Một số biện pháp nhằm góp phần thúc đẩy hoạt động kinh doanh Xuất nhập khẩu tại Công ty DETESCO Việt Nam

Lời nói đầu Cùng với việc chuyển sang cơ chế thị trường, nền kinh tế mở cửa và đang từng bước hội nhập với nền kinh tế thế giới. Hoạt động xuất nhập khẩu chiếm một vị trí ngày càng quan trọng hơn trong nền kinh tế Việt Nam. Nó là hoạt động kinh doanh mang tính chất quốc tế làm cầu nối kinh tế Việt Nam với kinh tế thế giới. Hiện nay hoạt động XNK đang là lĩnh vực sôi động nhất trong nên kinh tế. Xuất nhập khẩu là hai hoạt động có tác động rất lớn đến nền kinh tế, nó có tính chất quyết định với q

doc76 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1257 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số biện pháp nhằm góp phần thúc đẩy hoạt động kinh doanh Xuất nhập khẩu tại Công ty DETESCO Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uá trình phát triển kinh tế, công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước bởi hai hoạt động này đóng vai trò mũi nhọn thúc đẩy nền kinh tế trong nước hội nhập với nền kinh tế thế giới, phát huy những lợi thế so sánh của đất nước, tận dụng tiềm năng về vốn, công nghệ, khoa học kỹ thuật, kỹ năng quản lý tiên tiến từ bên ngoài, duy trì và phát triển văn hoá dân tộc, tiếp thu những tinh hoa của văn háo nhân loại. Chính vì vậy nắm bắt được nó chính là đã nắm bắt được điểm mấu chốt để phát triển sản xuất, phát triển đất nước. Hiện nay trên thị trường các bạn hàng quốc tế hết sức sành sỏi về kinh nghiệm, giỏi về nghiệp vụ, hiện đại về cơ sở vật chất kỹ thuật trong khi chúng ta còn đang kém về mọi mặt thì việc luôn bất bình đẳng, không bị thiệt thòi với họ là rất khó khăn. Chính vì vậy nghiên cứu hoạt động xuất nhập khẩu để hiểu rõ, nhận thức được các vấn đề hữu ích và rút ra kinh nghiệm là điều cần thiết. Với nhận thức trên cùng với mong muốn được học tập, tìm hiểu mọi khía cạnh của hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, tôi quyết định chọn đề tài : "Một số biện pháp nhằm góp phần thúc đẩy hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu tại công ty DETESCO Việt Nam" Là một đề tài hấp dẫn đối với tôi, bởi vậy kiến thức đã được trang bị trong nhà trường cũng như sự tìm hiểu qua sách báo vận dạng vào nơi thực tập, tôi mong muốn được tìm hiểu phần nào vấn đề nhằm củng cố mở mang kiến thức của mình trong lĩnh vực này. Nội dung bài viết bao gồm các vấn đề sau: Phần I: Những vấn đề cơ sở lý luận chung về hoạt động XNK. Phần II: Nghiên cứu hoạt động XNK tại Công ty DETESCO Việt Nam. Phần III: Một số biện pháp nhằm góp phần thúc đẩy hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu tại công ty DETESCO Việt Nam. PHẦN I NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU I/ KHÁI NIỆM, VAI TRÒ, CHỨC NĂNG CỦA HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU Như ta đã biết, hoạt động thương mại quốc tế là hết sức cần thiết vì nó cho phép khai thác lợi thế của nước xuất khẩu và đồng thời mở rộng khả năng tiêu dùng của nước nhập khẩu. Thực tế cho thấy mỗi quốc gia cũng như cá nhân không thể sống riêng rẽ mà vẫn tồn tại được, cùng một lúc chúng ta không thể có mọi thứ đều tốt đẹp nhất, tốt nhất, độc đáo nhất, nếu không có sự trao đổi mua bán, chính việc trao đổi mua bán các giá trị sử dụng khác nhau làm cho mỗi quốc gia có quỹ hàng hoá phong phú, đa dạng, đời sống khá giả, sung túc và thịnh vượng. Đối với nước ta thương mại quốc tế nhằm thúc đẩy tiềm năng và thế mạnh trong nước và nước ngoài một cách có lợi nhất. Trên cơ sở đó, tiến hành phân công lại lao động, khai thác mọi tiềm năng để sản xuất nhiều dịch vụ hàng hoá xuất khẩu. Chính vì vậy, Đảng và nhà nước ta đã nhận thức được vai trò của thương mại quốc tế đối với sự phát triển của đất nước, đã chủ trương phát triển một nền kinh tế mở cửa tăng cường quan hệ với tất cả các nước trên thế giới trên cơ sở bình đẳng đôi bên cùng có lợi. Đây là chủ trương hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với thời đại và xu hướng phát triển của thế giới đưa nền thương mại quốc tế nước ta tiến lên không ngừng trong những năm qua, thúc đẩy nền kinh tế với tốc độ cao. Sau đây ta đi sâu nghiên cứu cụ thể hoạt động xuất khẩu và hoạt động nhập khẩu. 1/ Hoạt động xuất nhập khẩu 1.1.Khái niệm về xuất khẩu Xuất khẩu là hoạt động đưa hàng hoá ở trong nước ra nước ngoài tiêu thụ để thu ngoại tệ. Xét dưới góc độ này xuất khẩu thuộc hành vi hàng-tiền. Hàng xuất khẩu được coi là điều kiện vật chất hoặc phương tiện cụ thể để kinh doanh còn doanh thu ngoại tệ là mục tiêu hàng xuất khẩu bao gồm: hàng sản xuất trong nước, hàng xuất khẩu tại chỗ (bán cho các tổ chức cá nhân, người nước ngoài đang cư trú trong nước), hàng hoá nhập khẩu để tái xuất và các loại hàng hoá liên doanh với nước ngoài để sản xuất và xuất khẩu. 1.2. Vai trò và chức năng của hoạt động xuất khẩu Trong hầu hết các quốc gia, vấn đề xuất khẩu thường rất được chú trọng và quan tâm trong chiến lược phát triển kinh tế của mình. Thực tế chứng minh rằng trong những quốc gia mà việc xuất khẩu hàng hoá chiếm tỷ trọng lớn trong hoạt động ngoại thương thì quốc gia đó có một nền kinh tế phát triển ổn định và vững mạnh. Xuất khẩu có vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tếcó thể thấy ở các mặt sau: Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu, xuất khẩu là hoạt động kinh doanh để đem lại lợi nhuận lớn, xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng kinh tế hướng ngoại, xuất khẩu có vai trò quan trọng trong việc tạo thêm công ăn việc làm và cải thiện đời sống của nhân dân, xuất khẩu thúc đẩy khai thác và sử dụng có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên ,... Nhà nước ta luôn coi trọng và thúc đẩy các ngành kinh tế hướng theo xuất khẩu, khuyến khích các thành phần kinh tế mở rộng xuất khẩu để giải quyết công ăn việc làm và trưng thu ngoại tệ. Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu bởi công nghiệp hoá đất nước đòi hỏi phải có số vốn rất lớn đển nhập khẩu máy móc, thiết bị, kỹ thuật và vật tư, công nghệ tiên tiến. Có một số nguồn vốn để nhập khẩu như nguồn vốn tự có, nguồn vốn từ nhập khẩu, đầu tư nước ngoài, vay nợ và viện trợ...Nguồn vốn tự có của một nước đang phất triển như Việt nam là rất hạn chế, vay nợ và viện trợ cũng phải trả bằng cách này hay cách khác, do đó để nhập khẩu nguồn vốn quan trọng nhất là từ xuất khẩu. Xuất khẩu quyết định quy mô và tốc độ tăng của nhập khẩu. Xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng kinh tế hướng ngoại. Vì: thay đổi cơ cấu sản xuất và tiêu dùng một cách có lợi nhất, đó là thành quả của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá ở nước ta là phù hợp với xu hướng phát triển của kinh tế thế giới. Sự tác động của xuất khẩu đối với sẩn xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế có thể được nhìn nhận theo các hướng sau: - Xuất khẩu những sản phẩm của nước ta cho nước ngoài. - Xuất phát từ nhu cầu thực tế của thị trường thế giới để tổ chức sản xuất và xuất khẩu những sản phẩm mà các nước khác cần. Điều đó có tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuát phát triển. - Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành liên quan phát triển thuận lợi. Ví dụ: Khi phát triển dệt sẽ tạo điều kiện phát triển ngành sản xuất nguyên liệu như bông hay thuốc nhuộm. Sự phát triển của công nghiệp chế biến thực phẩm xuất khẩu như dầu thực vật, chè kéo theo sự phát triển của ngành công nghiệp chế tạo thiết bị. - Xuất khẩu tạo diều kiện mở rộng thị trường tiêu thụ. cung cấp đầu vào cho sản xuất, khai thác tối đa sản xuất trong nước. - Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế - kỹ thuật nhằm đổi mới thường xuyên năng lực sản xuất trong nước. Nói cách khác, xuất khẩu là cơ sở tạo thêm vốn và kỹ thuật, công nghệ tiên tiến từ thế giới bên ngoài vào Việt Nam nhằm hiện đại hoá nền kinh tế nước ta. - Thông qua xuất khẩu, hàng hoá Việt Nam sẽ tham gia cạnh tranh với hàng hoá khác trên thế giới về giá cả, chất lượng. Cuộc cạnh tranh này đòi hỏi phải tổ chức lại sản xuất cho phù hợp với nhu cầu thế giới. - Xuất khẩu còn đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn thiện công tác quản lý sản xuất, kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành. Bên cạnh đó, xuất khẩu còn có vai trò quan trọng trong việc tạo thêm công ăn việc làm và cải thiện đời sống của nhân dân. Trước hết, sản xuất hàng xuất khẩu thu hút hàng triệu lao động, tạo nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời sống nhân dân. Mặt khác, xuất khẩu còn là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta: xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại làm cho nền kinh tế nước ta gắn chặt với phân công lao động quốc tế. Thông thường hoạt động xuất khẩu ra đời sớm hơn các hoạt động đối ngoại khác nên nó thúc đẩy các quan hệ này phát triển. Chẳng hạn như xuất khẩu và sản xuất hàng xuất khẩu thúc đẩy quan hệ tín dụng, đầu tư, vận tải quốc tế... đến lượt nó chính các quan hệ đối ngoại lại tạo tiền đề để mở rộng xuất khẩu. Hoạt động xuất khẩu còn kích thích sản xuất trong nước phát triển, trước hết là trong nông nghiệp và các ngành chế biến qua đó thúc đẩy phân công lao động phát triển. Nhờ có hoạt động xuất khẩu hàng hoá mà một số ngành nghề truyền thống đã được khôi phục, hình thành các vùng chuyên canh trong nông - lâm - ngư nghiệp dựa trên những ưu thế về điều kiện tự nhiên đất đai, khí hậu, lao động... Tóm lại, đẩy mạnh xuất khẩu được coi là vấn đề có ý nghĩa chiến lược để phát triển kinh tế, thực hiện công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước Xuất khẩu Việt Nam mặc dù đã đạt được những thành tựu quan trọng cả về kim nghạch và cơ cấu cũng như thị trường song còn nhiều vấn đề phải khắc phục. Phân tích hoạt động kinh doanh xuất khẩu thời gian gần đây có thể rút ra một số kết luận: - Tuy tốc độ xuất khẩu tăng nhanh nhưng quy mô còn rất nhỏ bé, chưa đáp ứng được nhu cầu cần nhập khẩu của nền kinh tế. - Cơ cấu xuất khẩu thay đổi chậm, phần lớn xuất khẩu nguyên liệu ở dạng sơ chế. Chất lượng hàng hoá xuất khẩu của ta còn thấp nên khả năng cạnh tranh còn thấp. - Hàng xuất khẩu còn manh mún, chưa có hàng xuất khẩu chủ lực. - Kim ngạch xuất khẩu thấp, nhưng lại có quá nhiều đơn vị tham gia hoạt động xuất nhập khẩu dẫn đến tăng hàng hoá nhập khẩu và bán rẻ hàng xuất khẩu tạo điều kiện cho thương nhân nước ngoài ép giá. Để khắc phục tình trạng trên, trước hết hoạt động xuất khẩu cần hướng vào thực hiện các nhiệm vụ sau: - Mở rộng thị trường, nguồn hàng và đối tác kinh doanh xuất khẩu nhằm tạo thành cao trào xuất khẩu, coi xuất khẩu là mũi nhọn đột phá cho sự giàu có. - Phải ra khai thác mọi nguồn lực của đất nước như đất đai, nhân lực, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất, kỹ thuật - công nghệ chất xám theo hướng khai thác lợi thế tuyệt đối so sánh. - Nâng cao năng lực sản xuất hàng xuất khẩu để tăng nhanh khối lượng và kim ngạch xuất khẩu. - Tạo những mặt hàng, nhóm hàng chủ lực đáp ứng những đòi hỏi của thị trường thế giới và của khách hàng về chất lượng và số lượng, có sức hấp dẫn và khả năng cạnh tranh cao. Bên cạnh đó cần phải phát triển nguồn hàng xuất khẩu như: - Căn cứ vào tình hình và xu hướng phát triển của thị trường - Căn cứ vào nguồn lực bên trong bao gồm dân số và lao động, tài nguyên thiên nhiên... - Căn cứ vào hiệu quả kinh tế và hiệu quả kinh doanh. - Căn cứ vào chiến lược chuyển hướng xuất khẩu nguyên liệu và sản phẩm thô sang hàng hoá có chứa hàm lượng khoa học kỹ thuật. - Hình thành các vùng chuyên sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu. 1.3. Các công cụ quản lý nhà nước về xuất nhập khẩu ở Việt Nam Việc quản lý xuất khẩu được thực hiện bằng cơ chế giấy phép xuất khẩu, hạn ngạch xuất khẩu và bằng các quy chế quản lý ngoại tệ. Không phải lúc nào Nhà nước cũng khuyến khích xuất khẩu mà đôi khi vì quyền lợi quốc gia phải kiểm soát một vài dạng xuất khẩu, như sản phẩm đặc biệt-nguyên liệu quý- do nhu cầu trong nước còn thiếu hoặc có ý nghĩa chiến lược đối với quốc gia. Nhưng nguyên nhân chủ yếu phải kiểm soát xuất khẩu của nước ta là do: Cấm vận buôn bán, bảo vệ tiềm năng, bảo vệ động vật và cây trồng, bảo vệ di sản văn hoá và các đồ cổ... 1.3.1. Thủ tục hải quan xuất khẩu hàng hoá Hàng xuất khẩu phải làm thủ tục hải quan khi xuất khẩu theo các quy định chính thức về xuất khẩu hàng hoá và có khi theo yêu cầu của nước nhập khẩu.Việc làm thủ tục xuất khẩu hàng hoá liên quan tới các biện pháp quản lý như: - Hạn chế số lượng ( giấy phép xuất khẩu) - Hạn chế ngoại tệ (giám sát ngoại hối) - Hạn chế tài chính (kiểm tra hải quan, thuế quan) - Nhu cầu thống kê thương mại (báo cáo thống kê) - Kiểm tra số lượng, chất lượng, kiểm tra vệ sinh y tế. - Kiểm tra áp dụng các biện pháp ưu đãi thuế quan (giấy chứng nhận xuất xứ) Các chứng từ phục vụ cho việc kiểm tra hải quan khi xuất khẩu hàng hoá gồm: - Giấy phép xuất khẩu - Tờ khai kiểm tra ngoại hối. - Tờ khai hàng hoá (Khai hải quan) - Giấy chứng nhận kiểm tra hàng hoá - Giấy chứng nhận kiểm dịch thực, động vật - Giấy chứng nhận xuất xứ - Tờ khai hàng nguy hiểm - Hoá đơn lãnh sự (nếu có) hoặc hoá đơn thương mại Khi làm thủ tục hải quan thông thường phải kiểm tra tư cách pháp nhân của người xuất khẩu, cũng như kiểm tra các chứng từ có hợp lệ và đúng quy định không. 1.3.2. Thủ tục Các hình thức hạn chế xuất khẩu được áp dụng tuỳ từng nước, từng mặt hàng. Một số nước chỉ cho phép một số tổ chức có quyền xuất khẩu một số mặt hàng nhất định. Ở Việt Nam, chế độ hạn ngạch xuất khẩu được quy định theo quyết định số 96/HĐBT ngày 5/04/1994 của Hội đồng bộ trưởng về quản lý xuất nhập khẩu. Hàng năm. Bộ Thương mại công bố danh mục các mặy hàng quản lý bằng hạn ngạch sau khi thống nhất với Bộ Kế hoạch và đầu tư, Bộ quản lý sản xuất và được Thủ tướng chính phủ phê duyệt. Sau đó, Bộ Thương mại phân bố hạn ngạch cho các ngành, các địa phương. 1.3.4. Quản lý ngoại tệ Đa số các nước đang phát triển đều quy định cho các nhà xuất khẩu phải chuyển khoản ngoại tệ vào ngân hàng thương mại được phép khinh doanh ngoại tệ. Nhưng cũng có nhiều nước cho phép dùng số ngoại tệ thu được do xuất khẩu để nhập khẩu hàng hóa cần thiết. Người xuất khẩu phải biết chắc chắn là người mua có quyền thanh toán hàng hoá bằng ngoại tệ mà ngân hàng quản lý cho phép đối với hàng xuất khẩu của mình. Thông thường các ngân hàng công bố các loại ngoại tệ có thể nhập khi xuất khẩu. Đố thường là những loại ngoại tệ tự do chuyển đổi. Một biện pháp quan trọng nữa là Nhà nước cấm gửi ngoại tệ thu được do xuất khẩu vào các ngân hàng ở nước ngoài. Nếu người đó mở tài khoản ở nước ngoài thì lô hàng đó chưa được thanh toán và người xuất khẩu đã vi phạm chế độ quản lý ngoại hối. 2. Hoạt động nhập khẩu 2.1. Khái niệm nhập khẩu Nhập khẩu là hoạt động mua hoặc trao đổi hàng hoá của các tổ chức cá nhân trong nước với các tổ chức hoặc cá nhân ngoài nước. Hàng hoá nhập khẩu có thể là : Hàng sản xuất ở nước ngoài, hàng của các tổ chức và cá nhân nước ngoài nhưng được sản xuất ở trong nước (sản phẩm của các tổ chức và cá nhân nước ngoài dặt tại nước ta) 2.2. Vai trò và nhiêm vụ của hoạt động nhập khẩu Nhập khẩu là một bộ phận cấu thành của quan hệ ngoại thương. Thực tế đã chứng minh rằng, nhập khẩu không thể thiếu và không thể tách rời đối với nền thương mại quốc tế. Không có quốc gia nào chỉ có xuất khẩu mà không có nhập khẩu. Trong nền kinh tế mở, xuất khẩu có nhiệm vụ khai thác tiềm năng nền kinh tế dưa ra trao đổi, tạo động lực thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế phát triển. Nhập khẩu là tất yếu để thoả mãn nhu cầu của nhân dân, đáp ứng nhu cầu máy móc thiết bị cho sản xuất và tiếp thu khoa học kỹ thuật tiên tiến để công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Có thể nói, điều này là phù hợp với một nền kinh tế đang phát triển có xuất phát điểm thấp như Việt Nam. Có thể thấy được vai trò của nhập khẩu qua các khía cạnh sau: - Nhập khẩu mở rộng khả năng tiêu dùng của một nước, cho phép tiêu dùng một lượng hàng hoá nhiều hơn khả năng sản xuất trong nước, cải thiện đời sống của nhân dân. - Nhập khẩu thúc đẩy nhanh quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, chuyển dịch kinh tế theo hướng xuất khẩu, từng bước công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.Trên cơ sở quy hoạch phát triển kinh tế, Nhà nước ta bằng công cụ qủn lý của mình tác động đến hoạt động nhập khẩu của các doanh nghiệp theo hướng hạn chế nhập khẩu hàng xa xỉ, khuyến khích nhập khẩu vật tư phục vụ sản xuất, nhập khẩu các thiết bị công nghệ mới nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại. - Nhập khẩu khoa học kỹ thuật hiện đại kéo theo sự đổi mới trong đội ngũ cán bộ kỹ thuật. Trình độ khoa học kỹ thuật hiện đại đòi hỏi phải có một lớp người mới, từ đó làm nảy sinh nhu cầu đào tạo cán bộ thích nghi với trình độ kỹ thuật và quản lý mới. - Nhập khẩu góp phần quan trọng vào việc phát triển các ngành có mối quan hệ bổ sung với các ngành công nghiệp hoá. Chẳng hạn để phát triển ngành luyện kim theo hướng hiện đại hoá thì ngành khai khoáng cũng cần được đầu tư trang thiết bị và công nghệ khai thác mới nhằm đạt năng suất cao hơn, đảm bảo nguồn nguyên liệu cho ngành luyện kim. - Nhập khẩu có tác dụng tích cực giải quyết công ăn việc làm, cải thiện đời sống nhân dân. Nhập khẩu các máy móc thiết bị, đầu tư xây dựng các nhà máy mới sẽ thu hút nhiều lao động, hạn chế các tệ nạn xã hội do tình trạng thất nghiệp gây ra. - Nhập khẩu có vai trò quan trạng và tích cực đối với xuất khẩu. Nhập khẩu hiện đại hoá công nghệ sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, đảm bảo các tiêu chuẩn quốc tế để xuất khẩu. Bên cạnh đó, nhập khẩu công nghệ mới góp phần nguyên vật liệu đầu vào, giảm hao phí sản xuất qua đó giảm giá thành sản phẩm nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới. - Nhập khẩu cho phép cải tạo hệ thống cơ sở vật chất hạ tầng, hệ thống thông tin liên lạc làm tiền đề để phát triển kinh tế. Ngoài ra, nhập khẩu còn thể hiện ưu thế của nó trên các mặt: - Nhập khẩu tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ giữa hàng nội với hàng ngoại, buộc các nhà sản xuất trong nước cải tiến chất lượng sản phẩm cũng như hạ giá thành hướng tới người tiêu dùng. Nó phát huy được tính năng động sáng tạo của mỗi doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong kinh doanh tạo nên một nền kinh tế vững mạnh. - Nhập khẩu làm cho các luồng thông tin được khai thông, đồng thời là cầu nối thông suốt giữa thị trường trong và ngoài nước, thúc đẩy nước ta tham gia vào quá trình phân công lao động và hợp tác quốc tế, phát huy ưu thế của đất nước trên cơ sở chuyên môn hoá. Nhập khẩu với sự tồn tại và phát triển của nó đã góp phần vào việc hoàn thiện cơ chế quản lý nhập khẩu của Nhà nước thông qua các đòi hỏi hợp lý của các chủ thể tham gia nhập khẩu Nói tóm lại, nhập khẩu đang góp phần vào sự ổn định của nền kinh tế, sự phát triển của đất nước. Trong thời kỳ mở cửa của Việt Nam thời gian qua, nhập khẩu đã thể hiện vai trò to lớn của nó. Ta có thể thấy được điều này qua tình hình thị trường hàng hoá sôi động, sức cạnh tranh mạnh mẽ, sự phát triển nhanh chóng của hệ thống cơ sở hạ tầng và thống tin liên lạc, sự hoà nhập của nền kinh tế Việt Nam vào nền kinh tế thế giới. Để tiếp tục phát huy vai trò của nhập khẩu, Đảng và Nhà nước ta đã cụ thể thành những nguyên tắc trong hoạt động xuất nhập khẩu như sau: - Sử dụng vốn ngoại tệ tiết kiệm đem lại hiệu quả kinh tế cao. - Nhập khẩu thiết bị hiện đại, phù hợp. - Nhập khẩu theo nguyên tắc bảo vệ và thúc đẩy sản xuất trong nước. - Chú ý thích đáng đến nhập khẩu hàng tiêu dùng thiết yếu. - Kết hợp nhập khẩu với xuất khẩu. 2.3. Các công cụ quản lý nhập khẩu của Việt Nam. Mở cửa tự do hoá thương mại và bảo hộ kinh tế là hai xu hướng đối lập nhau. Trong bất kỳ một nền kinh tế nào, để bảo vệ cho nền kinh tế trong nước thì biện pháp quan trọng nhất là quản lý nhập khẩu. Các quốc gia đều có những công cụ quản lý nhập khẩu riêng của mình. Việt Nam hiện nay đang quản lý nhập khẩu bằng các công cụ sau: 2.3.1. Thuế nhập khẩu Mục đích của việc đánh thuế nhập khẩu là để bảo vệ sản xuất trong nước, hướng dẫn tiêu dùng trong nước và góp phần tạo nguồn thu cho ngân sách. Hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam được đánh thuế theo luật thuế do Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam ban hành ngày 26/12/1994 là những hàng hoá được phép nhập khẩu qua cửa khẩu, biên giới Việt Nam kể cả hàng từ khu chế xuất đưa vào thị trường trong nước. Có nhiều cách tính thuế khác nhau như tính và thu một lần một số tiền nào đó hoặc tính theo tỷ lệ % nhất định trên tổng trị giá hàng hoá hoặc kết hợp cả hai phương pháp này. Ở Việt Nam, cách tính thuế là lấy số lượng hàng thực tế nhân với giá tính thuế do Bộ Tài chính quy định, sau đó nhân với thuế suất theo biểu thuế. Có 2 loại thuế: - Thuế ưu đãi: là loại thuế dành cho cac hàng hoá nhập khẩu từ các nước được hưởng quyền ưu đãi theo hiệp định MFN đã ký của chính phủ. - Thuế thông thường: là thuế đánh vào hàng hoá nhập khẩu không kể khối lượng, nguồn gốc, công ty kinh doanh thuộc quốc gia nào. Những hàng được miễn thuế nhập khẩu gồm: - Vốn đầu tư nước ngoài trong trường hợp cần khuyến khích đầu tư theo Luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam. - Hàng là quà biếu tặng trong mức quy định. - Hàng viện trợ không hoàn lại. - Hàng tạm nhập tái xuất. - Hàng là tài sản di chuyển, hàng của công dân Việt Nam đi công tác lao động học tập ở nước ngoài mang về nước theo mức quy định. - Hàng của các tổ chức cá nhân nước ngoài được miễn thuế theo các Hiệp định mà chính phủ Việt Nam ký kết với các nước này. - Hàng nhập phục vụ an ninh quốc phòng, nghiên cứu khoa học, giáo dục đào tạo y tế. - Hàng nhập của các đơn vị xí nghiệp được ưu tiên trong nước Tuy nhiên khi Việt Nam tham gia vào AFTA một cách đầy đủ thì công cụ này sễ kếm hiệu lực hơn do chúng ta phải hạ các mức thuế suất đang áp dụng xuống rất nhiều. 2.3.2. Hạn ngạch nhập khẩu Là quy định hạn chế của Nhà nước về giá trị hoặc số lượng nhập khẩu một mặt hàng nào đó trong một thời gian nhất định, từ thị trường nhất định. Mục tiêu áp dụng biện pháp hạn chế nhập khẩu bằng hạn ngạch của nhà nước nhằm bảo vệ sản xuất trong nước, sử dụng có hiệu quả quỹ ngoại tệ, đảm bảo các cam kết của chính phủ ta với chính phủ các nước. Hạn ngạch có thể biến một doanh nghiệp nhập khẩu thành nhà độc quyền. Chính vì lý do trên nên nếu một doanh nghiệp xin được hạn ngạch nhập khẩu thì có thể sẽ thu lợi cao. Đối với Việt Nam, danh mục các mặt hàng quản lý bằng hạn ngạch được Chính phủ phê duyệt trên cơ sở đề nghị của Bộ kế hoạch và đầu tư cho từng thời kỳ với giá trị và số lượng cụ thể. Bộ Thương mại là cơ quan duy nhất có thẩm quyền phân bổ hạn ngạch và cũng là cơ quan có trách nhiệm kiểm tra việc thực hiện hạn ngạch đã cấp. Theo quy định số 195/TMDL xuất nhập khẩu ngày 09/04/1995 việc mua bán hạn ngạch bị cấm. 2.3.3.Giấy phép nhập khẩu. Từ trước 01/01/1999 giấy phép nhập khẩu là biện pháp quản lý được áp dụng rộng rãi trong đó quy định các doanh nghiệp xuất nhập khẩu phải xin giấy phép nhập khẩu cho từng chuyến hàng. Trên thực tế, giấy phép đã trở thành yếu tố cản trở, rắc rối về mặt thủ tục đối với hoạt động nhập khẩu. Do đó để tạo môi trường kinh doanh thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp, ngày 15/12/1998 Chính phủ đã ra nghị định số 89/CP quy định huỷ bỏ việc xin giấy phép cho từng chuyến hàng cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu đối với các mặt hàng trong giấy phép; còn đối với các mặt hàng ngoài giấy phép thì các doanh nghiệp vẫn phải xin giấy phép xuất nhập khẩu. 2.3.4. Quản lý ngoại tệ Đối với những nước thiếu ngoại tệ như Việt Nam, việc áp dụng có hiệu quả kiểm soát ngoại tệ để điều tiết nhập khẩu là rất cần thiết. Mục đích của quản lý ngoại tệ là quản lý nhập khẩu, tiết kiệm ngoại tệ, kiểm soát việc sử dụng ngoại tệ hợp lý và đúng mục đích của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Việt Nam quy định doanh nghiệp nhập khẩu muốn sử dụng ngoại tệ phải chứng minh được tính hợp lý của việc sử dụng ngoại tệ bằng các biện pháp cần thiết. II/ NỘI DUNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH XUẤT NHẬP KHẨU Trong thương mại quốc tế, do sự khác biệt về thể chế và khoảng cách địa lý mà các nghiệp vụ xuất nhập khẩu trở nên phức tạp hơn. Nó đòi hỏi người tham gia hoạt động không những cần có trình độ chuyên môn cao mà còn phải có những hiểu biết nhất định về phong tục tập quán thương mại và nền văn hoá của các nước bạn hàng. Để thực hiện thành công một thương vụ thì nhà kinh doanh phải trải qua một quy trình với các bước nhất định. Một quy trình kinh doanh xuất nhập khẩu thường có các bước sau: 1/ Chuẩn bị trước khi ký kết hợp đồng 1.1. Nghiên cứu thị trường Thị trường là một phạm trù khách quan gắn với sản xuất và lưu thông hàng hoá. Thị trường là tổng thể các quan hệ lưu thông hàng hoá - tiền tệ. Mặt khác cũng có thể hiểu là tổng thể khối lượng cầu có khả năng thanh toán và tổng khối lượng cung có khả năng đáp ứng. Thực tế thể hiện thị trường một cách đơn giản là người mua và người bán gặp gỡ, chuẩn bị và thực hiện mua bán hàng hóa dịch vụ. Nghiên cứu thị trường là một phương pháp được tiêu chuẩn hoá có hệ thống và tỷ mỉ để sử lý vấn đề maketing với mục đích tìm ra những điều cần thiết thích hợp cho các loại hàng hoá nào đó trong khoảng thời gian và nguồn lực hạn chế. Nghiên cứu thị trường kinh doanh thương mại quốc tế là một loạt các thủ tục và kỹ thuật được thực hiện bởi các nhà kinh doanh nhằm nhận biết thị trường, quy luật vận động của thị trường từ đó tìm ra thương vụ kinh doanh thích hợp với điều kiện của doanh nghiệp. Nghiên cứu thị trường được thực hiện bằng 2 phương pháp sau: - Nghiên cứu tại văn phòng: Đây là phương pháp mà các nhà kinh doanh thu thập tài liệu sau đó tổng hợp và sử lý đưa ra được các thông tin cần thiết, quan trọng đối với việc kinh doanh của doanh nghiệp. Các tài liệu này có thể từ các nguồn: các bản tin kinh tế, các bản tin từ đài báo, các tài liệu của các trung tâm thương mại trong và ngoài nước, các tài liệu quảng cáo của các công ty, các tài liệu thống kê của các nước, các tài liệu chuyên đề nghiên cứu, internet... - Nghiên cứu tại hiện trường: Là việc nghiên cứu thị trường mà thông tin thu thập được chủ yếu thông qua tiếp xúc với nhà kinh doanh trên thị trường, sự quan sát trực tiếp. Việc này có thể thực hiện bằng các kỹ thuật như: phỏng vấn trực tiếp các nhà kinh doanh, thăm dò qua thư, kiểm tra kho hàng. Ngoài 2 biện pháp trên còn có thể sử dụng phương pháp chuyên gia và áp dụng công cụ máy tính để trợ giúp. Trong việc nghiên cứu thị trường thương mại quốc tế, các nhà kinh doanh thường thực hiện nghiên cứu các nội dung là: Nghiên cứu dung lượng thị trường - Nghiên cứu giá cả * Nghiên cứu thị trường và xu hướng biến đổi: Dung lượng thị trường là khối lượng hàng hoá được giao dịch trên phạm vi thị trường nhất định, trong khoảng thời gian nhất định. Người nghiên cứu thị trường xác định nhu cầu cần thiét của khách hàng (kể cả lượng dự trữ) và xu hướng biến động của nhu cầu. Dung lượng thị trường không cố định, nó thay đổi tuỳ theo chiều hướng của tình hình, do tác động của nhiều nhân tố trong những giai đoạn nhất định. Các nhân tố ảnh hưởng tới dung lượng thị trường có thể xem xét bao gồm : - Loại các nhân tố làm cho thị trường biến động mang tính chất chu kỳ gồm: sự phát triển của khoa học công nghệ, các chính sách của nhà nước, chính sách của các tập đoàn kinh tế lớn, thị hiếu tập quán của người tiêu dùng, ảnh hưởng của khả năng sản xuất thay thế. - Loại các nhân tố ảnh hưởng tạm thời tới dung lượng thị trường: hiện tượng đầu cơ, các yếu tố tự nhiên như bão lụt, hạn hán, động đất,... các yếu tố thuộc chính trị như chiến tranh, đình công... Khi nghiên cứu thị trường cần nắm vững dung lượng và các yếu tố tác động nhằm xác định dung lượng thị trường tại thời điểm nào đó trong tương lai. Điều đó có ý nghĩa rất quan trọng trong việc ra các quyết định của nhà kinh doanh xuất nhập khẩu. * Nghiên cứu giá cả Giá cả là biểu hiện bằng tiền của hàng hoá, biểu hiện các mối quan hệ tổng hợp trong nền kinh tế. Trong buôn bán quốc tế, giá cả thị trường ngày càng trở nên phức tạp do việc mua bán trên thị trường xảy ra cùng lúc. Mặt khác lại có nhiều yếu tố tác động gây nên thay đổi giá cả. Giá cả bao gồm giá trị của hàng hoá, bao bì, chi phí vận chuyển, bảo hiểm và các chi phí khác. Xác định giá cả tại một thời điểm cụ thể, tại thị trường xác định với các điều kiện xác định. Ngoài ra còn phải nghiên cứu xu hướng biến động của giá cả dựa vào việc nghiên cứu các yếu tố tác động làm thay đổi giá cả. Các yếu tố này bao gồm: - Nhân tố chu kỳ: tức là sự vận động có tính chu kỳ của nền kinh tế. Đây là yếu tố cơ bản ảnh hưởng tới giá cả của các loại hàng hoá. Với nhân tố này, khi nền kinh tế suy thoái thì giá cả có xu hướng giảm và ngược lại. Nguyên nhân là do sự vận động có tính quy luật của nền kinh tế ảnh hưởng tới cung cầu làm thay đổi giá cả. - Nhân tố lũng đoạn của các công ty đa quốc gia: Đây là nhân tố ảnh hưởng tới sự hình thành và biến động của giá cả rất mạnh mẽ trong thời kỳ hiện nay. Lũng đoạn làm xuất hiện nhiều loại giá khác nhau đối với cùng một loại hàng hoá, thậm chí ngay trên cùng một thị trường. Lũng đoạn giá cả thường có hai loại: lũng đoạn giá cả cao và lũng đoạn giá cả thấp. - Nhân tố cạnh tranh: cạnh tranh có thể làm giá cả biến động theo các xu hướng khác nhau phụ thuộc vào đối tượng tham gia cạnh tranh là người mua hay người bán. Cạnh tranh giữa những người bán làm giá cả giảm xuống và cạnh tranh giữa những người mua làm giá cả tăng lên. - Nhân tố lạm phát: giá cả của hàng không những phụ thuộc vào giá trị hàng bán mà còn phụ thuộc vào giá trị tiền tệ. Trên thị trường thế giới, giá cả được biểu hiện bằng đồng tiền của các nước có vị trí quan trọng trong mậu dịch quốc tế, do đặc điểm phát triển của những đồng tiền này thay đổi ảnh hưởng tới giá cả hàng hoá. - Nhân tố thời vụ cũng có ảnh hưởng tới giá cả hàng hoá, đặc biệt là các hàng hoá tiêu dùng hoặc sản xuất thời vụ. * Giá cả quốc tế Trong nghiên cứu giá cả, vấn đề quan trọng là xác định giá cả quốc tế. Giá quốc tế là giá có tính chất đại diện cho một loại hàng hoá nhất định trên thị trường quốc tế. Giá đó phải là giá những giao dịch thông thường không kèm theo một điều kiện đặc biệt nào và thanh toán bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi. Trong thực tế thương mại quốc tế, có thể gọi các giá sau đây là giá quốc tế: - Đối với các hàng hoá không có trung tâm giao dịch truyền thống trên thế giới thì có thể lấy giá của những nước xuất khẩu hoặc nhập khẩu chủ yếu biểu hiện bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi. - Đối với các hàng hoá luôn bán ở sở giao dịch, trung tâm tiến hành đấu giá thì có thể tham khảo giá ở các trung tâm giao dịch đó. - Đối với các loại máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ thì căn cứ vào giá của các hãng sản xuất cung ứng đóng vai trò chủ yếu trên thị trường. Trong quá trình nghiên cứu tiến hành chuẩn bị cho việc thực hiện một thương vụ kinh doanh, nghiên cứu các yếu tố liên quan tới kinh doanh hàng hoá như vận tải, ngân hàng thì các quy định của các quốc gia là vô cùng quan trọng để đạt được thành công trong mỗi thương vụ. Nghiên cứu điều tra các vấn đề này có tác dụng tạo cho doanh nghiệp xác định được chi phí phải bỏ ra khi kinh doanh một cách đầy đủ đồng thời cũng cho thấy các khó khăn có thể gặp phải để có phương pháp xử lý. Tóm lại, trong quá trình điều tra doanh nghiệp phải xác định được một số vấn đề sau: - Thị trường đang cần hàng gì ? (cụ thể về tên, quy cách, chủng loại, bao bì, nhãn._. hiệu, số lượng toàn bộ, số lượng từng loại). - Thị trường có thị hiếu như thế nào? Xu hướng thay đổi trong tương lai? Mức độ tiêu thụ, kênh phân phối ? - Mức độ cạnh tranh của các công ty trong nước, và quốc tế đối với mặt hàng đó; mặt hàng thay thế ? Mặt hàng bổ sung ? - Sản phẩm đang ở giai đoạn nào của chu kỳ sống ? Hiện nay công ty đang tham gia vào thị trường nào? - Tình hình sản xuất và cung cấp mặt hàng như thế nào? Hàng hóa có phù hợp với nhu cầu thị trường không ? Những nhà sản xuất nào cung cấp mặt hàng đó ? Giá cả và điều kiện của mỗi nhà cung cấp ? - Tình hình vận tải mặt hàng đó, chi phí vận tải, điều kiện thanh toán, chi phí cho ngân hàng, chi phí môi giới. Đưa ra được các thông tin doanh nghiệp cần phân tích, xử lý để nhận ra được một thương vụ có tính khả thi đối với doanh nghiệp hay không. Thương vụ này có tính cụ thể cao và phải mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp. 1.2. Lập kế hoạch xuất nhập khẩu Dựa trên các thông tin thu thập được trên thị trường trong và ngoài nước, công ty xem xét khả năng về vốn và nhân lực... từ đó lập ra kế hoạch kinh doanh xuất nhập khẩu cho từng giai đoạn. Đó là kế hoạch ngắn-trung-dài hạn. Về kế hoạch phát triển dài hạn, công ty đưa ra quy mô cơ cấu xuất nhập khẩu cho từng thời gian dài. Đây là các định hướng mục tiêu để công ty vươn tới, các xu hướng thay đổi cơ cấu xuất nhập khẩu cần thực hiện để thực hiện một mục đích nhất định cho nền kinh tế nói chung và doanh nghiệp nói riêng. Các công ty có kế hoạch phát triển dài hạn khác nhau, có định hướng kinh doanh khác nhau nhưng kế hoạch phát triển dài hạn cho xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam thường là: xác định mặt hàng xuất nhập khẩu chiến lược và thị trường xuất nhập khẩu trọng điểm trong thời gian đó, kim ngạch cần đạt được, các tỷ lệ về cơ cấu xuất nhập khẩu cần thực hiện. Quan trọng nhất trong chiến lược phát triển dài hạn là phải xác định được mục tiêu của công ty trong giai đoan đó như lợi nhuận, phát triển thị trường, tăng vốn kinh doanh... Trên cơ sở chiến lược dài hạn, công ty chi tiết hoá thành kế hoạch cho một thời gian ngắn hơn với mức độ cụ thể chi tiết cao hơn. Các kế hoạch ngắn hạn thường được lập trong 1 năm. Kế hoạch này đưa ra các mặt hàng nhập khẩu, thị trường nhập khẩu và thị trường tiêu thụ trong nước. Các chỉ tiêu về thị trường và mặt hàng phải thể hiện mối quan hệ lôgíc, chặt chẽ. Hệ thống các chỉ tiêu về kim ngạch cơ cấu, chỉ tiêu chi phí lợi nhuận, thuế nộp ngân sách... trong kế hoạch ngắn hạn, đồng thời đưa ra các biện pháp, giải pháp cần thực hiện để đạt chỉ tiêu đó. 1.3. Lựa chọn đối tượng giao dịch Việc lựa chọn đối tượng giao dịch dựa trên cơ sở các vấn đề: - Tình hình sản xuất kinh doanh của hãng, lĩnh vực và phạm vi kinh doanh nhằm xác định được khả năng cung cấp, tiêu thụ lâu dài thường xuyên, khả năng liên kết kinh doanh và đặt hàng sản xuất. - Khả năng về vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật cho phép ta thấy được những ưu thế trong thoả thuận giá cả, điều kiện thanh toán. Doanh nhân có vốn lớn cho thấy khả năng vững chắc trong cung cấp, tiêu thụ đồng thời cũng là cơ hội cho Việt nam có được một khoản tín dụng, giải quyết tình trạng thiếu vốn tạm thời. - Quan điểm thái độ kinh doanh. Không phải mọi doanh nhân đều có thái độ, quan điểm kinh doanh đứng đắn, không lừa dối bạn hàng. Do ít có kinh nghiệm thực tế, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn lựa chọn các bạn hàng là các công ty có uy tín, hoạt động lâu dài trên thị trường thế giới, óc quan điểm kinh doanh theo hướng hợp tác lâu dài hai bên cùng có lợi, lấy chữ tín làm tôn chỉ hoạt động. - Ngoài ra để lựa chọn đối tượng giao dịch phù hợp thì các vấn đề như khoảng cách địa lý giữa hai nước, điều kiện vận tải của tuyến đường, tập quán thương mại và quy chế chính sách quản lý thương mại của nước có đối tượng giao dịch cũng cần được quan tâm. Lựa chọn thương nhân giao dịch tốt nhất nên chọn những người xuất nhập khẩu trực tiếp hạn chế các hoạt động trung gian. Nhưng trong một số trường hợp thì trung gian được sử dụng với tư cách là môi giới, đại lý rất có hiệu quả, đặ biệt khi công ty mới thâm nhập thị trường mới. Cũng có một số mặt hàng do đặc tính kinh doanh hay truyền thống kinh doanh nếu sử dụng trung gian sẽ được nhiều ưu thế trong nắm bắt thông tin về hàng hoá, thị trường. Việc lựa chọn đối tượng giao dịch có căn cứ khoa học là điều kiện quan trọng để thực hiện thành công hoạt động xuất nhập khẩu. Công việc này phụ thuộc vào năng lực và khả năng nhạy bén của các cán bộ nghiên cứu thị trường. 1.4. Lập phương án giao dịch Trên cở sở kế hoạch đã lập của công ty, đối tượng giao dịch đã chọn các cán bộ kinh doanh xác định các thương vụ phù hợp với khả năng của mình; từ đó lập phương án giao dịch và tiến hành hoạt động kinh doanh. Lập kế hoạch cụ thể để tiến hành hoạt động nhập khẩu thường bao gồm nhiều chi tiết, trong đó có thể kể đến một số vấn đề sau: - Lựa chọn mặt hàng kinh doanh. - Xác định nguồn cung cấp, thị trường tiêu thụ ( Cụ thể tới tên công ty, người giao dịch ..) - Xác định số lượng hàng xuất nhập khẩu tối ưu cho từng đợt nhập-xuất hàng. - Lựa chọn thông tin khách hàng, phương thức giao dịch. - Thực hiện các biện pháp hỗ trợ như quảng cáo, tiếp thị, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, đào tạo các cán bộ kinh doanh. - Xây dựng luận chứng cho mục tiêu đề ra, dự đoán chất lượng công việc qua các chỉ tiêu: p Tỷ suất lợi nhuận p= .100% c c Thời gian hoàn vốn T = + k + r c.p Trong đó: p - lợi nhuận r - mức hoàn trả k - khấu hao c - vốn Lập phương án giao dịch tốt tức là đã xây dựng được phương án kinh doanh cụ thể, bao quát được toàn bộ các chi phí bỏ ra, doanh số thu được, mức độ lợi nhuận có được đồng thời dự đoán được các tình huống cụ thể có thể xảy ra trong kinh doanh. Khâu này có tính quan trọng quyết định tới thành công hay thất bại của quá trình giao dịch ký kết và ảnh hưởng tới kết quả thực hiện toàn bộ phương án. 2. Giao dịch đàm phán ký kết hợp đồng Trên thị trường thế giới đang tồn tại nhiều phương thức giao dịch như giao dịch thông thường-giao dịch qua trung gian-đầu tư quốc tế-đấu giá quốc tế-đấu thầu quốc tế-giao dịch tại sở giao dịch hàng hoá-giao dịch tại hội chợ triển lãm. Mỗi phương thức giao dịch có đặc điểm và cách thức tiến hành riêng. Trong các phương thức giao dịch thì giao dịch thông thường được sử dụng rộng rãi nhất. Đó là giao dịch mà người bán và người mua thoả thuận, bàn bạc trực tiếp hoặc thông qua thư từ điện tín về hàng hoá, giá cả, thanh toán...Trong giao dịch thông thường có một số nghiệp vụ sau: - Hỏi giá -Inquiry- là việc người mua đề nghị người bán cho biết các điều kiện bán hàng như giá cả, thời hạn giao hàng, điều kiện thanh toán, vận tải... Đây là bước thăm dò tìm hiểu thông tin để thực hiện thương vụ. - Báo giá-Quotation-là nghiệp vụ mà người bán đưa ra điều kiện mua bán để trả lời người mua. Có hai loại báo giá: Báo giá tham khảo và báo giá cam kết. Trong báo giá cam kết nếu người mua đồng ý các điều kiện trong báo giá thì hợp đồng được ký kết. - Chào hàng-offer-là đề nghị của người bán/mua cho bên kia hiểu họ muốn bán/mua một số hàng nhất định dựa trên các điều kiện xác định. Có các loại chào hàng sau: + Chào hàng tuỳ thuộc vào sự chấp nhận của người bán. Đây là loại chào hàng mà nếu người được chào hàng chấp nhận thì phải có sự xác nhận của người chào mới có giá trị pháp lý. + Chào hàng xác định là loại chào hàng mà nếu người được chào chấp nhận thì người chào không thể từ chối. + Chào hàng ngược lại là việc một bên căn cứ đơn chào hàng của bên kia để đặt điều kiện ngược lại về giá cả, thanh toán, giao hàng...Thực chất đây là đơn đặt hàng với các điều kiện do bên được chào đặt ra. - Chấp nhận-Acceptance-là việc người được chào hàng đồng ý với đơn chào hàng hoặc đơn báo giá. - Xác nhận- Cofirmation-là giấy khẳng định những cam kết mua/bán giữa hai bên. Các giao dịch trên đây thường được thực hiện qua các phương tiện thông tin như E-mail, telex, fax...Tuy nhiên giao dịch này có thể được thực hiện thông qua trao đổi trực tiếp giữa bên bán-bên mua.Cách làm này tuy đạt hiệu quả cao, tiết kiệm thời gian song chi phí đàm phán tương đối cao. Giao dịch đàm phán nhằm đạt được sự thoả thuận giữa hai bên song các bên cần đi tới đích cuối cùng là việc ký kết hợp đồng.Hợp đồng được coi là có giá trị pháp lý trong các trường hợp sau: - Người mua chấp nhận bằng văn bản đối với chào hàng xác định của người bán trong thời gian quy định. - Người bán xác nhận bằng văn bản đơn đặt hàng của người mua trong thời gian quy định. - Đại diện của bên mua và bên bán cùng ký vào bản hợp đồng.Nếu có ba bên thì các bên phải cùng ký vào văn bản hoặc các bên ký hợp đồng tay đôi có đẫn chiếu tới các hợp đồng khác. - Người bán xác nhận bằng văn bản là người mua đã chấp nhận các điều khoản trong đơn đặt hàng tự do. Hợp đồng có giá trị pháp lý nếu các bên ký có đủ tư cách pháp nhân, là đại diện có đủ thẩm quyền. Trong thực tiễn thương mại thường xuất hiện một số hợp đồng sau: - Hợp đồng chuyến - Hợp đồng giao hàng định kỳ - Hợp đồng thanh toán bằng hàng - Hợp đồng đấu thầu, đấu giá 3. Thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu Sau khi hợp đồng đã được ký kết, các bên cùng thực hiện hợp đồng trên cơ sở tinh thần trách nhiệm và thiện chí.Việc hực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu theo trình tự sau: Trình tự thực hiện hợp đồng xuất khẩu: Ký hợp đồng xuất khẩu Chuẩn bị hàng hoá XK Xin giấy phép xuất khẩu Kiểm tra L/C Uỷ thác thuê tàu Kiểm nghiệm hàng hoá Làm thủ tục hải quan Giao hàng lên tàu Giải quyết khiếu nại Làm thủ tục thanh toán Mua bảo hiểm Trình tự thực hiện hợp đồng nhập khẩu: Ký kết KD nhập khẩu Đôn đốc bên bán giao hàng Mở L/C khi bên bán báo Xin giấy phép nhập khẩu Làm thủ tục hải quan Nhận hàng Kiểm tra hàng hoá Giao hàng cho đơn vị đặt hàng Làm thủ tục thanh toán Mua bảo hiểm hàng hoá Giải quyết khiếu nại về hàng hoá (nếu có) 4. Đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh 4.1 Chỉ tiêu lợi nhuận Lợi nhuận là chỉ tiêu hiệu quả kinh tế có tính tổng hợp phản ánh kết quả cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh. Nó là tiền đề đê duy trì để tái sản xuất mở rộng của doanh nghiệp, để cải thiện và nâng cao mức sống của người lao động. Doanh nghiệp có lợi nhuận thì đất nước mới giàu có phát triển. Ngược lại làm ăn kém sẽ dẫn đến thua lỗ và phá sản. Lợi nhuận là lượng dôi ra của doanh thu so với chi phí LN = DT - CF LNKT = DT - CFKT LN tt = DT - CF tt Trong đó: LNKT : Lợi nhuận kinh tế CFKT : Chi phí kinh tế LNtt : Lợi nhuận tính toán CFtt : Chi phí tính toán 4.2 Tỷ suất doanh lợi ngoại thương Lợi nhuận là một chỉ tiêu cơ bản nhất cần thiết phải tính toán khi đánh giá hiệu quả kinh doanh thương mại quốc tế. Tuy nhiên nếu chỉ tính chỉ tiêu lợi nhuận không thì chưa phản ánh hết được hiệu quả của hoạt động kinh doanh. Trong thực tế, người ta còn phải xác định chỉ tiêu tỷ suất doanh lợi ngoại thương. Trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu người ta sử dụng chỉ tiêu tỷ suất doanh lợi xuất khẩu và doanh lợi nhập khẩu. a- Tỷ suất doanh lợi xuất khẩu Lx Dx = .100% Cx Dx : Tỷ suất doanh lợi xuất khẩu Lx : Lợi nhuận về bán hàng xuất khẩu tính bằng ngoại tệ được chuyển đổi ra tiền VN theo giá công bố của ngân hàng nhà nước. Cx : Tổng chi phí thực hiện hoạt động xuất khẩu. b- Tỷ suất doanh lợi nhập khẩu Ln Dn = . 100% Cn Dn : Tỷ suất doanh lợi nhập khẩu Ln : Lợi nhuận về bán hàng nhập khẩu Cn : Tổng chi phí nhập khẩu bằng ngoại tệ được chuyển đổi theo đồng VN theo tỷ giá công bố của ngân hàng Nhà nước. c- Tỷ suất doanh lợi ngoại thương Dnt = Dx . Dn Dnt : Tỷ suất doanh lợi ngoại thương Dx: Tỷ suất doanh lợi xuất khẩu Dn : Tỷ suất doanh lợi nhập khẩu 4.3 Chỉ tiêu hiệu quả tổng hợp Tsd H = Tsx H: Hiệu quả tổng hợp của KD thương mại quốc tế Tsd : Thu nhập quốc dân sử dụng Tsx : Thu nhập quốc dân sản xuất Chỉ tiêu này cho biết kinh doanh thương mại quốc tế làm tăng hay giảm thu nhập quốc dân. III/ CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG KINH DOANH XUẤT NHẬP KHẨU CỦA DOANH NGHIỆP Trong cơ chế thị trường, hoạt động kinh doanh của mỗi doanh nghiệp đều phải chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố tác động. Các yếu tố này ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến kết quả kinh doanh của công ty. Nếu kinh doanh thành công thì người lãnh đạo của công ty cũng như toàn bộ cán bộ phải nắm bắt và hiểu rõ những yếu tố tác động cũng như cơ chế của nó để điều chỉnh hoặc thích ứng cho phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả của kinh doanh. Với một doanh nghiệp xuất nhập khẩu, vì kinh doanh trong môi trường rộng mang tính quốc tế nên doanh nghiệp chịu ảnh hưởng của nhiều nhấn tố tác động quá trình kinh doanh. Các nhân tố ảnh hưởng tới quá trình hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu có thể chia ra như sau: 1/ Các yếu tố trong doanh nghiệp Đây là các yếu tố thuộc phạm vi doanh nghiệp quyết định trực tiếp. Lãnh đạo công ty có thể từng bước điều chỉnh, tăng cường các hoạt động tích cực và hạn chế các hoạt động tiêu cực. 1.1. Uy tín, quy mô và sự phát triển của doanh nghiệp Một công ty có quy mô lớn thì có thể thực hiện một khối lượng công việc lớn và ngược lại. Công ty có vốn kinh doanh lớn được huy động vào đầy đủ vào kinh doanh sẽ giảm được chi phí kinh doanh, luôn chủ động trong hoạt động kinh doanh của mình giảm bớt phụ thuộc vào các tổ chức tài chính khác; do đó đạt hiệu quả kinh doanh cao hơn. Uy tín là vấn dề vô cùng quan trọng trong hoạt động kinh doanh. Uy tín cao trên thương trường sẽ đem lại cho công ty nhiều cơ hội kinh doanh, nhiều khách hàng trong và ngoài nước, thu hút được nhiều nhân viên có trình độ cao, giảm bớt các chi phí về bảo lãnh... Uy tín của công ty phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: quy mô sự phát triển của công ty, đội ngũ cán bộ công nhân viên, thị phần công ty chiếm giữ, sự tín nhiệm trong quan hệ với bạn hàng... Lãnh đạo là người định hướng cho sự phát triển của công ty, hướng dẫn việc thực hiện các công việc kinh doanh của cấp dưới. Một công ty có lãnh đạo tồi thì không thể tạo ra hiệu quả kinh doanh khả quan cho công ty. Kinh doanh trong môi trường quốc tế đòi hỏi người lãnh đạo phải có đủ trình độ kiến thức chuyên môn ngoại thương cũng như trình độ ngoại ngữ, am hiểu luật pháp trong nước và quốc tế. Có như vậy người lãnh đạo mới thực sự chỉ đạo, định hướng cho công ty phát triển. 1.2. Ngành kinh doanh Việc lựa chọn ngành hàng cũng ảnh hưởng mạnh mẽ tới kết quả kinh doanh của công ty. Nếu ngành hàng của công ty có tính độc quyền, ít đối thủ cạnh tranh trong nước thì việc nhập khẩu sẽ mang lại lợi nhuận cao. Ngược lại nếu doanh nghiệp chịu sức ép lớn từ cạnh tranh thì sẽ khó khăn hơn trong việc thu lợi nhuận cao. Trên đây là một số nhân tố thuộc phạm vi doanh nghiệp. Người chủ doanh nghiệp có thể tác động điều chỉnh các yếu tố này theo hướng có lợi nhất cho doanh nghiệp. Ngoài ra còn các yếu tố thuộc phạm vi ngoài doanh nghiệp cũng ảnh hưởng tới hoạt động xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp. 2/ Các yếu tố ngoài phạm vi doanh nghiệp Đây là các yếu tố tác động đến doanh nghiệp nhưng doanh nghiệp không thể tự điều chỉnh theo ý chủ quan được mà doanh nghiệp phải thích nghi nhằm tối thiểu hoá các tác động tiêu cực đến hoạt động của mình. Các yếu tố này bao gồm: 2.1.Chế độ chính sách của nhà nước. Hiện nay không có một quốc gia nào trên thế giới chọn một mô hình kinh tế thị trường thuần tuý. Mọi chính phủ đều có các công cụ để khống chế, kiểm soát nền kinh tế của mình. Sự quản lý của nhà nước là hoàn toàn cần thiết, đặc biệt là trong hoạt động xuất nhập khẩu. Việt Nam là một minh chứng sinh động cho lập luận này. Khi Việt Nam thực hiện chính sách đóng cửa, hoạt động xuất nhập khẩu bị tê liệt hoàn toàn làm cho nền kinh tế bị kiệt quệ, trì trệ. Từ khi thực hiện chính sách đổi mới (1986) hoạt động xuất nhập khẩu trở nên sôi động kéo theo sự tăng trưởng của nền kinh tế. Trong môi trường kinh doanh chung, doanh nghiệp xuất nhập khẩu chịu sự quản lý của nhà nước. Chính sách của nhà nước sẽ có tác động làm thu hẹp hay thúc đẩy tăng trưởng của hoạt động xuất nhập khẩu. 2.2. Tỷ giá hối đoái Tỷ giá hối đoái là tỷ lệ so sánh giữa giá trị của đồng tiền của quốc gia này so với quốc gia khác. Các doanh nghiệp xuất nhập khẩu thường xuyên sử dụng ngoại tệ trong quan hệ thanh toán quốc tế của mình. Do vậy, tỷ giá hối đoái có tầm quan trọng đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Sự thay đổi tỷ giá hối đoái có tác động mạnh tới hoạt động của doanh nghiệp. Trước hết sự tăng lên của tỷ giá hối đoái làm giá hàng nhập khẩu tăng lên làm giảm lợi nhuận của nhập khẩu, đồng thời thusc đẩy xuất khẩu. Ngược lại tỷ giá hối đoái giảm sẽ mở rộng nhập khẩu và hạn chế xuất khẩu. Chính vì vậy chính phủ sử dụng tỷ giá hối đoái như một công cụ rất quan trọng để điều chỉnh hoạt động xuất nhập khẩu. Mặt khác, sự thay đổi tỷ giá đột ngột sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả kinh doanh của từng thương vụ và kết quả kinh doanh chung của toàn doanh nghiệp. 2.3. Ảnh hưởng của hệ thống tài chính ngân hàng Hiện nay hệ thống tài chính ngân hàng đã phát triển hết sức lớn mạnh, can thiệp đến tất cả các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Với vai trò quan trọng cung cấp vốn, thực hiện các nghiệp vụ thanh toán cho doanh nghiệp ngân hàng có vai trò đặc biệt đối với các doanh nghiệp thiếu vốn. Nhờ các quan hệ và nghiệp vụ liên ngành, hoạt động xuất nhập khẩu được đảm bảo về mặt lợi ích cho cả hai bên. Hoạt động xuất nhập khẩu diễn ra thông suốt cũng là nhờ hệ thống tài chính ngân hàng. Nhiều thường hợp, nhờ uy tín của ngân hàng mà các doanh nghiệp được bảo lãnh, được trả chậm... tạo cho doanh nghiệp khả năng kinh doanh rộng hơn. 2.4. Ảnh hưởng của hệ thống giao thông và thông tin liên lạc Hoạt động xuất nhập khẩu là hoạt động giữa các thương nhân ở các quốc gia khác nhau. Đó chính là đặc điểm nổi bật trong thương mại quốc tế hiện nay. Vì vậy nói đến hoạt động xuất nhập khẩu thì không thể tách rời giao thông vận tải và thông tin liên lạc. Khi yêu cầu cung ứng hàng hoá đầy đủ, chính xác về thời gian ngày càng trở thành vấn đề quan trọng, là cơ sở tạo niềm tin, uy tin cho doanh nghiệp. Do đó doanh nghiệp phải luôn quan tâm đến vấn đề này. Sự phát triển của một đội tàu biển, một tuyến đường đường sắt... mới là điều kiện thuận lợi cho xuất nhập khẩu. Hiện đại hoá các phương tiện vận chuyển, bốc xếp, bảo quản, hệ thống kho tàng, bến bãi... góp phần nhanh chóng vào an toàn cho quá trình xuất nhập khẩu của doanh nghiệp. Thời đại thông tin càng tiến bộ vượt bậc của các phương tiện kỹ thuật thông tin như: fax, chuyển phát nhanh, mobil phone, computer... giúp cho doanh nghiệp xuất nhập khẩu nhanh chóng nắm bắt các loại thông tin về hàng hoá và thị trường. Nâng cao hiệu suất sử lý thông tin, đơn giản hoá quá trình giao dịch, đàm phán ... đã tạo ra một hiệu quả cao trong kinh doanh của các doanh nghiệp. Ngoài các yếu tố cơ bản đã kể trên, doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu còn chịu sự tác động của nhiều yếu tố khác như sự cạnh tranh, hệ thống phân phối, sự thay đổi của thị trường trong và ngoài nước, sự phát triển của nền kinh tế, luật pháp và thông lệ quốc tế. PHẦN II NGHIÊN CỨU HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU TẠI CÔNG TY DETESCO VIỆT NAM KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TY DETESCO Lịch sử hình thành và phát triển của công ty: Trước tiên ta phải nói đến đó là do hội sinh viên Việt nam muốn có một quĩ hỗ trợ tài năng trẻ, cấp học bổng, phần thưởng cho những sinh viên, học sinh suất sắc của các trường đại học và cao đẳng. Do đó cùng với ý tưởng của hội sinh viên Việt nam, Ban lãnh đạo trung ương Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh là mầm mống phôi thai cho sự thành lập và phát triển của Công ty. Với ý tưởng đó trung ương Đoàn đã giao nhiệm vụ này cho ông Nguyễn Duy Phương giám đốc công ty, ông Phạm Anh Linh và ông Lê Anh Tuấn phó giám đốc công ty và một số cán bộ khác đứng ra thành lập công ty và trực tiếp điều hành công ty. Công ty này được thành lập vào ngày 02 tháng 9 năm 1993 theo nghị định 268 (công ty đoàn thể do Nhà nước qui định) Đến ngày 03 tháng 4 năm 1996 theo quyết định thành lập Doanh nghiệp đoàn thể số 1398 QĐ/UB của ủy ban nhân dân thành phố Hà nội thành lập lại công ty phát triển kinh tế kỹ thuật Việt nam (viết tắt là: DETESCO Việt nam). Công ty DETESCO Việt nam là một doanh nghiệp nhà nước trực thuộc Trung ương Đoàn Thanh Niên cộng sản Hồ Chí Minh, có con dấu riêng, có tài khoản tại hai ngân hàng : - Ngoại tệ : Ngân hàng Công thương. - Nội tệ : Ngân hàng Đầu tư và phát triển. Năm 1996 ngành nghề kinh doanh của công ty là: ngành xây dựng dân dụng và công nghiệp, xuất nhập khẩu và cung ứng hàng xuất nội thương, kinh doanh tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng, đại lý ký gửi hàng hoá, ngành du lịch lữ hành, tổ chức dịch vụ và đào tạo lao động ngoài nước. Công ty có số vốn là: 875.354.000 đồng. Sau đó đến năm 1997 công ty đã bổ sung thêm ngành kinh doanh nhà cửa, dịch vụ cho thuê ô tô, xe máy, xe đạp. Đến giữa năm 1999 công ty đã bổ sung thêm ngành kinh doanh lữ hành, khách sạn, ăn uống, vui chơi giải trí, các dịch vụ phục vụ khách du lịch. Đến cuối năm 1999, Công ty bổ sung thêm kinh doanh xuất nhập khẩu các mặt hàng: máy móc, thiết bị, vật tư, nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất và tiêu dùng, phương tiện vận tải, đồ điện, điện tử và các quang học nguyên chiếu. Cho đến nay, Công ty đã từng bước phát triển các ngành nghề kinh doanh đa dạng nhưng nổi trội nhất vẫn là ngành kinh doanh xuất nhập khẩu thuộc trung tâm thương mại và hợp tác đầu tư quản lý. Do đó nó làm đời sống cán bộ công nhân viên trong công ty được nâng cao và hàng năm công ty đã đóng cho ngân sách nhà nước từ 20 đến 30 tỷ đồng. Chức năng, nhiệm vụ và hệ thống tổ chức bộ máy của công ty DETESCO Việt Nam * Chức năng: Công ty có chức năng sản xuất kinh doanh tạo ra lợi nhuận để tạo nguồn kinh phí xây dựng: Quĩ học bổng của sinh viên, tài trợ cho những công trình nghiên cứu khoa học trẻ, giúp đỡ học sinh, sinh viên nghèo gặp khó khăn. * Nhiệm vụ: - Công ty nhận đấu thầu thiết kế, thi công các công trình xây dựng dân dụng và công nghiệp, sản xuất kinh doanh vật liệu xây dựng. - Kinh doanh xuất nhập khẩu, cung ứng hàng hóa xuất khẩu, kinh doanh vật liệu sản xuất và tư liệu xây dựng, đại lý ký gửi hàng hóa. - Kinh doanh du lịch lữ hành và du lịch quốc tế. - Tổ chức dịch vụ và đào tạo lao động nước ngoài. Ngoài ra công ty còn có nhiệm vụ quan trọng đó là quản lý và sử dụng tốt tiền vốn, tài sản theo chế độ quản lý kinh tế tài chính của nhà nước, quản lý tốt đội ngũ cán bộ, nhân viên của công ty, giáo dục và bồi dưỡng cán bộ nhân viên vững về chính trị, thông thạo nghiệp vụ nhằm phục vụ tốt cho công tác kinh doanh. * Cơ cấu tổ chức quản lý của công ty: Bộ máy quản lý của công ty được tổ chức theo mô hình quản lý trực tuyến chức năng, thực hiện nghiêm chế độ một thủ trưởng giám đốc là người có quyền quyết định tối cao trong công ty, nguyên tắc quản lý là “ Tập trung dân chủ". Sau đây là sơ đồ bộ máy quản lý của công ty: Biểu 1: Sơ đồ bộ máy quản lý của công ty DETESCO Việt Nam. PHÒNG TÀI CHÍNH- KẾ TOÁN PHÒNG TỔ CHỨC Xí nghiệp Xây dựng Trung tâm TM và hợp tác đầu tư Trung tâm du lịch Trung tâm đào tạo và XK lao động Chi nhánh tại TP HCM Chi nhánh tại Hải Phòng Chi nhánh tại Đà Nẵng BAN GIÁM ĐỐC Đứng đầu công ty là giám đốc công ty do ban thường vụ trung ương đoàn TNCS HCM bổ nhiệm. Giám đốc công ty có nhiệm vụ tổ chức điều hành mọi hoạt động của công ty và chịu trách nhiệm hoàn toàn công việc của công ty trước ban thường vụ trung ương Đoàn và tập thể lao động của công ty. Trong công ty giám đốc lãnh đạo tình hình chung của công ty về công tác tài chính, kế toán, tổ chức, lao động, ký kết các hợp đồng kinh tế...là người quyết định phương án kinh doanh của công ty. Phó giám đốc công ty do giám đốc đề nghị và ban thường vụ trung ương Đoàn ra quyết định bổ nhiệm. Các phó giám đốc là người giúp việc cho giám đốc, được phân công theo dõi một số công việc cụ thể và được uỷ quyền điều hành những công việc của công ty, ký thay giám đốc khi giám đốc đi vắng. Trong công ty Detesco Việt Nam có hai phó giám đốc. Một phó giám đốc phụ trách phòng tài chính kế toán đồng thời làm giám đốc trung tâm thương mại và hợp tác đầu tư. Còn một phó giám đốc phụ trách phòng tổ chức đồng thời làm giám đốc trung tâm du lịch. Phòng tổ chức hành chính: Trưởng phòng chịu trách nhiệm chính về mọi công việc của phòng, phụ trách công việc nhân sự, tham mưu cho giám đốc quản lý và bố trí lực lượng lao động cho toàn công ty, quản lý và lưu trữ hồ sơ, văn bản, tài liệu của toàn công ty, lập kế hoạch hàng tháng của công ty, chịu trách nhiệm trực tiếp cung ứng các phương tiện làm việc cho công ty khi được giám đốc phê duyệt. Phòng tài chính - kế toán: Kế toán trưởng kiêm trưởng phòng tài vụ được giám đốc công ty đề nghị và ban thường vụ trung ương đoàn bổ nhiệm. Phòng tài chính - kế toán có nhiệm vụ hạch toán kế toán, đánh giá toàn bộ kết quả hoạt động kinh doanh của công ty trong từng kỳ kế hoạch ( tháng, quí, năm ) lo toan toàn bộ vốn phục vụ cho việc hoạt động của các phòng ban ( điều tiết vốn để nhằm mục đích kinh doanh có hiệu quả ), quyết toán với cơ quan cấp trên và các cơ quan hữu quan. Đặc điểm lao động của công ty: Cơ cấu lao động của công ty được thể hiện qua biểu sau: Biểu 2: Cơ cấu lao động của công ty Đơn vị tính: Người. Năm 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Tổng số CBCNV trực tiếp 5 11 13 21 46 56 77 79 ( Nguồn: Sổ theo dõi cán bộ của phòng tổ chức cán bộ ) Nhìn vào biểu trên ta thấy số cán bộ CNV trực tiếp tăng lên không ngừng qua các năm. Khi mới thành lập công ty chỉ có 5 người. Trong đó trình độ đại học là 2 người. Nhưng cho đến nay công ty đã có 79 người trong đó: Số cán bộ có trình độ trên đại học là một người chiếm 1,3%. Số cán bộ có trình độ đại học là 57 người chiếm 72,2%. Nói chung công ty luôn khẳng định vị trí trung tâm là con người, tôn trọng con người. Doanh nghiệp là công cụ để con người phát huy tài năng và sáng tạo. Công ty luôn cố gắng sắp xếp, bố trí lao động hợp lý nhằm nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh tế. Công ty luôn coi trọng công tác xây dựng, đoàn kết, hợp tác trong khuôn khổ nguyên tắc, qui chế tạo được “đội hình" có sức mạnh tổng hợp, có qui hoạch và liên tục đổi mới phát triển. Hầu hết cán bộ trong công ty có phong cách làm việc tự giác, nhanh nhẹn, tính độc lập cao, thái độ tác phong sống hoà nhã với tất cả mọi người trong công ty. Trên đây là khái quát chung về tổng thể công ty. Nhưng trong đề tài này chỉ chủ yếu đi sâu nghiên cứu về vấn đề xuất nhập khẩu do trung tâm thương mại và hợp tác đầu tư phụ trách quản lý. Đặc điểm của hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của Trung tâm thương mại và hợp tác đầu tư thuộc công ty DETESCO Việt Nam: a. Khái quát về trung tâm thương mại và hợp tác đầu tư: Trung tâm thương mại và hợp tác đầu tư trực thuộc công ty kinh tế kỹ thuật Việt nam là đơn vị được thành lập theo quyết định số 09 QĐTW ĐTNCSHCM ngày 13 tháng 9 năm 1996 của thủ trưởng cơ quan trung ương Đoàn. Trung tâm thương mại và hợp tác đầu tư có nhiệm vụ: - Tìm hiểu thị trường, bạn hàng trong nước và ngoài nước, nắm bắt và phân tích các thông tin thương mại, các qui định pháp luật có liên quan, tham mưu cho giám đốc công ty ký kết các hợp đồng kinh tế. - Nghiên cứu các vấn đề có liên quan đến hợp tác đầu tư, tìm kiếm các Doanh nghiệp trong và ngoài nước để trình giám đốc công ty xem xét quyết định việc liên doanh. - Tổ chức triển khai các hợp đồng kinh tế đã ký kết và phối hợp với các đơn vị chức năng của công ty thanh toán kịp thời các hợp đồng. - Do biến động về qui mô tổ chức công ty và việc mở rộng địa bàn kinh doanh trung tâm còn phải thực hiện một số chức năng khác như lo các kế hoạch về hạn nghạch bổ sung ngành hàng và những thủ tục nghiệp vụ hành chính phục vụ mục đích sản xuất kinh doanh của công ty và các đơn vị khác thuộc công ty. Bộ phận kinh doanh của trung tâm có nhiệm vụ tổ chức hoạt động kinh doanh XNK, chịu trách nhiệm trước công ty về sử dụng và bảo toàn vốn. Khi xác định được một thương vụ thì bộ phận kinh doanh phải xây dựng phương án kinh doanh trình lên giám đốc trung tâm duyệt sau đó trình lên giám đốc công ty quyết định. Bộ phận chức năng phải trực tiếp giao dịch với ngân hàng để mở L/C, chuyển tiền trực tiếp theo bộ chứng từ được phòng kế toán chuẩn bị. Phòng chức năng XNK phải tự tìm đối tác, thực hiện giao dịch, ký hợp đồng nếu được giám đốc công ty uỷ quyền. Tóm lại: Cơ cấu chức năng của trung tâm thương mại nói riêng và của công ty nói chung thể hiện một điều là trung tâm và công ty vì mục tiêu kinh doanh lên trên hết. Các bộ phận trong công ty tồn tại là để phục vụ kinh doanh một cách tốt nhất. Mặt khác nó cũng thể hiện một hệ thống thông tin hai chiều giữa giám đốc và các bộ phận để tạo ra hiệu quả kinh doanh cao. Đặc điểm kinh doanh xuất nhập khẩu của Trung tâm Thương Mại thuộc công ty DETESCO Viện nam Công ty Detesco là một công ty mới được thành lạpp có lịch sử phát triển chưa lâu nhưng đã trải qua giai đoạn đầy khó khăn vói những thay đổi của nền kinh tế chính trị của cả nước. Mặc dù vậy nhưng công ty vẫn đang ngày một phát triển trong đó chiếm chủ yếu là hoạt động kinh doanh XNK thuộc trung tâm thương mại. Đây là hoạt động nổi bật của công ty. Công ty có quan hệ rộng rãi với các Doanh nghiệp trong và ngoài nước, các cơ quan chức năng cũng như cảng, hải quan, các hãng giao nhận, ngân hàng... Công ty có một cơ cấu tổ chức gọn nhẹ làm việc có hiệu quả với qui mô lớn, điều kiện kinh doanh khó khăn nhưng công ty đã thực hiện được một kim ngạch lớn, mang lại mức lợi nhuận cao trong kinh doanh của công ty. Điều kiện thuận lợi trong kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty: Trong hoạt động công ty thường xuyên được sự chỉ đạo và tạo điều kiện thuận lợi từ trung ương Đoàn. Công ty có ban lãnh đạo có năng lực, sáng suốt, có đội ngũ nhân viên có khả năng và có sự sáng tạo, cố gắng trong công việc. Công ty có hệ thống khách hàng quen thuộc. Nội bộ có sự đoàn kết nhất trí cao giữa Đảng, chính quyền và các đoàn thể trong công ty só sự phối hợp hành động. Bên cạnh những thuận lợi đó công ty cũng gặp phải không ít khó khăn đó là: Là một công ty mới được thành lập với thời gian chưa lâu do đó cơ sở vật chất kỹ thuật còn yếu kém không đáp ứng yêu cầu kinh doan._.ng ty. Nghiên cứu theo dõi chặt chẽ thị trường này đảm bảo cho Công ty một nguồn hàng nhập khẩu ổn định làm cơ sở cho việc phát triển các thị trường khác. Nghiên cứu thị trường nước ngoài không phải là nghiên cứu về hàng hoá như khối lượng, chất lượng, quy cách, giá cả, xu hướng thay đổi... mà cần phải nắm bắt và hiểu về luật pháp, chính sách thương mại, các thông tin buôn bán và tình hình kinh tế chính trị... của thị trường đó. Đây là phần việc mà nếu bộ phận chuyên môn nghiên cứu thị trường thì sẽ rất hiệu quả. + Đối với thị trường trong nước Công ty cần nghiên cứu nhu cầu đồng thời dự đoán xu hướng thay đổi nhu cầu để nhập khẩu hàng hoá đúng lúc và phù hợp. Mặt khác là Công ty phát triển kinh tế kỹ thuật thì Công ty cần theo dõi quá trình sản xuất trong nước nhằm đáp ứng nhu cầu vật tư kịp thời và chớp được thời cơ kinh doanh. Xác định sự cạnh tranh trong nước, mức độ hoạt động của các Công ty xuất nhập khẩu trong nước. + Xử lý thông tin: nghiên cứu thị trường không phải chỉ là đưa ra các thông tin mà hệ thống các thông tin đó phải được các cán bộ kinh doanh phân tích xử lý để nhận diện ra một thương vụ kinh doanh. Đây là mục tiêu và cũng là kết quả của quá trình nghiên cứu thị trường, thương vụ có tính chất khả thi càng cao thì chứng tỏ quá trình nghiên cứu thị trường tốt. Để làm tốt công tác thị trường thì cần phải tăng cường đội ngũ cán bộ giỏi tinh thông nghiệp vụ và có trình độ ngoại ngữ, tin học để có thể nắm bắt được thông tin kịp thời và xử lý thông tin được tốt. Như vậy, công tác nghiên cứu thị trường phải được tiến hành song song cả trong phạm vi nội địa và quốc tế, bởi vì có nghiên cứu tốt thị trường nội địa thì Công ty có thể thu gom hay mua các đầu vào cần thiết một cách tốt nhất để phục vụ kinh doanh xuất nhập khẩu có lợi ích nhất cho Công ty. Có như vậy mới đứng vững trong điều kiện quốc tế hoá và phát huy chiến lược đa dạng hoá kinh doanh của mình một cách có hiệu quả nhất. 3. Củng cố quan hệ với bạn hàng, khách hàng - Củng cố giữ mối quan hệ với khách hàng, bạn hàng cũ. trong cơ chế thị trường thì vấn đề cạnh tranh trở nên gay gắt do đó trong cơ chế cạnh tranh như hiện nay thì có được khách hàng là rất khó. Giữu được mối quan hệ với bạn hàng, khách hàng cũ đã hiểu và có sự tin tưởng với nhau còn khó hơn. Cái cốt yếu để giành chiến thắng trên thị trường hiện nay là có sự tin tưởng, giúp đỡ lẫn nhau giữa các bạn hàng, khách hàng tạo mối quan hệ lâu dài thường xuyên. Đây là chỗ dựa cho hoạt động kinh doanh của Công ty, muốn đạt được điều đó thì phong cách làm ăn, cư xử của Công ty phải thể hiện chữ tín, sự sòng phẳng giúp đỡ lẫn nhau trong điều kiện khó khăn. Chỉ có sự chân thành và sòng phẳng mới có thể tạo được quan hệ làm ăn lâu dài, ổn định, không nên để một lợi ích nhỏ trước mắt mà làm mất đi khách hàng, mất đi lợi ích lớn sau đó. Tuy nhiên Công ty cũng cần thường xuyên đánh giá lại triển vọng của các bạn hàng mà đặc biệt là khả năng tài chính để từ đó có sự lựa chọ sàng lọc xem mối quan hệ mà cần được oi trọng phát triển, mối quan hệ nào cần được cắt đứt hay hạn chế để đem lại hiệu quả cao hơn trong hợp tác kinh doanh hiện tại và lâu dài. - Tìm hiểu mở rộng quan hệ với khách hàng, bạn hàng mới trong sự đa dạng và phát triển của kinh doanh không cho phép hoạt động kinh doanh chỉ hạn hẹp trong một số chủ thể nhất định. Do cạnh tranh, cùng với việc mất đi một bạn hàng, khách hàng thì việc tìm hiểu và phát triển quan hệ với bạn hàng mới là điều tất yếu không thể thiếu. Phát triển quan hệ kinh doanh có thể thông qua các bạn hàng cũ, qua các tài liệu quảng cáo... Việc tìm hiểu khách hàng là rất khó khăn nhưng không thể vì thế mà bỏ qua sự thận trọng trong kinh doanh. Chính vì thế trước khi đặt quan hệ với khách hàng mới cần phải tìm hiểu về họ, các yếu tố cơ bản là: tình hình tài chính của khách hàng, tình hình kinh doanh và triển vọng phát triển. Người chịu trách nhiệm trong quan hệ kinh doanh của Công ty... Nghiên cứu vấn đề này đảm bảo cho Công ty sự an toàn trong kinh doanh và xây dựng các đối sách cần thiết khi tiến hành kinh doanh. 4. Giải pháp giao dịch đàm phán, ký kết hợp đồng. Việc giao dịch đàm phán có một vai trò quan trọng trong ký kết hợp đồng, là cơ sở cho hoạt động kinh doanh, đàm phán để thành công phải dựa trên nghiên cứu thị trường tìm hiểu đối tác ngoài ra còn phụ thuộc không gian, thời gian khung cảnh và nghệ thuật đàm phán. Sách lược chung là dấu kín bối cảnh của mình tìm hiểu bối cảnh của đối phương. Điều cần ghi nhớ khi đàm phán là đàm phán nhằm đạt được sự thoả thuận có lợi cho ta và cho đối phương chứ không phải tiến đến chỗ chấm dứt quan hệ do đó không nên gây sức ép quá mạnh. Khung cảnh của cuộc đàm phán là rất quan trọng, một khung cảnh tốt sẽ làm hai bên giảm căng thẳng và dễ đi tới sự thoả thuận. Thực tế tại Công ty DETESCO VN ít khi đàm phán với đối tác nước ngoài tại Công ty, nhưng khi đàm phán Công ty chưa tạo được một khung cảnh tốt, Công ty chưa có phòng chuyên dụng, cơ sở vật chất phục vụ cho đàm phán còn chưa tốt đẽ gây ấn tượng xấu về Công ty cho đối tác nước ngoài. Theo ý kiến của tôi thì Công ty nên có một phòng dành riêng cho đàm phán với trang thiết bị tốt gây ấn tượng tốt từ đầu cho đối phương. Về giao dịch Công ty thường sử dụng thư thương mại qua Fax. Để dễ đi đến thở thuận thư thương mại cần có một quy chuẩn nhất định, nội dung thư nên đưa phần có lợi ích cho đối phương lên đầu, phần yêu cầu của ta xuống sau như vậy đối phương sẽ cảm thấy ta quan tâm tới lợi ích của họ. 5. Đối với đối thủ cạnh tranh Kinh doanh trong cơ chế thị trường Công ty phải chịu áp lực cạnh tranh mạnh mẽ từ nhiều phía. Cạnh tranh như một con dao hai lưỡi. Một mặt nó là động lực thúc đẩy doanh nghiệp, buộc doanh nghiệp phải tự xây dựng cho mình một chiến lược kinh doanh, phát huy mọi tiềm lực, quản lý hiệu quả hoạt động kinh doanh. Mặt khác tham gia hoạt động cạnh tranh cũng là hành động dẫn doanh nghiệp đến chỗ phá sản, bị đào thải khỏi thương trường giành chỗ cho doanh nghiệp khác trong môi trường cạnh tranh khốc liệt như vậy để tồn tại được doanh nghiệp phải nắm được thông tin thị trường, thông tin từ các đối thủ cạnh tranh từ đó đưa ra các đối sách thích hợp. Chiến lược chung cho cạnh tranh là lớn hơn né tránh, ngang bằng hợp tác, nhỏ hơn đè bẹp. Trong thị trường nhập khẩu, Công ty chịu sự cạnh tranh mạnh nhất từ các Công ty xuất nhập khẩu, để chiến thắng trên thị trường này Công ty cần có những đối tác cạnh tranh thích hợp. Đó là các điều kiện mua bán, thanh toán, tín dụng tiện lợi hơn đối thủ, là sự giữ chữ tín, luôn đúng hạn các yêu cầu được thực hiện đầy đủ cả trong quan hệ với các bạn hàng, ngân hàng và các cơ quan chức năng trong cạnh tranh các Công ty của ta cần được giữ các bí mật đồng thời phải khai thác các thông tin của đối thủ đó là các thông tin về kế hoạch ngày về của hàng hoá, các khó khăn, thuận lợi... khai thác được thông tin của đối thủ là vô cùng quan trọng đối với việc kinh doanh. Thời gian trong cạnh tranh là yếu tố cực kỳ quan trọng, công ty cần rút ngắn thời gian thực hiện, chớp thời cơ trong những trường hợp cần thiết. Chẳng hạn khi hai lô hàng cùng loại của Công ty và đối thủ cùng về thì việc bỏ ra thêm chi phí để rút ngắn thời giam làm thủ tục, thời gian bốc xếp...để tung hàng ra thị trường trước đối thủ sẽ mang lại hiệu quả rất lớn. 6. Xác định lượng XNK tối ưu Nhà kinh doanh phải xác định được số lượng hàng xuất nhập khẩu tối ưu trên cơ sở tối ưu hoá cả về giá trị sử dụng và giá trị. Toàn bộ chi phí liên quan đến hàng hoá xuất nhập khẩu gồm có: chi phí thu mua, vận chuyển gồm có các khoản mục chi phí liên hệ giao dịch, chi phí vận chuyển, bốc dỡ hàng, chi phí cho việc tiếp nhận hàng về số lượng và chất lượng, chi phí tiền mua hàng và hạch toán tăng, chi phí bảo quản... trong các lượng chi phí kể trên có những khoản thay đổi theo lượng hàng mua bán như chi phí về tiền mua hàng, vận chuyển bốc dỡ... lượng hàng hoá càng nhiều chi phí càng lớn. Nhưng cũng có những khoản chi phí không thay đổi theo lượng hàng hoá mua bán, chúng tương đối cố định như chi phí theo lượng hàng hoá mua bán cũng tương đối cố định như chi phí về thủ tục xuất nhập khẩu, hạch toán nhập kho, chi phí tiếp nhận hàng và số lượng, chất lượng (trong một chừng mực nào đó). Lượng hàng đặt mua một lần càng lớn thì chi phí thu mua và vận chuyển cho một đơn vị mua hàng là càng ít và ngược lại. Cho nên xét về chi phí thu mua vận chuyển, mua kượng hàng càng lớn càng có lợi. Nhưng lượng mua càng lớn thì chi phí bảo quản càng cao. Vấn đề đặt ra cho các Công ty kinh doanh xuất nhập khẩu nên đặt mua hay xuất khẩu một lần bao nhiêu để tổng chi phí là thấp nhất. Có thể áp dụng mô hình toán kinh tế sau : Gọi N là : nhu cầu xuất (nhập) khẩu hàng năm. D : Lượng hàng đặt mua của mỗi đơn hàng. C1 : Phần chi phí thu mua tương đối cố định cho một lần đặt mua. C2 : Chi phí bảo quản một lô hàng lưu động trong kho một năm : g : Đơn giá mua hàng. Ta tính được tổng chi phí Công ty cho lô hàng là : N D C = C1 . + C2 . g . N D 2 Tối thiểu hoá chi phí bằng cách lấy vi phân hàm số C và cho vi phân hàm số C = 0 ta có : C1 . N C2 C ' = + D2 2 2C1N D= C2 Nên: VD : Nhu cầu nhập khẩu năm 2000 của Công ty về sắt thép là 32.000 tấn. Chi phí đặt mua hàng 1 lần là 20.000; chi phí bảo quản 1 tấn hàng trung bình trong một năm là 2.000. Với số liệu trên ta có thể xác định lượng hàng nhập khẩu tối ưu là: 2 . 20 . 3.200 D = = 800 (tấn) 2 7. Công ty cần thay đổi cơ cấu nhập khẩu Hoạt động kinh doanh của Công ty thì chủ yếu là hoạt động nhập khẩu cho nên để phát triển hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của Công ty đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu, tạo ra mức lợi nhuận cao cho Công ty trên cơ sở tiết kiệm vốn và vận dụng tối đa khả năng về cơ sở vật chất và năng lực của cán bộ trong Công ty, Công ty cần phải thay đổi cơ cấu nhập khẩu. Cụ thể là thay đổi hình thức cơ cấu nhập khẩu, thay đổi cơ cấu nhóm hàng nhập khẩu. Bên cạnh đó Công ty cũng cần phải phát triển các hình thức nhập khẩu mới, các mặt hàng nhập khẩu mới. a. Tăng tỷ trọng nhập khẩu trực tiếp, giảm tỷ trọng nhập khẩu uỷ thác Qua phân tích về hoạt động của Công ty cùng với sự quan sát tìm hiểu tại Công ty cho thấy hoạt động nhập khẩu theo hình thức trực tiếp có đặc điểm là tỷ xuất lợi nhuận cao, Công ty hoàn toàn chủ động trong việc hình thành ý tưởng cũng như thực hiện hoạt động kinh doanh, Công ty có thể khai thác tối đa năng lực của cán bộ cho mục tiêu sinh lợi. Mặt khác nhập khẩu trực tiếp phải sử dụng vốn của Công ty hoặc vay vốn của ngân hàng dẫn đến chi phí kinh doanh cao. Ngược loại hoạt động nhập khẩu uỷ thác có đặc điểm là: lợi nhuận thấp, tỷ xuất lợi nhuận ở mức cố địnhct không phải sử dụng vốn của mình, chi phí kinh doanh do bên uỷ thác chịu. Từ đặc điểm của hai hình thức nhập khẩu này ta thấy rằng để đạt được mục tiêu tăng mức lợi nhuận, tăng tỷ xuất lợi nhuận, vươn tới hoạt động kinh doanh có hiệu quả hơn Công ty cần phải tăng tỷ trọng nhập khẩu trực tiếp, giảm tỷ trọng nhập khẩu uỷ thácnhằm nâng cao tỷ xuất lợi nhuậnvà tận dụng tối đa khả năng vốn của Công ty. Bên cạnh đó Công ty cũng nên vận dụng các cơ hội nhập khẩu uỷ thác để nâng mức lợi nhuận tuyệt đối cuả Công ty và giải quyết sự thiếu hụt vốn kinh doanh. Đạt được sự thay đổi cơ cấu này không thể nâng kim ngạch nhóm này hạn chế tỷ trọng kim ngạch nhóm khác một cách đơn thuần mà nó đòi hỏi Công ty cũng như từng cán bộ có sự cố gắng nỗ lực hết mình để phát triển thị trường, khách hàng từ đó phát triển kinh doanh tăng kim ngạch nhập khẩu trực tiếp. Quan trọng nhất là Công ty phải rất chú trọng đến hoạt động nghiên cứu thị trường. b. Thay đổi cơ cấu mặt hàng nhập khẩu - đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh Hiện nay ta thấy rằng mặt hàng nhập khẩu như xe máy, máy vi tính ngày một tăng lên còn mặt hàng sắt thép, điện lạnh có xu hướng giảm. Điều đó chứng tỏ Công ty có chỗ đứng về mặt hàng xe máy, máy vi tính trên thị trường trong nước. Còn đối với mặt hàng tủ giấy ta thấy kim ngạch ít và chiếm tỷ trọng ít, hơn nữa lợi nhuận từ mặt hàng này không nhiều do đó ta có thể tăng tỷ trọng nhập khẩu xe máy, máy vi tính, giảm nhập khẩu mặt hàng điện lạnh, sắt thép và tủ giấy. Bên cạnh thay đổi cơ cấu mặt hàng nhập khẩu Công ty nên đa dạng mặt hàng nhập khẩu. Đa dạng hoa mặt hàng nhập khẩu tức là khai thác mọi cơ hội kinh doanh không căn cứ mặt hàng, ngành hàng nhằm tăng kim ngạch và lợi nhuận. Đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh kết hợp với việc xác định các mặt hàng chiến lược, chủ lực sẽ tạo cho Công ty khả năng hoạt động rộng, tăng quy mô kinh doanh nhưng đồng thời có tính ổn định cao. Hiện nay Công ty chủ yếu nhập khẩu mặt hàng tiêu dùng nhưng ngoài ra Công ty có thể nhập khẩu thêm mặt hàng máy móc thiết bị bởi nước ta đang thực hiện chủ trương hiện đại hoá và công nghiệp hoá đất nước hơn nữa đây là Công ty phát triển kinh tế kỹ thuật do đó nhập khẩu thêm mặt hàng máy móc, công nghệ thiết bị là phù hợp với nền kinh tế nước ta và tạo lợi nhuận cho Công ty. Chiến lược kinh doanh này hoàn toàn phù hợp với hoạt động kinh doanh của Công ty. Để có thể mở rộng, đa dạng hoá mặt hàng đòi hỏi công tác nghiên cứu thị trường của Công ty phải mạnh, đội ngũ cán bộ chuyên môn phải thường xuyên được đào tạo chuyên môn nghiệp vụ giỏi và Công ty phải có đầu tư thích đáng cho nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước. 8. Công ty cần tăng cường xuất khẩu Hiện nay mặt hàng xuất khẩu của Công ty đều là mặt hàng mà các nước trên thế giới ưa chuộng vì chất lượng tốt. Hơn nữa, đây là những mặt hàng có thế mạnh ở Việt Nam. Do đó Công ty cần tăng cường tìm kiếm bạn hàng ký kết hợp đồng xuất khẩu để tăng cường xuất khẩu tạo lợi nhuận cao cho doanh nghiệp phù hợp với quan điểm của nhà nước ta. Đại hội lần thứ 8 đã nhấn mạnh "... xây dựng một nền kinh tế mở cửa, hội nhập với khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm sản xuất trong nước có hiệu quả." Để tăng cường xuất khẩu Công ty cần có các biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu như: - Nhóm biện pháp liên quan đến tổ chức nguồn hàng, cải tiến cơ cấu xuất khẩu. - Nhóm biện pháp tài chính. - Nhóm biện pháp thể chế tổ chức. III. CÁC TIỀN ĐỀ CHO HOẠT ĐỘNG KINH DOANH XUẤT NHẬP KHẨU CỦA CÔNG TY DETESCO VN 1. Vốn kinh doanh Qua nghiên cứu thực tế ở Công ty DETESCO VN cho thấy một số vấn đề nổi trội là Công ty có lượng vốn kinh doanh ít so với mức hoạt động kinh doanh. Khi thực hiện hoạt động kinh doanh đặc biệt là nhập khẩu, Công ty cần một lượng vốn ngoại tệ tương đối lớn. Công ty cần có một lượng vốn để tài trợ cho hoạt động này, Công ty thường không có sẵn nên tìm tài trợ từ ngân hàng. Với khoản vay này Công ty buộc phải tính đến một lượng lãi suất ngân hàng và điều này làm cho chi phí kinh doanh tăng lên, giảm lợi nhuận và khả năng cạnh tranh của Công ty. Để tạo vốn cho hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu Công ty có thể sử dụng các hình thức sau : + Tăng tỷ lệ tích lũy để tăng nguồn vốn. Để thực hiện cách tạo vốn này đòi hỏi phải có thời gian dài mặt khác cần nghiên cứu một cách đầy đủ trước khi thực hiện bởi một tỷ lệ tích luỹ quá cao sẽ làm ảnh hưởng đến hoạt động khác của Công ty. + Sử dụng tín dụng thương mại: trong quá trình xuất khẩu của các Công ty nước ngoài có vốn lớn có thể cung cấp những khoản tín dụng thương mại Công ty DETESCO VN có thể sử dụng nguồn vốn này để tài trợ cho hoạt động xuất nhập khẩu. Tuy nhiên tình hình tạo nguồn vốn này chỉ có thể sử dụng với các điều kiện thứ nhất là các chi phí cho khoản tín dụng này như: chênh lệch giá lãi suất hoa hồng môi giới, sự thiệt hại trong các điều khoản phải nhỏ hơn hoặc bằng chi phí phải trả cho ngân hàng nến không sử dụng khoản tín dụng này. Mặt khác thời gian của khoản tín dụng không quá dài, xu hướng biến đổi của tỷ giá cần được nghiên cứu kỹ để tránh chi phí cho tín dụng tăng lên khi trả nợ. + Huy động vốn từ cán bộ công nhân viên: Việc huy động vốn này có thể thực hiện dưới hai hình thức vay hoặc góp vốn cùng chi lợi nhuận. So sánh với ngân hàng thì chi phí cho việc huy động vốn từ cán bộ công nhân viên xấp xỉ như chi phí trả cho việc vay vốn ngân hàng bởi vì người ta sẽ không bao giờ chịu bỏ vốn ra khi nguồn lợi thu về quá ít. Thậm chí không bằng quỹ ngân hàng tuy nhiên huy động vốn bằng cách này có một điều lợi là: cán bộ công nhân viên sẽ được hưởng phần lãi suất mà lẽ ra phải cho ngân hàng do đó làm tăng thu nhập khi trong kinh doanh có sử dụng một phần vốn của mình thì người cán bộ sẽ vận dụng hết khả năng của mình để ddảm bảo an toàn vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn từ đó hiệu quả kinh doanh chung của Công ty sẽ tăng lên. Sử dụng vốn một cách có hiệu quả là một cách thức làm gia tăng nguồn vốn kinh doanh. Quản lý vốn chặt chẽ để bảo toàn vốn là một việc làm hết sức cần thiết nhưng đối với từng trường hợp cụ thể như do nguyên nhân bất khả kháng, do khó khăn của bạn hàng cũng cần có sự linh động vê thời gian để có thể giữ gìn thời gian để có thể giữ gìn bạn hàng, hãy tận dụng cơ hội kinh doanh. Đẩy mạnh vòng quay của vốn là biện pháp hiệu quả để tiết kiệm vốn. Đối với công ty DETESCO VN thì vấn đề vốn là vấn đề có tính cấp bách cần được giải quyết nhanh chóng để tạo nên một sức cạnh tranh mạnh mẽ, tạo điều kiện cho hoạt động kinh doanh. 2. Nguồn nhân lực cho vấn đề kinh doanh xuất nhập khẩu của Công ty Thị trường biến đổi rất nhanh chóng đòi hỏi người cán bộ kinh doanh phải năng động hơn, biết thay đổi cho phù hợp hoàn cảnh mới. Trung tâm thương mại thuộc Công ty DETESCO VN có một đội ngũ cán bộ nhân viên có năng lực, có sức sáng tạo cao. Nhưng do xuất phát từ một căn bản là nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, họ đã không được đào tạo một cách có chuẩn mực về trình độ nghiệp vụ, ngoại ngữ... trong quá trình kinh doanh họ đã tự đào tạo, tự tích luỹ kinh nghiệm cho riêng mình, nhưng trước sự thay đổi đến chóng mặt của cơ chế thị trường, của khoa học kỹ thuật thì việc bắt kịp một cách có hiệu quả với điều kiện kinh doanh là không thể. Để có nguồn nhân lực có trình độ cao đáp ứng được mọi đòi hỏi của điều kiện kinh doanh, Công ty cần có chính sách đào tạo lại. Việc đào tạo lại cần tập trung vào các trọng tâm chính là ngoại ngữ, nghiệp vụ kinh doanh thương mại quốc tế, kỹ thuật sử dụng các công cụ phục vụ kinh doanh như máy tính... để đào tạo có hiệu quả Công ty cần lập kế hoạch đào tạo thường xuyên, có trích một tỷ lệ nhất định trong lợi nhuận để lập ngân sách đào tạo. Cán bộ công nhân viên sau khi đào tạo điều tra đánh giá kết quả của quá trình đào tạo và phải được bố trí công việc phù hợp, phát huy được kết quả đào tạo, tránh lãng phí chất xám. Bên cạnh kế hoạch đào tạo thường xuyên Công ty cần khuyến khích quá trình đào tạo. Ngoài đào tạo để phát triển nguồn nhân lực Công ty cón có thể sử dụng một số biện pháp khác là nhận thêm người ngoài Công ty. Biện pháp này có thể mang lại hiệu quả với chi phí không lớn và thời gian không lâu. Nguồn nhân lực này có khả năng công tác tốt vì được đào tạo đầy đủ từ các trường học về cả trình độ ngoại ngữ, nghiệp vụ, vi tính. Phát triển nguồn nhân lực nhằm tạo ra năng lực nội sinh cho sự phát triển đầu tư vào con người là lĩnh vực mang lại hiệu quả cao nhất. Chính vì vậy mà Công ty cần có chiến lược phát triển nguồn nhân lực trong lâu dài. 3. Một số kiến nghị đối với nhà nước nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu cho Công ty Cũng như mọi hoạt động khác, hoạt động xuất nhập khẩu muốn phát triển được nhanh chóng thì vấn đề những chính sách của nhà nước khuyến khích hay kìm hãm nó sẽ tác động trực tiếp đến việc phát triển nhanh hay chậm của hoạt động xuất nhập khẩu. Do vậy để cho hoạt động xuất nhập khẩu của Công ty có điều kiện nhà nước cần có những chính sách hỗ trợ cho Công ty. - Khi bước ra thương trường, nhất là ở phạm vi quốc tế các doanh nghiệp thường gặp khó khăn trong việc thu thập các thông tin đáng tin cậy. Vấn đề thông tin là vấn đề hết sức quan trọng đối với mọi doanh nghiệp bởi vì nếu doanh nghiệp có đủ lượng thông tin đáng tin cậy để xử lý, đưa ra những bước đi thích hợp với từng tình huống cụ thể. Do đó phòng thông tin thương mại cần phải cải cách lại phương thức hoạt động để làm đúng chức năng nhiệm vụ là nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước, cung cấp cho những doanh nghiệp những thông tin mới nhất về giá cả và xu hướng biến động, nhu cầu và kế hoạch của các nước khác trên thế giới, phương hướng đầu tư kinh doanh của các tập đoàn trên thế giới. Muốn vậy, Bộ thương mại cần quan tâm đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, bảo đảm cho phòng thương mại có những thông tin mới nhất về thị trường. Có như vậy nó mới giúp các doanh nghiệp có được bước đi đúng đắn và phù hợp với từng môi trường kinh doanh. - Nhà nước cần thành lập trung tâm tư vấn pháp luật quốc tế: Bộ tư pháp cùng các cơ quan có thẩm quyền thành lập một trung tâm thông tin pháp luật quốc tế với mục đích cung cấp hiểu biết về pháp luật quốc tế cho các doanh nghiệp, các cán bộ xuất nhập khẩu ở Việt Nam giúp họ nắm vững các luật pháp và thông lệ thương mại hiện hành của các nước trên thế giới nhanh chóng tiếp cận với các thay đổi. Nắm vững pháp luật nước đối tác là điều kiện đầu tiên giúp doanh nghiệp thành công trong ký kết hợp đồng cũng như xây dựng quan hệ làm ăn lâu dài tránh các hiểu lầm đáng tiếc do không hiểu biết pháp luật. - Nhà nước cần tăng cường mức độ cập nhật thông tin trong công tác hải quan giữa các địa phương và tổng cục hải quan tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu hàng hoá. - Nhà nước cần giảm bớt các cơ quan quản lý nhập khẩu: cho đến nay mặc dù đã có nhiều cố gắng để hoàn thiện cơ chế quản lý nhập khẩu nhưng do những nguyên nhân khách quan và chủ quan việc bình giảm ngay lập tức các cơ quan quản lý khó có thể thực hiện được. Theo thống kê hiện nay các cơ quan quản lý nhập khẩu lên tới 16 cơ quan từ Trung Ương đến địa phương tạo thành mạng lưới chằng chịt buộc các doanh nghiệp phải tuân theo các quy định chồng chéo. - Giảm dần các thủ tục nhập khẩu hàng hoá đặc biệt là kiểm tra hồ sơ hải quan. Hiện nay làm thủ tục này mất 4-5 ngày trong quy định chỉ 2 ngày. - Nhà nước cần đảm bảo và thực hiện tín dụng xuất khẩu. Nhà nước đảm bảo tín dụng xuất khẩu là hình thức khuyến khích xuất khẩu bằng cách nhà nước đứng ra lập quỹ bảo hiêmr xuất khẩu. Quỹ này gánh vác mọi rủi ro, mạo hiểm mà các nhà xuất khẩu bán hàng hoá cho nước ngoài với phương thức thanh toán trả chậm hoặc tín dụng dài hạn. Nhà nước thực hiện tín dụng xuất khẩu là hình thức mở rộng xuất khẩu bằng cách nhà nước với quy mô lớn với lãi suất ưu đãi để nước vay sử dụng số tiền đó mua hàng hóa của nước cho vay. Nguồn vốn vay thường lấy từ ngân sách nhà nước và việc cho vay thường kèm theo các điều kiện kinh tế và chính trị có lợi cho nước cho vay. Hình thức này giúp Công ty đẩy mạnh xuất khẩu vì có sẵn thị trường tiêu thụ. - Nhà nước cần trợ cấp xuất khẩu : trợ cấp này có hai loại là trợ cấp trực tiếp là sự thực hiện ưu đãi cho nhà kinh doanh sản xuất hàng hoá xuất khẩu sử dụng đầy đủ với giá hạ các công trình hạ tầng, điện, nước, phương tiện thông tin liên lạc, trợ giá xuất khẩu, phương tiện vận tải... Trợ cấp gián tiếp là hình thức nhà nước sử dụng các biện pháp quản lý hành chính để hỗ trợ xuất khẩu. Chính phủ sử dụng các biện pháp gián tiếp như điều tiết cung cầu bằng cách hỗ trợ về tài chính thông qua hệ thống kho đềm của Chính phủ. + Một số kiến nghị khác: - Nhà nước cần có biện pháp hỗ trợ cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu khi tỷ giá thu đổi ngoại tệ bị biến động lớn. - Chế độ chính sách của nhà nước cần được nhanh chóng ổn định trong kinh doanh xuất nhập khẩu bởi cơ chế quản lý xuất nhập khẩu nước ta thay đổi thường xuyên làm cho doanh nghiệp không kịp xoay sở bị đọng, lúng túng trong hoạt động kinh doanh một số doanh nghiệp chưa thực sự yên tâm đầu tư vốn, mở rộng sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu. - Nhà nước cần hoàn thiện hẹ thống pháp luật (nhất là pháp luật về xuất nhập khẩu), tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu. Mặt khác, nhà nước phải tạo ra môi trường kinh doanh ổn định, ngăn cấm và nghiêm trị những hành vi kinh doanh phi pháp như buôn lậu, nạn hàng giả... bằng cách tăng cường hoạt động quản lý về mặt hành chính như tinh giảm mức tối đa những thủ tục hành chính như thủ tục hải quan mà không cần thiết. Kiểm tra đôn đốc hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như hoạt động xuất nhập khẩu, tránh hiện tượng xuất nhập khẩu tràn lan gây nên thiệt hại cho quốc gia cũng như các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu theo đúng pháp luật. Qua nhiều đợt tìm hiểu với các chủ doanh nghiệp cho biết do hệ thống pháp luật của chúng ta hiện nay chưa đồng bộ và chưa hoàn thiện nên khi bước ra thương trường buộc họ phải làm ăn phi pháp bởi vì theo họ nếu làm ăn theo đúng pháp luật thì xẽ bị thua lỗ do cạnh tranh được với bọn buôn lậu, bọn làm hàng giả và những người làm ăn phi pháp khác. Họ phàn nàn rằng, thời buổi ngày nay làm ăn rất khó khăn làm cho họ thật là mệt mỏi vì phải tìm cách làm ăn phi pháp, đối với các quan chức nhà nước... và họ cũng phàn nàn rằng, họ buộc phải làm ăn phi pháp mặc dù họ không hề muốn vì họ có thẻ bị ngồi tù, nhưng tình thế buộc họ phải làm. Qua đó ta thấy nếu cứ để tình trạng này kéo dài thì hậu quả khó mà lường trước được. Do vậy nhà nước cần đưa ra những khung hình phạt cao hơn đối với những kẻ vi phạm pháp luật. Đồng thời phải tăng cường công tác kiểm tra những người bảo vệ luật pháp cũng như những người phải tuân theo pháp luật. Tóm lại, môi trường vĩ mô có vai trò quyết định đối với hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, bởi vậy, một môi trường vĩ mô thuận lợi sẽ khuyến khích doanh nghiệp hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. KẾT LUẬN Trong quá trình tồn tại và phát triển, Công ty DETESCO VN đã không ngừng hoàn thiện bộ máy tổ chức cũng như chiến lược kinh doanh của mình, tăng lợi nhuận đồng thời với việc đảm bảo đời sống cán bộ công nhân viên góp phần đảm bảo sự ổn định và cân bằng xã hội. Việc đẩy mạnh kinh doanh xuất nhập khẩu luôn là mộ vấn đề quan trọng đối với Công ty. Trong bài viết này tôi đã cố gắng phân tích đánh giá thực trạng về hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu ở Công ty DETESCO VN, tìm ra những giải pháp đổi mới mang ý nghĩa thiết thực có tính khả thi nhằm đẩy mạnh hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của Công ty. Với việc nghiên cứu như trên đã trau dồi những kiếm thức cơ bản về lý luận, mấu chốt cho những sinh viên kinh tế sau khi ra trường đặc biệt là những người ham thích hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực ngoại thương, nắm rõ các nghiệp vụ, trình tự và cách thức tiến hành các hình thức xuất nhập khẩu từ đó hoà nhập với công việc đem lại hiệu quả công tác cao. Bài viết bao hàm những nội dung, kiến thức quan trọng dùng để tham khảo với những người muốn tìm hiểu hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Nó không những nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả của hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của Công ty mà nó còn góp phần vào việc thực hiện thành công mục tiêu "mở rộng và nâng cao hơn nữa hiệu quả của hoạt động kinh tế đối ngoại" mà nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã đề ra. Tuy nhiên đó đều là những suy nghĩ chủ quan của bản thân tôi ở một góc độ nhất định nên tôi kính mong nhận được dự góp ý kiến chỉ bảo của thầy giáo hướng dẫn, Ban giám đốc cùng toàn thể cán bộ công nhân viên phòng thương mại của Công ty để chuyên đề này mang tính thiết thực hơn. Mục lục Lời nói đầu Phần I : Những vấn đề cơ sở lý luận chung về hoạt động xuất nhập khẩu I. Khái niệm, vai trò, chức năng, các công cụ quản lý xuất nhập khẩu 1. Hoạt động xuất khẩu 2. Hoạt động nhập khẩu II. Nội dung hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu 1. Chuẩn bị trước khi ký kết hợp đồng 2. Giao dịch, đàm phán ký kết hợp đồng 3. Thực hiện hợp dồng xuất nhập khẩu 4. Đánh giá kết quả hoạt động xuất nhập khẩu III. Các yếu tố tác động đến hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu 1. Các yếu tố trong doanh nghiệp 2. Các yếu tố ngoài phạm vi doanh nghiệp Phần II: Nghiên cứu hoạt động xuất nhập khẩu tại Công ty DETESCO VN I. Khái quát về Công ty DETESCO VN 1. Lịch sử hình thành và phát triển củaCông ty 2. Chức năng, nhiệm vụ và hệ thống tổ chức bộ máy của Công ty 3. Đặc điểm hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu II. Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu 1. Quá trình kinh doanh xuất nhập khẩu 2. Kết quả hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu a. Cơ cấu xuất nhập khẩu b. Kim ngạch nhập khẩu theo mặt hàng c. Kim ngqạch nhập khẩu theo thị trường d. Kim ngạch xuất khẩu theo mặt hàng e. Kim ngqạch xuất khẩu theo thị trường 3. Phương thức xuất nhập khẩu của Công ty III. Đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của Công ty 1. Kết quả chung 2. Đánh giá hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu ở Công ty DETESCO VN 2.1. Bộ máy tổ chức quản lý 2.2. Thị trường và nghiên cứu thị trường 2.3. Mặt hàng xuất nhập khẩu 2.4. Hoạt động xuất nhập khẩu 2.5. Đánh giá tổng kết hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu Phần III : Phương hướng phát triển, một số biện pháp nhằm góp phần đẩy mạnh hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của Công ty DETESCO VN I. Phương hướng phát triển của Công ty trong những năm tới 1. Phương hướng chung 2. Nhiệm vụ cụ thể II. Một số biện pháp nhằm thúc đẩy hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của Công ty DETESCO VN 1. Kiện toàn bộ máy tổ chức quản lý cán bộ 2. Chú trọng đến nghiên cứu thị trường 3. Củng cố quan hệ với bạn hàng, khách hàng 4. Giải pháp giao dịch, đàm phán, ký kết hợp đồng 5. Đối sách với đối thủ cạnh tranh 6. Xác định lượng xuất nhập khẩu tối ưu 7. Thay đổi cơ cấu nhập khẩu 8. Tăng cường xuất khẩu III. Các tiền đề cho hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của Công ty 1. Vốn kinh doanh 2. Nguồn nhân lực 3. Một số kiến nghị đối với nhà nước Tài liệu tham khảo 1. Giáo trình thương mại quốc tế (PTS. Nguyễn Duy Bột- NXB Thống kê - hà nội 2000) 2. Giáo trình quản trị kinh doanh thương mại quốc tế (PTS. Trần Chí Thành-NXB Giáo dục 12-1999) 3. Giáo trình kinh tế ngoại thương -NXB Giáo dục 1996 - ĐH Ngoại thương 4. Giáo trình Marketing thương mại quốc tế 5. Hỏi đáp về kỹ thuật thực hành kinh doanh xuất nhập khẩu (PTS. Võ Thành Thư) 6. Kinh tế đối ngoại Việt Nam nội dung- giải pháp- hiệu quả (NXB Thống kê 1996) 7. Các tài liệu của Công ty DETESCO VN ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0414.doc