Kinh nghiệm phát triển đặc khu kinh tế Trung Quốc và vận dụng đối với phát triển khu công nghiệp-Khu chế xuất ở Việt Nam

Mục lục Trang Lời nói đầu Đại hội đại biểu toàn quốc lần lần thứ VIII của Đảng cộng sản Việt Nam đã xác định công nghiệp hoá- hiện đại hoá nền kinh tế nước ta vừa là mục tiêu vừa là chiến lược phát triển đất nước trong những năm tới, từ chiến lược đó Đảng đã chủ trương khơi dậy, phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, ra sức cần kiệm để đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Để thực hiện được thành công cần có chiến lựơc thu hút vốn đầu tư phát triển

doc80 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1397 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Kinh nghiệm phát triển đặc khu kinh tế Trung Quốc và vận dụng đối với phát triển khu công nghiệp-Khu chế xuất ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, một trong những biện pháp thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước là việc thành lập các khu công nghiệp, thực tế qua nhiều năm đây là nhân tố quan trọng góp phần đẩy nhanh phát triển kinh tế đất nước. Về mô hình phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất trên thế giới có rất nhiều quốc gia đã thực hiện nhưng với mức độ thành công khác nhau. Nhưng trong số những nước thành công trong phát triển mô hình trên có thể nói Trung quốc là nước thành công hơn cả với con đường lựa chọn mang đậm màu sắc Trung quốc. Việc phát triển các đặc khu kinh tế Trung quốc đã đạt được rất nhiều thành công, đóng góp rất lớn cho phát triển kinh tế Trung Quốc. Việt nam là một nước có đường biên giới chung với Trung quốc, hai nước chúng ta có những đặc điểm tương đồng về kinh tế,văn hoá và chính trị. Vì thế chúng ta có thể học hỏi được một số kinh nghiệm thành công của nước đi trước để phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam. Xuất phát từ vấn đề lí luận và thực tiễn trên, trong quá trình thực tập tại Viện kinh tế thế giới, em chọn đề tài: “Kinh nghiệm phát triển đặc khu kinh tế Trung Quốc và vận dụng đối với phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam”. Nội dung của luận văn bao gồm ba phần: Chương I: Những vấn đề chung về khu chế xuất- khu công nghiệp. Chương II: Mô hình đặc khu kinh tế Trung Quốc và chính sách phát triển. Chương III: Kinh nghiệm của Trung Quốc và sự vận dụng đối với Việt Nam. Trong khuôn khổ của bài luận văn với hạn chế về kiến thức thực tiễn, luận văn này không tránh khỏi những thiếu sót, em mong sự đóng góp của thầy cô giáo. Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn và giúp đỡ nhiệt tình của cô giáo TS. Nguyễn Thị Kim Dung và các cô chú tại Viện Kinh tế thế giới. Chương I: Những vấn đề chung về khu chế xuất - khu công nghiệp I- Khái niệm chung về khu chế xuất- khu công nghiệp. 1. Khái niệm khu chế xuất - khu công nghiệp. Vào nửa đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản đang ở trong thời kỳ cạnh tranh và mở rộng thị trường, họ tiến hành các hoạt động phân chia lại thị trường thế giới bằng cách tăng cường các hoạt động xuất khẩu hàng hoá ra thị trường thế giới. Các nước tư bản này cạnh tranh gay gắt với nhau nhưng trong quá trình đó họ lại đối mặt với tình trạng giá nhân công trong nước bắt đầu tăng cao, nguồn tài nguyên bắt đầu hạn hẹp. Vấn đề đặt ra với họ bây giờ là họ không thể tiến hành các cuộc chiến tranh qui mô lớn để thôn tính các nước thành thuộc địa. Thực tế có xu hướng là sự di chuyển vốn từ các nước giàu, tài nguyên hạn chế sang nước nghèo, nơi có nhân công rẻ và nguồn tài nguyên phong phú. Từ đó xuất hiện làn sóng di chuyển vốn đầu tư. Chính quá trình di chuyển vốn đầu tư trên làm nảy sinh và phát triển xu hướng toàn cầu hoá và khu vực hoá ngày nay. Xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá diễn ra nhanh chóng với qui mô và tốc độ ngày càng lớn để thúc đẩy mạnh mẽ quá trình tự do hoá thương mại và đầu tư tạo nên một nền kinh tế thị trường toàn cầu. Trong quá trình này các nước ngày càng phụ thuộc vào nhau nhiều hơn và theo hướng mở cửa quỹ đạo của kinh tế thị trường. Các nước có trình độ kỹ thuật cao, giá nhân công rẻ đã tìm hướng đầu tư vào nền kinh tế của các nước khác mà mình có lợi thế. Trong khi đó, các nước đang phát triển rơi vào tình trạng khó khăn về phát triển kinh tế, thấp nghiệp gia tăng, trình độ trang thiết bị kỹ thuật nghèo nàn, cán bộ quản lý và công nhân lành nghề còn thiếu. Ngoài nguồn vốn trong nước tự có, nguồn vốn viện trợ và nguồn vốn đầu tư nước ngoài có ý nghĩa trong tiến trình phát triển kinh tế của các nước này. Như vậy, có điểm gặp nhau về nhu cầu phát triển kinh tế giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển. Các nước phát triển di chuyển vốn ra nước ngoài còn các nước đang phát triển thấy được lợi thế và hạn chế của mình đã cố gắng tạo ra một môi trường kinh tế thích hợp để thu hút đầu tư từ nước ngoài. Về lâu dài, nguồn vốn đầu tư cho sự tăng trưởng kinh tế một cách liên tục, đưa đất nước đến sự phồn vinh một cách chăn chắn và không phụ thuộc vào nguồn vốn trong nước. Bài học này được các nước ASEAN và NIES Đông á thừa nhận rằng nguồn vốn đầu tư chủ yếu phải dựa vào tích luỹ trong nước và do đó đã thực hiện các chính sách và biện pháp để phát triển kinh tế tăng tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân, khuyến khích tiết kiệm. Đồng thời muốn tiếp nhận tốt nguồn vốn nước ngoài thì trước hết phải tkăng cường nguồn vốn trong nước. Vốn đầu tư trong nước được hình thành từ tích luỹ ngân sách, tích luỹ của doanh nghiệp, vốn tiết kiệm từ các tầng lớp dân cư. Để tạo ra nhiều của cải cho xã hội, Nhà nước cần có chính sách hướng các nhà đầu tư bỏ vốn vào đầu tư vào lĩnh vực sản xuất, xây dựng cơ sở vững chắc cho một nền kinh tế. Trong thời gian tới, các cơ sở công nghiệp của các nước đang phát triển phần lớn do hạn chế về vốn nên có quy mô vừa và nhỏ, phân bố, phân tán: khả năng xử lý ô nhiễm và bảo vệ môi trường thấp. Đất đai hữu hạn, dân số ngày càng tăng. Thêm vào đó chi tiêu của chính phủ cần phải tập trung vào việc phát triển hạ tầng cơ sở. Để đáp ứng yêu cầu trên, việc phát triển công nghiệp cần khuyến khích mọi thành phần kinh tế phải tuân theo qui hoạch phát triển nhằm tiết kiệm trong đầu tư, tiết kiệm đất đai, để dễ dàng kiểm soát và có biện pháp bảo vệ môi trường một cách thuận lợi và hữu hiệu nhất. Bởi vậy, các nước phát triển cần tạo môi trường thuận lợi cho các nhà đầu tư về cả môi trường pháp lý, cơ sở hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội để thu hút đầu tư theo qui hoạch phù hợp với phát triển kinh tế xã hội trước mắt cũng như lâu dài của đất nước. Để thực hiện mục tiêu trên, các nước đang phát triển đã thành lập các khu vực đặc biệt với những ưu đãi về tài chính, thuận lợi về cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội để thu hút đầu tư, đặc biệt là thu hút đầu tư nước ngoài. Trên cơ sở ý nghĩa trên các nước đã thành lập các khu chế xuất - khu công nghiệp. Nhưng việc vận dụng vào yêu cầu và tên gọi cũng có mang sắc thái của từng nước. Theo nghĩa thông thường khu chế xuất có tính chất là khu vực chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, đứng ngoài chế độ mậu dịch và thuế quan của một nước được thành lập với những điều kiện, yếu tố thuận lợi về pháp lý, quản lý kỹ thuật hạ tầng trên một địa bàn hạn chế để thu hút đầu tư của các nước phát triển đặc biệt là Công ty xuyên quốc gia. Khu chế xuất ngày nay có các định nghĩa sau: - Định nghĩa của hiệp hội các khu chế xuất thế giới/WEPZA. Theo điều lệ hoạt động của WEPZA, khu chế xuất (KCX) bao gồm tất cả các khu vực được chính phủ các nước cho phép như cảng tự do, khu mậu dịch tự do, khu công nghiệp (KCN) tự do hoặc bất kỳ khu vực ngoại thương hoặc khu vực khác được WEPZA công nhận. Định nghĩa này về cơ bản đồng nhất KCX với khu vực miễn thuế. - Định nghĩa của tổ chức phát triển công nghiệp liên hợp quốc (UNIDO). Theo UNIDO, KCX và "khu vực được giới hạn về hành chính, có khi về địa lý, được hưởng một chế độ thuế quan cho phép tự do nhập khẩu trang bị và sản phẩm nhằm mục đích sản xuất sản phẩm xuất khẩu. Chế độ thuế quan được ban hành cùng với những qui định luật pháp ưu đãi, chủ yếu về thuế nhằm thu hút đầu tư nước ngoài". Với định nghĩa này, hoạt động chính trong KCX là sản xuất công nghiệp. - Định nghĩa của Việt Nam. Theo qui chế KCX, KCN – ban hành kèm theo Nghị định số 36/CP ngày 24/04/1997 KCX là "khu chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện dịch vụ cho sản xuất hàng hoá và hoạt động xuất khẩu, có ranh giới địa lý xác định và không có dân cư sinh sống, do chính phủ hoặc thủ tướng chính phủ quyết định thành lập ".như vậy, về cơ bản định nghĩa khu chế xuất được hiểu theo định nghĩa của UNIDO. Tuy nhiên, mô hình khu chế xuất cũng tỏ ra không còn linh hoạt nữa vì các nhà đầu tư buộc phải xuất khẩu phần lớn sản phẩm và tác dụng lan toả của khu chế xuât thấp, đặc biệt là công cụ thuế quan không được sử dụng như môt công cụ chính của nhà nước, các tổ chức liên minh có tác dụng trong việc một nền kinh tế tự do. Nhằm phát huy hiệu quả nội lực cũng như thu hút ngoại lực, các nước đã cho ra đời các khu công nghiệp. Do vậy, khu công nghiệp được hiểu như sau: Khu công nghiệp là mô hình kinh tế linh hoạt hơn, hấp dẩn đầu tư nước ngoài- đối tượng chủ yếu khu công nghiệp- vì họ hy vọng vào thị trường nội địa, một thị trường mới, có dung lượng lớn để tiêu thụ hàng hoá của mình. Hơn nữa, việc mở của thị trường nội địa cũng phù hợp với xu thế tự do hoá thương mại trên toàn thế giới và khu vực…. Việc cho phép tiêu thụ hang hoá tại khu vực không những tạo nên yếu tố kích thích cạnh tranh trong nước từ đó nâng cao khả năng xuất khẩu mà còn góp phần tích cực vào việc chống nhập lậu hàng hoá. Về khu công nghiệp có hai định nghĩa như sau: - Định nghĩa thứ nhất: Khu công nghiệp là khu vực lãnh thổ rộng lớn có nền tảng là sản xuất công nghiệp, đan xen với nhiều hoạt động dịch vụ, kể cả dịch vụ sản xuất công nghiệp, dịch vụ sinh hoạt, vui trơi giải trí, khu thương mại, văn phòng, nhà ở…. Về thực chât khu vực này là khu hành chính tổng hợp đặc biệt như khu công nghiệp Bat Tam ở Indoneixia, khu công viên công nghiệp ỏ Đài Loan, Thái Lan và một số nước Tây Âu… - Định nghĩa thứ hai: Khu công nghiệp là khu vực lãnh thổ có giới hạn xác định, ở đó tập trung các xí nghiệp công nghiệp và dịch vụ sản xuất công nghiệp, không có dân cư sinh sống. Mô hình này được xây dựng ở một số nước như Malaixia, Thái Lan, Đài Loan. - Định nghĩa của Việt Nam Theo quy chế KCN, KCX, KCNC- ban hành kèm theo nghị định số 36 CP ngày 24/4/1997, KCN là " khu tập trung các doanh nghiệp chuyên sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, không có đân cư sinh sống, do chính phủ hoặc thủ tướng chính phủ ký quyết định thành lập. Trong khu công nghiệp có thể có doanh nghiệp chế xuất" Như vậy, định nghĩa khu công nghiệp của Việt Nam giống như định nghĩa hai. 2. Phân loại khu công nghiệp- khu chế xuất Mặc dù có những đặc điểm chung, những khu công nghiệp còn có những nét đặc thù thể hiện tính đa dạng của nó. Phân loại khu công nghiệp có thể tiếp cận những góc độ sau: + Căn cứ vào trình độ chuyên môn hoá, có một số khu công nghiệp được hình thành trên cơ sở các doanh nghiệp chuyên môn hoá, sử dụng một loại nguyên liệu, nhiên liệu cơ bản để sản xuất một số loại sản phẩm (than, điện, thép) có một số khu công nghiệp được hình thành trên cơ sở liên hợp sản xuất để đạt được hiệu quả cao hơn. Ví dụ như khu luyện kim kết hợp với khai thác, cơ khí, hoá chất. + Căn cứ về mặt địa lý: sự hình thành và phát trriển các khu công nghiệp nằm trên những khu vực địa lý xác định, phù hợp với đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội và an ninh quốc phòng. Thông thường đây là khu vực rất thuận lợi về kết cấu hạ tầng như ssân bay, bến cảng, và hệ thống đường bộ. + Căn cứ vào quy mô: Tuỳ thuộc vào thị trường, khả năng về đất đai, vị trí, sự hấp dẫn các nhà đầu tư ttong và ngoài nước mà xây dựng các khu công nghiệp có quy mô khác nhau, khu công nghiệp giành cho các doanh nghiệp lớn, hiện đại. có khu công nghiêp dành cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. + Căn cứ về mặt công nghệ: có khu công nghiệp tập trung phần lớn các doanh nghiệp có trình độ cao tạo ra sản phẩm xuất khẩu, có khu công nghiệp trình độ trung biình, có sản phẩm xuất khẩu, có sản phẩm tiêu dùng trong nước. + Căn cứ vào tính độc lập hay phụ thuộc: phần lớn các khu công nghiệp gắn với địa bàn trọng điểm, vùng kinh tế và cả nước, song cũng có khu công nghiiệp nằm độc lập vì lý do quốc phòng an ninh. 3. Những đặc điểm chủ yếu của khu công nghiệp, khu chế xuất. KCN, KCX là công cụ để thu hút vốn đầu tư đặc biệt là vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài, để tạo ra những năng lực sản xuất mới, hiện đại, đáp ứng nhu cầu về hàng hoá của thị trường trong nước và thế giới. Với cơ cấu được hình thành trên cơ sở kỷ thuật và công nghệ hiện đại, khu công nghiệp, khu chế xuất có những đặc điểm sau: - Là khu vực tập trung các xí nghiệp công nghiệp trong một khu vực có ranh giới xác định, sử dụng chung kết cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội. Vì vậy, các doanh nghiệp nghiệp trong khu công nghiệp hạ tối đa chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm. - Các doanh nghiệp trong khu công nghiệp được hưởng một số quy chế riêng của Nhà nước và của địa phương sở tại. Nhà nước chỉ quy định những loại nào được khuyến khích phát triển và loại nào không được đặt trong khu do yêu cầu bảo vệ môi trường và anh ninh quốc phòng. - Khả năng hợp tác của doanh nghiệp trong khu rất thuận lợi vì nằm trong một tiểu vùng. - Khu công nghiệp có ban quản lý chung thống nhất, thực hiện quy chế quản lý thích hợp, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả. Riêng khu chế xuất có những đặc điểm sau đây: - Có ranh giới địa lý hẹp, khu vực này khép kín và cách biệt hoàn toàn với vùng còn lại của lãnh thổ. - Các doanh nghiệp đầu tư vào khu chế xuất được hưởng ưu đãi xuất đặc biệt của Nhà nước thông qua thuế, thủ tục hải quan, thủ tục xuất nhập cảnh. - Sản phẩm của doanh nghiệp trong khu chế xuất dùng để xuất khẩu. Tuy nhiên, tuỳ từng sự linh hoạt của mỗi nước, bằng các chính sách khuyến khích các doanh nghiệp có thể để laị một tỷ lệ hàng xuất khẩu bán cho thị trường trong nước. Với những đặc điểm trên đây có thể thấy khu công nghiệp, khu chế xuất là một khu công nghiệp đặc biệt để thu hút đầu tư nước ngoài, áp dụng công nghệ mới, nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, thúc đẩy xuất khẩu, sử dụng hiệu quả vốn đầu tư vào những ngành và những vùng trọng điểm. II- Vai trò của khu công nghiệp- khu chế xuất. 1. Thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước. Vốn đầu tư rất có ý nghĩa đối với sự tăng trưởng và phát triển của một đất nước. Chính phủ các nước đặc biệt quan tâm đến chính sách thu hút vốn đầu tư. Huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn. Việc thành lập các khu công nghiệp - khu chế xuất được coi như mảnh đất màu mỡ để thu hút vốn đầu tư. Chính phủ các nước luôn có chính sách ưu đãi, tạo ra một cơ chế quản lý điều hành đối với các khu công nghiệp, các khu này được xem nhu công cụ hữu hiệu để cụ thể hoá luật khuyến khích đầu tư nước ngoài. Sở dĩ các nhà đầu tư mong muốn đầu tư vào các KCN - KCX hơn các khu vực ngoài khác vì các lý do sau đây: Thứ nhất, về chi phí sản xuất. Mục tiêu của các nhà đầu tư bao giờ cũng là lợi nhuận tối đa và chi phí tối thiểu. Khi đầu tư vào các KCN - KCX nhà đầu tư được hưởng những ưu đãi riêng của Nhà nước với KCX - KCN và lợi ích từ các công trình hạ tầng kỹ thuật sẵn sàng thuận lợi cho việc thực hiện dự án. Thứ hai, trong xu thế toàn cầu hoá, việc đầu tư vốn vào các nước khác tại các KCN - KCX cho phép các nhà đầu tư khai thác lợi thế của mình là vốn và công nghệ đồng thời có khả năng khai thác các lợi thế của nước sở tại như lao động và thị trường. Thứ ba, Các doanh nghiệp hoạt động trong KCX - KCN có thể dễ dàng thực hiện chiến lược kinh doanh lâu dài, có sự ổn định tương đối cao, ít chịu những rủi ro phát sinh bên ngoài. Vì thế kế hoạch phát triển khu công nghiệp được Nhà nước định hướng phát triển trong thời gian dài. Thời gian thuê có thể lên tới 20- 50 năm. Chính điều này có thể tạo sự yên tâm đầu tư của các nhà đầu tư. Thực tế cho thấy, hiện nay phần lớn các dự án lớn thực hiện trong các khu công nghiệp là do các nhà đâù tư nước ngoài (khoảng 43% các dự án do trong nước thực hiện, 24% do liên doanh với nước ngoài và 33% do các nhà đầu tư nước ngoài thực hiện). Chẳng hạn ở Đài Loan, trong những năm đầu phát triển khu công nghiệp, đã thu hút khoảng 60% vốn FDI; ở Malayxia, trong mười năm 1985-1996 đã có 8.918 dự án đầu tư về công nghiệp được cấp giấy phép vào 12 khu chế xuất và 178 khu công nghiệp với tổng số vốn đầu tư 85,87 tỷ USD trong đó vốn FDI chiếm 53,5% đầu tư trong nước 46,5% (I). Cùng với thu hút đầu tư nước ngoài, các khu công nghiệp còn có vai trò trong việc tiếp thu công nghệ hiện đại và học hỏi kinh nghiệm quản lý tiên tiến của các nhà đầu tư nước ngoài. Để tạo ra sản phẩm có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới và thị trường nội địa các nhà đầu tư nước ngoài thường đưa vào các khu công nghiệp các công nghệ tương đối hiện đại, và cả công nghệ thuộc loại tiên tiến nhất thế giới. Mặc dù ở các khu công nghiệp người ta thường thực hiện các hoạt động sản xuất hàng tiêu dùng, gia công lắp ráp, song quá trình chuyển giao công nghệ vẫn diễn ra thông qua nhiều hình thức: đào tạo công nhân nước chủ nhà sử dụng máy móc, công nghệ sản xuất… Qua quá trình làm việc các chuyên gia, kỹ sư… của các nước chủ nhà học hỏi kinh nghiệm quản lý điều hành sản xuất tiên tiến của các nhà đầu tư nước ngoài. Về phát triển khu công nghiệp - khu chế xuất đang là lời giải cho việc thu hút vốn đầu tư để phát triển kinh tế của các nước đang phát triển và nó cũng là địa chỉ cần đến của các nhà tư bản nước ngoài là những nguời thừa vốn và đang tìm kiếm cơ hội đầu tư nước ngoài. Phát triển khu công nghiệp cho phép phát huy tốt nội lực và các nguồn vốn đang nhàn rổi trong nhân dân, tạo sức sống kinh tế vững chắc, một nền công nghiệp vững mạnh và phù hợp với mục tiêu công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. 2. Tạo khả năng để khai thác tiềm năng thế mạnh của vùng Đối với mỗi vùng, mỗi địa phương trong cả nước, mặc dù nằm trong tổng thể đất nước, chịu sự quản lí thống nhất điều hành của một cơ quan quản lí nha nước. Nhưng mỗi vùng, mỗi đều có những lợi thế, những đặc điểm ưu tiên nỗi trội mà cả nguyên nhân chủ quan và khách quan mang lại. Điều này tạo nên lợi thế so sánh của vùng. Khi tiến hành đầu tư, các nhà đầu tư luôn luôn tiến hành nghiên cứu xem xét kỹ lưỡng những lợi thế mà vùng mình định đến đầu tư, xem nó hơn hẳn các vùng khác như thế nào. Chính hoạt động đầu tư đã là hoạt động chính nhằm khai thác và phát huy các lợi thế của vùng và địa phương đó. Trên khía cạnh việc thành lập khu công nghiệp, khu chế xuất mà ở đây chính là nơi để thu hút các nhà đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Ta xem xét tác động của nó đến việc phát huy các lợi thế. Các khu công nghiệp, khu chế xuất thường được đặt ở nơi có vị trí địa lí thuận lợi như vùng có hệ thống giao thông phát triển, thuận lợi cho việc buôn bán và vận chuyển hàng hoá, các nơi này thường nằm trên trục đường giao thông, đường hàng không, hằng hải. Chính hoạt động của khu công nghiệp phát triển sẽ tạo điều kiện phát triển cơ sở hạ tầng, đây cũng được coi như đòi hỏi và yêu cầu khách quan. Từ những cụm khu công nghiệp khu chế xuất sẽ tạo nên những vùng kinh tế năng động, phụ thuộc lẫn nhau trong trao đổi và vận chuyển hàng hoá Đối với vấn đề tài nguyên thiên nhiên, mỗi một vùng nhờ có điều kiện tự nhiên ban cho những nét đặc thù riêng, vùng thì có rất nhiều quặng sắt, thép, dầu khí,…đôi khi có những vùng không được ưu tiên về tài nguyên thiên nhiên. Chính những tài nguyên về khoáng sản, cơ cấu cây trồng sẽ tạo nên cơ cấu sản phẩm của vùng. Các khu công nghiệp sẽ là nơi khai thác hiệu qủa các nguồn tài nguyên, họ sẽ sử dụng nguyên liệu một cách có hiệu quả và tiết kiệm nhất và khu công nghiệp sẽ góp phần khuyếch trương những lợi thế ấy lên, cũng như tạo dư địa cho quá trình phát triển. Bên cạnh tài nguyên thiên nhiên hữu hình thì tài nguyên thiên nhiên vô hình cũng được khai thác phát triển, đó là trình độ lành nghề của công nhân. Các khu công nghiệp sẽ tạo điều kiện tốt để công nhân học hỏi trình độ tay nghề hiện đại cũng như học hỏi được những kinh nghiệm quản lí hay, chính khu công nghiệp sẽ tạo nên sức hút để các vùng khai thác và phát hiện ra trình độ lao động tiên tiến phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Một vấn đề khác cũng được các nhà đầu tư quan tâm đó là chính sách phát triển của vùng ấy. Các khu công nghiệp, khu chế xuất được coi như là mô hình thực nghiệm các chính sách, nó cũng được xem như là “ Nhiệt kế” để đo mức độ hấp dẩn đầu tư. Các khu công nghiệp được xem như thử nghiệm mức độ thành công hay thất bại của các chính sách vĩ mô đối với hoạt động đầu tư. Vì ta coi khu công nghiệp như là một thực thể kinh tế chứ nó không chỉ đơn thuần là nơi thu hút các doanh nghiệp đến đầu tư sản xuất kinh doanh. Vùng nào thể hiện những ưu đãi hấp dẫn sẽ thu hút được nhiều nhà đầu tư và từ đó tác động hai chiều thúc đẩy nền kinh tế địa phương phát triển. 3. Phát triển kinh tế theo hướng mở Trong bối cảnh nền kinh tế ngày nay, xu hướng toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ trên mọi mặt đời sống kinh tế chính trị và xã hội. Toàn cầu hoá là một quá trình mà trong đó nó thu hút các nước tham gia vào trong vóng xoáy của nó. Các nước chịu ảnh hưởng lẫn nhau và không thể tách rời nhau với tư cách là một thực thể độc lập. Trong hoạt động kinh tế, toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ thể hiện ở chỗ xuất hiện các tập đoàn xuyên quốc gia, đa quốc gia, hàng hoá của họ xuất hiện trên mọi miền của thế giới và trong quá trình này ta cũng thấy xuát hiện những phương thức kinh doanh mới đó là: nghiên cứu/ phát triển / sản xuất/ vận trù/ tiếp thị/ Điều đó được lý giải như sau: Để sản xuất một sản phẩm xí nghiệp khi tham gia vào nền kinh tế toàn cầu, vấn đề không phải chỉ là chất lượng hàng hoá, mẩu mã, giá cả đúng yêu cầu là đủ mà sản phẩm hàng hoá của xí nghiệp sản xuất ra ở bất cứ nước nào muốn bước chân vào thị trường toàn cầu. Điều đó có nghĩa là một sản phẩm không cần thiết sản xuất tại một nước mà có thể sản xuất bằng các linh kiện được sản xuất ở các nước khác nhau. Và mô hình khu chế xuất, khu công nghiệp là lời giải cho vấn đề trên. Đối với các nước châu á thái bình dương, sau khi giành được độc lập vấn đề đặt ra đối với các chính phủ là phải xây dựng nền kinh tế theo hướng nào. Một số nước lựa chọn con đường phát huy nội lực.Trong khi đó một số nước đã lựa chọn con đường phát triển kinh tế theo hướng " nền kinh tế hướng vào xuất khẩu " Bài học này được vận dụng thành công ở các nước NICS. Họ đã có nhiều chính sách khuyến khích xuất khẩu với việc xây dựng các khu chế xuất, cảng tự do, khu mậu dịch tự do….Bài học này đã được các nước đi sau áp dụng nhưng mức độ thành công chưa thực sự rõ ràng. Việc hình thành và phát triển các khu công nghiêp, khu chế xuất là tất yếu khách quan của nhiều nước trên thế giới nhất là các nước đang phát triển. Đối với nước này, khả năng tài chính có hạn, khả năng tiếp cận thị trường nhất là thị trường thế giới còn có nhiều hạn chế, phát triển khu công nghiệp là giải pháp để thu hút đầu tư, nhất là đầu tư nước ngoài, tạo nhiều sản phẩm hàng hoá nhất là hàng hoá xuất khẩu, mở rộng thị trường. Nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Khu công nghiệp, khu chế xuất là một công cụ chuyển giao giúp một đất nước, một địa phương tiếp cận với thị trường khu vực và thế giới khi thực hiện chiến lược định hướng xuất khẩu, mở rộng quan hệ thị trường, từng bước thích nghi với quan hệ quốc tế. Việc phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất đặt nền móng cho bước tìm tòi, phát triển mô hình kinh tế năng động, làm tác dụng đầu tàu có sức lan toả và dẩn dắt đối với sản xuất công nghiệp trong nước. III. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất. 1. Các nhân tố ảnh hưởng. 1.1. Môi trường đầu tư Mỗi một khu công nghiệp, khu chế xuất hình thành và phát triển chịu tác động của rất nhiều yếu tố. Có khu công nghiệp, khu chế xuất hoạt động rất thành công, mang lại hiệu kinh tế cho một đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh đó có những khu hoạt động kém hiệu quả, gây rất nhiều lãng phí và không đạt được những mục tiêu đề ra. Qua nghiên cứu và đánh giá các chuyên gia kinh tế cho rằng: vị trí lựa chọn khu công nghiệp, khu chế xuất là yếu tố cần quan tâm thứ yếu và đầu tiên khi một chính phủ hoặc quốc gia nào muốn thành lập khu công nghiêp, khu chế xuất. Chính vị trí địa lý thuận lợi đi kèm với nó là hệ thống cơ sở hạ tầng sẽ góp phần làm nên sự thành công của chính các khu. Chính vị trí địa lý thuận lợi hay hệ thống cơ sở hạ tầng tốt tạo nên tính năng động trong hoạt động các khu công nghiệp, khu chế xuất. Các nhà đầu tư luôn quan tâm đến cơ sở hạ tầng của khu họ vào đầu tư. Các yếu tố như giao thông, điện nước, bến cảng, sân bay có phù hợp cho hoạt động sản xuất va kinh doanh của họ hay không. Khi đầu tư vào đây chi phí về vận chuyển hàng hoá ra thị trường quốc tế như thế nào, có gần với những thị trường mà họ muốn thâm nhập và quan tâm hay không. Điều đó có nghĩa là thành lập khu công nghiệp - khu chế xuất phải biết vận dụng vào những lợi thế mà mình có sẵn. Theo kinh nghiệm của các nước việc lựa chọn khu công nghiệp - khu chế xuất nên bố trí xa dân cư, nằm trên trục đường giao thông quốc tế, và tốt nhất là nằm ở vị trí gần cảng biển. Bởi hàng hoá vận chuyển bằng đường biển thường chiếm tỷ lệ cao và với một chi phí tương đối rẻ. Vậy một vị trí địa lý thuận lợi mà tự nhiên ưu đãi cùng với sự phát triển của hệ thống cơ sở hạ tầng sẽ làm nên những thàn công cho khu công nghiệp- khu chế xuất. Vấn đề ở đây đặt ra là mỗi chính phủ phải xác định đúng vị trí khai thác mà mình có lợi thế. Vấn đề ở đây cũng giống như khai thác thăm dò dầu khí. Nếu ta lựa chọn đựoc chính xác thì sẽ giảm bớt rất lớn một lượng chi phí đã bỏ ra vô ích trong thăm dò. Bên cạnh đó tình hình kinh tế xã hội của nước lập KCN - KCX cũng có những ảnh hưởng lớn. Họ tìm đến ở đây khi họ thấy đây sẽ là môi trường đầu tư tốt, ổn định chính trị, dân số đông với thị trường rộng lớn, đội ngũ đông đảo với chi phí thấp và có tay nghề. Các nhà đầu tư sẽ rất quan tâm là môi trường chính trị xã hội một nước mà họ sẽ đến. Điều này tạo nên hiệu quả trong hoạt động ở KCN - KCX. 1.2. Quan điểm phát triển và chính sách vĩ mô Mỗi một nước đều có sự lựa chọn con đường phát triển riêng cho đất nước mình, mặc dù với chế độ chính trị khác nhau, nhưng các nước đều phải hường ra một nền kinh tế thị trường, hoà nhập vào một nên kinh tế quốc tế và khu vực. Một đất nước khó có thể tồn tại được nếu chỉ biết mình và cô lập với thế giới bên ngoài, điều ấy đôi khi cũng xảy ra nhưng chỉ xảy ra với nên kinh tế tự cung tự cấp mà điều này chỉ xảy ra với xã hội nguyên thuỷ hoặc giai đoạn trao đổi chưa phát triển. Ngày nay dòng trao đổi diển ra rất mạnh mẽ trên mọi lĩnh vực, cả về kinh tế, văn hoá, lịch sử. Đứng về mặt kinh tế dòng vốn và công nghệ dịch chuyển rất sôi động và khu công nghiệp, khu chế xuất là một địa chỉ đến của hiện tượng này. Các quốc gia khi lựa chọn đường lối phát triển kinh tế cũng ảnh hưởng rất lớn đến quá trình phát triển công nghiệp mà ở đây là sự hình thành và phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất. Có rất nhiều sự lựa chọn cho đường lối phát triển của mỗi quốc gia, mỗi nước dựa vào điều kiện đặc thù của mình cũng như đường lối chính trị mà có con đường phát triển kinh tế sau: theo chủ nghĩa tư bản thị trường tự do, nền kinh tế thị trường có sự quản lí của nhà nước với vai trò và mức độ tác động của nhà nước với nhiều mức độ khác nhau, nền kinh tế đóng của với thế giới bên ngoài và mỗi con đường phát triển thì có các chiến lược phát triển khác nhau, chẳng hạn như chiến lược thay thế nhập khẩu, chiến lược hướng về xuất khẩu, chiến lược nội lực hoá. Mỗi một nền kinh tế dù dựa lựa chọn theo con đường nào đi nữa thì cũng nhằm giải quyết tốt vấn đề tăng trưởng và phát triển kinh tế mà trong đó có việc phát triển các ngành như công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ. Khi có một chính sách hướng đến coi trọng phát triển ngành công nghiệp thì các chính sách đều hướng đền vấn đề trên. Chẳng hạn khi một đất nước đang theo đuổi chiến lược hướng về xuất khẩu thì chính phủ rất chú ý đến công nghệ của các doanh nghiệp sao cho đáp ứng tốt yêu cấu sản xuất hàng ra thị trường thế giới và khu công nghiệp rất được quan tâm phát triển. Các khu công nghiệp, khu chế xuất sẽ là nơi để một nước tìm hướng đi cho nền công nghiệp nước nhà. Cùng với việc lựa chọn các quan điểm phát triển, vai trò của nhà nước trong việc thực hiện các chính sách vĩ mô điều hành nền kinh tế đất nước cũng ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành và phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất. Một chính sách thuế với nhiều ưu đãi như thuế doanh thu, thuế lợi tức… cùng với hệ thống các quy định tiền, thu đổi ngoại tệ, chuyển ngoại tệ ra nước ngoài hay là việc quy định tỉ lệ nguyên liệu ngoại nhập được hoàn thuế, hàng xuất ra thị trường thế giới hay nội địa….Tất cả các yếu tố trên góp phần tạo nên một lời mời hấp dẩn các nhà đầu tư đến làm ăn. Tuy nhiên hệ thống các chính sách này mà lõng lẻo, không phù hợp với tình hình thực tế nó sẽ kìm hãm đến sự phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất. Các nhân tố trên hình như chỉ là những nhân tố chủ quan và rất dễ thay đổi theo mỗi hoàn cảnh và môi trường nhưng nếu chúng ta biết làm tốt thì đây sẽ là cơ hội để phát triển KCN - KCX. Và những thành công hay thất bại sẽ được đánh giá chính yếu ở những điểm này. 1.3. Xu thế quốc tế hoá và toàn cầu hoá. Với xu thế vận động của thế giới ngày nay, quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế đang diễn ra ngày càng sâu rộng, việc xã hội hoá sản xuất và phân công lao động đang diễn ra ở qui mô toàn cầu đã tăng thêm quan hệ nhiều mặt, nhiều chiều, quan hệ tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia. Hợp tác kinh tế quốc tế về thực chất là một cuộc cạnh tranh nhằm khẳng định sự tồn tịa và phát triển của mỗi quốc gia. Các quốc gia cần thiết khai thác những điểm mạnh và lợi thế trong quá trình giao lưu trao đổi quốc tế. Việc dòng vốn được trao đổi tự do đã khiến các nhà đầu tư nghĩ ngay đến việc phải mang nguồn vốn của mình đến các quốc gia khác để kiếm lợi khi mà thị trường trong nước không còn những miếng ăn béo bở và vấp phải sự cạnh tranh gay gắt, quá trình này xảy ra cũng đồng nghĩa với các Công ty tập đoàn đa quốc gia muốn vươn vòi bạch tuộc của mình đến các thị trường trên thế giới. Dù đó là thị trường năng động hay chỉ là những thị trường sơ khai mới tập tểnh bước vào quan hệ quốc tế. Trong xu thế toàn cầu hoá cũng sẽ chứng kiến cành các quốc gia trở mình vươn lên và những quốc gia sẽ là mồi ngon bị thiêu xẻ và lụi tàn. Đó cũng là những hiện tượng của sự cạnh tranh. Đây những mặt tốt và mặt xấu của nó. Nhưng chính xu thế này tạo rất nhiều cơ hội để các nước chậm phát triển thu hút đầu tư nhằm phát triển kinh tế, cải thiện trình độ sản xuất lạc hậu, gia nhập và học hỏi kinh nghiệm và công nghệ của các nước trên thế giới. 2. Những điều kiện cần thiết để xây dựng khu công nghiệp - khu chế xuất. Để xây dựng và vận hành một KCN -._. KCX chịu tác động của rất nhiều yếu tố, các yếu tố có thể đã nêu ở phần trên. Tuy nhiên để một KCN - KCX vận hành tốt, thể hiện đúng mục tiêu của nước chủ nhà và nước đầu tư cần thực hiện tốt một số điều kiện cụ thể sau đây. - Một là, dự án quy hoạch KCN mới phải gắn liền với qui hoạch phát triển hệ thống KCN trong cả nước, quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của địa phương. Các khu công nghiệp được xây dựng thường có sự quy hoạch phát triển của địa phương và của chính phủ. Các dự án này nên được xây dựng bởi các nghiên cứu tiền khả thi và khả thi. Trong quá trình thực hiện cần phải tính toán đến việc định hướng sản phẩm của KCN, khả năng tiêu thụ sản phẩm, khả năng hình thành các khu dân cư mới và xử lý các vấn đề nảy sinh trong xây dựng (như giải phóng mặt bằng, di chuyển dân cư, đền bù dân di chuyển….). Chúng ta nên cần quan tâm đến việc dự báo các yếu tố, xác lập các căn cứ khách quan, và có độ tin cậy cao. Việc xây dựng khu công nghiệp - khu chế xuất phải thống nhất. Và việc xây dựng với một số lượng vừa phải và phân bổ hợp lý. Tránh tình trạng chồng chéo chỗ thừa chỗ thiếu và vượt qua điểm cần thiết. - Hai là, xác định rõ yêu cầu và những giải pháp khả thi để xây dựng và phát triển đồng bộ cơ sở hạ tầng kỹ thuật và cơ sở xã hội. Do vị trí địa lý, điều kiện cụ thể (mặt bằng), phạm vi liên quan với ngoài KCN… mà tuỳ từng dự án xây dựng KCN ở mỗi nơi có những điểm khác biệt. Và ở mỗi địa bàn dự kiến xây dựng KCN đó lại có nhiều phương án khác nhau để giải quyết từng loại công trình nhất định, chẳng hạn việc cấp nước có thể xử lý nước sạch từ nguồn nước sông, nguồn nước ngầm hay vào hệ thống cấp nước công cộng. Các yếu tố về điều kiện hạ tầng bên ngoài (gần cảng biên, gần đường quốc lộ và nguồn cấp điện hoặc không cách xa khu dân cư, có trường học, bệnh viện, nhà ở cho công nhân….) đều trực tiếp chi phối nội dung quy hoạch và xây dựng. Việc xây dựng địa điểm xây dựng với những điều kiện thuận lợi không xâm phạm quỹ đất nông nghiệp màu mỡ, không khó khăn trong việc giải phóng và chi đền bù. Việc chọn những đối tác đầu tư xây dựng các công trình hạ tầng cơ sở và theo đó quản lý kinh doanh dịch vụ cơ sở hạ tầng có uy tín, có năng lực về vốn và kỹ thuật thi công, quản lý cũng là yêu cầu cần được đặt ra ngay trong bước chuẩn bị đầu tư. Bà là, điều kiện quyết định nhất là xây dựng và thực hiện kế hoạch vận động các nhà đầu tư trong và ngoài nước vào khu công nghiệp. Các cơ quan quản lý chức năng cần phải nghiên cứu thị trường, dự báo khả năng thu hút các nhà đầu tư vào KCN, tăng cường xúc tiến công tác tiếp thị nhằm làm rõ môi trường đầu tư thuận lợi. trong bước xây dựng cơ sở hạ tầng, có ba phương thức đầu tư có thể lựa chọn: liên doanh giữa các doanh nghiệp trong nước; liên doanh giữa chủ đầu tư trong nước với nước ngoài, đầu tư trực tiếp 100% vốn nước ngoài. Một yếu tố khác có ảnh hưởng đến kết quả vận động đầu tư là ban quản lý vận dụng pháp luật của Nhà nước, nghiên cứu và đề xuất các chính sách khuyến khích đầu tư thích hợp với điều kiện cụ thể của địa phương mình. Các vấn đề giá cho thuê đất, phí dịch vụ (vận chuyển, thông tin liên lạc, điện nước….) thủ tục xuất nhâp khẩu… rất được các nhà đầu tư quan tâm. Vấn đề đặt ra là trên cơ sở tính toán và sử dụng hợp lý, tiết kiệm vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, thì có thể hạ giá cả và lệ phí, tăng sức thu hút các nhà đầu tư vào khu công nghiệp. - Bốn là, việc tạo môi trường thuận lợi cho các nhà đầu tư. Không ngừng nâng cao năng lực quản lý và kinh doanh của ban quản lý, của các cơ sở kinh doanh dịch vụ. Lề lối, phương pháp quản lý khoa học, nhanh chóng không gây phiền hà là đòi hỏi sự đổi mới các tổ chức quản lý Nhà nước, quản lý kinh doanh. Chuẩn bị chu đáo các yếu tố "đầu vào" nhất là nguồn cán bộ quản lý, công nhân kỹ thuật phù hợp với yêu cầu tuyển dụng của doanh nghiệp. Tổ chức tiêu thụ, mở rộng thị trường hàng hoá cho các doanh nghiệp (chủ yếu là tiêu thụ trong nước), hoặc tổ chức cung ứng nguyên liệu, nhiên liệu, hoặc tổ chức các cơ sở vệ tinh chuyên gia công chế biến các phế thải của doanh nghiệp cần được quan tâm và đưa vào quy hoạch, kế hoạch cụ thể. 3. Quy trình hình thành khu công nghiệp. Để cho ra đời một khu công nghiệp thông thương chúng ta phải tiến hành các trình tự công việc sau: + Một là, trên cơ sở đường lối, chủ trương phát triển kinh tế xã hội của một nước, định hướng phát triển công nghiệp trong tương lai. Từ đó xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển các loại hình khu công nghiệp một cách hợp lý. + Hai là, xây dựng qui hoạch cụ thể và mặt bằng khu công nghiệp: - Xác định diện tích khu công nghiệp bao gồm khu sản xuất, khu thương mại, khu làm việc - Số lượng các doanh nghiệp và những ngành nghề chủ yếu - Xác định nhu cầu lao động, nước, điện và khả năng đáp ứng. - Tiến độ xây dựng cho từng hạng mục công trình bao gồm dự án khả thi, giấy phép xây dựng và đấu thầu xây dựng, kế hoạch đền bù và giải phóng mặt bằng.- Xác định các hạng mục công trình liên quan đến khu công nghiệp ngoài hàng rào. + Ba là, triển khai xây dựng khu công nghiệp bao gồm lựa chọn các đối tác xây dựng có uy tín, triển khai xây dựng theo các hạng mục công trình. + Bốn là, khuyến khích đầu tư vào khu công nghiệp thông qua cơ chế hấp dẫn mang tính cạnh tranh. Về mô hình quản lý khu công nghiệp ở nước ta hiện nay cơ cấu này như sau: - Để tư vấn cho Thủ tướng Chính phủ, ở Trung ương có ban quản lý các khu công nghiệp Việt Nam. Ban này có nhiệm vụ xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách, ban hành các văn bản pháp quy hướng dẫn các ngành và địa phương tổ chức thực hiện. - Ban quản lý khu công nghiệp cấp tỉnh, thành phố là cơ quan quản lý trực tiếp các khu công nghiệp, khu chế xuất trong phạm vi địa lý hành chính của mình. - Các khu công nghiệp dịch vụ chịu sự quản lý trực tiếp của các ban quản lý các khu công nghiệp cấp tỉnh. Chương II: Mô hình đặc khu kinh tế Trung Quốc và chính sách phát triển I- Đặc khu kinh tế trong chiến lược cải cách kinh tế Trung Quốc. 1. Hoàn cảnh ra đời các đặc khu kinh tế. Trước khi thực hiện cải cách và mở cửa vào năm 1978 nền kinh tế Trung Quốc phát triển trên cơ sở lạc hậu, hạn chế những quan hệ kinh tế với nước ngoài chính sách đóng cửa nửa mở cửa, đôi lúc đóng cửa hoàn toàn với thế giới bên ngoài đã đẩy nền kinh tế Trung Quốc vào tình trạng bế tắc. Sản xuất không ổn định, hoạt động thương mại cầm chừng và cơ sở hạ tầng kém phát triển. Mọi chi tiêu của Nhà nước trông đợi vào ngân sách từ khu vực kinh tế quốc doanh và khu vực Nhà nước. Công cuộc "Đại nhảy vọt" đã đem lại sự phiêu lưu đầy lãng phí và rối ren cho toàn bộ nền kinh tế Trung Quốc. Thêm vào đó, những sai lầm của cuộc "đại cách mạng vô sản" mà thiệt hại của nó lên đến 500 tỷ nhân dân tệ đã đẩy nền kinh tế của Trung Quốc vào tình trạng nghẹt thở và gặp nhiều khó khăn. Trong thời gian thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ 3 (1966 - 1970) nhịp độ tăng trưởng của ngành nông nghiệp và công nghiệp đền bù so với thời gian thực hiện tốt 5 năm lần thứ nhất. Năm 1976 toàn bộ nền kinh tế ta trên bờ vực thẳm với các chỉ số kinh tế nghiêm trọng. Hội nghị Trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc lần thứ 3 khoá XI (12/1978) đã đánh dấu bước chuyển mình mới của nền kinh tế Trung Quốc, khép lại một thời kỳ rối ren chính trị, xa xút về kinh tế, mở ra giai đoạn mới cho nền kinh tế. Trước bối cảnh quốc tế cuối thập kỷ 70 đem lại những thuận lợi nhất định, hội nghị đã đưa ra một quyết sách chiến lược: chuyển hướng từ đóng cửa, nửa đóng nửa mở sang mở của hoàn toàn với thế giới bên ngoài. Vần đề đặt ra khi mở cửa nền kinh tế trung quốc là làm thế nào tận dụng mọi thời cơ quốc tế, huy động mọi nguồn lực để thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước rộng lớn và còn lạc hậu. Đảng và Nhà nước trung quốc xác định vùng ven biển phía đông có nhiều điều kiện triển vọng cho phát triển kinh tế. ở đây có nhiều hải cảng thông thương với các nước trên thế giới và có nhiều thành phố nổi tiếng thế giới về truyền thống kinh doanh. Trước những lợi thế trên chính phủ Trung Quốc khẳng định: "chiến lược mở cửa vùng ven biển là một bộ phận chủ yếu trong chiến lược phát triển quốc gia". Nhằm thực hiện chiến lược mở cửa của mình các đặc khu kinh tế ra đời như là người lính tiên phong "cửa sổ", "phòng thí nghiệm" nhằm thử nghiệm hiệu quả của chính sách cải cách mới. Nghĩa là các đặc khu kinh tế không chỉ thúc đẩy phát triển mô hình kinh tế hướng ra bên ngoài, thu hút vốn, kỹ thuật, cung cấp thông tin, mở rộng các kênh xuất khẩu phục vụ cho công cuộc phát triển kinh tế, hiện đại hoá Trung Quốc nói chung, mà còn đóng góp những tìm tòi bổ ích cho việc hoàn thiện chính sách mở cửa của Trung Quốc. 2. Đặc điểm và các mục tiêu chung của các đặc khu kinh tế. 2.1. Đặc điểm các đặc khu kinh tế. Sau khi nghiên cứu kinh nghiệm thế giới về việc thành lập các khu kinh tế tự do, chính phủ Trung Quốc quyết định hình thanh lập các đặc khu kinh tế để tiến hành thí điểm chính sách mở cửa. Ban đầu, Thâm Quyến được chọn là nơi để thành lập KCN để thu hút vốn và công nghệ từ Hồng Kông và thúc đẩy xã hội. Tuy nhiên, theo tinh thần "đối ngoại mở cửa, đối nội làm ăn" việc thành lập khu đặc khu kinh tế sẽ tốt hơn khu chế xuất vượt ra ngoài chức năng chức năng KCX, các đặc khu kinh tế sẽ đóng vai trò cửa ngõ giao lưu kinh tế xã hội cảu Trung Quốc với thế giới bên ngoài, thử nghiệm các chính sách kinh tế xã hội trước khi đem áp dụng chính thức trên toàn lãnh thổ quốc gia. Chính vì vậy, quy mô và vị trí của đặc khu kinh tế có ảnh hưởng rất lớn đến việc thực hiện ý đồ chiến lược. Đặc điểm chung của các đặc khu kinh tế là như sau: - Có vị trí thuận lợi nằm sát nách các đô thị hoặc trung tâm có truyền thống buôn bán quốc tế như Ma Cao, Hồng Kông, Thành cảng Hạ Môn, gần các đường giao thông quốc tế dọc biển đông. - Đặc khu kinh tế Thẩm Quyến: nằm ở phía Nam thành phố Thâm Quyến, đông nam tỉnh Quảng Đông, phía đông sông Châu Giang. Đặc khu kinh tế Thâm Quyến tiếp giáp với Hồng Kông qua sông Thâm Quyến, giáp vịnh Đại Bằng ở phía Đông giáp vịnh Thâm Quyến và sông Châu Giang, ở phía Tây nằm cạnh thành phố tự trị Thâm Quyến rộng 2020 km2. - Đặc khu kinh tế Chu Hải nằm ở phía Nam thành phố Chu Hải, cách Hồng Kông 36 hải lý về phía Đông, gần kề với Ma Cao, cách Quảng Châu 156 km về phía Bắc gần mỏ dầu Nam Hải. - Đặc khu kinh tế Sán Dầu: nằm ở bờ biển phía Đông Nam tỉnh Quảng Đông là nơi có nhiều người Hoa ở nước ngoài nhất (13 triêụ trong số 57 triệu người Hoa ở Hải ngoại). - Đặc khu kinh tế Hạ Môn: nằm phía Đông Nam thành phố Hạ Môn. Là hòn đảo lớn thứ tư của tỉnh Phúc Kiến là một hải cảng quan trọng ở phía Đông Nam Trung Quốc, Hạ Môn có đường biển dài 234km, trong đó 40 km bờ biển nước sâu, mùa đông không đóng băng. + Đặc khu kinh tế Hải Nam: là đặc khu kinh tế lớn nhất Trung Quốc, có đường biển gần nhất nối Trung Quốc với Châu Âu, Châu Phi, Châu đại dương và Nam á, ngoài vai trò là đầu mối giao thông quan trọng, Hải Nam còn là nơi có lượng người Hoa sống ở 50 quốc gia và khu vực trên thế giới. - Quy mô nhỏ, cơ sở hạ tầng ban đầu hầu như không có gì, hầu hết được đặt ở những vùng nông thôn nghèo nàn, nhưng đặc khu kinh tế Trung Quốc là "Căn cứ địa" để huy động tổng lực vốn đầu tư của Hoa kiều sau nhiều năm xa quê hương, để nhằm thúc đẩy quá trình đô thị đất nước. - Quy mô lớn hay nhỏ của các đặc khu kinh tế không phải là vấn đề quan trọng mà điều quan trọng là hiệu quả hoạt động của các đặc khu kinh tế. Các đặc khu kinh tế đã xác định đúng đối tượng để thu hút đầu tư công nghệ từ nước ngoài về, bộ phận căn bản và chủ chốt là các Hoa Kiều. Trung Quốc là nước có truyền thống dân tộc, văn hoá có bề dày tình cảm cộng đồng, quê hương khăng khít tạo nên một trách nhiệm và nghĩa vụ đối với quê hương của các Hoa Kiều. Điển hình là đặc khu kinh tế Thâm Quyến vốn chỉ là làng chài nhỏ, xơ xác. Được sự đầu tư của Hoa Kiều nó đã trở thành một đặc khu kinh tế vững mạnh điển hình. Bảng 1: Quy mô các đặc khu kinh tế như sau: Tên đặc khu Thuộc tỉnh Diện tích (km2) - Thâm Quyến Quảng Đông 327,5 - Sán Dầu Quảng Đông 6,1 - Chu Hải Quảng Đông 1,6 - Hạ Môn Phúc Kiến 2,5 - Hải Nam Hải Nam 34,5 Nguồn: Nguyễn Công Nghiệp ; Tạp chí tài chính 10/1997 - Dân số tuy không nhiều nhưng là "cửa ngõ" thông thương với thế giới bên ngoài và tiếp giáp với các vùng nội địa Trung Quốc, vị trí địa lý chiến lược của các đặc khu kinh tế sẽ đem lại nhiều cơ hội việc làm cho người dân Trung Hoa. Năm 1978, dân số Thâm Quyến là 2 vạn người. Dân số ít nhưng với một lực lượng lao động trong nước hùng hậu và có thị trường tiêu thụ rộng lớn trong nước, các đặc khu kinh tế sẽ là cơ hội tốt để các nhà đầu tư nước ngoài thâm nhập và khai thác thị trường. 2.2. Mục tiêu chung của các đặc khu kinh tế. Với chiến lược thành lập đặc khu kinh tế để mở cửa từng phần nền kinh tế trong nước, tăng cường trao đổi kinh tế đối ngoại, đẩy mạnh công cuộc "4 hiện đại hoá" trong toàn quốc, đặc khu kinh tế Trung Quốc có những mục tiêu chủ yếu sau: - Thu hút vốn, kỹ thuật công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến của nước ngoài, đặc biệt là huy động vốn của kiều bào để giải quyết tình trạng thiếu vốn và lạc hậu về công nghệ trong nước. Những điều kiện ưu đãi về vị trí địa lý, nhân lực và lực lượng Hoa Kiều đông đảo, kết hợp với các chính sách ưu đãi đặc biệt, cá đặc khu kinh tế sẽ là nơi lý tưởng cho các nhà đầu tư nước ngoài, nhập khẩu thiết bị kỹ thuật hiện đại và quản lý khoa học tiên tiến, các đặc khu kinh tế còn là địa bàn tạo việc làm và đào tạo lao động cho đất nước. - Thúc đẩy xuất khẩu. Lợi dụng những mối quan hệ thương mại của đồng bào Hoa Kiều ở nước ngoài, các đặc khu kinh tế sẽ không ngừng mở rộng thị trường, phát triển các thị trường mới. Các chính sách ưu đãi về hàm lượng xuất khẩu trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các lĩnh vực kinh doanh mở rộng cả về kinh tế - du lịch - dịch vụ sẽ giúp đặc khu mở rộng hơn các mối quan hệ kinh tế thương mại, tăng nhanh khả năng xuất khẩu. Bên cạnh đó, những cơ chế linh hoạt trong các đặc khu như cho phép các doanh nghiệp trong đặc khu được tiêu thụ một phần sản phẩm trong nội địa, thực hiện nguyên tắc vừa hướng nội, vừa hướng ngoại. Những đòi hỏi đối với các khu vực ngoài đặc khu sẽ phải tăng lên nhằm phục vụ cho việc cung cấp nguyên vật liệu thay thế nhập khẩu và cạnh tranh với các sản phẩm sản xuất trong đặc khu. - Đặc khu kinh tế được coi là "phòng thí nghiệm" để cải cách thể chế ở Trung Quốc. Sau 3 thập kỷ phát triển kinh tế theo cơ chế bao cấp, kinh tế thị trường tập trung, đặc khu kinh tế thực sự là nơi đầu tiên vận dụng những qui luật của nền kinh tế thị trường trước khi áp dụng cho cả nước. Hơn thế đặc khu kinh tế là sự thử nghiệm "giải phóng tư tưởng" của một Nhà Nước quan liêu, mạnh dạn phân quyền trực tiếp cho các địa phương. Trên thực tế, tại các đặc khu kinh tế, Trương ương đã từ bỏ việc can thiệp trực tiếp cụ thể vào các vấn đề kinh tế của địa phương. Việc tính toán, quản lý các chỉ tiêu kinh tế hoàn toàn do địa phương tự quyết định, điều này đã giảm dần sức ép đối với Trung ương. Trung ương chỉ quản lý vĩ mô và giám sát việc tôn trọng luật pháp chính sách chung. Sự phá bỏ bộ máy quan liêu cồng kềnh, tạo dịch vụ "một cửa" là nhằm tìm kiếm mọi cơ hội để thu hút đầu tư nước ngoài, thúc đẩy xuất khẩu. Vì mục tiêu này, các đặc khu kinh tế đều được đặt ở những vùng ít dân cư, qui mô nhỏ, ngoại vi các tỉnh và thành phố nội địa. Nếu thành công, các mô hình đặc khu kinh tế sẽ được nhân rộng ra cả nước, nếu thất bại, ảnh hưởng của nó chỉ trên qui mô thu nhỏ và không đáng kể. - Tăng cường mối liên kết với nền kinh tế Hồng Kông, Đài Loan, tạo điều kiện thu hồi lãnh thổ. Với mục tiêu xây dựng đặc khu kinh tế "không chỉ mang ý nghĩa kinh tế quan trọng, mà còn mang ý nghĩa chính trị sâu xa đối với ổn định nhân tâm ở Hồng Kông, đối với việc đưa Đài Loan về với tổ quốc" các đặc khu kinh tế là cầu nối hữu hiệu để Trung Quốc thu hồi Hồng Kông vào năm 1997, Ma Cao vào cuối năm 1999. Trên thực tế phương châm "thu hút bên ngoài, đoàn kết bên trong, phát triển kinh tế" mối quan hệ kinh tế giữa Trung Quốc với các vùng lãnh thổ trên ngày càng cải thiện. Các nền kinh tế Quảng Đông, Phúc Kiến đã dân dần có sự kết hợp nhất chặt chẽ hơn với Hồng Kông và Đài Loan. 3. Nghiên cứu mô hình đặc khu kinh tế Thâm Quyến và các chính sách ưu đãi. 3.1. Các giai đoạn phát triển của đặc khu kinh tế Thâm Quyến. Quá trình phát triển của đặc khu Thâm Quyến được chia làm 3 giai đoạn: - Giai đoạn 1, từ năm 1980 - 1985. Đây là thời kỳ xây dựng đặc khu giai đoạn này bắt đầu bằng việc san lấp mặt bằng và xây dựng mới các công trình cơ sở hạ tầng như điện, nước, đường giao thông, mạng viễn thông. Đặc khu được chia làm ba miền: Miền Đông, Miền Trung và Miền Tây. Mỗi khu vực được giao những chức năng, nhiệm vụ nhất định phù hợp với điều kiện cụ thể. Miền Đông chủ yếu phát triển các công trình như các xí nghiệp công nghiệp trung tâm thương mại và du lịch, nhà ở. Miền Trung là trung tâm nghiên cứu khoa học nông nghiệp. Miền Tây là nơi phát triển công nghiệp, cảng, thực hiện các giao dịch và phát triển du lịch. Trong giai đoạn này, tổng diện tích các công trình xây dựng trong toàn đặc khu chiếm 15%, làm mới 53,5km đường giao thông. Xây dựng 575 xí nghiệp thuộc các ngành điện tử, công nghiệp nhẹ. - Giai đoạn 2, từ 1986 - 2000. Đây là giai đoạn hình thành các đặc khu. Giai đoạn này được xác định phải giải quyết một cách căn bản các nhiệm vụ của đặc khu như xây dựng cơ cấu ngành nghề và sản phẩm hợp lý, du nhập kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, nâng cao trình độ của người lao động nói chung. Đến cuối năm 1989, đặc khu Thâm Quyến đã mở được 8 khu công nghiệp, có 2.570 xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, sử dụng hơn 48 vạn lao động. Đặc khu đã ký gần 7000 hiệp định đầu tư với hơn 30 nước và khu vực trên thế giới, lập 125 tổ chức mậu dịch tại các nước và khu vực như Hồng Kông, Ma Cao, Mỹ, Đức, Nhật Bản… Giai đoạn 3, từ năm 2000 trở đi. Đây là giai đoạn nâng cấp và hoàn thiện các đặc khu kinh tế, biến đặc khu thực sự trở thành một "Hồng Kông xã hội chủ nghĩa" có trình độ phát triển kinh tế ngang bằng hoặc cao hơn Hồng Kông, nhưng về mặt tinh thần mang màu sắc xã hội chủ nghĩa. 3.2. Các chính sách ưu đãi của Thâm Quyến. Đặc khu kinh tế Thâm Quyến xuất phát từ làng chài nhỏ, nghèo xơ xác. Nhưng nó có vị trí rất thuận lợi đặc biệt là gần trung tâm thương mại Hồng Kông nên chính phủ Trung Quốc đặc biệt quan tâm đến đặc khu này và đã đề ra rất nhiều chính sách ưu đãi hấp dẫn. - Để thu hút đầu tư nước ngoài vào đặc khu kinh tế, chính phủ đã ban hành các chính sách ưu đãi hấp dẫn. Các chính sách ưu đãi ở đây được hiểu theo nghĩa rộng không chỉ dừng lại ở các ưu đãi về thuế và tài chính khác, mà còn ở ưu tiên sử dụng đất, thủ tục nhanh chóng đối với việc thành lập và triển khai dự án, về các biện pháp bảo đảm đầu tư. Đối với hệ thống thuế ở đặc khu kinh tế Thẩm Quyến. - Thuế suất thuế thu nhập xí nghiệp là 15% địa phương không đánh thuế phụ thu khác. Các xí nghiệp thuộc các lĩnh vực như công nghiệp, giao thông vận tải, nông nghiệp, lâm nghiệp với thời gian hoạt động từ 10 trở lên sẽ được miễn thuế thu nhập trong 2 năm đầu kể từ ngày sản xuất kinh doanh có lợi nhuận và được giảm thuế 50% trong các năm thứ 3 đến thứ 5. Nếu tổng trị giá hàng xuất khẩu của xí nghiệp được cơ quan thuế xác nhận lớn hơn 70%. Tổng giá trị hàng được sản xuất ra thì họ tiếp tục được giảm 10%. Thuế thu nhập phải nộp của năm đó. Các nhà đầu tư nước ngoài nếu được cơ quan thuế xác nhận đã sử dụng lợi nhuận thu được đẻ tái đầu tư vào Trung Quốc với thời gian là trên 5 năm sẽ được thoái thu trên 40% thuế thu nhập để nộp cho khoản tái đầu tư đó. Khi các nhà đầu tư nước ngoài chuyển tiền lợi nhuận của mình về nước họ không phải chịu thuế thu nhập chuyển tiền. Hàng xuất khẩu của các xí nghiệp đầu tư nước ngoài nếu không thuộc loại cấm xuất khẩu của Nhà nước thì không phải chịu thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế giá trị gia tăng. Khi một Công ty ngoại thương, xí nghiệp đầu tư nước ngoài hoặc một xí nghiệp, Công ty Trung Quốc nhập khẩu nguyên phụ kiện để thực hiện hợp đồng giao cho một xí nghiệp đầu tư nước ngoài sản xuất hàng gia công xuất khẩu thì những đơn vị này không phải chịu thuế GTGT và thuế tiêu thụ đặc biệt đánh vào hàng nhập khẩu đó nếu họ xuất trình chứng nhận nguyên liệu nhập khẩu để làm hàng gia công xuất khẩu. Các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được mẫu thuế bất động sản của nhà cửa cho 3 năm đầu kể từ ngày họ được nhận quyền sở hữu toà nhà đó. Thuế suất là 1,3% tính trên 70% trị giá toà nhà hoặc 12% trị giá tiền thuê toà nhà. - Về các chính sách khuyến khích đối với các xí nghiệp làm gia công lắp ráp hàng xuất khẩu bằng nguyên liệu nhập khẩu và xí nghiệp dịch bồi hoàn. Các chính sách khuyến khích phát triển hình thức gia công lắp ráp hàng xuất khẩu sử dụng nguyên liệu nhập khẩu và hình thức mậu dịch bồi hoàn phải phù hợp với các chính sách công nghiệp tổng thể của Thâm Quyến. Các dự án có tỷ trọng vốn và kỹ thuật cao và có dây chuyền sản xuất liên hoàn sẽ được khuyến khích các dự án tiêu thụ tài nguyên (như năng lượng và nước) nhiều sẽ bị hạn chế và các dự án gây ô nhiễm môi trường sẽ bị cấm. Các xí nghiệp làm gia công lắp ráp hàng xuất khẩu bằng nguyên liệu nhập khẩu và các xí nghiệp dưới hình thức mâu dịch bồi hoàn mới được thành lập nếu có thời gian đăng ký hoạt động từ 10 năm trở lên được miễn thuế thu nhập trong 2 năm đầu kể từ khi có lãi. Cục thuế thành phố Thâm Quyến không phu phí phụ thu 3% giá trị phí gia công đánh vào các xí nghiệp qua công lắp ráp hàng xuất khẩu trực thuộc các quận, thị trấn và làng xã. - Về các chính sách đối với các xí nghiệp nước ngoài thường trú tại Thẩm Quyến. Để đẩy nhanh cải cách và mở cửa, cải thiện môi trường đầu tư phù hợp với các qui định chính sách của Nhà nước. Thâm Quyến đã đưa ra các chính sách đối với các xí nghiệp và người nước ngoài cụ thể như sau: + Mở cửa một cách thoả đáng thị trường trong nước cho những sản phẩm các xí nghiệp nước ngoài đầu tư sản xuất. Các xí nghiệp đầu tư nước ngoài mới được thành lập nếu sản xuất những sản phẩm không bị hạn chế bằng kim ngạch và giấy phép thì có quyền quyết định tỷ lệ và số lượng hàng tiêu thụ tại Thâm Quyến và xuất khẩu ra nước ngoài. Các xí nghiệp đầu tư nước ngoài làm gia công xuất khẩu những loại sản phẩm nhưng bị Nhà nước hạn chế muốn tiêu thụ thành phẩm tại Thâm Quyến thì trong hợp đồng gia công họ phải chỉ rõ tỷ lệ hàng thành phẩm được tiêu thụ tại trong nước và tỷ lệ này phải được cơ quan quản lý hoạt động sản xuất hàng gia công xuất khẩu của thành phố phê chuẩn và đây là cơ sở để làm thủ tục hải quan, nộp thuế nhập khẩu nguyên phụ liệu. Các xí nghiệp đầu tư nước ngoài được cơ quan kiểm tra. Thành phố xác nhận là "xí nghiệp xuất hàng có kỹ thuật tiên tiến" có thể tiêu thụ 100% sản phẩm của mình tại nội địa. Các dự án được Thâm Quyến gọi là "sọt rau" và các dự án phát triển nông nghiệp cao sản, chất lượng cao do nước ngoài đầu tư thì được quyền tiêu thụ 100% sản phẩm của mình tại nội địa. - Giá các dịch vụ thống nhất: về giá vận chuyển các xe tải chở Container, xe ô tô đều có phí như nhau. Giá điện áp dụng cho các xí nghiệp đầu tư nước ngoài và các xí nghiệp của Trung Quốc đều như nhau. Các nhà đầu tư nước ngoài làm việc tại Thâm Quyến, người nước ngoài có bất động sản tại Thâm Quyến và sinh viên đang học tập tại đây được chịu các chi phí bệnh viện và y tế giống như người Trung Quốc. Các phí này như nhau khi đi tham quan tại Thâm Quyến. II- Các chính sách và biện pháp phát triển các đặc khu kinh tế ở Trung Quốc. 1. Chính sách thu hút đầu tư nước ngoài và thúc đẩy xuất khẩu. Để phát huy tối ưu nguồn vốn đầu tư nước ngoài dựa vào những điều kiện riêng có về tài nguyên, nhân lực, cơ sở hạ tầng, trình độ phát triển công nghiệp,... Trung Quốc đã thực sự thành công trong việc đề ra những biện pháp đầu tư nước ngoài bởi họ biết có những gì và cần những gì. - Về cơ sở hạ tầng: Với phương châm làm "làm tổ cho phượng hoàng đẻ" ngay trong 5 năm đầu xây dựng đặc khu kinh tế, Trung Quốc đã chủ động bỏ vốn xây dựng cơ sở hạ tầng, bến bãi, kho tàng, đường sá, cầu cống. Trong giai đoạn 1980 - 1985 đầu tư cho cơ sở hạ tầng cho các đặc khu kinh tế là 7,6 tỷ nhân dân tệ (3,5 tỷ USD), trong giai đoạn tiếp theo, các đặc khu kinh tế được phép hợp tác với các nhà đầu tư nước ngoài trong xây dựng cơ sở hạ tầng với nhiều hình thức đầu tư như 100% vốn nước ngoài, BOT, BT, BTO,... Ngoài ra chính phủ đã cho phép xây dựng một mạng lưới giao thông nối đặc khu kinh tế với 500 thành phố trong các tỉnh nội địa với các nước trên thế giới. Hệ thống thông tin liên lạc với 150 nước và khu vực được xây dựng rất hiện đại. - Những chính sách ưu tiên về thuế: Các nhà đầu tư tại hầu hết các đặc khu kinh tế đều được lợi từ các khuyến khích khác nhau về thuế, đặc biệt là thuế thu nhập, thuế nhập khẩu, hạn ngạch nhập khẩu, thuế sở hữu tài sản và thuế thương nghiệp, mà người Trung Quốc quen gọi là "5 tự do". + Về thuế thu nhập công ty: Trong khi mức thuế thu nhập đối với các xí nghiệp Trung Quốc là 55% thì mức thuế thu nhập của các xí nghiệp liên doanh thấp hơn và của các xí nghiệp liên doanh trong các đặc khu kinh tế còn thấp hơn nữa. Cụ thể là: Bảng 2: Mức thuế so sánh giữa các xí nghiệp liên doanh và xí nghiệp liên doanh trong đặc khu. Mức thuế XN liên doanh XN liên doanh trong đặc khu Thuế thu nhập thống nhất xí nghiệp liên doanh 33% 33% 15% Thuê thu nhập của các xí nghiệp liên doanh có hơn 70% sản phẩm để xuất khẩu 15% 10% Thuế lợi nhuận chuyển ra nước ngoài 10% 0% Thời hạn không phải nộp thuế kể từ khi có lợi nhuận 2 năm đầu 3-5 năm tiếp theo là 50% khoản thuế phải nộp 2 năm đầu, 3-5 năm tiếp theo là 50% khoản thuế phải nộp Trong các ngành khác nhau thuế thu nhập công ty cũng khác nhau. Các doanh nghiệp thuộc ngành dịch vụ, thương nghiệp được miễn thuế 1 năm, giảm 50% trong 2 năm tiếp theo. Các doanh nghiệp thuộc các ngành ưu tiên được miễn thuế 5 năm và giảm 50% trong 5 năm tiếp theo. Các doanh nghiệp có quyền chuyển lỗ kinh doanh của năm trước để trừ vào lợi nhuận của 5 năm tiếp theo (trước khi xác định thuế thu nhập công ty). Các doanh nghiệp trong nước nếu dùng lợi nhuận để tái đầu tư sẽ được hoàn trả 40% số thuế đã nộp tính trên phần lợi nhuận tái đầu tư. + Về xuất khẩu: Tất cả các mặt hàng được sản xuất tại các đặc khu kinh tế và từ các đặc khu kinh tế xuất khẩu đi không phải trả thuế xuất khẩu. Nếu xí nghiệp nào xuất khẩu trên 70% số lượng hàng hoá sẽ được giảm 50% thuế doanh thu trong suốt thời gian hoạt động. Hàng hoá được đưa từ đặc khu kinh tế này tới các đặc khu kinh tế khác cũng không bị đánh thuế. + Về thuế sử dụng đất đai và thuế nhà máy: Các doanh nghiệp có thể được thuê đất trong thời hạn 20-50 năm, tuỳ theo hạng mục kinh doanh. Nếu đất dùng cho thương nghiệp, trồng trọt và chăn nuôi thời hạn sử dụng đất đai là 20 năm. Thời hạn sử dụng đất cho công nghiệp và du lịch là 30 năm, dùng cho nhà ở, giáo dục, y tế, khoa học kỹ thuật là 50 năm. Hết thời hạn nếu muốn sử dụng tiếp phải có sự phê chuẩn của cơ quan quản lý đặc khu. Miễn thuế sử dụng đất đai từ 1-5 năm đối với những nơi khai phá như đồi trọc, đất hoang, đầm lầy,... giảm 25-40% thuế đất đối với xí nghiệp tiên tiến, quy mô lớn, nhất là dùng cho công nghiệp. Mức thuế sử dụng đất đai cứ 3 năm điều chỉnh một lần, mức điều chỉnh không quá 30% tiền thuê đất có thể trả dần trong nhiều năm với lãi suất hàng năm 8%. Trong quá trình thuê đất, các doanh nghiệp có quyền chuyển nhượng lại cho nhau nhưng bắt buộc phải thực hiện các thủ tục hành chính; Nhà nước chỉ điều tiết thông qua thuế. + Về thuế gián thu: Các doanh nghiệp trong đặc khu khi cung cấp, trao đổi sản phẩm hàng hoá với nhau hoặc bán cho người tiêu dùng trong đặc khu đều không phải nộp thuế gián thu. Hàng hoá sản xuất tại các đặc khu được bán ra ngoài đặc khu thì phải nộp thuế. 2. Chính sách khuyến khích mối liên kết kinh tế giữa đặc khu với vùng ngoài đặc khu. Việc mua bán trong thị trường nội địa Trung Quốc của các đặc khu có rộng rãi hơn ở các khu chế xuất của các nước. Các doanh nghiệp được phép tiêu thụ một phần sản phẩm tại chỗ hoặc nội địa. Tỷ lệ sản phẩm tiêu thụ tuỳ thuộc vào mức độ sử dụng trang thiết bị, nguyên liệu, công nghệ của các doanh nghiệp trong đặc khu. Trong 5 năm đầu tiên khi việc xây dựng các đặc khu kinh tế ở giai đoạn đầu việc tổ chức chưa chặt chẽ và hiểu biết thị trường thế giới chưa nhiều, có tới 70% sản phẩm làm ra trong đặc khu kinh tế được tiêu thụ trong nội địa. Ngày nay tỷ lệ đó là 30%. Ngoài ra, chính phủ còn khuyến khích hình thức liên doanh giữa doanh nghiệp trong nước (kể cả doanh nghiệp tư nhân) và doanh nghiệp nước ngoài. Nếu một doanh nghiệp trong nước có 25% giá trị vốn cổ phần do bên nước ngoài mua, doanh nghiệp đó được coi là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Chính điều này đã khuyến khích các doanh nghiệp nước ngoài bỏ vốn vào Trung Quốc để hưởng các ưu đãi mà chính phủ đã ban ra. 3. Chính sách về lao động tiền lương. Trung Quốc là nước đông dân, luôn có 25 triệu lao động chờ việc (số liệu năm 1988) do đó, những khuyến khích về tiền lương trong đặc khu kinh tế đã giúp Trung Quốc giải quyết tương đối tình trạng thất nghiệp. Theo qui định, các doanh nghiệp trong các đặc khu kinh tế có quyền tự do tuyển dụng lao động thông qua thị trường lao động. Người lao động từ bên ngoài đặc khu vào tìm việc trong đặc khu phải chịu sự quản lý của sở lao động, và phải được sở lao động cho phép và cấp thẻ ra vào đặc khu. Tuy mức lương của các công nhân trong các đặc khu kinh tế thấp hơn so với các khu chế xuất của các nước. Nhưng so với mức lương ngoài đặc khu kinh tế, mức lương trong đặc khu kinh tế vẫn cao hơn. Tiền lương luôn thay đổi tuỳ theo từng loại xí nghiệp và công việc. Mức lương trung bình trong các đặc khu kinh tế cao gấp 2,5-3 lần so với ngoài đặc khu. Các quy định về chế độ và tiêu chuẩn tuyển dụng công nhân ở đặc khu kinh tế phải bảo đảm những điều kiện chặt chẽ về kỷ luật lao động, về quyền sa thải của chủ doanh nghiệp, nhưng đồng thời cũng phải đảm bảo lợi ích cho công nhân. Chế độ tuyển dụng chủ yếu là thi tuyển và theo hợp đồng, phần lớn là tuyển dụng những thanh niên có trình độ văn hoá từ trung học trở lên và xuất thân từ các vùng nông thôn nhằm giải quyết việ._.ệ, nếu so với năm 1998, khi giá trị sản xuất của khu công nghiệp mới chỉ đạt trên 1,5 tỷ USD và giá trị xuất khẩu mới đạt khoảng 1,05 tỷ USD. Ngành nghề thu hút chủ yếu trong khu công nghiệp chủ yếu là công nghiệp giành để xuất khầu, chiếm trên 2/3 giá trị sản lượng. Điều này có tác động tốt đối với việc phục vụ cho chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu có kết hợp với thay thế nhập khẩu ở Việt Nam. Hơn nữa, hàng hoá sản xuất trong các khu công nghiệp đã phục vụ cho yêu cầu về nâng cao về chất lượng và giá trị hàng xuất khẩu.. Các hàng hoá này khắc phục được nhược điểm của hàng hoá Việt nam, nâng cao giá trị xuất khẩu và bước đầu khẳng định chổ đứng trên thị trường nước ngoài của hang hoá Việt Nam. III- Sự vận dụng kinh nghiệm của Trung Quốc trong phát triển khu công nghiệp - khu chế xuất Việt Nam 1. Lựa chọn môi trường đầu tư Nhìn nhận lại sự phát triển đặc khu kinh tế của Trung Quốc, người ta đã thừa nhận rằng chính phủ Trung Quốc đã tạo nên môi trường đầu tư rất tốt để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Môi trường đầu tư ở đây thể hiện ở các cơ sở hạ tầng cứng và cơ sở hạ tầng mềm, từ việc sang xuất trong vấn đề lựa chọn vị trí của đặc khu đến việc vận dụng sáng tạo trong các thành phố ven biển nhằm tạo động lực. Đối với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay chúng ta không hy vọng một sự phát triển thần kỳ của các khu chế xuất - khu công nghiệp như các đặc khu kinh tế Trung Quốc, đặc biệt là sự phát triển thần kỳ của Thâm Quyến mà sức vóc của nó ngày nay được sánh vai như Thượng Hải và Hồng Kông thứ hai. Nhưng điều chúng ta có thể học hỏi được từ đây những hướng đi và những bài học thành công cũng như thất bại mà họ đã vất phải. Việt Nam chúng ta có vị trí địa lý vô cung thuận lợi, đất nước chúng ta nằm trong khu vực Đông Nam á, có nhiều đường giao thông quốc tế đặc biệt là hàng không và hàng hải. Từ Việt Nam đi đến các nước như Nhật Bản, Nics Châu á rất gần, các nước này nổi lên với tư cách là con rồng châu á và đặc biệt chúng ta có đường biên giới chung với Trung Quốc, một nước được biết đến như là quốc gia đông dân số nhất thế giới và là một thị trường rộng lớn về tiêu thụ hàng hoá. Quốc gia này được đánh giá là nền kinh tế năng động và có vị thế bậc nhất vào thế kỷ 21. Xuất phát từ những lợi thế trên chúng ta cần phải nghiên cứu và bố trí vị trí các khu công nghiệp khu chế xuất một cách hợp lý. Về cơ bản các cụm khu công nghiệp - khu chế xuất nên được bổ trí nằm trên vùng có đường giao thông thuân tiện. ở miền Bắc các thành phô như Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh sẽ là các vùng trọng điểm để bố trí. Hải Phòng và Quảng Ninh là hai thành phố có lợi thế về cảng, là con đường để vận chuyển hàng hoá quốc tế. Các khu công nghiệp nên được bố trí dọc theo trục ba thành phố này sẽ tạo nên các cụm vệ tinh và bổ trợ nhau phát triển. ở miền Trung ta sẽ xây dựng theo cụm Huế - Đà Nẵng - Quảng Ngãi. ở miền Nam chúng ta có cụm thành phố Hồ Chí Minh - Đồng Nai - Biên Hoà Chúng ta có dài chạy dọc theo đất nước với thuận lợi cho vận chuyển hàng hoá. Đặc biệt là các tỉnh miền Trung, về điều kiện hoàn cảnh chúng ta sẽ thấy nó có một nét gì tương đồng với các đặc khu kinh tế ở Trung Quốc giai đoạn này. Vùng này là nơi mà điều kiện sống của nhân dân còn khắc khổ, nền kinh tế miền Trung chưa thực sự tươi sắc nhưng nó là vùng có vị trí chiến lược; nằm giữa đất nước là trục giao thông quan trọng, vùng này có các cảng nước sâu rất thuận lợi cho tầu bè trọng tải lớn cập cảng, trung chuyển hàng hoá, đây là vùng có sân bay quốc tế mà chi phí vận chuyển chiến lược qua các nước được đánh giá là thấp hơn so với các sân bay khác. Vì vậy, ý tưởng xây dựng đây là vùng kinh tế năng động có thể nói gần như các đặc khu kinh tế là khả quan. Việc nhà nước ta đang tiến hành xây dựng khu kinh tế mở Chu Lai, khu công nghiệp Dung Quất là những đề án hết sức khả thi nhằm đưa kinh tế miền Trung ra khỏi nghèo nàn lạc hậu. Chúng ta cần đẩy nhanh hơn nữa quá trình thực hiện. Biến đây thực sự là Thâm Quyến của Việt Nam. Bên cạnh các yếu tố hạ tầng cứng chúng ta quan tâm đến cơ sở hạ tầng mềm. Xét về luật đầu tư khuyến khích nước ngoài thì Việt Nam được đánh giá là rất cởi mở và thông thoáng. Nhưng vẫn đề ở đây là song song với nó ta cần có một cơ chế hướng dẫn. Chúng ta bị đánh quá rất nhiều thủ tục hành chính mà người ta thường gọi là “hành là chính” vì thế bên cạnh đó chúng ta cần cải thiện môi trường đầu tư bằng cách thủ tục hành chính gọn nhẹ, điền khính là cơ chế “một cửa” mà các khu công nghiệp - khu chế xuất nên áp dụng. Các nhà đầu tư chỉ cần đăng ký ngành nghề kinh doanh cho ban quản lý khu công nghiệp - khu chế xuất các nhà đầu tư không cần phải xách va ly đi đâu cả. Đối với ban quản lý khu công nghiệp - khu chế xuất, chúng ta cần mạnh dạn trao quyền quản lý đối với họ, mà đơn giản là chúng ta nên định rõ ràng các danh mục dự án và thẩm quyền xét duyệt. Và cho phép một số hạng mục, dự án có số vốn nhỏ tạo nên tính năng động trong quản lý, tránh phụ thuộc vào cấp trên. 2. Lựa chọn chính sách ưu tiên phát triển. Nhằm phát triển kinh tế, đồng thời biến các khu công nghiệp, khu chế xuất thành những động lực để phát triển. Chúng ta cần xây dựng cho nó một chính sách đặc biệt, chính sách ở đây thể hiện sự quan tâm của chính phủ đối với khu công nghiệp, khu chế xuất và nó phải thể hiện những ưu tiên hơn so với những khu vực ngoài khu công nghiệp, khu chế xuất. Những ưu tiên đầu tiên mà các nhà đầu tư thường quan tâm đầu tiên đó là ưu đãi về thuế ở các khu công nghiệp, khu chế xuất. Hệ thống thuế ở Việt Nam có rất nhiều ưu đãi đối với các doanh nghiệp hoạt động trong khu công nghiệp và khu chế xuất. Theo quy định chung đối với đầu tư nước ngoài. Thuế thu nhập doanh nghiệp thường có thuế suất 25%, khuyến khích đầu tư là 20%, 15%, 10%. Còn riêng đối với các doanh nghiệp trong khu công nghiệp: doanh nghiệp chế xuất nộp thuế lợi tức 10% lợi nhuận thu được và được miễn thuế 4 năm; doanh nghiệp khu công nghiệp nộp thuế lợi tức 15% lợi nhuận thu được và miễn thuế lợi tức 2 năm nếu xuất khẩu dưới 50% sản phẩm. Thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài là 5%. Riêng đối với khu chế xuất, hàng hoá được đưa từ nước ngoài vào khu chế xuất hoặc doanh nghiệp chế xuất và ngược lại không phải thuộc diện phải nộp thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và chỉ chịu sự giám sát của hải quan và không thuộc đối tượng chịu thuế VAT. Nguyên liệu, vật liệu, vật tư linh kiện nhập khẩu để sản xuất của các dự án thuộc lĩnh vực đặc biệt khuyến khích đầu tư được miễn thuế nhập khẩu trong thời hạn 5 năm kể từ khi bắt đầu sản xuất. Đối với những ưu đãi nói trên, nhìn chung rất hấp dẫn các nhà đầu tư trong và ngoài nước bước chân vào khu công nghiệp, khu chế xuất. Song song với những ưu đãi trên, Nhà nước đã ban hành nhiều biện pháp nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp phát triển. Những nhà đầu tư nước ngoài có thể gửi tiền vào tài khoản bằng tiền Việt Nam và tiền nước ngoài mở tại ngân hàng Việt Nam hoặc ngân hàng liên doanh hoặc chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, các doanh nghiệp được mua ngoại tệ tại ngân hàng thương mại để đáp ứng các giao dịch vãng lai và các giao dịch được phép khai thác. Về chính sách đối với người lao động, chúng ta chỉ quy định mức trả lương tối thiểu (45 USD/ tháng ở một số thành phố lớn, 40USD/tháng ở một số thành phố vừa và 35USD/tháng ở các tỉnh còn lại) quy định bằng USD theo tỷ giá chính thức. Những qui định này nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp tối thiểu cho những người lao động, còn mức lương sẽ tuỳ theo mức độ công việc, kinh nghiệm, trình độ tay nghề của người công nhân mà có sự thoả thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động, các doanh nghiệp được phép ký kết hợp đồng lao động với người lao động thông qua một tổ chức tuyển dụng. Vấn đề nhà đầu tư cũng luôn quan tâm đó là hệ thống cơ sở hạ tầng. Chính phủ Trung Quốc đã rất thành công trong việc đầu tư cơ sở hạ tầng vào giai đoạn đầu. Với Việt Nam hệ thống cơ sở hạ tầng còn yếu và thiếu, chúng ta cần có nhiều đầu tư hơn nữa của Nhà nước vào sơ sở hạ tầng, nhất là trong giai đoạn hiện nay. Những hạ tầng trong khu công nghiệp, khu chế xuất nên được xây dựng đồng bộ và chúng ta cũng nên xây dựng tốt hạ tầng của những khu xung quanh nhằm tạo ra sự liên kết trong và ngoài khu. Về hình thức thì trong giai đoạn đầu chính phủ đầu tư là chủ yếu và ta cũng có thể kết hợp kêu gọi các nhà đầu tư nước ngoài vào liên doanh và cho phép họ có thể hưởng lợi ích từ việc xây dựng này. Điều này rất cần thiết trong giai đoạn hiện nay và sắp tới. Mục đích cuối cùng của việc thành lập khu công nghiệp và khu chế xuất là thu hút các nhà đầu tư vào đây. Chúng ta phải làm cho họ thấy được đầu tư ở đây khác với đầu tư ở những nơi khác và điều đó chỉ thực sự được thực hiện khi chúng ta mang lại lợi ích cho các nhà đầu tư bằng hệ thống các chính sách ưu tiên phát triển. Mỗi một một nước đều có chính sách ưu tiên riêng của mình, nhưng chúng ta phải biết vận dụng sáng tạo và linh hoạt với tình hình thực tế. 3. Mô hình quản lí đối với các khu công nghiệp – khu chế xuất. Hiện nay mô hình quản lí của các khu công nghiệp của nước ta có cơ cấu như sau: Để tư vấn cho thủ tướng chính phủ, ở trung ương có ban quản lí các khu công nghiệp Việt nam. Ban này có nhiệm vụ xây dựng các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách, ban hành các văn bản pháp quy hướng dẩn các ngành và các địa phương tổ chức thực hiện. Ban quản lí khu công nghiệp cấp tỉnh, thành phố là cơ quan quản lí trực tiếp các khu công nghiệp, khu chế xuất trong phạm vi hành chính của mình. Các khu công nghiệp dịch vụ chịu sự quản lí trực tiếp của các ban quản lí các khu công nghiệp cấp tỉnh. Như chúng ta đã biết một trong những thành công của các đặc khu kinh tế Trung quốc đó là mạnh dạn trao quyền tự chủ cho chính quyền đặc khu chủ động linh hoạt, kịp thời đưa ra những chủ trương, chính sách phù hợp với yêu cầu của tình hình. Chính quyền đặc khu được trao quyền rất lớn, nhiều khi còn ngang hoặc cao hơn cả quyền của chính quyền tỉnh trực thuộc, trong đó cả quyền lập pháp, hành pháp, quyền cấp giấy phép đầu tư, quyền quy hoạch và quyền sử dụng đất. Về phân cấp quyền hạn, ban quản lí khu công nghiệp Việt nam nên đóng vai trò là người lãnh đạo, định hướng những chính sách vĩ mô, quản lí trên tầm phạm vi cả nước và để tạo ra cơ chế thông thoáng, gắn với hiệu quả của quá trình hoạt động. Chúng ta cần nên trao quyền nhiều hơn cho ban quản lí khu công nghiệp cấp tỉnh, vì đây chính là địa chỉ nhà đầu tư tìm đến và chịu sự quản lí trực tiếp của cơ quan này. Bên cạnh đó, các Bộ ban ngành cần phối hợp với ban quản lí khu công nghiệp cấp tỉnh trong quản lí như tạo điều kiện thực hiện các dự án và quan trọng hơn hết là việc uỷ quyền cho ban quản lí khu công nghiệp cấp tỉnh. Việc uỷ quyền cho ban quản lí khu công nghiệp cấp tỉnh thực hiện một số chức năng quản lí nhà nước đối với các doanh nghiệp trong khu công nghiệp là nhằm giải quyết tốt tại chổ các vấn đề phát sinh trong hoạt động của các doanh nghiệp nhằm tạo điều kiện cho các nhà đầu tư vào khu công nghiệp khu chế xuất, nhất là triển khai thực hiện các dự án. Trong thời gian qua, các ban quản lí các khu công nghiệp đã có sự phối hợp chặt chẽ có hiệu quả với các bộ, ngành Trung ương và các cơ quan địa phương triển khai tốt việc uỷ quyền cấp giấy phép đầu tư, xét duyệt kế hoạch xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp trong khu công nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư trong cấp giấy phép đầu tư và triển khai dự án, giải quyết tại chổ các vấn đề của các doanh nghiệp khu công nghiệp. Về cơ bản, đồi với hoạt động của khu công nghiệp khu chế xuất, ban quản lí khu công nghiệp cấp tỉnh nên thực hiện chức năng là cơ quan quản lí nhà nước, giải quyết tại chổ các vấn đề phát sinh đối với doanh nghiệp khu công nghiệp, doanh nghiệp chế xuất. Chính ban quản lí này họ có điều kiện tiếp xúc trực tiếp với các nhà đầu tư, họ hiểu rõ vấn đề gì phát sinh, nguyện vọng của các nhà đầu tư là gì và vấn đề cần phải giải quyết. Hiện nay chúng ta cần giải quyết rất nhiều các vấn đề phát sinh đồi với khu công nghiệp như. Tỷ lệ lấp đầy khu công nghiệp chưa cao, vấn đề đặt ra là chúng ta cần phải kế hoạch tiếp thị, xúc tiến đầu tư, kêu gọi các nhà đầu tư không có gì khác bằng cách giới thiệu mình cho họ biết. Vấn đề cũng khá làm đau đầu các nhà quản lí là lao động. Chúng ta phải có trách nhiệm đào tạo lao động lành nghề đáp ứmg yêu cầu của nhà tuyển dụng. Các nhà đầu tư họ là người thu hút lao động, tạo việc làm cho người lao động. Nhưng họ cũng là người có quyến xa thải lao động, bộ luật lao động củac chúng ta chưa được chặt chẽ trong việc này, vấn đề càng trở nên càng gay gắt đối với lao động trong khu công nghiệp. Mặc dù họ được trả lương cao hơn so với lao động khu vực bên ngoài, nhưng chính họ phải chịu các điều kiện lao động căng thẳng, cường độ lao động cao và đôi khi chịu sự những đối đãi không tốt của chủ sử dụng lao động như đánh đập và xĩ vả nhân công vi phạm nghiêm trọng chế độ lao động hiện hành. Những vấn đề nảy sinh trên cần có sự phối hợp giữa các cấp các ngành liên quan với ban quản lí khu công nghiệp. Một mình ban quản lí khu công nghiệp cấp tỉnh khó có thể giải quyết đồng bộ và hiệu quả mọi vấn đề vì thế nên chăng ban quản lí nên phân thành các tiểu ban quản lí, mỗi tiểu ban sẽ phụ trách mỗi vấn đề liên quan. Ban quản lí các khu công nghiệp Việt nam và ban quản lí khu công nghiệp cấp tỉnh cần phối hợp với các doanh nghiệp trong khu công nghiệp và các bộ nghành để tổng kết tất cả các nghị định, thông tư, quy định và văn bản dưới luật liên quan đến sự hoạt động của các khu công nghiệp. Vấn đề khác chúng ta cần phải quan tâm là coi khu công nghiệp như là một thực thể kinh tế chứ không thể coi khu công nghiệp đơn giản chỉ là nơi các doanh nghiệp khu công nghiệp tập trung lại. Giải quyết tốt vấn đề này sẽ giúp cho các khu công nghiệp phát triển tốt hơn, đóng góp cho sự phát triển của địa phương và đất nước nhiều hơn bởi vì một khi được coi như là thực thể kinh tế thì những vấn đề đi kèm như an ninh trật tự, nhà ở sẽ được coi trọng hơn và sẽ có một cơ chế điều hành phối hợp một cách có hiệu quả. IV- Phương hướng và giải pháp phát triển khu công nghiệp - khu chế xuất giai đoạn 2001- 2010. 1. Phương hướng phát triển KCN - KCX giai đoạn 2001 - 2010. Qua hơn 10 năm xây dựng và triển khai thực hiện mô hình KCN - KCX đã từng bước phát triển về cả chất và lượng. Khu công nghiệp - khu chế xuất đã thực sự đóng góp vào sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế; tạo thêm ngành nghề mới, năng lực sản xuất mới, thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế và kim ngạch xuất khẩu, tăng thêm nguồn thu cho ngân sách, nâng cao trình độ công nghệ, tiếp thu kinh nghiệm quản lý hiện đại. Góp phần giải quyết việc làm cho người lao động. Tổng thu nhập và đóng góp tích cực vào sự nghiệp phát triển vùng lãnh thổ. Trong báo cáo chiến lược phát triển kinh tế xã hội năm 2001- 2010 cuả Ban chấp hành trung ương Đảng khoá VIII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng có nêu: "Quy hoạch phân bổ hợp lý công nghiệp trên cả nước. Phát triển có hiệu quả các khu công nghiệp, khu chế xuất, xây dựng một số khu công nghệ cao hình thành các cụm công nghiệp lớn và khu kinh tế mở"(4) Đảng cộng sản Việt Nam Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX NXB Chính trị quốc gia 2001 . Để thực hiện tốt chủ trương về phát triển KCN, KCX giữa Đảng và Nhà nước đã đặt ra chúng ta cần phát huy những kết quả đã đạt được và khắc phục những khó khăn. Nhìn chung phương hướng phát triển KCN- KCX trong thời gian với chủ yếu là: Một là: Tiếp tục phát triển KCN- KCX theo hướng kết hợp hài hoà phát triển công nghiẹp với phát triển vùng lãnh thổ. Để phát triển KCN- KCX có hiệu quả về kinh tế xã hội việc phát triển các mô hình này tại địa phương phải gắn bó với và phát triển các mô hình hạ tầng kỹ thuật. Hệ thống giao thông bưu chính viễn thông, nhà máy cung cấp nước sạch, nhà máy sản xuất điện, giải quyết và môi trường, khu dân cư, các công trình phúc lợi công cộng, các vấn đề xã hội khác.... tạo tiền đề phát triển vùng và hình thành cac đô thị công nghiệp mới. Những tỉnh, thành phố nào có số lượng khu công nghiệp, khu chế xuất tương đối nhiều thì chưa cần thiết thành lập nên các khu công nghiêp, khu chế xuất mới mà nhiệm vụ trước mắt là tập trung khai thác lấp đầy diện tích cac khu công nghiệp. Tỷ lệ đầy trên 70% diện tích đất công nghiệp của khu được coi là thành công còn đối với các địa phương khác dựa vào tình hình phát triển kinh tế xã hội nếu thấy nhu cầu thành lập KCN- KCX là cần thiết đối với sự phát triển kinh tế của vùng, địa phương thi cho phép thành lập các khu công nghiệp, khu chế xuất mới thành lập phải nằm trong sự quy hoạch tổng thể của Nhà nước về số lượng KCN- KCX trên một đất nước cứ phát triển tràn lan mà theo kinh nghiệm thế giới chúng ta nên xây dựng 100 khu công nghiệp là đủ. Phát triển KCN- KCX cần tính đến lợi thế so sánh của địa phương và yêu cầu phát triển của khu vực tạo nên thế mạnh theo cơ cấu hình thức nhà ở gắn với nhu cầu thị trường trong và ngoài nước. Hai là: thu hút đầu tư để lấp đầy KCN- KCX đã được thành lập. Hiện nay diện tích lấp đầy khu công nghiệp rất thầp chỉ trên 30%.Khu công nghiệp cả nước có diện tích lấp đầy 50% diện tích đất công nghiệp. Trong thời gian tới để quan tâm thu hút đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài để lấp đầy trên 50% diện tích đất công nghiệp của các khu đã thành lập. Ngoài ra các dự án cần thiết phải gần vùng nguyên liệu, quy mô sản xuất diện tích lớn, công nghệ đặc thù (sản xuất gương, chế biến thực phẩm....). Chúng ta nên khuyến khích các dự án vào hoạt động tại các khu công nghiệp đặc biệt là các dự án sản xuất của các Doanh nghiệp tư nhân và nhứng dự án có yêu cầu đặc biệt về môi trường thì chùng ta cần kiên quyết hướng các dự án đưa vào KCN- KCX. Trong bối cảnh hiện nay ở Việt Nam, nguồn cung cấp vốn đầu tư nước ngoài vô cùng quan trọng đối với việc phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất. Hơn nữa cuộc cạnh tranh gay gắt về thu hút đầu tư nước ngoài giữa các nước trong khu vực, đặc biệt là Trung Quốc đang diễn ra gay gắt. Bởi vậy, công tác vận động, xúc tiến đầu tư nước ngoài càng trở nên quan trọng cần phải được một ngành, một cấp quan tâm và thực hiện thường xuyên. Ba là: thực hiện tốt công tác quy hoạch vùng lãnh thổ, quy hoạch ngành, quy hoạch phát triển KCN- KCX. Quy hoạch Phát triển KCN-KCX phải gắn với quy hoạch vùng, quy hoạch các công trình hạ tâng kỹ thuật và xử lý những quy hoạch định hướng mà còn việc thực hiện các quy hoạch này. Công tác quản lý cần thường xuyên quan tâm đến những vấn đề như quy hoạch các khu chức năng, quy hoạch ngành nghề đầu tư vào khu, xử lý chất lỏng, hạ tầng xã hội. Quy hoạch ngành nghề theo quy hoạch chung và lợi thế của từng khu vực, tránh trùng lặp ngành nghề dẫn đến sự phân bố không hợp lý về lao động sản xuất. Các khu công nghiệp trong từng điạ phương hoặc giữa các địa phương phải phối hợp chặt để từ việc xây dựng quy hoạch phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật và cơ sở hạ tầng xã hội phối hợp trong công tác đầu tư phát triển. Bốn là: tiếp tục hoàn thiện và triển khai tốt các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động của các Doanh nghiệp và Khu công nghiêp, khu chế xuất. Đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài, hiện nay luật đầu tư nước ngoài nói chung và quy chế KCN-KCX, khu công nghiệp chính nói riêng được các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá là thông thoáng và ưu đãi nhiều hơn so với một số nước trong khu vực. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện do những nguyên nhân chủ quan và khách quan về hệ thống cơ sở này còn có những bất cập: nhất là trong bối cảnh cạnh tranh thu hút đầu tư nước ngoài đang diễn ra gay gắt. Trước hết là việc triển khai thực thi các chính sách. Nhiều chính sách được ban hành nhưng triển khai chậm hoặc có xung đột giữa các văn bản ban hành nên hiệu quả thấp. Đồng thời cần có những điều chỉnh, sửa đổi, bổ xung của các cơ quan chức năng của các tỉnh, thành cùng vùng lãnh thổ cho phù hợp với tình hình thực tế. 2. Một số giải pháp nhằm phát triển khu công nghiệp và khu chế xuất trong thời gian tới. 2.1. Giải pháp và thể chế và môi trường đầu tư. Từ thực tế phát triển khu công nghiệp trong thời gian trong 10 năm qua cho thấy thể chế là khâu quan trọng tạo khuôn khổ pháp lý để hình thành và phát triển khu công nghiệp, chính phủ đã ban hành một số chính sách khuyến khích đầu tư ra với những quy định thông thoáng hơn, quản dần sự đầu tư trong nước, tạo khuân khổ pháp lý thuận lợi cho đầu tư và phát triển đặc biệt là đầu tư vào cac khu công nghiệp. Tuy nhiên vẫn còn nhiều khó khăn thiếu vướng mắc đó là sự thiếu đồng bộ nhất quán của chính sách, sự cản trở của thủ tục hành chính phiền hà, năng lực tổ chức thực hiện thể chế hạn chế. Hệ thống chính sách hiện nay của chúng ta không đối với khu công nghiệp còn nhiều hạn chế nên chuưa khuyến khích các doanh nghiệp trong nước đầu tư vào khu công nghiệp. Chúng ta còn rất nhiều bất cập về quy chế liên quan đến giải phóng mặt bằng, đền bù, xây dựng cơ sở hạ tầng, thủ tục thành lập… Nhằm tạo điều kiện cho phát triển khu công nghiệp và khu chế suất chúng ta cần tiếp tục đổ mới các thể chế mà điều cơ bản là cần tiếp tục xây dựng và hoàn thiện những văn bản mang tính pháp quy khắc phục tình trạng thiếu rõ ràng thiếu thống nhất và không cụ thể, sớm ban hành luật khu công nghiệp. Sửa đổi bổ sung một số một số quy định của quy chế khu công nghiệp hiện hành. Bỏ chế độ quản lý có thẩm quyền của khu công nghiệp thành phố, tạo hành lang pháp lý thuận lợi bình đẳng để các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đầu tư vào khu công nghiệp. Một số vấn đề cũng rất được quan tâm đó là thủ tục hành chính, các nhà đầu tư thường hay phàn nàn về thủ tục của chúng ta quá rườm rà và rất chậm cho tiến trình đầu tư của họ. Cho nên giải pháp trước mắt là chúng ta cần cải cách triệt để thủ tục hành chính, khắc phục sự chậm chễ trong việc cấp giấy phép đầu tư, giải quyết ách tắc của chủ đầu tư trong quá trình thực hiện. Chúng ta không thể để những chính sách đúng bị các quan chức quan liêu, vụ lợi làm sai lệch sách nhiễu, làm chậm trễ, phiền hà các nhà đầu tư, cách tốt nhất là thực hiện dịch vụ trọn gói có thời hạn. Xét về môi trường đầu tư của Việt Nam trong thời gian qua cũng như giai đoạn tới, các nhà kinh tế cho rằng Việt nam đã đạt được môi trường đầu tư thông thoáng cụ thể là luạt đầu tư nước ngoài của Việt Nam với rất nhiều ưu đãi và Việt nam sẽ là địa chỉ cần đến của các nhà đầu tư trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên để cải thiện môi trường đầu tư trong thời gian tới chúng ta cần tiến hành những biện pháp đặc biệt sau: + Bảo đảm tính thống nhất giữa luật và các văn bản dưới luật liên quan đến khuyến khích và đảm bảo đầu tư vào khu công nghiệp + Tạo lập một cơ chế khuyến khích đầu tư hấp dẫn có tính cạnh tranh cao. + Khuyến khích đầu tư vào khu vực dần dần + Chủ động tiếp cận, vận động đầu tư. Bên cạnh cải thiện môi trường đầu tư chúng ta cần tăng cường khả năng tiếp thị đầu tư. Điều cần thiết làm cho các nhà đầu tư biết về mình, trước hết chúng ta cần ban hành các sách hướng dẫn đầu tư vào khu công nghiệp tại Việt Nam, trong đó nêu rõ chính sách thủ tục thực hiện đầu tư, giới thiệu những thông tin kinh tế cơ bản về các công trình hạ tầng đã xây dựng của thuế đất, của thuế hạ tầng, các ưu đãi… 2.2. Đầu tư phát triển hạ tầng Đồng thời với sự ra đời khu công nghiệp, xây dựng cơ sở hạ tầng có chất lượng nhằm phục vụ tốt cho các doanh nghiệp trong khu công nghiệp có ý nghĩa quan trọng. Việc quy hoạch khu công nghiệp gắn với quy hoạch phát triển hạ tầng là một trong những nội dung quan trọng nhất bao gồm xác định diện tích khu công nghiệp, cơ sở hạ tâng kỹ thuật, hệ thống giáo thông nội bộ, các công trình kiến trúc, hệ thống truyền tài cấp điện nước, xử lý rác thải, thông tin, huy động vốn… Về hạ tầng cơ sở Việt Mam chúng ta còn yếu và thiếu trong khi nguồn lực chúng ta còn rất hạn chế vì thế chúng ta cần đa dạng hoá nguồn vốn: Nhà nước, tín dụng, vốn của các tổ chức quốc tế, nguồn đầu tư các chủ đầu tư. Cần khuyến khích các loại hình doanh nghiệp đầu tư vào kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp. Song song với việc đầu tư cơ sở hạ tầng trong khu công nghiệp chúng ta cần quan tâm đến vấn đề triển khai các công trình tiết tấu hạ tầng ngoài hàng rào khu công nghiệp bên cạnh đó chúng ta cần quan tâm đến điện, nước, nhà ở cho công nhân. Việc đầu tư phát triển cơ sở hạ tâng nên được quy hoạch đồng bộ ngay từ đầu khi bắt đầu thành lập khu công nghiệp. 2.3. Công tác đền bù và giải phóng mặt bằng Công tác đền bù và giải phóng mặt bằng Công tác đền bù và giải phóng mặt bằng phải dựa trên cơ sở quy hoạch dài hạn về tình hình phát triển khu công nghiệp, phải có chú dẫn, có danh giới và được công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng một cách thường xuyên. Điều đó là một đảm bảo chắc chắn để giảm ghánh nặng cho công tác đền bù và giải phóng mặt bằng. Trong những năm qua, do công tác quy hoạch, chú dẫn, hướng dẫn làm chưa được tốt, do đó dẫn đến việc bồi thường và giải phóng mặt bằng luôn là vấn đề gay cấn, vừa bức xúc vừa căng thẳng, vừa tốn kém làm cho công trình kéo dài, làm chậm quá trình phát triển khu công nghiệp, gây ra khó khăn không nhỏ cho các nhà đầu tư. Để làm tốt công tác đền bù và giải phóng mặt bằng, công tác quy hoạch phải thật sự đi trước một bước, từ tuyên truyền giáo dục cho nhân dân về đường lối công nghiệp hoá hiện đại hoá chủ trương phát triển cần được… sự chỉ đạo thường xuyên của các cơ quan chính quyền địa phương trong vận động, giải thích, thuyết phục, các đối tượng di rời việc tính tiền đền bù phải thoả đáng theo nguyên tắc thi trường có sự quản lý của nhà nước thông qua quy định, quy chế bảo lãnh cho dân có điều kiện tài lập cơ sở mới. Chúng ta cần cương quyết xử lý biện pháp cố tình dây dưa cản trở trong việc giải phóng mặt bằng và trong một số trường hợp có thể xử lý cưỡng chế đối với những trường hợp cần xử lý. Nhưng điều quan trọng là cần thiết phải biết truyên truyền cho dân biết rõ ích lợi và thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật. Tránh tình trạng gây mâu thuẫn giữa người dân và chủ đầu tư. 2.4. Giải pháp về công nghệ bảo vệ môi trường Kinh nghiệm trong nước và một số nước trong khu vực cho thấy để hình thành khu công nghiệp không khó khăn nhưng khó khăn hơn làm cho các doanh nghiệp trong khu công nghiệp phát triển nâng cao sức cạnh tranh đảm bảo sự phát triển bền vững. Nhằm mục đích thục hiện quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Chúng ta cần phải thực hiện một số định lượng trong việc phát triển công nghệ và bảo vệ môi trường sau: + Khuyến khích nhập khẩu trang thiết bị máy móc hiện đại, tự động hoá, xử dụng nguyên nhiên liệu sạch, ít ảnh hưởng đến môi trường. + Miễn thuế nhập khẩu cho những máy móc thiết bị sản phẩm trung gian liên quan đến đổi mới công nghệ nhập + Kết hợp các viện, trung tâm nghiên cứu trong nước thực hiện nghiên cứu, ứng dụng công nghệ mới vào sản xuất + Xây dựng các khu công nghiệp ở ngoại vi thành phố với cơ sở hạ tầng đầy đủ để xử lý nước thải, bụi, tiếng ồn. + Thúc đẩy các khu công nghiệp đã có thực hiện đẩy đủ các quy định về bảo vệ môi trường. Có những quy định cụ thể về bảo vệ môi trường trong các dự án đầu tư, dự án sản xuất kinh doanh sự đóng góp tài chính của các doanh nghiệp và bảo vệ môi trường. 2.5. Hoàn thiện bộ máy quản lý khu công nghiệp, nâmg cao trình động chuyên môn nghiệp vụ cho các cán bộ quản lý Như chúng ta đã biết, khu công nghiệp là mô hình tương đối mới mẻ ở nước ta. Trong khi đó, đội ngũ cán bộ quản lý khu công nghiệp chính là các nhà kinh tế, kỹ thuật… được điều động từ nhiều môi trường công tác khác nhau. Trên thực tế, chưa có môI trường đào tạo cán bộ quản lý khu công nghiệp và do đó chúng ta cũng chưa kịp mở lớp đào tạo, bồi dưỡng một cách chính quy. Chính vì vậy, bước vào môI trường quản lý kinh tế mới, vấn đề trang bị kiến thức quản lý khu công nghiệp đối với cán bộ quản lý khu công nghiệp đã trở thành nhiệm vụ trung tâm các khu công nghiệp mục đích của công tác đào tạo là nhằm tạo ra đội ngũ có bản lĩnh chính trị vững vàng, có tác dụng và phong cách công nghiệp, có trình độ hiểu biết về pháp luật quốc tế và trong nước, có năng lực quản lý khoa học và công nghệ hiện đại. Kết Luận Sau hơn mười năm hình thành và phát triển, khu công nghiêp- khu chế xuất ở Việt Nam đã đạt đựơc thành công đáng khích lệ trong công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, góp phần to lớn vào sự phát triển kinh tế của nước nhà đồng thời đưa nền công nghiệp Việt Nam phát triển. Bên cạnh những mặt thành công, chúng ta còn tồn tại một số mặt yếu kém, như tỷ lệ thu hút vốn đầu tư để lấp đây khu công nghiệp hay vấn để môi trường, lao động… Tuy nhiên chúng ta không thể phủ nhận việc phát triển khu công nghiệp là con đường thích hợp, một hướng đi đúng đắn để tiến lên công ng hiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. Sự đóng góp của khu công nghiệp thời gian qua tuy không dài nhưng đã khẳng định vai trò tất yếu của nó trong sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước. Việc đề ra những vấn đề tồn tại, bất cập là vấn đề hết sức cần thiết hiện nay. Để đạt được những thành công mới chúng phải vượt qua nhiều khó khăn, đòi hỏi phải nổ lực, phối hợp của các cấp, các nghành để tháo gở những cản trở vướng mắc trên con đường phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội Đảng VI, Nhà xuất Bản Chính Trị Quốc Gia, 1994 2. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội Đảng VIII, Nhà xuất Bản Chính Trị Quốc Gia, 1998 3. Mai Ngọc Cường: Các khu chế xuất Châu á- Thái Bình Dương và Việt Nam, NXB Thống kê, Hà Nội, 1993 4. Nguyễn Minh Hằng: Các đặc khu kinh tế Trung Quốc, báo cáo khoa học, hội thoả các khu KTTD Trên thế giới và kinh nghiệm xây dựng các khu công nghiệp Việt Nam, Bộ xây dựng, Hà Nội, 10-1993 5. Bùi Đường Nghiên: kinh nghiệm xây dựng và phát triển các đặc khu kinh tế Trung Quốc, Tạp chí nghiên cứu Trung Quốc, số 1-1999 6. Những văn bản pháp luật về KCN, KCX, Khu công nghệ cao, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998. 7. Thời báo kinh tế Việt nam 2001, 20002, 2003. 8. Tạp chí công nghiệp Viêt Nam 2001, 2002. 9. Báo cáo tình hình khu công nghiệp qua các năm, Vụ quản lý khu công nghiệp - khu chế xuất ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc37080.doc
Tài liệu liên quan