Một số giải pháp & kiến nghị giải quyết vấn đề lao động, việc làm ở nông thôn trong thời kỳ Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa

Chương i cơ sở lý luận về lao động việc làm và chuyển dịch cơ cấu lao động trong thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá I/ những vấn đề lý luận cơ bản về lao động, việc làm 1. Lao động và thị trường lao động 1.1. Lao động Lao động là hành động của con người diễn ra giữa người với tự nhiên. Trong quá trình lao động, con người vận dụng sức lực tiềm tàng trong thân thể tác động vào giới tự nhiên chiếm giữ những vật chất trong giới tự nhiên, biến đổi những vật chất đó làm cho chúng trở nên có

doc79 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1318 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp & kiến nghị giải quyết vấn đề lao động, việc làm ở nông thôn trong thời kỳ Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ích cho đời sống của mình. Ngày nay, khái niệm lao động đã được mở rộng. Lao động là hoạt động có mục đích, có ích cho con người tác động lên giới tự nhiên, xã hội nhằm mang lại của cải vật chất cho bản thân và cho xã hội. Lao động là điều kiện không thể thiếu được của đời sông con người, làm cho con người ngày càng phát triển và hoàn thiện hơn. Lao động làm cho con người mang tính sáng tạo ngày càng cao. Bất kỳ một xã hội nào muốn tồn tại và phát triển đều phải không ngừng phát triển sản xuất. Điều đó có nghĩa là lao động mãi mãi là nguồn gốc và động lực phát triển xã hội. Không có lao động thì không thể có sự tồn tại của đời sống cá nhân cũng như xã hội loài người nói chung. Bởi vậy xã hội càng văn minh thì tính chất, hình thức và phương pháp tổ chức lao động càng tiến bộ. Đối với Việt Nam, khi đất nước đang ở trong thời kỳ công nghiệp hoá-hiện đại hoá và nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước thì lý luận lao động được đánh giá ở nhiều khía cạnh, cụ thể là: Trước hết, lao động vẫn được coi là phương thức tồn tại của con người, nhưng vấn đề đặt ra là lợi ích con người phải được coi trọng. Lợi ích đó không chỉ bao hàm lợi ích vật chất mà còn cả lợi ích tinh thần. Bởi vì lao động là biểu hiện bản chất của con người, còn lợi ích lao động là vấn đề nhạy cảm nhất nhất của con người, là nhân tố thấm sâu, phức tạp trong quan hệ giữa con người với con người, giữa cá nhân với xã hội. Thứ hai, trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường theo định hướng XHCN thì lao động được xem xét dưới dạng năng suất, chất lượng và hiệu quả, đó là thước đo lao động không chỉ về số lượng, chất lượng mà cả tính tích cực, trách nhiệm lao động. Thứ ba là bất kỳ một hình thức lao động nào của cá nhân, không phân biệt thuộc thành phần kinh tế nào, nếu đáp ứng được nhu cầu xã hội, tạo ra sản phẩm hoặc công dụng nào đó, thực hiện được lợi ích đảm bảo nuôi sống mình, lại có thể đóng góp cho xã hội một phần lợi ích thì lao động đó được chấp nhận là lao động có ích. Vì vậy đối với người lao động, lý tưởng chính trị của họ phải được thể hiện thông qua lý tưởng nghề nghiệp, lao động phải đem lại lợi ích cho bản thân người lao động và cho xã hội. 1.2. Nguồn lao động Theo Samuelson: “Nguồn lao động bao gồm những người có việc làm hoặc không có việc làm nhưng đang tích cực tìm kiếm việc làm”. Theo các nước thành viên khối SEV thì: “Nguồn lao động là bộ phận dân số có khả năng, kiến thức và có kỹ xảo lao động nghĩa là có sức lao động”. Nguồn lao động bao gồm số người trong độ tuổi lao động (nm từ 15-60 tuổi, nữ từ 16-55 tuổi) có khả năng lao động và những người ngoài độ tuổi lao động nhưng thực sự có việc làm. Đối với Việt Nam thì “Nguồn lao động là bộ phận dân số trong độ tuổi quy định, đang tham gia lao động và những người không có việc làm nhưng đang tích cực tìm việc làm”. Theo quy định của Bộ luật Lao động Việt Nam, độ tuổi lao động quy định là từ 15-60 tuổi đối với nam và từ 15-55 tuổi đối với nữ. Theo khái niệm này thì một số người không được tính vào nguồn lao động là những người trong độ tuổi lao động không có việc làm nhưng không tích cực tìm kiếm việc làm, những người đang đi học, những người nội trợ trong gia đình và những người thuộc tình trạng khác như nghỉ hưu trước tuổi theo quy định. Đặc trưng của nguồn lao động là những chỉ tiêu về số lượng và chất lượng. Những chỉ tiêu này có thể thay đổi, trong đó chỉ tiêu quan trọng nhất là chỉ tiêu về số lượng, độ tuổi, giới tính, trình độ học vấn và sự phân bố theo lĩnh vực, theo ngành,... Những nhân tố kinh tế, xã hội có ảnh hưởng rất lớn đến sự vận động của nguồn lao động. Cụ thể ở các nước phát triển, lực lượng lao động thường có chất lượng tốt thể hiện ở sức khoẻ và trình độ chuyên môn nghiệp vụ rất cao, còn ở các nước có nền kinh tế yếu hơn thì lực lượng lao động rất dồi dào nhưng chất lượng lao động còn thấp. 1.3. Thị trường lao động Theo Adam Smith: thị trường lao động là biểu hiện quan hệ trao đổi diễn ra giữa một bên là người lao động với một bên là ngươì muốn sử dụng lao động dựa trên nguyên tắc thoả thuận mua và bán sức lao động thông qua hợp đồng lao động. Như vậy, có thể coi lao động như hàng hoá và dịch vụ khác được mua bán trên thị trường. Các nhà kinh tế cho rằng thị trường hoàn hảo là thị trường mà ở đó các hàng hoá được phân phối một cách có hiệu quả thông qua giá cả. Nhưng ở mọi nơi, nhất là ở những nước đang phát triển, thị trường lao động đều chưa hoàn hảo. Nói đến thị trường lao động tức là đề cập đến toàn bộ các quan hệ về lao động diễn ra trong nền kinh tế, bao gồm trao đổi (hay mua bán, thuê mướn) giữa người lao động tự do và người sử dụng lao động dựa trên cơ sở các quy định ràng buộc như tiền công, tiền lương, thời gian lao động, điều kiện lao động, thoả thuận về quyền lợi của hai bên. Về cơ bản thị trường lao động được tạo thành từ ba bộ phận chính đó là cung , cầu của thị trường lao động và giá cả sức lao động hay mức tiền công, tiền lương mà tại đó người sở hữu sức lao động đồng ý làm việc. Trên thực tế, sự vận động của thị trường lao động diển ra rất phức tạp và việc phân tích ba bộ phận trên đây đặc biệt cần thiết cho việc xây dựng chính sách thị trường lao động. ở nước ta thị trường lao động đang trong quá trình hình thành và mang những đặc điểm về thị trường lao động của một nền kinh tế chuyển đổi từ kế hoạch tập trung sang kinh tế thị trường. Luật lao động ban hành năm 1994 là một bước tiến lớn trong việc xây dựng thị trường lao động trong quá trình chuyển đổi kinh tế. Bộ luật này đã đề cập đến các vấn đề cơ bản của thị trường lao động như tiền công, tiền lương tối thiểu, các quan hệ lao động, tự do lựa chọn nghề nghiệp và nơi làm việc, xoá bỏ dần tư tưởng củ chỉ làm việc trong khu vực nhà nước... Ngoài ra rất nhiều văn bản liên quan đến quan hệ lao động cũng đã được ban hành nhằm bảo vệ người lao động. Trước yêu cầu của việc hoạt động công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, việc phát triển thị trường lao động là một nhiệm vụ quan trọng. Về cung của thị trường lao động: trong nền kinh tế thị trường, cung về lao động và khả năng đáp ứng nhu cầu mà thị trường lao động đặt ra về số lượng và chất lượng trong điều kiện một mức tiền công, tiền lương nhất định. Theo kinh tế học vĩ mô, cung về lao động chính là lực lượng lao động, bao gồm người lao động trong độ tuổi lao động có việc làm và người đang tìm việc làm nhưng không có việc làm, còn gọi là thất nghiệp. Cung về lao động phụ thuộc vào quy mô, cơ cấu dân số của một nước, chất lượng nguồn lao động (trình độ văn hoá, cơ cấu ngành nghề được đào tạo, sức khoẻ...), phong tục tập quán xã hội của một nước và chính sách phát triển nguồn nhân lực của nước đó. Như vậy cung về lao động có phạm vi hẹp hơn so với nguồn lao động và dân số trong độ tuổi lao động. Chúng ta biết rằng trong nền kinh tế luôn tồn tại một nhóm người trong độ tuổi lao động nhưng không có khả năng lao động và vì vậy không được tính vào lực lượng lao động khi phân tích thị trường lao động. Nguồn lao động bao gồm lực lượng lao động (cung về lao động) và những người đang đi học, tốt nghiệp đang chờ việc, người không có nhu cầu làm việc... Vì vậy một số chuyên gia còn gọi là cung lao động tiềm năng. Việt Nam là nước có nguồn lao động dồi dào, tức đông về số lượng. Năm 1988, cả nước ước tính có khoảng 45,2 triệu người trong tuổi lao động so với năm 1995 tăng 3,91 triệu người, trung bình tăng 1,3 triệu người hằng năm, là kết quả của việc tốc độ tăng dân số tương đối cao và ổn định trong những năm trước đó. Trong đó số lao động có khả năng lao động cũng tăng từ 83,7% năm 1995 lên 84,4% năm 1998. Tuy nhiên, yếu tố quan trọng để đánh giá mức độ đáp ứng lao động là chất lượng lao động. Như vậy sự dồi dào về lao động không đồng nhất với khả năng đáp ứng nhu cầu lao động trên thị trường. Thứ nhất, về sức khoẻ mặc dù đã có những tiến bộ trong công tác chăm sóc sức khoẻ cho người dân nhưng xuất phát điểm là một nước nghèo, đông dân nên phần lớn dân số nước ta chưa đảm bảo về sức khoẻ, đặc biệt là trẻ em và bộ phận dân số tại khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Thứ hai, ảnh hưởng của cơ chế kế hoạch hoá tập trung làm cho lề lối, tác phong làm việc của người lao động còn chậm chạp, thiếu động lực, sáng tạo trong lao động. Thứ ba, chất lượng của lao động nước ta còn thấp thể hiện rõ qua trình độ văn hoá và cơ cấu trình độ đào tạo của lao động tham gia hoạt động kinh tế. Cơ cấu ngành nghề đào tạo của lực lượng lao động cũng là một yếu tố xác định khả năng về cung lao động. Cơ cấu này phản ánh các ngành nghề được đào tạo có đáp ứng nhu cầu và cơ cấu ngành nghề mà nền kinh tế cần hay không. Tuy nhiên, thực tế cho thấy chưa có sự gắn kết giữa ngành nghề đào tạo và cầu về ngành nghề nền kinh tế đòi hỏi, dẫn đến tình trạng vừa thừa, vừa thiếu lao động có đào tạo. Sự bất hợp lý về cơ cấu trình độ chuyên môn, cơ cấu ngành nghề trong những năm qua đã ảnh hưởng lớn tới sự vận hành của thị trường lao động mới hình thành và thực hiện mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hộ ở nước ta. Các phân tích rất khái quát trên đây cho thấy cung về lao động có tầm quan trọng đặc biệt không chỉ theo nghĩa hẹp của thị trường lao động mà nó còn ảnh hưởng tới toàn bộ nền kinh tế. Chính vì vậy, từ giữa thế kỷ XX, cùng với sự phát triển của lý thuyết tăng trưởng kinh tế mới, phát triển nguồn nhân lực là một trong các mục tiêu hàng đầu của các quốc gia. Để đánh giá sự phát triển nguồn lực con người của một nước, trên thế giới hiện nay đang sử dụng chỉ số phát triển nguồn nhân lực ( HDI ). Chỉ số này được xác định dựa trên 4 chỉ số sau đây: 1)Tuổi thọ trung bình; 2)Tỉ lệ người biết chữ; 3)Tỉ lệ học sinh đến trường các cấp; 4)GDP thực tế trên đầu người tính theo phương pháp PPP. Hai trong bốn chỉ số trên là tỉ lệ người biết chữ và tỉ lệ học sinh đến trường các cấp có liên quan đến cung của thị trường lao động. Theo báo cáo phát triển nguồn nhân lực của chương trình phát triển của liên hợp quốc, giá trị HDI của Việt Nam năm 1998 là 0,664 xếp thứ 110 trong số 174 nước trên thế giới, mặc dù đã có những tiến bộ nhưng vẫn còn khác xa các nước trong khu vực như Inđônêxia (xếp thứ 105), Philipin (77), Thái Lan (65), Malaixia (56), Brunây(25), Xingapo (22). Qua chỉ số HDI chúng ta cũng phần nào đánh giá được cung về thị trường lao động của nước ta trong sự so sánh với các nước trong khu vực và các nước trên thế giới. Về cầu của thị trường lao động là đòi hỏi đặt ra đối với thị trường lao động về số và chất lượng lao động trong điều kiện một mức giá sức lao động nhất định. Cầu về lao động phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: nguồn tài nguyên của một nước, quy mô, trình độ công nghệ, cơ cấu ngành nghề của nền kinh tế , mức tiền công (tiền lương), phong tục tập quán, tôn giáo... và phụ thuộc vào chính sách phát triển kinh tế. Đối với các nước đang phát triển nhu cầu về lao động thực sự không lớn do quy mô của nên kinh tế nhỏ, vì vậy nhìn chung thừa lao động. Nước ta lại đang trong tình trạng quá trình chuyển đổi, bên cạnh cơ cấu ngành nghề của nền kinh tế luôn được điều chỉnh còn phải đối mặt với một loạt vấn đề về thể chế liên quan đến lao động như : khung khổ luật pháp về lao động chưa hoàn thiện, quy định và chính sách tiền công, tiền lương còn bất cập... Số người được thu hút vào hoạt động kinh tế ở nước ta tăng lên hằng năm khoảng trên 1 triệu người nhưng cơ cấu lao động phân bố theo các khu vực kinh tế thay đổi rất chậm. Từ năm 1991 đến năm 1998, lao động trong nông- lâm-ngư nghiệp vẫn giữ vị trí hàng đầu, giảm từ 73.26% xuống 68.2% tổng lao động tham gia hoạt động kinh tế. Lao động trong khu vực công nghiệp chiếm tỉ lệ thấp nhất, đạt cao nhất 13.25% năm 1995 và giảm xuống còn 12.72% năm 1998. Lao động trong khu vực dịch vụ mặc dù tăng liên tục từ 14.3% năm 1991 lên 19.01% năm 1998. Sau hơn 10 năm cải cách, cơ cấu kinh tế đã chuyển dịch theo hướng phát triển công nghiệp và dịch vụ, nhưng Việt Nam vẫn là một nền kinh tế nông nghiệp. Lực lượng lao động ở nông thôn năm 1998 chiếm tới 74.8% tổng lao động trong đó 81.8% được thu hút vào các hoạt động nông-lâm- ngư nghiệp, số còn lại hoạt động phi nông nghiệp. Lao động trong nông nghiệp không được toàn dụng một mặt do sức ép về tăng số lao động mới ở nông thôn, mặt khác do chuyển dịch cơ cấu lao động từ nông nghiệp thuần tuý sang hoạt động phi nông nghiệp ở nông thôn cũng như sang các khu vực công nghiệp và dịch vụ diễn ra rất chậm. Số lao động phi nông nghiệp nam 1998 chiếm 25,2% tăng 0,4% so với năm 1997, nhưng chỉ có 67% có việc làm thường xuyên, số còn lại thiếu hoặc không có việc làm. Thiếu việc làm, không có việc làm ở nông thôn dẫn đến tình trạng di chuyển lao động từ nông thôn ra đô thị, phần lớn tìm việc làm phi chính thức. Tuy nhiên theo số liệu chính thức, số lao động từ nông thôn ra thành thị năm 1998 giảm 1.733.241 người so với năm 1996. Cùng với nhịp độ giảm sút kinh tế năm 1998, tỷ lệ thất nghiệp chính thức và số người thiếu việc làm ở thành thị tăng lên đã làm giảm cơ hội có đươcj số việc làm cho số dân nông thôn ra thành thi tìm việc. Trước những diễn biến nêu trên, vấn đề giải quyết việc làm được Chính phủ đặc biệt quan tâm và đã thực hiện nhiều biện pháp dài hạn và biện pháp ngắn hạn. Tóm lại, trong giai đoạn vừa qua chúng ta đã quan tâm giải quyết cả hai vế cung và cầu lao động, nhưng chú trọng hơn tới biện pháp giảI quyết việc làm. đIều này thể hiện tính cấp bách tạo công ăn việc làm và thu nhập cho người lao động. Tuy nhiên cùng với quá trình đổi mới nền kinh tế, nếu cứ tiếp tục cách tiếp cận như trên sẽ không đáp ứng được nhu cầu lao động cho phát triển kinh tế ở nước ta trong giai đoạn tới. Vì vậy, trong thời gian tới, một mặt cần tạo việc làm cho người lao động nhưng cũng đồng thời cần nâng cao chất lượng của nguồn lao động. 2. Việc làm Dân số đông tạo nguồn lao động dồi dào biểu hiện một tiềm năng phong phú, có thể huy động vào việc thúc đẩy nền sản xuất xã hội phát triển. Nhưng mặt khác, nguồn lao động dông đảo có thể gây nên tình trạng cản trở cho sự phát triển kinh tế. Khi nguồn lao động được huy động, sử dụng hiệu quả thì tình trạng thiếu việc làm sẽ xảy ra, dẫn đến thu nhập người lao động thấp, giảm mức sống con người. Đồng thời đó cũng là nguyên nhân dẫn đến những tệ nạn xã hội, thậm chí tạo ra các xung đột gây rối loạn về mặt an ninh chính trị... Chính vì vậy, vấn đề tạo công ăn việc làm, nâng cao mức sống, xoá đói giảm nghèo trở nên có ý nghĩa to lớn, được quan tâm trong các mô hình phát triển hiện nay ở mọi quốc gia, đặc biệt là ở các nước đang phát triển. Để giải quyết vấn đề này cần phải hiểu rõ về vấn đề việc làm. Tuỳ theo cách tiếp cận mà người ta có những định nghĩa khác nhau về việc làm. ở Việt Nam Bộ luật Lao động ban hành năm 1994 đã xác định: “Mọi hoạt động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm”. Với khái niêm về việc làm như vậy thì hoạt động được xác định là việc làm bao gồm: + Làm các công việc được trả công dưới dạng bằng tiền hoặc hiện vật. + Những công việc tự làm để thu lợi nhuận cho bản thân hoặc tạo ra thu nhập cho gia đình mình nhưng không được trả công bằng tiền hoặc hiện vật cho công việc đó. Như vậy để có việc làm, không nhất thiết chỉ vào cơ quan xí nghiệp Nhà nước mà có thể tìm việc làm trong mọi tổ chức, doanh nghiệp, cơ quan thuộc mọi thành phần kinh tế hoặc do chính bản thân từng người lao động tạo ra để có thu nhập. Khái niệm việc làm có liên quan chặt chẽ với khái niệm lao động nhưng không hoàn toàn giống nhau. Việc làm thể hiện mối quan hệ của con người với những chỗ làm việc cụ thể, là những giới hạn xã hội cần thiết trong đó lao động diễn ra, đồng thời việc làm là điều kiện cần thiết để thoả mãn nhu cầu xã hội về lao động và cũng là nội dung chính trong hoạt động con người. Trên giác độ kinh tế, việc làm thể hiện mối tương quan giữa sức lao động với tư liệu sản xuất, giữa yếu tố con người với yếu tố vật chất trong quá trình sản xuất. Gắn với khái niệm việc làm là khái niệm thất nghiệp. Trong bất kỳ nền kinh tế nào dù có toàn dụng lao động đến mức tốt nhất thì xã hội vẫn tồn tại thất nghiệp. Thất nghiệp là hiện tượng mà người lao động trong độ tuổi lao động có khả năng lao động muốn làm việc nhưng lại chưa có việc làm và đang tích cực tìm việc (công nhân viên trong các cơ quan xí nghiệp Nhà nước bị dôi ra trong qúa trình sắp xếp sản xuất chưa có việc làm nhưng hiện đang đi tìm việc, học sinh tốt nghiệp các trường chuyên nghiệp và học nghề trong nước, người đi học tập, làm việc ở nước ngoài về đang tìm việc làm, những người lao động hết hạn hợp đồng làm việc đang liên hệ tìm việc làm mới...). Khi nói đến thất nghiệp thì tỷ lệ thất nghiệp là một trong các chỉ tiêu quan trọng để đánh giá tình trạng của một nền kinh tế, là mối quan tâm hàng đầu của mọi Chính phủ và mọi người trong xã hội. Theo cách tính thông thường, tỷ lệ thất nghiệp tính bằng phần trăm (%) của tỷ số giữa tổng số người thất nghiệp với tổng số lực lượng lao động theo công thức sau: U UR = 100% RF Trong đó : UR là tỷ lệ thất nghiệp (%) U là tổng số thất nghiệp LF là tổng lực lượng lao động Căn cứ vào những tiêu thức khác nhau, người ta chia thất nghiệp ra thành nhiều loại. ở các nước đang phát triển, người ta dùng khái niệm thất nghiệp hữu hình và thất nghiệp trá hình. Thất nghiệp trá hình gồm bán thất nghiệp và thất nghiệp vô hình. Ngưòi ta cho rằng thất nghiệp trá hình là biểu hiện chính của tình trạng chưa sử dụng hết lao động ở các nước đang phát triển. Họ là những người có việc làm trong khu vực nông thôn hoặc thành thị không chính thức nhưng việc làm đó có năng suất rất thấp, những người này đóng góp rất ít hoặc không đáng kể vào phát triển sản xuất. Tỷ lệ thất nghiệp ở mức cao sẽ có ảnh hưởng không tốt đến cả tình hình kinh tế và xã hội. Về mặt kinh tế, khi mức thất nghiệp cao, một bộ phận người lao động và tài nguyên sẽ bị lãng phí vì không kết hợp được hài hoà giữa sức lao động và tài nguyên thiên nhiên. Do đó ảnh hưởng đến sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế, thu nhập quốc dân và thu nhập của các tầng lớp dân cư trong xã hội tăng chậm, thậm chí giảm sút. Về mặt xã hội, khi mức thất nghiệp cao sẽ làm tăng các tệ nạn xã hội, cuộc sống tinh thần của con người luôn ở trạng thái căng thẳng, làm xói mòn nếp sống lành mạnh, có thể phá vỡ nhiều mối quan hệ truyền thống, gây tổn thương về tâm lý và niềm tin của nhiều người. Trong nền kinh tế thất nghiệp là hiện tượng kinh tế khách quan, người ta chỉ có thể hạn chế tỷ lệ thất nghiệp chứ không loại bỏ được nó. Vì vậy, trong chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội đến năm 2005 Đảng ta đã xác định: “Giải quyết việc làm, sử dụng tối đa nguồn lực lao động xã hội là mục tiêu quan trọng hàng đầu của chiến lược, là một tiêu chuẩn để định hướng cơ cấu kinh tế và lựa chọn công nghệ ở nước ta hiện nay”. II/ một số lý thuyết về chuyển dịch cơ cấu lao động - mô hình hai khu vực và di cư từ nông thôn ra thành thị 1. Mô hình của Lewis - Fei - Ranis Mô hình Lewis - Fei - Ranis cho rằng một nền kinh tế kém phát triển bao gồm hai khu vực: một khu vực nông nghiệp tự cung tự cấp truyền thống được đặc trưng bởi lao động “thừa” có năng suaats lao động bằng không hoặc rất thấp và một khu vực công nghiệp thành thị hiện đại có năng suất lao động cao mà lao động ở khu vực nông nghiệpdần dần chuyển sang đó. Trọng tâm của mô hình Lewis - Fei - Ranis là quá trình thuyên chuyển lao động và mức tăng công ăn việc làm trong khu vực hiện đại. Cả việc thuyên chuyển lao động và mức tăng công ăn việc làm ở thành thị chính thức là kết quả của việc tăng sản lượng trong khu vực hiện đại. Tốc độ của tiến trình này phụ thuộc vào mức đầu tư hay tích luỹ vốn trong khu vực hiện đại. Sỡ dĩ có được vốn đầu tư là do có sự vượt trội của lợi nhuận trong khu vực hiện đại so với tiền lương, khi người ta giả định rằng “các nhà tư bản” luôn tái đầu tư các khoản lợi nhuận của mình. Cuối cùng, mức lương ở khu vực công nghiệp được giả định là không đổi và được ấn định ở mức cao hơn mức lương đủ để tồn tại ở khu vực nông nghiệp truyền thống. Tuy nhiên với mức lương thành thị không đổi như vậy thì mức cung lao động nông thôn sẽ được coi là hoàn toàn co giãn. Hình 1: Mô hình Lewis - về tăng trưởng và thất nghiệp trong một nền kinh tế kép dư thừa lao động. Đây là mô hình Lewis - Rei - Ranis diễn tả quá trình phát triển của khu vực hiện đại: OA: biểu thị mức thu nhập thực tế trung bình đủ để tồn tại của khu vực nông nghiệp truyền thống. OW: là mức lương thực tế trong khu vực TBCN, tại đây cung lao động nông thôn được giả định là vô hạn, biểu thị bằng đường WS. Giả sử K1 là mức cung vốn không đổi trong giai đoạn tăng trưởng ban đầu của khu vực hiện đại. Đường cầu lao động được xác định bởi sản phẩm cận biên giảm dần, biểu thị bằng đường D1(K1). Vì các ông chủ của khu vực hiện đại với chủ trương tối đa hoá lợi nhuận được giả định là sẽ thuê lao động cho tới điểm mà sản phẩm cận biên bằng với mức lương thực tế ( tức là giao điểm F giữa đường cung và đường cầu lao động) nên toàn bộ số lao động ở khu vực hiện đại sẽ là OL1. Tiền lương trả cho công nhân là OW. Khi đó tổng số tiền lương bằng diện tích OWFL1 và sản lượng thặng dư bằng diện tích WD1F, đây chính là lợi nhuận của nhà tư bản. Vì ta giả định rằng toàn số lợi nhuận này sẽ được tái đầu tư nên tổng số vốn khu vực hai tăng lên từ K1 đến K2. Khi đó làm cho tổng sản phẩm khu vực hiện đại dịch chuyển theo và điều này tác động đến sản phẩm cân bằng hoặc cầu lao động và đường cầu lao động dịch chuyển sang đường D2(K2); G trở thành điểm cân bằng mới với số lượng lao động là OL2, mức lương không đổi. Khi đó tổng sản lượng là OD2L2, tổng lương là OWGL2 và lợi nhuận là WD2G. Một lần nữa lợi nhuận tăng lại tái đầu tư khiến cho tổng số vốn tăng lên K3 làm cho cầu lao động dịch chuyển lên D3(K3) và làm tăng mức sử dụng nhân công lên L3. Quá trình tăng trưởng và lấy thêm công nhân trong khu vực hiện đại được giả định là sẽ tiếp tục tăng cho đến khi toàn bộ số lao động “dư thừa” ở nông thôn được khu vực công nghiệp thành thị hấp thụ hết. Sau đó đường cung lao động sẽ dốc lên và cả mức lương thành thị lẫn số công nhân sẽ tiếp tục tăng. Đây là thời điểm hoàn tất công cuộc chuyển đổi cơ cấu của nền kinh tế và quá trình hiện đại hoá công nghiệp thống trị toàn bộ hoạt động của nền kinh tế. Mặc dù mô hình phát triển của Lewis - Fei - Ranis vừa đơn giản vừa tương đối phù hợp với thực tế trước đây của công cuộc phát triển kinh tế ỏ phương Tây nhưng nó có ba giả định then chốt khác biệt so với tình trạng thấp kém phát triển hâù hết ở các nước thuộc thế giới thứ ba: Thứ nhất, mô hình này ngầm giả định rằng, tốc độ thuyên chuyển lao động và công ăn việc làm tỷ lệ thuận với tốc độ tích luỹ vốn. Vấn đề là nếu các khoản lợi nhuận, thặng dư, tư bản lại không tái đầu tư vào trang thiết bị, tiết kiệm sức lao động tinh, chứ không đơn thuần chỉ bổ sung thêm vào số vốn hiện có như mô hình ngầm định. Thứ hai, mô hình này giả định rằng lao động ở vùng nông thôn là dư thừa. Trong khi đó có sự toàn dụng nhân công ở khu vực thành thị. Thực tế lại gần như ngược lại với các nước thuộc thế giới thứ ba, đó là nhiều thất nghiệp ở khu vực thành thị trong khi không có dư thừa lao động ở khu vực nông thôn. Quy luật này cũng có ngoại lệ về địa lý và mùa vụ, nhưng thực tế quy luật này đúng hơn giả định của Lewis - Fei - Ranis. Giả định thứ ba khác với thực tế là quan niệm về sự không đổi của mức lương thực tế của khu vực thành thị cho đến khi nguồn cung cấp lao động ở nông là cạn kiệt. Tuy nhiên một trong những nét nổi bật của tình hình lương ở thành thị tại hầu hết ở các nước đang phát triển là xu hướng mức lương tăng lên, xét cả về mặt tuyệt đối lẫn tương đối khi so sánh với mức thu nhập bình quân ở nông thôn ngay cả khi mức thu nhập công khai tăng lên. Tuy nhiên, mô hình cũng có giá trị phân tích nhất định ở chỗ nó nhấn mạnh đến hai yếu tố chủ yếu của vấn đề công ăn việc làm: những sự khác biệt về cơ cấu kinh tế giữa khu vực nông thôn, thành thị. 2. Mô hình của TODARO Mô hình di cư của Todaro có bốn đặc điểm cơ bản: - Di cư được khuyến khích bởi những cân nhắc hợp lý về kinh tế đối với mối quan hệ lợi ích và chi phí, mà phần lớn về mặt tài chính cũng như cả về mặt tâm lý. - Quyết định di cư phụ thuộc vào mức chênh lệch “dự kiến” hơn là mức chênh lệch thực tế về lương giữa vùng nông thôn và thành thị. - Xác suất tìm được việc làm ở khu vực thành thị tỷ lệ nghịch với thất nghiệp ở thành thị. - Hiện tượng tốc độ di cư vượt quá tốc độ tăng công ăn việc làm ở thành thị không những có thể xảy ra mà còn là hiện tượng hợp lý và thậm chí còn có thể xảy ra trong tình hình thu nhập dự kiến giữa nông thôn và thành thị chênh lệch nhau đáng kể. Do vậy tỷ lệ thất nghiệp cao ở thành thị chính là hậu quả tất yếu của quá trình mất cân đối nghiêm trọng về các cơ hội kinh tế giữa nông thôn và thành thị ở các nước chậm phát triển. Mặc dù thoạt đầu một học thuyết có vẻ như hạ tầm quan trọng của vấn đề di cư từ nông thôn ra thành thị thông qua việc mô tả nó như một cơ chế điều chỉnh mà qua đó người lao động tự phân bổ giữa các thi trường lao động giữa nông thôn và thành thị nhưng sự thực nó lại có những tác động quan trọng về mặt chính sách đối với chiến lược phát triển liên quan đến mức lương và thất nghiệp, sự phát triển nông thôn và công nghiệp hoá. Những tác động này bao gồm: Tình trạng mất cân đối trong các cơ hội về công ăn việc làm giữa nông thôn và thành thị. Vì theo giả định thì những người di cư sẽ hành động theo xu hướng chênh lệch trong thu nhập dự kiến nên một điều quan trọng là phải giảm tới mức thấp nhất tình trạng mất cân đối trong các cơ hội về kinh tế ở nông thôn và thành thị. Nếu ta xác định mức lương “dự kiến” ở thành thị bằng cách lấy mức lương thực tế Wu nhân với xác suất tìm việc làm ở thành thị Pu (Pu = Số công việc ở thành thị Eu/lực lượng lao động ở thành thị Lu) sao cho mức chênh lệch thu nhập dự kiến giữa nông thôn và thành thị là Wu(EU/Lu) - Wr, thì chênh lệch giữa mức lương thực tế ở nông thôn và thành thị là Wu - Wr càng lớn bao nhiêu thì tỷ lệ có việc làm ở thành thị Eu/Lu càng phải thấp bấy nhiêu để chấm dứt tình trạng số người di cư vượt quá số cơ hội công ăn việc làm. Vậy có thể kết luận việc cho phép lương ở thành thị tăng với tốc độ cao hơn so với mức thu nhập trung bình ở nông thôn sẽ khuyến khích thêm việc di cư từ nông thôn ra thành thị bất chấp tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị ngày càng tăng. Dòng người di cư đông đảo này không những là nguyên nhân của nhiều vấn đề kinh tế xã hội ở thành phố mà cũng có thể tạo ra tình trạng thiếu lao động ở nông thôn đặc biệt là vào mùa vụ. Tạo công ăn việc làm cho thành thị là một giải pháp chưa đầy đủ cho vấn đề thất nghiệp ở thành thị. Giải pháp kinh tế truyền thống (theo kiểu Keynes) cho rằng vấn đề thất nghiệp ở thành thị mà không cải thiện thu nhập và các cơ hội công ăn việc làm ở nông thôn có thể dẫn đến một tình thế nghịch lý trong đó nhiều công việc ở thành thị hơn sẽ dẫn đến mức thất nghiệp ở thành thị và nông thôn cao hơn. Theo giả thiết, tỷ lệ di cư tăng lên theo cả mức lương và số cơ hội công ăn việc làm ở thành thị cho nên đối với bất kỳ một mức chênh lệch về lương giữa nông thôn và thành thị, số công ăn việc làm ở thành thị tăng lên sẽ mở rộng mức chênh lệch dự kiến và còn kích thích nhiều người dời nông thôn ra thành thị. Mỗi công việc mới tạo thêm lại có thể hấp dẫn hai đến ba người di cư trước đó tham gia vào quá trình sản xuất ở nông thôn. Do đó, một chính sách được hoạch định làm giảm thất nghiệp sẽ không chỉ dẫn đến mức thất nghiệp ở thành thị cao hơn mà còn làm giảm sản lượng nông nghiệp và số công việc ở nông thôn. Lương và giá cả: Các khoản trợ giá lương bổng và hình thức trợ giá truyền thống theo nhân tố khan hiếm có thể có tác dụng tiêu cực vì mức lương thực tế ở thành thị thường vượt quá mức lương “chính xác” hay mức lương theo thị trường do một số nhân tố khác nhau về thể chế gây ra kể cả quy luật định mức lương tối thiểu nên người ta lập luận rằng việc loại trừ những sự bóp méo về lương thông qua biện pháp điều chỉnh giá hoặc một hệ thống trợ giá sẽ khuến khích những phương thức sản xuất sử dụng nhiều lao động hơn. Mặc dù những chính sách ấy có thể tạo thêm công ăn việc làm ở thành thị nhưng chúng có thể làm cho tình trạng thất nghiệp trở nên trầm trọng theo lập luận trên về hiện tượng di cư. Tác động của chính sách cắt giảm lương tương đối khi đã tính đến cả khu vực nông thôn lẫn thành thị đối với phúc lợi xã hội trước mắt là chưa rõ ràng. Phần lớn sẽ phụ thuộc vào mức thất nghiệp thành thị, mức độ chênh lệch trong thu nhập dự kiến giữa nông thôn, thành thị và quy mô di cư khi có thêm công ăn việc làm được tạo ra ở thành thị. Phát triển nông thôn: Cần khuyến khích các chương trình phát triển nông thôn toàn diện. Các nhà quan sát ở các nước thuộc thế giới thứ ba đã nhất trí về tầm quan trọng đặc biệt của công cuộc phát triển nông nghiệp và nông thôn nếu như mục tiêu là giải quyết thất nghiệp ở thành thị. Trong hoàn cảnh có những khó khăn về chính trị trong việc cắt giảm lương ở thành thị cần phải liên tục tạo công ăn việc làm thông qua đầu tư sáng suốt vào các ngành cở nhỏ và trung sử dụng nhiều lao động, cùng với sự tăng trưởng rõ rệt của khu vực công nghiệp thành thị, cần tập trung nỗ lực vào việc mở rộng các cơ sở của kinh tế nông thôn. Những yếu tố kinh tế hấp dẫn của việc di cư từ nông thôn ra thành thị cần phải được hạn chế ở mức thấp nhất thông qua các chương trình sáng tạo và được thiết kế một cách đúng đắn nhằm phát triển toàn diện nông thôn. Những chương trình này cần pahỉ tập trung vào việc tạo thu nhập cho khu vực nông trang cũng như khu vực ngoài nông trang, cải thiện các dịch vụ y tế và giáo dục, phát triển cơ sở hạ tầng và cung cấp những tiện nghi khác cho khu vực nông thôn. Tuy nhiên, việc xác định phải mau chóng có chính sách nhằm hạn chế làn sóng người di cư từ nông thôn không đồng nghĩa với việc tìm cách đảo ngược cái mà một số người gọi là “ những xu hướng lịch sử tất yếu”. Ngược lại, điều mà mô hình di cư Todaro muốn nói là cần có một tập hợp các chính sách để không làm trầm trọng thêm những xu hướng đô thị hoá nói trên của lịch sử thông qua việc tạo ra một cách giả tạo những mất cân bằng nghiêm trọng trong các cơ hội kinh tế giữa nông ._.thôn và thành thị. 3. Mô hình hai khu vực của H.Oshima H.Oshima cho rằng đặc điểm chủ yếu của các nước Châu á là lúa nước, gió mùa, có sự dư thừa lao động trong nông nghiệp song khác với các nước Âu Mỹ đó là lao động vừa thừa vừa thiếu theo thời vụ. Vì thế trong chiến lược phát triển kinh tế Oshima cho rằng trong giai đoạn đầu phát triển nông nghiệp, giai đoạn sau có sự tác động qua lại giữa nông nghiệp - công nghiệp và giai đoạn cuối thì phát triển công nghiệp, dịch vụ tức là nhấn mạnh nông nghiệp trước, công nghiệp sau. Cụ thể bước đầu tạo ra việc làm thêm cho lao động ở nông thôn trong thời kỳ nông nhàn bằng cách tăng vụ, đa dạng hoá các loại cây trồng... Trong giai đoạn này, nông nghiệp cần có sự hỗ trợ nhất định về giáo dục, giao thông, tín dụng, thuỷ lợi nhưng không cần đầu tư nhiều. Kết quả làm tăng sản lượng trong nông nghiệp dẫn đến tăng thu nhập của nông dân từ đó tăng nhu cầu về hàng tiêu dùng và là điều kiện bước đầu phát triển công nghiệp hàng tiêu dùng. Bước hai giải quyết việc làm trong nông thôn bằng cách phát triển thủ công mỹ nghệ, dịch vụ nông thôn, chế biến...Sự phát triển này đòi hỏi có sự phát triển đồng bộ: sản xuất - vận chuyển - tiêu thụ. Bên cạnh đó khu vực nông nghiệp tiếp tục sản xuất, họ có nhu cầu cao về phân bón và các công cụ lao động bắt đầu có sự di chuyển lao động nông nghiệp ra thành thị phục vụ cho phát triển công nghiệp, dịch vụ. Đây là một giai đoạn dài sự di chuyển dần dần đến khi thị trường lao động bị thu hẹp. Bước ba giai đoạn có việc làm đầy đủ. Khi lao động nông nghiệp chuyển dần ra thành phố đồng thời với thu nhập trong nông thôn tăng lên có nhu cầu cơ giới hoá nông nghiệp và việc cơ giới hoá này cho phép giải phóng một lượng lớn lao động nông nghiệp. Giai đoạn này về phía khu vực công nghiệp đã tăng quy mô sản xuất, tích luỹ vốn, kinh nghiệm sản xuất, có khả năng sản xuất sản phẩm nên tiếp tục có nhu cầu lao động. Giai đoạn này dịch vụ phát triển nhanh và nhu cầu lao động cũng tăng nhanh. Đây là mô hình phù hợp với thực tiễn của các nước đang phát triển đặc biệt là đối với nước ta. Qua các mô hình nêu trên, chúng ta có thể tóm tắt ý kiến của các nhà kinh tế về thuyên chuyển lao động từ nông thôn ra thành thị nhằm giải quyết việc làm cho lao động nông thôn như sau: - Tạo một sự cân bằng phù hợp về kinh tế và các cơ hội khác giữa nông thôn và thành thị. - Mở rộng các ngành nghề sản xuất quy mô nhỏ, sử dụng nhiều lao động ở khu vực nông thôn. - Lựa chọn công nghệ sản xuất phù hợp sử dụng nhiều lao động. - Điều chỉnh mối liên hệ trực tiếp giữa giáo dục và công ăn việc làm. - Điều chỉnh vấn đề dân số. III. Vai trò của giải quyết vấn đề lao động, việc làm ở nông thôn Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hoá- hiện đại hoá 1. Khái niệm công nghiệp hoá- hiện đại hoá, thực chất và mục tiêu của công nghiệp hoá-hiện đại hoá ở nước ta. 1.1 Khái niệm và thực chất của công nghiệp hoá-hiện đại hoá. Khái niệm công nghiệp hoá-hiện đại hoá được thể hiện rất rõ trong Nghị quyết hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành TW Đảng khoá VII: “Công nghiệp hoá-hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ lao động thủ công là chính sang sử dụng phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Đó là một quá trình lâu dài”. Việt Nam phải thực hiện công nghiệp hoá-hiện đại hoá là một tất yếu và nhiệm vụ này đã được đặt ra từ năm 1960. Đối với Việt Nam, công nghiệp hoá ở những năm 90 khác căn bản so với công nghiệp hoá ở những năm 60 trên các mặt: + Công nghiệp hoá gắn liền với hiện đại hoá. + Công nghiệp hoá tiến hành trong điều kiện phát triển nền kinh tế mở với các nước thuộc các chế độ chính trị khác nhau, đa dạng hoá và đa phương hoá các quan hệ đối ngoại. + Công nghiệp hoá-hiện đại hoá được thực hiện theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Việt Nam hiện nay còn là một nước dựa trên sản xuất nông nghiệp là chủ yếu (sản xuất nông nghiệp chiếm 27,2% tổng sản phẩm trong nước; 80% dân số ở nông thôn), do đó để thực hiện công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước thì công nghiệp hoá-hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn chiếm vị trí quan trọng. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã xác định: “Nội dung cơ bản của công nghiệp hoá-hiện đại hoá trong những năm còn lại của thập kỷ 90 là: đặc biệt coi trọng công nghiệp hoá-hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn”. Công nghiệp hoá nông thôn là một quá trình phát triển kinh tế xã hội mà nội dung chủ yếu của nó là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế xã hội ở nông thôn gắn liền với đổi mới công nghệ theo hướng công nghiệp và dịch vụ - là những ngành kinh tế ngày càng chiếm vị trí quan trọng và chiếm tỷ lệ lớn trong kinh tế nông thôn. Hiện đại hoá nông thôn có nghĩa là nói về tiến bộ kỹ thuật, công nghệ trong sản xuất và văn minh tiến bộ trong đời sống vật chất tinh thần cũng như lối sống ở nông thôn. Công nghệ tiến bộ hơn về chất và công nghệ đó có trình độ hiện đại hơn so với công nghệ hiện có, đời sống và lối sống được nâng cao và văn minh hơn thì đó chính là quá trình hiện đại hoá. Với ý nghĩa như vậy: công nghiệp hoá sẽ gắn liền với hiện đại hoá và hiện đại hoá chỉ tiến hành thực hiện được khi tiến hành công nghiệp hoá. 1.2. Mục tiêu của công nghiệp hoá-hiện đại hoá ở nông thôn. + Giải quyết việc làm cho lao động dư thừa ở nông thôn, nâng cao thu nhập và mức sống cho dân cư nông thôn. + Đa dạng hoá nền kinh tế nông thôn, đa dạng hoá ngành nghề lao động ở nông thôn trên cơ sở thị trườngạo ra ngành nghề mới. + Sử dụng lao động dư thừa tại chổ trên địa bàn nông thôn, vừa là ruộng vừa làm nghề khác như công nghiệp và dịch vụ nông thôn hay phương thức làm nghề khác như làm ở các doanh nghiệp công nghiệp, dịch vụ nông thôn ở làng xã, thị trấn huyện lỵ (nhưng vẫn sinh sống ở làng) đi đôi với hiện đại hoá nông nghiệp và đô thị hoá nông thôn. 2. Vai trò của giải quyết vấn đề lao động việc làm ở nông thôn Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hoá-hiện đại hoá. 2.1. Về mặt kinh tế Sau hơn 10 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu kinh tế đáng kể. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn tồn tại không ít khó khăn cản trở sự phát triển của nền kinh tế mà thất nghiệp được xem là một trong những khó khăn lớn nhất. Vấn đề giải quyết thất nghiệp ngày càng bức xúc hơn khi đất nước bước vào giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá-hiện đại hoá. Vì vậy, việc giải quyết việc làm cho lao động trong cả nước nói chung và ở nông thôn Việt Nam nói riêng có ý nghĩa to lớn đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Để thấy rõ ý nghĩa về mặt kinh tế của vấn đề giải quyết việc làm cho lao động nông thôn cần xem xét trên hai mặt của lao động: đó là chi phí và lợi ích. Để có sản xuất cần phải có sự kết hợp của rất nhiều nhân tố như vốn, tài nguyên, lao động, khoa học công nghệ... Như vậy, về mặt chi phí khi giải quyết việc làm cho người lao động thì số người tham gia vào quá trình sản xuất sẽ tăng lên, việc sử dụng lao động trong sản xuất đạt hiệu quả hơn. Mặt khác, việc giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn sẽ khai thác được tối đa những nguồn lực quan trọng đang còn tiềm ẩn trong khu vực kinh tế nông thôn như tài nguyên, vốn, ngành nghề...thông qua lao động của con người. Thực tế cho thấy những tiềm năng trên ở nông thôn còn rất lớn cả về mặt nhiên liệu, năng lượng, khoáng sản, cảnh quan thiên nhiên, vốn nhàn rỗi trong nông thôn và các ngành nghề truyền thống... Tuy nhiên tất cả chỉ là tiềm năng nếu con người không biết sử dụng sức lao động để khai thác, cải biến chúng phục vụ cho mục đích của con người. Khi người lao động có việc làm sẽ mang lại thu nhập cho bản thân họ và từ đó tạo tích luỹ, Nhà nước không những không phải chi trợ cấp cho những người nghèo không có việc làm mà khi giải quyết việc làm cho họ, họ có thể mang lại tích luỹ cho nền kinh tế quốc dân. Tăng tích luỹ sẽ giúp cho sản xuất được mở rộng, thu hút thêm nhiều lao động. Về mặt lợi ích, khi người lao động có thu nhập sẽ làm tăng sức mua của khu vực nông nghiệp nông thôn trong tổng sức mua của xã hội. Theo thống kê cho thấy lao động nông thôn chiếm khoảng 76% tổng số lao động cả nước và nếu tính theo đóng góp GDP thì sức mua của khu vực nông nghiệp nông thôn ước tính chiếm hơn 40% tổng sức mua của toàn xã hội. Việc tăng tiêu dùng có ý nghĩa rất lớn đối với Việt Nam hiện nay. Bởi vì Việt Nam là một thị trường tương đối lớn mà đặc biệt là khu vực nông thôn, dân số tập trung cao (80% dân số) nhưng chưa khai thác được nhiều. Nếu mức tiêu dùng của khu vực này tăng có tác động rất lớn đến sự phát triển của các ngành sản xuất trong nước, đặc biệt là những ngành sản xuất phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt hàng ngày. Như vậy, việc giải quyết việc làm cho người lao động nông thôn vừa có tác dụng làm tăng tích luỹ, vừa có tác dụng làm tăng tiêu dùng. Tăng tích luỹ sẽ giúp cho sản xuất được mở rộng, tức là tác động đến tổng cung; tăng tiêu dùng sẽ làm cho tổng cầu của nền kinh tế tăng lên kích thích sự phát triển của sản xuất từ đó thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế. 2.2. Về mặt xã hội Bên cạnh những cản trở gây ra cho nền kinh tế, thất nghiệp đồng thời là nguyên nhân của các tệ nạn xã hội. Số lao động tăng thêm khoảng trên 1 triệu người/năm, số người thất nghiệp hoàn toàn chưa được giải quyết. Trong quá trình công nghiệp hoá-hiện đại hoá, do sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và sắp xếp lại các doanh nghiệp, số lao động dôi ra phải timf việc làm mới khoảng 3 triệu người. Vấn đề tệ nạn xã hội nảy sinh từ nhiều nguyên nhân, song một nguyên nhân không kém phần quan trọng đó là do thất nghiệp. Bởi vì trong lực lượng lao động, tầng lớp thanh niên chiếm một tỷ lệ cao mà đối tượng này dễ bị ảnh hưởng bởi ngoại cảnh nên dễ dàng sa đà vào các tệ nạn xã hội, làm rối loạn trật tự an ninh xã hội, tha hoá nhân phẩm người lao động, làm cản trở sự phát triển của đất nước. Mặt khác, trong thời gian qua với sự dư thừa lao động quá nhiều ở nông thôn đã tạo ra sức ép di dân rất lớn từ nông thôn ra thành thị và giữa các vùng không kiểm soát được. Đặc điểm của lao động di cư thường là lao động trẻ, có sức khoẻ nhưng trình độ chuyên môn thấp. Việc di dân này đã bổ sung một lượng đáng kể cho lao động ở các đô thị, góp phần tích cực vào việc sử dụng đầy đủ và hiệu quả hơn nguồn lao động nông thôn, đồng thời góp phần tăng thu nhập và cải thiện đời sống cho bản thân người lao động và các thành viên trong gia đình họ ở nông thôn. Song bên cạnh những mặt tích cực đó cũng tạo nên sức ép quá lớn cho đô thị về nhà cửa, điện nước sinh hoạt, y tế, thậm chí gây ra cả những rối loạn về mặt xã hội. Do đó nếu giải quyết việc làm cho lao động nông thôn ngay tại chổ sẽ làm giảm đáng kể sức ép di dân tự do như tình trạng hiện nay. Hơn nữa khi người lao động ở nông thôn được giải quyết việc làm sẽ làm cho thu nhập tăng lên, trong chừng mực nào đó sẽ nâng cao hiểu biết của người dân. Bởi vì khi thu nhập tăng thì việc chi cho giáo dục đào tạo, cho đời sống tính thần sẽ cao hơn. Họ sẽ nhận thức được về nguyên nhân, hậu quả của việc gia tăng dân số, từ đó có ý thức làm giảm tốc đọ này. Đây là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng thất nghiệp như hiện nay. Bản chất của nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Việt Nam được đặc trưng bởi hai yếu tố quan trọng là tính hiệu quả và tính công bằng. Do vây, trong số những vấn đề kinh tế đáng quan tâm thì thu nhập của nông dân là hết sức quan trọng có liên quan đến cả hai đặc trưng nêu trên và là một vấn đề lớn ở Việt Nam. Vấn đề thu nhập của người nông dân có liên quan đến khoảng 80% dân cư sống ở nông thôn, mà để nâng cao thu nhập của người nông dân thì chỉ có biện pháp là giải quyết việc làm và nâng cao năng suất lao động của họ. Như vậy, việc giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn là rất quan trọng bởi nếu có chính sách giải quyết cho khu vực này ngày càng giàu mạnh thì sẽ làm cho quá trình đổi mới kinh tế của chúng ta càng thêm bền vững. IV. Kinh nghiệm giải quyết việc làm ở nông thôn trong quá trình công nghiệp hoá-hiện đại hoá của một số nước trên thế giới 1.Đài Loan Khi bước vào công nghiệp hoá nền kinh tế, Đài Loan đã lựa chọn mô hình công nghiệp hoá không chỉ tập trung ở đô thị mà còn mở mang cả ở nông thôn. Công nghiệp hoá ở Đài Loan đi từ nông nghiệp ngay từ đầu đã kết hợp chặt chẽ giữa công nghiệp với nông nghiệp, đồng thời phát triển cả công nghiệp đô thị và công nghiệp nông thôn với những nội dung, hình thức thích hợp đan xen nhau. Trong nông nghiệp, ngay từ những năm 50, kinh tế trang trại được hình thành. Nhà nước rất chú trọng khuyến khích tạo điều kiện cho mô hình kinh tế trang trại ở nông thôn phát triển thông qua những biện pháp tích cực để hiện đại hoá nông nghiệp. Đó là tác động công nghệ sinh học và cây trồng vật nuôi. Do vây, năng suất đã tăng lên rõ rệt. Sản xuất nông nghiệp ở Đài Loan được hiện đại hoá cao cả về điện khí hoá, thuỷ lợi hoá, hoá học hoá và cơ giới hóa trong các khâu sản xuất. Máy móc sử dụng trong nông nghiệp là các loại máy nhỏ phù hợp với điều kiện sản xuất của trang trại quy mô nhỏ. Năm 1990, 98% diện tích canh tác, 95% diện tích lúa, 70% lượng ngũ cốc được sử dụng máy móc. Đài Loan đã xây dựng được các xí nghiệp vừa và nhỏ ở các vùng nông thôn. ở Đài Loan, năm 1993, có trên 700.000 xí nghiệp vừa và nhỏ chiếm 98% tổng số xí nghiệp và 60% tổng số lao động của ngành công nghiệp. ậ các làng xã Đài Loan, các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp được mở mang. Các xí nghiệp gia đình cũng được hình thành. Kinh tế dịch vụ hàng tiêu dùng, vật tư kỹ thuật cho nông nghiệp cũng rất phát triển . Trong qúa trình công nghiệp hoá nông thôn, công nghiệp chế biến nông sản, thực phẩm vừa đáp ứng yêu cầu phục vụ nông nghiệp tại chỗ vừa thu hút lao động địa phương tạo thêm việc làm mới. Trong vòng bốn thập kỷ từ 1951 đến 1990 cơ cấu ngành của Đài Loan đã có sự cải biến sâu sắc triệt để. Ngành nông nghiệp từ 35,5% trong GDP giảm xuống còn 4,2%. Điều đó chứng tỏ nông thôn nông nghiệp cũng cải biến một cách sâu sắc triệt để. Công nghiệp hoá nông thôn ở Đài Loan đã thu được những thành tựu quan trọng. Thu nhập hộ nông dân năm 1972 tăng lên hai lần so với năm 1952. Năm 1952, bình quân thu nhập đầu người ở nông thôn nông nghiệp chỉ là 122 USD thì đến năm 1990 là 5648 USD, tức là trong vòng ba thập kỷ, Đài Loan đã nâng thu nhập bình quân đầu người trong lĩnh vực nông thôn nông nghiệp lên 42,29 lần. Sự tăng thu nhập chủ yếu do nguồn thu nhập ngoài nông nghiệp: năm 1952 chiếm 13%, năm 1966 chiếm 34%, năm 1979 chiếm 69%. Công nghiệp hoá nông thôn thúc đẩy sự hình thành các liên hiệp nông - công nghiệp, phát triển công nghiệp chế biến gắn với sản xuất nông nghiệp nâng cao giá trị nông sản, thực phẩm. Công nghiệp hoá nông thôn đã thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu lao động xã hội. Năm 1952, ở Đài Loan lao động nông nghiệp chiếm 56%, lao động công nghiệp chiếm 16,9%, lao động dịch vụ chiếm 27%. Đến năm 1992, lao động nông nghiệp giảm còn 12,8%, lao động công nghiệp tăng lên 40,2%, lao động dịch vụ tăng lên 46,9%. 2. Thái Lan Nếu so với Đài Loan thì công nghiệp hoá nông thôn ở Thái Lan còn nhiều hạn chế. Về điều kiện tự nhiên trong nông nghiệp, Thái Lan có nhiều thuận lợi. Diện tích canh tác bình quân đầu người cao nhất so với các nước vùng Đông Nam á. Những năm 50,60 Thái Lan thực hiện công nghiệp hoá tập trung vào đô thị, nhưng công nghiệp phát triển không hiệu quả, nông nghiệp vẫn trong tình trạng trì trệ. Do vậy, Thái Lan đã kịp thời chuyển hướng chiến lược công nghiệp hoá từ đơn thuần tập trung cho công nghiệp hoá đô thị sang công nghiệp hoá cả đô thị và nông thôn, công nghiệp và nông nghiệp đều hướng vào xuất khẩu. Qúa trình công nghiệp hoá nông thôn ở Thái Lan vừa tập trung phát triển kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá vừa mở mang các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn. Về nông nghiệp, sản xuất lúa được cơ giới hoá 90% khâu làm đất, 50% khâu tưới nước, 90% khâu đập tuốt lúa và 10% khâu sẩy hạt. Diện tích sản xuất mía, cơ giới khâu làm đất đạt 100%, trồng mía đạt 75%, chế biến đường đạt 100%. Máy móc phục vụ sản xuất nông nghiệp tăng nhanh. Năm 1957, số lượng máy kéo là 250 cái, năm 1967 là 19.500 cái, năm 1992 là 1.084.331 cái. Nhìn chung, đến năm 1993, cơ giới hoá nông nghiệp đã đạt được một số kết quả quan trọng, chi phí lao động làm đất giảm xuống từ 875 giờ công/1ha xuống 613 giờ công với máy kéo nhỏ loại hai bánh và 452 giờ công/1ha với loại máy kéo bốn bánh. Về điện khí hoá, trong nông nghiệp nông thôn cũng có những tiến bộ, năm 1991, Thái Lan có 58.044 làng có điện trong tổng số 64.205 làng đạt tỷ lệ 94%. Để khuyến khích nông nghiệp nông thôn phát triển, Nhà nước đã có một số chính sách, biện pháp hỗ trợ, cung cấp vốn tín dụng, bồi dưỡng tay nghề, tạo mối quan hệ hợp đồng gia công giữa công nghiệp nhỏ và công nghiệp lớn. Do vậy, các ngành nghề thủ công truyền thống, ngành nghề mới chế biến nông phẩm, cơ khí nhỏ và các loại hình dịch vụ thương mại, tín dụng cũng phát triển tạo thêm nhiều việc làm cho lao động nông thôn đồng thời di chuyển lao động từ nông nghiệp sang các ngành sản xuất ngoài nông nghiệp. Nhìn chung công nghiệp hoá nông thôn ở Thái Lan đã đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của nông nghiệp. Thu nhập và đời sống nông dân tăng lên, giải quyết việc làm cho lao động nông thôn nhưng nguồn thu nhập chủ yếu vẫn từ nông nghiệp, thu từ các ngành kinh tế ngoài nông nghiệp còn thấp. 3. Nhật Bản Sau năm 1945, nền kinh tế Nhật Bản bị tàn phá nặng nề do chiến tranh. Dòng người thất nghiệp từ thành thị đổ về nông thôn làm cho số hộ ở nông thôn tăng lên nhanh chóng. Trước năm 1945, số hộ ở nông thôn khoảng 5,5 triệu, năm 1960 là 6,18 triệu hộ. Nhật Bản đã có chính sách và biện pháp nhằm thực hiện công nghiệp hoá nông thôn vừa biến nền nông nghiệp cổ truyền kiểu Châu á thành nền nông nghiệp tiên tiến, vừa phát triển công nghiệp nông thôn theo hướng đa dạng nhằm giải quyết việc làm ở nông thôn. Hiện đại hoá nông nghiệp Nhật Bản, các loại máy đơn giản, rẻ tiền được trang bị và sử dụng theo từng hộ gia đình, còn các loại máy phức tạp, đắt tiền (máy gặt đập, máy kéo lúa,...) được trang bị sử dụng chung. Đến những năm 1990, nông dân Nhật Bản đã đủ máy móc thiết bị để cơ giới hoá đồng bộ trong canh tác. Cơ giới hoá đạt 98%-100% khâu làm đất, tưới tiêu 100%, gặt đập 99%, sấy thóc 95%. Do vây, chi phí sản xuất ra một tạ thóc giảm từ 60 giờ công xuống còn 8 giờ công. Giá trị sản phẩm nông nghiệp của Nhật năm 1990 tăng 30 lần so với năm 1960. Do năng suất lao động tăng nên chi phí lao động giảm, hàng chục triệu lao động từ nông nghiệp đã được chuyển sang công nghiệp. Tỷ trọng lao động công nghiệp đã giảm đi nhanh chóng, năm 1950 là 45%, năm 1990 còn 6,3% trong tổng số lao động toàn xã hội. Cơ cấu kinh tế của các trại gia đình ở Nhật Bản đã chuyển dịch từ thuần nông sang nông công nghiệp . Công nghiệp nông thôn cũng được chú trọng phát triển, xí nghiệp quy mô vừa và nhỏ cũng có nhiều cơ sở. Công nghiệp ra đời có vai trò vô cùng quan trọng với kinh tế nông thôn, xí nghiệp gia đình thường làm nhiệm vụ gia công chi tiết máy đơn giản. Người lao động không đòi hỏi trình độ kỹ thuật cao, chỉ cần đào tạo bồi dưỡng trong thời gian ngắn là có đủ kiến thức đảm nhận các công việc chế tạo đơn giản. Do đó, một bộ phận lớn lao động nông thôn đã được giải quyết việc làm , đồng thời di chuyển dần lao động từ nông nghiệp sang lĩnh vực công nghiệp. Các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp truyền thống cũng được khuyến khích phát triển. Vào những năm 1970, tỉnh OITA (Tây nam Nhật Bản) đã có phong trào “mỗi thôn làng một sản phẩm” nhằm khai thác các ngành nghề cổ truyền ở nông thôn. Ngay năm đầu tiên họ đã tạo ra 143 loại sản phẩm thu được 250 triệu USD. Đến năm 1992 tăng lên 1,2 tỷ USD. Phong trào phục hồi ngành nghề tiểu thủ công nghiệp truyền thống lan rộng ra cả nước, Nhật Bản đã giải quyết việc làm cho hàng triệu lao động ở nông thôn và làm tăng mức sống cũng như tốc độ đô thị hoá của nông thôn Nhật Bản. Do nhu cầu sản xuất và đời sống ở nông thôn, các ngành dịch vụ thương mại, tín dụng, kỹ thuật và những ngành chế biến nông lâm thuỷ sản cũng phát triển làm biến đổi nhanh chóng cơ cấu ngành ở nông thôn. Như vậy, từ kinh nghiệm của Đài Loan, Nhật Bản và Thái Lan cho thấy quá trình công nghiệp hoá-hiện đại hoá ở nông thôn đã giải quyết được lao động dư thừa ở nông thôn, nâng cao mức sống dân cư nông thôn, đa dạng hoá kinh tế, ngành nghề lao động ở nông thôn trên cơ sở tạo thêm ngành nghề mới sử dụng lao động dư thừa tại chổ và tạo sự phân công lao động tại khu vực. CHƯƠNG II THựC TRạNG LAO ĐộNG, VIệC LàM ở NÔNG THÔN Và THựC TRạNG GIảI QUYếT LAO ĐộNG, VIệC LàM TạI VIệT NAM i. thực trạng lao động, việc làm ở nông thôn 1. Đánh giá tình hình lao động và giải quyết việc làm trong nông thôn thời kỳ 1990-2000 1.1. Đặc điểm nguồn lao động nông thôn Việt Nam thuộc loại hình dân số trẻ, có tốc độ tăng dân số cao, quy mô tương đối lớn nên lực lượng lao động rất dồi dào, đặc biệt là khu vực nông thôn, lao động chiếm tỷ trọng lớn. Cơ cấu dân số trong độ tuổi lao động ở nông thôn tuổi từ 15-24 chiếm 34,25%, tuổi từ 25-44 chiếm 50,75%, còn lại nhóm từ 45 đến hết tuổi lao động (nữ tới 55, nam tới 60) chỉ chiếm 15%. Hàng năm, nguồn lao động cả nước vẫn tiếp tục gia tăng ở mức cao, khoảng 3% với trên 1,3 triệu thanh niên bước vào tuổi lao động, trong đó có khoảng 80-90 vạn người ở khu vực nông thôn. Ngoài ra ở khu vực này còn có hàng triệu lao động trên và dưới tuổi có khả năng làm việc và có nhu cầu làm việc. Đó là điều kiện cho tăng trưởng và phát triển kinh tế trong tương lai, khi tăng tính toàn dụng nguồn nhân lực và năng suất lao động ở nông thôn. Song áp lực việc làm cũng đặt ra rất lớn chứa đựng nhiều yếu tố phức tạp, bất lợi cả về mặt kinh tế và xă hội. Điều này đòi hỏi chúng ta phải phân tích, đánh giá kỹ đặc điểm nguồn lao động nông thôn, tạo cơ sở cho việc định hướng và đưa ra những giải pháp phù hợp nhằm sử dụng có hiệu quả nguồn lực này. Dưới đây là một số đặc điểm cơ bản của nguồn lao động nông thôn nước ta hiện nay. 1.1.1. Nguồn lao động nông thôn chiếm tỷ trọng lớn và tăng nhanh Với quy mô dân số khá lớn, tốc độ tăng còn cao (quy mô dân số đứng hàng thứ 12 trên thế giới và tốc độ tăng gấp 1,5 lần tốc độ tăng của toàn thế giới) nên Việt Nam thuộc loại dân số trẻ và tăng nhanh. Cụ thể dân số nước ta dã tăng từ 66 triệu người (năm 1990) lên trên 78 triệu người (năm 1998). Bình quân mỗi năm tăng khoảng 1,5 triệu người, tỷ lệ tăng dân số ở mức 2%. Đến năm 1998, nguồn lao động xã hội có trên 43 triệu, chiếm 55,23% dân số cả nước. Trong đó nữ chiếm 51%, khu vực nông thôn có 33,49 triệu người chiếm 77,6%. Bảng 1: Cơ cấu dân số trong tuổi lao động chia theo nam, nữ, thành thị, nông thôn giai đoạn 1990-1999. Chỉ tiêu 1991 1994 1996 1997 1998 Số lượng % Số lượng % Số lượng % Số lượng % Số lượng % Dân số toàn quốc 67774 72692 75340 76709 78059 Dân số trong tuổi LĐ 35978 100 39107 100 41044 100 42020 100 43112 100 Thành thị 7271 20,21 8264 21,13 9075 21,11 9508 21,2 9657 22,4 Nông thôn 28707 79,79 30843 78,87 31969 78,89 32512 78,8 33455 77,6 Nguồn: - Số liệu điều tra lao động - việc làm toàn quốc 1996 (Bộ lao động thương binh xã hội và Tổng cục Thống kê) - Luận cứ khoa học chính sách dân số - lao động nông thôn Việt Nam (KX0604). Qua số liệu trên ta thấy, lao động nông thôn chiếm tỷ trọng cao trong tổng số lao động cả nước, tuy có xu thế giảm nhưng vẫn tăng nhanh về số tuyệt đối. Bảng 2: Tổng hợp một số chỉ tiêu chủ yếu về dân số - lao động 1990 1993 1996 1999 Dân số(nghìn người) 66233,0 71025,6 75355,2 76327.8 Tỷ lệ tăng/năm 2,3 2,33 1,88 - Thành thị, % 20,4 19,5 20,3 - Nông thôn, % 79,6 80,5 79,7 - Nam,% 48,8 48,7 49,0 49.15 - Nữ, % 51,2 51,3 51,0 50.857 Lao động, nghìn người 30286 32718 36791,9 46146.4 - Lao động N-L-N 25771 - 28623 Nguồn: Niên giám thống kê các năm 1994-1997, NXB Thống kê, HN, 1995,1996,1997,1998, 1999. Số liệu Thống kê Nông - lâm nghiệp, thuỷ sản Việt Nam và dự báo năm 2000; Thực trạng lao động và việc làm ở VN, NXB Thống kê, HN, 1999. Qua bảng trên ta thấy trong khoảng 8 năm từ 1990 đến 1998, dân số nước ta tăng thêm 10-11 triệu người. Như vậy mỗi năm dân số trung bình tăng khoảng trên 1 triệu người. Trong đó tỷ lệ dân cư nông thôn vẫn tiếp tục tăng cao và giảm không đáng kể, tỷ lệ nữ vẫn trên dưới 51% (Bảng 2). Tỷ lệ tăng dân số cao làm tăng nguồn lao động xã hội. Giai đoạn 1989-1995, lao động tăng trung bình 1,45 triệu người/năm, dẫn đến tổng lực lượng lao động cả nước là 28,744 triệu người năm 1989 và 34,599 triệu năm 1995. Giai đoạn 1995-1997, lao động tăng trung bình 1,17 triệu người/năm. Kết quả là tổng lực lượng lao động xã hội năm1997 là 36,994 triệu với tốc độ tăng tương ứng, đến năm 1999 lực lượng lao động xã hội đạt con số trên 46 triệu. Đặc biệt, tỷ lệ tăng dân số ở các vùng nông thôn luôn luôn cao hơn ở khu vực thành thị. Trong giai đoạn 1989-1999, tổng số hộ nông thôn tăng bình quân 2,6% đến năm 1998, tổng số hộ nông thôn là 11,97 triệu hộ, tăng 13,4% so với năm 1989. Nguyên nhân chủ yếu là do tác động của chính sách giao đất nông nghiệp cho hộ sử dụng lâu dài dân đến việc tách hộ và hai là số cặp vợ chồng trẻ muốn sống độc lập với bố mẹ đã tách hộ để thành lập gia đình riêng. 1.1.2. Nguồn lao động nông thôn phân bố giữa các vùng và các ngành không hợp lý Về mặt phân bố dân cư và lao động theo vùng ở nước ta thể hiện một sự tương phản rõ nét. Năm 1993, trong khi mật độ dân số chung của cả nước là 214 người/km2 thì ở Đồng bằng sông Hồng có mật độ dân cư cao nhất là trên 1104 ngưòi/km2, trong khi đó ở Tây Nguyên nơi có mật độ dân cư thấp nhất là 52 người/km2. Mật độ dân số nông nghiệp chung của cả nước năm 1993 là 149,7 nghười/km2. Trong khi ở Đồng bằng Bắc Bộ tới 815,3 người/km2, ở Tây Nguyên 33 người/km2. Đồng bằng sông Cửu Long 318 người/km2, miền núi trung du Bắc Bộ 93 người/km2. Như vậy, dân cư nước ta phân bố tại các vùng không đồng đều, đại bộ phận tập trung tại các vùng đồng bằng, trong khi đó ở các vùng miền núi có tiềm năng đất đai lớn thì dân cư lại thưa thớt. Đặc biệt là hai đồng bằng: sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long - hai vựa lúa chủ yếu của Việt Nam có mật độ dân cư cao nhất. Hai đồng bằng chỉ chiếm 15,7% lãnh thổ của cả nước song chiếm tới 45,51% hộ nông nghiệp cả nước, 49,95% số khẩu nông nghiệp và 47,29% lao động cả nước. Mật độ dân cư và lao động nông nghiệp phân bố giữa các vùng quá chênh lệch, chưa tạo được sự gắn kết tối ưu trong việc khai thác các nguồn tiềm năng to lớn này ở nông thôn. Mặt khác, nguồn lao động nông thôn phân bố giữa các ngành nghề cũng không đồng đều và năng suất lao động thấp. Thực tế cho thấy sự phân công lao động ở nông thôn tới nay mặc dù đã có sự chuyển biến nhưng chậm, lao động vẫn tập trung vào sản xuất nông nghiệp trong điều kiện đất đai chật hẹp, trình độ thâm canh thấp. Tuy nhiên, việc mở mang các ngành nghề phi nông nghiệp còn rất hạn chế. Năm 1996, cả nước có gần 12 triệu hộ nông dân thì có tới 9,5 triệu hộ thuần tuý nông nghiệp , chiếm tỷ lệ 79,58% tổng số hộ nông thôn. Nếu kể cả hộ nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản, tỷ lệ hộ phi nông nghiệp trong nông thôn chỉ chiếm 18,35%. Trong số hộ phi nông nghiệp này, số hộ hoạt động công nghiệp, thủ công nghiệp và xây dựng chỉ chiếm tỷ lệ thấp, chỉ 1,61% so với tổng số hộ nông thôn; số hộ hoạt động thương nghiệp, dịch vụ cũng chỉ chiếm tỷ lệ thấp 4,39% so với hộ nông thôn, trong khi đó số hộ khác chiếm tỷ lệ 12,35%. Lao động nông nghiệp vẫn chiếm đại đa số trong cơ cấu lao động (76%), so với năm 1996 là 81,52%, công nghiệp dịch vụ năm 1999 là 8,3% và 14,7% giảm không đáng kể so với năm1996. Cụ thể việc phân bố lực lượng lao động nông thôn theo vùng và theo ngành kinh tế năm1996 như sau: Bảng 3: Cơ cấu ngành nghề của lao động nông thôn theo vùng: 1996 1999 N-L-N CN-XD DV N-L-N CN-XD DV Tổng số 81.523 6.870 11.607 76.844 8.396 14.760 ĐB sông Hồng 85.206 6.290 8.504 75.649 10.750 13.602 Núi và Trung du 93.303 2.035 4.662 83.030 5.908 11.062 Bắc Trung Bộ 86.302 5.513 8.185 79.424 8.417 12.159 Nam Trung Bộ 79.836 7.274 12.890 75.235 8.990 15.775 Tây Nguyên 88.105 3.765 8.129 88.934 2.231 8.836 Đông Nam Bộ 57.228 19.693 23.079 63.869 13.826 22.269 ĐB S. Cửu Long 73.210 8.191 18.600 71.185 8.469 20.347 Nguồn: Thực trạng lao động và việc làm Việt Nam 1996,1999, NXB Thống kê. So với cơ cấu lao động chung của cả nước, cơ cấu lao động ở nông thôn thể hiện sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, nhất là ở các vùng núi và trung du có điều kiện khó khăn về cơ sở hạ tầng phát triển công nghiệp. Đặc biệt có vùng như Tây Nguyên, tỷ trọng lao động nông nghiệp trong nông thôn hầu như không giảm mà lại tăng thêm. Đồng bằng sông Hồng với những nỗ lực rất lớn trong phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp, tỷ trọng lao động nông nghiệp giảm đáng kể (10%). Chung cho các vùng nông thôn, lao động nông nghiệp trong thời gian từ 1996 đến 1999 tăng với tốc độ 2,6%; công nghiệp, dịch vụ tăng 11% và 13%. Điều này cho thấy mặc dù chủ trương chuyển mạnh lao động nông nghiệp sang các hoạt động phi nông nghiệp nhưng trong nông thôn khả năng tiếp nhận lao động của các ngành công nghiệp, dịch vụ vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu đặt ra. Trong 3 năm vẫn có tới 1,69 triệu lao động tăng thêm trong ngành nông nghiệp, chỉ có trên 750 ngàn lao động tăng thêm trong ngành công nghiệp xây dựng và ở khu vực dịch vụ là 1,4 triệu lao động. 1.1.3. Chất lượng nguồn lao động nông thôn Chất lượng nguồn lao động nông thôn là một chỉ tiêu tổng hợp phản ánh nhiều yếu tố: trình độ văn hoá, trình độ kỹ thuật, tay nghề, thể trạng sức khoẻ của những người lao động, v.v… Theo báo cáo thực trạng lao động và vệc làm năm 1999, nhìn chung trình độ học vấn của lực lượng lao động thường xuyên ngày càng được nâng cao, tỷ lệ số người chưa biết chữ và chưa tốt nghiệp tiểu học ngày càng giảm. Năm 1996, tỷ lệ lao động biết chữ của nước ta đạt 94,25%. Riêng khu vực nông thôn là 93,43%, trong khi đó người chưa tốt ng._.ông nghiệp nông thôn. Phương hướng di chuyển lao động tại chỗ, nó gắn liền với yêu cầu phát triển nông thôn toàn diện, khắc phục tính thần nông, hướng tới xây dựng nông thôn phi nông nghiệp. Đối với Việt Nam hiện nay thì việc chọn hướng giải quyết việc làm tại chỗ là điều tốt nhất, vì tính phù hợp của phương hướng này thể hiện ở chỗ: Trước hết theo các mô hình giải quyết công ăn, việc làm thì khi di chuyển lao động nông thôn ra thành thị tạo việc làm ở thành thị sẽ dẫn đến: + Mất cân đối các cơ hội về kinh tế cũng như việc làm giữa nông thôn và thành thị. + Thất nghiệp ở thành thị lại trở nên nhiều hơn do một công việc tạo ra ở đây lại có thể thu hút 3 đến 4 lao động ở nông thôn di chuyển ra. + Sản lượng ở nông thôn cũng như nền kinh tế giảm do hầu hết những người lao động giỏi đã di cư ra thành thị mang theo cả vốn và do mức thất nghiệp lên cao. + Tệ nạn xã hội gia tăng do không đủ việc làm. Đối với điều kiện ở Việt Nam: Một là dân số và lao động nông thôn nước ta quá lớn khiến cho thành thị không thể thu nhận kịp thời số người ra từ nông thôn. Với một nền kinh tế có tới 75% tổng số lao động việc làm trong khu vực nông nghiệp và 80% dân cư sống ở nông thôn thì dù công nghiệp dịch vụ ở thành thị có phát triển đến đâu thì cũng không thể thu nạp hết số ldd dư thừa quá lớn như hiện nay. Hai là trình độ lao động trong khu vực nông thôn còn rất thấp, phần đông chưa được qua hình thức đào tạo nào. Với trình độ và khả năng như vậy thì dù các ngành công nghiệp, dịch vụ có phát triển và mở ra khả năng thu hút lao động vào cũng chưa thể sử dụng được ngay số lao động dôi ra từ nông thôn. Ba là quá trình tự do di chuyển lao động nông thôn ra thành thị gây sức ép lớn cho các khu vực thành thị, đó là sự phức tạp về an ninh xã hội của tình trạng di dân ồ ạt ra đô thị, sự quá tải về dân số kéop theo sự quá tải về các vấn đề liên quan đến đời sống con người: môi trường, cơ sở hạ tầng, y tế, trường học, và các vấn đề đặt ra là các tệ nạn xã hội ngày càng phát triển... Còn nhiều lý do khác cho thấy sự cần thiết phải chuyển dịch cơ cấu lao động tạih chỗ như: vốn đầu tư tạo thêm chỗ làm việc mới trong nông thôn thường thấp hơn so với thành thị, trong nông nghiệp thấp hơn so với công nghiệp và dịch vụ, vốn đầu tư và cơ sở hạ tầng còn thấp... 2. Quan điểm khai thác tiềm năng lao động, kinh tế nông thôn tạo việc làm cho nông dân nhằm sử dụng có hiệu quả quỹ thời gian Để giải quyết việc làm cho lao động ở nông thôn phải dựa trên cơ sở phát triển mạnh mẽ nền sản xuất hàng hoá nhiều thành phần, với những hình thức tổ chức kinh doanh đa dạng, đan xen vào nhau làm cho thị trường lao động trở nên sôi động và linh hoạt hơn. Đối với nước ta hiện nay, khả năng thu hút lao động vào các ngành nông, lâm, ngư nghiệp vẫn còn khá lớn. Hiện nay nông nghiệp nước ta vẫn mang nặng tính thuần nông, hầu hết các vùng nông thôn dân số đều đông, nếu chúng ta tích cực chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp, cơ cấu cây trồng, mở rộng sản xuất rau quả và chăn nuôi thì vẫn có thể nâng cao thu nhập, tạo thêm việc làm ở địa phương. Bên cạnh đó, tiềm năng về đất trống, đồi núi trọc, tài nguyên thiên nhiên còn rất lớn đều chưa được sử dụng và phát huy hết khả năng. Để giải quyết được vấn đề này, điều mấu chốt là nhà nước cần tiếp tục bằng mọi biện pháp tạo điều kiện và môi trường, chuyển nhanh nông thôn sang nền sản xuất đa dạng phù hợp với tiềm lực từng vùng, đặc biệt là chính sách đầu tư cơ sở hạ tầng, chính sách vốn và công nghệ, chính sách ruộng đất, trợ giá nông sản, chính sách thị trường... 3. Quan điểm giải quyết việc làm, lao động với yêu cầu chuyển dịch kinh tế nông nghiệp nông thôn theo hướng công nghiệp hoá Từ nay đến năm 2005 phải tạo bước đi làm thay đổi và chuyển dịch cơ bản cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động theo hướng giảm hộ thuần nông, giải phóng đất đai, đa dạng hoá ngành nghề, thực hiện người nào giỏi việc gì làm việc đó, trên cơ sở giao đất sử dung lâu dài cho các hộ gia đinh, đồng thời có chính sách tập trung ruộng đất theo luật pháp cho các hộ có khả năng sản xuất kinh doanh nông nghiệp hàng hoá. Đa dạng hoá việc làm, đa dạng hoá thu nhập phải trở thành phổ biến trong khu vực nông thôn. Trong điều kiện của Việt Nam nhiều năm tới, kinh tế hộ gia đình vẫn là đơn vị kinh tế cơ bản tổ chức sản xuất kinh doanh và phân công lại lao động, chuyển dịch cơ cấu lao động ngay trong quy mô hộ gia đình, song phải đặc biệt khuyến khích các hình thức hợp tác tự nguyện ở quy mô trên hộ, nhóm hộ, nhiều hộ liên kết hợp tác làm ăn, đồng thời mở rộng hình thức hợp tác sản xuất kinh doanh theo kiểu nông trại, trang trại là hình thức có hiệu quả và phù hợp với nền kinh tế thị trường. Bên cạnh đó là phát triển mạnh các hoạt động phi nông nghiệp trên địa bàn nông thôn. 4. Quan điểm giải quyết việc làm với phát triển nguồn nhân lực Lao động trong nông thôn ở nước ta thiếu việc làm hầu hết là do không có nghề nghiệp. Vì vậy, chính sách giải quyết việc làm phải được đặt trong mối quan hệ thông nhất từ đào tạo, phổ cập nghề nghiệp để sử dụng hợp lý nguồn lao động. Chỉ có như vậy mới giảm dần sức ép về việc làm, tiến tới có việc làm đầy đủ cho lao động nông thôn. Tuy nhiên, giải quyết việc làm không có nghĩa là bao cấp về việc làm. Xét về lâu dài chỉ khi nào người lao động có kiến thức, có nghề nghiệp và biết sử dụng nghề của mình trong cơ chế thị trường thì hoạt động của họ mới đamr bảo tồn tại lâu dài. Do đó sự kết hợp thống nhất từ trang bị kiến thức phổ cập nghề nghiệp, hướng dẫn và tạo điều kiện để người lao động có thể chủ động sử dụng nghề nghiệp trong cơ chế thị trường là tư tưởng cần phải được quán triệt trong chính sách giải quyết việc làm. III/ một số giải pháp giải quyết vấn đề lao động, việc làm ở nông thôn trong thời kỳ Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá. 1. Giải pháp nhằm tạo cơ sở và môi trường cần thiết cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, tạo việ làm cho lao động nông thôn. Quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động cũng như phát triển kinh tế đòi hỏi ngày càng tăng về vốn đầu tư. Nhà nước cần tạo điều kiện hỗ trợ về vốn để sản xuất kinh doanh trên cơ sở thực hiện chính sách tín dụng lãi suất nâng đỡ cho vay đến cá nhân, hộ gia đình, chủ doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế có khả năng tự tạo việc làm hoặc tạo việc làm mới thu hút thêm lao động. Đó là chính sách cơ bản nhất để chuyển đổi cơ cấu kinh tế, giải quyết việc làm cho lao động nông thôn. Thực trạng cho thấy hầu hết vốn đầu tư vào phát triển nông thôn là từ ngân sách nhà nước và vốn đầu tư nước ngoài. Nguồn vốn này chưa cho phép tăng nhịp độ phát triển, vì vậy mỗi vùng cần chủ động có các biện pháp huy động tạo thêm nguồn vốn để phát triển sản xuất, tạo việc làm, coi trọng nguồn vốn thu hút trong dân và nguồn vốn nước ngoài thông qua liên doanh, liên kết và thân nhân Việt Nam ở nước ngoài gửi về. Thông qua các chương trình phát triển kinh tế xã hội trên cơ sở tăng trưởng kinh tế năm 2005 so với năm 2000 bình quân tăng 6%-8%/ năm, tạo chỗ làm việc mới cho 40 vạn người/năm như: + Chương trình trồng 5 triệu ha rừng (kế hoạch 1999-2010), trong đó kế hoạch năm 1999 đầu tư 450 tỷ đồng từ ngân sách và huy động vốn tín dụng ưu đãi 1070 tỷ đồng để trồng 24 vạn ha rừng tập trung, có thể giải quyết việ làm cho 24 vạn lao động. + Chương trình xoá đói giảm nghèo tạo việc làm mới cho 20 vạn người/năm, vốn vay của ngân hàng phục vụ người nghèo là 3050 tỷ đồng. + Chương trình giải quyết việc làm của các hộ đoàn thể quần chúng giải quyết việc làm cho 13 vạn người/năm... Đối với một số địa phương có thuận lợi về giao thông, có lợi thế về truyền thống nghề nghiệp, nhà nước tạo điều kiện hỗ trợ về vốn cho người sản xuất ở đây, liên doanh liên kết với các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước dưới các hình thức: gia công sản phẩm, sản xuất sản phẩm khối lượng nhỏ đòi hỏi yêu cầu kĩ, mỹ thuật cao, gia công một số chi tiết sản phẩm. Tạo ra mô hình sản xuất mới phù hợp với tiềm năng tự nhiên của từng vùng, tạo ra cơ cấu sản xuất mới làm thay đổi cơ cấu lao động thông qua các hình thức: ã Hỗ trợ tích cực việc làm chuyển dịch sản xuất nông nghiệp độc canh sang sản xuất hàng hoá bằng biện pháp cho phép nông dân chuyển diện tích trồng lúa sang làm vườn hay trồng cây nông sản hỗn hợp, trồng cây công nghiệp, cây dược liệu nếu vùng đó có điều kiện về tự nhiên, về thị trường (đầu ra của sản xuất). ã Phát triển và đa dạng hóa dịch vụ nông thôn dưới nhiều hình thức và quy mô khác nhau phù hợp với yêu cầu sản xuất và đời sống trong khu vực ở mỗi giai đoạn phát triển. Những năm tới, yêu cầu cấp bách đối với các hoạt động dịch vụ ở nông thôn là phải đảm nhiệm vai trò cung ứng các yếu tố của sản xuất và gắn sản xuất với thị trường. Quan tâm đến những dịch vụ kết cấu hạ tầng như thuỷ lợi, giao thông vận tải, thông tin liên lạc nhằm vừa tạo ra năng lực sản xuất mới, vừa tăng nhanh khả năng tiếp thị. Các loại dịch vụ quan trọng như dịch vụ cung ứng vật tư kỹ thuật và công nghệ, từ giống, phân bón, thuốc trừ sâu đến công nghệ bảo quản sau thu hoạch, hệ thống kho tàng, bốc xếp chuyên chở, bao bì... Các dịch vụ tiếp thị và tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ tài chính, pháp lý hướng nghiệp, đào tạo dạy nghề cũng ngày càng cần thiết với nông dân và sẽ thu hút ngày càng nhiều lực lượng lao động có tri thức trong nông thôn. Tóm lại, việc giải phóng mạnh mẽ các yếu tố sản xuất, tạo điều kiện mở rộng sản xuất, tăng thu nhập dân cư, tăng sức mua của nông dân, mở rộng thị trường trong nước. Với số hệ và nhân khẩu ở nông thôn lớn như vậy, nếu tăng sức mua, tổ chức mạng lưới dịch vụ, chắc chắn đây sẽ là thị trường lớn của ngành sản xuất công nghiệp và dịch vụ. Hoàn thiện chính sách đất đai theo hướng khuyến khích nông dân đầu tư khai phá và sử dụng có hiệu quả ruộng đất, tạo việc làm có giá trị kinh tế cao trên một đơn vị diện tích đất canh tác. Cụ thể cần có chính sách từng bước thực hiện quá trình chuyển nhượng quyền sử dụng ruộng đất để phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hoá, thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế nông lâm, ngư nghiệp, tích tụ ruộng đất thông qua chuyển nhượng đúng pháp luật nhằm tập trung ruộng đất có điều kiện cho các hộ gia đình có khả năng phát triển ngành nghề phi nông nghiệp theo hướng người nào giỏi nghề gì làm việc đó. Thực hiện chính sách miễn giảm thuế đối với các doanh nghiệp, các hộ gia đình sản xuất tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn (lành nghề) mới ra đăng ký một số năm đầu thu hút thêm được lao động. Ngoài ra cần có chính sách khôi phục và phát triển nghề cổ truyền để khuyến khích mở mang ngành nghề và giải quyết việc làm. Đơn giản hoá việc cấp thủ tục giấy phép kinh doanh, thủ tục thành lập doanh nghiệp nhỏ dưới 10 lao động. Hình thành mạng lưới khuyến khích phát triển kinh tế: tư vấn về thị trường - giá cả - lĩnh vực sản xuất - kinh doanh, thủ tục thành lập doanh nghiệp, phổ biến kiến thức quản lý, chuyển giao công nghệ, thủ tục vay vốn... khuyến khích hành nghề và thuê mướn nhiều lao động. Có chính sách miễn giảm thuế cho các chủ doanh nghiệp ở nông thôn trực tiếp tham gia đào tạo nghề thu hút lao động nông thôn vào làm việc tại các doanh nghiệp. Có chính sách người giàu có ở thành thị về nông thôn thành lập doanh nghiệp nhằm khai thác các tiềm năng hiện có, nhất là khai thác các nguồn lao động dồi dào tại chỗ. Khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài liên doanh liên kết vào các tiểu vùng để trồng cây công nghiệp, lâm nghiệp, nuôi tôm cua... Hướng ưu tiên này là giảm thuế và giảm giá cho thuế đất đai so với đầu tư và các lĩnh vực khác để thu hút các nguồn vốn có thể cũng như các công nghệ tiên tiến. Trong đầu tư phát triển, phải tuân thủ các nguyên tắc đầu tư có trọng điểm, tập trung cho từng vùng, từng tỉnh, từng ngành, những hạng mục cơ bản, thiết yếu tạo nên sức bật cho sự phát triển của khu vực nông thôn. Ưu tiên đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng ở nông thôn trước hết là giao thông, điện, thuỷ lợi. Chú trọng trang bị lại thiết bị, máy móc hiện đại cho xí nghiệp công nghiệp thuộc lĩnh vực điện tử, cơ khí, chất xám, hàng tiêu dùng cao cấp ở nông thôn... Đầu tư nhanh phát triển giao thông đường thuỷ (sông, biển) lợi dụng các lợi thế có sẵn của vùng, cân đối với vận tải đường bộ theo hình thức quốc doanh, tập thể, cá thể với những loại tàu, thuyền vừa và nhỏ, tiến tới tổ chức các đội tàu biển đi dài ngày. Thiết lập hệ thống chuyển giao công nghệ, nhất là công nghệ sinh học vào các hộ gia đình để sản xuất các hàng nông sản gắn với xuất khẩu có giá trị kinh tế cao, tạo điều kiện phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hoa, chuyển dịch cơ cấu lao động nội bộ ngành nông nghiệp trên cơ sở tăng năng suất lao động và tạo nhiều việc làm mới có thu nhập cao. Sự phát triển chuyển giao công nghệ này tạo điều kiện cho các hộ trung bình trở thành hộ giàu, hộ giàu trở thành hộ giàu hơn và chính các hộ giàu là nhân tố tích cực tạo thêm việc làm cho lao động nông thôn và thành thị. Trung bình mỗi hộ giàu mỗi năm tạo thêm hai chỗ làm viêc cho lao động làm thuê và do đó số hộ giàu càng nhiều thì số lượng làm việc càng tăng thêm. Vì vậy, khuến khích làm giàu chính đáng cũng là giải pháp lâu dài để chuyển đổi cơ cấu và tạo việc làm, chống thất nghiệp, thiếu việc làm ở nông thôn. Như vậy, để đạt được mục tiêu đặt ra trước hết chúng ta phải làm tốt giải pháp tạo cơ sở và môi trường cần thiết cho quá trình chuyển dịch kinh tế, cơ cấu lao động, tạo thêm việc làm cho lao động nông thôn. Hay nói cách khác, đây là giải pháp vĩ mô mà nhà nước cần có chính sách giải quyết một cách kịp thời để tạo công ăn việc làm cho lao động nông thôn. 2. Giải pháp nâng cao chất lượng lao động nông thôn. Con người có ý nghĩa quyết định trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu kinh tế ở nông thôn nói riêng. Muốn phát huy nhân tố con ngưòi ở nông thôn phải chú trọng nâng cao chất lượng, lực lượng lao động về các mặt: thể lực, trí lực, truyền thông văn hoá... Thông qua mạng lưới giáo dục và đào tạo phổ thông song hành cùng giáo dục và đào tạo chuyên nghiệp. Mặt khác, quá trình Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn sẽ chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng giảm lao động nông nghiệp và tăng lao động ngoài nông nghiệp. Do đó, phải nâng cao chất lượng lao động nông thôn để đáp ứng các yêu cầu đó. Để nâng cao chất lượng lao động trước hết phải giảm tỷ lệ tăng tự nhiên của dân số. Muốn vậy, phải nâng cao trình độ học vấn cho lao động nông thôn, phải đẩy mạnh làm tốt hơn, sâu rộng hơn các hoạt động để nâng cao nhận thức và ý thức của người dân đối với công tác kế hoạch hoá gia đình. Rõ ràng chính sách về dân số phải đồng bộ, phù hợp với từng địa phương để khuyến khích người nông dân thực hiên tốt công tác này, đồng thời hạn chế và đi đến ngăn chặn trường hợp vi phạm. Thúc đẩy hoạt động nâng cao trình độ dân trí, trình độ văn hoá và nghiệp vụ cho người lao động, đặc biệt là lao động trực tiếp sản xuất nông nghiệp. Giải pháp này thể hiện ở các việc sau: ã Thực hiện việc dạy văn hoá một cách rộng rãi dưới nhiều hình thức khác nhau nhằm tạo điều kiện cho mọi người lao động có thể theo học văn hoá được. Đối với những học sinh là con em các hộ nông dân nghèo, con các đối tượng chính sách xã hội, nhà nước cần có sự hỗ trợ về tài chính như miễn học phí trong thời gian học PTCS, vận động sự giúp đỡ của cộng đồng, các tổ chức kinh tế trong vùng, trong nước và ngoài nước để tạo điều kiện về kinh phí học tập cho những học sinh này. ã Khuyến khích mọi cá nhân có trình độ, mọi cán bộ, giáo viên tham gia vào việc dạy văn hoá cho người lao động tại địa phương. Tuyên truyền sâu rộng trong nông thôn để mọi người dân nông thôn nhận thức được sự cần thiết phaỉ học văn hoá. Nhà nước cần dựa vào đặc điểm của từng Tỉnh và kế hoạch phát triển của từng địa phương để mở dạy nghề, truyền nghề, đáp ứng nhu cầu học nghề của lao động nông thôn tại địa phương. Nước ta đang trong giai đoạn đầu của thời kỳ Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước cũng như Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn cho nên đào tạo nghề cho lao động nông thôn nhằm nâng cao chất lượng người lao động làm mục tiêu, nhiệm vụ rất quan trọng của việc chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông thôn. Để làm tốt công tác dạy nghề nhằm nâng cao chất lượng nguồn lao động cần thực hiện các giải pháp sau: Một là, cần ưu tiên đẩy mạnh quy mô và tốc độ dạy nghề cho lao động nông thôn, mà trước hết là cho số lao động trẻ, để thúc đẩy nhanh hơn nữa quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế tại đây. Mặt khác, để nâng cao hiệu quả dạy nghề, kế hoạch đào tạo nghề cần xuất phát từ chiến lược dạy nghề của địa phương, nhằm phát huy truyền thống và thế mạnh của từng vùng. Hai là cần ưu tiên dành tỷ lệ thích đáng về ngân sách để chi cho dạy nghề ở nông thôn. Đây là một yêu cầu cấp bách do từ nhiều năm nay, chung ta chưa có chính sách đào tạo nghề tương xứng với tiềm năng lao động to lớn của khu vực này. Chính vì vậy, cơ sở vật chất giành cho dạy nghề như: hệ thống trường lớp, đội ngũ giáo viên, tài liệu học tập ở đây chưa được quan tâm thoả đáng. Việc dạy nghề và học nghề chủ yếu theo phương pháp truyền nghề, dạy nghề tại hộ gia đình hoặc trong các cơ sở sản xuât, nên chất lượng đào tạo chưa cao và chưa gắn việc đào tạo với định hướng chiến lược ngành nghề cuả đìa phương. Ba là, đa dạng hoá các hình thức dạy nghề với từng loại hình sản xuất thích hợp. Khuyến khích các loại hình mở rộng, đào tạo nghề tới các địa phương có nhu cầu đào tạo nghề. Kết hợp các hình thức và phương thức đào tạo theo các lớp tại các trung tâm, tại trường... Với các hình thức đào tạo di động tới tận các làng xã có nhu cầu đào tạo nghề. Khuyến khích hình thức đào tạo nghề từ xa. Nhà nước cần đầu tư hỗ trợ xây dựng mới hay nâng cấp một số trung tâm dạy nghề ở các tỉnh, thành phố, thị xã để các trung tâm này có thể đảm nhận các chức năng dạy nghề cho lao động của các quận huyện trong vùng. Bốn là, cần có cơ chế và chính sách thoả đang với các giáo viên, lao động có tay nghề và tận tâm với việc truyền nghề. Hiện nay, ngoài các danh hiệu nghề nghiệp như: nghệ nhân, lao động giỏi... Nhà nước cần có chính sách khuyến khích giáo viên, lao động giỏi về nông thôn dạy nghề. Năm là, để việc dạy nghề phát huy được tác dụng thúc đẩy nhanh hơn nữa quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá trong nông nghiệp nông thôn, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ về: vốn, kỹ thật, nhất là trong việc tiêu thụ sản phẩm để các cơ sở sản xuất ở đây không chỉ trụ vững được trong cơ chế thị trường, mà còn có thể vươn lên phát triển được quy mô sản xuất, thu hút thêm được lao động. Sáu là, song song với việc phát triển quy mô đào tạo, Nhà nước cũng cần tăng cường công tác quản lý của mình nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo nghề cho người lao động nông thôn, nhằm hỗ trợ và mở rộng hệ thống đào tạo nghề nghiệp tới các cụm dân cư, các địa phương có tiềm năng phát triển nhanh và từng bước đưa việc dạy nghề ở khu vực này vào nề nếp. Khuyến khích các trường, các cơ quan khoa học, trung tâm và cơ sở dạy nghề của Nhà nước biên soạn giáo trình dạy nghề đáp ứng nhu cầu phát triển dạy nghề ở nông thôn đặc biệt là các nghề truyền thống, các nghề mới do áp dụng tiên tiến, các nội dung quản trị kinh doanh, nhằm thông nhất những nội dung cơ bản đối với giáo trình dạy nghề, nâng cao chất lượng trang thiết bị phục vụ cho dạy và truyền nghề, nhằm định hướng việc thu kinh phí học nghề của người lao động nhằm đảm bảo lợi ích của cả người dạy nghề và người học nghề. Để nâng cao chất lượng lao động ở nông thôn về sức khoẻ, thể lực, Nhà nước cần có biện pháp nhằm nâng cao thu nhập, mức sống của cư dân nông thôn qua các chương trình, dự án và chính sách xoá đói giảm nghèo: hỗ trợ vốn cho người nghèo, đào tạo nghề cho người nghèo, hỗ trợ ruộng đất cho người nghèo đồng thời có chế độ ưu đãi về thuế và các khoản đóng góp.... Để đảm bảo sự nghiệp Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn không thể lơ là việc tăng cường không ngừng chất lượng lao động trong nông nghiệp - tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn. Trong quá trình khôi phục các ngành nghề truyền thống và mở rộng các ngành nghề hiện đại cần liên tục đào tạo tay nghề cho lực lượng lao động, tăng nhanh lực lượng lao động tay nghề giỏi, có trình độ nắm bắt công nghệ tiên tiến. Sự phát triển chất lượng của nguồn lao động trong ngành này quyết định quá trình chuyển sang Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá nông thôn nhanh hay chậm. Vì thế , nguồn lao động trong ngành này cần có sự hỗ trợ thường xuyên cả về tinh thần lẫn vật chất để liên tục được đào tạo và đào tạo lại các cơ sở sản xuất, xây dựng dù tư doanh hay quốc doanh cần bố trí cho họ thời gian thích đáng để rèn luyện vươn lên có tay nghề cao hơn. Với mong muốn là cơ cấu lao động nông thôn trong tương lai sẽ có tỷ lệ cao giữa các nhóm ngành ngày càng hợp lý hơn vì số lao động cần phải đào tạo riêng tay nghề tiểu thủ công nghiệp và công nghiệp ở nông thôn sẽ phải tăng dần hàng năm. 3. Giải pháp về tài chính để giải quyết việc làm cho lao động nông thôn Nhà nước cần tăng cường nguồn vốn cho vay thông qua hệ thống tín dụng ngân hàng với lãi suất và thời hạn phù hợp với thực tế, tăng mức cho vay trung hạn và giảm bớt các thủ tục phiền hà. Khuyến khích các hộ và người lao động vay vốn để mở nghề mới, phát triển kinh tế VAC, kinh tế trang trại và hình thành các tổ hợp doanh nghiệp vừa và nhỏ. Mặt khác, trên cơ sở các chương trình quốc gia về hỗ trợ việc làm, xoá đói giảm nghèo, phòng chống thiên tai và các tệ nạn xã hội... để phối hợp hình thành và từng bước mở rộng hệ thống quỹ an ninh xã hội, hoạt động theo cơ chế và hệ thống tổ chức dân sự mang tính xã hội, cộng đồng. Phương thức hoạt động chủ yếu của hệ thống quỹ này là huy động các nguồn tài chính tự nguyện trong dân cư và các tổ chức kinh tế - xã hội đẻ trợ giúp, tài trợ trực tiếp, cho vay không lấy lãi hoặc lãi suất thấp đốivới người lao động và các nhóm xã hội thực sự khó khăn trong việc tiếp cận, tạo lập và tìm kiếm việc làm, thu nhập. Nhà nước cần hoàn thiện thủ tục, cơ chế cho vay vốn cũng như các đối tượng và thời hạn cho vay theo từng hoạt động sản xuất kinh doanh một cách hợp lý. Tránh tình trạng sử dụng vốn không đúng mục đích, cho vay không đúng đối tượng dẫn đến thất thoát vốn hoặc vốn vay không hiệu quả. 4. Giải pháp phát triển các nghành nghề ngoài nông nghiệp ở nông thôn nhằm tạo thêm việc làm cho lao động nông thôn Các ngành nghề ngoài nông nghiệp có thể bao gồm: công nghiệp chế biến nông sản; dệt, may, thêu ren; thủ công mỹ nghệ (kim hoàn, đồ gỗ cao cấp, trạm khắc gỗ, khảm trai, sơn mài, trạm khắc đá, gốm sứ mỹ nghệ, đan lát mây tre,...); làm chiếu, làm giấy...; xây dựng, sản xuất vật liệu xây dựng, cơ khí; dịch vụ khoa học kỹ thuật (tín dụng, thông tin, dịch vụ cung ứng vật tư thiết bị và nguyên liệu cho sản xuất...). Trong đó đặc biệt coi trọng đến việc phát triển các ngành nghề thủ công truyền thống gắn liền vơí việc hình thành và phát triển các làng nghề. Việc phát triển các ngành nghề ngoài nông nghiệp không những tạo thêm việc làm mới cho lao động nông thôn mà còn góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, lao động ở nông thôn nói riêng và cơ cấu kinh tế, lao động cả nước nói chung. Qua đó sẽ tăng tỷ trong ngành công nghiệp và dịch vụ, đồng thời giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp ở nông thôn đáp ứng yêu cầu của thời kỳ Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn cũng như Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước. Để với phát triển làng nghề truyền thống, cần thực hiện các giả pháp cơ bản sau: Một là chu động xây dựng mô hình tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh có hiệu quả ở các làng nghề: mô hình tổ chức sản xuấ kinh doanh phổ biến hiện nay ở các làng nghề là hộ gia đình. Sau một số năm hoạt động trong cơ chế thi trường, một số hộ gia đình giỏi đã vươn lên, mở rộng sản xuất, thuê mướn thêm nhân công, vay vốn ngân hàng, thành lập công ty TNHH. Nhà nước nên giúp đỡ, hỗ trợ tiếp tục phát triển và từ hoạt động của họ rút kinh nghiệm để nhân rộng thêm. Hai là tăng cườngv ai trò tổ chức quản lý của Nhà nước để thúc đẩy sự phát triển của làng nghề truyền thống: Nhà nước cần có một tổ chức vừa làm nhiệm vụ nghiên cứu, đào tạo, cung cấp thông tin vừa làm tham mưu các chính sách cho Nhà nước. Nhà nước cần có một loạt các chính sách giúp đỡ các làng nghề như: chính sách về vốn; chính sách giúp đỡ về nghuyên liệu; chính sách về khoa học và công nghệ; chính sách thuế; chính sách huy động đóng góp để xây dựng cơ sở hạ tầng tại chỗ và xử lý ô nhiễm môi trường; chính sách xuất khẩu hàng hoá đặc chủng; chính sách bảo hiểm, chính sách đối với các nghệ nhân; chính sách thuê mướn lao động... Nhà nước thông qua chính quyền và các đoàn thể địa phương có những biện pháp thúc đẩy, giúp đỡ hoạt động của làng nghề, quy hoạch địa bàn; giải quyết cân đối vấn đề kinh tế và xã hội nảy sinh do hoạt động ngành nghề tạo ra. Ba là tìm mọi cách mở rộng thị trường tiêu thụ hàng thủ công truyền thống. Tóm lại, bước vào thời kì mới, phát triển nông thôn lại đặt ra yêu cầu mới, trên tầm vĩ mô cần có chủ trương tổng kết xây dựng một hệ thống chính sách phù hợp nhằm phát triển mạnh các hoạt động xây dựng, công nghiệp, ngành nghề thủ công, dịch vụ gồm: cụ htể hoá luật đất đai năm 1993 nhằm mở đường rút bớt lao động ra khỏi hoạt động nông nghiệp như chuyẻen quyền sử dụng đất, chuyển đất cho phát triển công nghiệp và dịch vụ. Chính sách về hộ khẩu, về vốn, về thuế và công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực và chính sách về thị trường. Làm được như vậy sẽ góp phần tạo ra động lực thúc đẩy nông thôn phát triển. Một khi các ngành nghề ngoài nông nghiệp phát triển sẽ xuất hiện nhiều tụ điểm kinh tế, hình thành thị trường lao động tạo ra ưu thế sản xuất hàng hoá quy mô lớn . Đến lúc đó kinh tế nông thôn sẽ liên kết với các thị trấn, thị xã, thành phố, hình thành cụm công nghiệp với quy mô lớn. Vậy công nghiệp, dịch vụ nông thôn mới có điều kiện đưa công nghệ mới phục vụ quá trình đa dạng hoá sản xuất ở nông thôn, thực hiện Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá nông thôn. 5. Giải pháp khai thác tiềm năng thế mạnh của vùng nhằm giải quyết việc làm cho lao động nông thôn Khai thác các thế mạnh và tiềm năng của đất nước, đem lại lợi ích kinh tế nhanh như: khai thác và chế biến dầu khí, khai thác mỏ, khai thác và chế biến hải sản, nông sản. Các hình thức khai thác này thông qua liên doanh với các công ty của các nước công nghiệp phát triển. Khai thác triệt để nguồn lao động dồi dào nhờ mở rộng kinh tế đại chúng và phát triển các dự án đầu tư thông qua biện pháp thích hợp như tăng cường hoạt động của các trung tâm xúc tiến việc làm, các trung tâm hướng nghiệp. Nhờ đó tăng cường khả năng chuyển đổi cơ cấu lao động, cơ cấu sản xuất nông nghiệp của khu vực nông thôn. Để khai thác được tiềm năng thế mạnh của vùng nhằm tạo công ăn việc làm cho lao động nông thôn, trước hết chúng ta phải đẩy nhanh quá trình đô thị hoá nông thôn và phát triển các trung tâm công nghiệp, chế xuất và dịch vụ ở nông thôn. Tăng cường các mối liên hệ mật thiết của các trung tâm này với các trung tâm của trung ương, tăng cường liên doanh với nước ngoài. Giải pháp này có tác dụng nhiều mặt đối với quá trình đổi mới cơ cấu lao động nông thôn. Một mặt chuyển họ từ lao động nông nghiệp sang phi nông nghiệp tạo điều kiện và môi trường cho các hoạt động ngành nghề dịch vụ nông thôn phát triển, tạo thị trường mới tiêu thụ nông sản phẩm cho nông nghiệp. Mặt khác các thị trấn, thị xã đóng vai trò là trunmg tâm kinh tế văn hoá, xã hội của mỗi vùng sau này là động lực thúc đẩy mạnh mẽ thêm quá trình đổi mới cơ cấu loa động nông thôn tạo công ăn việc làm. Cần ưu tiên cho sự phát triển toàn diện nông - lâm - ngư nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá, hướng đầu tư phát triển vào các cây trông, vật nuôi đem lại giá trị kinh tế cao, có khả năng xuất khẩu nhằm khai thác có hiệu quả tiềm năng thế mạnh của vùng, tận dụng đất trống đồi trọc, mặt nước, đồi gò để phát triển kinh tế tạo việc làm cho lạo động.Có thể thực hiện các giải phát sau: * Chuyển dịch cơ cấu mùa vụ, cơ cấu giống, tăng vụ, tăng vòng quay của đất nhất là vùng nông nghiệp ven đô, ven các trục giao thông vùng có ruộng đất thấp. * Chuyển dịch cơ cấu, chủng loại cây trồng trên đất bãi, đất trũng, úng ngập, trồng lúa chi phí lớn hiệu quả mạng lại thấp sang cơ cấu nông nghiệp mới, cây ăn quả, rau xang, nuôi trồng thuỷ sản. * Cải tạo vường tạp, ao hoa, chuồng trại, làm vườn thâm cnah, nuôi trồng thuỷ sản, chăn nuôi các loại gia súc, hình thành cơ cấu VAC, hệ sinh thái VAC, hệ cảnh quan nông thôn. Mặc dù, đất vườn ít, nhưng với cơ cấu kinh tế hợp lý sẽ làm cho thu hập của nông dân cao lên tạo thêm nhiều việc làm. * Thực hiện nông lâm kết hợp, chuyển đổi lâm nghiệp quốc doanh sang lâm nghiệp xã hội, bố trí cơ cấu hợp lý, rừng, cây ăn quả, cây công nghiệp, chăn nuôi và nuôi trồng thủ sản. Đó là giải pháp hạn chế phá rừng, phát triển kinh tế xã hội miền núi. * Hình thành các vùng cây công nghiệp tập trung gắn nông nghiệp với công nghiệp chế biến, tín dụng và dịch vụ, hình thành cơ cấu kinh tế mới ở các vùng trung du miền núi, đưa nông nghiệp đi vào sản xuất hàng hoá, hoạt động theo cơ chế thị trường như Hiệp hội mía đường Lam Sơn là một minh chứng. * Chuyển chăn nuôi gia súc, nuôi trồng thuỷ sản theo kiểu tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hóa quy mô nhỏ, với nhiều chủng loại phong phú: Nuôi lợn thịt, bò thịt, bò sửa, dê sửa, cá nước ngọt cá nước lợ... đây là một giải pháp mà nó mang tính tương thích cao đối với điều kiện nông thôn hiện nay và khả năng là có thể áp dụng thực hiện được. Là một xu thế phát triển hợp tính quy luật tạo thêm nhiều việc làm cho lao động nông thôn, khai thác hiệu quả tiềm năng thế mạnh của từng vùng, sử dụng và khia thác triệt để đất trống đồi trọc, lợi thế về mặt nước... nhằm phát triển kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hoá. Lựa chọn đúng những sản phẩm có ưu thế của nông nghiệp nước ta để tập trung đầu tư thích đáng cả về ứng dụng tiến bộ khoa học học và công nghệ chế biến, tạo cho một số mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực được chế biến có chất lượng cao, có sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Nghiên cứu khẩn trương thị trường nông sản thực phẩm sạch đang tăng nhanh trên thế giới, trước hết là những nước phát triển kể cả gạo, thịt, chè, càfê rau quả mà ta có ưu thế cả về lao động cũng như điều kiện tự nhiên ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docN0102.doc
Tài liệu liên quan