Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng hộ sản xuất tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Tây

Lời nói đầu Nền kinh tế nước ta đã có những chuyển biến sâu sắc, căn bản và toàn diện sau khi thực hiện công cuộc chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường. Với sự khuyến khích phát triển mọi thành phần kinh tế của Đảng và Nhà nước đã tạo động lực lớn cho sự phát triển kinh tế xã hội. Cùng với sự ra đời và phát triển của nhiều loại hình kinh tế khác, lúc này kinh tế hộ sản xuất mới thực sự khẳng định được mình. Sự phát triển của kinh tế hộ sản xuất đã man

doc70 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1193 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng hộ sản xuất tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Tây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g lại những kết quả to lớn cho nền kinh tế nói chung và lĩnh vực nông nghiệp nông thôn nói riêng. Một thành tựu quan trọng phải kể đến là từ một nước phải nhập khẩu lương thực, giờ đây Việt Nam đã trở thành một trong ba nước có sản lượng gạo xuất khẩu lớn nhất thế giới. Trong tình hình thực tế hiện nay, hộ sản xuất là đơn vị kinh tế chủ yếu cung cấp các sản phẩm tiêu dùng cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Do đó phát triển kinh tế hộ sản xuất là yêu cầu cần thiết trong giai đoạn phát triển kinh tế trước mắt và trong tương lai. Một trong những yếu tố quan trọng cần thiết cho quá trình phát triển kinh tế hộ sản xuất là sự trợ giúp về vốn của các ngân hàng thương mại. Với tư cách là người bạn đồng hành của nông nghiệp và nông thôn, trong những năm qua, NHNo & PTNT Việt Nam với các chi nhánh của mình đã và đang là kênh chuyển tải vốn chủ yếu đến hộ sản xuất, góp phần tạo công ăn việc làm giúp nông dân làm giàu chính đáng bằng sức lao động của mình. Tuy nhiên do tính chất phức tạp của hoạt động này, món vay nhỏ lẻ, chi phí nghiệp vụ cao, địa bàn hoạt động rộng nên việc cho vay hộ sản xuất gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, thực tế hiện nay nhiều chi nhánh NHNo gặp khó khăn trong hoạt động tín dụng đối với loại hình này, chất lượng tín dụng còn nhiều vấn đề chưa tốt. NHNo&PTNT Hà Tây cũng không tránh được khó khăn này khi mà khách hàng có quan hệ với Ngân hàng đa số là hộ nông dân (chiếm tỷ lệ 71% trong tổng dư nợ). Chính vì lý do này cộng với những kiến thức đã học và qua thời gian thực tập NHNo & PTNT Hà Tây, em đã chọn chuyên đề "Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng hộ sản xuất tại NHNo & PTNT Hà tây" với mong muốn tìm hiểu và đóng góp một vài ý kiến về vấn đề này. Chuyên đề được nghiên cứu theo phương pháp thống kê, so sánh, phân tích tổng hợp với suy luận phù hợp đặc điểm thực tiễn để có những kết luận hữu ích. Ngoài lời nói đầu và kết luận, chuyên đề bao gồm 3 chương: Chương I : Các vấn đề cơ bản về Tín dụng ngân hàng đối với Hộ sản xuất Chương II: Thực trạng hoạt động tín dụng đối với hộ sản xuất tại NHNo&PTNT Hà tây từ năm 2000 đến2002. Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng đối với hộ sản xuất tại NHNo & PTNT Hà tây. Do thời gian có hạn, trình độ và kiến thức còn hạn chế, chuyên đề sẽ không tránh khỏi thiếu sót. Em rất mong muốn nhận được những ý kiến đóng góp nhằm giúp em hiểu rõ hơn về vấn đề này. Em xin chân thành cảm ơn cô giáo TS. Phan Thu Hà và các thầy cô giáo trong khoa Ngân hàng - Tài chính cùng các cán bộ ở NHNo & PTNT Hà tây đã giúp em hoàn thành chuyên đề này. Chương I:Các vấn đề cơ bản về Tín dụng ngân hàng đối với Hộ sản xuất I-Khái niệm, đặc điểm và phân loại tín dụng ngân hàng: 1-Khái niệm Tín dụng đã xuất hiện ngay từ thời kỳ phong kiến, tự cấp tự túc. Khi đó, trong nền kinh tế đã có sự phân chia của cải. Phần lớn tư liệu sản xuất nằm trong tay một số ít địa chủ. Nông dân chiếm đại đa số những không có tư liệu sản xuất họ phải làm thuê mà vẫn không đủ ăn. Để duy trì cuộc sống, họ phải đi vay. Giai cấp thống trị nắm trong tay tư liệu sản xuất đã thực hiện quá trình sản xuất và phát triển theo hướng có lợi cho họ, đó là cho nông dân vay nặng lãi. Lãi suất cho vay lên tới 200-300% năm và lãi suất này đã chiếm toàn bộ phần thặng dư. Tín dụng ra đời, thời kỳ này lãi suất cao do sản xuất hàng hoá chưa phát triển, Nhà nước chưa có sự điều tiết đối với quan hệ tín dụng nên người cho vay tự ấn định mức lãi suất. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất trong nền kinh tế thị trường đã hình thành và phát triển nhiều loại hình sở hữu, có sự phân công lao động, tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh. Luôn luôn tồn tại một thực tế là ở bất kỳ một thời điểm nào trong nền kinh tế cũng xảy ra hiện tượng thừa vốn hay thiếu vốn tạm thời do tính chất mùa vụ, chu kỳ kinh doanh. Người thiếu vốn cần vay để giải quyết nhu cầu, người thừa vốn lại muốn cho vay ra để tăng thêm lợi nhuận. Đây chính là tiền đề tạo ra quan hệ tín dụng. Vậy tín dụng là gì? Có quan niệm cho rằng, “tín dụng là một quan hệ giao dịch giữa hai chủ thể, trong đó một bên chuyển giao tiền hoặc tài sản cho bên kia được sử dụng trong một thời gian nhất định, đồng thời bên nhận tiền hoặc tài sản cam kết hoàn trả theo thời hạn đã thoả thuận”. Tuy nhiên, sự phát triển0 và biến đổi là hết sức đa dạng và phong phú. Trong nền kinh tế thị trường hiện đại ngày nay, có rất nhiều cách thức loại hình của nghiệp vụ tín dụng. Việc đưa ra một khái niệm như thế sẽ là gò bó và không linh hoạt. Vì vậy khái niệm tín dụng chỉ nên đưa ra một cách đơn giản như sau: “Tín dụng là quan hệ vay mượn, sử dụng vốn của nhau một cách tạm thời dựa trên nguyên tắc có hoàn trả và sự tin tưởng”. Từ khái niệm trên, ta có thể hiểu tín dụng theo một số khía cạnh như sau: Thứ nhất, quan hệ tín dụng là quan hệ vay mượn và sử dụng vốn của nhau giữa các chủ thể kinh tế. Vốn ở đây được hiểu theo nghĩa rất rộng trong đó bao hàm cả tiền và tài sản. Các chủ thể có thể là hai hoặc nhiều bên cùng tham gia vào hoạt động tín dụng - điều này giải thích khái niệm đồng tài trợ. Thứ hai, vốn này chỉ được sử dụng một cách tạm thời nghĩa là có thời hạn. Thời hạn ngắn hay dài tuỳ thuộc vào sự thoả thuận của các bên. Và khi hết thời hạn này vốn phải được hoàn trả chủ sở hữu hoặc người cho vay. Thứ ba, quan hệ tín dụng phải được dựa trên sự tin tưởng. Trên cơ sở có sự tin tưởng mà một bên sẽ đồng ý cho bên kia sử dụng vốn của mình trong một thời gian thoả thuận. Trường hợp cho vay không cần bảo đảm chính là đã được dựa trên sự tin tưởng lẫn nhau. Nếu như bên cho vay không tin tưởng bên đi vay thì họ sẽ yêu cầu đảm bảo bằng tài sản có giá trị tương đương - đây là trường hợp cầm cố thế chấp bảo lãnh. Trong quan hệ tín dụng có nhiều loại hình, chủ thể tham gia như: Nhà nước, ngân hàng, doanh nghiệp, cá nhân người tiêu dùng và với mỗi loại chủ thể có thể phát sinh nhiều loại quan hệ tín dụng khácn hau như tín dụng Nhà nước, tín dụng thương mại, tín dụng hợp tác xã, tín dụng tiêu dùng, tín dụng thuê bao. Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng mà chủ thể tham gia gồm một bên là ngân hàng và một bên là phần còn lại của nền kinh tế - gồm tất cả các tổ chức kinh tế xã hội, Nhà nước, cá nhân dân cư. Các tổ chức ngân hàng tham gia vào quan hệ tín dụng với hai tư cách: ngân hàng đóng vai trò là người đi vay khi nó nhận tiền gửi của khách hàng, phát hành trái phiếu để vay vốn trong xã hội, vay vốn ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng khác; ngân hàng đóng vai trò là người cho vay khi nó ứng vốn ra nền kinh tế.Về tính chất phức tạp của hoạt động cho vay nên khi nói đến tín dụng người ta thường đề cập đến cho vay mà ít khi đề cập đến mặt thứ hai đó là đi vay. Trên cơ sở khái niệm tín dụng trên đây, vậy thì một khoản như thế nào được coi là có hay không đạt được chất lượng tín dụng? Chất lượng tín dụng được hiểu theo đúng nghĩa là vốn cho vay của ngân hàng được khách hàng sử dụng vào quá trình sản xuất kinh doanh, dịch vụ,... để tạo ra một số tiền lớn hơn vừa để hoàn trả ngân hàng gốc và lãi, trang trải chi phí và có lợi nhuận. Như vậy, qua một quá trình chu chuyển vốn T-H-T’ như trên, ngân hàng sẽ thu hồi vốn gốc và có lãi, còn khách hàng sử dụng vốn có hiệu quả Xét về tổng thể ngân hàng vừa tạo ra được hiệu quả kinh tế, vừa tạo ra được hiệu quả xã hội. Trên cơ sở đó, khi cho vay, ngân hàng phải tính toán cân nhắc để vừa đảm bảo không vi phạm luật, vừa giải quyết được đầu ra. Để thực hiện được điều này các ngân hàng phải nghiên cứu kỹ về tình hình sản xuất kinh doanh, khả năng tài chính, mục đích sử dụng vốn của khách hàng. Đây chính là các cơ sở chủ yếu cho việc đảm bảo chất lượng tín dụng. Như vậy chất lượng được hình thành và đảm bảo từ hai phía: ngân hàng và khách hàng. Và như thế, hoạt động tín dụng sẽ mang lại hiệu quả khi mà nó càng ngày càng thực hiện được nhiềm món vay có chất lượng cao, góp phần tích cực cho sự phát triển không chỉ riêng cho bản thân ngân hàng mà là cả sự phát triển của nền kinh tế xã hội. Hiệu quả hoạt động tín dụng ngày càng cao thể hiện mức độ đóng góp của hoạt động ngân hàng đối với xã hội ngày càng lớn. Điều đó cũng có nghĩa hoạt động tín dụng hiệu quả khi nó đạt được sự tăng trưởng quy mô và nằm trong tầm quản lý của ngân hàng để giữ ổn định chất lượng tín dụng. Trong cơ chế thị trường hiệu quả hoạt động tín dụng là điều kiện tiên quyết cho sự tồn tại và phát triển của ngành ngân hàng mà trước hết là các tổ chức tín dụng là nơi trực tiếp kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ. 2-Phân loại tín dụng: Tín dụng cho vay tồn tại dưới rất nhiều hình thức, nhiều tên gọi. Tuy nhiên, căn cứ vào một số các tiêu thức mà người ta có thể phân loại các loại hình như sau: a- Phân loại theo mục đích: - Cho vay bất động sản là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây dựng bất động sản, nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực công nghiệp thương mại và dịch vụ. - Cho vay công nghiệp và thương mại là cho vay ngắn hạn để bổ xung vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực này. - Cho vay nông nghiệp là loại cho vay để trang trải các chi phí sản xuất như phân bón, thuốc trừ sâu, giốgn cây trồng, lao động,... - Cho vay cá nhân là loại cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng như mua sắm các vật dụng đắt tiền. Ngày nay ngân hàng còn cho vay để trang trải các khoản chi phí thông thường của đời sống thông dụng dưới tên gọi là tín dụng tiêu dùng và phát hành thẻ tín dụng là một ví dụ. - Thuê mua và các loại tín dụng khác. b. Phân loại theo thời hạn: Theo cách này tín dụng cho vay phân làm ba loại. - Cho vay ngắn hạn: Loại cho vay này có thời hạn dưới 12 tháng và được dùng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn. Đối với ngân hàng thương mại, tín dụng ngắn hạn chiếm tỷ trọng cao nhất. - Cho vay trung hạn: Thời hạn cho vay trung hạn thường là cố định. Trước đây theo thời hạn của Ngân hàng Nhà nước thì thời hạn cho vay trung hạn là 1-3 năm. Tuy nhiên cho đến nay, để đảm bảo đáp ứng nhu cầu vay của các doanh nghiệp, các ngân hàng thương mại đã đưa thời hạn cuối cùng của vay trung hạn lên 5 năm giải quyết được hai vấn đề. Thứ nhất là đáp ứng tốt hơn nhu cầu của doanh nghiệp bởi lẽ đối với, một số tài sản nhất định thời hạn sử dụng của chúng tương đối dài nên cần phải có thời gian đủ lớn doanh nghiệp mới có thể hoàn trả gốc và lãi cho ngân hàng. Thứ hai là tránh tình trạng tiền cho vay của ngân hàng bị chuyển vào nợ quá hạn chỉ vì thể chế và quy định gây ra, trong khi doanh nghiệp vẫn làm ăn có lãi và có đầy đủ khả năng trả nợ. Còn đối với các nước trên thế giới, loại cho vay này có thời hạn lên tới 7 năm. Tín dụng trung hạn chủ yếu được sử dụng để mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng kinh doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô vừa và nhỏ phục vụ đời sống, sản xuất.... Trong nông nghiệp, cho vay trung hạn chủ yếu để đầu tư vào các đối tượng như máy cày, máy bơm nước, xây dựng các vườn cây công nghiệp như cà phê, điều... - Cho vay dài hạn là loại cho vay mà thời hạn của nó là dài hơn đối với cho vay trung hạn. Loại hình tín dụng này được cung cấp để đáp ứng nhu cầu dài hạn như xây dựng nhà ở, các thiết bị, các phương tiện vận tải có quy mô lớn xây dựng xí nghiệp nhà máy mới, các dự án đầu tư phát triển như cơ sở hạ tầng. - Nghiệp vụ cho vay truyền thống của các ngân hàng thương mại là cho vay ngắn hạn nhưng từ những năm 70 trở lại đây các ngân hàng đã chuyển sang kinh doanh tổng hợp và một trong những nội dung đổi mới đó là nâng cao tỷ trọng cho vay trung và dài hạn trong tổng dư nợ ngân hàng. c. Phân loại theo căn cứ đảm bảo. - Cho vay không bảo đảm là loại cho vay không cần tài sản thế chấp, cầm cố hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba. Việc cho vay chỉ dựa trên uy tín. Đối vói những khách hàng tốt, trung thực trong kinh doanh, có khả năng tài chính mạnh, quản trị có hiệu quả thì ngân hàng có thể cấp tín dụng mà không đòi hỏi nguồn thu nợ bổ xung. - Cho vay có bảo đảm là loại cho vay được ngân hàng cung cấp với điều kiện phải có tài sản thế chấp hoặc cần có bảo lãnh của bên thứ ba. Đối với khách hàng không có uy tín cao đối với ngân hàng, khi vay vốn đòi hỏi phải có bảo đảm. Sự bảo đảm này căn cứ pháp lý để ngân hàng có thêm một nguồn thứ hai, bổ xung cho nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc chắn nhằm bù lại khoản tiền vay trong trường hợp người vay không có khả năng trả nợ. d. Phân loại theo phương thức hoàn trả tiền vay. Theo cách này thì khoản cho vay có thể được hoàn trả theo các cách sau: +Tín dụng trả góp: Là loại tín dụng mà khách hàng phải hoàn trả vốn gốc và lãi theo định kỳ ( khoản tiền vay sẽ được trả làm nhiều lần theo nhiều kì nợ). +Tín dụng phi trả góp: Là loại tín dụng được thanh toán một lần theo kỳ hạn thoả thuận( Trả một lần cả vốn gốc và lãi khi đến hạn). +Tín dụng hoàn trả theo yêu cầu: Là loại tín dụng mà người vay có thể hoàn trả bất cứ lúc nào khi có thu nhập. Cách thứ nhất là trả một lần cả vốn gốc và lãi khi đến hạn. Hai là khoản tiền vay sẽ được trả làm nhiều lần theo nhiều kỳ nợ. ở Việt Nam, nếu doanh nghiệp không trả nợ vào lần sau hoặc lần sau nữa. Trong khi đó ở các nước khác nếu ngay từ lần trả đầu tiên mà không trả được nợ thì bị coi là nợ quá hạn để có biện pháp giải quyết. e. Phân loại theo xuất xứ vốn vay. Có loại do ngân hàng trực tiếp cho vay, có loại cho vay gián tiếp tức là ngân hàng mua lại nợ từ chủ nợ khác. f. Phân loại theo hình thức giá tự có . Một là cho vay bằng tiền, đây là loại cho vay chủ yếu của các ngân hàng được thực hiện bằng các kỹ thuật khác nhau. Hai là cho vay bằng tài sản - loại này được áp dụng phổ biến dưới hình thức tài trợ thuê mua. 3- Chức năng và vai trò của tín dụng ngân hàng. a.Chức năng của tín dụng ngân hàng: *Chức năng tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ. Thực hiện chức năng này tín dụng thu hút đại bộ phận tiền tệ nhàn rỗi trong nền kinh tế và phân phối lại vốn đó dưới hình thức cho vay để bổ xung vốn cho các doanh nghiệp, cá nhân có nhu cầu về vốn nhằm đầu tư cho sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng. Hiện nay vốn tín dụng là một bộ phận quan trọng trong toàn bộ vốn lưu động và vốn cố định của doanh nghiệp.Trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế, tín dụng ngân hàng là hình thức phân phối vốn gián tiếp. *Chức năng tiết kiệm tiền mặt. Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động tín dụng ngày càng được mở rộng và phát triển đa dạng. Từ đó, nó thúc đẩy việc mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt và thanh toán bù trừ giữa các đơn vị kinh tế. Điều này sẽ làm giảm chi phí lưu thông giấy bạc ngân hàng, đồng thời cho phép Nhà nước điều tiết một cách linh hoạt khối lượng tiền tệ nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu tiền tệ cho sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển . *Chức năng phản ánh tổng hợp và kiểm soát quá trình hoạt động của nền kinh tế. Trong việc thực hiện chức năng tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ, tín dụng có khả năng phản ánh một cách tổng hợp nhạy bén tình hình hoạt động của nền kinh tế.Do đó tín dụng còn là một công cụ quan trọngcủa Nhà nước để kiểm soát, thúc đẩy quá trình thực hiện các chiến lược hoạch định, phát triển kinh tế. Mặt khác, trong khi thực hiện chức năng tiết kiệm tiền mặt,gắn liền với việc phát triển thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế, tín dụng có thể phản ánh và kiểm soát quá trình phân phối sản phẩm quốc dân trong nền kinh tế. b. Vai trò của tín dụng ngân hàng. Tín dụng là một lĩnh vực khá rộng, bao quát một không gian nhiều chiều (ngang dọc, trên dưới, trong ngoài) của chính sách tiền tệ quốc gia. Hệ quả của hoạt động tín dụng có quan hệ biện chứng với tiến trình vận hành chiến lược phát triển kinh tế -xã hội và hội nhập thị trường thế giới. Xét về tầm quản lý vĩ mô, tín dụng là một phạm trù gắn chặt với xu hướng “tạo tiền”, sự tạo tiền này sẽ được xoá đi khi hoàn trả tín dụng đến hạn. Chính vì vậy, tín dụng ngân hàng đóng vai trò rất quan trọng: +Tín dụng ngân hàng là công cụ tài trợ vốn có hiệu quả. +Tín dụng ngân hàng là công cụ của Nhà nước điều tiết khối lượng tiền tệ lưu thông trong nền kinh tế. +Tín dụng ngân hàng thoả mãn nhu cầu tiết kiệm và mở rộng đầu tư của nền kinh tế . +Tín dụng ngân hàng góp phần bình ổn giá cả trong nền kinh tế . +Tín dụng ngân hàng là đòn bẩy kinh tế quan trọng, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, mở rộng quan hệ lưu thông hàng hoá quốc tế. +Tín dụng ngân hàng tác động có hiệu quả đến nhịp độ phát triển sôi động, thúc đẩy cạnh tranh trong nền kinh tế. +Tín dụng ngân hàng là hoạt động chủ yếu đem lại lợi nhuận cho Ngân hàng Thương Mại. Với những đóng góp vô cùng to lớn ấy, có thể nói hoạt động tín dụng là một trong những hoạt động to lớn, chủ yếu của ngân hàng và trên thực tế chỉ ra rằng hoạt động tín dụng đã mang lại cho ngân hàng số lợi nhuận khổng lồ, tạo điều kiện cho chính ngân hàng đó phát triển. Song bất cứ hoạt động nào cũng tồn tại hai mặt, tín dụng là điều kiện để ngân hàng phát triển nhưng chính nó cũng có thể đẩy ngân hàng đến chỗ phá sản, gặp những rủi ro lớn. Do đó việc xem xét rủi ro tín dụng trở nên vô cùng quan trọng và cần thiết. II- Khái niệm hộ sản xuất : Trong các văn bản pháp luật, hộ sản xuất được xem như một chủ thể trong các quan hệ dân sự do pháp luật quy định và được định nghĩa là một đơn vị mà các thành viên có hộ khẩu chung, tài sản chung và hoạt động kinh tế chung. "Hộ sản xuất" là một thuật ngữ được dùng trong hoạt động cung ứng vốn tín dụng cho hộ gia đình để làm kinh tế chung của cả hộ. Theo phụ lục 1 - văn bản 499A ngày 2/9/1993 của NHNo & PTNT Việt Nam, hộ sản xuất được quan niệm là một đơn vị kinh tế tự chủ, trực tiếp hoạt động sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về kết quả h oạt động sản xuất kinh doanh của mình. Quan niệm về hộ sản xuất theo văn bản này và theo quyết định 180 của NHNo & PTNT Việt Nam thì hộ sản xuất gồm các đối tượng sau: + Hộ chuyên sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp có tính chất tự sản, tự tiêu do cá nhân làm chủ hộ, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. + Hộ cá thể, tư nhân làm kinh tế hộ gia đình theo nghị định 29 ngày 29/3/1998. + Hộ là thành viên nhận khoán của các tổ chức kinh tế hợp tác, các doanh nghiệp nhà nước. + Các cá nhân là nhóm kinh doanh theo nghị định 66/HĐBT ngày 2/3/1992. + Các doanh nghiệp tư nhân hoạt động theo luật doanh nghiệp tư nhân. Lĩnh vực hoạt động chủ yếu của hộ sản xuất nói trên là các ngành nông, lâm, ngư nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp ở nông thôn, thị trấn, thị xã ven đô và thường khi nói đến hộ sản xuất thì người ta thường nghĩ đến hộ nông dân là chủ yếu vì hộ nông dân chiếm phần lớn dân số cả nước và chiếm đa số lực lượng lao động trên toàn lãnh thổ. * Khái niệm tín dụng hộ sản xuất. Tín dụng hiểu theo các đơn giản là quan hệ kinh tế trong đó "người này" chuyển cho "người khác" quyền sử dụng một lượng giá trị hay hiện vật. Với những điều kiện mà hai bên thoả thuận (về số lượng hay mục đích sử dụng, thời hạn hoàn trả, phương thức hoàn trả, lãi phải trả, đảm bảo). Tuỳ từng chủ thể để tham gia quan hệ tín dụng mà người ta phân thành tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng... Tín dụng ngân hàng được hiểu là quan hệ tín dụng giữa một bên là ngân hàng với một bên là các tổ chức kinh tế và dân cư. Nó bao gồm hai mặt hoạt động chính là huy động vốn và cho vay. Do đặc điểm riêng của mình, tín dụng ngân hàng có ưu thế hơn các hình thức tín dụng khác về khối lượng, thời hạn và phạm vi đầu tư. Nguồn vốn của ngân hàng là tiền nên thích hợp với mọi đối tượng xin vay nên có thể đầu tư vào nhiều lĩnh vực, ngành kinh tế khác nhau. Vì lý do trên tín dụng ngân hàng là hình thức quan trọng nhất trong các hình thức tín dụng hiện tại và là hình thái tín dụng phổ biến trong nền kinh tế thị trường. Tín dụng ngân hàng đối với hộ sản xuất là quan hệ tín dụng giữa một bên là ngân hàng và một bên là hộ sản xuất. Hình thức tín dụng này đã có từ lâu trên thế giới nhưng ở Việt Nam nó chỉ thực sự xuất hiện khi có nghị quyết 10 của Bộ chính trị với sự thừa nhận quyền tự chủ của thành phần kinh tế cá thể. Sau khi được thừa nhận và cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường kinh tế hộ sản xuất đã phát triển nhanh chóng và đã đóng góp không nhỏ cho nền kinh tế nói chung, đặc biệt là lương thực thực phẩm. Có được thành công trên phải nói đến sự đóng góp không nhỏ của tín dụng ngân hàng đối với kinh tế hộ sản xuất. Điều này được thể hiện ở vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hộ sản xuất. III-Vai trò của tín dụng ngân hàng trong việc phát triển kinh tế hộ sản xuất: Ngân hàng đóng một vai trò hết sức quan trọng trong quá trình phát triển của nền kinh tế hàng hoá. Đối với Nhà nước thì ngân hàng là một công cụ đắc lực, hữu hiệu trong quản lý kinh tế. Đối với các doanh nghiệp, các cá nhân thì tín dụng ngân hàng là nguồn tài trợ cho sự thiếu hụt tạm thời về vốn sản xuất. Đặc biệt trong cơ chế quản lý mới hiện nay, Nhà nước đã giao quyền sử dụng đất lâu dài cho từng hộ sản xuất. Mỗi hộ sản xuất giờ đây đã trở thành một hộ kinh tế tự chủ, phải tự tính toán mức chi phí bỏ ra, khả năng thu thập, xác định mức độ vốn cần đầu tư cho sản xuất, khả năng vốn tự có, số vốn cần phải đi vay. Do đó trong nền kinh tế thị trường, tín dụng ngân hàng có vai trò rất lớn đối với kinh tế hộ sản xuất. Sau đây là một số vai trò chủ yếu của tín dụng ngân hàng trong việc phát triển kinh tế hộ sản xuất. 1- Đáp ứng yêu cầu vốn cho hộ sản xuất để duy trì quá trình sản xuất liên tục, góp phần đầu tư phát triển nền kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường, tại một thời điểm nhất định, hiện tượng tạm thời thừa thiếu vốn thường xảy ra đối với các tổ chức kinh tế nói chung và đối với hộ sản xuất nói riêng. Hoạt động đầu tư tín dụng ngân hàng cho hộ sản xuất đã góp phần điều hoà vốn trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân, đáp ứng nhu cầu vốn cho hộ sản xuất, tạo điều kiện cho quá trình sản xuất liên tục tránh tình trạng lao động không có việc làm do thiếu đối tượng và công cụ lao động. Khi nền kinh tế chuyển đổi từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường thì nhu cầu trao đổi hàng hoá giữa hộ sản xuất trong cùng một vùng hay giữa các vùng với nhau đã ra tăng đáng kể. Các hộ sản xuất từ lúc chỉ sản xuất các loại nông sản phẩm theo kiểu tự cấp, tự túc thì giờ đây chuyển sang sản xuất các loại sản phẩm thị trường cần. Các hộ sản xuất cho xã hội những sản phẩm, hàng hoá mà họ sản xuất ra, đồng thời mua từ thị trường những thứ mà họ cần. Để đạt được điều đó thì các hộ sản xuất cần nhiều vốn để mua vật tư, đầu tư đổi mới kỹ thuật, mua hạn sắm máy móc thiết bị. Trong khi đó vốn tự có của các hộ rất hạn chế, cho nên các hộ sản xuất cần đến sự trợ giúp của ngân hàng để mở rộng sản xuất. Xét trên một khía cạnh khác thì sự chuyên môn hoá sản xuất dẫn tới tình trạng các hộ sản xuất khi chưa thu hoạch sản phẩm chưa có hàng hoá bán thì chưa có thu nhập nhưng họ cần tiền để trang trải cho các khoản chi phí sản xuất, mua sắm, đổi mới công cụ sản xuất. Trong trường hợp này các hộ sản xuất cần có sự trợ giúp của ngân hàng để có đủ vốn duy trì sản xuất được liên tục. Hơn nữa trong điều kiện nước ta hiện nay cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu sản xuất trong nông nghiệp, nông thôn nói riêng còn ở trong tình trạng mất cân đối. Do đó tín dụng ngân hàng sẽ thúc đẩy việc sắp xếp, tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý, góp phần sử dụng có hiệu quả nguồn lao động, nguyên vật liệu. Như vậy có thể khẳng định rằng tín dụng ngân hàng có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu vốn cho hộ sản xuất để phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn ở nước ta hiện nay. 2- Thúc đẩy quá trình tập trung vốn, tập trung sản xuất trên cơ sở đó góp phần tích cực vào quá trình vận động liên tục của nguồn vốn. Tại một thời điểm nhất định trong xã hội luôn xuất hiện những nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi của các thành phần kinh tế, đồng thời xuất hiện những tổ chức kinh tế, cá nhân cần vốn để sản xuất kinh doanh. Nhiệm vụ của các ngân hàng là tập trung vốn tạm thời nhàn rỗi để cho các đơn vị cá nhân tạm thời đang thiếu vốn vay. Tuy nhiên quá trình đầu tư tín dụng này không phải là rải đều cho các chủ thể có nhu cầu về vốn để duy trì, mở rộng sản xuất mà phải thực hiện một cách tập trung. Ngân hàng chủ yếu tập trung đầu tư tín dụng cho các hộ sản xuất kinh doanh có hiệu quả, phù hợp với định hướng phát triển kinh tế phát triển của Đảng và nhà nước nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả kinh doanh của các hộ sản xuất đó và khuyến khích các hộ kinh doanh có hiệu quả để được ngân hàng cho vay vốn. Như vậy có thể khẳng định rằng đầu tư tập trung là quá trình tất yếu vừa hạn chế được rủi ro tín dụng cho các ngân hàng vừa thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế. Sau khi chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường, vai trò tập trung vốn, tập trung sản xuất của tín dụng ngân hàng đã được thể hiện ở mức độ cao hơn hẳn so với cơ chế kinh tế cũ. Trong cơ chế bao cấp, việc nâng cao hiệu quả huy động vốn và cho vay không phải là mục tiêu quan trọng nhất đối với ngân hàng. Ngược lại trong cơ chế thị trường, hiệu quả hoạt động kinh doanh là vấn đề sống còn đối với các ngân hàng cho nên các ngân hàng phaỉ tìm cách tăng lợi nhuận, giảm rủi ro bằng cách tập trung đầu tư vào các doanh nghiệp, các hộ sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Như vậy các ngân hàng thương mại với tư cách là một trung gian tài chính, là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư đã thúc đẩy quá trình tập trung vốn, tập trung sản xuất trên cơ sở đó góp phần tích cực vào quá trình vận động liên tục của nguồn vốn. 3- Tín dụng ngân hàng là công tụ tài trợ cho các ngành kinh tế kém phát triển và các ngành kinh tế mũi nhọn. Thông qua hệ thống ngân hàng mà cụ thể là hoạt động tín dụng ngân hàng, nhà nước đã góp phần tài trợ cho các ngành kinh tế kém phát triển bằng việc cho vay ưu đãi với lãi suất thấp, thời gian dài, mức vay lớn. Trong điều kiện nước ta hiện nay, nông nghiệp là ngành sản xuất quan trọng đáp ứng phần lớn nhu cầu cần thiết cho xã hội đang trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhưng sản xuất hàng hoá ở nông thôn chưa phát triển, kết cấu hạ tầng kém, lại chịu nhiều ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên. Đơn vị sản xuất chủ yếu là kinh tế hộ gia đình với năng suất lao động thấp, ruộng đất, vốn thiếu, phương pháp canh tác, kỹ thuật lạc hậu, khối lượng hàng hoá chưa nhiều. Chính vì vậy trong giai đoạn tới chính phủ cần tập trung đầu tư, hỗ trợ cho nông nghiệp như việc nâng cấp cơ sở hạ tầng ở nông thôn và các điều kiện, yếu tố cần thiết khác cho sản xuất nông nghiệp như trạm bơm điện, hệ thống thủy lợi, cải tiến công cụ lao động. Ngoài việc chú trọng đầu tư cho các ngành kinh tế kém phát triển, tín dụng ngân hàng còn có vai trò quan trọng trong việc tài trợ cho các ngành kinh tế mũi nhọn để tạo cơ sở thúc đẩy các ngành kinh tế phát triển như sản xuất hàng xuất khẩu, bưu điện viễn thông, dầu khí... 3- Tín dụng ngân hàng góp phần hạn chế nạn cho vay nặng lãi ở nông thôn. Một trong những đặc điểm quan trọng của sản xuất nông nghiệp là mang tính thời vụ cao nên tại thời điểm chưa thu hoạch được nông phẩm chưa có hàng hóa để bán người nông dân thường ở trong tình trạng thiếu thu nhập để đáp ứng các nhu cầu chi tiêu tối thiểu tạo điều kiện để nạn cho vay nặng lãi hoành hành. Đặc biệt cơ bản của tín dụng cho vay nặng lãi là lãi suất cho vay rất cao, mục đích sử dụng vốn vay chủ yếu là phục vụ các nhu cầu thiếu yếu trong sinh hoạt. Lãi suất cho vay cao là nguyên nhân dẫn đến tình trạng hộ sản xuất đã khó khăn lại càng khó khăn hơn và không bao giờ có thể thoát ra khỏi vòng luẩn quẩn đó được. Như vậy nạn cho vay nặng lãi không những không thúc đẩy sản xuất phát triển mà còn kìm hãm sản xuất, đẩy nông dân đến chỗ nghèo túng hơn, gây ra những tiêu cực ở nông thôn. Đứng trước tình hình trên, ngân hàng đã nắm bắt được thực tế và tiến hàng cho vay hộ sản xuất tốt hơn. Để tạo điều kiện cho hộ sản xuất tiếp xúc với vốn vay, ngân hàng tới tận tay các thôn xóm phục vụ nhu cầu vay vốn. Khi nguồn vốn tín dụng ngân hàng đáp ứng được nhu cầu vốn cho sản xuất, tiêu dùng của các hộ sản xuất thì nạn cho vay nặng lãi ở nông thôn sẽ không còn cơ hội để tồn taị. Tín dụng ngân hàng cho vay trực tiếp đến hộ sản xuất cùng với chế độ lãi suất ưu đãi không chỉ đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất mà còn khuyến khích người sản xuất chủ động trong đầu tư, đổi mới sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh doanh góp phần làm giàu cho bản thân và xã hội. Như vậy tín dụng ngân hàng thông qua việc mở rộng cho vay đối với hộ sản xuất đã góp phần phát triển kinh tế hộ, giải quyết được vấn đề cho vay nặng lãi ở nông thôn, ngăn chặn được tình trạng một số kẻ có tiền lợi dụng bóc lột người lao động để thu siêu lợi nhuận. 5- Tín dụng ngân hàng kiểm soát bằng đồng tiền và thúc đẩy sản xuất, thực hiện chế độ hạch toán kinh tế. Các ngân hàng thương mại, với tư cách là một trung gian tài chính hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng, thanh toán có khả năng kiểm soát bằng đồng tiền đối với hoạt động của nền kinh tế thông qua các nghiệp vụ tín dụng, thanh toán. Để thực hiện một món vay, cán bộ tín dụng phải nắm bắt được toàn bộ tình hình sản xuất kinh doanh của hộ có nhu cầu vay vốn như khả năng lao động , kỹ năng sản xuất, vốn tự có và những biến động của nền kinh tế nói chung như tình hình vật tư, giá cả, thị trường có liên quan đến các sản phẩm mà các hộ sản xuất đó đang kinh doanh. Sau khi tiến hành giải ngân cán bộ tín dụng phải thực hiện kiểm tra xem hộ vay vốn có sử dụng tiền vay đúng mục đích không, kết quả thu được từ việc sử dụng vốn vay có như mong muốn không. Nhờ đó mà cán bộ tín dụng nắm bắt được khả năng thực sự của từng hộ để có hướng tiếp tục đầu tư cho những hộ làm ăn có hiệu quả, hay hỗ trợ, khuyến khích kịp thời những hộ gặp khó khăn nhưng biết năng động trong sản xuất và kịp thời thu hồi vốn vay đối với những hộ kinh doanh không có hiệu quả, rượu chè, cờ bạc hoặc có hành vi lừa đảo. Thông qua đó tín dụng ngân hàng có khả năng kiểm soát được các hoạt động của hộ sản xuất. Một trong những nguyên tắc cơ bản của tín dụng ngân hàng là vốn vay phải hoàn trả đầy đủ, đúng hạn và có lợi tức kèm theo. Nhờ vậy mà tín dụng ngân hàng thúc đẩy được việc sử dụng vốn có hiệu quả. Khi sử dụng vốn vay ngân hàng, hộ sản xuất phải thực hiện đầy đủ các cam kết đã ghi trong hợp đồng tín dụng ._.tức là phải đảm bảo trả nợ đúng hạn và các điều kiện khác. Như vậy để sản xuất kinh doanh có hiệu quả, để có đủ lợi nhuận trang trải lãi vay ngân hàng, hộ sản xuất phải thực hiện hạch toán kinh tế. Bằng việc đầu tư tín dụng cho các hộ sản xuất, ngân hàng đã tạo điều kiện cho họ làm quen và thực hiện chế độ hạch toán kinh tế. Sở dĩ như vậy là vì bất cứ hộ sản xuất nào muốn tồn tại và phát triển, muốn thị trường chấp nhận sản phẩm hàng hoá của mình cần phải nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ thấp chi phí sản xuất. Đặc biệt trong trường hợp hộ sản xuất có sử dụng vốn vay ngân hàng thì lại càng cần phải tiến hành hạch toán kinh tế, tính toán sao cho đồng vốn được sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả nhất để sau khi trả nợ gốc và lãi vay ngân hàng các hộ sản xuất vẫn có phần thu nhập của mình. Tóm lại tín dụng ngân hàng đã thực hiện việc kiểm soát bằng đồng tiền đối với sản xuất kinh doanh của hộ sản xuất, thông qua đó thúc đẩy hộ sản xuất thực hiện hạch toán kinh tế, làm cho sản xuất kinh doanh có hiệu quả hơn. 6- Tín dụng ngân hàng thúc đẩy hộ sản xuất tiếp cận và mở rộng sản xuất hàng hoá. Một trong những đặc điểm quan trọng của hộ sản xuất là thường mang tính gia đình, các thành viên trong hộ thường có quan hệ huyết thống. Chịu ảnh hưởng nặng nề của đặc điểm này, các hộ sản xuất thường quen với phương thức tự cấp, tự túc. Mọi sản phẩm làm ra chỉ để phục vụ cho nhu cầu của chính bản thân họ và ngược lại họ chỉ tiêu thụ những sản phẩm do bản thân mình làm ra. Ngoài ra còn có một yếu tố nữa là khiến hộ sản xuất không có khả năng tiếp cận với nền kinh tế hàng hoá đó là sự hạn chế về vốn sản xuất. Với khả năng vốn tự có eo hẹp, các hộ sản xuất chỉ có khả năng tổ chức sản xuất ở qui mô nhỏ, chỉ đủ đáp ứng nhu cầu của bản thân họ. Cùng với việc mở rộng đầu tư tín dụng cho hộ sản xuất, ngân hàng đã tạo ra một bước chuyển quan trọng trong phương thức sản xuất của hộ sản xuất. Như trên đã đề cập, khi được ngân hàng đầu tư tín dụng, hộ sản xuất phải hạch toán kinh tế sao cho vốn vay được sử dụng có hiệu quả nhất, để tăng thu, giảm chi nhằm thu được một khoản lợi nhuận đủ lớn để có thể hoàn trả vốn và lãi vay ngân hàng. Muốn vậy hộ sản xuất phải làm quen với nền sản xuất hàng hoá. Sau khi mở rộng quy mô sản xuất, sản phẩm sản xuấta ra sẽ vượt quá nhu cầu tiêu dùng nội bộ của hộ, các hộ sản xuất phải nghĩ tới thị trường để tiêu thụ sản phẩm mới thu được lợi nhuận. Chính quá trình bán hàng trên thị trường đã giúp cho hộ sản xuất hình thành những biện pháp tốt nhất để tiếp cận và thích nghi với thị trường như nâng cao chất lượng sản phẩm, thay đổi các loại cây trồng vật nuôi phù hợp với nhu cầu thị trường, cải tiến cách thức sản xuất để tiết kiệm vật tư, giảm chi phí sản xuất nhằm thu lợi nhuận cao nhất. Như vậy với sự tài trợ vốn của tín dụng ngân hàng, một phần sản phẩm của hộ sản xuất sẽ trở thành hàng hoá, góp phần làm tăng nguồn hàng hoá trên thị trường. Mặt khác nhờ có vốn tín dụng ngân hàng, các hộ sản xuất có thể mở rộng quy mô sản xuất, nhờ đó tính chất sản xuất hàng hoá cũng được tăng lên. 7- Vai trò của tín dụng ngân hàng về mặt chính trị, xã hội: Tín dụng ngân hàng không những có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế mà còn có vai trò to lớn về mặt chính trị, xã hội. Tín dụng ngân hàng góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người lao động trong cả nước nói chung và ở nông thôn nói riêng. Việc làm là một trong những vấn đề cấp bách hiện nay ở nông thôn, đặc biệt là với một nước có trên 80% dân số sống ở nông thôn như nước ta. Hiện nay có khoảng 10 triệu lao động chưa được sử dụng, chiếm khoảng 25% lực lượng lao động và chỉ có 40% quỹ thời gian lao động ở nông thôn được sử dụng. Trong đó phần lớn lao động ở nông thôn nói riêng và trong cả nước nói chung làm việc trong thành phần kinh tế hộ sản xuất. Như vậy tín dụng ngân hàng thông qua việc cho vay ở rộng sản xuất đối với các hộ sản xuất đã góp phần giải quyết công ăn việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động, hạn chế những tiêu cực xã hội. Tín dụng ngân hàng góp phần thực hiện xóa đói giảm nghèo. Sau khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, đời sống của nông dân đã được cải thiện rõ rệt, tuy nhiên vẫn còn một bộ phận không nhỏ hộ sản xuất, đặc biệt là ở vùng cao, vùng xa, các hộ gia đình chính sách vẫn ở trong tình trạng không đủ ăn. Tín dụng ngân hàng với lãi xuất ưu đãi dành cho các hộ sản xuất đã đóng góp đáng kể vào quá trình thực hiện chính sách xoá đói giảm nghèo của chính phủ. Tín dụng ngân hàng góp phần làm giảm bớt tệ nạn xã hội. Trong quá trình thực hiện chủ trương phát triển kinh tế đa thành phần. Các thành phần kinh tế quốc doanh, tập thể, cá thể đều được tự do kinh doanh theo đúng pháp luật. Sự phát triển của nền kinh tế thị trường làm cho số người giàu tăng lên rất nhanh nhưng đồng thời mức độ nghèo đói của một số hộ nghèo cũng có xu hướng tăng. Kết quả là hố sâu phân cách giàu nghèo ngày càng gia tăng, tất yếu sẽ nảy sinh nhiều vấn đề tiêu cực, tệ nạn xã hội có điều kiện phát triển. Tín dụng ngân hàng tạo thêm công ăn việc làm cho hộ sản xuất, tăng thu nhập, hạn chế bớt những phân hoá bất hợp lý trong xã hội, giữ vững nền tảng an ninh chính trị. Tín dụng ngân hàng góp phần củng cố lòng tin của nhân dân nói chung và của hộ sản xuất nói riêng vào sự lãnh đạo của Đảng và nhà nước. Tóm lại ngân hàng có vai trò to lớn đối với hộ sản xuất cả về mặt kinh tế lẫn chính trị, xã hội. Để tín dụng ngân hàng đến được với hộ sản xuất, các ngân hàng phải tự hoàn thiện mạng lưới tổ chức, biện pháp nghiệp vụ của mình để đáp ứng một cách thuận tiện, kịp thời nhu cầu vốn cho hộ sản xuất, toạ điều kiện thuận lợi cho hộ sản xuất mở rộng sản xuất kinh doanh. Ngoài những nỗ lực của bản thân ngân hàng, Nhà nước và các ngành các cấp có liên quan cũng cần phải xây dựng các chính sách kinh tế phù hợp, tạo môi trường kinh doanh thuận tiện cho các ngân hàng để quan hệ giữa ngân hàng và hộ sản xuất ngày càng được mở rộng và có hiệu quả hơn. IV-Chất lượng tín dụng ngân hàng đối với HSX : 1- Khái niệm chất lượng tín dụng ngân hàng đối với hộ sản xuất. Qua nghiên cứu ở phần trên, chúng ta thấy rằng tín dụng ngân hàng có vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế xã hội nói chung và đối với hộ sản xuất nói riêng là điều quan tâm chung đối với các ngân hàng. Vậy chất lượng tín dụng là gì? Trong thực tế, khi cung cấp một khoản tín dụng cho khách hàng, vấn đề ngân hàng quan tâm hàng đầu cả gốc lẫn lãi đúng thời hạn như hợp đồng tín dụng. Giả sử ngân hàng làm được điều này thì khoản tín dụng đó được coi là có chất lượng hay không? Điều này chưa thể khẳng định được. Trong trường hợp tín dụng ngân hàng bị sử dụng sai mục đích, khách hàng làm ăn thua lỗ thì chắc chắn khoản tín dụng đó không thể coi là có chất lượng mặc dù khách hàng trả được nợ. Như vậy ta có thể hiểu chất lượng tín dụng ngân hàng là sự đáp ứng tốt nhất yêu cầu của khách hàng trong quan hệ tín dụng, đảm bảo an toàn hoặc hạn chế rủi ro về vốn, tăng lợi nhuận ngân hàng, phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội. a. Xét trên góc độ hoạt động kinh doanh của ngân hàng thì chất lượng tín dụng là khoản tín dụng được đảm bảo an toàn, sử dụng đúng mục đích, phù hợp với chính sách tín dụng của ngân hàng, hoàn trả gốc và lãi đúng thời hạn đem lại lợi nhuận cho ngân hàng với chi phí nghiệp vụ thấp, tăng khả năng cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường. b. Xét trên góc độ lợi ích của khách hàng thì khoản tín dụng có chất lượng là khoản tín dụng được cho vay phù hợp với mục đích sử dụng của khách hàng với lãi suất và kỳ hạn hợp lý, thủ tục tín dụng đơn giản và quan trọng hơn khoản đi vay đó mang lại lợi ích kỳ vọng cho ngân hàng. c. Đối với nền kinh tế. Khoản tín dụng có chất lượng phải góp phần phục vụ sản xuất, tạo công ăn việc làm thúc đẩy sự tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng mong muốn. Chất lượng tín dụng ngân hàng đối với hộ sản xuất cũng không nằm ngoài khái niệm chất lượng tín dụng nói chung. Có thể hiểu chất lượng tín dụng ngân hàng đối với hộ sản xuất là vốn cho vay của ngân hàng được hộ sản xuất đưa vào quá trình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ... tạo ra một số tiền lớn hơn đủ để hoàn trả gốc và lãi, trang trải chi phí khác và có lợi nhuận, phù hợp các điều kiện của ngân hàng và của nền kinh tế - xã hội. 2- Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng hộ sản xuất. Do mức vốn vay bình quân của hộ sản xuất nhỏ, đa số các hộ sản xuất có tài sản ít nên những khoản vay ngân hàng phải làm ăn có hiệu quả thì mơí có khả năng trả nợ ngân hàng. Vì vậy để xem xét chất lượng tín dụng ngân hàng đối với hộ sản xuất, nói chung ta chỉ quan tâm đến góc độ ngân hàng. Để đánh giá chất lượng tín dụng đối với hộ sản xuất thường người ta sử dụng những chỉ tiêu sau: * Các chỉ tiêu định lượng. - Chỉ tiêu 1: Doanh số cho vay BQ 1 hộ = Chỉ tiêu này phản ánh số tiền vay mỗi lượt của hộ sản xuất. Số tiền càng cao chứng tỏ hiệu quả cho vay tăng lên, thể hiện mức sản xuất cũng như quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh của hộ sản xuất tăng lên, thể hiện mức sản xuất cũng như quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh của hộ sản xuất tăng lên. - Chỉ tiêu 2: Tỉ lệ dư nợ trung dài hạn HSX = Tỷ lệ này phản ánh mức độ đáp ứng nhu cầu vốn trung dài hạn của hộ sản xuất để mở rộng sản xuất trong kinh doanh. Theo đánh giá, tỷ lệ tối thiểu là 30% tổng dư nợ (mục tiêu của NHNNo & PTNT Việt Nam). Tuy vậy tỷ lệ có thể cao thấp tùy thuộc nhu cầu vốn trung dài hạn tại địa phương cũng như tín dụng của từng chi nhánh NHNo. Hai chỉ tiêu 1 và 2 phản ánh hiệu quả tín dụng ngân hàng đối với việc phát triển kinh tế của hộ sản xuất qua đó đánh giá được chất lượng tín dụng của ngân hàng. - Chỉ tiêu 3: Tốc độ tăng trưởng dự án cho vay hộ sản xuất hàng năm. Đây là một dấu hiệu cho thấy công tác tín dụng hoạt động, sử dụng kết hợp với chỉ tiêu tỷ lệ NQH có thể biết được chất lượng cũng như hiệu quả của vốn tín dụng ngân hàng, từ chỉ tiêu này có thể tính ra tốc độ tăng trưởng bình quân một giai đoạn cho đánh giá toàn diện hơn chất lượng tín dụng một thời kỳ nào đó. - Chỉ tiêu 4: Vòng quay tín dụng HSX = Đây là một chỉ tiêu quan trọng xem xét chất lượng hoạt động tín dụng. Vòng quay càng lớn với số dư nợ luôn tăng chứng tỏ đồng vốn ngân hàng bỏ ra đã được sử dụng một cách có hiệu quả, tiết kiệm chi phí, tạo ra lợi nhuận lớn hơn cho ngân hàng. - Chỉ tiêu 5: Tỷ lệ nợ quá hạn HSX = x 100%. Chỉ tiêu này được sử dụng chủ yếu trong đánh giá chất lượng tín dụng ngân hàng. Hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng ngân hàng nói riêng đều có nhiều rủi ro tác động đến ngân hàng và sự an toàn kinh doanh của ngân hàng do vậy việc đảm bảo thu hồi đủ vốn cho vay đúng hạn thể hiện qua tỷ lệ nợ quá hạn thấp là vấn đề quan trọng trong quản lý ngân hàng liên quan đến sự sống còn của ngân hàng. Việc phân tích tình hình nợ quá hạn luôn được tiến hành thường xuyên và kết quả thu được là thông tin giúp cho ngân hàng có kế hoạch kinh doanh thích hợp cho những giai đoạn tiếp theo. Để xem xét chi tiết hơn khả năng không thu hồi được nợ người ta sử dụng chỉ tiêu: tỷ lệ nợ khó đòi/tổng nợ quá hạn. Tỷ lệ này ở mức cao là dấu hiệu cho thấy nguy cơ mất vốn cao. ã Ngoài những chỉ tiêu định hướng trên, mức lợi nhuận của ngân hàng cũng là chỉ tiêu quan trọng xem xét chất lượng tín dụng. = - Chi phí cho vay HSX 3- Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng ngân hàng : Chất lượng tín dụng ngân hàng phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhưng chúng ta có thể phân thành 3 nhân tố: ngân hàng, khách hàng và môi trường. a- Nhóm nhân tố từ phía ngân hàng. * Chính sách của ngân hàng: + Chính sách của ngân hàng do ban lãnh đạo vạch ra, đó là hệ thống có liên quan đến việc khuyếch trương hay hạn chế tín dụng để đạt được mục tiêu đã hoạch định hạn chế rủi ro, đảm bảo an toàn trong kinh doanh tín dụng. + Đó là việc tập trung đầu tư, nghiên cứu từng nhóm khách hàng mà trêncơ sở đó có những chính sách, cách giải quyết đối với từng nhóm khách hàng nhất định. Như vậy chất lượng tín dụng phụ thuộc chủ yếu vào việc xây dựng chính sách tín dụng của ngân hàng . * Thông tin tín dụng: Thông tin tín dụng là các thông tin liên quan đến tình hình tài chính cũng như sản xuất kinh doanh của khách hàng nói chung và hộ sản xuất nói riêng. Thông tin tín dụng có thể được khai thác trực tiếp từ khách hàng, từ bạn hàng của khách hàng, từ các cơ quan chuyên thông tin tín dụng trong và ngoài nước. Số lượng, chất lượng của thông tin tín dụng thu nhập được có liên quan đến mức độ chính xác trong phân tích tín dụng, thông tin càng đầy đủ nhanh nhạy, chính xác và toàn diện thì càng tăng cường khả năng phòng ngừa rủi ro do đó chất lượng tín dụng được nâng cao. * Quy trình tín dụng: Quy trình tín dụng bao gồm những quy định cần phải thực hiện trong quá trình cho vay, thu nợ nhằm đảm bảo an toàn nguồn vốn tín dụng. Nó được bắt đầu từ khi chuẩn bị cho vay, kiểm tra quá trình cho vay đến khi thu được nợ. Sự phối hợp nhịp nhàng giữa các bước trong quá trình tín dụng sẽ tạo điều kiện cho vốn tín dụng được luân chuyển theo đúng kế hoạch đã định từ đó đảm bảo được chất lượng tín dụng. * Cán bộ ngân hàng: Trong quá trình cho vay, cán bộ tín dụng đóng vai trò quan trọng nhất. Họ là người kiểm tra tư cách khách hàng, thẩm định dự án xin vay của khách hàng. Nếu cán bộ tín dụng không đủ năng lực để kiểm tra hoặc thẩm định hoặc làm không nhiệt tình với công việc thì hiệu quả tín dụng chắc chắn sẽ không cao. Thậm chí nếu tư cách đạo đức của cán bộ tín dụng không tốt thì sẽ ảnh hưởng lớn đến hoạt động tín dụng ngân hàng. * Công tác tổ chức của ngân hàng. Tổ chức của ngân hàng nếu được sắp xếp một cách có khoa học sẽ đảm bảo sự phối hợp nhịp nhàng, chặt chẽ giữa các phòng ban, là cơ sở để tiến hành các nghiệp vu tín dụng lành mạnh và quản lý hiệu quả vốn tín dụng. Trên cơ sở đó nó có tác dụng đáp ứng kịp thời các nhu cầu khách hàng. * Trang thiết bị phục vụ cho hoạt động tín dụng. Để phục vụ các hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng, ngân hàng cần có các trang thiết bị tiên tiến phù hợp với khả năng tài chính và quy mô hoạt động của ngân hàng. Qua đó ngân hàng có thể đáp ứng các yêu cầu dịch vụ của khách hàng và giúp các cấp quản lý có các thông tin nhanh, đầy đủ, chính xác để ra quyết định kịp thời. b- Nhóm nhân tố từ phía khách hàng: Nhóm nhân tố này liên quan đến khả năng trả nợ (cả gốc và lãi) của khách hàng cho ngân hàng. Ta sẽ xem xét một số nhân tố cơ bản quyết định khả năng trả nợ của khách hàng. * Uy tín của khách hàng. Uy tín của người vay không chỉ được đánh giá bằng phẩm chất đạo đức chung mà còn phải kiểm nghiệm những hoạt động kinh doanh trong quá khứ, hiện tại và phát triển trong tương lai. Uy tín của khách hàng được thể hiện dưới nhiều khía cạnh đa dạng như: chất lượng, giá cả hàng hoá, dịch vụ sản phẩm, mức độ chiếm lĩnh trên thị trường của sản phẩm, các quan hệ tài chính, vay vốn, trả nợ với khách hàng, bạn hàng của ngân hàng. Uy tín chỉ được khẳng định và kiểm nghiệm bằng kết quả thực tế trên thị trường. Như vậy nhân tố này ảnh hưởng đến khả năng rủi ro do chủ quan của khách hàng gây nên: rủi ro về đạo đức, về thiếu năng lực, trình độ, kinh nghiệm, khả năng thích ứng với thị trường... ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng sản xuất kinh doanh của hộ sản xuất, do đó ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng ngân hàng. * Năng lực tài chính của khách hàng. * Phương án vay vốn. Phương án vay vốn, có khả năng thực thi càng cao thì rủi ro càng thấp khả năng trả nợ của khách hàng được đảm bảo do đó chất lượng tín dụng cũng được đảm bảo. * Đảm bảo cho khoản vay. Có nhiều loại bảo đảm cho một khoản vay ngân hàng. Tuy nhiên bất cứ loại bảo đảm nào để được ngân hàng chấp nhận phải cần thoả mãn 3 yêu cầu: + Dễ được định giá. + Dễ cho ngân hàng quyền được sở hữu hợp pháp. + Dễ tiêu thụ hay thuận tiện sử dụng. Bảo đảm có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp. Trực tiếp khi nó được khách hàng ký thác để đảm bảo cho chính mình, gián tiếp khi nó được một người khách ký thác để đảm bảo cho khách hàng, có 3 loại đảm bảo thường được dùng: - Cầm cố, chiết khấu thương phiếu. - Bảo đảm bằng thế chấp tài sản. - Bảo đảm bằng sự bảo lãnh. c- Nhóm nhân tố môi trường: * Điều kiện tự nhiên xã hội. Điều kiện tự nhiên xã hội có ảnh hưởng lớn đến hoạt động tín dụng ngân hàng đặc biệt đối với tín dụng hộ sản xuất. Nếu ngân hàng hoạt động tín dụng trên một địa bàn kinh tế phát triển điều kiện tự nhiên thuận lơị, ít bị ảnh hưởng của thiên tai như thời tiết, khí hậu và điều kiện xã hội thuận lợi như chính trị ổn định, mật độ dân số và trình độ dân trí cao, các chính sách phát triển kinh tế xã hội ổn định, mật độ dân số và trình độ dân trí cao, các chính sách phát triển kinh tế xã hội ổn định sẽ đem lại hiệu quả và chất lượng cao và ngược lại khi kinh doanh trên một địa bàn kinh tế kém phát triển, điều kiện không thuận lợi luôn bị ảnh hưởng của thiên tai, môi trường và các chính sách phát triển kinh tế xã hội bất ổn, trình độ dân trí và các phong tục tập quán lối sống lạc hậu sẽ bị ảnh hưởng xấu đến chất lượng tín dụng và hiệu quả kinh doanh, các doanh nghiệp kinh doanh trong điều kiện bất ổn sẽ không mang lại hiệu quả và từ đó thiếu khả năng trả nợ ngân hàng, trình độ dân trí thấp dẫn đến thiếu hiểu biết trong hoạt động kinh doanh, làm ăn kém hiệu quả, không thông hiểu pháp luật và nhận thức về trách nhiệm và nghĩa vụ của mình đối với ngân hàng từ đó thiếu khả năng trả nợ ngân hàng, mặt khác còn gây cho khách hàng rất nhiều khó khăn trong việc thực thi nhiệm vụ của mình. * Môi trường kinh tế. Nói đến môi trường kinh tế ta đề cập đến những biến số vĩ mô của nó: Tăng trưởng, lạm phát, lãi suất, tỷ giá. Nền kinh tế ổn định tạo điều kiện lưu thông hàng hoá, làm cho hoạt động ngân hàng và hộ sản xuất được thuận lợi. Nền kinh tế ổn định tạo điều kiện cho các hộ sản xuất tiến hành sản xuất kinh doanh, giá cả hàng hoá ít biến động làm cho dự đoán của hộ sản xuất chính xác và khả năng trả nợ của họ cao. * Nhóm nhân tố môi trường pháp lý: Nhân tố pháp lý bao gồm tính đồng bộ của hệ thống pháp luật, tính đầy đủ thống nhất của các văn bản dưới luật đồng thời gắn liền với quá trình chấp hành pháp luật và sự hiểu biết của người dân trong vấn đề này. Nhóm nhân tố môi trường pháp lý này tạo ra một hành lang pháp lý trong đó quy định rõ quyền hạn và nghĩa vụ của ngân hàng cũng như các hộ sản xuất gặp một loại rủi ro là "rủi ro pháp lý" có nguyên nhân từ tính không đồng bộ và ổn định của pháp luật gây ra. Như vậy rõ ràng là môi trường pháp lý ảnh hưởng lớn đến chất lượng tín dụng. ChươngII: Thực trạng chất lượng tín dụng đối với HSX tại NHNo&PTNT Hà tây từ 2000 đến 2002 I-Giới thiệu sơ lược về NHNo&PTNT Hà tây : Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (NHNo&PTNT) được thành lập vào tháng 7/1988 theo Nghị định 53/HĐBT. Điều lệ tổ chức và hoạt động của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam do thống đốc Ngân hàng Nhà nước phê chuẩn vào ngày 22/12/1997: NHNo&PTNT Việt Nam-Ngân hàng thương mại quốc doanh, là doanh nghiệp nhà nước dạng đặc biệt tổ chức theo mô hình tổng công ty nhà nước có quyền tự chủ về mặt tài chính, tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh và bảo toàn vốn đầu tư. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Tây là thành viên trực thuộc của NHNo&PTNT Việt Nam được thành lập từ tháng 10/1991, hoạt động theo luật của các tổ chức tín dụng và điều lệ của NHNo&PTNT Việt Nam, trên cơ sở sát nhập 8 đơn vị thuộc Ngân hàng nông nghiệp Hà Sơn Bình và 6 đơn vị trực thuộc Ngân hàng nông nghiệp thành phố Hà Nội. Trụ sở giao dịch chính của Ngân hàng nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Tây đóng tại 34 đường Tô Hiệu-TX Hà Đông-tỉnh Hà Tây với mô hình 14 Ngân hàng huyện, thị xã, 17 phòng giao dịch và bàn tiết kiệm. Khi mới thành lập Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Tây cơ sở còn thiếu thốn, lạc hậu, đội ngũ cán bộ nhân viên là 1181 người, trình độ bất cập. Tổng nguồn vốn huy động là 77,9 tỷ đồng, dư nợ cho vay đối với doanh nghiệp quốc doanh và kinh tế tập thể chiếm 89%, nợ quá hạn 7,8 tỷ chiếm 16,8% trên tổng dư nợ, kết quả tài chính lỗ 5,2 tỷ. Có thể nói lúc bấy giờ Ngân hàng nông nghiệp Hà Tây đang đứng trên bờ vực của sự phá sản. Sau nhiều năm kiên trì theo dường lối của Đảng và Nhà nước, được sự quan tâm của của các cấp chính quyền địa phương cùng với sự cố gắng của cán bộ công nhân viên, toàn chi nhánh đã từng bước khắc phục khó khăn, đạt nhiều thành tích cao trong các hoạt động kinh doanh và các công tác khác.Từ năm 1997 đến nay, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Tây thường xuyên được Đảng và Nhà nước, các Bộ, các ngành Trung Ương-địa phương tặng nhiều phần thưởng cao quý như: Huân chương lao động hạng ba năm 1995, hạng nhì năm 1997; Danh hiệu lá cờ đầu toàn hệ thống Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn năm 1997 và năm 2000 dược Thống đốc Ngân hàng tặng bằng khen; Nhiều chuyên đề, nghiệp vụ chuyên môn đạt danh hiệu xuất sắc nhất toàn ngành như (Điện toán vi tính năm 1995-1997-1998, tín dụng năm 1998, kế toán ngân quỹ năm 1999...). Đặc biệt trong năm 2000 Ngân hàng nông nghiệp Hà Tây được chủ tịch nước phong tặng danh hiệu đơn vị anh hùng lao động trong thời kỳ đổi mới, năm 2001 được UBND tỉnh tặng danh hiệu cơ quan văn hoá. Với phương châm “Đi vay để cho vay” lấy hiệu quả kinh tế và mục tiêu sinh lời làm thước đo chính trong kinh doanh, kết quả đạt được đã tạo nên chỗ đứng với uy tín ngày càng cao, chiếm được niềm tin của khách hàng trên địa bàn, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp-nông thôn. Sự thành công của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Tây đã chứng minh quá trình thường xuyên đổi mới phong cách giao dịch nhằm xây dựng lên một Ngân hàng kiểu mẫu thu hút khách hàng. Với những thành tích nổi bật và bề dày truyền thống trong hoạt động kinh doanh phục vụ có hiệu qủa, Ngân hàng nông nghiệp Hà Tây tiếp tục phát huy để hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. NH đặt ra định hướng đối với hoạt động tín dụng NH mình như sau: - Mở rộng cho vay đối với các khách hàng thuộc mọi thành phần kinh tế trong đó đặc biệt chú trọng tới các khách hàng quốc doanh, thực hiện chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần của Nhà nước. - Thực hiện đầu tư có trọng điểm, chú ý đầu tư vào những ngành nghề mũi nhọn có nhiều triển vọng phát triển, tăng cường tài trợ, đầu tư cho phát triển nông nghiệp, hiện đại hoá nông nghiệp. - Tăng cường thực hiện nỗ lực nhằm mở rộng quy mô tín dụng, đặc biệt là tín dụng trung dài hạn. - Lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chuẩn để mở rộng tín dụng và là thước đo để đánh giá hoạt động tín dụng. - Củng cố tăng cường uy tín vị thế của ngân hàng trên thị trường nhằm thu hút ngày càng nhiều khách hàng đến với ngân hàng. Mục tiêu kinh doanh của NH đến năm 2003: -Tổng nguồn vốn huy động 3000 tỷ, tăng 589 tỷ, tốc độ tăng trưởng 25% -Tổng dư nợ 2700 tỷ, tăng 524 tỷ, tốc độ tăng trưởng 24% - Nâng cao chất lượng TD tỷ lệ nợ quá hạn dưới 1% tổng dư nợ - Tài chính: Phấn đấu có đủ quỹ lương chi cho CBCNV theo chế độ , thực hiện đầy đủ nghĩa vụ nộp ngân sách Nhà nước. II-Tình hình kinh tế xã hội tác động đến hoạt động tín dụng trên địa bàn tỉnh Hà tây: 1-Những thuận lợi: Hà tây là tỉnh chủ yếu sản xuất nông nghiệp, tổng diện tích gieo trồng 241.000, dân số 2,4 triệu người, toàn tỉnh có 939 doanh nghiệp và 53 vạn hộ trong đó có 49 vạn hộ sản xuất nông nghiệp. Tình hình kinh tế xã hội của tỉnh nói chung ổn định tại điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng: Tốc độ tăng trưởng khá, GDP tăng 9,8%(năm 2002) , cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch tích cực, ngành nghề truyền thống được khôi phục, phát triển và đi vào hoạt động SXKD có hiệu qủa. Một số dự án của tỉnh đã và đang triển khai như phát triển đàn bò sữa, lợn hướng nạc, thực hiện cơ bản việc chuuyển đổi ruộng đất từ ô thửa nhỏ sang ô thửa lớn, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giúp người dân yên tâm đầu tư phát triển sản xuất. Các cơ chế chính sách về đầu tư tín dụng, bảo đảm tiền vay, lãi suất… được ban hành cơ bản đáp ứng yêu cầu thực tiễn, đã tháo gỡ những vướng mắc về cơ chế, thủ tục, tạo môi trường pháp lý thận lợi trong công tác đầu tư tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn. 2-Những khó khăn: Kinh tế của tỉnh chủ yếu là thuần nông, cơ sở hạ tầng thấp kém, khách hàng có quan hệ với NHNo&PTNT Hà tây đa số là hộ nông dân chiếm tỷ lệ 71% tổng dư nợ. Công tác đầu tư tín dụng chịu ảnh hưởng lớn về rủi ro trong sản xuất nông nghịêp, nhu cầu mở rộng sản xuất hàng hoá ngày càng lớn nhưng trình độ quản lý và kĩ thuật của người dân còn bất cập, hoạt động khuyến nông chơa đáp ứng dược nhu cầu nhất là công tác phòng dịch. Một số dự án trong nông nghiệp như chăn nuôi lợn hướng nạc, gà công nghiệp…vẫn mang tính tự phát chưa được quy hoạch và quan tâm đúng mức của cấp có thẩm quyền. Sản xuất công nghiệp-TTCN phát triển nhưng sản lượng sản phẩm tiêu thụ chậm mà cơ bản là chưa chuẩn bị tốt thị ttrường tiêu thụ sản phẩm, nên có lúc sản phẩm bị ứ đọng, giá cả giảm sút, hiệu quả dự án kém, thu nhập của người lao động thấp, ảnh hưởng tới việc thanh toán nợ với ngân hàng. Tình hình cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng ngày càng gay gắt hơn, huy động vốn ngoại tệ với khối lượng lớn lãi suất cao trong khi phí điều hoà vốn ngoại tệ liên tục giảm đã ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả tài chính. III-Thực trạng hoạt động cho vay đối với Hộ Sản xuất tại NHNo & PTNT Hà Tây: 1-Tình hình cho vay, thu nợ Hộ sản xuất: Hoạt động cho vay, thu nợ luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu của các ngân hàng. Đối với cho vay hộ sản xuất vấn đề này cần được quan tâm hơn bởi vì cho vay hộ sản xuất món vay thường nhỏ lẻ, số lượng khách hàng nhiều địa bàn rộng không tập trung hộ vay còn nhiều hạn chế cả về nhận thức lẫn kinh nghiệm sản xuất kinh doanh cũng như tiêu thụ sản phẩm. Nên việc thu nợ gặp nhiều khó khăn với những nguyên nhân khác nhau. Bảng 1: Tình hình cho vay, thu nợ hộ sản xuất ở ngân hàng NHNo&PTNT Hà Tây trong 3 năm qua như sau: Đơn vị: Triệu đồng Năm Chỉ tiêu 2000 2001 2002 - Doanh số cho vay 713.542 1.090.530 1.597.445 + Ngắn hạn 401.503 407.933 535.627 + Trung dài hạn 312.019 682.597 1.061.818 - Doanh số thu nợ 567.182 823.947 1.258.769 + Ngắn hạn 326.912 523.821 742.526 + Trung - dài hạn 240.270 300.126 516.243 - Dư nợ 746.435 1.123.854 1.629.554 + Ngắn hạn 313.958 428.713 609.769 + Trung dài hạn 432.477 695.141 1.019.785 Qua bảng trên ta thấy doanh số cho vay tăng dần so với các năm, nhất là năm 2002, doanh số cho vay tăng so năm 2000 là 883.903 triệu đồng, tỉ lệ tăng 130%. Điều đó chứng tỏ qui mô sản xuất ngày càng được mở rộng nhất là từ sau khi có quyết định 67/CP ngày 30/3/99 của Thủ tướng chính phủ đã được ngân hàng triển khai tới quần chúng nhân dân và được nhân dân chấp nhận. Đây là một chủ trương đúng, phù hợp với điều kiện của người nông dân nông nghiệp, nông thôn. Tuy nhiên tính đến 31/12/02 số hộ còn dư nợ ngân hàng là 242.856 hộ, mới chỉ đạt 46% (năm 2001 là 40%)tổng số hộ trên địa bàn toàn tỉnh. Xét về kỳ hạn cho vay, ta nhận thấy là doanh số cho vay ngắn hạn (Ê 1 năm)có tăng dần theo từng năm nhưng tăng với mức độ nhẹ, trong khi doanh số cho vay trung - dài hạn lại tăng với mức tăng trưởng khá nhanh. Năm 2001 doanh số cho vay trung - dài hạn là 682.597 triệu đồng thì đến năm 2002 doanh số cho vay trung dài hạn là 1.061.818triệu đồng tăng so năm 2001 là 379.221 triệu đồng. Nhưng xét về cơ cấu dư nợ trên tổng dư nợ thì năm 2001 dư nợ trung dài hạn chiếm 62%. Năm 2002 dư nợ trung - dài hạn chiếm 63% trên tổng dư nợ. Như vậy tín dụng ngân hàng góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của hộ nông dân thông qua vốn đầu tư trung - dài hạn tốc độ tăng trưởng khá (vì doanh số cho vay trung - dài hạn năm 2002 tăng so năm 2001 là 379.221 triệu đồng). Trong cơ cấu cho vay ngành nghề sản xuất kinh doanh, cho vay hộ sản xuất nông - lâm nghiệp vẫn là chủ đạo, cho vay thương nghiệp dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp, ngành nghề khác có xu hướng tăng khá. Điều này được thể hiện qua bảng sau: Bảng 2 Đơn vị: Triệu đồng Ngành nghề Dư nợ Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 1.Nông nghiệp 438.557 749.653 1.185.694 2.Công nghiệp -Tiểu thủ CN 164.282 201.845 248.367 3.Thương mại -Dịch vụ 143.596 162.356 195.493 Tổng số 746.435 1.123.854 1.629.554 Nhìn vào bảng số liệu trên, tỷ trọng ngành nông nghiệp vẫn chiếm tỉ lệ cao với xu hướng tăng giảm qua các năm. Nhất là năm 2002 so với năm 2000 tăng 573.451 triệu đồng. Năm 2001 tỷ trọng ngành này là 66% thì đến năm 2002 tỉ trọng ngành sấp sỉ 75% tổng dư nợ. Những kết quả trên đây phần nào cho thấy hiệu quả vốn tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển kinh tế hộ sản xuất trong những năm qua. Để phân tích chính xác hơn ta xem xét số tiền vay mỗi lượt của từng hộ qua bảng dưới đây . Bảng 3 Đơn vị tính triệu đồng Năm Chỉ tiêu 2000 2001 2002 - Doanh số cho vay 713.542 1.090.530 1.597.445 - Số lượt hộ vay 183.922 211.007 254.165 - Doanh số BQ trên hộ vay 3,88 5,17 6,29 Doanh số cho vay tăng lên tương ứng với dư nợ bình quân trên hộ vay. Năm 2000 doanh số cho vay 713.542 triệu bình quân hộ 3,88 triệu đồng đến năm 2002 doanh số cho vay là 1.597.445 triệu đồng, bình quân 6,29 triệu đồng trên hộ vay. Với số tiền vay khá cao như vậy (so với năm 2000 là 3,88 triệu đồng) sẽ giúp cho hộ sản xuất mở rộng được quy mô sản xuất, thay đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, có điều kiện mua sắm các phương tiện vận chuyển, máy móc thiết bị làm tăng năng suất lao động và tăng thu nhập cho hộ sản xuất. * Doanh số thu nợ: Đối với một ngân hàng kết quả thu nợ có ý nghĩa rất quan trọng, nó phải ánh chất lượng hoạt động tín dụng ngân hàng, bảo đảm kinh doanh ngân hàng an toàn và có lãi. Qua số liệu bảng 1 cho thấy doanh số thu nợ có tăng lên so với các năm song mức độ tăng trưởng dư nợ năm 2002 quá cao so với năm 2001 nên tỉ lệ nợ quá hạn có giảm trên tổng dư nợ. Nhưng thực tế doanh số dư nợ trên tổng số nợ đến hạn vẫn còn chiếm tỉ lệ thấp, điều này được phân tích ở tình hình nợ quá hạn (phần sau). * Dư nợ hộ sản xuất. Dư nợ cho vay luôn là thước đo hoạt động của một ngân hàng nên bất kỳ ngân hàng thương mại nào cũng chú trọng tăng trưởng dư nợ, cũng như các chi nhánh ngân hàng nông nghiệp khác, NHNo&PTNT Hà tây ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc3782.doc