Một số giải pháp chủ yếu nhằm huy động và sử dụng vốn có hiệu quả trong sản Xuất kinh doanh ở Công ty nông thổ sản I

Lời nói đầu Trong bất kỳ hình thái kinh tế xã hội nào thì vốn cũng đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Mọi nguồn lực của doanh nghiệp chung quy lại đều do nguồn lực tài chính quyết định. Các nguồn lực tài chính có vai trò quyết định mọi hoạt động của doanh nghiệp. Do đó quản lý tài chính là một nhiệm vụ trọng tâm của bất kỳ một doanh nghiệp nào. Để đứng vững được trong cơ chế thị trường hiện nay, các doanh nghiệp luôn phải có những bước đi vững chắc trong mọi hoạt động, phải tạo được sự tăn

doc78 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1264 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp chủ yếu nhằm huy động và sử dụng vốn có hiệu quả trong sản Xuất kinh doanh ở Công ty nông thổ sản I, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g trưởng trong hiện tại và những tiền đề vững chắc trong tương lai. Chính vì vậy một vấn đề hết sức quan trọng đặt ra cho các doanh nghiệp là phải tìm cách huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài chính của mình nhằm thực hiện tốt các mục đích của doanh nghiệp. Từ khi nền kinh tế chuyển sang nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp nhà nước phảI hạch toán độc lập tự chủ trong hoạt động kinh doanh, tự chủ trong quản lý nguồn vốn sao cho có hiệu quả nhất. Đã có không ít các doanh nghiệp có cơ hội kinh doanh nhưng không tận dụng và cạnh tranh được với các doanh nghiệp khác do thiếu khả năng hoạt động và sử dụng vốn. Với những doanh nghiệp nhà nước kinh doanh hàng nông sản thì vấn đề về huy động và sử dụng vốn có hiệu quả còn gặp khó khăn hơn nhiều, cái khó khăn này một phần do những đặc điểm của sản xuất nông nghiệp gây ra, một phần do việc quản lý và sử dụng vốn của doanh nghiệp chưa khoa học do vậy hiệu quả còn thấp. Nếu chúng ta không có những giải pháp kịp thời để nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng các nguồn tài chính của doanh nghiệp thì các doanh nghiệp sẽ không đứng vững được trong môi trường cạnh tranh trong nước cũng như quốc tế. Xuất phát từ thực tiễn đó và qua thời gian thực tập tốt nghiệp ở Công ty nông thổ sản I. Em xin được phép chọn đề tài : “Một số giải pháp chủ yếu nhằm huy động và sử dụng vốn có hiệu quả trong sản xuất kinh doanh ở Công ty nông thổ sản I” làm tên chuyên đề thực tập tốt nghiệp Đại học. Mục đích nghiên cứu của chuyên đề nhằm nghiên cứu cơ sở lí luận của việc huy động và sử dụng vốn trong sản xuất kinh doanh, các chỉ tiêu đánh giá hiệu của của việc huy động và sử dụng vốn, nhằm làm cơ sở để đánh giá một cách khách quan việc huy động và sử dụng vốn ở doanh nghiệp nông Nghiệp và Công ty kinh doanh nông Nghiệp nói riêng và các doanh nghiệp Nhà nước nói chung. Mặt khác đề ra phương hướng, giải phát cho Công ty trong việc huy động và sử dụng vốn có hiệu quả. Đối tượng nghiên cứu của chuyên đề đó là vấn đề huy động và sử dụng vốn ở Công ty nông thổ sản I. Phương pháp nghiên cứu dựa trên cơ sở kế thừa những kiến thức hiện có, kết hợp với việc nghiên cứu tài liệu, nghiên cứu lí thuyết quản lí vốn, quản lí tài sản trong các doanh nghiệp. Đồng thời, các chủ trương và chính sách của Đảng và Nhà nước về tín dụng vốn, chính sách đầu tư vốn… Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề chuyên được kết cấu gồm 3 phần sau: Phần I. Cơ sở khoa học về huy động và sử dụng vốn có hiệu quả trong sản xuất kinh doanh ở doanh nghiệp nông nghiệp Phần II. Thực trạng việc huy động và sử dụng vốn trong sản xuất kinh doanh ở Công ty nông thổ sản I. Phần III. Phương hướng và một số giảI pháp chủ yếu nhằm nâmg cao hiệu quả huy động và sử dụng vốn trong sản xuất kinh doanh ở Công ty nông thổ sản, trong thời gian tới. Chương I : cơ sở khoa học về huy động và sử dụng vốn có hiệu quả trong sản xuất kinh Doanh ở Công ty kinh doanh nông nghiệp I. khái niệm, vai trò và đặc điểm của vốn trong sản xuất kinh doanh ở Công ty kinh doanh nông nghiệp 1. khái niệm: 1.1. khái niệm về doanh nghiệp nông nghiệp và Công ty kinh doanh nông Nghiệp : Doanh nghiệp nông nghiệp là đơn vị sản xuất kinh doanh cơ sở trong nông nghiệp, bao gồm tập thể người lao động có sự phân công và hiệp tác lao động để khai thác và sử dụng một cách có hiệu quả các yếu tố, các điều kiện của sản xuất nông nghiệp( đất đai, vốn, cơ sở vật chất-kĩ thuật và các điều kiện tự nhiên kinh tế khác) nhằm sản xuất ra nông sản hàng hoá và thực hiện dịch vụ theo yêu cầu của xã hội. Công ty kinh doanh nông nghiệp được thành lập và hoạt động trên cơ sở liên kết của nhiều thành viên, nhiều đơn vị sản xuất kinh doanh cơ sở có mối quan hệ gắn bó với nhau về lợi ích kinh tế, công nghệ, cung ứng, tiêu thụ, dịch vụ, thông tin, đào tạo, nghiên cứu, tiếp thị… hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp , nhằm tăng cường khả năng kinh doanh của các đơn vị thành viên và thực hiện các nhiệm vụ của chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong từng thời kỳ. 1.2. khái niệm về vốn trong doanh nghiệp và Công ty kinh doanh nông nghiệp Vốn có thể hiểu theo những nội dung rất khác nhau tuỳ theo sự xác định phạm vi và hình thức biểu hiện của nó. Vốn trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân có thể hiểu là toàn bộ tài nguyên và tài sản của quốc gia được biểu hiện dưới hình thức giá trị. Tài nguyên quốc gia không chỉ bao gồm các loại khoáng sản (như: than đá, sắt, dầu khí, vàng, đá quí…) mà còn bao gồm cả sông biển, bến cảng, đường giao thông, các công trình giao thông, thông tin, các công trình khoa học, các công trình nghiên cứu, chất xám… Nhưng toàn bộ vốn liếng của quốc gia nói trên thường chỉ tồn tại như một tiềm năng của đất nước, tiềm năng này càng phong phú thì khả năng khai thác càng thuận lợi, dồi dào. Nhưng trong một thời điểm nhất định ( ví dụ 10 năm từ 2001-2010)thì không thể đưa toàn bộ vốn đó vào sản xuất kinh doanh hoặc tiêu dùng được. Để xác định vốn cho nền kinh tế trong một thời gian cụ thể với những điều kiện cụ thể chi nên căn cứ vào những nguồn vốn có thể tính toán và khai thác được. Bởi vì lẫn lộn giữa tiềm năng và hiện thực sẽ dẫn đến những khó khăn trong việc xây dựng kế hoạch tạo vốn. Tuy nhiên việc xác định tiềm năng của từng nguồn vốn cũng rất tương đối vì chúng chịu ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp của rất nhiều yếu tố đã biết và chưa biết. Vốn trong doanh nghiệp nông nghiệp và trong Công ty kinh doanh nông nghiệp Trong nông nghiệp nói chung và doanh nghiệp Công ty kinh doanh nông nghiệp nói riêng, vốn là nguồn lực hạn chế. Vốn vận động không ngừng từ phạm vi sản xuất sang phạm vi lưu thông và trở lại với sản xuất. Hình thức của vốn sản xuất cũng thay đổi từ hình thức tiền tệ sang tư liệu sản xuất và tiền lương cho người lao động đến sản phẩm hàng hoá và trở lại với hình thức tiền tệ… Như vậy, vốn sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp là hình thức biểu hiện bằng tiền của tư liệu lao động và đối tượng lao động được sử dụng vào sản xuất nông nghiệp. Trong nông nghiệp cũng như ngành công nghiệp, vốn sản xuất cũng được chia làm hai loại đó là vốn cố định và vốn lưu động. -Vốn cố định trong doanh nghiệp và Công ty kinh doanh nông nghiệp : là số vốn ứng trước để mua sắm tư liệu lao động chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp. Phương thức luân chuyển và bù đắp giá trị của nó là chuyển dần từng Phone giá trị vào sản phẩm mới đến khi lao động hết thời hạn sử dụng thì vốn cố định kết thúc quá trình luân chuyển. -Vốn cố định được phân loại theo chức năng( sản xuất và phi sản xuất ) và công dụng của từng yếu tố( tư liệu lao động cơ khí, điều kiện vật chất của lao động và tư liệu sinh học) hoặc theo cơ cấu các ngành sản xuất trong nông nghiệp . -Vốn lưu động trong doanh nghiệp và Công ty kinh doanh nông nghiệp: là vốn bằng tiền ứng trước để xây dựng dự trữ cho sản xuất, để mua sắm vật rẻ tiền mau hỏng và hình thành vốn lưu động nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất và tiêu thụ hàng hoá diễn ra một cách nhanh chóng. 2. Đặc điểm của vốn trong doanh nghiệp và Công ty kinh doanh nông Nghiệp : Do tính đặc thù của sản xuất nông nghiệp: Sản xuất nông nghiệp được tiến hành trên một địa bàn rộng lớn và hết sức phức tạp và còn lệ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên nên mang tính khu vực rõ rệt; trong nông nghiệp ruộng đất là tư liệu sản xuất chủ yếu và không thể thay thế được; sản xuất nông nghiệp gắn liền với cơ thể sống; sản xuất nông nghiệp có tính thời vụ cao; ở Việt Nam ngoài những đặc điểm trên còn có những đặc điểm sau: Một là, hiện nay trên thế giới nhiều nước đã có nền nông nghiệp phát triển ở trình độ cao, các hoạt động sản xuất nông nghiệp đã được cơ giới hoá, huỷ lợi hoá, hoá học hoá, điện khí hoá,tự động hoá…Nhờ đó năng suất ruộng đất, năng suất lao động của họ rất cao, tạo nên sự phân công lao động sâu sắc trong nông nghiệp và trong nền kinh tế quốc dân. Trong khi đó, tuy những năm vừa qua ở nước ta sản lượng lương thực và năng suất lao động không ngừng tăng lên và nước ta đã có vị trí cao trong các nước xuất khẩu lương thực( lúa gạo..)trên thị trường thế giới. Tuy nhiên nông nghiệp nước ta đang ở trình độ rất thấp: Cơ sở vật chất kĩ thuật của nông nghiệp lạc hậu, lao động xã hội đại bộ phận tập trung trong nông nghiệp, sản xuất nông nghiệp còn mang nặng tính tự cấp tự túc, thu nhập của nông dân rất thấp, giá cả nông sản không ổn định. Hai là: Nền nông nghiệp nước ta là một nền nông nghiệp nhiệt đới có pha trộn tính chất ôn đớ, nhất là ở miền Bắc. Chính do tính đặc thù của sản xuất nông nghiệp nên vốn trong các doanh nghiệp và Công ty kinh doanh nông nghiệp có những đặc điểm sau: 2.1. Sức hút về việc đầu tư vốn cho sản xuất nông nghiệp kém,vốn đầu tư cho nông nghiệp chủ yếu là nguồn vốn ngân sách. Nguyên nhân của nó là do: nông nghiệp là ngành sản xuất quan trọng của nền kinh tế quốc dân, nhưng nó lại là ngành sản xuất sinh học phụ thuộc rất lớn vào điều kiện tự nhiên. Vì vậy nông nghiệp là ngành cần lượng vốn lớn nhưng tính rủi ro cao. Trong nền kinh tế thị trường thì sức hấp dẫn của nó kém, trong khi đó nguồn vốn trong nội bộ doanh nghiệp và Công ty kinh doanh nông nghiệp nói riêng và trong nông nghiệp nói chung còn thấp. Mặt khác nông nghiệp nông thôn là ngành , lĩnh vực có nhiều mối quan hệ kinh tế xã hội phức tạp, vì vậy đầu tư cho nông nghiệp nông thôn một mặt giải quyết các vấn đề về kinh tế, mặt khác giải quyết các vấn đề về mặt xã hội( đói nghèo, dân số, lao động …). 2.2. Nông nghiệp là ngành sản xuất sinh học, do vậy vốn trong các doanh nghiệp và Công ty kinh doanh nông nghiệp ngoài các tư liệu sản xuất có nguồn gốc công nghiệp(máy cơ khí, vật tư khác…) còn có các tư liệu sản xuất khác có nguồn gốc sinh học( trâu bò sinh sản, vườn cây lâu năm, gia cầm…)mà các tư liệu sản xuất có nguồn gốc sinh học này lại có những đặc thù riêng về qui luật sinh trưởng và phát dục, do vậy lượng vốn đầu tư cho tư liệu sản xuất lớn và khối lượng vốn dự trữ cũng lớn. 2.3. Chu kỳ sản xuất kinh doanh theo mùa vụ do vậy khả năng thu hồi vốn chậm, lại phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên, do vậy tính rủi ro và kém ổn định trong sản xuất nông nghiệp đã ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng thu hồi vốn đầu tư. Do vậy nó ảnh hưởng gián tiếp đến thời gian thu hồi vốn đầu tư của các doanh nghiệp và Công ty kinh doanh nông nghiệp kinh doanh dịch vụ, các cơ sở sản xuất kinh doanh có sử dụng nguyên liệu nông nghiệp và liên quan đến các ngành kinh tế trong nông nghiệp. 2.4. Hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và Công ty kinh doanh nông nghiệp thường gắn với phạm vi trên một không gian rộng lớn và có điều kiện tự nhiên rất khác nhau dẫn đến cơ cấu cây trồng, vật nuôi cũng phân bố không đồng đều. Mặt khác, cơ cấu về dân số cũng rất phức tạp, do sản xuất nông nghiệp có tính thời vụ nên những lúc chính vụ cần lượng lao động rất lớn ngược lại những lúc không chính vụ thì thừa lao động, điều này sẽ dẫn đến việc nông dân ở nông thôn tràn ra thành thị kiếm việc làm vào những thời điểm nông nhàn,làm cho tình hình an ninh chính trị xã hội hết sức phức tạp. 2.4. ở nước ta trong thời gian qua, ngân sách Nhà nước đã dành một số vốn đáng kể để đầu tư cho nông nghiệp nông thôn, nhưng mức đầu tư chưa tương xứng với mức độ đóng góp của ngành nông nghiệp nông thôn. đầu tư vốn tín dụng mới chỉ đáp ứng được 50-60%nhu cầu. Nguồn vốn vay ưu đãi chủ yếu phục vụ cho hộ nghèo nhưng lượng vốn vay ít,hiệu quả sử dụng vốn thấp. Số lượng vốn vay dài hạn và trung hạn còn thấp cũng chỉ khoảng 50-60%và chủ yếu phục vụ cho việc xây dựng các cơ sở hạ tầng phục vụ nông nghiệp nông thôn. 3. Vai trò của vốn trong doanh nghiệp và Công ty kinh doanh nông nghiệp: Vốn là điều kiện cần thiết và không thể thiếu được để thực hiện sản xuất kinh doanh của mọi ngành trong đó có nông nghiệp nói chung, doanh nghiệp và Công ty kinh doanh nông nghiệp nói riêng. Điều này bắt nguồn từ vai trò của doanh nghiệp và Công ty kinh doanh nông nghiệp. 3.1. Vai trò của doanh nghiệp nông nghiệp : Doanh nghiệp nông nghiệp là đơn vị kinh doanh cơ sở tức là tế bào của nền kinh tế quốc dân. Doanh nghiệp nông nghiệp vừa là nơi kết nối các khoa học với nhau và nối liền khoa học với sản xuất vừa là nơi ứng dụng các thành tựu khoa học kĩ thuật nông nghiệp để thực hiện mục tiêu sản xuất nông sản phẩm hàng hoá và dịch vụ theo yêu cầu của xã hội , của thị trường đồng thời cũng bảo đảm hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và góp phần bảo vệ môi trường sinh thái. Là đơn vị sản xuất kinh doanh, một đơn vị kinh tế cơ sở cùng với chức năng sản xuất và cung ứng một số dịch vụ cho sản xuất nông nghiệp , doanh nghiệp nông nghiệp đồng thời cũng là đơn vị phân phối. Để có thể tiến hành và thực hiện các chức năng trên doanh nghiệp nông nghiệp cần phải có vốn, vốn ở đây không chỉ là các khoản tiền để mua sắm tư liệu sản xuất, tiền lương trả cho người lao động, tiền mua sắm công cụ dụng cụ cho sản xuất ….mà còn bao gồm cả đất đai, nguồn nước, khí hậu, địa điểm kinh doanh . Trong doanh nghiệp nông nghiệp vốn là điều kiện, là tiền đề không thể thiếu được để tiến hành sản xuất kinh doanh, nó giúp cho các doanh nghiệp có thể mua sắm được các tư liệu sản xuất một cách nhanh chóng,kịp thời, đáp ứng nhu cầu kĩ thuật và thời gian 3.2. Vai trò của Công ty kinh doanh nông nghiệp: Do Công ty kinh doanh nông nghiệp cũng hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, nên vai trò của vốn trong Công ty kinh doanh nông nghiệp cũng giống như vai trò của vốn trong doanh nghiệp nông nghiệp vậy. Tuy nhiên cũng có điểm khác biệt nhỏ về vai trò của vốn trong Công ty kinh doanh nông nghiệp , đố là: Công ty kinh doanh nông nghiệp là sự kết hợp của nhiều đơn vị sản xuất kinh doanh cơ sở( có thể bao gồm nhiều doanh nghiệp nông nghiệp ), nên vai trò của vốn trong sản xuất kinh doanh của Công ty mang trọng trách lớn hơn, vốn trong Công ty kinh doanh nông nghiệp không chỉ nhằm mục đích thoả mãn nhu cầu của sản xuất trong toàn Công ty mà còn đảm bảo thực hiện được những chỉ tiêu, kế hoạch mà Nhà nước giao. II. các nhân tố ảnh hưởng đến việc huy động và sử dụng vốn có hiệu quả trong sản xuất kinh doanh ở doanh nghiệp và Công ty kinh doanh nông Nghiệp Do những đặc điểm của sản xuất nông nghiệp nên việc đầu tư vốn và sử dụng vốn trong nông nghiệp chịu sự tác động của nhiều yếu tố, ngoài các yếu tố tự nhiên có tác động một cách trực tiếp đến việc đầu tư và sử dụng vốn trong nông nghiệp nói chung, trong doanh nghiệp và Công ty kinh doanh nông nghiệp nói riêng nó còn chịu sự tác động của cả trực tiếp và gián tiếp của nhiều yếu tố đã biết và chưa biết. Vì vậy để phát huy hiệu quả của vấn đề huy động và sử dụng vốn có hiệu quả trong các doanh nghiệp nông nghiệp đòi hỏi chúng ta cần phải có những nhận thức và phương pháp nghiên cứu về các tác động của những nhân tố ảnh hưởng. Từ đó hạn chế đến mức thấp nhất những nhựơc điểm, những những tác động xấu. Đồng thời tận dụng và khai thác những mặt tích cựu của các nhân tố ảnh hưởng để việc huy động và sử dụng vốn trong các doanh nghiệp và Công ty kinh doanh nông nghiệp đạt kết quả cao nhất. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc huy động và sử dụng vốn trong sản xuất kinh doanh ở doanh nghiệp và Công ty kinh doanh nông nghiệp là: 1. Điều kiện tự nhiên, môi trường: Yếu tố tự nhiên môi trường là một trong những tác nhân có ảnh hưởng đến việc huy động và sử dụng vốn trong doanh nghiệp và Công ty kinh doanh nông nghiệp, yếu tố này có ảnh hưởng trực tiếp đến các trang thiết bị máy móc, các yếu tố sản xuất khác như đất đai, khí hậu, cơ cấu cây trồng vật nuôi, hình thức sản xuất kinh doanh trong các doanh nghiệp nông nghiệp. Đây cũng chính là điều kiện về khí hậu, địa hình, thời tiết, nó giúp cho việc hình thành nên những vùng chuyên canh, vùng chuyên sản xuất cây nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, nó giúp cho việc xác định cơ cấu cây trồng vật nuôi. Chính những tác động của môi trường tự nhiên như vậy, nên việc huy động và sử dụng vốn trong sản xuất ở các doanh nghiệp và Công ty kinh doanh nông nghiệp phải xem xét một cách cẩn thận và chi tiết những tác động bất lợi mà điều kiện tự nhiên môi trường ở vùng đó có thể tác động đến để tìm ra các biện pháp khắc phục và tính toán xem có nên tiếp tục đầu tư hay không? Mặt khác cần xem xét đến những điều kiện thuận lợi mà tự nhiên ban cho để có thể sử dụng vốn trong doanh nghiệp và Công ty kinh doanh nông nghiệp một cách hợp lí và có hiệu quả nhất. ở nước ta nhân tố tự nhiên môi trường có ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất nông nghiệp, Đảng và Nhà nước ta cũng đã nhận thức một cách sâu sắc về vấn đề này nên đã cùng với bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn từng bước xác định hướng đi mới cho nông nghiệp nước nhà, hình thành những vùng chuyên canh(sản xuất lúa gạo o ĐBSCL, ĐBSH; cây ăn quả, cây công nghiệp ở trung du và Miền núi; nuôi trồng thuỷ sản ở khu vực Duyên hải miền trung…), bước đầu đã có những kết quả hết sức phấn khởi. Việc đầu tư về cơ sở hạ tầng như đường xá, điện, nước, thuỷ lợi,…một mặt giúp sản xuất nông nghiệp được thuận lợi và ổn định, mặt khác tận dụng được các điều kiện tự nhiên môi trường để phụ vụ tốt hơn đời sống văn hoá và tinh thần của nhân dân các dân tộc Việt Nam( như: thuỷ lợi sông đà, thuỷ điện Yaly, cầu Tân Đệ…). 2. Nhân tố văn hoá xã hội : Đặc điểm văn hoá, mật độ dân số có ảnh hưởng không nhỏ đến tính khả thi của dự án đầu tư và hiệu quả của việc huy động và sử dụng vốn trong doanh nghiệp nông nghiệp. ở những vùng có mật độ dân số đông, chất lượng lao động không cao thì việc tận dụng được các nguồn lao động với chi phí nhân công rẻ sẽ thuận lợi cho các doanh nghiệp và Công ty kinh doanh nông nghiệp(mà với các mức độ công việc đơn giản chỉ cần sức người), đối với các doanh nghiệp này việc huy động và sử dụng vốn không cần đòi hỏi nhiều vốn. Ngược lại, ở những vùng mật độ dân số không cao, trình độ người lao động khá cao, thì múc lương trả cho người lao động là khá cao, do vậy doanh nghiệp và Công ty kinh doanh nông nghiệp nào muốn sử dụng một cách hiệu quả vốn thì cần phải xác định là thuê bao nhiêu lao động là hiệu quả nhất? Tuy nhiên, ở những vùng mà trình độ của dân cư cao thì việc huy động vốn để sản xuất kinh doanh sẽ gặp nhiều thuận lợi hơn. Mặt khác ở những vùng có đặc điểm này, hệ thống cơ sở hạ tầng vật chất kĩ thuật tương đối hoàn chỉnh và hiện đại. Do vậy nó sẽ tạo ra những thuận lợi rất lớn trong việc huy động và sử dụng vốn đầu tư có hiệu quả ở doanh nghiệp và Công ty kinh doanh nông nghiệp. 3. Nhân tố kinh tế dịch vụ : Đây là nhân tố nhằm đa dạng hoá các loại hình huy động và sử dụng vốn trong các doanh nghiệp và Công ty kinh doanh nông nghiệp, yêu cầu đổi mới và phát triển doanh nghiệp và Công ty kinh doanh nông nghiệp là yêu cầu khách quan nhằm đáp ứng ngày càng cao tính hiệu quả trong huy động và sử dụng vốn ở các doanh nghiệp và Công ty kinh doanh nông nghiệp. Trong khi nguồn lực về tài chính ở doanh nghiệp và Công ty kinh doanh nông nghiệp có hạn thì việc ở một vùng nào đó kinh tế và dịch vụ phát triển, nhất là dịch vụ cho vay(cả vay của tư nhân hay vay của Nhà nước thông qua hình thức tín dụng) sẽ bảo đảm cho doanh nghiệp nông nghiệp có thể huy động được vốn cho sản xuất kinh doanh mà không làm gián đoạn quá trình sản xuất đồng thời tạo nên hiệu quả cao trong việc sử dụng vốn( các doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về các khoản vay hay huy động). Mặt khác, vùng kinh tế dịch vụ phát triển là điều kiện để thu hút vốn đầu tư trong nước và ngoài nước là cơ hội và điều kiện để phát triển cơ sở hạ tầng vật chất kĩ thuật của vùng và của doanh nghiệp và Công ty kinh doanh nông nghiệp, là điều kiện để tiếp nhận những trang thiết bị máy móc hiện đại và trình độ quản lý tiên tiến của nước ngoài. Thêm nữa, việc xây dựng những khu kinh tế trọng điểm, xây dựng những vùng chuyên canh và phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật ở các vùng đó sẽ tạo điều kiện để có thể thu hút được các doanh nghiệp nước ngoài đến hợp tác và liên kết làm ăn với các doanh nghiệp và Công ty kinh doanh nông nghiệp trong nước là cơ sở để ta có thể tiếp cận được với thị trường nước ngoài, giúp cho các doanh nghiệp và Công ty kinh doanh nông nghiệp nước ta có thể xuất khẩu được các sản phẩm của mình ra nước ngoài nhằm thu hút ngoại tệ cho đất nước, lợi nhuận cho doanh nghiệp, tăng tích luỹ vốn để có thể sử dụng một cách có hiệu quả trong sản xuất kinh doanh ở doanh nghiệp và Công ty kinh doanh nông nghiệp. 4. Điều kiện chính trị xã hội : Hơn 15 năm đổi mới kinh tế, Việt Nam đã khẳng định vị trí và uy tín của mình trên trường quốc tế. Với chính sách đối ngoại theo phương châm” Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới” chỉ sau một thời gian nước ta đã có mặt trong rất nhiều các tổ chức trong khu vực và trên thế giới. Nền chính trị trong nước từng bước được ổn định và hoàn thiện, tạo thế vững vàng trong định hướng phát triển kinh tế xã hội, trong chiến lược phát triển lâu dài. Nhất là sau Đại hội 9 Đảng cộng sản Việt Nam, Đảng ta đã vạch rõ đường lối chiến lược và định hướng phát triển trong sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước, để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của sản xuất nông nghiệp trong những năm qua, Nhà nước đã tạo ra những điều kiện thuận lợi nhất để phát triển các doanh nghiệp nông nghiệp, áp dụng và nghiên cứu những tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp, đầu tư cơ sở hạ tầng vật chất kỹ thuật, thu hút vốn đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Các hội nghị, hội thảo,toạ đàm giữa các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và doanh nghiệp và Công ty kinh doanh nông nghiệp nói riêng với các cơ quan quản lý Nhà nước về kinh tế như các bộ chủ quản, các sở ban ngành cấp tỉnh thành phố…tạo cơ hội cho các doanh nghiệp và Công ty kinh doanh nông nghiệp có điều kiện được tiếp xúc, trao đổi và tìm ra những hướng đi mới cho hoạt động sản xuất đồng thời có thể nêu ra được các kiến nghị cho các cơ quan quản lỹ Nhà nước. Trong năm 2001, chúng ta vui mừng và tự hào khi biết rằng tốc độ phát triển kinh tế của nước ta vẫn ở mức cao,tỉ lệ tăng trưởng năm 2001 đạt 6,8%, đứng thứ 2 khu vực Châu á và Việt Nam được đánh giá là nước có môi trường đầu tư an toàn nhất khu vực. III. các nguồn vốn và phương thức huy động các nguồn vốn trong các doanh nghiệp nông và Công ty kinh doanh nông Nghiệp: 1. Các nguồn vốn: Vốn luôn là vấn đề nổi cộm với những nước muốn thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH-HĐH) với điểm xuất phát thấp như nước ta hiện nay thì giữa nhu cầu và khả năng cung cấp vốn cho nông nghiệp và phát triển nông thôn đang còn có sự khác biệt rất lớn, nhất là trong các doanh nghiệp và Công ty kinh doanh nông nghiệp. Do đặc điểm của sản xuất nông nghiệp như ta đã nêu ở phần trước, nên vốn đầu tư cho các doanh nghiệp và Công ty kinh doanh nông nghiệp cần lượng vốn lớn trong khi đó do tính rủi ro cao vì phải chịu sự tác động trực tiếp của điều kiện tự nhiên nên lượng vốn đầu tư không lớn, đây chính là những trở ngại lớn cho các doanh nghiệp và Công ty kinh doanh nông nghiệp trong quá trình hình thành, hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Tuy nhiên có thể thấy được các nguồn vốn đầu tư chủ yếu cho các doanh nghiệp và Công ty kinh doanh nông nghiệp là: 1.1. Vốn đầu tư từ nội bộ doanh nghiệp và Công ty kinh doanh nông Nghiệp: Vốn đầu tư từ nội bộ doanh nghiệp và Công ty kinh doanh nông nghiệp bao gồm việc huy động từ nhiều nguồn vốn khác nhau như: huy động từ các thành viên đóng góp cổ phần; trích lập tiền quỹ thu được hàng năm để hình thành nên các quỹ của doanh nghiệp, Công ty (quỹ phát triển doanh nghiệp , quỹ dự trữ, quỹ khen thưởng , quỹ phúc lợi…); trích ra trong tổng doanh thu phần khấu hao tài sản cố định; nguồn vốn chiếm dụng của khách hàng nhưng trong một thời gian ngắn. Việc huy động các nguồn vốn trong nội bộ doanh nghiệp,Công ty giúp cho các doanh nghiệp và Công ty kinh doanh nông nghiệp có thể đáp ứng được nhu cầu về vốn trong sản xuất kinh doanh , những lúc doanh nghiệp, Công ty cần lượng tiền mua sắm tư liệu sản xuất , trang bị thêm một dây chuyền công nghệ nào đó hoặc thay đổi phương thức kinh doanh, mà những sự thay đổi này cần phải thực hiện trong thời gian ngắn và việc huy động nguồn vốn từ bên ngoài doanh nghiệp, Công ty gặp khó khăn. Nguồn vốn trong nội bộ doanh nghiệp lớn, ổn định sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp và Công ty kinh doanh nông nghiệp chủ động hơn trong sản xuất kinh doanh, tận dụng được những cơ hội làm ăn mới với các bạn hàng mới và cũ. Hiện nay ở nước ta, việc huy động vốn từ trong nội bộ doanh nghiệp và Công ty kinh doanh nông nghiệp gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt là trong các doanh nghiệp Nhà nước, vì trong các doanh nghiệp Nhà nước do còn có nhiều khúc mắc trong quản lý kinh tế, trong các thủ tục hành chính… nên hiệu quả kinh tế thu được trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp này rất thấp, lợi nhuận ít, thập chí thường xuyên phải bù lỗ. Do vậy nguồn vốn lấy từ các quỹ rất ít và hầu như chẳng đáng kể gì cả. Chỉ có nguồn vốn huy động từ cán bộ công nhân viên thông qua quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước mới có thể là động lực lớn về thu hút vốn trong nội bộ doanh nghiệp và Công ty kinh doanh nông nghiệp. 1.2. Vốn huy động bên ngoài doanh nghiệp và Công ty kinh doanh nông Nghiệp :Bao gồm các nguồn vốn sau: * Vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước: Nguồn vốn do Nhà nước cấp là một bộ phận quan trọng trong toàn bộ khối lượng vốn đầu tư ở các doanh nghiệp và Công ty kinh doanh nông nghiệp. Nguồn vốn ngân sách bao gồm các khoản tiền hoặc tài sản mà Nhà nước cấp cho doanh nghiệp và Công ty kinh doanh nông nghiệp để các doanh nghiệp, Công ty có thể tiến hành sản xuất kinh doanh. Nguồn vốn này được hình thành không đều trong các doanh nghiệp và Công ty kinh doanh nông nghiệp, tức nguồn vốn này trên tổng số vốn kinh doanh của các doanh nghiệp, Công ty không giống nhau cả về số tương đối và tuyệt đối. Nhà nước là chủ sở hữu vốn trong doanh nghiệp, Công ty nhưng giao vốn cho một cá nhân cụ thể( giám đốc ) quyền tự chủ sử dụng. Trước đây khi nền kinh tế nước ta chưa chuyển sang nền kinh tế thị trường, vốn trong các doanh nghiệp và Công ty kinh doanh nông nghiệp hoàn toàn do Nhà nước cấp, hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và Công ty kinh doanh nông nghiệp hoàn toàn theo các chỉ tiêu và kế hoạch của Nhà nước giao, không coi trọng, thập chí xem nhẹ lợi ích kinh tế của doanh nghiệp, Công ty. * Huy động từ nguồn vốn tín dụng: Trong điều kiện hiện nay, đây là nguồn vốn trọng yếu nhất ở hầu hết các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp và Công ty kinh doanh nông nghiệp nói riêng. Thông qua việc kê khai tài sản ở các doanh nghiệp và Công ty kinh doanh nông nghiệp, ngân hàng sẽ quyết định cho doanh nghiệp và Công ty kinh doanh nông nghiệp vay với khoản tiền là bao nhiêu? mức lãi suất( hàng năm, hàng tháng, hàng quí…)là bao nhiêu? Đây là nguồn vốn vay vì ở các nguồn vốn khác như huy động từ NSNN hay từ các quĩ thì trách nhiệm sử dụng vốn không cao. Nhưng đối với nguồn vốn tín dụng thì bất kì doanh nghiệp và Công ty kinh doanh nông nghiệp nào có làm ăn được hay không làm ăn được, cũng đều phải có trách nhiệm trả nợ cho Ngân hàng số vốn đã vay cộng với một khoản lãi phải trả cho ngân hàng khi được sử dụng nguồn vốn đó. Đối với nguồn vốn tín dụng có nhiều phương thức cho vay, đặc biệt là các doanh nghiệp nông nghiệp, vì do đặc điểm của sản xuất nông nghiệp nên vốn tín dụng mà ngân hàng cho vay thường là nguồn vốn cho vay ưu đãi, Nhà nước đã hỗ trợ cho các doanh nghiệp và Công ty kinh doanh nông nghiệp một phần trong tổng số lãi mà doanh nghiệp và Công ty kinh doanh nông nghiệp phải trả. * Huy động vốn từ khách hàng: Đây cũng là một hình thức huy động vốn trong các doanh nghiệp và Công ty kinh doanh nông nghiệp thông qua các khách hàng lâu năm, các khách hàng “chung thân” doanh nghiệp, Công ty có thể huy động được một phần vốn góp vào phần vốn kinh doanh chung của doanh nghiệp, Công ty. Hình thức này được biểu hiện chủ yếu qua việc khách hàng đặt tiền sẵn cho một lô hàng nào đó mà doanh nghiệp đang sản xuất hoặc có thể cung ứng được cho họ trong một khoảng thời gian nào đó. Nói cách khác thì đây cũng là một hình thức mà doanh nghiệp chiếm dụng vốn của khách hàng. Với số vốn này doanh nghiệp, Công ty cũng có thể toàn quyền sử dụng như các nguồn vốn khác, nhưng phải bảo đảm việc cung cấp hàng hoá cho khách hàng theo đúng như điều khoản mà 2 bên đã thoả thuận. Ngoài ra với những bạn hàng lâu năm, những bạn hàng tin cậy của doanh nghiệp, Công ty họ có thể sẵn sàng cho doanh nghiệp, Công ty vay một khoản tiền để doanh nghiệp, Công ty có thể trang trải những lúc gặp khó khăn, nhằm thoả mãn phần nào nhu cầu về vốn của doanh nghiệp, Công ty. *Huy động vốn từ các tổ chức kinh tế : Thông qua việc liên doanh liên kết hợp tác trong sản xuất kinh doanh giữa doanh nghiệp với các tổ chức kinh tế khác. Đối với các doanh nghiệp và Công ty kinh doanh nông nghiệp, việc liên doanh này không chỉ đơn thuần là giúp đỡ nhau về mặt tài chính mà có thể là giúp đỡ và hỗ trợ nhau về giống cây trồng, vật nuôi, biện pháp kĩ thuật, các trang thiết bị phục vụ sản xuất, phân bón, thuốc trừ sâu… *Nguồn vốn đầu tư nước ngoài Đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI) Do những hạn chế của lĩnh vực nông nghiệp và khu vực nông thôn, nên số lượng các dự án và nguồn vốn đầu tư vào khu vực này còn ít chỉ chiếm 10% số dự án so với số dự án đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, tương đương 2 tỉ USD. Hầu hết các dự án đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp nông thôn là những dự án nhỏ, những dự án mang tính nhân đạo. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là một nguồn vốn lớn rất cần thiết đối với nứơc ta nhất là trong giai đoạn hiện nay. Để có những chuyển biến mạnh mẽ hơn về cả số lượng và chất lượng, cần tận dụng tối đa và có hiệu quả cao nguồn vốn này. Do vậy chúng ta cần tăng tốc độ thực hiện dự án, đặc biệt là vấn đề giải phóng mặt bằng, cân đối ngoại tệ, bố trí vốn đối ứng, sửa đổi chính sách thuế, giá thuê đất…khuyến khích hơn nữa quá trình sản xuất trong nội địa. -Nguồn vốn ODA: Phát triển nông nghiệp nông thôn và miền núi được sự hỗ trợ của nguồn vốn ODA thông qua các dự án phát triển sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, các chương trình hỗ trợ Ytế, giáo dục…Vốn ODA có vai trò quan trọng trong phát triển cơ sở hạ tầng cho nông nghiệp nôn._.g thôn và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp và Công ty kinh doanh nông nghiệp có thể tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh được thuận lợi hơn. Ngoài 2 nguồn vốn đầu tư nước ngoài chủ yếu trên, doanh nghiệp và Công ty kinh doanh nông nghiệp nói riêng và nông nghiệp nước ta nói chung còn có các nguồn vốn huy động từ các tổ chức khác như: tổ chức FAO, PAM, SIDA, ADB, WB, IMF, UNICEF, UNDB… 2. Phương thức huy động các nguồn vốn: Như chúng ta đã biết trong bất kì một doanh nghiệp và Công ty kinh doanh nông nghiệp nào cũng có thể huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau. Đối với các nguồn vốn đều có những phương thức huy động không giống nhau. Tuy nhiên có một điểm quan trọng đó là việc huy động tất cả các nguồn vốn đều nhằm một mục đích là thoả mãn nhu cầu về vốn trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Việc huy động vốn cho doanh nghiệp nông nghiệp có thể được huy động bởi các phương thức sau: 2.1. Đối với nguồn vốn huy động trong nội bộ doanh nghiệp và Công ty kinh doanh nông nghiệp Việc phát hành cổ phiếu của doanh nghiệp, Công ty sẽ khuyến khích các thành viên trong doanh nghiệp, Công ty mua cổ phiếu, giúp doanh nghiệp, Công ty huy động được một khối lượng vốn tương đối nhằm thoả mãn phần nào đó nhu cầu về vốn trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, Công ty. Việc phát hành cổ phiếu của doanh nghiệp, Công ty, trước tiên cần khuyến khích những người trong doanh nghiệp, Công ty mua cổ phiếu, phần còn lại có thể cho người bên ngoài mua để bảo đảm được đủ nhu cầu về vốn cho doanh nghiệp, Công ty. Doanh nghiệp, Công ty cũng có thể trích ra một phần lợi nhuận hàng năm để hình thành nên các quỹ ( như quỹ phát triển doanh nghiệp , quỹ dự trữ, quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi…) để trong những lúc thiếu vốn doanh nghiệp, Công ty có thể huy động được một phần vốn từ nguồn dự trữ này. 2.2. Đối với nguồn vốn huy động từ bên ngoài doanh nghiệp và Công ty kinh doanh nông nghiệp: Doanh nghiệp và Công ty kinh doanh nông nghiệp có thể huy động nguồn vốn này thông qua hình thức vay ngắn hạn, dài hạn hay trung hạn từ các tổ chức tín dụng trong nước, từ các tổ chức kinh tế, từ các bạn hàng thông qua việc mua chịu trước hay yêu cầu khách hàng đặt tiền trước cho Công ty cho một lô hàng hoá nào đó mà khách hàng yêu cầu mà Công ty có thể đáp ứng được yêu cầu đó. Việc vay vốn từ các tổ chức tín dụng, các ngân hàng quốc doanh, đòi hỏi Công ty phải lập phương án vay vốn, lập tài sản thế chấp để ngân hàng có thể dựa vào đó sẽ cho doanh nghiệp, Công ty vay một số vốn nhất định để vừa bảo tồn được số vốn cho vay của ngân hàng, vừa thoả mãn một phần nào đó nhu cầu về vốn của doanh nghiệp, Công ty. IV. các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp và Công ty kinh doanh nông Nghiệp : 1.Hiệu quả sử dụng vốn sản xuất: Chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn phản ánh kết quả sản xuất của doanh nghiệp trong việc quản lý sử dụng các loại vốn sản xuất thể hiện bởi quan hệ so sánh giữa kết quả sản xuất trong kì ( doanh thu hoặc sản lượng, sản phẩm tiêu thụ) và số vốn sản xuất bình quân. Chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn có thể tính theo các chỉ tiêu tổng hợp và chi tiết dưới đây: .Hiệu quả sử dụng toàn bộ vốn thuộc quyền sử dụng của doanh nghiệp, Công ty được tính theo công thức sau: Hv = D/ V trong đó:- Hv là hệ số hiệu quả sử dụng toàn bộ Vốn - D là doanh thu hoặc sản lượng sản phẩm tiêu thụ trong kì. - V là số dư bình quân toàn bộ vốn 1.2. Hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, Công ty: Bao gồm vốn cố định ( kể cả tài sản cố định đầu tư bằng các nguồn vốn khác, nhưng không tách tài sản cố định không cần dùng hoặc chưa dùng) và vốn lưu động tực tế sử dụng( không kể số vốn bị chiếm dụng). được tính như sau: Hvsx = D/ Vsx Trong đó: - Hvsx là hệ số sử dụng vốn sản xuất kinh doanh. - D là doanh thu hoặc sản phẩm tiêu thụ - Vsx là số dư bình quân vốn sản xuất kinh doanh . 1.3. Hiệu quả sử dụng vốn cố định : Hvcđ = Trong đó:- Hvcd hệ số hiệu quả sử dụng vốn cố định - D là doanh thu hoặc sản lượng sản phẩm tiêu thụ trong kì - Vdc là số dư bình quân vốn cố định 1.4. Hiệu quả sử dụng vốn lưu động: Hvlđ = Trong đó: - Hvlđ là hệ số hiệu quả sử dụng vốn lưu động - D là doanh thu hoặc sản lượng sản phẩm tiêu thụ trong kì - Vvlđ là số dư bình quân vốn lưu động. Các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn trên đây đều có ý nghĩa chung là một đồng vốn sản xuất của doanh nghiệp, Công ty làm ra bao nhiêu đồng sản phẩm trong kì. chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp, Công ty càng cao. Đồng thời để đạt hiệu quả sử dụng vốn càng cao thì doanh nghiệp, Công ty phải quả lí chặt chẽ và sử dụng tiết kiệm vốn nhằm tối thiểu hoá số vốn sử dụng hoặc tối đa hoá kết quả sản xuất kinh doanh trong giới hạn về các nguồn vốn hiện có. 2.Tỉ suất lợi nhuận: Lợi nhuận là chỉ tiêu chất lượng tổng hợp kết quả cuối cùng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, Công ty. Tuy nhiên căn cứ vào chỉ tiêu lợi nhuận tính bằng số tuyệt đối chưa thể đánh giá được đúng chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, Công ty. Vì khi phân tích hiệu quả sử dụng vốn, bên cạnh việc xem xét mức độ biến động của tổng số lợi nhuận còn phải đánh giá bằng số tương đối( Tỉ suất lợi nhuận) thông qua việc so sánh giữa tổng số lợi nhuận trong kì với tổng số vốn sản xuất sử dụng để sinh ra số lợi nhuận đó. Tỉ suất lợi nhuận được tính theo các chỉ tiêu chi tiết sau đây: 2.1. Tỉ suất lợi nhuận vốn sản xuất : Tỉ suất lợi nhuận vốn sản xuất =Tổng số lợi nhuận * 100/ Tvsxbq Tvsxbq: là Tổng số vốn sản xuất bình quân Tổng số lợi nhuận = Tổng doanh thu( thu nhập) - Tổng chi phí thực tế(kể cả thuế) mà doanh nghiệp, Công ty đã bỏ ra để đạt được doanh thu trong kì. Tổng số vốn sản xuất bình quân trong kì bao gồm vốn cố định bình quân( kể cả tài sản cố định đầu tư bằng vốn khác nhưng không tính tài sản cố định không cần dùng, chưa dùng) và vốn lưu động bình quân thực tế sử dụng( không kể số vốn bị chiếm dụng). Chỉ tiêu này phản ánh mức độ sinh lời chung của vốn sản xuất kinh doanh trong kì. 2.2. Tỉ suất lợi nhuận vốn cố định: Tỉ suất lợi nhuận vốn cố định = Tsln* 100/Vcđbq Trong đó -Tsln: là tổng số lợi nhuận - Vcđbq: là vốn cố định bình quân Chỉ tiêu này phản ánh mức độ sinh lời của vốn cố định trong kì 2.3. Tỉ suất lợi nhuận vốn lưu động: Tỉ suất lợi nhuận vốn lưu động = Tsln*100/ Vlđbq Trong đó: -Tsln: là tổng số lợi nhuận -Vlđbq: là vốn lưu động bình quân Các chỉ tiêu lợi nhuận nói lên, một trăm đồng vốn sản xuất trong kì mang lại bao nhiêu đồng lợi nhuận. Trên cơ sở so sánh các chỉ tiêu lợi nhuận thực hiện năm nay so với năm kế hoạch, so với thực hiện năm trước và với các xí nghiệp có điều kiện tương đương có thể đáng giá hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp, Công ty nhằm tìm biện pháp nâng cao chỉ tiêu này. 3. Tốc độ luân chuyển vốn lưu động: Tốc độ luân chuyển vốn lưu động là một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp phản ánh trình độ tổ chức, quản lý kinh doanh và hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp, Công ty. Tốc độ luấn chuyển vốn lưu động được thể hiện bởi 2 chỉ tiêu: Số vòng quay vốn lưu động trong kì và số ngày luân chuyển của một vòng quay vốn. 3.1. Số vòng quay vốn lưu động : Là số lần luân chuyển vốn lưu động trong kì được tính như sau: C = trong đó: - C là số vòng quay vốn lưu động - D là doanh thu trừ thuế doanh thu hoặc thuế tiêu thị đặc biệt( thu nhập) thu được trong kì - Vlđ là số dư bình quân vốn lưu động Vốn lưu động bình quân tháng, quí, năm được tính như sau: * Vốn lưu động bình quân tháng = trong đó :- Vlddt là vốn lưu động đầu tháng - Vldct là vốn lưu động cuối tháng * Vốn lưư động bình quân quí = trong đó: Vld1, Vld2, Vld3 là vốn lưu động bình quân tháng 1,2,3. *Vốn lưu động bình quân năm = ( Tổng cộng vốn lưu động bình quân các quí)/4 Nếu có số liệu vốn lưu động vào đầu các tháng trong quí, năm thì có thể tính số dư bình quân vốn lưu động quí, năm theo công thức sau: Vlđ = ()/ (n-1) Trong đó :- Vld là vốn lưu động bình quân quí, năm - n là số thứ tự - Vld1, Vld2, Vld3,…, Vldn : là số vốn lưu động có vào đầu tháng. Số vòng quay vốn lưu động thể hiện vốn lưu động của doanh nghiệp đã chu chuyển được bao nhiêu lần trong kì. Chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ vốn lưu động luân chuyển càng nhanh, hoạt động tài chính càng tốt, doanh nghiệp càng cần ít vốn và tỉ suất lợi nhuận càng cao. 3.2. Số ngày luân chuyển vốn lưu động : Thể hiện số ngày để thực hiện một vòng quay vốn lưu động, được tính như sau: N = Trong đó : - N là số ngày luân chuyển của một vòng quay vốn - T là số ngày trong kì ( tháng30 ngay; quí 90 ngày; năm 360 ngày) 4. Mức độ bảo toàn và phát triển vốn: Chỉ tiêu mức độ bảo toàn vốn sử dụng trong điều kiện nền kinh tế có lạm phát, giá cả biến động lớn nhằm qui định trách nhiệm của các doanh nghiệp quốc doanh, buộc các doanh nghiệp, Công ty phải quan tâm đến việc phản ánh đúng giá trị các loại vốn sản xuất kinh doanh , tính đúng, tính đủ các khoản chi phí ( C1, C2) vào giá thành sản phẩm để bảo toàn vốn Nhà nước giao. Khi phân tích chỉ tiêu này cần so sánh giữa số vốn cần bảo toàn đến cuối năm( được tính theo qui định thống nhất của Nhà nước) và số vốn thực tế đã bảo toàn trong năm để xác định mức độ bảo toàn vốn của doanh nghiệp, Công ty ( bảo toàn cao hơn hoặc chưa bảo toàn đủ). Số vốn bảo toàn cao hơn so với số vốn cần bảo toàn thể hiện thành tích của doanh nghiệp, Công ty trong việc quản lí , sử dụng vốn. Số vốn đã bảo toàn cao hơn vừa tạo điều kiện cho doanh nghiệp, có vốn để dùng vào sản xuất kinh doanh , vừa khuyến khích không phải nộp tiền sử dụng vốn. Số vốn thiếu hụt( chưa bảo toàn đủ) so với số vốn phải bảo toàn phản ánh khiếm khuyết của doanh nghiệp, Công ty trong việc quản lý, sử dụng vốn của Nhà nước giao. 5. Phân tích tình hình và khả năng thanh toán: 5.1. Phân tích tình hình thanh toán: Các giao dịch kinh tế tài chính trong kinh doanh ở mọi doanh nghiệp, Công ty đều thường xuyên phát sinh những khoản phải thu, phải trả và cần một thời gian nhất định mới thanh toán được. Ví dụ : Người mua ứng trước tiền sau một thời gian mới được giao hàng hoặc doanh nghiệp, Công ty xuất hàng bán, nhưng hợp đồng bán hàng chưa đến thời gian thanh toán …quan hệ nợ nần lẫn nhau giữa các doanh nghiệp về các khoản tiền mua bán hàng, giữa doanh nghiệp, Công ty với ngân sách về các khoản nộp thuế theo luật định, giữa doanh nghiệp, Công ty với công nhân viên chức về tiền lương…là các quan hệ tất yếu khách quan. Tuy nhiên trong kinh doanh các doanh nghiệp, Công ty phải ngăn ngừa và giảm tối đa các khoản nợ đến hạn hoặc quá hạn vẫn chưa đòi được. Bởi vì sự chiếm dụng vốn quá hạn của khách hàng, một mặt gây khó khăn về vốn cho doanh nghiệp,Công ty mặt khác do thiếu vốn, thiếu tiền mặt để thanh toán các khoản phải trả, doanh nghiệp, Công ty sẽ phải đi vay chịu lãi suất tín dụng, điều này sẽ làm giảm tỉ suất lợi nhuận, làm chậm tốc độ luân chuyển vốn. Phân tích tình hình thanh toán của doanh nghiệp, Công ty chính là xem xét mức biến động của các khoản phải thu, phải trả, tìm ra nguyên nhân của các khoản nợ đến hạn chưa đòi được hoặc nguyên nhân của các khoản nợ đến hạn chưa trả được. 5.2. Phân tích khả năng thanh toán: Khả năng thanh toán phản ánh tình trạng tài chính (tốt hay xấu) của doanh nghiệp, Công ty có ảnh hưởng đến tình hình thanh toán. Do vậy khi đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cũng cần phải phân tích khả năng thanh toán của doanh nghiệp, Công ty. Khả năng thanh toán được tính theo công thức sau: K = Số tiền có thể dùng thanh toán/ Các khoản nợ phải trả Trong đó: - K là hệ số khả năng thanh toán - Số tiền có thể dùng thanh toán bao gồm toàn bộ vốn bằng tiền và những tài sản có thể chuyển hoá thành tiền một cách nhanh chóng. + Vốn bằng tiền bao gồm tiền mặt đang tồn quĩ, tiền gửi ngân hàng, tiền đang chuyển. + Tổng số các khoản phải thu. - Các khoản nợ phải trả bao gồm: + Các khoản phải trả người bán, người mua + Các khoản phải nộp ngân sách + Các khoản vay ngắn hạn ngân hàng +Các khoản phải trả khác Sau khi tính hệ số thanh toán: Nếu K =1, chứng tỏ doanh nghiệp, Công ty có khả năng thanh toán, tình trạng tài chính của doanh nghiệp bình thường hoặc tốt. Nếu K< 1, chứng tỏ doanh nghiệp, Công ty không có khả năng thanh toán, tình trạng tài chính của doanh nghiệp, Công ty ở mức không bình thường hoặc xấu. Chương II: thực trạng việc huy động và sử dụng vốn trong sảN xuất kinh doanh ở Công Ty nông thổ sản I I. khái quát về Công ty Nông Thổ Sản I. 1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty. Công Ty Nông Thổ Sản I hiện nay là tiền thân của Công Ty Nông - Lâm - Thổ - Hải sản đã có trọng trách hết sức to lớn. Là Công Ty đầu ngành trong lĩnh vực mua bán, thu gom toàn bộ những sản phẩm Nông - Lâm - Thổ - Hải sản ở khu vực Miền Bắc và Miền Nam. Sau nhiều đất nước hoàn toàn được giải phóng, Bắc Nam hoàn toàn thống nhất, Công Ty là một trong những đơn vị chủ yếu cung cấp các sản phẩm hàng hoá lương thực, thực phẩm, hải sản… giữa các vùng trong cả nước. Sau khi đổi mới cơ cấu cơ cấu kinh tế, chuyển nền kinh tế nước ta từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường. Do yêu cầu đòi hỏi của thời cuộc nhất là phải là phải phù hợp với thị trường và phải gắn hoạt động sản xuất kinh doanh của Công Ty với thị trường. Trước yêu cầu mới đặt ra đó, tháng 9/1995 Bộ thương mại đã tổ chức lại Công Ty Nông Thổ Sản I trên cơ sở sát nhập hai Công Ty, đó là Công Ty Nông Thổ Sản I và Công Ty Nông Thổ Sản V ( thuộc tổng Công Ty Nông Thổ Sản) thành Công Ty nông thổ sản trực thuộc Bộ thương mại. Theo quyết định số 676/TM/TCCB ngày 12/8/1995 của bộ thương mại. Tên công ty: Công Ty Nông Thổ Sản I. Tên giao dịch quốc tế: AGRICULTURAL PRODUCTS COMPANY I Tên viết tắt: AGRIMEX I. Trụ sở chính của Công Ty: số 63-65 Ngô Thì Nhậm - Hai Bà Trưng - Hà Nội. Với tuổi đời gần 50 năm, do vậy tổ chức bộ máy và mạng lưới của Công Ty tương đối phù hợp với ngành hàng nông sản, đông thời nó cũng có một số hạn chế và chứa đựng những tồn tại cũ. Trong giai đoạn kế hoạch 1996-2000 Công Ty hoạt động trong điều kiện có nhiều thuận lợi: là doanh nghiệp trực thuộc Bộ thương mại, nên được sự chỉ đạo, giúp đỡ trực tiếp của bộ ; nền kinh tế cả nước đã đạt được những thành tựu to lớn trong giai đọan kế hoạch 5 năm trước, tạo đà cho thực hiện kế hoạch 5 năm tiếp theo. Công Ty Nông Thổ Sản I đã được củng cố trong những năm 1993-1995, đã vượt qua được khủng hoảng trầm trọng do hậu quả của những năm 98-91 gây ra. Tuy nhiên Công Ty cũng gặp không ít những khó khăn, thách thức: Vốn kinh doanh của Công Ty ở mức thấp, khó có thể kinh doanh hàng nông sản theo thời vụ; khả năng cạnh tranh cảu doanh nghiệp chưa cao; cơ sở vật chất kỹ thuật hầu hết đã xuống cấp, lạc hậu; tuổi nghề và tuổi đời bình quân của cán bộ công nhân viên cao, thiếu những kiến thức mới; số lao động phổ thông nhất là công nhân sản xuất chế biến thuốc lào tại Xí Nghiệp Hải Phòng rất lớn; số lỗ cũ từ trước năm 1992 vẫn còn. Hơn 1 tỷ đồng giá trị thành phẩm thuốc lào tồn đọng từ năm 1994 khó tiêu thụ. Năm 2001 là năm mở đầu của giai đoạn kế hoạch 5 năm 2001-2005. Mặc dù có không ít khó khăn thách thức, nhưng Công Ty cũng có nhiều thuận lợi do kết quả năm 2000 mang lại. Công Ty đưoc Bộ thương mại quan tâm, giúp đỡ về công tác tổ chức, kế hoạch, kế toán, đầu tư, xuất nhập khẩu, xúc tiên thương mại… cộng với sự nỗ lực phấn đấu của toàn thể cán bộ công nhân viên, nên kết quả các mặt công tác, kết quả sản xuất kinh doanh cảu Công Ty đều đạt tốt. 2. Cơ cấu tổ chức, chức năng nhiệm vụ của Công ty: Công Ty Nông Thổ Sản I được thành lập có những chức năng và nhiệm vụ chủ yếu sau: - Kinh doanh các mặt hàng nông sản, lương thực, thực phẩm ( đậu nành, đậu xanh,lạc, vừng, chè, cafộ, tiêu, cao su…) hàng công nghiệp tiêu dùng, vật tư, phân bón, phân bón, máy móc, thiết bị phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. - Tổ chức gia công, sản xuất, chế biến các mặt hàng nông sản, lương thực thực phẩm. - Xuất khẩu trực tiếp các mặt hàng thuộc phạm vi kinh doanh của Công Ty và những mặt hàng so liên doanh liên kết, gia công, sản xuất, chế biến tạo ra. - Nhập khẩu trực tiếp nông sản thực phẩm, vật tư, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải phục vụ sản xuất chế biên của ngành hàng và hàng tiêu dùng thiết yếu theo quy định của Nhà nước. - Thực hiện các nhiệm vụ tạm nhập tái xuất, chuyển khẩu, chuyển tải, uỷ thác xuất khẩu và dịch vụ xuất khẩu theo quy định hiện hành của Nhà nước. Với các chức năng như trên thì Công Ty còn có các nhiệm vụ sau: - Xây dựng và thực hiện kế hoạch kinh doanh, sản xuất gia công chế biến, liên doanh liên kết, xuất nhập khẩu, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật của Nhà nước, quy định của bộ thương mại và các ngành hữu quan, thực hiện đúng mục đích và nội dung kinh doanh. - Nắm nhu cầu thị trường và khả năng sản xuất để xây dựng và tổ chức thực hiện các phương án kinh doanh đạt hiệu quả cũng như đầu tư, phát triển từ gieo trồng đến chế biến. - Quản lí và sử dụng vốn kinh doanh đúng chế độ chính sách của Nhà nước, bảo tồn và tăng trưởng vốn trên cơ sở kinh doanh đạt hiệu quả kinh tế ngày càng cao. - Chấp hành nghiêm chỉnh chủ trương chính sách của Nhà nước, các quy định của Bộ thương mại trong mọi hoạt động của Công Ty. - Quản lí cán bộ, công nhân viên theo phân cấp quản lí của Bộ thương mại, sử dụng tốt lực lượng lao động, thực hiện đầy đủ các chính sách, chế độ của Nhà nước đối với cán bộ công nhân viên, phát huy vai trò làm chủ tập thể, khả năng sáng tạo của người lao động trong kinh doanh và trong quản lí. Thực hiện phân phối kết quả kinh doanh theo lao động một cách công bằng hợp lí. Tóm lại, Công Ty Nông Thổ Sản I thực hiện kế hoạch nhiệm vụ sản xuất chế biến xuất khẩu nông sản theo quy hoạch và kế hoạch phát triển nông sản của Nhà nước bao gồm: Xây dựng kế haọch sản xuất, đầu tư, tạo nguồn vốn đằut, cung ứng vật tư, thiết bị trồng trọt, chế biến, tiêu thụ sản phẩm, xuất khẩu, liên doanh liên kết với các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước phù hợp với pháp luật và chính sách của Nhà nước. Cơ cấu tổ chức bộ máy của Công Ty thì: - Đứng đầu Công Ty là Giám đốc, do Bộ thương mại bổ nhiệm. Giám đốc tổ chức và điều hành mọi hoạt động của Công Ty theo chế độ một thủ trưởng và đại diện cho mọi quyền lợi và nghĩa vụ cả Công Ty trước lãnh đạo Bộ thương mại, pháp luật và các cơ quan quản lí Nhà nước. - Giúp việc cho Giám đốc có các phó giám đốc và kế toán trưởng do Giám đốc Công Ty đề nghị Bộ thương mại bỏ nhiệm và miễn nhiệm. Phó giám đốc được Giám đốc phân công điều hành một số lĩnh vực công tác cụ thể và chịu trách nhiệm trước Giám đốc về lĩnh vực công tác được giao. - Giám đốc Công Ty đựoc tổ chức bộ máy quản lí (bao gồm các phòng ban) gọn nhẹ, có hiệu lực phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ được giao và báo cáo mô hình mạng lưới tổ chức kinh doanh về cơ quan chủ quản cấp trên là Bộ thương mại. - Công Ty có các chi nhánh, xí nghiệp, trạm, cửa hàng, đại diện của Công Ty tại một số tỉnh, thành phố theo quy định hiện hành của Nhà nước. * Ban giám đốc bao gồm có giám đốc và các phó giám đốc: - Giám đốc Công ty trực tiếp quản lý và điều hành các trưởng phòng, các Giám đốc các chi nhánh trực thuộc Công ty. - Các phó Giám đốc giúp Giám đốc điều hành và quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh ở Công ty. * Các trưởng phòng, các phòng ban của Công ty có nhiệm vụ giúp ban Giám đốc quản lý, điều hành và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các đơn vị và chi nhánh của Công ty hoạt động được thuận lợi * Giám đốc các chi nhánh, trưởng các đại lý của Công ty, trực tiếp phụ trách và chịu trách nhiệm về hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị do mình quản lí. Ban giám đốc Phòng kế toán Phòng hành chính Phòng XNK Phòng kế hoach và đầu tư Phòng kinh doanh tổng hợp Phòng nghiệp vụ kinh doanh Lạng Sơn Thanh Hoá Lào Cai Thái Bình Ngệ An Nam Định Hải Phòng Quảng Ninh Thành phố Hồ Chí Minh XN chế biến và KD nông thổ sản HN XN vận tải và KD dịch vụ Sơ đồ cơ cấu Bộ máy tổ chức của Công ty nông thổ sản I: ii. TìNH HìNH HUY ĐộNG vốn ở Công ty nông thổ sản i Việc huy động vốn trong các doanh nghiệp nông nghiệp nói riêng và các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế nói chung đang là những vấn đề hết sức nan giải, một bài toán khó cho các doanh nghiệp. Để huy động được một cách có hiệu quả các nguồn vốn sẽ giúp cho các doanh nghiệp giải quyết được nhu cầu về vốn để tiến hành sản xuất kinh doanh, tận dụng được các cơ hội làm ăn, thúc đẩy việc giao dịch mua bán hàng hoá được thuận lợi. Việc huy động này có thể được phân ra theo nguồn huy động, theo hình thức huy động, theo loại vốn. Huy động theo nguồn ở công ty: Trong 2 năm 1999, 2000 việc huy động vốn theo nguồn của Công Ty nông thổ sản tập trung vào việc huy động nguồn vốn chủ sở hữu. Thực chất đó là việc huy động các nguồn vốn từ NSNN, nguồn vốn tự bổ sung, nguồn vốn liên doanh liên kết, vốn cổ phần, vốn huy động từ các quỹ trong doanh nghiệp ( như quỹ phát triển doanh nghiệp, quỹ khen thưởng, quỹ dự trữ, quỹ phúc lợi…), đây chính là nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Ngoài nguồn vốn kinh doanh trên Công Ty còn huy động nguồn vốn XDCB bao gồm có nguồn vốn do NSNN cấp và nguồn vốn tự bổ sung, cụ thể : Trong năm 1999, tổng nguồn vốn kinh doanh của Công Ty nông thổ sản I là 12.573.185.703 đồng trong đó vốn do NSNN cấp là 22.213.139 đồng, từ quỹ khen thưởng là 125.000đồng. Cũng trong năm 1999 tổng nguồn vốn XDCB của Công Ty là 15.950.084 đồng, trong đó số vốn này hoàn toàn do NSNN cấp. Trong năm 2000 đã có sự gia tăng hơn, nhưng cũng không có sự gia tăng đáng kể về tình hình huy động vốn so với năm 1999. Tổng nguồn vốn kinh doanh 408.023 đồng, từ quỹ khen thưởng là 125.000 đồng. Nguồn vốn XDCB là 15.950.084 đồng, trong đó NSNN cấp toàn bộ 15.960.084 đồng, của Công Ty là 12.605.440.903 đồng, trong đó: nguồn vốn do NSNN cấp là 5.820.983.752đồng, nguồn vốn tự bổ sung là 6.784.457.151đồng, từ quỹ phát triển kinh doanh là 2. Biểu số 1 Đơn vị tính: Triệu đồng Nguồn tự bổ xung NSNN cấp II. Nguồn vốn XDCB Quĩ phúc lợi Quĩ khen thưởng Quĩ dự trữ Quĩ phát triển kinh doanh - Các quĩ Vốn cổ phần Vốn liên doanh Vốn tự bổ xung NSNN cấp I. Nguồn vốn kinh doanh Chỉ tiêu 57060 57060 725 22213 4602533 5763923 10366456 Số đầu Kì Năm 1999 0 0 0 0 2561366 78264 2639631 Tăng trong kì 57060 57060 725 22213 7163899 5842187 13066987 Số cuối kì 15950 15950 125 22213 6768152 5805033 12573185 Số đầu kì Năm 2000 0 0 0 16305 15950 32255 Tăng trong kì 15950 15950 125 6784457 5820893 12605440 Số cuối Kì Trong năm 2001 tình hình huy động vốn trong Công Ty không có sự biến động so với năm 2000. Toàn bộ tình hình huy động vốn được phản ánh qua biểu trên đây: Qua bảng số liệu phản ánh tình hình huy động nguồn vốn chủ sở hữu trên ta thấy rằng: Tình hình huy động nguồn vốn chủ sở hữu của năm 2000 có giảm hơn so với năm 1999 khoảng 4%, vốn ngân sách nhà nước cấp cũng có chiều hướng giảm xuống khá nhiều. Nguyên nhân của sự giảm sút này là do: Trong năm 1999, do ảnh hưởng của Luật thuế GTGT lần đầu tiên được áp dụng đã làm cho thị trường nhất là hàng nông sản có sự biến động giá bất thường. Năm 1999và 6 tháng đầu năm 2000 sức mua của toàn xã hội giảm sút, mặt khác Công Ty lại chưa lường đoán hết được những biến động bất thường của các chính sách mới của Nhà nước, nên mặc dù có sự chuẩn bị và sự cố gắng hết mình của Ban giám đốc, các phòng ban và cán bộ công nhân viên trong toàn Công Ty việc huy động nguồn vốn chủ sở hữu vẫn gặp nhiều khó khăn. Ngoài việc tập trung vào huy động nguồn vốn chủ sở hữu, Công Ty cũng huy động thêm từ các nguồn khác như từ tín dụng Nhà nước(vay ngân hàng, các tổ chức tín dụng khác), vay các tổ chức kinh tế khác hay từ bạn hàng của Công Ty …nhưng những nguồn này thường huy động được ít mà còn có nhiều rào cản về thủ tục hành chính nhất là vay từ tín dụng Nhà nước. Thương vụ mua bán của Công Ty tăng lên. Thêm nữa, do lãi suất vay năm 2000 và 2001 không có sự chênh lệch quá lớn về tỉ lệ lãi suất giữa dài hạn, ngắn hạn và trung hạn nên việc lựa chọ hình thức vay ngắn hạn cua Công Ty từ các tổ chức tín dụng mang lại nhiều lợi ích hơn các hình thức khác. Ngoài vay ngắn hạn từ các tổ chức tín dụng, Công Ty cũng huy động vốn của khách hàng trường hợp này hiện nay xảy ra khá phổ biến nhưng thường bạn hàng của Công Ty là những bạn hàng “ chung thân” làm ăn lâu đời, tin tưởng vào nhau ở mức cao. Thuờng với hình thức huy động này thì Công Ty không Mặc dù vốn sản xuất kinh doanh của Công Ty không nhỏ nhưng do Công Ty có nhiều chi nhánh ở nhiều tỉnh thành phố trong cả nước , nên ngoài số vốn tự có khoang hơn 13 tỉ đồng( nếu như phân bổ cho toàn bộ chi nhánh thì số vốn còn lại cho văn phòng công ty là rất ít) Công Ty đã phải huy động vốn trong cán bộ công nhân viên, năm 2001 Công Ty đã huy động từ các bộ công nhân viên chức trong toàn Công Ty số vốn lên đến 1,2 tỉ đồng. Ngoài vốn chủ sở hữu và huy động từ cán bộ công nhân viên, một nguồn vốn lớn Công Ty huy động được từ nguồn vốn tín dụng, đây có thể coi là nguồn vốn chủ yếu cho các doanh nghiệp nói chung trong thời gian tới. Huy động vốn theo hình thức huy động ở Công Ty : Bên cạnh việc huy động các nguồn vốn của Công Ty như ở trên ta đã trình bày thì có thể nói hình thức huy động vốn của Công Ty luôn gắn theo hình thức huy động theo ngồn. Vì mỗi nguồn đều có những hình thức huy động vốn khác nhau, có nguồn chỉ có một hình thức huy động , có nguồn có nhiều hình thức huy động. Hình thức huy động vốn ở Công Ty có thể được phân loại theo thời gian( ngắn hạn, trung hạn, dài hạn). . Hình thức huy động vốn ngắn hạn: Trong các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, việc vay vốn ngắn hạn phụ vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng là một trong những hình thức huy động vốn của doanh nghiệp. ở Công Ty nông thổ sản I, hình thức vay vốn ngắn hạn của Công Ty cũng được thực hiện ở các nguồn vốn như: vay ngắn hạn từ các tổ chức tín dụng( như ngân hàng thương mại, ngân hàng Nhà nước …), đây là hình thức vay mà tỉ trọng của nó chiếm khá lớn trong tổng số vốn vay của Công Ty. Đặc biệt trong năm 2001, do có những cải tiến trong việc tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh, mặc dù công ty có số vố lưu động tương đối lớn khoảng 14 tỉ đồng, nhưng do có nhiều chi nhánh( 11 chi nhánh, nên việc phân bổ số vốn này xuống các chi nhánh đã làm cho số vốn lưu động còn lại của văn phòng Công Ty bị thiếu hụt, mặt khác do sự đổi mới trong hình thức kinh doanh ( khoán sản phẩm đến các phòng ban, khuyến khích các phòng ban chủ động tìm kiến đối tác, tìm kiếm bạn hàng…) do vậy số thương vụ mua bán của Công ty tăng lên, mặt khác do lãi suất năm 2000 và 2001 không có sự chênh lệch quá lớn về tỷ lệ lãi suất giữa dài hạn, ngắn hạn và trung hạn, nên việc lựa chọn hình thức vay ngắn hạn từ các tổ chức tín dụng mang lại nhiều lợi ích hơn các hình thức khác. Ngoài hình thức vay tín dụng ngắn hạn, Công ty cũng huy động vốn từ các khách hàng, trường hợp này hiện nay xảy ra khá phổ biến nhưng thường bạn hàng là các khách hàng “ chung thân” , làm ăn lâu đời, tin tưởng vào nhau ở mức cao. Thường với hình thức huy động này thì Công ty không phải trả một khoản tiền nào từ hình thức sử dụng vốn này, điều này giúp Công ty có thể tiết kiệm được một khoản chi phí tương đối. Tình hình nợ ngắn hạn ở Công Ty Biểu số 2 Đơn vị tính Năm 1999 Vay ngắn hạn 1000 đồng 519.481,15 Phải trả cho người bán 1000 đồng 3.479.503,39 Người mua trả tiền trước 1000 đồng 1.588.134,2 Thuế và các khoản phải nộp 1000 đồng 184.447 Tổng 5.771.565,74 2.2. Hình thức huy động vốn trung và dài hạn: Đây chủ yếu là hình thức vay vốn của Ngân hàng hoặc các tổ chức tín dụng khác và sẽ phải trả lãi suất vay theo yêu cầu. ở Công Ty nông thổ sản I, việc vay vốn dài hạn hay trung hạn của hoặc các tổ chức tín dụng khác là rất ít. Vì thực tế hiện nay lãi suất tín dụng cho vay của cả ngắn hạn, trung hạn và dài hạn là rất thấp và luôn ở mức dưới 1%( hiện nay dao động trong khoảng 0,6%/tháng đối với các hình thức vay khác nhau sự chênh lệch nay không đáng kể). Tuy nhiên nếu như có sự biến động về tỉ lệ lãi suất cho vay của các ngân hàng và các tổ chức tín dụng thì điều này sẽ gây ra những khó khăn lớn đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của Công Ty. Trong báo cáo tài chính và bảng cân đối kế toán hàng năm của Công Ty là hầu như không có.Đây cũng là một khía cạnh cần quan tâm trong việc huy động vốn cho Công Ty, nó cũng là một trong những điều kiện để đánh giá hiệu quả của việc huy động vốn của Công Ty. Ngoài việc vay vốn dài hạn của ngân hàng, tổ chức tín dụng Công Ty còn có thể huy động vốn từ công nhân viên chức trong Công Ty. Trong 2 năm 1999- 2000, Công Ty cũng đã huy động vốn góp của cán bộ công nhân viên, tuy nhiên do mới đầu thử nghiệm nên số vốn góp được không đáng kể, chiếm tỉ trọng rất nhỏ trong tổng số vốn vay. Đến năm 2001 Công Ty đã có nhiều kinh nghiệm về việc huy động vốn từ cán bộ công nhân viên trong Công Ty, nên trong năm 2001 số tiền mà Công Ty huy động được từ nguồn này lên đến con số 1,2 tỉ đồng. Đây cũng là nguồn vốn tương đối lớn để Công Ty có thể bổ sung vào vốn sản xuất kinh doanh của mình. Huy động theo loại vốn: Huy động vốn là hiện vật: Là một doanh nghiệp Nhà nước như Công Ty nông thổ sản I, việc huy động vốn là hiện vật gặp rất nhiều khó khăn, nhất là việc huy động từ các tổ chức tín dụng, tổ chức kinh tế khác, mà việc huy động vốn bằng hiện vật này của Công Ty chủ yếu là do Bộ cấp TSCĐ mà chủ yếu là dưới dạng đất đai, nhà cửa và trang bị thêm cho Công Ty những trang thiết bị mới để phục vụ cho công tác quản lí hoạt động sản xuất kinh doanh của Công Ty ( như máy vi tính, máy photocopy, may Fax, điện thoại…). Năm 1999, Bộ cũng đã cấp nhà cửa cho Công Ty trị giá lên đến 2.491 triệu đồng, Bộ cũng đã cấp trang thiết bị máy móc, thiết bị động lực cho Công Ty trị giá 121,8 triệu đồng, cấp thiết bị dụng cụ quản lí trị giá 13,7 triệu đồng. Tổng số TSCĐ mà Bộ cấp cho Công Ty năm 1999 là hơn 2.627 triệu đồng. Trong năm 2000 và 2001, việc huy động vốn bằng hiện vật của Công Ty hầu như không có,Bộ cũng không cấp cho Công Ty TSCĐ nữa. Mà Công Ty phải tự mình mua sắm, trang bị thêm máy móc thiết bị phụ vụ quá trình sản xuất kinh doanh của mình. Huy động vốn._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVV595.DOC