Mở rộng & nâng cao hiệu quả cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tại chi nhánh Ngân hàng Công thương Hà Tây

Lời nói đầu I. Tính cấp thiết của đề tài: Những năm qua, đất nước ta đã và đang trong quá trình thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Nền kinh tế nước ta phát triển theo hướng đa thành phần, môi trường pháp lý được mở rộng tạo điều kiện cho thành phần kinh tế ngoài quốc doanh phát triển. Chính vì vậy, sau hơn 10 năm đổi mới, cùng với khu vực kinh tế quốc doanh, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã có bước phát triển nhanh chóng và ngày càng khẳng định rõ vị trí và vai trò của mình

doc78 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1241 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Mở rộng & nâng cao hiệu quả cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tại chi nhánh Ngân hàng Công thương Hà Tây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trong nền kinh tế. Tuy nhiên nhìn một cách toàn diện thì khu vực kinh tế ngoài quốc doanh chủ yếu là sản xuất nhỏ, chưa phát triển mạnh, chưa tương xứng với tiềm năng. Sự tăng trưởng cũng như khối lượng sản phẩm chưa tương xứng với khả năng mà khu vực kinh tế năng động này có thể đạt được. Bên cạnh đó, nhu cầu đầu tư, nhất là đầu tư đổi mới máy móc thiết bị, thay đổi qui trình sản xuất và công nghệ là vấn đề cấp thiết đối với nền kinh tế, đặc biệt đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Chính vì vậy để giải quyết các vấn đề này cần có sự hỗ trợ từ phía Nhà nước và Ngân hàng thương mại. Thông qua nghiệp vụ tín dụng, ngân hàng thương mại đóng một vai trò vô cùng quan trọng đối với khu vực này trong việc phát triển công nghệ, tăng cường vốn cho quá trình sản xuất kinh doanh, hiện đại hoá máy móc, nâng cao hiệu quả sản xuất, phục vụ cho quá trình CNH - HĐH. Ngân hàng Công thương Hà Tây là một trong ba ngân hàng thương mại hoạt động trên địa bàn. Hoạt động của Ngân hàng Công thương Hà Tây góp phần phát triển kinh tế địa phương, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH - HĐH. Tuy nhiên, hoạt động cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh của Ngân hàng công thương Hà Tây còn nhiều vấn đề vướng mắc. Do vậy, việc đánh giá những kết quả đạt được, tìm ra nguyên nhân, các giải pháp khắc phục là vấn đề cần thiết trong tình hình hiện nay. Bởi vậy, sau một thời gian thực tập tại Ngân hàng Công thương Hà Tây, vấn đề "Mở rộng và nâng cao hiệu quả cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Hà Tây" đã được tôi chọn làm đề tài nghiên cứu. II. Mục đích nghiên cứu: - Hệ thống hoá các vấn đề lý luận cơ bản về tín dụng ngân hàng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. - Đánh giá thực trạng hiệu quả cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh trong những năm qua tại chi nhánh Ngân hàng công thương Hà Tây. - Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tại chi nhánh NHCT Hà Tây. III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: - Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tại NHCT Hà Tây. - Phạm vi nghiên cứu: Tập trung vào những vấn đề liên quan đến hoạt động cho vay ngoài quốc doanh tại chi nhánh NHCT Hà Tây trong thời gian từ 1999 đến 2001. IV. Phương pháp nghiên cứu: Chuyên đề sử dụng phương pháp duy vật biện chứng; duy vật lịch sử; phương pháp hệ thống, thống kê; phân tích kinh tế để nghiên cứu các vấn đề đặt ra. V. Kết cấu chuyên đề: - Tên đề tài: “Mở rộng và nâng cao hiệu quả cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tại chi nhánh NHCT Hà Tây". Ngoài phần lời nói đầu và kết luận, nội dung chuyên đề được trình bày theo ba chương: Chương I: Tín dụng ngân hàng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Chương II: Thực trạng về qui mô và hiệu quả cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tại chi nhánh NHCT Hà Tây. Chương III: Giải pháp mở rộng và nâng cao hiệu quả cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tại NHCT Hà Tây. chương I tín dụng ngân hàng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh I. Đặc điểm và vai trò của kinh tế ngoài quốc doanh. 1. Đặc điểm của thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh là một trong hai khu vực kinh tế lớn của nền kinh tế. Nó góp phần không nhỏ vào sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế. Chính vì vậy để nghiên cứu vấn đề tín dụng ngân hàng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, chúng ta cần xem xét những đặc điểm của khu vực kinh tế này. Thứ nhất: Các thành phần kinh tế thuộc khu vực kinh tế ngoài quốc doanh có tính tư hữu cao. Hiệu quả sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế này gắn liền với quyền lợi, lợi ích cá nhân của người sản xuất. Chính vì đặc điểm này mà họ luôn tập trung tối đa sức lực, tài sản, trí tuệ... để có thể đạt được lợi nhuận cao nhất. Thứ hai: Các thành phần kinh tế thuộc khu vực kinh tế ngoài quốc doanh không có yếu tố sở hữu của Nhà nước, nghĩa là người chủ sở hữu có toàn quyền lựa chọn và quyết định những vấn đề liên quan đến quá trình kinh doanh của mình (theo pháp luật) và tự chịu trách nhiệm về những quyết định đó. Các thành phần kinh tế này bên cạnh nguồn vốn sẵn có, nếu họ muốn tồn tại và phát triển được trong cơ chế thị trường thì họ phải tự tìm kiếm các nguồn vốn khác để đáp ứng cho nhu cầu sản xuất của mình. Hơn nữa đại đa số các chủ thể kinh tế thuộc thành phần này khi tiến hành sản xuất kinh doanh đều nhằm mục tiêu cuối cùng là tìm kiếm lợi nhuận. Họ luôn mong muốn đạt được mục tiêu này bằng bất kỳ giá nào, bằng mọi thủ đoạn trong sản xuất kinh doanh. Xuất phát từ đặc điểm này mà thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có những phương án kinh doanh táo bạo nhưng rất mạo hiểm và chứa nhiều rủi ro. Đôi khi vì mục tiêu lợi nhuận mà các thành phần kinh tế này có thể xem thường pháp luật, mang lại những hiệu quả xấu cho xã hội. Như hiện tượng làm ăn thua lỗ, phá sản của các doanh nghiệp có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống con người, tình hình an ninh xã hội. Thứ ba: ở nước ta thành phần kinh tế ngoài quốc doanh phần lớn là các đơn vị trẻ với bộ máy sản xuất kinh doanh năng động, gọn nhẹ, ngành nghề kinh doanh phong phú. Nhà nước đã tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế này nhanh chóng tiếp cận được với nhiều tiến bộ của khoa học kỹ thuật mới. Do đó kinh tế ngoài quốc doanh đã trở thành một kênh trung gian trong quá trình chuyển giao công nghệ của thế giới với nước ta, nhất là trong điều kiện hiện nay trình độ về khoa học kỹ thuật của nước ta còn lạc hậu so với sự phát triển của thế giới. Một trong các yếu tố thúc đẩy sản xuất phát triển và cải thiện đời sống của con người chính là khoa học kỹ thuật. Thứ tư: Quy mô sản xuất của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh thường nhỏ bé nên nó rất rễ ràng thích ứng với sự biến động không ngừng của nhu cầu thị trường và cơ chế chính sách của Nhà nước. Thứ năm: Với một thị trường lao động lớn, giá nhân công rẻ mạt, là một thành phần kinh tế năng động, lợi ích của người sản xuất được chú trọng nên các thành phần kinh tế này rất dễ dàng tận dụng được kinh nghiệm làm ăn, truyền thống sản xuất của người lao động. Hơn nữa nó được thừa hưởng thành quả và phù hợp với xu thế phát triển của các đơn vị kinh tế trên thế giới thông qua hoạt động liên doanh, liên kết đầu tư với nước ngoài. Điều đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh phát triển mạnh mẽ. Đây là một số những đặc điểm cơ bản của thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Nó phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế nhiều thành phần ở nước ta. Để khu vực kinh tế này có thể phát huy được mọi tiềm năng vốn có của mình, có những đóng góp quan trọng trong sự nghiệp phát triển toàn diện của xã hội thì đòi hỏi Nhà nước phải có một chính sách và tạo một môi trường thuận lợi cho khu vực kinh tế này phát triển. 2. Vai trò của kinh tế ngoài quốc doanh. Sự ra đời của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh là một bước ngoặt quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế, nó tạo ra một môi trường kinh tế năng động hơn, làm việc có tính công nghiệp hơn. Vì thế mỗi con người đều có thể phát huy năng lực của mình và phải vươn lên để tồn tại, tự khẳng định mình trong cơ chế kinh tế mới. Đây là một động lực lớn thúc đẩy xã hội phát triển trên cơ sở pháp lý của các mối quan hệ kinh tế bình đăng tự chủ, tìm tòi các nguồn lực để mục đích mang lại quyền lợi lớn cho mình. Do vậy có thể khăng định sự tồn tại của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh là tất yếu khách quan, phù hợp với xu thế phát triển của nền kinh tế và phù hợp với nhu cầu của con người. Có thể nói kinh tế ngoài quốc doanh giữa một vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế : Một là: Kinh tế ngoài quốc doanh góp phần tập trung vốn của xã hội tạo cơ sở vật chất ban đầu cho nền kinh tế chuyển từ kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng hoá, thực hiện thành công sự nghiệp CNH-HĐH theo chủ ở trương của Đảng và Nhà nước. Nền kinh tế nước ta vốn là nền kinh tế nông nghiệp nhỏ bé, lạc hậu, cơ sở vật chất ban đầu lại yếu kém. Muốn đổi mới và phát triển toàn diện thì cần phải có vốn. Trong thời kỳ kế hoạch hoá tập trung, kinh tế ngoài quốc doanh không được chú trọng, số liệu thống kê về đầu tư của khu vực kinh tế tư nhân, hợp tác xã và gia đình nhìn chung là rất nhỏ bé. Từ khi chuyển đổi cơ cấu kinh tế, nhất là chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, quy mô đầu tư của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tăng mạnh, đóng góp một phần nguồn vốn đầu tư cho nền kinh tế. Hơn nữa thành phần kinh tế ngoài quốc doanh tuy chiếm tỷ lệ nhỏ nhưng rất năng động nên dễ dàng đón đầu và áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật mới vào trong sản xuất. Trong điều kiện cạnh tranh quyết liệt như hiện nay, việc đầu tư mở rộng sản xuất cũng như đổi mới trang thiết bị, quy trình sản xuất kinh doanh là vấn đề sống còn đối với khu vực quốc doanh nói chung và đối với khu vực ngoài quốc doanh nói riêng. Bên cạnh đó, thông qua các hoạt động tích tụ tập trung vốn, tái đầu tư vào sản xuất, kinh tế ngoài quốc doanh đã góp phần thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển và tạo điều kiện thực hiện phân công lao động xã hội ngày càng sâu sắc. Hai là: Kinh tế ngoài quốc doanh giải phóng mọi năng lực sản xuất và là đối tác cạnh tranh của các thành phần kinh tế quốc doanh. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, kinh tế ngoài quốc doanh luôn tập trung cao độ tinh thần làm việc, phát huy mọi khả năng sẵn có của mình cả về trí thức và vật lực để đem lại hiệu quả sản xuất cao nhất. Vì hiệu quả hoạt động của khu vực này gắn liền với quyền lợi của chính bản thân mình. Chính đặc điểm tư hữu cao đó mà khu vực kinh tế ngoài quốc doanh rất năng động và linh hoạt trong sản xuất, tìm kiếm bạn hàng mới, tìm hướng sản xuất kịp thời phù hợp với nhu cầu của thị trường. Đồng thời khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, kinh tế quốc doanh không còn giữ vai trò độc quyền như thời bao cấp. Nếu các doanh nghiệp kinh tế quốc doanh không năng động, mạnh dạn đổi mới thì sẽ tự đào thải trong nền kinh tế thị trường. Do đó kinh tế ngoài quốc doanh trở thành một đối thủ cạnh tranh đáng gờm đối với khu vực kinh tế quốc doanh trên chiến trường kinh tế. Ba là: Kinh tế ngoài quốc doanh góp phần quan trọng trong việc tăng GDP. Kinh tế ngoài quốc doanh có mặt hầu hết trong các lĩnh vực, ngành nghề. Trong lĩnh vực công nghiệp khối lượng sản phẩm do các công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, khu vực tư nhân, liên doanh, hợp tác xã sản xuất đạt tỷ trọng lớn trong tổng sản lượng toàn ngành công nghiệp và được tăng đều qua các năm. Sự phát triển nhanh chóng của lực lượng vận tải ngoài quốc doanh trong những năm gần đây đã góp phần thúc đẩy việc giao lưu kinh tế sang các vùng một cách thuận lợi. Trong lĩnh vực thương nghiệp và dịch vụ thì khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đóng góp 90%. Trong những năm qua kinh tế ngoài quốc doanh không chỉ đáp ứng ngày một nhiều hơn nhu cầu tiêu dùng trong nước, góp phần tạo thế cân đối quỹ hàng hoá trong các địa phương, trong cả nước mà còn là nguồn lực chính tạo ra sản phẩm xuất khẩu, tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước. Hiện nay kim ngạch xuất khẩu ở nước ta chiếm tỷ trọng khá cao trong GDP. Với chiến lược từ nay đến năm 2010 dự báo kim ngạch xuất khẩu còn tăng nhưng trước mắt để tăng xuất khẩu chủ yếu chúng ta vẫn cần thiết khai thác mọi tiềm năng về nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, tài nguyên khoáng sản và dịch vụ, mà chủ thể quan trọng nhất để thực hiện quá trình này là các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Bốn là: Kinh tế ngoài quốc doanh tăng cường thu cho Ngân sách Nhà nước. Thuế là nguồn thu chính của Ngân sách Nhà nước, nguồn thu này được dùng để đầu tư vào các ngành kinh tế mũi nhọn hoặc xây dựng cơ sở hạ tầng, hoặc giúp đỡ, hỗ trợ một số ngành yếu kém. Hàng năm tỷ trọng của các khoản thuế thu từ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh chiếm tỷ lệ khá lớn trong tổng thu Ngân sách Nhà nước. Trong điều kiện xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu của mọi người về sinh hoạt tăng lên, trình độ dân trí cũng được nâng cao, mà mục đích cuối cùng của các thành phần kinh tế này là thoả mãn nhu cầu của con người, phục vụ lợi ích cho con người, kiếm được lợi nhuận tối đa. Do vậy mà mọi hoạt động sản xuất kinh doanh đều được mở rộng và phát triển dẫn đến khả năng đóng góp của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh cho Ngân sách Nhà nước sẽ ngày một tăng. Hiện nay khu vực này đóng góp vào nguồn thu cho Ngân sách nhà nước khoảng 50%. Từ đó góp phần giảm bớt sự mất cân đối trong thu chi Ngân sách Nhà nước, tạo điều kiện cho Nhà nước có vốn để đầu tư hơn nữa vào sản xuất cũng như các công trình phúc lợi, nâng cao đời sống của các tổ chức dân cư, phát huy vai trò quản lý vĩ mô của mình trong cơ chế thị trường. Năm là: Kinh tế ngoài quốc doanh đã và đang giải quyết một vấn đề nan giải đó là các vấn đề công ăn việc làm trong lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp, góp phần từng bước thay đổi cơ cấu kinh tế thay đổi bộ mặt của nông thôn Việt Nam. Hiện nay, một vấn đề đang được Đảng, Nhà nước và mọi ngành mọi cấp quan tâm đó là vấn đề thất nghiệp. Nước ta có một thị trường lao động rộng lớn, số lượng đông đảo, trong năm có khoảng 1,5 triệu người đến tuổi lao động vẫn không có việc làm, đó là chưa kể đến những người không có việc trong các doanh nghiệp, cơ quan Nhà nước, rồi nhiều lĩnh vực khác đã làm tăng thêm lượng dư thừa trong xã hội. Nhưng với sự phát triển không ngừng của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã giải quyết một lực lượng lao động rất lớn cho xã hội cụ thể năm 1999 thu hút hơn 66.000 lao động. Thông qua việc đa dạng hoá các ngành nghề kinh doanh, kinh tế ngoài quốc doanh góp phần tổ chức lại cơ cấu lao động, nâng cao hiệu quả lao động của xã hội. Từ đó cũng góp một phần cho xã hội ổn định và văn minh hơn. Sáu là: Kinh tế ngoài quốc doanh trở thành một thị trường vốn tín dụng rộng lớn và đầy tiềm năng cho sự phát triển của ngành Ngân hàng. Kinh tế ngoài quốc doanh là một khu vực kinh tế rộng lớn, là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế. Nó trở thành một thị trường đầy tiềm năng cần được khai thác của các ngành Ngân hàng. Vì theo dự đoán của các nhà kinh tế Việt Nam và nước ngoài nếu tốc độ tăng của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh nhanh hơn khu vực kinh tế quốc doanh bình quân 1%/ năm thì xu hướng biến động về tỷ trọng của các thành phần kinh tế trong cơ cấu tổng sản phẩm nước ta trong 15 đến 20 năm tới sẽ như sau: Kinh tế quốc doanh chiếm 10%, còn kinh tế ngoài quốc doanh chiếm 90%. Tóm lại: Định hướng phát triển của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần của Đảng đã tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có điều kiện tồn tại, hoạt động và phát triển. Sau hơn 10 năm đổi mới, khu vực kinh tế này đã thể hiện rõ vị trí của mình và ngày càng có vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Nó tồn tại và phát triển tốt là dựa trên những điều kiện khá thuận lợi như: cơ chế, chính sách của Đảng và Nhà nước...Nhà nước cũng luôn cố gắng tạo ra một môi trường pháp lý bình đăng tự chủ trong kinh doanh để các doanh nghiệp có điều kiện vươn lên. Tuy nhiên, các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh cũng phải đương đầu với những khó khăn rất lớn là các thành phần kinh tế này mới được hình thành và phát triển nên cơ sở vật chất kỹ thuật còn nghèo nàn lạc hậu, quy mô còn nhỏ, hành lang pháp lý còn chưa hoàn thiện. Hơn nữa trình độ quản lý tổ chức của các thành viên trong khu vực này còn chưa cao. Do vậy, để có thể đứng vững và phát huy được vai trò của mình, kinh tế ngoài quốc doanh cần có sự hỗ trợ từ phía Nhà nước về nhiều mặt như cơ chế chính sách, thuế, công nghệ ...đặc biệt là vốn và pháp luật. Nhìn chung tình trạnh phổ biến ở khu vực kinh tế ngoài quốc doanh là thiếu vốn sản xuất kinh doanh do vốn tự có còn quá nhỏ bé, họ phải tự tìm kiếm các nguồn vốn từ bên ngoài với một chi phí lớn và không ổn định. Nguồn vốn chính mà kinh tế ngoài quốc doanh nên tiếp cận là nguồn vay từ Ngân hàng. II. Vai trò tín dụng của ngân hàng đối với kinh tế ngoài quốc doanh. 1. Các hoạt động chủ yếu của ngân hàng. 1.1. Sự ra đời của ngân hàng thương mại. Ngân hàng thương mại là một trong những ngành công nghiệp lâu đời nhất thế giới, nó được thành lập đầu tiên vào năm 1782 tại Hoa Kỳ. Do sự biến động của nền kinh tế, trong xã hội xuất hiện tầng lớp có của ăn của để, mà họ cần có một nơi gửi tiền an toàn. Đáp ứng được nhu cầu của tầng lớp dân cư này, những người thợ kim hoàn đã nghĩ ra một công việc mới vì vậy ngân hàng sơ khai ra đời. Giai đoạn đầu, người chủ chỉ nhận giữ tiền vàng và họ được hưởng một khoản tiền gọi là chi phí giữ tiền hộ. Nhưng trong quá trình nhận giữ tiền như vậy họ nhận ra rằng không chỉ có những người có tiền cần gửi mà còn có nhiều người cần vay tiền. Do vậy họ đã thay đổi cách kinh doanh của mình. Họ không chỉ nhận gửi tiền mà họ còn cho vay. Toàn bộ khoản tiền mà khách hàng gửi vào, người chủ chỉ giữ lại một phần nhất định còn lại họ đem cho vay. Từ đó họ thu được một khoản lãi từ người đến vay tiền. Mặt khác người chủ sẽ trả cho người gửi tiền một khoản tiền nhất định (đây chính là tiền lãi). Hoạt động của ngân hàng sơ khai đã thay đổi. Các nghiệp vụ, các hoạt động của Ngân hàng được phát triển dần từng bước theo đà phát triển của kinh tế. Ngân hàng đã mở rộng hoạt động của mình sang các lĩnh vực khác như thanh toán, chuyển tiền, kinh doanh chứng khoán, cho thuê tài sản... Ngân hàng thời hiện đại ra đời, nó mang tính chất kinh doanh về lĩnh vực tiền tệ và tài sản. Ngày nay hệ thống Ngân hàng thương mại được phát triển rộng khắp các nước trên thế giới, đồng thời nó cũng mở rộng các lĩnh vực hoạt động thêm như: nghiệp vụ thuê mua, nghiệp vụ chiết khấu ... các nghiệp vụ này luôn cải tiến và hoàn thiện nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng để từ đó thoả mãn những nhu cầu của chính mình. ở Việt Nam, thời kì Pháp thuộc chưa có ngân hàng riêng của mình. Pháp chỉ xây dựng một nhà băng riêng (nhà băng Đông Dương) để phục vụ cho quân Pháp. Năm 1947, Hồ Chủ Tịch mới ký sắc lệnh thành lập nha tín dụng sản xuất để phục vụ cho hoạt động mang tính chất tín dụng. Đến năm 1951, Hồ Chủ Tịch mới ký sắc lệnh số 15 thành lập ngân hàng quốc gia Việt Nam để phục vụ nhu cầu khôi phục đời sống phía bắc. Còn phía Nam thì vẫn do lính ngụy thành lập và cũng mang tên Ngân hàng quốc gia Việt Nam. Do đó Ngân hàng quốc gia Việt Nam phía Bắc phải đổi tên thành Ngân hàng nhà nước Việt Nam quản lý toàn bộ các vấn đề liên quan đến tiền tệ, ngân sách nhà nước. Đến năm 1976, chúng ta duy trì ngân hàng một cấp và đến năm 1988, nhà nước chuyển đổi nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường, hệ thống ngân hàng chuyển từ một cấp sang thành hai cấp. Toàn bộ nền kinh tế có sự chuyển biến lớn. Ngày nay, hệ thống ngân hàng thương mại nước ta không ngừng phát triển, mở rộng. Nó đã khẳng định được vai trò và vị trí quan trọng trong nền kinh tế thị trường. 1.2. Các nghiệp vụ chủ yếu của Ngân hàng thương mại. Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ. Vì vậy các nghiệp vụ kinh doanh chủ yếu của ngân hàng thương mại: * Nghiệp vụ huy động vốn: Huy động vốn là việc Ngân hàng tập trung các nguồn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong xã hội dưới các hình thức khác nhau. Các hình thức huy động vốn bao gồm: - Vốn tiền gửi: Là số tiền khách hàng gửi Ngân hàng dưới các hình thức khác nhau. + Tiền gửi của các tổ chức kinh tế: gồm các khoản tiền gửi vào Ngân hàng có thời hạn và không có thời hạn. Tiền gửi không kỳ hạn là số tiền mà người gửi có thể gửi vào và rút ra một cách linh hoạt không có cam kết trước về kỳ hạn. Nhưng cần phải phân biệt tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi tạm thời. Tiền gửi tạm thời là số tiền gửi "qua đêm hay trong một ngày". Loại tiền gửi không kỳ hạn thường được tính lãi suất rất thấp. Đặc trưng của nguồn vốn này là biến động thường xuyên và đây là nguồn vốn quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Tiền gửi có kỳ hạn là loại tiền gửi có nguyên tắc, người gửi chỉ được rút ra khi đến kỳ hạn thanh toán đã thoả thuận (trừ trường hợp đặc biệt). Đây là nguồn vốn tương đối ổn định, phù hợp với yêu cầu cho vay có kỳ hạn của Ngân hàng thương mại. +Tiền gửi dân cư: Gồm tiền gửi tiết kiệm (có kỳ hạn, không kỳ hạn). - Phát hành chứng chỉ tiền gửi: Trái phiếu Ngân hàng, kỳ phiếu, chứng từ có giá là nguồn vốn Ngân hàng nhận được bằng việc phát hành các chứng chỉ tiền gửi. Vay Ngân hàng Trung ương hoặc các Ngân hàng khác: Đây là khoản vốn Ngân hàng tìm kiếm trên thị trường liên Ngân hàng từ Ngân hàng Trung ương hoặc các tổ chức tín dụng khác. Họ có thể vay bằng tiền hoặc bằng cách thuê tài sản. Nó được sử dụng chủ yếu để hỗ trợ cho khả năng thanh toán và bổ sung vốn tín dụng ngắn hạn. Nguồn vốn huy động bằng cách phát hành chứng chỉ và đi vay các ngân hàng mang tính chất chủ động, vì ngân hàng lúc nào cần mới đi vay. - Nguồn vốn chủ sở hữu: Đối với ngân hàng thương mại quốc doanh nguồn vốn này thường do nhà nước cấp phát từ ngân sách nhà nước. Ngân hàng thương mại cổ phần thì nguồn vốn này được tạo thành từ việc phát hành cổ phiếu. Ngân hàng liên doanh thì nguồn vốn chủ sở hữu là do góp vốn liên doanh. Ngoài ra các loại ngân hàng này còn có thể bổ sung vào nguồn vốn chủ sở hữu từ lợi nhuận ngân hàng hàng năm. - Ngoài ra các Ngân hàng còn có các nguồn khác: Nguồn vốn tiếp nhận qua uỷ thác đầu tư. Nguồn này nảy sinh khi tổ chức nào đó nhờ Ngân hàng quản lý giúp, đầu tư tài chính, nguốn vốn này không có thường xuyên và không phải Ngân hàng nào cũng có. * Nghiệp vụ cho vay: Cho vay là hoạt động tín dụng cho các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, cá nhân trong nền kinh tế đáp ứng nhu cầu cho sản xuất kinh doanh. Đây là hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại, hoạt động này phản ánh đúng tính chất của ngân hàng thương mại là huy động vốn để cho vay. Bao gồm: - Cho vay ngắn hạn: Là loại cho vay truyền thống, có vị trí cơ bản trong hoạt động sử dụng và khai thác các nguồn của Ngân hàng thương mại với thời gian quy định dưới một năm. Trong nền kinh tế thị trường, ngân hàng thường mại (NHTM) có thể cho vay ngắn hạn dưới các hình thức sau: + Cho vay bổ sung vốn lưu động thiếu. + Bảo lãnh: gồm ngân hàng bảo lãnh và đồng bảo lãnh. + Cho vay chiết khấu chứng từ có giá. + Nghiệp vụ thấu chi. - Cho vay trung và dài hạn: Là loại cho vay được thực hiện đối với những chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội, mở mang ngành nghề sản xuất kinh doanh cũng như xây dựng cơ bản. Đây là việc ngân hàng thương mại hỗ trợ các khách hàng có đủ nguồn lực tài chính để thực hiện các dự án có thời gian thu hồi vốn trên 12 tháng. Cho vay trung hạn thường từ 2 đến 5 năm, còn cho vay dài hạn khoảng trên 5 năm. Đối với mỗi khách hàng, Ngân hàng có thể sử dụng những phương thức cho vay khác nhau, chẳng hạn như: + Cho vay dự án đầu tư là một dạng cho vay trung và dài hạn chủ yếu nhất của các ngân hàng thương mại. Đây là loại tín dụng trung và dài hạn mà Ngân hàng thực hiện nhằm tài trợ vốn cho khách hàng thực hiện các dự án đầu tư trong đó có hai loại cho vay đối với dự án phát triển sản xuất theo chiều sâu, đầu tư xây dựng cơ bản mới. + Đồng tài trợ dự án đầu tư. Đối với các dự án đầu tư xin vay cỡ vừa và lớn, đôi khi vượt quá khả năng tài trợ của một NHTM, mặt khác để phân tán rủi ro thì các NHTM cùng cho vay một dự án. Đồng tài trợ được áp dụng trong những trường hợp sau: Nhu cầu vay vốn để thực hiện dự án vượt giới hạn tối đa cho phép cho vay của một ngân hàng thương mại. Nhu cầu phân tán rủi ro của các NHTM. Khả năng nguồn vốn của một NHTM không đấp ứng được nhu cầu vốn của dự án. + Cho thuê tài chính do các NHTM hoặc do các công ty cho thuê tài chính trực thuộc chúng thực hiện. Cho thuê tài chính là nghiệp vụ cho vay trung và dài hạn nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp, trước hết là các doanh nghiệp vừa và nhỏ có cơ hội sử dụng máy móc thiết bị phục vụ sản xuất kinh doanh của họ trong khi họ chưa đủ tài lực mua sắm chúng ngay một lúc. Tín dụng thuê mua là hình thức tín dụng trong đó Ngân hàng (người cho thuê) chuyển giao tài sản cho người thuê sử dụng trong một thời gian nhất định, đổi lại người thuê phải trả cho Ngân hàng một khoản tiền tương đương với quyền sử dụng tài sản . + Cho vay thông thường là phương pháp cho vay mà Ngân hàng căn cứ vào từng kế hoạch, từng phương án sản xuất kinh doanh hoặc từng khâu từng loại vật tư cụ thể để phát tiền vay. Đây là phương pháp cho vay phổ biến nhất hiện nay bao gồm: cho vay theo hạn mức và cho vay từng lần, tuỳ thuộc vào mức độ tín nhiệm của khách hàng mà Ngân hàng có thể áp dụng. + Cho vay luân chuyển là phương pháp cho vay mà việc phát hành tiền vay và thu nợ căn cứ vào tình hình nhập và xuất vật tư, hàng hoá cho các đơn vị vay. Đây là phương pháp cho vay cá biệt chỉ sử dụng cho vay vốn lưu động, đối với những đơn vị thường xuyên phát sinh quan hệ tín dụng với Ngân hàng, có tốc độ lưu chuyển vốn nhanh. Việc cho vay được thực hiện trong phạm vi hạn mức tín dụng do khách hàng và tổ chức tín dụng thoả thuận. + Cho vay tiêu dùng Cho vay công dân Cho sinh viên các trường đại học và cao đẳng vay tiền. Ngoài hai nghiệp vụ huy động vốn và cho vay Ngân hàng thương mại còn thực hiện một số nghiệp vụ khác: * Nghiệp vụ trung gian thanh toán: Là những nghiệp vụ Ngân hàng thực hiện theo sự uỷ nhiệm của khách hàng và được nhận một khoản thu nhập về việc làm trung gian đó. Nghiệp vụ này bao gồm: Thanh toán hộ, chuyển tiền hộ, uỷ thác tài sản. Trên cơ sở khách hàng gửi tiền cho Ngân hàng, uỷ thác Ngân hàng thanh toán hộ và trả hộ. * Nghiệp vụ đầu tư: Là loại hoạt động trong đó Ngân hàng bỏ vốn để năm giữ các chứng khoán có giá với mục đích trợ giúp cho khả năng thanh toán, đa dạng hoá việc sử dụng vốn và tăng thêm lãi cho Ngân hàng. * Nghiệp vụ bảo lãnh: Là nghiệp vụ mà Ngân hàng cam kết trả tiền thay cho người được bảo lãnh nếu người này không thực hiện đúng và đủ nghĩa vụ đã thoả thuận với người yêu cầu bảo lãnh. * Các nghiệp vụ khác... Đây là một số nghiệp vụ kinh doanh cơ bản của hệ thống Ngân hàng thương mại hiện nay. Có thể nói nó chỉ phát triển đầy đủ trong điều kiện của một nền kinh tế thị trường phát triển. Hiệu quả hoạt động của các nghiệp vụ này quyết định hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng. 2. Vai trò tín dụng của Ngân hàng thương mại đối với sự phát triển kinh tế ngoài quốc doanh 2.1. Tín dụng Ngân hàng Tín dụng là một phạm trù kinh tế tồn tại và phát triển qua nhiều hình thái kinh tế xã hội khác nhau. Cho đến nay chưa có sự thống nhất trong việc đưa ra một khái niệm đầy đủ về tín dụng. Tuỳ theo cách tiếp cận, tuỳ theo mức độ quan tâm của từng đối tượng mà có cách hiểu khác nhau về tín dụng. Chẳng hạn theo quan niệm truyền thống người ta coi tín dụng là một ngành kinh tế trong đó một người là tổ chức kinh tế chuyển cho người khác (hoặc tổ chức khác) quyền sử dụng một lượng giá trị hoặc vật giá trị nào đó với điều kiện được hai bên thoả thuận trước. Còn đứng trên phương diện nghiệp vụ thì tín dụng được coi là một hoạt động mà trong đó một người đưa vốn (hoặc hứa đưa vốn) cho người khác sử dụng (hoặc cam kết bằng chữ ký cho người này) nhưng có sự bảo đảm, bảo chứng hay bảo lãnh có thu tiền.... Dù đứng trên phương diện nào thì chúng ta đều hiểu tín dụng là phạm trù kinh tế, phản ánh quan hệ sử dụng vốn lẫn nhau qua các tác nhân và thể nhân trong nền kinh tế hàng hoá. Quan hệ tín dụng phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, tuỳ theo từng thời kỳ phát triển kinh tế xã hội. Qua mỗi thời kỳ lại có những quan hệ tín dụng phù hợp với nó và ngày càng đa dạng hoá. Cùng với sự phát triển kinh tế hàng hoá, nhu cầu vốn của xã hội ngày càng tăng thì tín dụng Ngân hàng đã ra đời. Tín dụng Ngân hàng là quan hệ tín dụng một bên là Ngân hàng còn bên kia là các tác nhân và thể nhân trong nền kinh tế. Tín dụng Ngân hàng là các hình thức tín dụng chủ yếu trong nền kinh tế thị trường và nó luôn đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế một cách linh hoạt và kịp thời. Thông thường quá trình vận động của tín dụng Ngân hàng trải qua 3 giai đoạn: - Phân phối tín dụng: ở giai đoạn này vốn tiền tệ được chuyển từ Ngân hàng sang người đi vay. - Sử dụng vốn trong quá trình sản xuất: Sau khi đã nhận được khoản vay từ Ngân hàng, người đi vay có quyền sử dụng lượng giá trị đó để thoả mãn một mục đích nhất định. ở giai đoạn này vốn đựơc sử dụng vào trong quá trình mua bán hàng hoá, vật tư, nguyên vật liệu, máy móc thiết bị... để phục vụ cho sản xuất. Tuy nhiên người đi vay không có quyền sở hữu lượng giá trị này mà phải hoàn trả trong một thời gian nhất định. - Hoàn trả tín dụng: Là giai đoạn kết thúc của chu kỳ tín dụng. Sau khi vốn được sử dụng vào việc thực hiện một chu kỳ sản xuất và về hình thái tiền tệ thì vốn tín dụng được người đi vay hoàn trả lại cho Ngân hàng. Các Mác viết: "Tiền chẳng qua chỉ rời khỏi tay người sở hữu trong một thời gian và chỉ tạm thời chuyển từ tay người sở hữu sang nhà tư bản hoạt động cho nên tiền không phải bỏ ra để tự thanh toán, cũng không phải tự đem bán đi mà cho vay, tiền chỉ đem nhượng lại với một số điều kiện là nó sẽ quay lại điểm xuất phát sau kỳ hạn nhất định". Tín dụng Ngân hàng thể hiện những ưu thế hơn hẳn của mình so với các hình thức tín dụng khác dựa trên những đặc điểm của tín dụng Ngân hàng. Cụ thể: - Huy động vốn và cho vay đều được thực hiện dưới hình thức tiền tệ. Do đó nguồn vốn mà Ngân hàng sử dụng thông qua hoạt động tín dụng là rất lớn. - Các Ngân hàng đóng vai trò là trung gian trong quá trình huy động vốn và cho vay. - Quá trình vận động và phát triển của tín dụng Ngân hàng độc lập tương đối với sự vận động và phát triển của quá trình tái sản xuất xã hội. Nhưng vốn tín dụng ngân hàng không phải là nguồn vốn duy nhất cho sản xuất kinh doanh. Có thể nói tín dụng ngân hàng có thể đáp ứng được nhu cầu vốn tín dụng cả về khối lượng, cả về thời hạn và nó có thể mở rộng phạm vi hoạt động sang các ngành nghề khác nhau. Mặc dù vậy tín dụng ngân hàng có độ rủi ro tương đối cao. Do đó các ngân hàng dễ bị mất vốn. Hiệu quả hoạt động kém khi xảy ra rủi ro. 2.2. Vai trò tín dụng Ngân hàng đối với sự phát triển của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Với chức năng là trung gian tín dụng của nền kinh tế, các Ngân hàng thương mại thực hiện tập trung huy động vốn tạm thời nhàn dỗi trong xã hội và phân phối lại dưới hình thức cho._. vay. Từ đó giúp cho các đơn vị có đủ vốn để duy trì quá trình sản xuất được liên tục, thúc đẩy sản xuất và phát triển, thông qua đó mà Ngân hàng cũng có thể tồn tại và phát triển. Tín dụng Ngân hàng được coi là đòn bẩy kích thích tăng trưởng kinh tế, kiềm chế và đẩy lùi lạm phát. Cùng với công cuộc đổi mới của nền kinh tế, hoạt động Ngân hàng cũng không ngừng phát triển, hoàn thiện. Hơn nữa tín dụng Ngân hàng cần được xem là công cụ của Nhà nước để quản lý nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa và đặc biệt đối với sự phát triển kinh tế quốc doanh ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Xuất phát từ đặc điểm và vai trò của nền kinh tế ngoài quốc doanh cho thấy kinh tế ngoài quốc doanh là một thị trường đầy tiềm năng của Ngân hàng vì nó vốn là một khu vực kinh tế năng động, nhạy bén và có khả năng sản xuất cao, dễ thích ứng với sự biến động của thị trường. Tuy nhiên khu vực kinh tế này cũng còn nhiều tồn tại và hạn chế cần khắc phục. Điển hình như nguồn vốn tự có của đại bộ phận này còn rất nhỏ bé, ít ỏi, cơ sở vật chất còn nghèo nàn, lạc hậu, chính sách phát triển kinh tế đối với khu vực này chưa đồng bộ, bất cập. Do đó để phát triển kinh tế khu vực ngoài quốc doanh đúng với khả năng vốn có của nó đòi hỏi Nhà nước không chỉ có chính sách phát triển kinh tế phù hợp mà điều quan trọng là bổ sung vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của khu vực này. Một trong những kênh quan trọng đầu tư vốn cho khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đó là tín dụng Ngân hàng. Từ đó khẳng định vai trò đặc biệt quan trọng của tín dụng Ngân hàng trong việc thúc đẩy khu vực kinh tế ngoài quốc doanh phát triển. Cụ thể: Thứ nhất: Tín dụng Ngân hàng đáp ứng nhu cầu vốn để quá trình sản xuất được liên tục. Thành phần kinh tế ngoài quốc doanh ở nước ta phát triển qua nhiều giai đoạn thăng trầm, không có quá trình tích tụ, tập trung vốn nên cơ sở ngoài quốc doanh thường bé nhỏ và nghèo nàn. Điều đó gây khó khăn trong việc mở rộng phát triển kinh doanh, giảm sức cạnh tranh, ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất của các đơn vị. Tình trạng thiếu vốn nảy sinh ở hầu hết các doanh nghiệp ngoài quốc doanh mà không chỉ ở thời điểm thành lập doanh nghiệp mà còn diễn ra trong quá trình sản xuất. Hơn nữa, nguồn vốn của các doanh nghiệp này chủ yếu là nguồn vốn tự có, nguồn vốn do bên ngoài chiếm tỷ trọng nhỏ mà hầu như vốn của doanh nghiệp nằm dưới dạng máy móc, thiết bị, nhà xưởng.... Vì thế khi tiến hành hoạt động sản xuất hay đầu tư mở rộng thì các doanh nghiệp rất cần đến sự hỗ trợ từ bên ngoài. Nguồn vật chất bên ngoài phần lớn là từ vốn vay của các Ngân hàng Thương mại. Ngân hàng Thương mại huy động vốn với mục tiêu xuyên suốt của mình là tập trung, tích tụ vốn để đáp ứng nhu cầu cho nền kinh tế. Với nguồn vốn huy động được từ các thành phần kinh tế, thông qua hoạt động cấp tín dụng các Ngân hàng có thể đáp ứng nhu cầu về vốn cho các thành phần kinh tế với quy mô lớn và thời gian dài, đảm bảo cho quá trình sản xuất diễn ra liên tục. Thứ hai: Tín dụng Ngân hàng là đòn bẩy kinh tế giúp cho các thành phần kinh tế nói chung và kinh tế ngoài quốc doanh thực hiện tái sản xuất mở rộng ứng dụng kỹ thuật công nghệ hiện đại. Kinh tế ngoài quốc doanh với trình độ trang bị kỹ thuật còn thấp kém, công nghệ chắp vá, thiếu đồng bộ làm giảm ưu thế của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và cản trở sự phát triển của nó. Thông qua nguồn vốn tín dụng Ngân hàng đã tạo ra các cơ hội "vàng" cho các chủ doanh nghiệp có thể mở rộng sản xuất tìm kiếm những công việc đổi mới dây truyền sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo ra nhiều sản phẩm thoả mãn nhu cầu trong nước và ngoài nước. Thứ ba: Tín dụng Ngân hàng góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Ngân hàng là một tổ chức kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ nên một trong những mục đích kinh doanh của Ngân hàng là mục tiêu lợi nhuận, nên luôn đề cao nhiệm vụ đảm bảo an toàn vốn. Cho vay luôn canh cánh một nỗi lo, liệu nguồn vốn cho vay này có thu hồi được không, có được sử dụng đúng mục đích không, có đem lại lợi nhuận cho Ngân hàng hay không? Còn đối với các nhà sản xuất kinh doanh thì lại phải quan tâm xem sử dụng vốn như thế nào để có thể đem lại hiệu quả cao nhất, hoàn trả cả vốn và lãi cho Ngân hàng. Nhất là trong giai đoạn hiện nay, không có tình trạng cho vay tràn lan mà Ngân hàng tiến hành cho vay có "chọn lọc" những khách hàng làm ăn thực sự có hiệu quả. Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh vốn đã bị nhiều hạn chế trong khi vay vốn tín dụng như cần phải quan tâm hơn đối với hiệu quả từng đồng vốn. Mặt khác, Ngân hàng dựa trên những hiểu biết, kinh nghiệm nắm bắt thị trường có thể soạn thảo giúp các đơn vị được vay vốn Ngân hàng những dự án đầu tư, tư vấn cho khách hàng trong việc sử dụng vốn sao cho có hiệu quả thông qua công cụ tín dụng Ngân hàng. Từ đó hạn chế những rủi ro có thể xảy ra đối với những doanh nghiệp cũng như bản thân Ngân hàng. Thứ tư: Tín dụng Ngân hàng góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiên đại hoá. Hiện nay, phần lớn nguồn vốn tín dụng của kinh tế ngoài quốc doanh bắt tay vào ngành thương mại, dịch vụ chiếm tới trên 70%. Do vậy bằng các chính sách tín dụng, định hướng chung của Nhà nước, góp phần tạo cho nền kinh tế một cơ cấu ngành hợp lý và cân đối. Bằng công cụ tìn dụng Ngân hàng, Ngân hàng có thể đầu tư ưu đãi những ngành nghề cần thiết để phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước trong từng giai đoạn cụ thể. Thứ năm: Tín dụng Ngân hàng là công cụ tài trợ cho các dự án tạo việc làm, tăng thu nhập, thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo của chính phủ. Từ một trong những vai trò quan trọng của kinh tế ngoài quốc doanh là giải quyết một số vấn đề nan giải của xã hội là tạo công ăn việc làm cho người lao động. Ngân hàng bằng công cụ tín dụng đã tiếp vốn cho các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh mở rộng sản xuất, thu hút người lao động của xã hội, tạo điều kiện cho các tầng lớp dân cư làm giàu chân chính, tăng thu nhập của người lao động, dần từng bước xoá đói giảm nghèo. Thứ sáu: Tín dụng Ngân hàng góp phần mở rộng giao lưu kinh tế, tăng cường mối quan hệ đối ngoại, hợp tác kinh tế giữa kinh tế quốc doanh với kinh tế ngoài quốc doanh. Tín dụng Ngân hàng đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung vốn cho các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, tạo cơ sở vật chất cho các thành phần này đủ điều kiện liên doanh hợp tác kinh tế với các tổ chức kinh tế nước ngoài, khai thác những lợi thế mang lại từ sự hợp tác này như kinh nghiệm sản xuất, quản lý, công nghệ khoa học kỹ thuật. Từ đó đưa nền kinh tế nước ta hoà nhập cùng nền kinh tế thế giới. Như vậy kinh tế ngoài quốc doanh phát triển mạnh để mở rộng hoạt động kinh doanh Ngân hàng đồng thời tạo điều kiện thuận lợi về vốn cho khu vực này phát triển thì việc mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại đối với khu vực này là cần thiết. III. Các hình thức của tín dụng ngân hàng. Tuỳ vào mỗi giác độ, mức độ nghiên cứu của vấn đề mà người ta có thể đưa ra các hình thức của tín dụng ngân hàng. 1. Dựa vào kỳ hạn của các khoản tín dụng thì có 2 loại hình tín dụng: - Tín dụng ngắn hạn: Tín dụng ngắn hạn có thời hạn sử dụng vốn dưới 12 tháng. Loại hình này thường đầu tư chủ yếu là tài sản lưu động. Các khoản cho vay thuộc loại hình này thường có mức độ rủi ro thấp, do đó lãi xuất cho vay cũng phải ấn định thấp hơn so với lãi xuất cho vay trung và dài hạn. Các khoản cho vay ngắn hạn dễ có khả năng chuyển đổi thành tiền mặt hơn do đó dễ dàng bán nợ để thu hồi vốn hơn. - Tín dụng trung và dài hạn: Hình thức tín dụng này thường có thời hạn sử dụng vốn trên một năm và chủ yếu đầu tư vào tài sản cố định. Các khoản cho vay thuộc loại hình tín dụng này có mức độ rủi ro cao, do vậy mà mức lãi xuất cho vay thường cao hơn cho vay ngắn hạn. Do hình thức tín dụng này có thời gian sử dụng dài, chi phí chuyển đổi lớn vì vậy mà các khoản vay thuộc loại này thường không có tính lỏng nhiều. 2. Dựa vào tính chất bảo đảm của khoản vay: - Tín dụng có bảo đảm: Đây là loại hình tín dụng khi cấp ra được bảo đảm bằng tài sản thế chấp thuộc sở hữu của người đi vay (thường chiếm khoảng 70% giá trị tài sản vay) hoặc được bảo đảm bằng tài sản cầm cố (thường là tài sản tài chính). Ngoài ra các khoản vay thuộc hình thức tín dụng này còn có thể được bảo đảm bằng sự bảo lãnh của người thứ ba. - Tín dụng không có bảo đảm: là hình thức mà khi khoản tín dụng cấp ra không được bảo đảm bằng các tài sản thế chấp mà chỉ dựa vào sự tin tưởng nhau (tín chấp). Dựa vào hình thái tồn tại của vốn tín dụng. - Tín dụng bằng tiền: là hình thức tồn tại dưới hình thái tiền tệ. Sự chuyển hoá của nó tương đối ling hoạt và nó có thể mở rộng phạm vi hoạt động với kỳ hạn dài hay kỳ hạn ngắn. nhưng độ rủi ro của hình thức tín dụng này rất cao. - Tìn dụng bằng hiện vật: tồn tại dưới dạng hàng hoá, tư liệu sản xuất nguyên vật liệu và tư liệu sản xuất nói chung. Nó được thực hiện trong hình thức tín dụng thương mại như mua bán chịu, thuê tài sản. Tính linh hoạt không cao, việc mở rộng ra các ngành khác là rất khó, nhưng độ an toàn khá cao vì dễ quản lý và dễ theo dõi, khả năng hoàn trả lãi lẫn vốn vay tương đối cao. 4. Các hình thức tín dụng khác: Ngoài ra còn có nhiều cách hiểu và tiếp cận các hình thức tín dụng khác như: Tín dụng sản xuất Tín dụng tiêu dùng Tín dụng vãng lai Tín dụng chấp nhận... IV. Hiệu quả của tín dụng ngân hàng. 1. Quan niệm về hiệu quả tín dụng. Bất kỳ một hoạt động nào cũng đòi hỏi chi phí và thường đạt được một số hiệu quả nhất định. Mối quan hệ giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra được gọi là hiệu quả. Như vậy hiệu quả có nội dung rất rộng và được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau. Hiệu quả hoạt động cho vay có thể được hiểu là sự đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng (người cho vay tiền) phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng. Hiệu quả cho vay có thể được xem xét dựa trên các khía cạnh sau: - Tác dụng với kinh tế xã hội thông qua hoạt động cho vay Ngân hàng đáp ứng nhu cầu bổ sung vốn sản xuất cho các doanh nghiệp, các hộ gia đình thúc đẩy sản xất phát triển, giải quyết việc làm cho người lao động. Trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp phải kinh doanh độc lập tự chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của mình phải tự trang trải công nợ nên khi vay vốn các doanh nghiệp đều phải tính toán khi nào cần vay vốn, vay bao nhiêu, sử dụng vốn vay đó như thế nào để đem lại hiệu quả cao nhất vừa đảm bảo hoạt động kinh doanh của mình, vừa trả được nợ cho Ngân hàng đúng hạn cả gốc và lãi. Còn đối với Ngân hàng cũng như doanh nghiệp phải đảm bảo kinh doanh có lãi, Ngân hàng đã huy động được đầu vào thì phải tìm kiếm các yếu tố đầu ra. Như vậy, hiệu quả công tác cho vay được đánh giá bằng chính sự phát triển toàn diện kinh tế xã hội. - Hiệu quả cho vay của Ngân hàng được xác định thể hiện qua việc phát triển mối quan hệ lâu dài đối với khách hàng, đặc biệt là khách hàng truyền thống, những ban hàng lớn thu hút được đầy đủ khách hàng đến giao dịch và mở rộng thị phần cũng như uy tín của Ngân hàng trên thị trường tài chính trong nước cũng như quốc tế. Nó không chỉ thực hiện qua số lượng mối quan hệ với khách hàng mà còn biểu hiện qua chất lượng mối quan hệ có lành mạnh có bền vững hay không? Vì khách hàng chính là người quyết định đến sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng. Tóm lại hiệu quả tín dụng ngân hàng chính là việc ngân hàng có thể tránh được rủi ro nhiều nhất, sự an toàn trong kinh doanh là lớn nhất, khả năng thanh toán và sinh lời là cao nhất. Các chỉ tiêu biểu hiện hiệu quả tín dụng ngân hàng. Một khía cạnh đặc biệt cần quan tâm khi đánh giá hiệu quả công tác cho vay đó là sự tăng trưởng tín dụng, biểu hiện qua các chỉ tiêu cụ thể sau: - Qua chỉ tiêu doanh số chung thể hiện Ngân hàng đã rất năng động tìm kiếm đầu ra, đã đảm bảo quá trình luân chuyển vốn của Ngân hàng một cách nhịp nhàng, tránh ứ đọng vốn. Một Ngân hàng chỉ coi làm ăn có hiệu quả khi nguồn vốn huy động được mà có thể cho vay và ngược lại. - Chỉ tiêu dư nợ thể hiện khoản nợ của các doanh nghiệp chưa đến kỳ hạn trả và các khoản nợ đến hạn trả mà chưa trả được, Ngân hàng phải duy trì ở một tỷ lệ hợp lý. Cụ thể: + Mức độ rủi ro: Đi liền với hiệu quả là yếu tố rủi ro, rủi ro tiềm ẩn trong mọi hoạt động tín dụng. Để nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay Ngân hàng phải dự tính mức độ rủi ro có thể sảy ra đối với từng khoản cho vay đó, có những biện pháp xử lý kịp thời (nâng cao chất lượng công tác thẩm định, chất lượng cán bộ, thiết lập các quỹ dự phòng rủi ro, bảo hiểm tín dụng). + Hiệu quả còn biểu hiện qua mối quan hệ thu nhập và chi phí, Ngân hàng tham gia hoạt động thì phải tạo ra thu nhập để bù trừ những chi phí bỏ ra, đảm bảo cho Ngân hàng kinh doanh có lãi, duy trì sự tồn tại và phát triển của chính Ngân hàng. Hoạt động cho vay là một trong những nghiệp vụ sinh lời chính của Ngân hàng, nếu hoạt động có hiệu quả thì sẽ đảm bảo lợi nhuận cho Ngân hàng. - Ngoài ra còn có một số các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tín dụng ngân hàng khác như: + Lãi suất hiệu quả (NEC): Mỗi một ngân hàng đều có một khung lãi suất danh nghĩa cá biệt. Khi lãi suất danh nghĩa cá biệt thấp tạo điều kiện để ngân hàng gia tăng thu nhập. Tuy nhiên khả năng cạnh tranh của ngân hàng có thể bị suy giảm vì qui mô tiền gửi có thể giảm xuống, và ảnh hưởng đến qui mô cho vay. Chính vì vậy mà các ngân hàng cần phải tính lãi suất hiệu quả hay là lãi suất cạnh tranh. Chỉ tiêu lãi suất này được tính dựa trên tỷ lệ giữa tổng số tiền lãi và tổng số vốn huy động. Chỉ tiêu này cho ta biết được cơ cấu tiền lãi so với nguồn vốn huy động để từ đó ngân hàng có thể điều chỉnh chỉ tiêu này cho phù hợp và có hiệu quả nhất. NEC Số tiền lãi Vốn huy động = x 100% + Hiệu suất sinh lời: * Hiệu suất sinh lời tài sản (ROA): bản chất của chỉ tiêu này là một đồng tài sản có thể tạo ra được bao nhiêu lợi nhuận sau thuế. Nếu chỉ tiêu này đạt mức cao thì chứng tỏ việc kinh doanh của ngân hàng đạt hiệu quả tốt. Chỉ tiêu này được xác định bằng tỷ lệ giữa lợi nhuận sau thuế và tổng tài sản. ROA LNST ồTài sản = x 100% * Hiệu suất sinh lời nguồn vốn (ROE): chỉ tiêu này đo lừng khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu, tức là một đồng vốn chủ sở hữu thì tạo được ra bao nhiêu lợi nhuận sau thuế. Xác định bằng lợi nhuận sau thuế chia cho vốn chủ sở hữu. ROE LNST Vốn chủ sở hữu = x 100% Các nhân tố chủ yếu tác động đến hiệu quả tín dụng ngân hàng. Hiệu quả hoạt động cho vay là một phạm trù rộng nên nó chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố. Để có thể mở rộng và nâng cao hiệu quả của hoạt động này thì cần phải xem xét từng nhân tố một. Cụ thể: * Chính sách tín dụng: Chính sách tín dụng là kim chỉ nam đảm bảo cho hoạt động tín dụng đi đúng quỹ đạo. Do đó việc hoạch định chính sách tín dụng có ý nghĩa quyết định đến sự thành công hay thất bại đối với mỗi Ngân hàng. Một chính sách tín dụng đúng đắn thu hút được nhiều khách hàng, đảm bảo khả năng sinh lời của hoạt động tín dụng trên cơ sở phân tán rủi ro, tuân thủ đường lối của Ngân hàng Nhà nước đảm bảo công bằng xã hội, bất kỳ một Ngân hàng nào muốn nâng cao hiệu quả của mình thì phải có chính sách tín dụng kịp thời, hợp lý với điều kiện cụ thể của Ngân hàng. * Quy trình cho vay: Quy trình cho vay bắt đầu từ khi tiếp nhận hồ sơ xin vay của khách hàng đến khi thu hồi nợ vay. Việc thực hiện quy trình này như thế nào sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của khoản vay đó. Quy trình cho vay gồm rất nhiều khâu, nếu không được chấp hành một cách đúng đắnn, chính xác nhịp nhàng thỉ rất dễ xảy ra rủi ro gây thất thoát vốn của Ngân hàng, mặt khác quy trình này phải đảm bảo tính thuận tiện, gọn nhẹ, không gây khó khăn, mất thời gian cho khách hàng thì mới thu hút được đông đảo khách hàng đến vay vốn. Trong quy trình cho vaymột khâu đặc biệt quan trọng quyết định chính đến hiệu quả công tác cho vay đó chính là khâu thẩm định. Công việc này cần tiến hành một cách chặt chẽ, xác thực và toàn diện. Cán bộ tín dụng khi tiến hành thẩm định không chỉ thu thập thông tin phân tích mà phải đi vào thực tế kiểm tra. Kết quả của công tác thẩm định để đưa ra quyết định có nên cho vay hay không. Nếu kết quả thẩm định càng chính xác bao nhiêu thì hiệu quả cho vay càng cao bấy nhiêu. Đi đôi với việc mở rộng cho vay Ngân hàng cần phải nâng cao chất lượng thẩm định. Hiệu quả hoạt động cho vay còn phụ thuộc vào công tác kiểm tra. Cán bộ tín dụng không chỉ thực hiện việc kiểm tra trước khi cho vay mà diễn ra trong suốt quá trình cho vay và thu nợ. Vì chỉ có kiểm tra trước, trong và sau khi phát tiền vay thì Ngân hàng mới có thể nắnm chắnc được mình cho vay có đúng đối tuợng không, khách hàng sử dụng vốn vay có đúng mục đích không và hiệu quả vốn vay nh thế nào. Thông qua kiểm tra Ngân hàng có thể đảm bảo khản vay nh mong muốn và đồng thời có những biện pháp kịp thời khi phát hiện những sai trái bất hợp pháp, Đó là biện pháp ngăn ngừa, hạn chế rủi ro có thể xảy ra góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay của Ngân hàng. Việc xác định thu nợ gốc và lãi của Ngân hàng cho từng đối tượng khách hàng là rất quan trọng, vì hiệu quả được đánh giá trên kết quả thu được. Đối với các doanh nghiệp đặc biệt là doanh nghiệp ngoài quốc doanh chu kỳ sản xuất kinh doanh thường hay biến động, có thể vì một lý do nào đó mà khách hàng cha muốn trả nợ, cha tìm được nguồn trả nợ. Do vậy nếu Ngân hàng không thu nợ kịp thời hay xác định kỳ hạn trả nợ không hợp lý có thể dẫn đến nợ quá hạn gia tăng, mất khả năng thu được nợ sẽ làm ảnh hưởng đến hiệu quả khoản vay của Ngân hàng. Nếu khi xuất hiện khoản nợ có vấn đề thì Ngân hàng phải nhanh chóng đa ra những biện pháp sử lý kịp thời. Tuỳ theo những điều kiện cụ thể mà Ngân hàng áp dụng các biện pháp sử lý có vấn đề như tổ chức khai thác (tư vấn khách hàng), thanh lý tài sản (phát mại tài sản thế chấp và cầm cố, yêu cầu tuyên bố phá sản). * Chất lượng nhân sự: Con người là yếu tố quyết định đến sự thành bại trong quản lý vốn tín dụng cũng như trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Chất lượng nhân sự là "cơ sở vật chất" để thực hiện thành công những kế hoạch kinh doanh trong cơ chế thị trường thường xuyên thay đổi và chịu nhiều tác động như hiện nay. Do vậy trong quá trình tuyển chọn cán bộ Ngân hàng cần phải uư đãi với những người có tư cách đạo đức tốt, giỏi chuyên môn nghiệp vụ, năng động sáng tạo, trong quá trình hoạt động thường xuyên tiến hành đào tạo và đào tạo lại để nâng cao chất lượng cán bộ, chất lượng cán bộ sẽ đảm bảo quá trình thực thi nghiệp vụ sẽ nhanh chóng, chính xác, linh hoạt trong xử lý những sai sót có thể xảy ra, đảm bảo hiệu quả hoạt động kinh doanh trong đó có hoạt động cho vay của Ngân hàng. * Môi trường kinh tế: Môi trường kinh tế có thể chi phối trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của tất cả các thành phần kinh tế. Ngay cả bản thân Ngân hàng trong quá trình kinh doanh tiền tệ của mình mà không dự đoán trước được sự biến động của thị trường tiền tệ, tỷ giá hối đoái, giá trị đồng tiền... cũng dễ dẫn đến kinh doanh thua lỗ và sụp đổ. Môi trường kinh tế sẽ ảnh hưởng đến giá trị đồng tiền sự sút giảm của tiền tệ chính là hao mòn của đồng tiền. Nguyên tắc cho vay của Ngân hàng là một lượng tiền cho vay thì sau một thời gian nhất định sẽ quay trở về Ngân hàng với một lượng giá trị lớn hơn. Vì vậy Ngân hàng sẽ khó tránh khỏi rủi ro nếu nền kinh tế không ổn định, lạm phát cao, chu kỳ kinh tế có tác động không nhỏ đến hoạt động cho vay của Ngân hàng. Trong thời kỳ trì trệ sản xuất kinh doanh bị thu hẹp thì nhu cầu vốn tín dụng giảm và nếu vốn tín dụng đã được thực hiện cũng khó có thể sử dụng có hiệu quả hoặc khó có thể trả nợ đúng hạn cho Ngân hàng. Ngược lại, thời kỳ hưng thịnh, nhu cầu vốn tín dụng tăng, rủi ro ít nhưng không loại trừ trường hợp do chạy đưa sản xuất, nạn đầu cơ tích trữ làm nhu cầu tín dụng lên quá cao khó có thể hoàn trả cho Ngân hàng. Như vậy chu kỳ kinh doanh cũng ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả các khoản vốn tín dụng của Ngân hàng. Việc quy định lãi suất phù hợp với điều kiện cụ thể của từng Ngân hàng cũng như tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là cần thiết, nó quyết định khả năng cạnh tranh của Ngân hàng trên thị trường. Cụ thể nếu quy định mức lãi xuất phù hợp giữa lãi suất Ngân hàng với tỷ suất lợi nhuận của các doanh nghiệp thì sẽ thúc đẩy sản xuất phát triển và đảm bảo khả năng trả nợ cho Ngân hàng, Ngân hàng giảm được chi phí vốn mà vẫn đảm bảo hoạt động có hiệu quả. Khi Ngân hàng giảm lãi suất cho vay thì Ngân hàng sẽ thu hút được đông đảo khách hàng đến giao dịch. Có thể nói lãi suất ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả tín dụng nói chung và cho vay ngắn hạn nói riêng của Ngân hàng. Sự thay đổi chính sách phát triển kinh tế của chính phủ: Chính sách về xuất nhập khẩu hàng hoá cha ổn định, nhu cầu của xã hội thay đổi doanh nghiệp nào kém năng động không kịp điều chỉnh dễ làm ăn thua lỗ, gây thất thoát vốn của Ngân hàng, làm cho hiệu quả tín dụng của Ngân hàng bị giảm sút. * Môi trường pháp lý: Môi trường pháp lý bao gồm tính đồng bộ của hệ thống pháp luật, tính đầy đủ thống nhất của các văn bản dưới luật, đồng thời gắnn liền với quá trình chấp hành và trình độ dân trí. Môi trường pháp lý có chức năng tạo ra môi trường cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tiến hành thuận tiện và đạt kết quả cao, là cơ sở pháp lý để giải quyết các vấn đề khiếu nại khi có tranh chấp sảy ra. Các doanh nghiệp cũng như Ngân hàng phải tuân thủ những quy định nghiêm chỉnh của pháp luật thì hiệu quả và lợi ích sẽ được đảm bảo. Môi trường pháp luật này luôn được điều chỉnh, bổ xung hoàn thiện để nó ngày càng phù hợp với sự phát triển chung của nền kinh tế trong đó có hệ thống Ngân hàng. * Các nhân tố khác: Ngoài những nhân tố kể trên, hiệu quả công tác cho vay của Ngân hàng còn chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố chủ quan, khách quan khac như: thái độ phục vụ khách hàng, đạo đức xã hội trang thiết bị phục vụ hoạt động hay những yếu tố môi trường như thời tiết, bệnh dịch,... và các biện pháp trong việc bảo vệ và bảo vệ môi trường sinh thái. Chương II thực trạng về qui mô và hiệu quả cho vay đối với khu vực kinh tế ngoàI quốc doanh tạI chi nhánh nhct hà tây. I - Khái quát về tình hình hoạt động của chi nhánh NHCT Hà Tây 1. Lịch sử hình thành và phát triển của chi nhánh NHCT Hà Tây. Ngân hàng Công thương Hà Tây là một chi nhánh của Ngân hàng Công thương Việt Nam có trụ sở tại thị xã Hà Đông Tỉnh Hà Tây. Được thành lập tháng 7/1988 và chính thức đi vào hoạt động tháng 8/1988 với nhiệm vụ huy động vốn trong xã hội và thực hiện những dịch vụ Ngân hàng nhằm mục đích thu lợi nhuận, ổn định và phát triển kinh tế trên địa bàn Tỉnh Hà Tây. Cơ chế thị trường từng ngày từng giờ đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải tự thích nghi, tạo cho mình một chỗ đứng vững chắc trên thị trường. Nhận rõ điều đó, Ban giám đốc và tập thể cán bộ công nhân viên Ngân hàng Công thương Hà Tây đã không ngừng học hỏi kinh nghiệm của các Ngân hàng bạn, tổng kết và rút ra kinh nghiệm khắc phục những mặt chưa đạt được, tận dụng các lợi thế về vốn, khoa học kỹ thuật của toàn hệ thống từ đó phát triển hoạt động kinh doanh của mình. Với lợi thế nằm ngay tại trung tâm thị xã Hà Đông, là tỉnh tiếp giáp với Hà Nội, song kinh tế Hà Tây chủ yếu là phát triển nông nghiệp, công nghiệp địa phương chậm phát triển. Trong điều kiện đó NHCT Hà Tây gặp phải sự cạnh tranh khá gay gắt của các ngân hàng khác trên cùng địa bàn. Tuy nhiên dưới sự lãnh đạo đúng đắn của ban giám đốc và sự nỗ lực của các phòng ban, kết quả là đến nay chi nhánh NHCT Hà Tây đã có hơn 860 khách hàng có quan hệ tín dụng, trong đó có hơn 26 khách hàng là doanh nghiệp nhà nước (Tổng công ty Sông Đà là khách hàng lớn và thường xuyên của NHCT Hà Tây). Khác với các Ngân hàng khác, Ngân hàng Công thương Hà Tây không có các chi nhánh ở các huyện lỵ. Do vậy để tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng và nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng vốn, Ngân hàng mở rộng các phòng giao dịch và quỹ tiết kiệm ở thị xã Hà đông và một phòng giao dịch tại thị trấn Xuân Mai. Hội sở chính của Ngân hàng tại số 269 Phố Quang Trung thị xã Hà Đông Tỉnh Hà Tây. Hiện nay, mạng lưới các chi nhánh có 1 chi nhánh trực thuộc (đó là chi nhánh Sông Nhuệ vừa được thành lập tháng 11 năm 2001), 4 phòng giao dịch, 16 quỹ tiết kiệm và 7 phòng tại hội sở gồm 237 lao động theo hợp đồng không xác định thời hạn và một số lao động theo hợp đồng vụ việc. Có thể nói NHCT Hà Tây nhiều năm liên tục kinh doanh có lãi, được xếp loại kinh doanh khá của NHCT Việt Nam. Năm 2001 chi nhánh NHCT Hà Tây đạt lợi nhuận 4.116 triệu đồng bằng 250% so với năm 2000. Đời sống cán bộ công nhân viên không ngừng được cải thiện. Uy tín Ngân hàng ngày càng được nâng cao. Cơ cấu tổ chức của Ngân hàng. *Ban giám đốc bao gồm: Một Giám đốc và ba phó giám đốc. *Phòng tổ chức hành chính. Phòng tổ chức hành chính gồm 35 cán bộ công nhân viên, trong đó có một trưởng phòng và một phó phòng. *Phòng kinh doanh. Hiện nay phòng kinh doanh có 23 cán bộ công nhân viên chức, có 1 trưởng phòng và 4 phó phòng. * Phòng kế toán. Một trưởng phòng và ba phó phòng. Hai phó phòng phụ trách kế toán ngân hàng (kế toán chi tiêu, bù trừ). Một phó phòng phụ trách kế toán tiết kiệm. * Phòng thanh toán quốc tế. * Phòng tiền tệ kho quỹ. Một trưởng phòng và hai phó phòng. Một phó phòng phụ trách việc thu tiền và một phó phòng phụ trách việc chi tiền. * Phòng kiểm soát. * Tổ máy vi tính: Tổ máy vi tính từ đầu năm 2001 đã được sát nhập vào phòng kế toán. * Các phòng giao dịch. Ngân hàng hiện có 4 phòng giao dịch và một chi nhánh Sông Nhuệ trực thuộc. Trong hoạt động hàng ngày, giữa các phòng có mối quan hệ mật thiết với nhau để đạt cho được mục đích của toàn Ngân hàng Công thương Hà Tây là: Phát triển - An toàn - Hiệu quả. * Phòng nguồn vốn: Còn gọi là phòng quản lý tiền gửi dân cư, hiện có 4 người gồm 1 trưởng phòng, 1 phó phòng. Giữa các phòng ban và các bộ phận luôn có sự phối hợp chặt chẽ, cùng hoạt động thống nhất dưới sự lãnh đạo sát sao của ban giám đốc chi nhánh, theo định hướng chung của Ngân hàng Công thương Việt Nam để đạt tới hiệu quả cao nhất. Ngân hàng Công thương Hà Tây liên tục trong nhiều năm gần đây đã đạt mức lợi nhuận vượt kế hoạch, năm sau cao hơn năm trước, cùng với các Ngân hàng khác trong địa bàn phục vụ đầy đủ kịp thời và có hiệu quả nhu cầu vốn, tạo môi trường cho các thành phần kinh tế phát triển sản xuất kinh doanh, góp phần đưa nền kinh tế phát triển theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá, củng cố vai trò chủ đạo của nền kinh tế quốc dân. 2. Tình hình hoạt động của chi nhánh NHCT Hà Tây trong thời gian qua. 2.1. Khái quát chung. NHCT Hà Tây từ một chi nhánh Ngân hàng Nhà nước được chuyển sang một chi nhánh Ngân hàng Thương mại, NHCT Hà Tây đã phấn đấu thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ được giao, kết quả kinh doanh ngày càng được nâng cao. NHCT Hà Tây đã chú trọng đổi mới trong mọi lĩnh vực hoạt động nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu ngày càng tăng của xã hội, vừa phát huy nghiệp vụ truyền thống của Ngân hàng. Đồng thời mở rộng hoạt động kinh doanh như kinh doanh ngoại tệ, chiết khấu chứng từ, bảo lãnh mua bán hàng, chuyển tiền nhanh trong cả nước, thanh toán quốc tế, chi lương cho công nhân sản xuất trong các nhà máy liên doanh, tổ chức thu tiền mặt tại các đơn vị có lượng tiền mặt thu lớn...Sau 12 năm đi vào hoạt động, đến nay NHCT Hà Tây đã khẳng định được vị trí của mình trên thương trường, đứng vững và phát triển trong cơ chế thị trường. Tuy nhiên trong những năm gần đây, sự phát triển kinh tế của nước ta có nhiều biến động, sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn. Các doanh nghiệp, có cả một số doanh nghiệp nhà nước rơi vào tình trạng làm ăn thua lỗ. Tình trạng phổ biến là các doanh nghiệp sử dụng các thiết bị máy móc lạc hậu, năng suất chất lượng kém không đủ sức cạnh tranh với hàng ngoại nhập và các sản phẩm của công ty liên doanh; trình độ cán bộ quản lý còn non yếu. Trong điều kiện hoạt động kinh doanh hiện nay Ngân hàng gặp nhiều khó khăn và phức tạp, cán bộ lãnh đạo của Ngân hàng Công thương Hà Tây đã có sự chỉ đạo kịp thời để định hướng kinh doanh, tập trung vào nhiều khách hàng truyền thống của Ngân hàng, hạn chế bớt những khách hàng có tình hình tài chính không lành mạnh và đã hỗ trợ cho nhiều khách hàng vượt qua tình hình khó khăn, đồng thời tích cực chỉ đạo giải quyết những tồn tại từ năm trước. Chính vì vậy mà Ngân hàng Công thương Hà Tây vẫn kinh doanh có lãi, tuy nhiên vẫn không bằng lòng với kết quả đạt được, chi nhánh vẫn tiếp tục phát huy và nâng cao hơn nữa chất lượng kinh doanh góp phần phát triển kinh tế của Tỉnh Hà Tây với mục tiêu chung "Kinh tế phát triển, an toàn vốn, tôn trọng pháp luật". Hoạt động huy động và sử dụng vốn là hai hoạt động chủ yếu trong quá trình kinh doanh tiền tệ của một Ngân hàng thương mại. Tuy nhiên dựa vào đặc điểm, điều kiện kinh doanh cũng như chính sách Nhà nước, địa bàn ... của từng Ngân hàng mà hoạt động nào chiếm ưu thế hơn. Một Ngân hàng hoạt động có hiệu quả khi các nguồn vốn huy động được sử dụng có sinh lời. Vì vậy ta đi nghiên cứu thực trạng hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Công thương Hà Tây. 2.2. Tình hình huy động vốn. Ngân hàng thương mại chỉ có thể đạt kết quả kinh doanh cao khi tổ chức tốt công tác huy dộng vốn. Trong những năm qua Ngân hàng Công thương Hà Tây đã nỗ lực trong công tác huy động vốn bằng việc mở thêm các phòng giao dịch, mở rộng mạng lưới các quỹ tiết kiệm cho phù hợp với địa bàn dân cư thị xã Hà Đông và các khu vực giáp ranh với Hà nội, tuyên truyền mở tài khoản cá nhân, áp dụng nhiều biện pháp gửi tiền vừa linh hoạt vừa hiệu quả, đơn giản hoá thủ tục gửi tiền... Các hình thức huy động vốn chủ yếu được áp dụng trong thời gian qua tại Ngân hàng Công thương Hà Tây (do Ngân hàng Công thương Việt Nam quy định): Nhận tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, có kỳ hạn của dân cư. Tiền gửi của các tổ chức kinh tế. Kì phiếu có mục đích (3 tháng,6 tháng). Để nắm được hoạt động huy động vốn của Ngân hàng trong những năm gần đây chúng ta sẽ xem xét và phân tích một cách chi tiết các chỉ tiêu ở bảng 1. Trước hết chúng ta xem xét tính hình huy động vốn từng năm. Tính đến 31/ 12/ 1999 Ngân hàng._.ể xử lý khoản vay có vấn đề. Thanh lý là cách của Ngân hàng đòi các khoản nợ quá hạn, dựa trên việc áp dụng và thực hiện các biện pháp pháp lý. Tuy nhiên khi tiến hành thanh lý có thể xảy ra vật thế chấp bị mất giá do người vay sử dụng sai hoặc bảo quản tồi, đôi khi tài sản đem đi thế chấp cho món vay không được thẩm định đúng theo giá thị trường hợp lý...nên trước khi thanh lý phải xác định được số lượng, giá cả thị trường chấp nhận, khả năng thanh lý các loại tài sản hiện có như nhà cửa, lô hàng thu hồi... để việc tái sở hữu các loại tài sản có thể sử dụng được hay cho thuê, chuyển nhượng quyền sở hữu tài sản cho đơn vị mới có khả năng chấp nhận nợ có thể dễ dàng hơn. Mặt khác để giảm bớt những tổn thất cho quá trình xử lý trải qua nhiều khâu thì cần phải kết hợp với chính quyền sở tại, các cơ quan có chức năng để giải quyết nhanh chóng và đạt hiệu quả cao. Ngân hàng nên thành lập bộ phận thanh lý tài sản, bộ phận này cần phải nắm rõ sự biến động giá cả thị trường để có thể xác định rõ thời điểm và giá cả thanh lý dài hạn. * Hình thành một bộ phận xử lý nợ có vấn đề: Thực trạng cho vay các doanh nghiệp ngoài quốc doanh không thể tránh khỏi "nợ có vấn đề ". Hiện nay việc giải quyết nợ khó đòi hiện nay ở Ngân hàng Công thương Hà Tây được giao ngay cho cán bộ tín dụng phụ trách, điều này chỉ phù hợp với những khoản vay nhỏ không có khả năng thu hồi. Vì vậy mà ngân hàng nên thành lập một đội xử lý nợ để có thể nắm bắt và thực hiện xử lý nợ một cách có hiệu quả. Đối với các khoản nợ khó đòi thì ngân hàng tạm thời miễn thu các khoản nợ này, phân công cán bộ tín dụng thường xuyên theo dõi, đôn đốc thu nợ. 6. Ngân hàng nâng cao vai trò kiểm tra, kiểm soát đối với khách hàng vay vốn. Sau khi tiến hành cho vay, để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay, ngăn chặn việc sử dụng vốn sai mục đích, chi nhánh cần thường xuyên cử cán bộ xuống kiểm tra tại cơ sở, đơn vị những khách hàng mà họ trực tiếp quản lý. Việc kiểm tra giám sát khách hàng vay vốn được thực hiện dưới những hình thức sau: - Kiểm tra định kỳ dựa trên báo cáo nhanh tình hình tài chính của khách hàng. - Kiểm tra thường xuyên, đột xuất tại cơ sở sản xuất kinh doanh. - Kiểm tra tài sản thế chấp theo giá trị và hiện trạng. - Theo dõi tình hình xu hướng vận động và phát triển của doanh nghiệp. - Kiểm tra thông qua các thông tin khác mà ngân hàng thu thập được. Qua công tác kiểm tra khách hàng Ngân hàng Công thương Hà Tây có thể nắm rõ tình hình thực tế của doanh nghiệp để có thể dự báo được khả năng trả nợ của khách hàng từ đó nâng cao hiệu quả công tác cho vay của Ngân hàng. Ngoài kiểm tra khách hàng thì phải cần kiểm tra ngay chính các cán bộ Ngân hàng để có những biện pháp thanh lọc các cán bộ tín dụng mất phẩm chất, tiêu cực lợi dụng kẽ hở để gây thất thoát vốn và làm giảm uy tín của Ngân hàng, ngăn chặn kịp thời những hiện tượng có ảnh hưởng xấu cho nền kinh tế. Một biện pháp để tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát đó là Ngân hàng nên tiến hành kiểm tra chéo để đảm bảo yếu tố khách quan. 7. Coi trọng công tác đào tạo và bồi dưỡng nâng cao trình độ cán bộ tín dụng. Trong giai doạn hiện nay với sự đa dạng hoá ngành nghề kinh doanh, tồn tại nhiều thành phần kinh tế khác nhau, với xu hướng giao lưu thương mại thông suốt giữa các vùng, địa phương tạo nên sự sôi động của nền kinh tế nhưng đã gây không ít những kho khăn cho cán bộ tín dụng trong quá trình quản lý khách hàng, quản lý các khoản vốn cho vay. Do vậy yếu tố con người là một yếu tố được quan tâm hàng đầu ở bất kỳ Ngân hàng nào trong qúa trình phát triển của mình. Riêng đối với Ngân hàng Công thương Hà Tây có những bước chuyển biến trong quá trình tuyển dụng cán bộ, đại đa số các cán bộ có trình độ đại học và trên đại học đã được đào tạo qua các lớp nghiệp vụ về Ngân hàng. Đội ngũ cán bộ của Ngân hàng còn trẻ về tuổi đời cũng như tuổi nghề nên để nâng cao trình độ hiểu biết, nắm bắt kịp thời các quy định, các phương thức mới thì Ngân hàng đã tiến hành đào tạo lại bằng cách gửi các cán bộ có năng lực đi học các lớp tập huấn trong nước. Trong thực tế Ngân hàng Công thương Hà Tây có các cán bộ phụ trách hoàn toàn công việc từ xét duyệt, thẩm định, kiểm tra và thu hồi vốn... Ngân hàng Công thương Hà Tây nên đào tạo cán bộ tín dụng theo từng lĩnh vực chuyên sâu về nghiệp vụ Ngân hàng. Khi mà Ngân hàng chuyên môn hoá được công việc của cán bộ tín dụng thì họ sẽ tích luỹ được nhiều kinh nghiệm hơn và hiệu quả công việc sẽ cao hơn. Ngoài ra việc sắp xếp lại cán bộ một cách hợp lý, bố trí cán bộ đúng người đúng việc, đúng năng lực sẽ làm tăng hiệu quả công tác cho vay nói chung và công tác cho vay đối với đơn vị kinh tế ngoài quốc doanh nói riêng. Bên cạnh đó Ngân hàng nên áp dụng các hình thức khen thưởng vật chất xứng đáng cho các cán bộ tín dụng đầu tư có hiệu quả, tặng thuởng cho những cán bộ nào luôn giữ không để phát sinh nợ quá hạn, cắt giảm lương đối với những cán bộ tín dụng nào để phát sinh nợ quá hạn nhiều và thường xuyên. Ngân hàng cũng nên tăng lương cho các cán bộ tín dụng vì bộ phận này đóng góp lớn cho tổng lợi nhuận của Ngân hàng. Ngân hàng nên thường xuyên tổ chức các cuộc họp tổng kết trao đổi kinh nghiệm để các cán bộ tín dụng có thể bổ sung cho nhau những nghiệp vụ còn thiếu cũng như đưa ra những hạn chế trong công tác cần phải khắc phục. Có thể nói công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ đã trở thành "quốc sách" của Nhà nước cũng như của chính Ngân hàng công thương Hà Tây. 8. Hiện đại hoá cơ sở vật chất và mở rộng địa bàn hoạt động phục vụ công tác cho vay. Trước tiên ngân hàng nên hiện đại hóa cơ sở vật chất, trang bị thêm các thiết bị phục vụ cho công việc kinh doanh của ngân hàng. Ngân hàng nên phát triển hệ thống mạng máy tính giữa hội sở và các phòng giao dịch. Bên cạnh đó ngân hàng nên mở rộng địa bàn hoạt động. Vì Tỉnh Hà Tây gồm 2 thị xã là thị xã Hà Đông, thị xã Sơn Tây và 12 huyện, dân số khoảng hơn 1 triệu người. Do đó đây là một thị trường chứa đầy tiềm năng trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ của Ngân hàng công thương Hà Tây. Vì vậy ngân hàng nên có một chiến lược phát triển cụ thể, nên đặt các phòng giao dịch ở một số huyện có tiềm năng phát triển kinh tế, thu nhập của dân cư tương đối ổn định và có xu hướng tăng như Đan Phượng, Chương Mỹ, Ba Vì, Hoài Đức,... 9. Thực hiện tốt chiến lược khách hàng vay vốn. - Thực hiện đầy đủ các hội nghị khách hàng theo định kỳ hay đột xuất. Để hội nghị khách hàng thu được kết quả tốt thì nội dung hội nghị cần phải được chuẩn bị chu đáo. Mỗi một hội nghị phải nhằm đạt được mục tiêu nhất định vì vậy nội dung hội nghị phải xuất phát từ mục tiêu cần đạt tới của hội nghị đó. Đối với hội nghị quan trọng cần phải nhằm giải quyết vấn đề mấu chốt, vấn đề bức xúc trong quan hệ với khách hàng thì cần thông báo trước nội dung và thông báo cho khách hàng, nếu cần thiết có thể ghi rõ chức danh mời họp. - Tiếp tục tìm kiếm khai thác để tìm khách hàng mới nhằm mở rộng tín dụng an toàn. Liên hệ chặt chẽ với phòng tín dụng của NHCT Việt Nam để tiếp cận các dự án lớn. áp dụng chính sách ưu đãi về lãi suất, về phí dịch vụ đối với khách hàng lớn nhằm tạo mối quan hệ lâu dài, tránh sự cạnh tranh của các NHTM khác. III. Một số kiến nghị. 1. Kiến nghị đối với Ngân hàng Công thương Việt nam: 1.1. NHCT Việt Nam cần đưa ra các chủ trương, chiến lược phát triển hoạt động tín dụng chung cho toàn hệ thống. NHCT Việt Nam cần có chiến lược huy động vốn ngắn hạn, trung và dài hạn cụ thể. Chủ động khai thác nguồn vốn nhằm giảm chi phí đầu vào tới mức thấp nhất, tạo điều kiện thực hiện chính sách khách hàng có hiệu quả, cạnh tranh với các NHTM khác. Chỉ đạo lãi suất theo nguyên tắc kinh tế thị trường, dựa trên mối quan hệ cung cầu về vốn để quyết định lãi suất cho vay và huy động vốn. Nghĩa là phải theo dõi lãi suất trên thị trường vốn và tỷ lệ trượt giá để điều chỉnh kịp thời và linh hoạt. Lãi suất cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh cần được thoả thuận với khách hàng ở một biên độ nhất định và được điều chỉnh trong từng thời kỳ phù hợp với lãi suất huy động vốn nhằm hạn chế rủi ro tín dụng do sự biến động của lãi suất. Hoàn thiện các quy trình nghiệp vụ về thẩm định dự án cho vay, bảo lãnh trả chậm phù hợp với luật ngân hàng và các tổ chức tín dụng nhằm tạo điều kiện cho các ngân hàng chi nhánh mở rộng tín dụng an toàn và hiệu quả. Nâng cao công tác thông tin phòng ngừa rủi ro. Trong nền kinh tế thị trường thông tin kinh tế đóng vai trò rất quan trọng, người có thông tin là người chiến thắng, do đó hệ thống thông tin cần được củng cố nhằm cung cấp thông tin chính xác, kịp thời về những khách hàng hiện đang giao dịch tại NHCT Việt Nam, nhất là thông tin trong các dự án lớn. Ngoài ra NHCT cần trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật cho việc khai thác, lưu trữ trao đổi thông tin với NHNN và các NHTM khác trong quá trình tham gia đồng tài trợ nhằm cung cấp cho ngân hàng cơ sở thông tin chính xác, kịp thời. Đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, kiểm soát. Chấn chỉnh và xử lý dứt điểm các sai sót tồn tại sau thanh tra. Có biện pháp xử lý kiên quyết đối với cán bộ có sai phạm dẫn tới tổn thất tài sản của ngân hàng. Khuyến khích những chi nhánh tăng trưởng tín dụng nhưng phải tuân thủ các tiêu chuẩn tín dụng và trong phạm vi kiểm soát của chi nhánh. Ngăn chặn không để xảy ra các vụ thất thoát lớn. 1.2. Đầu tư kỹ thuật hiện đại cho hệ thống: Trong những năm gần đây Ngân hàng Công thương Việt Nam đã tích cực triển khai các dự án hiện đại hoá các chi nhánh Ngân hàng Công thương trong cả nước. Tuy nhiên công tác này mới đang ở giai đoạn đầu. Nếu được trang bị tốt, hiệu quả của ứng dụng tin học thật to lớn, công việc của cán bộ tín dụng sẽ trở nên nhẹ nhàng, đơn giản nhưng lại rất chính xác và nhanh chóng. Để khai thác tối đa sức mạnh của công nghệ tiên tiến này, Ngân hàng Công thương Việt Nam nên nghiên cứu và thiết lập một hệ thống thông tin được tổng hợp từ nhiều nguồn và được tập trung ở một đầu mối là trung tâm điện toán của Ngân hàng Công thương. Tuy nhiên, cần phải lưu tâm rằng: Việc đầu tư cho công nghệ mới rất tốn kém và cần phải tính đến sự tương ứng giữa trình độ cán bộ và kỹ thuật mới, năng suất lao động - số lượng lao động; chi phí bỏ ra - hiệu quả thu được. Để giải quyết những khó khăn này, Ngân hàng Công thương Việt Nam nên nghiên cứu và đầu tư từng bước, tiến hành thí điểm rồi mở rộng dần phạm vi ứng dụng, không chạy theo sự phô trương tốn kém. 2. Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước. 2.1. Đổi mới chính sách lãi suất. Vấn đề lãi suất đang là một vân đề lớn, có nhiều ý kiến bàn luận. Nói chung, mọi ý kiến đều cho rằng việc Nhà nước quản lý trần lãi suất và chênh lệch lãi suất 0,35% là bất hợp lý, bởi vì quy định như thế bó buộc các Ngân hàng trong phạm vi kinh doanh chật hẹp không phù hợp với tình hình huy động vốn, chi phí kinh doanh và lợi nhuận dẫn tới nhiều Ngân hàng có lợi nhuận rất thấp, thậm chí lỗ. Cách quản lý này càng kéo dài sẽ làm cho hoạt động của các tổ chức tín dụng trì trệ, khó khăn. Tóm lại, Ngân hàng Nhà nước nên bỏ những giới hạn cũ của quản lý lãi suất như trên, trả lãi suất về cho thị trường trong khả năng can thiệp của Nhà nước, nhằm hình thành nên mức lãi suất cơ bản làm cơ sở quyết định lãi suất huy động, cho vay của Ngân hàng. Với chính sách tự do lãi suất, các Ngân hàng có thể áp dụng các hợp đồng cho vay có lãi suất thay đổi theo sự thay đổi của lãi suất thị trường để giảm rủi ro lãi suất cho khách hàng và Ngân hàng, đồng thời thu hút khách hàng đến giao dịch hiệu quả hơn. 2.2. Có cơ chế xử lý tài sản thế chấp, tài sản bị xiết nợ. Triển khai hoạt động của các công ty mua bán nợ, sớm hạn thấp tỷ lệ nợ quá hạn của các NHTM xuống mức cho phép, bổ sung vốn hoạt động cho các NHTMQD, nâng mức vốn pháp định đối với các NHTMCP nhằm nâng cao khả năng bù đắp rủi ro và khả năng cạnh tranh của các NHTM. 2.3. Cần điều hành các NHTM cạnh tranh lành mạnh. Hiện tại các NHTM đang thi nhau thực hiện chính sách khách hàng như: Chính sách về lãi suất, chính sách về phí dịch vụ hoặc đổi mới phong cách giao dịch để lôi kéo khách hàng nhưng xu hướng cạnh tranh không được lành mạnh, có nhiều Ngân hàng đưa lãi suất xuống quá thấp và thậm chí còn chịu lỗ để tranh giành khách của nhau. Vì vậy đề nghị Ngân hàng Nhà Nước với chức năng quản lý Nhà Nước phải đưa ra được những quy định cụ thể và những hình thức, biện pháp chặt chẽ đối với việc cạnh tranh không lành mạnh này. Nếu tránh được tình trạng này thì việc đầu tư vốn của các Ngân hàng mới có hiệu quả và mới tạo điều kiện cho các khách hàng tốt trong lĩnh vực kinh tế ngoài quốc doanh có thể vay vốn và phát triển sản xuất kinh doanh. 2.4. Hoàn thiện các văn bản pháp lý nhằm tạo hành lang pháp lý cho hoạt động tín dụng của các NHTM. Hiện nay Quyết định 296 /1999/QĐ - NHNN 5 ra ngày 25 tháng 8 năm 1999 về giới hạn cho vay đối với khách hàng của tổ chức tín dụng, quyết định mới nhất số 1627/2001/QĐ - NHNN ra ngày 31 tháng 12 năm 2001 về việc ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng đã được ban hành. Các văn bản này đã tạo ra hành lang pháp lý cho các NHTM, tuy nhiên các văn bản hướng dẫn vẫn chưa thực hiện được các tư tưởng trên, có quyết định thì chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể. Chính vì vậy đề nghị NHNN tiếp tục sửa đổi các văn bản khi điều kiện cho phép nhằm tạo ra sự thống nhất trong các văn bản, ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể đối với các văn bản chưa có hướng dẫn để các NHTM cũng như các doanh nghiệp thống nhất thực hiện, tạo điều kiện cho việc thực hiện các biện pháp bảo đảm nợ của Ngân hàng, giảm bớt thất thoát vốn. Sự bất cập thể hiện ở các điểm sau: Đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh thực hiện bảo lãnh, thế chấp phải có tài sản, nhưng đối với doanh nghiệp quốc doanh chỉ cần bảo lãnh trên giấy tờ, như vậy trái với bản chất nghiệp vụ bảo lãnh, thế chấp... Chưa có văn bản hướng dẫn về xử lý nợ đối với các doanh nghiệp chuyển từ sở hữu nhà nước sang hình thức cổ phần. Sẽ có trường hợp doanh nghiệp không đủ tài sản để thế chấp cho số nợ mà đơn vị phải trả, hoặc đối với doanh nghiệp có một tài sản mà vay vốn nhiều nơi, vượt quá khả năng thanh toán của mình hoặc doanh ngiệp bị thua lỗ... Chưa tạo sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế ví dụ như chỉ bắt buộc kiểm toán đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh trước khi cho vay. Chưa có văn bản về xử lý tài sản thế chấp, do đó khi cần có sự phối hợp của các cơ quan pháp luật, ngân hàng gặp rất nhiều khó khăn. Họ coi đó như việc làm hộ ngân hàng, không có sự kết hợp đồng bộ kịp thời. Do đó trong thời gian tới NHNN cần hoàn thiện các văn bản hiện tại và bổ sung các văn bản mới để các NHTM có đủ điều kiện thực hiện nhằm nâng cao chất lượng tín dụng, đưa hoạt động của NHTM phù hợp với luật ngân hàng và các tổ chức tín dụng, với pháp luật nhà nước, với thông lệ quốc tế để tiến tới hoà nhập với thị trường khu vực và thế giới. 2.5. Khẩn trương củng cố hệ thống thanh tra của NHNN đối với các tổ chức tín dụng. Thực hiện tốt hoạt động kiểm soát nội bộ (bao gồm cả giám sát, kiểm tra và kiểm toán nội bộ), kết hợp với kiểm toán bắt buộc từ bên ngoài vào. Hoạt động thanh tra ngân hàng nhà nước thực hiện có hiệu quả sẽ tạo tiền đề để nâng cao chất lượng hoạt động, hạn chế rủi ro đối với các tổ chức tín dụng. Kiến nghị đối với chính phủ và các cấp, các ngành có liên quan: 3.1. Nhà nước cần ổn định môi trường kinh tế vĩ mô tạo điều kiện để khuyến khích đầu tư, phát triển kinh tế. * Tăng cường quản lý kinh tế ngoài quốc doanh và chống buôn lậu: Việc tạo lập một môi trường kinh doanh ổn định, an toàn và kinh doanh đảm bảo cho hoạt động tín dụng phát triển thuận lợi, do đó phải tăng cường công tác quản lý, lập lại trật tự khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Để thực hiện có hiệu quả trước hết các cơ quan quản lý phải tự nâng cao trình độ nghiệp vụ quản lý của mình kết hợp với các phương tiện hiện đại, tác phong khoa học làm cho công tác quản lý được chặt chẽ hơn. Vấn đề cơ bản và quan trọng nhất là Nhà nước phải xây dựng cơ chế quản lý: + Quan hệ giữa các bộ sở, UBND và các ngành khác về quản lý kinh tế ngoài quốc doanh ở địa phương. + Chức năng nhiệm vụ của các Sở và UBND đối với các thành phần kinh tế trên địa bàn... Công tác quản lý hành chính và kinh tế phải kết hợp đồng bộ, chặt chẽ với hoạt động tư pháp, hành pháp của các cơ quan công an, Viện kiểm soát... nhằm tạo lập kỷ cương cho khu vực kinh tế ngoài quốc doanh bảo vệ lợi ích của các doanh nghiệp chân chính, loại bỏ những hành vi tiêu cực như lừa đảo, trốn thuế... Bên cạnh đó các cơ quan Nhà nước cần tăng cường quản lý chặt chẽ hơn nữa về việc tuân thủ chế độ hạch toán thống kê của Nhà nước, ban hành các quy định cụ thể nhằm hạn chế các mặt tồn tại trong công tác hạch toán kế toán của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Qua đó tạo điều kiện cho công tác thẩm định được dể dàng hơn, xác định được đúng nhu cầu cần vay của khách hàng, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh hợp pháp của doanh nghiệp cũng như công tác cho vay của Ngân hàng. * Khuyến khích đầu tư tư nhân: Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tiềm lực tài chính nhỏ, kỹ thuật công nghệ lạc hậu, các điều kiện để vay vốn Ngân hàng cũng gặp nhiều trở ngại. Nhằm giúp khu vực này phát triển hơn, Quốc hội đã ban hành luật khuyến khích đầu tư tư nhân. Các quỹ này cấp tín dụng với điều kiện thuận lợi và lãi suất ưu đãi cho các đối tượng đủ điều kiện theo luật khuyến khích đầu tư tư nhân. Nhưng ở nhiều nơi, vốn tín dụng ưu đãi đã bị sử dụng sai mục đích và tinh thần của luật, nhiều nơi vốn được dành hết cho doanh nghiệp Nhà nước không thuộc diện hưởng ưu đãi. Để khuyến khích đầu tư tư nhân ở Việt Nam, cần phải tăng cường sự diều hành sát sao của UBND tỉnh, sự chỉ đạo trực tiếp của chính phủ và phối hợp các ban ngành trên địa bàn. Tuy nhiên, để tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng trong hoạt động, quỹ hỗ trợ cần có những giới hạn nhất định và chỉ nên đóng vai trò là người hỗ trợ, châm ngòi cho sự đổi mới mạnh mẽ của kinh tế ngoài quốc doanh tạo cho tín dụng Ngân hàng có môi trường tốt phát huy vai trò của mình. * Nhà nước cần hoàn thiện và phát triển thị trường chứng khoán. Đối với cơ quan Nhà nước thì nhanh chóng phát triển thị trường chứng khoán để các chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu dễ dàng chuyển đổi thành tiền, hay để thực hiện việc mua bán trên thị trường mà không phải qua các cơ quan trung gian. Hơn nữa khi thị trường chứng khoán được hoàn thiện và phát triển thì việc cung cấp thông tín đánh giá về doanh nghiệp càng cần thiết đối với những người đầu tư và có thể thu phí dịch vụ cung cấp thông tin này. * Tăng cường sự quản lý đối với các vấn đề liên quan đến tài sản thế chấp. Đối với các cơ quan quản lý Nhà nước một mặt cần tăng cường hơn nữa quản lý Nhà nước về các tài sản. Buộc các bên mua, bán tài sản phải thông qua cơ quan chính quyền Nhà nước cấp giấy tờ sở hữu hợp pháp về tài sản cho các doanh nghiệp, mặt khác cơ quan có thẩm quyền nhanh chóng đưa ra các văn bản hướng dẫn cụ thể thống nhất về tài sản thế chấp, cầm cố trong từng địa phương. Như vậy mới tạo cơ sở cho các ngân hàng khi xét duyệt và thực hiện cho vay vốn đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là các thành phần thuộc khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. 3.2. Sớm đưa thương phiếu vào hoạt động thương mại: Nhà nước cần xây dựng và ban hành luật về thương phiếu, đồng thời tổ chức hướng dẫn cụ thể các cấp, ngành liên quan để sớm đưa thương phiếu vào hoạt động có hiệu quả trong nền kinh tế. Sự xuất hiện thương phiếu là điều kiện cho các Ngân hàng sử dụng tín dụng chiết khấu thay thế phần lớn cho tín dụng ứng trước như hiện nay. Chiết khấu là hình thức tín dụng rất an toàn bởi vì: - Thương phiếu luôn gắn với một lượng giá trị hàng hoá đã được thực hiện, tức là khoản vốn vay (tiền chiết khấu) được đảm bảo bằng một lượng giá trị hàng hoá trong lưu thông. - Thương phiếu chứa đựng giá trị pháp lý rất cao, nó buộc người vay nợ và tất cả những ai ký tên trên thương phiếu phải có trách nhiệm trả nợ cho người sở hữu cuối cùng của thương phiếu khi nó đến hạn thanh toán. 3.3. Hoàn thiện môi trường pháp lý cho các hoạt động đầu tư. Hiện nay nhà nước đã ban hành các bộ luật tạo điều kiện cho hoạt động của Ngân hàng và doanh nghiệp. Tuy nhiên các văn bản hướng dẫn chưa đầy đủ và sự quan liêu của bộ máy hành chính dẫn đến các bộ luật chưa đi vào cuộc sống. Ví dụ như nghị định 178/NĐ - CP ban hành ngày 12/12/1999 về tài sản thế chấp cố, bảo lãnh trong quan hệ vay vốn ngân hàng đã được phê duyệt, nghị định 03/NĐ - CP ngày 1/3/2000 về đăng ký giao dịch đảm bảo đã ban hành nhưng hiện nay các cơ quan thực hiện nhận đăng ký chưa được tổ chức theo đúng luật và chưa đi vào hoạt động, do đó gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh của các thành phần kinh tế, trong đó có ngân hàng. Chính vì vậy mà nhà nước cần nhanh chóng tổ chức thực hiện để luật đi vào cuộc sống, tạo điều kiện cho các NHTM thực hiện biện pháp đảm bảo nợ, tăng cường khả năng thu hồi vốn đầu tư, nhằm nâng cao chất lượng tín dụng của NHTM. Trong việc cấp giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất cho các doanh nghiệp và hộ gia đình của cơ quan nhà nước còn nhiều vấn đề, gây khó khăn cho hoạt động đầu tư cho mọi thành phần kinh tế đặc biệt là thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Do đó trong thời gian tới cần giải quyết dứt điểm vấn đề cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất cho tất cả các thành phần kinh tế nhằm tạo điều kiện cho việc quản lý đất đai và cho hoạt động kinh doanh ngân hàng ngày càng thuận lợi. Trên đây là một số những giải pháp và kiến nghị nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tại NHCT Hà Tây nói riêng, cũng như đối với NHTM nói chung. Các giải pháp này được xây dựng trên cơ sở các quan điểm và định hướng về nâng cao hiệu quả cho vay, với những mục tiêu chiến lược và sách lược xác định có cơ sở và phù hợp với thực tiễn hoạt động ngân hàng trong từng thời kỳ. Trong quá trình thực hiện không được tách rời các giải pháp mà phải tiến hành đồng bộ, với sự cố gắng của bản thân các NHTM và sự phối hợp với các ngành có liên quan khác thì các giải pháp mới có hiệu quả, nhằm nâng cao hiệu quả cho vay của các NHTM. Kết luận Trong quá trình phát triển, kinh tế ngoài quốc doanh ngày càng khẳng định được vị trí và vai trò của mình trong nền kinh tế, khẳng định chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước khi chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Trong những năm qua hoạt động tín dụng nói chung đặc biệt là hoạt động cho vay của Ngân hàng nói riêng đã trở thành kênh trung gian tiếp vốn cho các thành phần kinh tế thực sự quan trọng. Nó không chỉ tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế quốc doanh phát triển mà còn thúc đẩy thành phần kinh tế ngoài quốc doanh phát triển vượt bậc. Vì vậy việc nghiên cứu vấn đề mở rộng và nâng cao hiệu quả cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh khi nền kinh tế đang chuyển đổi theo cơ chế thị trường là việc làm có ý nghĩa thiết thực cả về lý luận lẫn thực tế. Trong quá trình nghiên cứu, thông qua việc vận dụng các phương pháp nghiên cứu kết hợp với thực tiễn, tôi đã hoàn thành một số công việc chủ yếu sau: 1. Đã hệ thống hoá được những lý luận cơ bản về đặc điểm, vai trò của kinh tế ngoài quốc doanh; khái niệm, các nghiệp vụ chủ yếu của NHTM, vai trò tín dụng của NHTM đối với sự phát triển của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Khẳng định sự cần thiết phải mở rộng và nâng cao hiệu quả cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. 2. Đã mô tả, phân tích, đánh giá chất lượng hoạt động cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tại Ngân hàng công thương Hà Tây một cách trung thực khách quan. Rút ra những kết quả đạt được, tìm ra những nguyên nhân gây ảnh hưởng đến hoạt động cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tại chi nhánh NHCT Hà Tây. 3. Đề xuất những giải pháp, kiến nghị chủ yếu có tính thiết thực nhằm phát huy những mặt mạnh và giải quyết những tồn tại để mở rộng và nâng cao hiệu quả cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tại chi nhánh NHCT Hà Tây trong những năm tới. Tóm lại, đây là một lĩnh vực hoạt động tín dụng rất phức tạp của Ngân hàng và cần phải xem xét ở nhiều khía cạnh nhưng do thời gian tiếp cận với thực tế còn ngắn mà bản chuyên đề này chỉ đề cập đến một số khía cạnh chính ảnh hưởng đến hoạt động cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Trong quá trình xem xét, đánh giá và đề xuất ý kiến bản chuyên đề chắc chắn không tránh khỏi những khiếm khuyết. Em rất mong được sự góp ý của thầy cô giáo, cùng với các cô chú cán bộ Ngân hàng và bạn đọc để chuyên đề này được hoàn thiện hơn. Tài liệu tham khảo I. Sách. Ngân hàng thương mại (Edward W.reed và Edward K. Gill). Tiền tệ, Ngân hàng và thị trường tài chính (Fredrics . Mishkin). Nghiệp vụ ngân hàng hiện đại (David Cox). Nghiệp vụ ngân hàng thương mại (Lê Văn Tư). II. Báo và tạp chí. Tạp chí ngân hàng năm 1998, 1999, 2000, 2001. Thời báo ngân hàng các năm 1998, 1999, 2000, 2001. Tạp chí tài chính năm 1998, 1999, 2000, 2001. Tạp chí thị trường tài chính tiền tệ năm 1998, 1999, 2000, 2001. Thời báo kinh tế năm 1998, 1999, 2000, 2001. III. Luật và các văn bản dưới luật. Luật các tổ chức tín dụng (NXB Chính trị Quốc gia). Nghị định 178/1999/NĐ - CP ngày 29/12/1999 về bảo đảm tiền vay của tổ chức tín dụng. Thông tư 06/2000/TT - NHNN 1 hướng dẫn thực hiện NĐ 178. Quy chế 284 do thống đốc NHNN Việt Nam ban hành ngày 25/8/2000 hướng dẫn thực hiện quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng. Quyết định 1627/2001/QĐ - NHNN ngày 31/12/2001 về việc ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng. IV. Các báo cáo của NHCT Hà Tây. Báo cáo thường niên về kết quả kinh doanh của NHCT Hà Tây. Báo cáo hội nghị tổng kết năm 1999, 2000, 2001. Các báo cáo về tình hình cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh của NHCT Hà Tây. Mục lục Lời nói đầu 1 I. Tính cấp thiết của đề tài 1 II. Mục đích nghiên cứu 2 III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2 IV. Phương pháp nghiên cứu 2 V. Kết cấu chuyên đề 2 Chương I. Tín dụng ngân hàng đối với khu vực kinh tế Ngoài quốc doanh 3 I. Đặc điểm và vai trò của kinh tế ngoài quốc doanh 3 1. Đặc điểm của thành phần kinh tế ngoài quốc doanh 3 2. Vai trò của kinh tế ngoìa quốc doanh 4 II. Vai trò tín dụng của ngân hàng đối với kinh tế ngoài quốc doanh 8 1. Cách hoạt động chủ yếu của ngân hàng 8 1.1. Sự ra đời của ngân hàng thương mại 8 1.2. Các nghiệp vụ chủ yếu của Ngân hàng thương mại 9 2. Vai trò tín dụng của Ngân hàng thương mại đối với sự phát triển kinh tế ngoài quốc doanh 13 2.1. Tín dụng ngân hàng 13 2.2. Vai trò tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh 15 III. Các hình thức của tín dụng ngân hàng 18 1. Dựa vào kỳ hạn của các khoản tín dụng 18 2. Dựa vào tính chất bảo đảm của khoản vay 18 3. Dựa vào hình thái tồn tại của vốn tín dụng 19 4. Các hình thức tín dụng khác 19 IV. Hiệu quả của tín dụng ngân hàng 19 1. Quan niệm về hiệu quả tín dụng 19 2. Các chỉ tiêu biểu hiện hiệu quả tín dụng ngân hàng 20 3. Các nhân tố chủ yếu tác động đến hiệu quả tín dụng ngân hàng 22 Chương II. Thực trạng về quy mô và hiệu quả cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tại Chi nhánh NHTCT Hà Tây 26 I. Khái quát về tình hình hoạt động của Chi nhánh NHTC Hà Tây 26 1. Lịch sử hình thành và phát triển của Chi nhánh NHCT Hà Tây 26 Cơ cấu tổ chức của ngân hàng 27 2. Tình hình hoạt động của Chi nhánh NHCT Hà Tây trong thời gian qua 29 2.1. Khái quát chung 29 2.2. Tình hình huy động vốn 30 2.3. Tình hình cho vay 35 2.4. Các hoạt động khác 37 II. Thực trạng cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tại Chi nhánh NHCT Hà Tây 38 1. Tình hình cho vay kinh tế ngoài quốc doanh của NHCT Hà Tây 38 1.1. Doanh số cho vay ngoài quốc doanh của NHCT Hà Tây 40 1.2. Doanh số thu nợ cho vay ngoài quốc doanh của NHCT Hà Tây 41 1.3. Dư nợ tín dụng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh của NHCT Hà Tây 43 1.4. Tình hình nợ quá hạn của NHCT Hà Tây 44 2. Đánh giá về hiệu quả về quy mô và hiệu quả cho vay kinh tế ngoài quốc doanh của Chi nhánh NHCT Hà Tây 46 2.1. Những thành tựu đạt được trong hoạt động cho vay kinh tế ngoài quốc doanh của Chi nhánh NHCT Hà Tây 46 2.2. Những hạn chế và nguyên nhân của chúng 47 Chương III. Giải pháp mở rộng và nâng cao hiệu quả cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tại Chi nhánh NHCT Hà Tây 52 I. Định hướng hoạt động kinh doanh của Chi nhánh NHCT Hà Tây trong thời gian tới 52 II. Một số giải pháp mở rộng và nâng cao hiệu quả cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tại Chi nhánh NHCT Hà Tây 53 1. Xác định đúng đối tượng cho vay 53 2. Đổi mới cơ chế tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh 53 3. Nâng cao chất lượng thẩm định và đánh giá tình hình tài chính của khách hàng 57 4. Đa dạng hoá các nghiệp vụ cho vay và phương thức cho vay 59 5. Chủ động giải quyết nợ có vấn đề 61 6. Ngân hàng nâng cao vai trò kiểm tra kiểm soát đối với khách hàng vay vốn 62 7. Coi trọng công tác đào tạo và bồi dưỡng nâng cao trình độ cán bộ tín dụng 63 8. Hiện đại hoá cơ sở vật chất và mở rộng địa bàn hoạt động phục vụ công tác cho vay 64 9. Thực hiện tốt chiến lược khách hàng vay vốn 64 III. Một số kiến nghị 65 1. Kiến nghị đối với ngân hàng công thương Việt Nam 65 1.1. NHCT Việt Nam cần đưa ra các chủ trương, chiến lược phát triển hoạt động tín dụng chung cho toàm hệ thống 65 1.2. Đầu tư kỹ thuật hiện đại cho hệ thống 66 2. Kiến nghị đối với ngân hàng Nhà nước 66 2.1. Đổi mới chính sách lãi suất 66 2.2. Có cơ chế xử lý tài sản thế chấp, tài sản bị xiết nợ 67 2.3. Cần điều hành các NHTM cạnh tranh lành mạnh 67 2.4. Hoàn thiện các văn bản pháp lý nhằm tạo hành lang pháp lý cho hoạt động tín dụng của các NHTM 67 2.5. Khẩn trương củng cố hệ thống thanh tra của NHNN đối với các tổ chức tín dụng 68 3. Kiến nghị đối với chính phủ và các cấp, các ngành có liên quan 68 3.1. Nhà nước cần ổn định môi trường kinh tế vĩ mô tạo điều kiện để khiến khích đầu tư, phát triển kinh tế 68 3.2. Sớm đưa thương phiếu vào hoạt động Thương mại 70 3.3. Hoàn thiện môi trường pháp lý cho các hoạt động đầu tư 71 Kết luận 73 Tài liệu tham khảo 75 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0359.doc
Tài liệu liên quan