Mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị - Những giải pháp trong giai đoạn cách mạng nước ta hiện nay

A. ĐẶT VẤN ĐỀ Bước sang thế kỷ 21 toàn cảnh nền kinh tế chính trị thế giới có những sự thay đổi lớn. Nền kinh tế chịu tác động lớn của xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá. Các tổ chức khu vực và thế giới: ASEAN, EU, APECT ngày càng chứng tỏ được vai trò quan trọng của mình trong tổ chức, các thành viên cùng giúp đỡ nhau phát triển về kinh tế và ổn định về chính trị. Đây là xu thế có lợi cho mọi nước, giúp cho các nước có cơ hội phát triển. Ngoài ra xu thế hoà bình, hợp tác và phát triển ngày cà

doc29 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1625 | Lượt tải: 4download
Tóm tắt tài liệu Mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị - Những giải pháp trong giai đoạn cách mạng nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng trở thành xu thế chính thay cho sự đối đầu giữa các siêu cường. Sự xung đột, chạy đua vũ trang giữa 2 hệ thống xã hội đối lập, các hình thức chủ nghĩa thực dân cũ và mới, các cuộc chiến tranh xâm lược đã bị lên án khắp nơi. Đây là một điều kiện quan trọng giúp cho các quốc gia có thể mở cửa đất nước tham gia hội nhập quốc tế và do vậy có thể phát triển các quan hệ tuỳ thuộc lẫm nhau. Mô hình phát triển kinh tế trong xu thế hoà bình hợp tác đang thay thế cho mô hình kinh tế phát triển trong tình trạng đối đầu và chiến tranh lạnh Thế giới đã, đang chứng kiến cuộc đua quyết liệt và ngoạn mục giữa 3 trung tâm kinh tế là Bắc Mỹ, EU, Đông á. Bên cạnh đó, sự trỗi dậy mạnh mẽ của những “ Con rồng châu á” và sự tăng trưỏng cao, liên tục của các nước Đông Nam á đã khiến nhiều người phải ngạc nhiên. Trong quá trình phát triển, các nước này đã vấp phải không ít khó khăn như cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ nổ ra năm 97. Tuy vậy, vượt lên trên tất cả các hậu quả của cuộc khủng hoảng, các thể chế kinh tế- tài chính và chính trị châu á đã nhận thấy yếu điểm của mình và đang có những cải cách lớn chuẩn bị cho một thời kỳ cất cánh mới. Không đứng ngoài xu hướng phát triển của thế giới, nước ta đã kịp thời có những cải cách về kinh tế, củng cố về chính trị. Về kinh tế, việc chuyển từ nền kinh tế kế hoạch sang nền kinh tế thị trường đã mang lại những thành công to lớn. Về chính trị, ta kiên định con đường quá độ đi lên CNXH và từng bước tiến lên CN cộng sản theo CN Mác và tư tưởng Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó, Đảng đã đề ra những chính sách đối ngoại tiến bộ, phù hợp với xu thế hợp tác hữu nghị toàn cầu. Nếu như những năm trước đổi mới, ta chỉ quan hệ với các nước thuộc hội đồng tương trợ kinh tế, thì nay, nước ta đã làm bạn với 134 quốc gia và lãnh thổ. Đặc biệt, ngày 12- 7- 1995, tổng thống Hoa Kỳ: Bill Clinton đã chính thức bình thường hoá quan hệ ngoại giao với Việt Nam và đến ngày 13- 7- 2000, tại Wasington, hiệp định thương mại song phương Việt- Mỹ đã được ký kết, đánh dấu bước phát triển mới trong quan hệ kinh tế thương mại giữa hai nước. Tuy nhiên, để tiếp tục công cuộc đổi mới, ta phải luôn tỉnh táo, có những chiến lược, sách lược về kinh tế và chính trị phù hợp, đúng như Đảng đã nhấn mạnh: “ Kết hợp ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm...Xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường phải đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN...”. Như vậy, vấn đề đặt ra là phải nhận thức rõ được tầm quan trọng của mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị, sau đó đưa ra những giải pháp trong giai đoạn cách mạng nước ta hiện nay. B. NỘI DUNG 1. LÝ LUẬN CHUNG CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ QUAN HỆ GIỮA KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ 1.1 KINH TẾ LÀ NGUỒN GỐC RA ĐỜI CỦA CHÍNH TRỊ Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin thì kinh tế quyết định chính trị, “chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế”). Trong lịch sử phát triển xã hội loài người không phải bao giờ cũng có vấn đề chính trị. Xã hội nguyên thuỷ chưa có giai cấp, chưa có vấn đề chính trị. Từ khi xã hội có giai cấp và nhà nước xuất hiện thì vấn đề chính trị mới xuất hiện. Vấn đề chính trị là vấn đề thuộc về quan hệ giai cấp và đấu tranh giai cấp. Trung tâm của vấn đề chính trị là vấn đề đấu tranh giữa các giai cấp, các lực lượng xã hội nhằm giành, giữ chính quyền nhà nước và sử dụng chính quyền đó làm công cụ để xây dựng và bảo vệ chế độ xã hội phù hợp với lợi ích của giai cấp cầm quyền. Để thấy bản thân vấn đề chính trị ra đời hoàn toàn là do kinh tế quyết định. Chính trị không phải là mục đích mà chỉ là phương tiện để thực hiện mục đích kinh tế. Khi phê phán quan niệm Duyring cho rằng bạo lực chính trị quyết định kinh tế, F. Engen đã khẳng định “Bạo lực chỉ là phương tiện, còn lợi ích kinh tế, trái lại là mục đích”. Và trong tác phẩm “Lútvích Phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức”, F. Engen đã chỉ rõ : “Để thoả mãn những lợi ích kinh tế thì quyền lực chính trị chỉ được sử dụng làm một phương tiện đơn thuần”. Đấu tranh giai cấp về thực chất là vì lợi ích kinh tế nên cũng theo F. Engen “bất cứ cuộc đấu tranh giai cấp nào cũng đều là đấu tranh chính trị, xét đến cùng đều xoay quanh vấn đề giải phóng về kinh tế”. Và giai cấp nào thâu tóm được quyền lực kinh tế, giai cấp ấy tổ chức thành nhà nước để buộc các giai cấp còn lại phải phục tùng. Chính vì vậy trong xã hội có giai cấp bao giờ cũng có một giai cấp đóng vai trò chuyên chính thống trị các giai cấp còn lại. Lịch sử xã hội loài người chứng tỏ rằng trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội có một cặp giai cấp nào giữ địa vị thống trị về kinh tế sẽ thống trị cả xã hội). Trong hình thái kinh tế - xã hội cộng sản nguyên thuỷ không có giai cấp tất cả mọi thành viên bình đẳng với nhau trong quan hệ của họ với quyền lực kinh tế và quyền lực chính trị. Trong hình thái kinh tế - xã hội chiếm hữu nô lệ, giai cấp chủ nô đóng vai trò thống trị. Trong hình thái kinh tế - xã hội phong kiến, giai cấp địa chủ đóng vai trò thống trị về kinh tế. Như vậy mối liên hệ giữa kinh tế - xã hội bắt nguồn từ lợi ích khác nhau giữa các giai cấp. Mặt khác mối quan hệ này còn thể hiện trong quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Nếu như cơ sở hạ tầng là cơ sở của nền kinh tế thì kiến trúc thượng tầng là hệ thống các tư tưởng xã hội và các thiết chế tương ứng trong đó tư tưởng chính trị và pháp luật là quan trọng nhất. Vì vậy vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đến kiến trúc thượng tầng về bản chất chính là vai trò của kinh tế đối với chính trị. Khác với những quan điểm cho rằng nhà nước, hệ tư tưởng chính trị, đời sống tinh thần, ... đẻ ra và quyết định kinh tế, hoặc cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng có quan hệ độc lập ngang nhau, không phụ thuộc lẫn nhau, chỉ có đạo đức là cái quyết định tất cả. Triết học Mác-Lênin hoàn toàn bác bỏ những quan điểm trên đây và khẳng định rằng quan hệ giữa chúng là quan hệ phụ thuộc. Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng. Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng được thể hiện trên một số mặt sau đây: Cơ sở hạ tầng nào thì kiến trúc thượng tầng đó (giai cấp nào giữ vị trí thống trị về mặt kinh tế thì cũng đồng thời là giai cấp thống trị xã hội về tất cả các lĩnh vực khác). Quan hệ sản xuất nào thống trị cũng sẽ tạo ra kiến trúc thượng tầng tương ứng. Mâu thuẫn giai cấp, mâu thuẫn giữa các tập đoàn người trong xã hội và đời sống tinh thần của họ đều xuất phát từ trực tiếp hoặc gián tiếp từ mâu thuẫn kinh tế, từ những quan hệ đối kháng trong cơ sở hạ tầng. Cơ sở hạ tầng thay đổi thì nhất định sớm hay muộn sẽ dẫn đến sự thay đổi kiến trúc thượng tầng. Quá trình đó diễn ra ngay trong hình thái kinh tế - xã hội cũng như khi chuyến tiếp từ hình thái này sang hình thái kinh tế - xã hội khác. Trong các xã hội có đối kháng giai cấp, cơ sở hạ tầng được biểu hiện là mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị. Khi hạ tầng cũ bị xoá bỏ thì kiến trúc thượng tầng cũ cũng mất đi, thay vào đó là kiến trúc thượng tầng mới được hình thành từng bước thích ứng với cơ sở hạ tầng mới. Sự thống trị của giai cấp thống trị cũ đối với xã hội cũ bị xoá bỏ, thay bằng hệ tư tưởng thống trị và các thể chế tương ứng của giai cấp thống trị mới. Đương nhiên không nên hiểu rằng khi cơ sở hạ tầng thay đổi thì sẽ lập tức dẫn đến sự thay đổi kiến trúc thượng tầng. Trong quá trình hình thành và phát triển của kiến trúc thượng tầng mới, nhiều nhân tố của kiến trúc thượng tầng cũ còn tồn tại gắn liền với cơ sở kinh tế đã nảy sinh ra nó. Vì vậy giai cấp cầm quyền phải biết lựa chọn một số bộ phận hợp lý để sử dụng nó xây dựng xã hội mới. Sự biến đổi của cơ sở hạ tầng dẫn đến biến đổi của kiến trúc thượng tầng là một quá trình diễn ra rất phức tạp, thường trong xã hội có đối kháng giai cấp, tính chất phức tạp ấy thể hiện qua các cuộc đấu tranh giai cấp. 1.2 SỰ TÁC ĐỘNG TRỞ LẠI CỦA CHÍNH TRỊ ĐỐI VỚI KINH TẾ Chính trị không phụ thuộc một chiều vào kinh tế mà nó còn tác động trở lại với kinh tế. V.I. Lênin nói: “chính trị không thể không chiếm vị hàng đầu so với kinh tế”. Nhận xét trên của Lênin cho ta thấy rằng sự tác động tích cực của chính trị đối với kinh tế. Vấn đề kinh tế không tách rời vấn đề chính trị , nó được xem xét, giải quyết theo một lập trường chính trị nhất định. Giai cấp nào cầm quyền cũng hướng kinh tế theo lập trường thống trị của giai cấp đó nhằm phục vụ cho mục đích xã hội nhất định. Lập trường chính trị đúng (hay sai) sẽ thúc đẩy (hay kìm hãm) sự phát triển của kinh tế. V.I. Lênin khẳng định : “ không có lập trường chính trị đúng thì một giai cấp nhất định nào đó không thể nào giữ vững sự thống trị của mình và do đó cũng không thể nào hoàn thành được nhiệm vụ của mình trong lĩnh vực sản xuất”. Khi thể chế chính trị không phù hợp với yêu cầu phát triển của kinh tế thì tất yếu kinh tế sẽ mở đường đi. Khi đó, việc thay đổi thể chế chính trị cho phù hợp với yêu cầu phát triển của kinh tế là điều kiện tiên quyết để thúc đẩy kinh tế phát triển. Sự tác động trở lại của kinh tế đối với chính trị được thực hiện thông qua sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng . Chức năng xã hội cơ bản của kiến trúc thượng tầng là thực hiện nhiệm vụ đấu tranh thủ tiêu cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cũ, xây dựng , bảo vệ , cũng cố và phát triển cơ sở hạ tầng mới. Kiến trúc thượng tầng chính là công cụ của giai cấp thống trị, nhằm thực hiện và duy trì sự thống trị về mặt chính trị và tư tưởng đối với giai cấp bị trị, trong đó, nhà nước, bằng những hình thức nhất định của mình có một vị trí đặc biệt quan trọng đối với cơ sở hạ tầng, kiến trúc thượng tầng không những thực hiện chức năng cưỡng chế, mà bằng hệ thống pháp luật, hệ thống chính sách kinh tế xã hội đúng nó có tác dụng trực tiếp thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế, củng cố vững chắc quan hệ sản xuất thống trị. Các bộ phận khác của kiến trúc thượng tầng cũng có tác dụng mạnh mẽ đối với cơ sở hạ tầng nhưng thường những tác động ấy phải thông qua hệ tư tưởng chính trị pháp luật hay các thể chế tương ứng khác. Trong điều kiện ngày nay vai trò của kiến trúc thượng tầng không giảm đi mà ngược lại tăng lên và tác động mạnh mẽ đến tiến trình lịch sử. Ví dụ: ở các nước tư bản, một mặt giai cấp tư bản đẩy mạnh chạy đua vũ trang, tạo thể áp đảo quân sự, mặt khác, ứng dụng các thành tựu của khoa học kỹ thuật vào quản lý xã hội, phân hoá đội ngũ công nhân, lôi kéo một bộ phận trí thức, công nhân kỹ thuật lành nghề tham gia vào việc phân chia lợi nhuận dưới hình thức các công ty cổ phần. Trái lại, kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa bảo vệ cơ sở hạ tầng xã hội chủ nghĩa nhằm xây dựng xã hội mới, chính mục đích đó quy định tính cực ngày càng tăng của kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa. Tác động của kiến trúc thượng tầng đến cơ sở hạ tầng được thể hiện trong hai trường hợp trái ngược nhau. Nếu kiến trúc thượng tầng phù hợp với quan hệ kinh tế tiến bộ thì sẽ thúc đấy sự phát triển kinh tế xã hội. Ngược lại, nếu kiến trúc thượng tầng là cơ sở của những quan hệ kinh tế lỗi thời, thì sẽ kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế xã hội, nhưng tác động kìm hãm đó chỉ là tạm thời, sớm muộn sẽ bị cách mạng khắc phục về cơ bản. Như vậy, chúng ta có thể khẳng định rằng kinh tế và chính trị thống nhất biện chứng với nhau trên nền tảng quyết định của kinh tế. Đây là cơ sở phương pháp luận quan trọng trong việc nhận thức xã hội nói chung, nhận thức công cuộc đổi mới ở Việt nam nói riêng. 2. MỐI QUAN HỆ GIỮA KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM 2.1 NHẬN THỨC VỀ QUAN HỆ GIỮA KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM Khi bước vào công cuộc đổi mới, Đảng ta đặc biệt nhấn mạnh đổi mới tư duy, nhất là đối với cán bộ lãnh đạo, coi đó là tiền đề để đổi mới trong hiện thực. Nhấn mạnh như vậy là hết sức cần thiết đối với thực tiễn nước ta để vượt ra khỏi thói quen tư duy cũ đang trói buộc chúng ta khi đó. Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là đổi mới tư duy có thể tách khỏi đổi mới trong thực tiễn. Bản thân đổi mới tư duy là phản ánh yêu cầu đổi mới trong thực tiễn và gắn liền với thực tiễn. Chính vì vậy, tổng kết thực tiễn công cuộc đổi mới ở nước ta là cơ sở chủ yếu nhất để không ngừng đổi mới và phát triển tư duy . Vào những năm đầu của công cuộc đổi mới ở nước ta, khi mà Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu vấp phải những thất bại nặng nề, khi mà chúng ta giành được những thắng lợi bước đầu, ở nước ta đã có quan điểm cho rằng nguyên nhân thất bại của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu là do ở các nước này đổi mới chính trị trước, đổi mới kinh tế sau ; còn nguyên nhân thành công của công cuộc đổi mới ở Việt Nam là đổi mới kinh tế trước, đổi mới chính trị sau. Quan điểm này xem qua tưởng là chính xác, nhưng đo vào phân tích sẽ thấy nó không phù hợp với lý luận và thực tiễn. Theo quan điểm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác-Lênin như phần 1 đã trình bày, mỗi khi chính trị không còn phù hợp với kinh tế thì thay đổi về chính trị là điều kiện tiên quyết để thay đổi về kinh tế, thúc đẩy kinh tế phát triển. Cho nên, không thể qui nguyên nhân thất bại trong đổi mới ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu là đổi mới chính trị trước, đổi mới kinh tế sau. Nguyên nhân thực sự dẫn đến sụp đổ chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu là do mâu thuẫn giữa kinh tế và chính trị không được phát hiện và khắc phục sớm dẫn đến khủng hoảng nghiêm trọng về chính trị, làm mất vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Khẳng định rằng nước ta đổi mới kinh tế trước, đổi mới chính trị sau cũng không phù hợp với thực tiễn. Sự thật là phải có đường lối đổi mới do Đảng ta đề ra, trên cơ sở đó hình thành chính sách mới, luật pháp mới v.v... thì mới có thể đổi mới kinh tế. Bản thân đường lối đổi mới của Đảng cùng với chính sách, luật pháp v.v... của Nhà nước đều thuộc về chính trị. Vấn đề là ở chỗ : lĩnh vực chính trị là lĩnh vực hết sức phức tạp, liên quan đến quyền thống trị giai cấp, nó có ý nghĩa quyết định thành bại của công cuộc đổi mới nên phải tiến hành từng bước hết sức thận trọng. Đổi mới chính trị phải trên cơ sở đổi mới kinh tế, gắn liền đổi mới kinh tế và đáp ứng nhu cầu của đổi mới kinh tế. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (tháng 6 năm 1991) , Đảng ta đã khẳng định : “Về quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, phải tập trung sức làm tốt đổi mới kinh tế, đáp ứng đòi hỏi cấp bách của nhân dân về đời sống, việc làm và các nhu cầu xã hội khác, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, coi đó là điều kiện quan trọng để tiến hành thuận lợi đổi mới trong lĩnh vực chính trị. Đồng thời với đổi mới kinh tế, phải từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, phát huy ngỳa càng tốt quyền làm chủ và năng lực sáng tạo của nhân dân trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội. Vì chính trị đụng chạm đến các mối quan hệ đặc biệt phức tạp và nhạy cảm trong xã hội, nên việc đổi mới hệ thống chính trị nhất thiết phải trên cơ sở nghiên cứu và chuẩn bị rất nghiêm túc, không cho phép gây mất ổn định chính trị dẫn đến rối loạn. Nhưng không vì vậy mà tiến hành chậm chễ đổi mới hệ thống chính trị nhất là về tổ chức bộ máy và cán bộ, mối quan hệ giữa Đảng , Nhà nước và các đoàn thể nhân dân, bởi đó là điều kiện để thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội và thực hiện dân chủ .” Điều đó cho thấy Đảng đã không tách rời đổi mối kinh tế với đổi mới chính trị, mà gắn đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị. Đảng ta khẳng định rằng phải tập trung sức làm tốt đổi mới kinh tế và đồng thời đổi mới kinh tế phải tiến hành từng bước đổi mới chính trị, thận trọng , không gây mất ổn định về chính trị. Tư tưởng trên đã được tiếp tục phát triển một cách rõ ràng hơn ở Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (tháng 6 năm 1996) của Đảng ta. Khi tổng kết bài học của 10 năm đổi mới, Đảng ta đã khẳng định phải “kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị” . Đây là một cách khái quát mới, hoàn toàn khoa học, nó vừa phù hợp với lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, vừa phù hợp với thực tiễn công cuộc đổi mới ở nước ta. 2.2 NHẬN THỨC VỀ ỔN ĐỊNH CHÍNH TRỊ VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ Trong khi đề ra đổi mới chính trị, Đảng ta luôn nhấn mạnh phải ồn định chính trị. Thực tiễn trên thế giới cho thấy ổn định chính trị là điều kiện hết sức cơ bản để phát triển kinh tế. Nó tạo ra môi trường để thu hút nguồn đầu tư trong nước và trên thế giới, tạo điều kiện phát triển sản xuất, kinh doanh. Những thành tựu trong 10 năm đổi mới vừa qua cũng khẳng định điều đó. Những thành tựu đó không thể tách rời việc chúng ta giữ vững ổn định về chính trị. Ổn định về chính trị, nói một cách khái quát , là giai cấp cầm quyền phải tăng cường quyền lực chính trị của mình ; nhà nước của giai cấp đó phải mạnh và có hiệu lực, luật pháp phải nghiêm minh ; chế độ xã hội đã xác lập phải được giữ vững. Đối với nước ta hiện nay ổn định chính trị được biểu hiện ở mặt sau : Trước hết là quá trình tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng , xây dựng đường lối chính trị đúng đắn. Ra đời và phát triển một cách hợp quy luật, Đảng Cộng sản Việt Nam đã được xã hội giao cho sứ mệnh xây dựng đường lối phát triển đất nước. Đảng ta dứt khoát không được sai lầm chính trị. Sai lầm về đường lối là sai lầm nghiêm trọng nhất đối với xã hội, với vận mệnh tổ quốc và sinh mạng chính trị của hàng triệu đảng viên cũng như của hàng triệu nhân dân lao động. Bài học từ sự sụp đổ của Đảng Cộng sản Liên Xô và các đảng cộng sản cầm quyền ở Đông Âu đầu những năm 90 đã nói lên điều đó. Một vấn đề được đặt ra là : thế nào là đường lối chính trị đúng đắn và để có đường lối chính trị đúng thì Đảng phải như thế nào ? Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định : “Phải có đường lối cách mạng đúng , có đảng của giai cấp vô sản lãnh đạo đúng. Đường lối ấy chỉ có thể là đường lối của chủ nghĩa Mác- Lênin được vận dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của dân tộc. Ở Việt Nam, đường lối ấy chỉ có thể là đường lối của giai cấp vô sản và đảng của nó là Đảng Lao động Việt Nam. Đảng phải thật sự là đội tiên phong dũng cảm và bộ tham mưu sáng suốt của giai cấp vô sản, của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Ngoài ra ổn định chính trị còn là quá trình nâng cao vai trò của nhà nước XHCN, xây dựng nhà nước pháp quyền kiểu mới. Điều đó thật hiển nhiên, bởi vì mỗi loại hình nhà nước trong lịch sử đều theo đuổi các mục tiêu nhất định. Vì vậy khi chuyển đổi cơ cấu và cơ chế quản lý của một nền kinh tế nhất thiết phải thay đổi cùng với nó về căn bản toàn bộ hình thức tổ chức nhà nước và hệ thống luật pháp. Rõ ràng nếu chỉ đổi mới cơ chế quản lý và kinh tế mà không đổi mới cơ cấu tổ chức nhà nước và hệ thống luật pháp tương ứng thì chắc chắn không tạo được những chuyển biến tích cực về kinh tế - xã hội. Tuy nhiên đổi mới hệ thống bộ máy nhà nước, làm cho nó thích ứng với nền kinh tế thị trường không có nghĩa là chúng ta sẽ làm thay đổi bản chất và những nguyên tắc cơ bản vốn có của nhà nước XHCN, mà một mặt phải bảo đảm trên thực tiễn nhà nước thực sự là công cụ điều hành có hiệu quả vĩ mô trong cơ chế thị trường ; xây dựng cho được một hệ thống luật pháp hiện đạt, đồng bộ đủ sức quản lý mọi mặt đời sống xã hội; tạo điều kiện tốt nhất để khai thác mọi tiềm năng, phát huy dân chủ, bảo đảm công bằng và tiến bộ xã hội, đấy mạnh hợp tác và liên kiết quốc tế, thực hiện nhất quán chính sách ngoại giao của Đảng “ Việt nam mong muốn làm bạn với tất cả các nước ” ; mặt khác phải luôn sáng tạo, phải có những giải pháp và các bước đi thích hợp để không thay đổi nửa vời và vẫn đảm bảo những nguyên tắc có tính nhất quán. Tóm lại, ổn định chính trị là một quá trình rất quan trọng để phát triển kinh tế, đưa nước ta bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá. 2.3 THỰC TIỄN CỦA QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM Có thể nói Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 6 (12-1986) của Đảng Cộng sản Việt Nam đánh dấu bước ngoặt lớn đưa nước ta sang một giai đoạn mới - giai đoạn thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị và xã hội. Về kinh tế Đảng ta mạnh dạn chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp sang kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Đây là hình thái kinh tế cao hơn kinh tế thị trường TBCN thể hiện ở : Sự giống nhau giữa nền kinh tế tư bản chủ nghĩa và nền kinh tế thị trường định hướng XHCN xuất phát từ tính khách quan của nó. Cả hai kiểu kinh tế thị trường này đều chịu sự tác động của cơ chế thị trường với hệ thống các quy luật : quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh, quy luật lưu thông tiền tệ v.v... Đồng thời cả nền kinh tế thị trường ở các nước tư bản chủ nghĩa và nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đều là các nền kinh tế hỗn hợp, tức là nền kinh tế thị trường có sự điều tiết (quản lý) của nhà nước. Tuy nhiên, sự can thiệp của Nhà nước ở các nền kinh tế là khác nhau. Không có nền kinh tế thị trường thuần tuý (hoàn hảo), chỉ vận hành theo cơ chế thị trường. Sự khác nhau giữa nền kinh tế tư bản chủ nghĩa và nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là ở mục tiêu, phương thức và mức độ can thiệp của Nhà nước và sự can thiệp này do bản chất Nhà nước quyết định. Nhà nước trong một nền kinh tế thị trường định hướng xẫ hội chủ nghĩa là Nhà nước của dân, do dân, vì dân ; Nhà nước trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa là Nhà nước của giai cấp tư sản. Một xu hướng rất đáng chú ý là tuy Nhà nước tư bản chủ nghĩa đã có ý thức tự điều chỉnh, dung hoà lợi ích của các tầng lớp xã hội, các giai cấp khác nhau, để giảm bớt mâu thuẫn, ổn định chính trị, ổn định xã hội, vì mục tiêu phát triển kinh tế. Song do sự chi phối và điều tiết của các quy luật kinh tế của chủ nghĩa tu bản, của lợi ích giai cấp, nên dù họ có ý thức tự điều chỉnh cũng khó thực hiện. Sự can thiệp của Nhà nước bảo đảm mục tiêu phát triển công bằng chỉ có thể thực hiện được với một nhà nước của dân, do dân và vì dân , Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Mặc dù chúng ta chưa có một mô hình chủ nghĩa xã hội hoàn chỉnh để nghiên cứu từ thực tiễn, nhưng có thể khẳng định nội dung định hướng xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang hướng tới là “quá trình thực hiện dân giàu, nước mạnh, tiến lên hiện đại trong một xã hội nhân dân làm chủ, nhân ái, có văn hóa, có kỷ cương, xoá bỏ áp bức, bất công, tạo điều kiện cho mọi người có cuộc sống ấm no hạnh phúc ”. Sau này, khi nói về định hướng này, ta thường rút gọn thành “dân giàu , nước mạnh, xã hội dân chủ công bằng văn minh”. Với 5 mục tiêu này Đảng đã đề ra 5 phương cách để thực hiện : Một là, Phải nhận thức rõ ràng, chỉ có cơ chế của kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước với các qui luật nội tại của nó, được xác định rõ phương hướng, mục tiêu mới có thể phát huy tối đa khả năng của mọi thành viên xã hội làm giàu cho mình, làm giàu cho mình, làm giàu cho đất nước thúc đẩy lực lượng sản xuất xã hội phát triển, làm cho dân giàu, nước mạnh. Các nước và vùng lãnh thổ quanh ta như Nhật Bản, tuy bị tàn phá nặng nề trong chiến tranh thế giới thứ 2, nhưng đã mau chóng đuổi kịp các nước phát triển mạnh nhất : Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Công, Xin-ga-po, chỉ trong vòng hơn 30 năm, từ tình trạng nghèo nàn lạc hậu, đã nhanh chóng thành các nước công nghiệp mới v.v... là những dân chứng lịch sử về sức mạnh của cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Tuy vậy, vì ở các nước này, nền kinh tế dựa trên cơ sở sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa dưới sự quản lý của một Nhà nước tư sản nên đã xuất hiện không ít mặt tiêu cực. Một mặt, chúng ta cần nghiên cứu kỹ để chủ động phòng chống tránh có hiệu quả. Mặt khác, tiếp thu học hỏi những kinh nghiệm quý, những mặt tích cực của các nền kinh tế này để đẩy nhanh tốc độ phát triển lực lượng sản xuất của nền kinh tế nước ta. Hai là, Phải tạo một môi trường vĩ mô tốt để huy động tiềm năng của mọi thành phần kinh tế vào sự nghiệp phát triển đất nước. Và trong cơ cấu thành phần kinh tế đó, thành phần kinh tế Nhà nước phải được xác định đúng về mô hình tổ chức và định hướng phát triển, chọn đúng cán bộ tốt, có cơ chế, chính sách phù hợp để thành phần kinh tế này, không ngừng được củng cố và phát triển nhằm phát huy vai trò chủ đạo. Một bộ phận quan trọng của nền kinh tế nhà nước phải phát triển trên nguyên tắc năng suất, chất lượng và hiệu quả ngày càng nâng cao và cùng bình đẳng với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Vì chỉ trên cơ sở xác định được hiệu quả kinh tế xã hội rõ ràng, cụ thể, mới có tiêu chuẩn tìm chọn nhân tài, có đạo đức tốt, khả năng quản lý giỏi để đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế. Ba là, Khẳng định rõ động lực kích thích đối với mọi cá nhân và tập thể trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là vận dụng tốt phương thức phân phối theo lao động kết hợp với phân phối theo các nhân tố sản xuất khác như vốn, và tài sản v.v... Chính phương thức phân này sẽ là một nhân tố quan trọng cho phép huy động tối đa mọi nguồn lực ( lao động, vốn , tài sản cả trong và ngoài nước ) cùng làm cho “dân giàu, nước mạnh”. Bốn là, Chủ động hội nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực theo mức độ, thời gian thích hợp với từng giai đoạn trên nguyên tắc vừa bảo vệ độc lập dân tộc, vừa tận dụng sức mạnh của nền kinh tế thế giới và sự hợp tác quốc tế. Và muốn hội nhập có hiệu quả thì việc phát huy nội lực là điều kiện và yếu tố không thể thiếu. Quan điểm này phải được quán triệt trên phạm vi cả nước, từng địa phương và mỗi đơn vị cơ sở. Năm là, Phải xây dựng được một nhà nước “của dân, do dân , vì dân”, thực sự trong sạch vững mạnh, phải tự đổi mới nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý, điều tiết được nền kinh tế thị trường. Đó là tác nhân có tầm quyết định để bảo đảm tính thống nhất trong đính hướng, bảo đảm ổn định chính trị, xã hội, bảo đảm thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, nói cách khác là bảo đảm nền kinh tế quốc dân phát triển lành mạnh, bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa và hạn chế những mặt trái của cơ chế thị trường. Bên cạnh những chính sách mới về kinh tế Đảng đề ra đường lối chính trị đúng đắn. Đó là kiên định và phát triển con đường XHCN đã lựa chọn . Và “Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được xác định rõ hơn”. Tiếp thu và hiện thực hoá chủ nghĩa Mác-Lênin trên mảnh đất Việt Nam, ngay khi mới ra đời, Đảng ta khẳng định, mục tiêu lý tưởng của con đường phát triển của nước nhà là đi lên CNXH. Bằng cuộc cách mạng không ngừng, mà trước hết phải làm cách mạng tư sản dân quyền với hai nhiệm vụ phản đế, phản phong rồi tiến lên thực hiện “kỳ được XHCN” thông qua con đường bỏ qua thời kỳ TBCN. Đồng thời , Đảng ta cũng tiên liệu, sự phát triển của cách mạng Việt Nam tiến tới mục tiêu lý tưởng của mình. Điều này có ý nghĩa không chỉ về tổ chức thực tiễn mà cả về lý luận ; là nguồn cổ vũ mạnh mẽ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời đại ngày nay đi trên con đường XHCN. Việt Nam đã tiến những bước quan trọng “đã giúp cách mạng Việt Nam ra khỏi cơn bão tố của thời đại”, như một tờ báo Mỹ nhận định ; và như một chính khách nước ngoài đánh giá, chính “điều này đang mở ra con đường đi tới một nước Việt Nam XHCN phồn vinh và hiện đại”. Nét đặc trưng của con đường đi lên CNXH ở Việt Nam thể hiện ở : Con đường lên CNXH là con đường có tính chất rút ngắn biện chứng và hợp quy luật. Nước ta quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN, từ một xã hội vốn là thuộc địa , nửa phong kiến (nghèo nàn lạc hậu ) lại thêm nhiều năm chiến tranh nhưng dù bỏ qua mội dung chính trị TBCN bao gồm cả kiến trúc thượng tầng , chứ tuyệt nhiên không phải bỏ qua những thành tựu với tính cách là văn minh loài người do CNTB tạo nên hoặc sử dụng như trình độ phát triển lực lượng sản xuất, khoa học kỹ thuật, nền dân chủ, quản lý nhà nước và xã hội v.v... Đó chính là biện chứng bỏ qua trong cách xử lý của Đảng ta phục vụ cho việc kiến lập và phát triển con đường lên CNXH ở nước ta. Con đường lên CNXH ở Việt Nam là con đường xuất phát từ thực tế Việt Nam, thực hiện bằng phương thức, bước đi Việt Nam. Là quá trình tìm tòi, đổi mới tư duy tổng kết thực tiễn từ quần chúng dù có lúc không tránh khỏi sai lầm và thất bại tạm thời. Con đường phát triển của Việt Nam tôn trọng quá trình phát triển của lịch sử -tự nhiên, phát huy nội lực Việt Nam. Con đường lên CNXH ở Việt Nam là con đường nhỏ mang bản sắc Việt Nam trong con đường lớn toàn thế giới quá độ từ CNTB lên CNXH. Bởi lẽ sự vận động của lịch sử nhân loại là tất yếu đi lên CNXH như đồng chí Ph.Blen-ki Tê-xây-ra (Bồ Đào Nha) khẳng định : “...Vì con đường XHCN là một di sản đem lại cảm hứng cho tất cả những ai đang đấu tranh cho giải phóng dân tộc và xã hội”. Đó là sợi dây liên hệ gắn bó Việt Nam với “cuộc đấu tranh chung của thế giới tiến bộ”. Những thành tựu đạt được trong 10 năm qua đã khẳng định con đường đổi mới của Đảng là đúng đắn, phù hợp với qui luật khách quan phù hợp với xu thế thời đại. Tốc độ tăng trưởng GDP thời kỳ 1991-1999 là cao nhất so với tất cả các thời kỳ trước ở Việt Nam, GDP theo đầu người cũng tăng lên và đặc biệt kinh tế không còn dựa vào bao cấp viện trợ, vay nợ nước ngoài lớn như thời kỳ chưa cải cách nên có ý nghĩa đích thực và thể hiện mức độ tự lớn lên của bản thân nền kinh tế nước ta. Điều này thể hiện rõ khi so sánh GDP với khối lượng tiêu dùng cuối cùng. Những năm 90 trở về trước khối lượng GDP nhỏ hơn khối lượng tiêu dùng cuối cùng tức là thời kỳ trước 91, chúng ta ăn không đủ , toàn bộ quý tích luỹ một phần tiêu dùng cuối cùng là từ nguồn vốn nước ngoài. Từ năm 1991 đến nay khối lượng GDP đã nhiều hơn tiêu dùng cuối cùng. Chúng ta đã có tích luỹ từ sản xuất trong nước.Không những thế tỉ lệ tích luỹ đã tăng tương đối nhanh. Sản suất nông nghiệp từ 1989 đến đây đã nước ta thì nhập khẩu lương thực mỗi năm 0,5 triệu tấn trở thành nước xuất khẩu lương thực mỗi năm từ 2 đến 4,5 triệu tấn, đứng thứ 3 thế giới về xuất khẩu mặt hàng này. Sản xuất công nghiệp đi vào thế ổn định và phát triển với tốc độ cao bình quân mỗi năm, sản xuất công nghiệp tăng 11,8%, cao nhất từ trước đến nay. Kể từ khi có luật đầu tư nước ngoài 29/12/1987 số vốn đầu tư nước ngoài đã đạ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35045.doc
Tài liệu liên quan