từ năm 1996- 1999 Ngày 26/10/1996 Bộ trưởng Bộ Nội Vụ( nay là Bộ Công An) đã ký quyết định số 727/QĐ-BNV thành lập công ty May 19/5 trên cơ sở hợp nhất hai xí nghiệp ( xí nghiệp may 19/5 và xí nghiệp sản xuất trang phục ). Theo quyết định thành lập Công ty có 2 xí nghiệp thành viên. Từ đây ngành may mặc và cung cấp quân trang quân dụng của ngành đã có được vị thế mới trên thị trường và dần đáp ứng được nhu cầu của ngành. Tuy nhiên do cơ sở vật chất còn nhiều hạn chế nên công ty vẫn chưa đáp ứng được đầy đủ nhu cầu của ngành. Giai đoạn 4: Từ 1999 đến nay Để khắc phục tình trạng thiếu trang phục và để đảm bảo sự thống nhất quân phục trong ngành, Bộ Công An thấy cần thiết phải nâng cấp công ty lên một quy mô lớn hơn về mọi mặt. Sau khi được Chính Phủ phê duyệt, ngày 23/11/1999, Bộ trưởng Bộ Công An đã ký quyết định 736/QĐ- BCA về việc chuyển đổi doanh nghiệp sang doanh nghiệp hoạt động công ích trên cơ sở giữ nguyên tư cách pháp nhân doanh nghiệp nhà nước công ty May 19/5 về tổ chức. Quy mô sản xuất của công ty ngày càng được mở rộng hơn khi năm 2000 đã sáp nhập thêm xí nghiệp may Phương Nam( trong TP Hồ Chí Minh ). Tháng 12/2007 công ty đã xây dựng song và đi vào sản xuất xí nghiệp 4 tại TP Đà Nẵng. Như vậy hoạt động sản xuất của công ty đã trải khăp 3 miền Bắc – Trung- Nam của đất nước, đáp ứng tốt hơn nhu cầu về quân trang quân phục của cán bộ chiến sỹ trong ngành và mộtphân tham gia thị trường trong nứơc và thị trường xuất khẩu. Về cơ cấu tổ chức hiện nay công ty có 4 xí nghiệp thành viên Xí nghiệp 1: Xí nghiệp may Chiến Thắng Địa điểm: Đường Chiến Thắng, Phường Thanh Xuân Bắc, quận Thanh Xuân, Hà Nội Nhiệm vụ: sản xuất trang phục trong ngành và tham gia may hàng xuất khẩu theo quy định. Tổng số lao động: 569 người ( Tháng 3/ 2009 ) Xí nghiệp 1 gồm 4 phân xưởng: 1 phân xưởng cắt và 3 phân xưởng may. Xí nghiệp 2: Xí nghiệp Hoàng Cầu Địa điểm: 282 Nguyễn Huy Tưởng- Thanh Xuân- Hà Nội Nhiệm vụ: chuyên sản xuất giày da, mũ, dây lưng và một số quân trang khác. Tổng số lao động: 233 lao động ( Tháng 3/2009 ). Xí nghiệp gồm 3 phân xưởng chính: phân xưởng may chuyên may các loại như mũ, dây lưng; Phân xưởng giày chuyên sản xuất giày; Phân xưởng mũ chuyên sản xuất mũ, quân hàm, quân hiệu... Xí nghiệp 3: Xí nghiệp Phương Nam Địa điểm: 135 Kha Văn Can, quận Thủ Đức- TP Hồ Chí Minh Nhiệm vụ: cung cấp trang phục cho ngành khu vực phía Nam Tổng số lao động: 383 người ( Tháng 3/ 2009). Xí nghiệp gồm 4 phân xưởng: phân xưởng may; phân xưởng giày; phân xưởng mộc; phân xưởng cơ khí. Xí nghiệp 4: Xí nghiệp Sơn Trà Địa điểm: TP Đà Nẵng Nhiệm vụ: cung cấp trang phục cho ngành khu vực miền Trung. Tổng số lao động hiện nay là 170 người ( Tháng 3/ 2009) 3.1.2 Chức năng, nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của công ty Công ty May 19/5 – BCA là một doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc Tổng Cục Hậu Cần – BCA có nhiệm vụ: Công ty May 19/5 – BCA có nhiệm vụ xây dựng kế hoạch sản xuât hàng năm và tổ chức sản xuất theo chỉ tiêu kế hoạch do Bộ trưởng Bộ Công An giao cho. Chủ yếu sản xuất các mặt hàng như: Sản xuất gia công hàng may mặc, quân trang ( quần ao, sao, quân hàm, mũ, giầy...); Sản xuất các thiết bị nhu yếu phẩm phục vụ cho ngành Công An; Sản xuất gia công quần áo phạm nhân, hàng may mặc thạm gia thị trường phục vụ dân sinh và tham gia xuất khẩu khi được bộ giao hạn ngạch; Nhập khẩu các thiết bị vật tư, nguyên liệu chuyên ngành may và sản xuất nhu yếu phẩm. Hàng năm công ty gia công cho ngành từ 2536000 đến 2800000 sản phẩm tiêu chuẩn, đảm bảo kế hoạch của ngành giao cho. Ngoài ra công ty còn tham gia ký kết các hợp đồng ngoài với các đơn vị khác, các nước trên thị trường các nước trong khu vực. 3.1.3 Đặc điểm về tổ chức quản lý của công ty Công ty May 19/5 là doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc BCA. Chính vì đặc thù như vậy nên công ty có trách nhiệm cung cấp các loại quân trang phục vụ cho các chiến sỹ trong ngành là chính. Ngoài ra, doanh nghiệp cũng được tạo điều kiện để đáp ứng nhu cầu thị trường ngoài khi có đủ khả năng. Chính điều đó đã khiến cho doanh nghiệp chủ động trong sản xuất để đáp ứng nhu cầu của ngành và đẩy mạnh hơn nữa việc sản xuất cũng như tìm kiếm bạn hàng ngoài nhằm nâng cao doanh thu cũng như tạo công ăn vịêc làm cho các lao động, góp phần làm giảm sức ép giải quyết việc làm cho các đoàn thể chức năng. Cơ cấu tổ chức của công ty Công ty May 19/5 là công ty hạch toán độc lập, tổ chức bộ máy quản lý theo chức năng trực tuyến. Đứng đầu là Giám đốc công ty. Giám đốc công ty chịu trách nhiệm trước Tổng Cục Hậu Cần về công tác quản lý, tài sản, hoạt động sản xuất toàn công ty. Chăm lo xây dựng khối đại đoàn kết trong toàn công ty, đảm bảo đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động. Dưới Giám đốc có Phó giám đốc. Phó Giám đốc là những người được uỷ quyền và có trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ được giao, chịu trách nhiệm trước công ty và pháp luật về chất lượng công việc thực hiện. Phó giám đốc có thể kiêm giám đốc xí nghiệp, nếu kiêm nhiệm phải thực hiện nghĩa vụ như Giám đốc xí nghiệp thành viên. Các phòng ban chức năng gồm có: Phòng kỹ thuật: Trưởng phòng tham mưu giúp việc cho Giám đốc nghiên cứu về mẫu mã nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, hướng dẫn quản lý, giám sát, kiểm tra sản xuất đối với xí nghiệp trực thuộc, đại diện giải quyết các vấn đề liên quan đến kỹ thuật, xây dựng định mức vật tư, lao động, nghiên cứu dây truyền công nghệ để tăng năng suất lao động. Được quyền đình chỉ, kiểm tra biên bản báo cáo Giám đốc công ty xử lý trong phạm vi, quyền hạn quản lý tổ chức cán bộ, tài sản của phòng ban và làm những công việc chức năng do Giám đốc giao. Phòng kế hoạch vật tư: Trưởng phòng lập kế hoạch kinh doanh, nghiên cứu kế hoạch sản xuất hàng năm, nghiên cứu tình hình thị trường... Trong các giai đoạn hoạt động của công ty để đưa ra kế hoạch phù hợp. Phòng còn làm nhiệm vụ tổ chức cung ứng thanh quyết toán nguyên vật liệu, xây dựng các dự án đầu tư, chịu trách nhiệm về tài sản và hoạt động của nhân viên trong phòng, thực hiện các nhiệm vụ do Giám đốc giao. Văn phòng công ty: Thực hiện công tác tổ chức cán bộ, lao động, tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế...và công tác thanh toán hành chính quản trị. Phòng tài chính - kế toán: Chủ yếu giúp Giám đốc thực hiện công tác kế toán, quản lý tài chính, tài sản, vật tư của công ty theo quy định của Nhà nước. Phòng kế toán lập các dự toán, tính gía thành sản phẩm, kiểm tra, giám sát việc thực hiện phương án giá thành đã được duyệt, tháng, quý, năm, thanh quyết toán và báo cáo theo đinh hướng. Đồng thời còn hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện công tác ở các xí nghiệp thành viên. Giám đốc các xí nghiệp: Nhận lệnh sản xuất và các lệnh khác để trực tiếp giải quyết hoặc giao đến các phân xưởng, các tổ chức điều hành thực hiện. Sơ đồ bộ máy tổ chức Giám đốc Cty Phó giám đốc kiêm GĐ XN 2 Phó gíam đốc 2 Ban quản lý chất lượng Phòng kỹ thuật Phòng tài chính kế toán Phòng kế hoạch vật tư Các phân xưởng Các phân xưởng GĐ XN I GĐ XN II GĐ XN III Phó giám đốc 1 Văn phòng công ty Các phân xưởng Các phân xưởng Các phân xưởng Các phân xưởng Các phân xưởng Các phân xưởng GĐ XN IV 4.3.1.4 Các sản phẩm chính tại công ty Các nhóm sản phẩm chính của Công ty là quần áo, quân trang, quân nhu cho cán bộ chiến sỹ trong ngành Công An. Đây là những sản phẩm đặc thù do đó các sản phẩm này hiện nay trong cả nước chỉ có một số Công ty được nhà nước, Bộ Công An chỉ định mới có quyền sản xuất. Các sản phẩm của công ty có một đặc điểm đó là mẫu mã của sản phẩm hầu như không thay đổi trong thời gian dài. Lần thay đổi gần đây nhất đó là năm 1989. Để được phép thay đổi mẫu mã của trang phục thì Công ty phải được sự đồng ý của Nhà nước, Quốc Hội. Vì sản phẩm của Công ty được toàn bộ lực lượng Công An trong nước mặc, đó là bộ măt của lực lượng an ninh của một quốc gia. Do đó, để thay đổi mẫu mã của sản phẩm cần được xem xét kỹ lưỡng. Hơ nữa, vật liệu để sản xuất các loại trang phục cho ngành cũng là loại vật liệu không có bán trên thị trường, do đó việc làm giả sản phẩm cũng là rất khó khăn, hầu như là không có. Trong những năm gần đây. Công ty cũng đã được sự quan tâm, khuyến khích và tạo điều kiện để mua thêm máy móc và các dây chuyền công nghệ. Chính vì vậy, sản phẩm may mặc cho các chiến sỹ đã không ngừng được cải thiện kể cả hình thức lẫn chất lượng. Hiện nay sản phẩm của Công ty rất đa dạng và phong phú, ta có thể tham khảo ở bảng sản phẩm của công ty. Ngoài một số mặt hàng công ty tự sản xuất được, công ty còn nhận gia công thêm một số mặt hàng trên cơ sở các hợp đồng uỷ thác gia công xuất khẩu được ký kết. Công ty tiếp nhận nguyên liệu, mẫu và tài liệu của bên đặt gia công. Những mặt hàng công ty gia công xuất khẩu như: áo Jacket( một lớp, hai lớp, ba lớp ), quần áo thể thao, áo nỉ, áo sơ mi, quần áo công nhân. Dưới đây là bảng các mặt hàng chính của công ty Bảng những mặt hàng chính của công ty QA thu đông lễ phục QA xuân hè lễ phục QA xuân hè sỹ quan may đo QA xuân hè hạ sỹ quan cỡ số QA thu đông sỹ quan may đo QA thu đông hạ sỹ quan cỡ số QA phạm dài QA xuân hè rằn ri QA phạm cọc QA hè tiêu binh QA đông tiêu binh QA mưa sỹ quan may đo QA mưa sỹ quan cỡ số Balô Vỏ chăn các loại Áo trấn thủ các loại Áo bông gác Áo jilê may đo Áo sơ mi trắng Cavát các loại Mũ cứng an ninh + mũ cảnh sát Mũ kêpi các loại Gìây da các loại Găng tay Dây lưng Màn tuyn Tăng võng màn Áo ấm 3.1.5 Kết quả sản xuất kinh doanh tại công ty Tình hình sản xuất kinh doanh của công ty liên tục tăng trưởng và phát triển, thu nhập của người lao động ngày càng được nâng cao( tăng khoảng 20% mỗi năm ) Thể hiện thông qua bảng tổng hợp Chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Tổng doanh thu Hàng ngành Hàng thị trường Hàng xuất khẩu 109.090.230.633 73.722.060.396 31.102.085.487 4.266.084.750 159.205.537.216 111.288.661.043 43.385.207.173 4.531.669.000 209.958.000.000 155.862.000.000 49.963.000.000 4.133.000.000 Lợi nhuận 11.687.519.821 15.370.355.294 8.000.000.000 Nguồn vốn SX- KD 27.157.277.709 37.410.370.757 47.000.000.000 Tổng số lao động 1.350 1.500 1.670 3.1.6 Những thuận lợi và khó khăn đối với công tác lập dự toán tại công ty 3.1.6.1 Những thuận lợi Do đặc thù của ngành nên các mặt hàng mà công ty sản xuất hầu như không thay đổi về mẫu mã qua các năm. Do đó căn cứ vào tình hình thực hiện năm trước và những dự đoán về tình hình biến động năm nay công ty có thể lập được dự toán khá chính xác. Hơn nữa đối với một số mặt hàng công ty được Tổng cục hậu cần cung cấp nguyên vật liệu chính. Định mức về vật tư được Tổng Cục quy đinh sẵn. 3.16.2 Những khó khăn Do sản xuất nhiều mặt hàng, mỗi loại lại bao gồm nhiều loại vật tư nên việc phải lập dự toán giá thành cho mỗi sản phẩm là khá nhiều. Hơn nữa, do đặc điểm của công ty có nhiều xí nghiệp thành viên lại ở cách xa nhau nên việc phải tập hợp hoá đơn, chứng từ để xây dựng đơn giá vật tư khá cồng kềnh, phải tính toán nhiều. Trong khi đó lại không có một phần mềm tin học nào hõ trợ hữu hiệu cho công tác lập dự toán. 3.2 Phương pháp nghiên cứu Phương pháp thu thập số liệu sơ cấp: phỏng vấn trực tiếp nhân viên lập dự toán tại phòng KH –VT và phòng TC –KT của công ty. Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp: thu thập số liệu thông qua các báo cáo hàng năm tại công ty. Phương pháp chọn mẫu: do sản phẩm của công ty là rất nhiều và cũng có nhiều điểm khác nhau nên việc tiến hành tìm hiểu và chọn ra một sản phẩm mang đầy đủ các đặc trưng là cần thiết. Qua thời gian tìm hiểu tại công ty, em chọn sản phẩm sẽ tiến hành tìm hiểu quá trình lập dự toán là 1 đôi giày nam ngắn cổ + giao thông thuỷ. Phương pháp thống kê mô tả: thông qua số sơ cấp và thứ cấp thu thập được tiến hành thống kê và mô tả thông qua các b._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docđề cương.doc