Một số vấn đề về công tác quản lý chất lượng công trình xây dựng ở Xí nghiệp Xây dựng số 2 thuộc Công ty Xây dựng số 4

LỜI NÓI ĐẦU Trong những năm gần đây nền kinh tế tăng trưởng nhanh, đã tạo nên động lực thu hút mạnh mẽ đầu tư từ nhiều nguồn cho xây dựng. Vì thế thị trường xây dựng nước ta trở nên sôi động hơn bao giờ hết. Nhiều kỹ thuật, công nghệ tiên tiến mang tính đột phá đã được mang vào Việt Nam tạo một bước tiến khá xa về tốc độ xây lắp, về quy mô công trình, về chất lượng, về tổ chức trong xây dựng, tạo một diện mạo mới của một đất nước đang phát triển vững chắc tiến vào những năm đầu của thiên niên

doc105 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1374 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Một số vấn đề về công tác quản lý chất lượng công trình xây dựng ở Xí nghiệp Xây dựng số 2 thuộc Công ty Xây dựng số 4, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kỷ thứ 3. Song chính thời điểm này cũng bộc lộ sự hẫng hụt về trình độ sơ hở về quản lý, buông lỏng về kiểm soát trong lĩnh vực chất lượng các công trình xây dựng. Nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững, thúc đẩy sự công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, quản lý chất lượng công trình đòi hỏi những chuyển biến mới, vững chắc nhưng cũng thực sự khẩn trương. Chúng ta đều có thể hiểu rằng, chất lượng không là điều xảy ra trong chốc lát. Sự theo đuổi chất lượng là một cuộc hành trình bền bỉ đòi hỏi sự đổi mới tự hoàn thiện nâng cao trình độ và phương pháp quản lý để theo kịp tiến độ và tập quán quốc tế. Công trình xây dựng với vốn đầu tư lớn không cho phép phế phẩm đã đặt ra một đòi hỏi đặc biệt cấp thiết với công tác quản lý chất lượng công trình. Trong những năm qua như một số công ty xây dựng trong cả nước, xí nghiệp xây dựng số 2 thuộc công ty xây dựng số 4 đã từng bước đổi mới và hoàn thiện công tác quản lý chất lượng công trình xây dựng.Tuy vậy, công tác này vẫn còn ở thế bị động trong ngành và còn nhiều tồn tại. Với những kiến thức đã học được và tích luỹ trong nhà trường kết hợp với những tài liệu đọc thêm, xuất phát từ thực trạng của xí nghịêp được tiếp xúc trong thời gian đi thực tế tôi mạnh dạn chọn đề tài : “MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG Ở XÍ NGHIỆP XÂY DỰNG SỐ 2 THUỘC CÔNG TY XÂY DỰNG SỐ 4” với mong muốn góp một phần nhỏ vào việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của xí nghiệp. Tôi xin trân thành cảm ơn sự giúp đỡ của thầy hướng dẫn: Giáo Sư Tiến sỹ Đỗ Hoàng Toàn và cùng các anh chị trong xí nghiệp đã tận tình hướng dẫn và tạo mọi điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành tốt chuyên đề thực tập này. CHƯƠNG I: QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG CÔNG TRÌNH - SỰ TỒN TẠI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA DOANH NGHIỆP XÂY DỰNG I. CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM, VAI TRÒ CỦA CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM TRONG SẢN XUẤT KINH DOANH. 1. Các quan niệm về chất lượng sản phẩm. Chất lượng là một phạm trù phức tạp biến động theo sự phát triển của khoa học kỹ thuật, nhận thức và mong muốn của con người. Hiện có nhiều quan niệm khác nhau về chất lượng, sản phẩm mỗi quan niệm đó đều có căn cứ khoa học và thực tiễn khác nhau và như vậy chúng có những đóng góp nhất định vào việc thúc đẩy khoa học quản lý chất lượng không ngừng phát triển và hoàn thiện. Căn cứ vào những điểm tương đồng giữa các quan niệm ta có rhể khái quát thành những nhóm chủ yếu sau: - Quan niệm chất lượng sản phẩm theo triết học: Theo triết học thì chất lượng là tính xác định bản thân của khách thể, nhờ đó mà nó là cái đó chứ không phải là cái khác mà cũng nhờ đó mà nó khác biệt với cái khách thể khác. Với quan niệm này chỉ có ý nghĩa để phân loại, phân biệt vật chất nó chỉ mang ý nghĩa triết học, chứ không mang ý nghĩa kinh tế. - Quan niệm sản phẩm hướng theo công nghệ: Nhóm tác giả theo quan niệm này cho rằng chất lượng sản phẩm là tổng hợp những đặc tính bên trong của sản phẩm, có thể đo được hoặc so sánh được, phản ánh giá trị sử dụng và chức năng của sản phẩm đó đáp ứng yêu cầu định trước cho nó, trong những yêu cầu định trước cho nó trong những yêu cầu xác định về kinh tế xã hội. Ưu điểm của quan niệm này ở chỗ có thể dễ dàng đánh giá được chất lượng đơn thuần về mặt kỹ thuật và ở mặt tương đối tĩnh, dẫn đến nguy cơ làm cho chất lượng không cải tiến kịp thời, quan niệm này chất lượng sản phẩm không gắn chặt với nhu cầu thị trường mà dẫn đến khả năng tiêu thụ sản phẩm kém. - Quan niệm chất lượng sản phẩm theo hướng khách hàng: Theo hướng này có rất nhiều tác giả trong đó có các đại diện tiêu biểu là các chuyên gia nổi tiếng về chất lượng như: Crosby, Dening, Juran, Ilikwa..... Hầu hết các tác giả đều khẳng định chất lượng sản phẩm chính là mức độ thoả mãn nhu cầu hay sự phù hợp với những đòi hỏi của khách hàng. Từ đó mà mức độ đáp ứng nhu cầu là cơ sở đánh giá trình độ chất lượng sản phẩm đạt được. Chất lượng sản phẩm không chỉ là các chỉ tiêu kỹ thuật mà cả về những yêu cầu về mặt kinh tế xã hội. Điểm nổi bật của quan niệm này là ở chỗ chất lượng sản phẩm luôn gắn bó chặt chẽ với nhu cầu và xu hướng vận động của nhu cầu thị trường nên sản phẩm cần phải thường xuyên cả tiến, đổi mới phù hợp cho thích ứng với đòi hỏi của khách hàng. Khách hàng là người xác định chất lượng chứ không phải là người quản lý hay người xản xuất. Xuất phát từ việc nhấn mạnh đến mục tiêu chủ yếu của từng doanh nghiệp theo đuổi nhằm thích ứng với đòi hỏi của thị trường như lợi thế cạnh tranh, tính hoàn thiện không ngừng của sản phẩm, khả năng vượt những đòi hỏi của khách hàng... Các tác giả còn đưa ra những quan điểm khác nhau về chất lượng sản phẩm - Quan niệm của tổ chức tiêu chuẩn chất lượng nhà nước Liên Xô (IOCT) Chất lượng sản phẩm là một tập hợp những tính chất của sản phẩm định chế thoả mãn những nhu cầu xác định phù hợp với công dụng của nó. - Quan niệm của tổ chức tiêu chuẩn chất lượng thế giới (ISO) Theo quan niệm này “chất lượng là tổng thể các chi tiêu, những đặc trưng của nó thể hiện được sự thoả mãn nhu cầu trong những điều kiện tiêu dùng xác định, phù hợp với công dụng của sản phẩm mà người tiêu dùng mong muốn’’. Cho tới ngày nay quan niệm chất lượng sản phẩm tiếp tục mở rộng hơn nữa, chất lượng là sự kết hợp giữa các đặc tính của sản phẩm thoả mãn những nhu cầu của khách hàng trong những giới hạn chi phí nhất định. Trong thực tế ta thấy rằng các doanh nghiệp theo đuổi chất lượng cao với bất cứ giá nào mà luôn đặt nó trong một giới hạn về kinh tế, xã hội và công nghệ. 2. Các loại chất lượng sản phẩm Qua sự phân tích nghiên cứu, các chuyên gia chất lượng sản phẩm đã đưa ra 6 loai chất lượng sản phẩm như sau: - Chất lượng thiết kế: chất lượng thiết kế là chất lượng thể hiện những thuộc tính chỉ tiêu của sản phẩm được phác thảo trên cơ sở nghiên cứu thị trường được định ra để sản xuất, chất lượng thiết kế được thể hiện trong các bản vẽ, bản thiết kế, trên các yêu cầu cụ thể về phương diện vật liệu chế tạo,những yêu cầu về gia công, sản xuất chế tạo, yêu cầu về bảo quản, yêu cầu về thử nghiệm và những yêu cầu hướng dẫn sử dụng. Chất lượng thiết kế còn gọi là chất lượng chính sách nhằm đáp ứng đơn thuần về lý thuyết đối với nhu cầu thị trường, còn thực tế có đạt được điều đó hay không thì nó còn chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố. Yêu cầu đặt ra đối với những người đặt ra chất lượng thiết kế phải rất thận trọng bởi đó là những bước đầu tiên quyết định tới cả quá trình sản xuất sản phẩm, thậm trí nó còn ảnh hưởng cả tới quá trình đầu tư công nghệ. Chất lượng chuẩn là loại chất lượng mà thuộc tính và chỉ tiêu của nó được phê duyệt trong quá trìng quản lý chất lượng và người quản lý chính là các cơ quan quản lý về mặt chất lượng sản phẩm mới có quyền phê chuẩn và sau khi phê chuẩn rồi thì chất lượng này trở thành pháp lệnh, văn bản pháp quy. Chất lượng thực tế là mức độ thực tế đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của sản phẩm và nó được thể hiện sau quá trình sản xuất trong quá trình sử dụng sản phẩm. Chất lượng là mức độ cho phép về độ lệch giữa chất lượng chuẩn và chất lượng thực tế của sản phẩm. Chất lượng cho phép là do các cơ quan quản lý chất lượng sản phẩm, quan quản lý thị trường, trong hợp đồng quốc tế, hợp đồng giữa đôi bên quy định. - Chất lượng tối ưu Chất lượng tối ưu của sản phẩm biểu thị khả toàn năng toàn diện nhu cầu thị trường điều kiện xác định với những chi phí xã hội thấp nhất. Chất lượng tối ưu của sản phẩm nói nên mối quan hệ giữa chất lượng sản phẩm và chi phí. - Chất lượng toàn phần: Chất lượng toàn phần là mức chất lượng thể hiện mức tương quan giữa hiệu quả có ích cho sử dụng sản phẩm có chất lượng cao và tổng chi phí để sản xuất và sử dụng sản phẩm đó. Các yếu tố cấu thành chất lượng sản phẩm: Chất lượng sản phẩm được phản ánh thông qua hệ thống các chỉ tiêu cụ thể : + Tính năng tác dụng của sản phẩm: Chỉ tiêu này nói nên đặc tính công dụng của của sản phẩm thoả mản nhu cầu cần xác định, chỉ tiêu này là chỉ tiêu bắt buộc với tất cả các loại sản phẩm, nó chính là giá trị sử dụng của sản phẩm. Giữa chất lượng sản phẩm với chất lượng sử dụng có quan hệ với nhau, thường giá trị sử dụng của sản phẩm tăng thì chất lượng sản phẩm phải tăng và ngược lại. + Các chỉ tiêu kỹ thuật: Chỉ tiêu kỹ thuật là những chỉ tiêu nêu lên những yêu cầu, những đặc chưng về phương diện trình độ kỹ thuật như các tính chất cơ, lý, hoá, kích thước kết cấu, thành phần cấu tạo, dung sai của sản phẩm. + Các chỉ tiêu thẩm mỹ đặc trưng cho khả năng gợi cảm của sản phẩm, biểu hiện về thông tin, về sự hợp lý của hình thức, cấu tạo của sản phẩm. Nhóm chỉ tiêu thẩm mỹ rất quan trọng đối với hàng tiêu dùng. Những chỉ tiêu thẩm mỹ là những chỉ tiêu ngoại quan có thể là chỉ tiêu của sản phẩm, cũng có thể là chỉ tiêu của bao gói, bao bì. Những chỉ tiêu về màu sắc, hoạ tiết, kết cấu ngoại hình, chất lượng bề mặt, độ bóng, độ cứng, độ bền màu là những chỉ tiêu thẩm mỹ. Những chỉ tiêu thể hiện kiểu, mốt cũng là chỉ tiêu thẩm mỹ.Chỉ tiêu thuộc nhóm này thường là chỉ tiêu định tính được đánh giá bằng phương pháp cảm quan. + Chỉ tiêu công thái: thể hiện mối quan hệ giữa con người và sản phẩm, sản phẩm và môi trường. Chỉ tiêu công thái là chỉ tiêu chất lượng quan trọng với nhiều loại hàng hoá, có liên quan đến tính tiện dùng của sản phẩm và sự phù hợp của hàng hoá với những quy định của luật pháp, v.v... Chỉ tiêu công thái gồm nhiều nhóm khác nhau: * Chỉ tiêu thể hiện sự phù hợp của sản phẩm với những đặc điểm nhân trắc, thể trọng của người tiêu dùng; * Những chỉ tiêu thể hiện sự phù hợp của sản phẩm với đặc điểm sinh lý của người sử dụng. Những đặc điểm tâm sinh lý có thể phân biệt theo lứa tuổi, giới tính, dân tộc. Những đặc điểm tâm lý còn liên quan đến tập quán, thói quen, v.v... * Những chỉ tiêu thể hiện sự phù hợp của hàng hoá với môi trường, với điều kiện sử dụng... Như những chỉ tiêu về mức gây ồn, thành phần chất thải. * Tuổi thọ của sản phẩm đặc trưng cho quãng thời gian mà sản phẩm vẫn còn giữ được trong nó một giá trị sử dụng nhất định. Tuổi thọ của sản phẩm còn cho biết được mối tương quan giữa tuổi thọ của sản phẩm với mức tuổi thọ trung bình của các sản phẩm cùng loại. +Chỉ tiêu độ tin cậy: Độ tin cậy đặc trưng cho đặc tính của sản phẩm liên tục giữ được khả năng làm việc trong một khoảng thơì gian nào đó. + Chỉ tiêu độ an toàn của sản phẩm. Đó là những chỉ tiêu đòi hỏi những sản phẩm không gây ra sự cố trước, trong và sau quá trình sử dụng. Chỉ tiêu này mang tính chất bắt buộc nhất là những sản phẩm xây dựng ( các công trình công nghiệp, công trình nhà ở...) + Chỉ tiêu sinh thái học: Chỉ tiêu này đặc trưng cho mức độ gây ô nhiễm môi trường của sản phẩm và sau quá trình sử dụng sản phẩm. Tính thống nhất hoá và tiêu chuẩn hoá: Đây là một chỉ tiêu thường được người ta nghiên cứu rất kỹ trên cơ sở các thành tựu mới nhất của khoa học, kỹ thuật, ban hành dưới các dạng văn bản và mang tính pháp qui thống nhất để mọi cơ sở sản xuất kinh doanh thực hiện. Các văn bản này thường là các tiêu chuẩn và dưới các cấp khác nhau như xí nghiệp, ngành, địa phương, nhà nước, quốc tế. +Ngoài ra còn một số chỉ tiêu khác như: * Tính dễ sử dụng; * Tính dễ vận chuyển, bảo quản; * Dễ phân phối. * Dễ sửa chữa; * Tiết kiệm tiêu hao nguyên liệu, năng lượng; 4. Một số điều rút ra từ khái niệm chất lượng: chất lượng hàng hoá là tổng hợp kỹ thuật và kinh tế. Chất lượng là khả năng đáp ứng các yêu cầu. Vì vậy một sản phẩm muốn đáp ứng được những yêu cầu sử dụng thì phải có những tính chất về chức năng phù hợp . do đó, không thể tạo ra sản phẩm chất lượng cao bằng khả năng kỹ thuật non kém. Chỉ có công nghệ cao, thiết bị tiên tiến, công nhân giỏi, nguyên liệu tốt, mới làm ra sản phẩm có tính năng sử dụng cao, mới có khả năng đòi hỏi của người tiêu dùng. Đó là nội dung kỹ thuật của chất lượng. Nâng cao chất lượng là cải tiến kỹ thuật, đổi mới công nghệ. v.v ... Nhưng chất lượng không chỉ là vấn đề kỹ thuật. Nó còn là vấn đề kinh tế. Mặt kinh tế của chất lượng thể hiện ở chỗ, sự thoả mãn của người tiêu dùng không phải chỉ bằng những tính chất về chức năng của sản phẩm, mà còn bằng chi phí người ta phải bỏ ra để có sản phẩm và sử dụng nó. Sự đòi hỏi của người tiêu dùng bị các chi phí này giới hạn nặng, vì vậy mới có sự thoả mãn. Yêu cầu của người tiêu dùng Chất lượng Tính kinh tế ( Chi phí, hiệu quả) Tính năng Kỹ thuật Như vậy, “đáp ứng yêu cầu” thực hiện bằng hai mặt: tính năng kỹ thuật và tính kinh tế (thể hiện qua chi phí, hiệu quả sử dụng) của sản phẩm. Đi đôi với việc nâng cao tính năng sử dụng sản phẩm tất yếu phải giảm được chi phí mới có thể nâng cao chất lượng sản phẩm. Chất lượng chính là giải quyết quan hệ giữa ba mặt sau đây: Hình 1 Yêu cầu thực sự của người tiêu dùng. Đặc tính chức năng sản phẩm phù hợp với các đòi hỏi đó. Tính kinh tế. chất lượng hàng hoá chỉ được xác định theo mục đích sử dụng, đối với điều kiện sử dụng cụ thể. Nghĩa là không có sản phẩm chất lượng cho mọi người. Sản phẩm chỉ có chất lượng với một đối tượng tiêu dùng, được sử dụng vào một mục đích, với những điều kiện sử dụng nhất định. Chất lượng là sự đáp ứng các yêu cầu. Đối tượng sử dụng khác nhau sẽ có các yêu cầu khác nhau. Yêu cầu của người tiêu dùng là đa dạng. Do vậy muốn tạo ra sản phẩm có chất lượng phải phân nhỏ thị trường, phân đối tượng tiêu dùng thành nhiêu loại và làm nhiều loại sản phẩm khác nhau cho từng đối tượng. Do đó, đa dạng hoá sản phẩm là con đường tất yếu để nâng cao chất lượng. Chất lượng có tính tương đối. Sự tương đối thể hiện trên cả hai mặt không gian và thời gian. Một loại hàng hoá có thể có chất lượng ở thị trường này, nhưng không có chất lượng ở thị trường khác. Ngay tại một thị trường mỗi loại sản phẩm chỉ có chất lượng với một đối tượng tiêu dùng.một loại sản phẩm có chất lượng hôm nay, ngày mai có thể không còn chất lượng nữa. Bởi vì, nhu cầu của người tiêu dùng có thể đã thay đổi hoạc có những sản phẩm khác phù hợp hơn xuất hiện. Do vậy, muốn duy trì được chất lượng tất yếu phải đổi mới sản phẩm. Như vậy,đa dạng hoá và thường xuyên đổi mới sản phẩm là con đường tất yếu của nâg cao chất lượng. 5. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm: Chất lượng sản phẩm ảnh hưởng tới nhiều nhân tố khác nhau nhưng nói chung người ta chia thành hai nhóm nhân tố ảnh hưởng chủ yếu đó là nhóm nhân tố bên ngoài và nhóm nhân tố bên trong. Nhóm nhân tố bên ngoài: Nhu cầu thị trường: Nhu cầu thị trường là xuất phát của quá trình quản lý chất lượng tạo lực kéo, định hướng cho cải tiến vầ hoàn thiện chất lượng sản phẩm, cơ cấu, tính chất, đặc điểm và xu hướng vận động của nhu cầu tác động trực tiếp đến chất lượng sản phẩm. Từ đó phải đòi hỏi phải tiến hành nghiêm túc, thận trọng công tác điều tra nghiên cứu nhu cầu thị trường, phân tích môi trường kinh tế hã hội, xác định chính xác nhận thức của khách hàng, thói quen, phong tục tập quán văn hoá, nối sống, mục đích sử dụng và khả năng thanh toán... Trình độ tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ: Tiến bộ khoa học công nghệ có tác dụng như lực đẩy nâng cao chất lượng sản phẩm thông qua viêc tạo khả năng to lớn đưa chất lượng sản phẩm không ngừng tăng lên. Tiến bộ khoa học công nghệ đã tạo ra và đưa vào sản xuất những công nghệ mới có các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật cao hơn. Khoa học kỹ thuật cho phép chúng ta tạo ra và tìm ra những nguyên liệu mới, nguyên liệu tôt hơn, rẻ hơn, nhờ có tiến bộ khoa học kỹ thuật mà ta có thể mà ta có thể tạo ra các phương pháp và phương tiện kỹ thuật quản lý tiên tiến góp phần nâng cao chất lượng,giảm chi phí. Cơ chế quản lý: Khả năng cải tiến nâng cao chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp phụ thuộc chặt chẽ vào cơ chế quản lý của mỗi nước bởi lẽ: Cơ chế quản lý của nhà nước có tạo ra được tính độc lập tự chủ, sáng tạo trong cải tiến sản phẩm của mõi doanh nghiệp hay không? Cơ chế quẩn lý của nhà nước có tạo ra và hình thành lên một môi trường thuân lợi cho các doanh nghiệp huy động công nghệ mới, tiếp thu ứng dụng những phương pháp quản lý chất lượng hiện đại hay không? Cơ chế quản lý tạo ra sự cạnh tranh, xoá bỏ sức ỳ tấm lý ỷ lại không nhừng phát huy sáng kiến cải thiện hoàn thiện chất lượng sản phẩm. Nhóm nhân tố bên trong: Các nhân tố bên trong có ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm bao gồm các nhân tố sau: Lực lượng lao động trong doanh nghiệp: Đây là những nhân tố có ảnh hưởng quyết định tới chất lượng sản phẩm. Nó bao gồm trình độ chuyên môn tay nghề kinh nghiệm, ý thức, trách nhiệm tính kỷ luật tinh thần hiệp tác phối hợp khả năng thích ứng với sự thay đổi của ngoaị cảnh, khả năng thu nhập và xử lý thông tin của mọi thành viên trong doanh nghiệp tác động trực tiếp tới chất lượng sản phẩm. Khả năng về công nghệ máy móc thiết bị của mỗi doanh nghiệp. Công nghệ là một trong những yếu tố có tác động mạnh mẽ tới chất lượng sản phẩm trong mỗi doanh nghiệp phụ thuộc vào trinhf độ hiện đại cơ cấu, tính đồng bộ, tình hình bảo dưỡng, duy trì khả năng làm việc của máy móc thiết bị công nghệ, đặc biệt là những doanh nghiệp tự động hoá cao, dây truyền có tính chất sản xuất linh hoạt. Vật tư nguyên liệu và hệ thống tổ chức đảm bảo vật tư nguyên liệu của doanh nghiệp. Chủng loại cơ cấu tính đồng bộ chất lượng nguyên liệu ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng sản phẩm bởi lẽ vật tư nguyên liệu phải có chất lượng cao, và việc cung ứng nguyên liệu cũng phải đảm bảo cung cấp đầy đủ đồng bộ, kịp thời và đúng yêu cầu về chủng lọi và chất lượng nguyên vật liệu. Trình độ tổ chức quản lý và tổ chức sản xuất doanh nghiệp. Trình độ quản lý nói chung và trình độ quản lý chất lượng nói riêng là một trong những nhân tố cơ bản góp phần đẩy mạnh tốc độ cải tiến hoàn thiện chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp. Theo đánh giá của các chuyên gia về quản lý chất lượng sản phẩm thì trong thực tế có tới 80% những vấn đề chất lượng là do quản lý gây ra. Chất lượng sản phẩm phụ thuộc rất nhiều vào cơ cấu bộ máy quản lý, khả năng xác định mục tiêu chính sách, chất lượng và chủ đạo tổ chức thực hiện chương trình kế hoạch chất lượng. 6. Ý nghĩa của việc nâng cao chất lượng sản phẩm . Việc nâng cao chất lượng sản phẩm có ý nghĩa to lớn đối với cả người sản xuất và người tiêu dùng. Đối với người sản xuất: trong nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam bây giờ và nền kinh tế thị trường đang phát triển trên thế giới thì bất cứ một loại sản phẩm nào cũng có thể được sản xuất và cung cấp bởi nhiều nhà sản xuất khác nhau, nó tạo ra sự canh tranh mạnh mẽ giữa các nhà sản xuất. Trong cạnh tranh họ có thể dùng nhiều yếu tố sản phẩm của mình để làm vũ khí cạnh tranh, mà trong vũ khí cạnh tranh hiệu quả nhất thường được sử dụng nhất là giá cả và chất lượng sản phẩm. Xã hội càng phát triển đời sống xã hội càng nâng cao thì yếu tố chất lượng sản phẩm có xu hướng quyết định hơn yếu tố giá cả trong cạnh tranh. Do vậy mà việc nâng cao chất lượng sản phẩm sẽ giúp cho doanh nhiệp có khả năngcạnh tranh cao hơn trên thị trường. Nâng cao chất lượng sản phẩm sẽ atọ uy tín, danh tiếng, cơ hội tồn tại và phát triển lâu dài cho doanh nghiệp. Việc nâng cao chất lượng sản phẩm tạo cơ hội cho doanh nghiệp hội nhập buôn bán làm ăn với các nước, giữ uy tín quốc gia. Nâng cao chất lượng tức là cùng một khối lượng nguyên liệu chúng có thể sản xuất ra một giá trị sủ dụng cao hơn, do đó mà doanh nghiệp có thể tiết kiệm được sức người sức của. Đối với người tiêu dùng: việc nâng cao chất lượng sản phẩm là ngày càng thoả mãn nhu cầu cao về tiêu dùng, nhu cầu về số lượng, chủng loại, phẩm chất của sản phẩm. Người tiêu dùng có thể tiết kiệm được sức người sức của thông qua việc tiêu dùng, sử dụng có chất lượng cao. Tạo dựng được lòng tin, độ tin cậy của người tiêu dùng đối với sản phẩm hàng hoá, giải quyết được vấn đề an toàn trong quá trình sử dụng, tiêu dùng sản phẩm. Ngoài việc nâng cao chất lượng sản phẩm còn làm tăng khả năng cạnh tranh về kinh tế của đất nước, góp phần làm khẳng định sản phẩm của Việt Nam trên thị trường thế giới và trong khu vực. Như vậy việc nâng cao chất lượng sản phẩm là một biện pháp hữu hiệu kết hợp các loại lợi ích của doanh nghiệp, người tiêu dùng, xã hội và người lao động. II. QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG: 1. Thực chất của quản lý chất lượng. Các quan niệm về quản lý chất lượng được phát triển và hoàn thiện liên tục thể hiện ngày càng đầy đủ hơn về bản chất tổng hợp, phức tạp của vấn đề chất lượng phản ánh sự thích ứng với điều kiện và môi trường kinh doanh mới. Vào những năm đầu của thế kỷ này chỉ có khái niệm là kiểm tra chất lượng sản phẩm và được thực hiện ở quá trình sản xuất. Cho đến những năm 50 thì bắt đầu xuất hiện khái niệm quản lý chất lượng lúc này nội dung và phạm vi quản lý, chức năng quản lý chất lượng được mở rộng hơn nhưng nó tập trung chủ yếu vào giai đoạn sản xuất sản phẩm. Nhận thức được tầm quan trọng và ý nghĩa kinh tế, chính trị của chất lượng hàng hoá, nhất là hàng hoá xuất nhập khẩu, nhà nước ta đã sớm quan tâm đến quản lý chất lượng hàng hoá. Từ những năm đầu của thập niên 60, nhà nước đã ban hành những văn bản tạo cơ sở pháp lý cho công tác quản lý chất lượng hàng hoá và tổ chức các cơ quan quản lý và các cơ quan nghiên cứu về lĩnh vực này. Năm 1963 chính phủ ra nghị định 124/CP “ về nghiên cứu xây dựng, xét duyệt, ban hành tiêu chuẩn kỹ thuật của sản phẩm công nghiệp” tạo cơ sở pháp lý cho công tác tiêu chuẩn hoá. Từ đó công tác tiêu chuẩn hoá ở nước ta được đẩy mạnh. Viên tiêu chuẩn hoá được thành lập, tiến hành nghiên cứu, xây dựng và ban hành tiêu chuẩn cho phép sản phẩm và các vấn đề quản lý. Những quy phạm kỹ thuật, quy trình kỹ thuật, định mức kỹ thuật được ban hành và áp dụng trong sản xuất. Năm 1974 “ Điều lệ về công tác tiêu chuẩn hoá ở các xí nghiệp công nghiệp “ được ban hành làm cho công tác tiêu chuẩn hoá phát triển sâu, rộng đến các xí nghiệp. Năm 1964 Nghị Định 186/CP ban hành “ Bảng đo lường hợp pháp của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà “ tạo cơ sở pháp lý cho công tác quản lý và thống nhất hoá đo lường. Việc quản lý và thống nhất đo lường đã tạo cơ sở cho công tác tiêu chuẩn hoá và quản lý chất lượng. Trên cơ sở những thành quả của tiêu chuẩn hoá và quản lý đo lường, nhà nước tăng cường quản lý đối với công tác kiểm tra, đánh giá chất lượng sản phẩm hàng hoá, nhằm đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng hàng hoá, đẩy mạnh xuất khẩu. Năm 1971, Chínhphủ ra quyết định số 60/CP và 61/CP thành lập hội đồng xét duyệt sản phẩm của chính phủ và cục kiểm tra chất lượng sản phẩm hàng hoá. Sau đó theo nghị định 62/CP ban hành “ Điều lệ kiểm tra chất lượng sản phẩm và hàng hoá “ ở các nhà máy, xí nghiệp quốc doanh, việc kiểm tra chất lượng sản phẩm được tăng cường và chỉ đạo thống nhất. Việc kiểm tra chất lượng hàng hoá trong nội thương cũng như trong ngoại thương đã đi vào quy củ nền nếp. Trên thực tế nhà nước đã thiết lập hệ thống quản lý từ Trung Ương đến cơ sở sản xuất, kinh doanh. Hệ thống quản lý chất lượng này đã góp phần to lớn vào việc quản lý các hoạt động sản xuất, kinh doanh của nền kinh tế XHCN. Hệ thống tổ chức quản lý nhà nước thường có những cải tiến thay đổi cho phù hợp với nhiệm vụ của từng thời kỳ. Ta có thể chia ra thành hai giai đoạn: trước đổi mới (1986) và sau đổi mới để thấy rõ những đặc điểm cơ bản của hệ thống quản lý. * Giai đoạn trước 1986: Nền kinh tế Việt Nam theo mô hình kế hoạch hoá tập trung, các đơn vị sản xuất, kinh doanh hoạt động theo những chỉ tiêu được giao và những mệnh lệnh từ cấp trên. Các hệ thông quản lý kinh tế, kỹ thuật, được thiết lập từ Trung ương đến cơ sở. Hệ thống quản lý chất lượng hàng hoá, dịch vụ cũng vậy. Mọi hoạt động trong lĩnh vực chất lượng được chỉ đạo thông nhất từ cơ quan quản lý Trung Ương đến tận cơ sở sản xuất, kinh doanh. Những phòng chất lượng, phòng KCS ( kiểm tra chất lượng sản phẩm ) của các nhà máy, xí nghiệp; các phòng thí nghiệm, thử nghiệm của các tổ chức giám định chất lượng, v.v... đều hoạt động dưới sự chỉ đạo chuyên môn theo ngành dọc. Trong giai đoạn này không có sự phân biệt giữa quản lý nhà nước và quản lý các đơn vị kinh tế. Các đơn vị sản xuất, kinh doanh rất ít quyền chủ động. Nhiệm vụ chủ yếu của các đơn vị là thực hiên những chỉ tiêu được giao. Những chỉ tiêu pháp lệnh thường là sản lượng, doanh số nộp quốc doanh,v.v...Các nhà máy được cung cấp nghuyên vật liệu, vật tư kỹ thuật và bao tiêu sản phẩm. Các đơn vị thương nghiệp được chỉ định những nơi cung cấp hàng hoá cho các đối tượng và địa bàn đã xác định. Vì vậy các đơn vị chỉ chú ý đến việc thực hiên các chỉ tiêu về sản lượng, doanh số,v.v...còn chất lượng sản phẩm hàng hoá ít được quan tâm, mà chỉ thực hiện việc quản lý có tính hình thức. Mặt khác, do xu hướng chuyên môn hoá của nền sản xuất lớn XHCN mà các giai đoạn trong vòng đời của hàng hoá bị tách rời nhau. Việc nghiên cứu thiết kế sản phẩm và quy trình sản xuất, xây dựng các tiêu chuẩn, định mức, quy phạm kỹ thuật,v.v...do các Viện nghiên cứu thực hiện. Việc chế tạo sản phẩm do các nhà máy, xí nghiệp thực hiện. Việc phân phối, tiêu thụ hàng hoá do các đơn vị thương nghiệp thực hiện. Người tiêu dùng tiếp nhận hàng hoá một cách thụ động không có quyền lựa chọn. Do nhiều nguyên nhân khác nhau chúng ta luôn ở trong tình trạng khan hiếm hàng hoá. Hàng hoá sản xuất ra bất kể xấu tốt thế nào đều tiêu thụ hết. Những đặc điểm nêu trên dẫn đế tình trạng là chất lượng hàng hoá dịch vụ ngày càng kém. Có nhiều sản phẩm không còn thực hiện được chức năng, không đáp ứng được yêu cầu sử dụng. Hàng hoá xuất khẩu thường bị khiếu nại về chất lượng. Chủng loại, cơ cấu hàng hoá ngày càng nghèo nàn. Hàng hoá không được đổi mới, cải tiến, lạc hậu thấp kém so với hàng hoá ngoại. Tình trạng này ảnh hưởng nghiêm trọng đến kinh tế, xã hội. Nhà nước ta đã có nhiều nỗ lực, cố gắng chấn chỉnh công tác quản lý chất lượng thể hiện qua nhiều văn bản và thay đổi tổ chức bộ máy quản lý. Sự nỗ lực quản lý theo hướng soát xét lại các tiêu chuẩn, quy định,v.v...Nhưng việc quản lý chất lượng vẫn mang tính hình thức, kém hiệu quả và không ngăn chặn được đà xuống dốc về chất lượng. Giai đoạn từ 1986 đến nay: Đại Hội Đảng lần thứ VI đã đề ra đường lối đổi mới nền kinh tế, thực hiện kinh tế mở, nhiều thành phần vận động theo kinh tế thị trường có điều tiết của nhà nước, các doanh nghiệp được trao quyền chủ động trong mọi hoạt động, xoá bỏ bao cấp. Các doanh nghiệp phải chấp nhận sự cạnh tranh để tồn tại và chất lượng hàng hoá, dịch vụ trở thành vấn đề quuyết định. Mỗi doanh nghiệp phải tự lo liệu, phải tự quản lý để sao cho hàng hoá, dịch vụ có chất lượng, có năng lực cạnh tranh. Có thể nói, đến lúc này các doanh nghiệp mới thực sự đối mặt với với vấn đề chất lượng và quản lý chất lượng mới trở thành nỗi bận tâm của mỗi giám đốc. Đi đôi với việc trao quyền tự chủ cho các doanh nghiệp, nhà nước cũng phải thay đổi cách quản lý, không can thiệp vào công việc của các doanh nghiệp mà chỉ thực hiện chức năng hướng dẫn, điều tiết, tạo môi trường thuận lợi.v.v... Quản lý chất lượng cũng theo hướng như vậy. Hệ thống quản lý chất lượng hàng hoá, dịch vụ phân hoá thành hai bộ phận: một bộ phận thực hiện quản lý nhà nước về chất lượng, một bộ phận chuyển thành doanh nghiệp kinh doanh giám định chất lượng hàng hoá (một số đơn vị giải thể). Quản lý nhà nước về chất lượng hàng hoá, dịch vụ có mục đích đảm bảo nâng cao chất lượng hàng hoá, thúc đẩy phát triển kinh doanh, sủ dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên lao động, bảo đảm, an toàn, vệ sinh, bảo vệ môi trường, bảo vệ quyền và lợi ích người tiêu dùng, góp phần mở rộng thương mại và hợp tác quốc tế. Việc quản lý nhà nước về chất lượng hàng hoá, dịch vụ bao gồm: - Nhà nước định hướng sự phát triển nâng cao chất lượng hàng hoá, dịch vụ; xây dựng kế hoạch, quy hoạch về chất lượng, ban hành luật và các chíng sách khuyến khích chất lượng. - Nhà nước quy hoạch chế độ, thể lệ về quản lý chất lượng, ban hành tiêu chuẩn Việt Nam, quy định việc áp dụng tiêu chuẩn Việt Nam và tiêu chuẩn quốc tế liên quan đến chất lượng hàng hoá, dịch vụ. - Nhà nước xác nhận tính hợp pháp của hàng hoá, dịch vụ về mặt chất lượng, của các hệ thống quản lý chất lượng, của các phòng thử nghiệm chất lượng hàng hoá, v..v ... bằng việc cấp đăng ký, chứng nhận và công nhận. - Nhà nước giám sát sự thực hiện những quy định quản lý qua thanh tra nhà nước về chất lượng hàng hóa và sử lý vi phạm pháp luật về chất lượng hàng hoá, thiết lập trật tự, kỷ cương trong lĩnh vực chất lượng hàng hoá, bảo vệ lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp và quyền lợi người tiêu dùng. Các vấn đề cụ thể về chất lượng hàng hoá, dịch vụ do các doanh nghiệp tự quản lý, tự quyết định. Mọi hoạt động snả xuất, kinh doanh của tất cả các thành phần kinh tế, đều chịu sự quản lý nhà nước về chất lượng hàng hoá bình đẳng như nhau. Hàng hoá lưu hành trên lãnh thổ Việt Nam phải hợp pháp về mặt chất lượng, việc sản xuất và buôn bán hàng hoá( kể cả xuất nhập khẩu) phải thực hiện những quy định về chất lượng hàng hoá của cơ quan quản lý nhà nước về chất lượng hàng hoá. Ngày nay quản lý chất lượng đã được mở rộng tới tất cả các lĩnh vực từ sản xuất đến quản lý dịch vụ trong toàn bộ đời sống cuả sản phẩm và tập trung vào nâng cao chất lượng của quá trình và của toàn bộ hệ thống . Hiện có nhiều định nghĩa khác nhau về quản lý chất lượng sản phẩm, dưới đây là một số định nghĩa : Trong các tiêu chuẩn công nghiệp Nhật có định nghĩa về quản lý chất luộng như sau “ Hệ thống các phương pháp sản xuất tạo điều kiện sản xuất tiết kiệm sản xuất những hàng hoá có chất lượng thoả mãn yêu cầu của người tiêu dùng . Quản lý chất lượng hiện đại dựa trên việc sử dụng những phương pháp thống kê và thường được gọi là kiểm tra thống kê chất lượng “. Theo KUÔRU IXIKAOA người chuyên gia tầm cỡ về quản lý chất lượng ở Nhật thì định nghĩa: “Quản lý chất lượng có ý nghĩa là nghiên cứu triển khai, thiết kế, sản xuất và bảo dưỡng một sản phẩm có chất lượng kinh tế nhất, có ích cho người tiêu dùng và bao giờ cũng thoả mãn nhu cầu người tiêu dùng ”. Cả hai định nghĩa này đều có điểm chung đó là sản xuất và đưa ra những sản phẩm có chất lượng cao trên cơ sở thoă mãn được nhu cầu của người tiêu dùng. Do vậy tổng hợp lại có thể đi đến một khái niệm khái quát về quản lý chất lượn._.g sản phẩm như sau: Quản lý chất lượng là hệ thống các hoạt động, các biện pháp và quy định hành chính, kinh tế, kỹ thuật, tổ chức ... dựa trên những thành tựu về khoa học kỹ thuật nhằm sử dụng tối ưu các chức năng trong doanh nghiệp để đảm bảo duy trì và không ngừng nâng cao chất lượng ( thiết kế, sản xuất, tiêu thụ và tiêu dùng ) nhằm thoả mãn yêu cầu của xã hội với chi phí thấp nhất . Như vậy so với các quan niệm về quản lý chất lượng sản phẩm trước đay thì quan niệm về quản lý chất lượng hiện nay có những khác biệt cần chú ý: Về tính chất : Quản lý chất lượng hiện nay coi chất lượng là vấn đề kinh doanh ( tổng hợp kinh tế – kỹ thuật, xã hội ) là bộ phận không thể tách rời trong kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp chứ chất lượng không đơn thuần là vấ đề công nghệ như xưa . Phạm vi quản lý : Ta thấy phạm vi quản lý chất lượng hiện nay rất rộng, liên quan tới tất cả các khâu, các quá trình hoạt động tạo ra sản phẩm. Cấp quản lý: Quản lý chất lượng hiện nay được thể hiện ở mọi cấp, ở các công ty, phân xưởng, phòng, ban và người lao động với quản lý chất lượng chứ không còn bó hẹp thực hiện ở cấp phân xưởng trong khâu sản xuất trước đây. Mục tiêu: Mục tiêu quản lý chất lượng hiện nay là kết hợp giữa mục tiêu dài hạn và mục tiêu ngắn hạn nhầm thoả mãn nhu cầu của khách hàng ở mức cao nhất chứ không chỉ dừng lại ở mục tiêu ngắn hạn như trước đây là đạt mức lợi nhuận cao nhất. Sản phẩm: Với quản lý chất lượng hiện nay, sản phẩm được biểu hiện là tất cả đầu ra của mọi quá trình, không kể đó là quá trình sản xuất, hay quá trình quản lý và như vậy ngay cả những chứng từ, báo cáo, hợp đồng, đơn đặt hàng,... đều là sản phẩm và được quản lý về chất lượng để sản phẩm ở công đoạn cuối cùng đạt chất lượng cao. Và các sản phẩm được quản lý chất lượng là tất cả ( sản phẩm thực hiện bên trong và bên ngoài) chứ không chỉ dừng lại ở việc quản lý chất lượng sản phẩm với những sản phẩm cuối cùng bán ra ngoài xí nghiệp như trước. Khách hàng: Với quản lý chất lượng mới hiện nay thì khách hàng được hiểu là những người có liên quan trực tiếp đến sử dụng sản phẩm của xí nghiệp kể cả khách hàng bên trong và khách hàng bên ngoài chứ không chỉ là những khách hàng bên ngoài. Chức năng: Chức năng của quản lý chất lượng hiện nay bao gồm hoạch đọnh chất lượng, kiểm soát chất lượng, cải tiến và hoàn thiện chất lượng chứ không chỉ có một chức năng kiểm tra, kiểm soát chất lượng sản phẩm như trước kia. Đánh giá chất lượng: Trong quản lý chất lượng hiện nay, muốn đánh giá mức chất lượng thì dùng nhiều chỉ tiêu căn cứ khác nhau, chú trọng nhất là sự phản ứng của khách hàng, chứ không chỉ căn cứ vào những chỉ tiêu thiết kế như xưa. Toàn bộ quá trình quản lý chất lượng được thực hiện theo vòng xoáy trôn ốc mà W.E.Deming – một chuyên gia Mỹ đã đưa ra phương pháp tuần hoàn Sơ đồ: Vòng PDCA quản lý chất lượng Nghiên cứu BÁN HÀNG Thiết kế Sản xuất BÁN HÀNG Thiết kế Sản xuất Nghiên cứu Hình 2 * CHU TRÌNH QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG - Chu trình Deming. Như trên ta đã thấy, chất lượng thành phần phụ thuộc vào chất lượng công việc của từng người, từng bộ phận trong toàn công ty. Những hoạt động chức năng trong tổ chức tác động đến chất lượng như thế nào thì chưa rõ ràng. Động lực phát triển chất lượng là gì? Nâng cao chất lượng như thế nào? W.E.Deming đã đưa ra “ Chu trình deming” một trong những công cụ quan trọng cần thiết để thực hiện cải tiến, nâng cao chất lượng. Demingnhấn mạnh đến tầm quan trọng của các tác động thường xuyên giữa các mặt hoạt động: nghiên cứu, thiết kế, sản xuất, bán hàng, giúp cho một công ty làm ra sản phẩm với chất lượng ngày càng tốt hơn làm hài lòng khách hàng. Deming giải thích rằng bốn mặt hoạt động này trong một công ty phải được nối tiếp nhau, quan hệ mật thiết với nhau, tác động lẫn nhau, hỗ trợ lẫn nhau. Sự phối hợp bốn mặt hoạt động theo tiến trình tuần hoàn sẽ tạo ra chất lượng sẽ chiếm được niềm tin của khách hàng. Từ những hoạt động tiếp thị, nghiên cứu thị trường, nghiên cứu yêu cầu của người tiêu dùng đến thiết kế sản phẩm và thiết kế quy trình công nghệ. Từ thiết kế dến triển khai sản xuất. Từ sản xuất sản phẩm đến tổ chức tiêu thụ sản phẩm thông qua bán hàng để nghiên cứu thị trường, nghiên cứu yêu cầu người tiêu dùng và rồi lại thiết kế ... Vòng tuần hoàn tựa như bánh xe lăn trên đường chất lượng. Theo hướng dẫn của Deming, bánh xe này được quay tròn theo hướng nhận thức trước hết phải lo cho chất lượng và phải có trách nhiệm với chất lượng, với tiến trình như vậy công ty có thể chiếm được niềm tin của khách hàng được khách hàng chấp nhận là phát triển. Hệ thống quản lý chất lượng phải được áp dụng và tác động qua lại với tất cả các hoạt động có liên quan trực tiếp đến chất lượng sản phẩm hoặc dịch vụ. Hệ thống đó liên quan đến tất cả các giai đoạn từ việc xác định ban đầu đến khâu cuối cùng là thoả mãn các yêu cầu và đòi hỏi của khách hàng. điều quan trọng nhất của hệ thống quản lý chất lượng là xác lập mối quan hệ giữa các hoạt động chức năng để đạt đến mục đích chúng là chất lượng. Hệ thống quản lý chất lượng phải tạo ra sự phối hợp đồng bộ của các hoạt động đó. Chất lượng không phải là chức năng của một bộ phận trong đó tổ chức là chức năng xuyên qua tất cả các bộ phận, các phòng ban. Nói một cách khác hình ảnh, các hoạt động trong công ty phải được xếp vào hàng ngũ, đi đều bước theo hiệu lệnh của tiếng còi “ chất lượng”. Không có sự đồng bộ đó, sẽ không có chất lượng. Sự nỗ lực của bộ phận này sẽ bị bộ phận khác triệt tiêu. Chất lượng đòi hỏi sự nỗ lực đồng bộ của toàn công ty. Các hoạt động và các giai đoạn trong một công ty sản xuất – kinh doanh có thể bao gồm: 1). Marketing và nghiên cứu thị trường; 2). Thiết kế (xây dựng các quy định kỹ thuật cho sản phẩm) và nghiên cứu triển khai sản phẩm. 3). Mua nguyên liệu và vật tư kỹ thuật; 4). Chuẩn bị và triển khai quá trình sản xuất; 5). Sản xuất; 6). Kiểm tra, thử nghiệm và thẩm tra xác nhận chất lượng sản phẩm; 7). Bao gói và lưu kho; 8). Bán hàng và phân phối; 9). Dịch vụ kỹ thuật khi bán (lắp đặt, hướng dẫn vận hành); 10). Dịch vụ kỹ thuật sau bán hàng (hỗ trợ bảo trì kỹ thuật ...); 11). Thanh lý sau sử dụng. 1 2 3 4 5 6 Vòng tròn chất lượng Hình 3 “ Vòng tròn chất lượng” cho thấy chất lượng chỉ đạt được khi các hoạt động có sự liên tục từ đầu đến cuối, các hoạt động là kế tiếp nhau, không có giai đoạn nào quan trọng hơn giai đoạn nào trong việc tạo ra chất lượng. Chu trình PDCA. Sau này, khái niệm bánh xe Deming quay không ngừng đã được mở rộng đến tất cả các lĩnh vực khác của công tác quản lý, bốn giai đoạn của chu trình Deming tương ứng với những hoạt động quản lý cụ thể. Thiết kế: Thiết kế đồ án sản xuất tương ứng với giai đoạn lập kế hoạch của quản lý. Kế hoạch Sản xuất: Sản xuất tương ứng với thực hiện - làm ra sản phẩm hay thực hiện kế hoạch quản lý. Thực hiện Bán hàng: Qua lượng hàng bán ra cho thấy khách hàng có hài lòng không. Ứng với kiểm tra việc thực hiện kế hoạch quản lý. Kiểm tra Nghiên cứu: Những ý kiến của khách hàng cho những ý tưởng mới để thiết kế. Ứng với những hành động tích cực cho chu kỳ sau. Hành động ở đây liên quan đến hoạt động để cải tiến. Hành động Các nhà quản lý đã dựa vào chu trình Deming đề ra chu trình PDCA ( Plan – Do – Check – Action: Kế hoạch – Thực hiện – Kiểm tra – Hành động), được áp dụng ở tất cả các lĩnh vực và trong tất cả các trường hợp quản lý. Chu trình PDCA là một hoạt động cải tiến nâng cao chất lượng. Khởi đầu là nghiên cứu tình trạng hiện tại, thu thập các dữ liệu cần thiết để vạch ra một kế hoạch (P) cải tiến. Khi kế hoạch hoàn thành nó sẽ được đem ra thực hiện (D). Sau đó kiểm tra (C) việc thực hiện xem nó có đem lại kết quả tốt hơn như người ta dự kiến trong kế hoạch không. nếu việc thực hiện thành công thì phải có hành động (A) củng cố kết quả bằng cách tiêu chuẩn hoá để đảm bảo cho những phương pháp mới được thực hiện. Chu trình PDCA cứ đi theo vòng tròn, hết vòng tròn này đến vòng tròn khác có được cải tiến này lại tiếp tục đòi hỏi phải cải tiến hơn nữa, có được kết quả tốt hơn lại đòi hỏi kết quả tốt hơn nữa. PDCA do đó được hiểu là một quá trình qua đó những tiêu chuẩn mới đã được tạo ra để rồi đòi hỏi phải xem xét lại và thay thế bằng những tiêu chuẩn mới cao hơn, tốt hơn. Trong khi đa số trong chúng ta còn mang nặng nếp suy nghĩ cũ coi tiêu chuẩn như những mục tiêu cố định. TQM đòi hỏi chúng ta phải xem tiêu chuẩn chỉ là khởi đầu để sau đó phải có tiêu chuẩn cao hơn. Quản lý chất lượng bao gồm hai phần duy trì và cải tiến. Duy trì là phải thực hiện được các mức chất lượng đã đề ra không duy trì được việc thực hiện tiêu chuẩn thì không thể cải tiến. Trướng khi thực hiện cải tiến cần có sự ổn định, tức là thực hiện tốt các tiêu chuẩn. Quá trình ổn định tiêu chuẩn thường được gọi là chu trình SDCA ( Standardiza-Do-Check-Action: Tiêu chuẩn hoá- thực hiện- kiểm tra- hành động). Chỉ khi nào chu trình SDCA hoạt động chúng ta mới có thể tiến xa hơn để nâng cao các tiêu chuẩn sẵn có thong qua chu trình PDCA. Người ta thường phối hợp cả hai chu trình SDCA và PDCA. Bất kỳ một công việc nào cũng có những lệch lạc vào lúc khởi đầu, vì thế cần cố gắng để sớm ổn định – quá trình làm việc. Điều đó phải thực hiện bằng chu trình SDCA. Sẽ không có cải tiến nếu không có tiêu chuẩn đặt ra. Việc thực hiện các tiêu chuẩn đã có, kể cả tiêu chuẩn P cũng như tiêu chuẩn R, phải thực sự vững chắc mới nghĩ đến việc nâng cao tiêu chuẩn được. Điểm xuất phát của bất kỳ cải tiến nào là phải hiểu chính xác là mình đang đứng ở đâu. Phải có tiêu chuẩn đánh giá chính xác dành cho mỗi công nhân, mỗi máy sử dụng một tiến trình sản xuất và mỗi một kết quả công việc. Đương nhiên cũng phải có tiêu chuẩn đánh giá công việc quản lý, người quản lý khi chúng ta phân chia việc làm của mỗi cá nhân thành một loạt tiêu chuẩn P, chúng ta sẽ đạt được tiêu chuẩn P cuối cùng có thể đo lường được. Thí dụ: công việc của một công nhân đứng máy gồm nhiều thao tác: - lấy phôi liệu, gá lắp phôi liệu vào máy, khởi động máy. Phương pháp này được giới thiệu khá phổ biến, quá trình quản lý chất lượng trải qua bốn giai đoạn như một vòng tuần hoàn: Kế hoạch (P) Thực hiện (D) Kiểm tra (C) Điều chỉnh (A) Vòng PDCA quản lý chất lượng là một vòng tuần hoàn không ngừng hoạt động trong mỗi vòng lớn lại chứa đựng những vòng nhỏ. 2. Nội dung cơ bản của quản lý chất lượng. Hoạch định chất lượng: Hoạch định chất lượng là hoạt động xác định mục tiêu và phương tiện nguồn lực và biện pháp nhằm thực hiện mục tiêu chất lượng sản phẩm. Hoạch định chất lượng cho phép: định hướng phát triển chung cho toàn xí nghiệp theo một hướng thống nhất. Khai thác và sử dụng một cách có hiệu quả các nguồn lực dài hạn nhằm góp phần giảm chi phí cho chất lượng. Tạo điều kiện thuận lợi cho xí nghiệp mở rộng thị trường nâng cao sự cạnh tranh đặc biệt là thị trường thế giới ... Nội dung chủ yếu của hoạch định xây dựng bao gồm: Xác định mục tiêu chất lượng tổng quát và chính xác chất lượng. Xác định khách hàng. Xác định nhu cầu và đặc điểm nhu cầu của khách hàng. Phát triển các đặc điểm sản phẩm thoả mãn nhu cầu khách hàng. Từ đó phát triển các quá trình có khả năng tạo ra những đặc điểm của sản phẩm. Chuyển giao các kết quả của hoạch định cho bộ phận tác nghiệp. Khi hoạch định chất lượng thì doanh nghiệp cần phải trả lời những câu hỏi sau: Thứ nhất: ai là khách hàng và họ đang mong đợi cái gì khi mua sản phẩm? Thứ hai: Liệu những cái mà xí nghiệp đưa ra có đúng với cái mà khách hàng đang mong đợi hay không ? Và nó còn tiếp tục là cái họ mong đợi nữa hay không? Thứ ba: họ phải trả bao cho sản phẩm? Thư tư: họ cần mua bao nhiêu và bao giờ có? Kiểm soát chất lượng: Kiểm soát chất lượng là quá trình điều khiển các hoạt động tác nghiệp thông qua những kỹ thuật, phương tiện, phương pháp và hoạt động nhằm đảm bảo chất lượng sản phẩm theo đúng những yêu cầu đã đặt ra. Nhiệm vụ chủ yếu của kiểm soát chất lượng là: Tổ chức các hoạt động nhằm tạo ra các sản phẩm có chất lượng như yêu cầu. Đánh giá việc thực hiện chất lượng trong thực tế của doanh nghiệp so sánh chất lượng thực tế với kế hoạch để phát hiện ra những sai lệch. Tiến hành những hoạt động cần thiết nhằm khắc phục những sai lệch để đảm bảo thực hiện đúng những yêu cầu. Cải tiến và hoàn thiên chất lượng. Cải tiến và hoàn thiện chất lượng là những hoạt động nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm hơn trước để làm giảm khoảng cách giữa mức mong muốn của khách hàng với mức chất lượng thực tế của sản phẩm và từ đó đưa khả năng thoả mãn nhu cầu của sản phẩm lên mức cao nhất. Cải tiến và hoàn thiện chất lượng đựơc thực thực hiện theo các hướng sau: Tiến hành phát triển, đa dạng hoá các sản phẩm của xí nghiệp nhằm đáp ứng một cách đa dạng các loại nhu cầu của thị trường về sản phẩm. Tiến hành thay đổi các quá trình nhằm áp dụng các các quá trình công nghệ mới nhằm cải thiện và nâng cao các chỉ tiêu chất lượng, các khuyết tật để thực hiện được các công việc trên thì ta phải tiến hành các nội dung: Cần thiết lập cơ sở hạ tầng cần thiết để đảm bảo hoàn thiện chất lượng sản phẩm. Xác định những nhu cầu đặc trưng về hoàn thiện chất lượng, từ đó đề ra các dự án hoàn thiện. Thành lập những tổ công tác có đầy đủ khả năng để thực hiện thành công dự án cải thiện chất lượng đã đề ra. Tiến hành cung cấp nguồn lực cần thiết (tài chính,kỹ thuật lao động) cùng với việc động viên khuyến khích quá trình thực hiện dự án hoàn thiện chất lượng. Tất cả các hoạt động này đều có liên quan chặt chẽ với nhau, được thực hiện kế tiếp nhau nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm. 3. Các yêu cầu cơ bản của quản lý chất lượng: Chất lượng phải thực sự trở thành mục tiêu hàng đầu có vai trò trung tâm trong hoạt động của các doanh nghiệp. Luôn có sự quyết tâm, nhất quán trong phương hướng chiến lược và phương châm hành động trong ban giám đốc, hành động vì mục tiêu chất lượng. Hiểu biết đầy đủ chính xác nhu cầu hiện tại và phương hướng hoạt động của nhu cầu trong tương lai. Theo dõi nắm bắt kịp thời những diễn biến nhu cầu thị hiếu thị trường để có những phương hướng và biện pháp kịp thời. Đánh giá được những nhận thức của khách hàng về chất lượng sản phẩm mà doanh nghiệp và các đối thủ cạnh tranh đã đạt được để từ đó có các chiến lược cạnh tranh thích hợp. Khi có các vấn đề nảy sinh thì cần có sự tập trung xem xét về bản thân hệ thống và quá trình, phát hiện ra các nguyên nhân và tìm cách giải quyết các nguyên nhân đó. Phải xoá bỏ mọi sự ngăn cách tạo điều kiện tốt nhất cho sự phù hợp các phòng ban, bộ phận nhằm hoàn thiện chất lượng của toàn hệ thống. Khuyến khích tạo điều kiện hoàn thành các tổ chức quản trị chất lượng (câu lạc bộ chất lượng,nhom chất lượng...) tiến hành đào tạo và trang bị những kiến thức và phương tiện đo lường đánh giá chất lượng cho công nhân. Động viên nâng cao lòng tự trọng, tự hào về chất lượng công việc của mình thực hiện. Cần thiết tạo mối quan hệ mật thiết và lâu dài với nhà cung cấp. Cần xác định phát hiện các vấn đề quan trọng nhất, tập trung ưu tiên nhất cho các vấn đề đó. Quản lý chất lượng phải thực hiện bằng hành động, văn bản hoá các hoạt động liên quan đến chất lượng. III. TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG LÀ MỘT BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VÀ TĂNG CƯỜNG SỨC CẠNH TRANH CỦA CÁC DOANH XÂY DỰNG NGHIỆP HIỆN NAY. 1. Tình hình phát triển của ngành xây dựng và vai trò của nó trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Tình hình phát triển hiện nay của ngành xây dựng. Trong những năm gần đây công việc xây dựng của nước ta đã phát triển một cách nhanh chóng,có thể nói cả nước là một đại công trường ở đâu cũng có xây dựng, ở đâu cũng có những công trình mới mọc lên. Cùng với công cuộc tăng cường xây dựng đó thì ngành xây dựng cũng không ngừng phát triển đi lên. Có thể nói đây là thời kỳ sôi động nhất từ trước đến nay của ngành xây dựng Việt Nam và nó vẫn tiếp tục sôi động trong thời gian tiếp theo với chiến lược “ khẩn trương tạo nền tảng kỹ thuật cho sự phát triển của những năm đầu thế kỷ XXI và xây dựng hạ tầng vững chắc cho chủ nghĩa xã hội của Việt Nam”. Sự sôi động và phát triển của ngành xây dựng hiện nay có thể được phản ánh thông qua các chỉ tiêu sau: - Chỉ tiêu tăng trưởng: trong năm 2001 toàn ngành xây dựng đã đạt mức tăng trưởng là 155% (so với 100% kế hoạch đặt ra). Trong đó ngành công nghiệp vật liệu đạt mức tăng trưởng là 117,1 % toàn ngành nộp ngân sách nhà nước đạt mức 110% tăng 10 % so với kế hoạch. Trong năm 2001 toàn ngành đã đạt 5 triệu m2 diện tích xây dựng và tạo nhà ở, trong đó thành phố Hồ Chí Minh là 1.7 triệu m2, thủ đô Hà nội là 0.7 triệu m2 còn lại là các tỉnh khác. Về quy hoạch, kiến trúc. Các đô thị, nông thôn trong cả nước đã từng bước xây dựng và phát triển theo quy hoạch, khắp các địa phương từ Bắc vào Nam bộ mặt kiến trúc đang khởi sắc và thay da đổi thịt từng ngày nhiều khu công nghiệp khu dan cư mới được hình thành, phát triển trên quy hoạch tổng thể và chi tiết do ngành xây dựng thiết kế và quản lý, cụ thể đã xét duyệt quy hoạch xây dựng đô thị 40 quy hoạch chung trong đó có 30 quy hoạch được duyệt chỉ trong năm 1999, hình thành 6 khu chế xuất, 10 khu công nghiệp tâp chung tại 8 địa phương với diện tích là 3800 ha. Theo kế hoạch từ năm 2001 ¸ 2005 Hà Nội sẽ xây dựng thêm 3 ¸ 3.5 triệu m2 nhà. Cụ thể như các khu chung cư : Trung Yên, làng Quốc Tế Thăng Long, Trung Hoà, Nhân Chính, Định Công, Linh Đàm, Đại Kim ... đang được hoàn chỉnh. Hà Nội đã có 14 khu đô thị mới được xây dựng sẽ khởi công vào đầu năm 2002 và hoàn thành vào năm 2005, trong đó 7 khu đô thị mới đang chuẩn bị đầu tư gồm: Mễ Trì Hạ, Mễ Đình 1,Mễ Đình 2,Nam Đường, Trần Duy Hưng, Thành phố giao lưu, Thạch cầu,Thạch Bàn và Tây Nam ... Quãng 50 dự án khu đô thị mới trên tổng diện tích gần 2000 ha và đặc biệt ngành thể dục thể thao đầu tư xây dựng sân vận động quốc gia ... Về lĩnh vực vật liệu xây dựng. Ngành đã có sự chuyển hướng sản xuất và tiêu thụ vật liệu xây dựng theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Nhờ sự đổi mới về cơ chế và dựa vào chiến lược phát triển vật liệu xây dựng đến năm 2003 do bộ xây dựng chủ trì soạn thảo, trong năm qua, công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, đã có sự đổi mới đầu tư công nghệ góp phần làm tăng trưởng đáng kể trên nhiều mặt: Chủng loại mặt hàng, chất lượng mặt hàng, ngành hàng, doanh số và hiệu quả sản xuất kinh doanh ... Nhịp độ tăng trưởng về sản lượng các loại vật liệu xây dựng trong 5 năm qua đều đạt mức trên 2 lần so với giai đoạn (1986-1999) với tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm 20%. Trong lĩnh vực xây lắp, các tổ chức xây lắp quốc doanh thuộc các bộ, các ngành, các địa phương đã có những chuyển đổi, đổi mới với phương thức hoạt động, một mặt nhằm hoà nhập với xây dựng có nhiều thành phần, cùng nhau tham gia, mặt khác tăng khả năng cạnh tranh với các tổ chức xây lắp quốc tế. Nhiều doanh nghiệp đã tiến hành sắp xếp lại tổ chức, đổi mới thiết bị công nghệ, đào tạo lại cán bộ quản lý và nâng cao tay nghề cho công nhân để đáp ứng yêu cầu mọi mặt của thị trường về chất lượng, mỹ thuật công trình. Tính đến hết ngày 30/12/2001, tổng số các doanh nghiệp xây dựng có 1.542, trong đó thuộc Trung ương 516, địa phương 1026 doanh nghiệp. Riêng lĩnh vực xây lắp có 770 doanh nghiệp (309 thuộc Trung ương, 416 thuộc địa phương). Nhiều doanh nghiệp xây lắp của Trung Ương và địa phương có trang thiết bị kỹ thuật và đội ngũ cán bộ, công nhân viên có trình độ cao, đủ năng lực xây dựng các công trình có yêu cầu kỹ thuật, mỹ thuật đảm bảo các tiêu chuẩn quốc tế. Theo số liệu của tổng cục thống kê giá trị sản lượng thực hiện của các đơn vị xây lắp của các doanh nghiệp trong năm 2001 đạt 40.000 tỷ đồng. Về lĩnh vực phát triển đô thị và quản lý đô thị, nông thôn: Ngành xây dựng đã chủ động tạo ra nhiều đổi mới, đáp ứng yêu cầu trên cả hai mặt. Những yêu cầu cấp bách trước mắt và phát triển dài hạn thông qua việc xây dựng hàng loạt các văn bản pháp quy nhằm từng bước đưa công tác quản lý đô thị vào trật tự kỷ cương, nề nếp và hoạt động thực tế góp phần thay đổi bộ mặt kiến trúc đô thị, nông thôn. Các công ty thuộc ngành xây dựng như: xây dựng và phát triển đô thị, nhà ở khu công nghiệp, cấp thoát nước, chiếu sáng, vệ sinh môi trường đô thị và nông thôn... Trong một khoảng thời gian chưa dài nhưng đã dần dần tiếp cận với quỹ đạo của cơ chế quản lý đô thị đã có những chuyển biến căn bản góp phần làm cho các độ thị trong cả nước ngày càng sạch đẹp hơn, văn minh, lịch sự hơn, cơ sở kỹ thuật hạ tầng được cải thiện một bước rõ rệt. Quan hệ kinh tế đối ngoại. Quan hệ kinh tế đối ngoại của ngànhđược mở rộng, đa dạng, phong phú hơn, nhiều liên doanh ra đời trong hầu hết các lĩnh vực thuộc chức năng quản lý của ngành như: Quy hoạch, thiết kế, sản xuất vật liệu xây dựng, xây lắp bảo tồn, tôn tạo lại các di tích lịch sử, văn hoá, khu phố cổ phát triển đô thị và nông thôn, cấp thoát nước, khoa học kỹ thuật, đào tạo ... đã mang lại kết quả bước đầu đáng khích lệ và ngành xây dựng càng chứng tỏ sự đúng đắn của chính sách mở theo đường nối đổi mới của đảng và nhà nước ta đã lựa chon. Trong năm 1999-2001 toàn ngành có 67 dự án liên doanh với nước ngoài với tổng số vốn đầu tư là 3 triệu USD. Vai trò của ngành xây dựng trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. - Xây dựng cơ bản có thể coi là 1 ngành sản xuất vật chất, ngành duy nhất tạo ra cơ sở hạ tầng thiết yếu phục vụ cho sản xuất, đời sống y tế, quốc phòng, giáo dục và các công trình dân dụng khác. Trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, hoạt động xây dựng cơ bản góp phần to lớn vào việc tạo ra cơ sở hạ tầng cho các ngành khác. Cơ sở hạ tầng của các ngành đầy đủ nó phản ánh trình độ phát triển và hiện đại của ngành đó. Mặt khác xây dựng còn là ngành tạo ra khả năng xoá bỏ khoảng cách khác biệt giữa thành thị và nông thôn, nâng cao trình độ văn hoá và đời sống dân cư, cải tạo bộ mặt đất nước. Hoạt động xây dựng cơ bản được thực hiện ở các giai đoạn khác nhau (như thiết kế, thi công ... ), ứng với các giai đoạn này là các bbộ phận, các đơn vị. Các bộ phận, các đơn vị đó cũng được xem là các đơn vị sản xuất trực tiếp như các doanh nghiệp khác và nó cũng tạo ra sự tích luỹ cho nền kinh tế quốc dân thông qua các hình thức nộp ngân sách ( thuế các loại ...) Theo điều 1- điều lệ xây dựng cơ bản số 232/cp ngày 6/6/1981 công tác quản lý xây dựng cơ bản phải thực hiện đúng đường lối xây dựng và chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực (vốn, tài nguyên, lao động, đất đai ...) đồng thời bảo vệ môi trường sinh thái để xây dựng thành công cơ sở vật chất kỹ thuật của Chủ nghĩa xã hội. Chủ trương đầu tư và kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản phải đảm bảo nhịp độ phát triển nền kinh tế một cách cân đối nhịp nhàng, hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý trong từng giai đoạn, nâng cao hiệu quả kinh tế -xã hội, góp phần tăng sản phẩm xã hội, tăng thu nhập quốc dân và đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội. 2. Đặc điểm của ngành xây dựng cơ bản và yêu cầu về chất lượng sản phẩm xây dựng. Đặc điểm của ngành xây dựng. Hoạt động của ngành xây dựng là những hoạt động nhằm tạo ra những tài sản cố định (đó là những trương trình sử dụng lâu dài trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân) thông qua các hình thức như: xây dựng mới, cải tạo mở rộng, sửa chữa lớn khôi phục. Thông thường một chương trình xây dựng cơ bản từ lúc bắt đầu thiết kế, chuẩn bị và bước vào xây dựng cho đến khi hoàn tất bàn giao và bảo hành trong sử dụng chương trình đòi hỏi phải thực hiện rất nhiều giai đoạn và công việc khác nhau. Nhưng để thực hiện một cách có hiệu quả cao thì đòi hỏi các công việc đó phải được sắp xếp theo trình tự hợp lý và khoa học. Theo điều lệ quản lý xây dựng cơ bản, trình độ xây dựng một công trình được chia ra làm 3 giai đoạn chính sau: Giai đoạn chuẩn bị đầu tư; Giai đoạn chuẩn bị xây dựng ; Giai đoạn thi công xây lắp công trình; Giai đoạn chuẩn bị đầu tư: Đây là giai đoạn triển khai những ý đồ đầu tư, tiến hành thu thập những tài liệu về kinh tế, kỹ thuật ... có liên quan đến thành lập những dự án đầu tư, thiết lập luận chứng kinh tế kỹ thuật và tiến hành kiểm tra, phê chuẩn các dự án và các luận chứng đó. Giai đoạn chuẩn bị đầu tư kết thúc khi dự án hoặc luận chứng được phê chuẩn và được ghi vào kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản cho các kỳ tương ứng. Giai đoạn chuẩn bị xây dựng : là giai đoạn kể từ khi luận chứng hoặc dự án được phê chuẩn và được ghi vào kế hoạch đầu tư đến khi thực hiện được những công việc chủ yếu đủ đảm bảo tiến hành khởi công xây dựng công trình. Giai đoạn xây lắp công trình: là giai đoạn tiến hành thi công trên hiện trường để tạo ra những kiến trúc và kết cấu công trình treo thiết kế và tiến hành lắp đặt các thiết bị công nghệ (nếu có) vào công trình. Giai đoạn này kết thúc khi công trình đã hoàn thiện và tiến hành bàn giao công trình. Đặc điểm về sản phẩm của ngành xây dựng cơ bản. - Sản phẩm của ngành xây dựng cơ bản là những công trình hình thành cố định và mang tính ổn định gắn với một không gian và một địa điểm nhất định. - Sản phẩm xây dựng rất đa dạng về hình thức, mẫu mã, cấu trúc phức tạp, có những phần nằm sâu dưới lòng đất, có phần thì vươn cao trên không trung. - Sản phẩm của xây dựng thường có quy mô và kích thức rất lớn, chu kỳ sản xuất thường dài gây khó khăn cho việc sử dụng vốn kinh doanh. - Vốn đầu tư để sản xuất sản phẩm thì lớn, rủi ro nhiều, phải xuất vốn thành nhiều đợt khác nhau, thời gian thu hồi chậm. - Trong quá trình tạo ra sản phẩm thì chịu tác động mạnh của các yếu tố về điều kiện tự nhiên. - Sản phẩm xây dựng được xem là sản phẩm tổng hợp, thể hiện đầy đủ các ý nghĩa về kinh tế, chính trị, xã hội, quốc phòng, văn hoá, phong tục tập quán.... của một dân tộc, một thời kỳ lịch sử. Đặc điểm sản xuất của ngành xây dựng. Từ đặc điểm sản xuất của ngành xây dựng đã được nêu trên, mà hoạt động sản xuất của ngành xây dựng cũng mang một số đặc trưng sau đây. + Loại hình sản xuất trong xây dựng là sản xuất đơn chiếc, tuy nhiên tiêu chuẩn sản xuất sản phẩm không ổn định, cũng không lặp đi lặp lại theo chu kỳ nhất định. + Các yếu tố của quá trình sản xuất trong ngành xây dựng thường đa dạng phức tạp, cồng kềnh, mà lại không ổn định, thường xuyên phải di động, chính vì vậy mà nó gây khó khăn cho việc ổn định sản xuất gây tốn ổn định trong đời sống, sinh hoạt và các nhu cầu khác của con người. Do kém chi phí và thời gian cho việc di chuyển lực lượng sản xuất, gây ra sự mất ổn định trong đời sống sinh hoạt và cc nhu cầu khác của con người. Do đó mà việc quản lý sử dụng lao động cũng gặp nhiều khó khăn từ khâu tuyển chọn đến sử dụng, đào tạo bồi dưỡng. Việc quản lý sử dụng công cụ lao động nguyên vật liệu cũng khó đạt được hiệu quả cao. + Do sản phẩm xây dựng có quy mô lớn, cấu tạo phức tạp, do đó mà trong sản xuất cũng có sự hợp tác phức tạp của các ngành các bộ phận tham gia chế tạo lên sản phẩm cuối cùng. Do đó trong quá trình quản lý làm sao điều hoà, phối hợp các khâu, các bộ phận. + Do sản phẩm của các ngành xây dựng nằm ngoài trời nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố như địa lý, tự nhiên do đó mà sản xuất cũng nhịu ảnh hưởng lớn của các yếu tố đó. + Sản phẩm xây dựng có quy mô lớn, thời gian thi công lâu dài, vốn đầu tư thường rất lớn. Trong quá trình còn đang thi công xây dựng thì toàn bộ vốn đầu tư vào công trònh chưa có khả năng sinh lời cho nền kinh tế quốc dân, đây chính là giai đoạn ứ đọng vốn, do đó mà với các công trình có quy mô tương đương nhau, nhưng trong những thời gian và không gian khác nhau mà lợi nhuận cũng thu được khác nhau. b. Các yêu cầu chất lượng sản phẩm xây dựng. Sản phẩm của ngành xây dựng là những sản phẩm đặc biệt, nó chẳng những được tiêu dùng trong sản xuất (các công trình công nghiệp, cơ sở hạ tầng ...) mà nó còn là những sản phẩm thiết yếu phục vụ cho tiêu dùng của các thành viên trong xã hội ( nhà ở, các công trình văn hoá xã hội, công trình công cộng...). Với những đặc điểm khác với sản phẩm thông thường khác nên các sản phẩm của ngành xây dựng có một yêu cầu về đặc thù chất lượng sản phẩm. Những yêu cầu về chất lượng sản phẩm của ngành xây dựng được thể hiện ở các chi tiết chất lượng dưới đây: Chỉ tiêu bảo đảm an toàn. Bất cứ một người nào khi mua là tiêu dùng một sản phẩm nào đó thì họ cũng luôn mong muốn sao cho sản phẩm đó thoả mãn nhu cầu của họ ở mức cao nhất với một chi phí thấp nhất, và như vậy chỉ tiêu đảm bảo an toàn của sản phẩm sẽ cho phép họ đạt được mong muốn ở mức nào. Mặt khác đối với những sản phẩm của ngành xây dựng có thể là các công trình xây dựng, do đặc điểm của những sản phẩm này là phức tạp, lượng vốn đầu tư lớn, thời gian đầu tư lâu dài, thời gian thu hồi vốn lâu, giá thành sản phẩm cao, do đó đối với người tiêu dùng những loại sản phẩm này thì họ luôn luôn đạt chỉ tiêu đảm bảo chất lượng hàng đầu. - Chỉ tiêu đảm bảo phải được hiểu theo những nội dung sau: An toàn trong thi công xây lắp: Trong quá trìng thi công xây lắp cần đảm bảo thi công trong điều kiện bình thường, không có bất cớ sự đe doạ nào về tình trạng và tài sản trong quá trình sản xuất. An toàn trong quá trình sử dụng. Các công trình xây dựng cơ bản là loại sản phẩm phục vụ tiêu dùng trong khoảng thời gian tương đối dài. Mức độ tối thiểu về thời gian sử dụng cũng từ 20 ¸ 30 năm đối với các công trình nhà ở và 15 năm đối với các công trình công nghiệp. Trong suất quá trình tồn tại của sản phẩm thì nó luôn phải chịu tác động huỷ hoại của môi trường tự nhiên: mưa, nắng, bão, lạnh ... với điều kiện khí hậu nhiết đới gió mùa như nước ta, đặc điểm của nắng lắm mưa nhiều, độ ẩm cao thì mức độ huỷ hoại của môi trường tự nhiên tương đối lớn, do đó mà mức độ xuống cấp của các công trình xẩy ra rất nhanh chóng, đòi hỏi phải bỏ ra chi phí để bảo dưỡng duy trì. Như vậy để bảo an toàn trong quá trình sử dụng thì nhiệm vụ của công tác thiết kế và xây lắp luôn phải tìm tòi áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật về kinh tế, cấu trúc cũng như áp dụng mọi vật liệu mới, vật liệu thay thế, để không ngừng tăng cường khả năng chống lại sự huỷ hoại của môi trường. Ngoài ra trong quá trình thiết kế, thi công cũng cần phải chú ý tính đến khả năng xảy ra sự cố như động đất, bão gió, lụt lội, hoả hoạ._.o vẽ, thí nghiệm) phục vụ thiết kế, xây lắp nghiệm thu, giám định công trình, chủ nhiệm đề án thiết kế, chủ thầu xây lắp, người cung ứng vật tư cho xây dựng và người giám sát xây dựng . Xí nghiệp cần xác định rõ thời hạn bảo hành đối với từng người trên. Trong đó đối với bộ phận khảo sát, thiết kế xây lắp công trình thì do bộ xây dựng quy định , còn đối với bộ phận cung ứng vật tư thiết bị là do bộ khoa học - công nghệ và môi trường quy định . Xí nghiệp cần tiến hành việc hướng dẫn sử dụng và cũng với việc vận hành thử công trình cho người sử dụng . xí nghiệp cần thiết phải xác định rõ lịch kiểm tra, bảo hành công trình, tiếp thu ý kiến phản ánh của người sử dụng đáp ứng một cách nhanh chóng những yêu cầu của người sử dụng để làm sao đảm bảo cho khách hàng người sử dụng luôn tin tưởng vào xí nghiệp. Trong đổi mới nhận thức thì luận điểm ( giai đoạn sau qúa trình sản xuất là người tiêu dùng sản phẩm của bạn ) là điều kiện bắt buộc đối với hoạt động bình thường của cả qúa trình sản xuất của xí nghiệp . Mục tiêu chủ yếu của qúa trình quản lý chất lượng của xí nghiệp là thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng. Đối với xí nghiệp, người tiêu dùng là giai đoạn sau của qúa trình sản xuất, là người trực tiếp được hưởng những ưu đãi về những yếu tố chất lượng của sản phẩm và như vậy hiển nhiên ngươì tiêu dùng sẽ là người đánh giá và đánh giá chính xác mức chất lượng của sản phẩm thông qua các mức độ thoả mãn những nhu cầu của họ. Như vậy một sản phẩm công trình xây dựng có chất lượng cao thì trước hết nó phải thoả mãn những yêu cầu của người tiêu dùng chứ không phải là nó thoả mãn những yêu cầu của các tiêu chuẩn quốc gia hoặc các điều kiện kỹ thuật. Quản lý chất lượng không thể thiếu được sự điều chỉnh giá cả, thu nhập và chi phí. Đó là một quan điểm nữa mà xí nghiệp cần đổi mới, xí nghiệp cần phải có sự điều chỉnh chi phí hợp lý sao cho ứng với một mức chất lượng nhất định của công trình xây dựng là một mức chi phí nhất định mà mức chi phí này phải làm sao cho trước hết là phải phù hợp với khả năng hiện có của xí nghiệp và sau nữa là phải được thị trường chấp nhận. Khi mà xí nghiệp đã bảo đảm được những điều kiện trên thì cần phải tiếp tục cố gắng điều chỉnh mức chi phí sao cho có thể hạ thấp mức chi phí xuống mà mức chất lượng vẫn tăng hoặc không thay đổi để tạo sức mạnh cho xí nghiệp trong thị trường. Muốn đạt được những điều kiện trên thì xí nghiệp cần phải xác lập về kế hoạch chi phí cho chất lượng một cách rõ ràng, chính xác, cân đối chi phí với chất lượng, cần tính toán một cách cụ thể mức chi cần bỏ ra trước khi muốn cải thiện hoặc nâng cao chất lượng công trình, sau đó so sánh mức chi phí đó với khả năng của bản thân công trình, so sánh chi phí bình quân để cải thiện, hoặc nâng cấp chất lượng của ngành sau đó mới quyết định có nên thực hiện hay không để sao cho các công trình xây dựng do xí nghiệp tiến hành đều có chất lượng cao với mức chi phí hợp lý được người tiêu dùng chấp nhận. Kiến nghị 2 : Đẩy mạnh phát triển công nghệ mới và đầu tư trang thiết bị ngày càng nâng cao trình độ công nghệ xây dựng của xí nghiệp. Đẩy mạnh phát triển công nghệ mới. Sự phát triển nhanh chóng của công nghệ xây dựng trong vài năm gần đây là kết quả của đường lối đổi mới nền kinh tế quốc dân và hội nhập quốc tế của Đảng và Nhà nước. Sự gia tăng nhanh chóng của các công trình xây dựng công nghệ và dân dụng đã đặt ra yêu cầu mới cho đổi mới và hoàn thiện công nghệ máy móc xây dựng của xí nghiệp nhằm phục vụ mục tiêu phát triển trước mắt và lâu dài của mình. Trước đây nguồn vốn đầu tư chủ yếu của xí nghiệp là do Nhà nước cấp, quản lý đầu tư Nhà nước, thực hiện cũng là Nhà nước. Từ đặc điểm hành chính bao cấp này dẫn đến sự thiếu coi trọng chất lượng công trình. Hiện nay do cơ chế thị trường người chủ đầu tư công trình muốn có công trình đẹp nhất tốt nhất nhà thầu xây dựng muốn có chi phí thấp nhất trong thiết kế và thi công xây lắp, do vậy mà cần phải có một hệ thống công nghệ hiện đại tiên tiến để tăng cường hiệu quả vốn đầu tư và thi công xây lắp. Các loại công trình trong giai đoạn hiện nay rất đa dạng và có yêu cầu cao về nhiều mặt, nhiều công trình cao tầng, kiến trúc đa dạng đòi hỏi kết cấu và trang thiết bị , tiện nghi hiện đại sử dụng nhiều loại vật liệu mới, có yều cầu về mỹ quan cũng như độ bền vững cao, yêu cầu thời gian thi công ngắn, chi phí xây dựng và vận hành công trình hợp lý. Mặt khác nhiều công trình sử dụng vốn nước ngoài cũng như các công trình liên doanh yêu cầu chất lượng cao, theo tiêu chuẩn kỹ thuật nước ngoài đòi hỏi công nghệ xây dựng đổi mới hoàn thiện. Thời gian qua do trình độ công nghệ xây lắp của xí nghiệp còn thấp, chủ yếu vẫn đang sử dụng các phương tiện, vật liệu xây dựng, công nghệ của công ty mang tính truyền thống, hiệu quả kinh tế thấp, tốc độ xây dựng chậm mặt bằng thi công công trình ảnh hưởng nhiều đến công tác môi trường đố cũng là nguyên nhân tạo nên những khó khăn làm cho việc đáp ứng các giải pháp kết cấu và hình thức kiến trúc hiện đại. Chính vì lẽ đó mà yêu cầu cấp bách đặt ra với xí nghiệp hiện nay là phải tìm cách nâng cao trình độ công nghệ của mình một cách nhanh nhất để nắm bắt, đi tắt, làm chủ các công nghệ hiện đại từ đó tạo được sức mạnh, ưu thế trên thị trường xây dựng trong nước cũng như tạo điều kiện trong nước có khả năng vươn ra thị trường nước ngoài đặc biêt là một số nước láng giềng trong khu vực ... Trong thời gian vừa qua xí nghiệp đã tiến hành đổi mới và mua sắm một số thiết bị máy móc mới như công nghệ thi công khoan coc nhồi, công nghệ kéo căng ứng trước bê tông cốt thép của Pháp, tuy nhiên vẫn còn một số hạn chế là hầu hết các công nghệ mới này mới chỉ được đầu tư mua sắm để đi vào hoạt động chứ chưa kịp đầu tư nắm bắt sâu về công nghệ, việc tổng kết rút kinh nghiệm nhận chuyển giao và phân tích đánh giá các công nghệ xây dựng hiện nay vẫn chưa được thực hiện. Từ những lý do trên xét thấy xí nghiệp cần nhanh chóng đổi mới đầu tư tăng cường trình độ công nghệ xây dựng của mình theo các khía cạnh sau: Trước hết xí nghiệp phải ý thức được trong việc đổi mới công nghệ và đầu tư cho công nghệ có ý nghĩa chiến lược cho sự sống còn trong sự nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh của xí nghiệp. Tiến hành đầu tư phát triển các công nghệ tiên tiến về thiết kế và thi công các loại công trình cao tầng Đầu tư phát triển các công nghệ đảm bảo an toàn, chất lượng đặc biệt coi trọng các giải pháp công nghệ mới về nền móng trong trường hợp đất yếu, giải pháp về công nghệ kỹ thuật công trình đảm bảo với điều kiện khí hậu và môi trường ở Việt Nam, bảo đảm an toàn phòng hoả, tiết kiệm sử dụng năng lượng ... Đầu tư phát triển các công nghệ sản xuất trang bị hiện đại trong kinh doanh. Muốn đạt được những công trình có chất lượng cao phải sử dụng trang thiết bị hiện đại và đồng bộ. Ví dụ: Công nghệ bê tông trộn sẵn phải đi đôi với xe ôtô vận chuyển vừa đi vừa trộn và máy trộn bê tông, nếu không có hai thiết bị này thi không thể sử dụng bê tông trộn sẵn có hiệu quả được. Hoặc xây dựng nhà ở cao tầng phải đi đôi với các phương tiện chuyên chở theo chiều cao nhanh chóng có hiệu quả và hiệu quả ..và hiện nay những công nghệ sản xuất, trang bị xí nghiệp cần và có thể đầu tư phát triển bao gồm : Công nghệ giàn giáo Công nghệ vận chuyển theo chiều cao cần trục tháp, cần cẩu bánh xích và bánh hơi, vận thăng. Công nghệ bê tông, trạm trộn bê tông đồng bộ, xe chuyển bê tông, máy bơm bê tông các loại . Công nghệ chế độ các loại cầu kiện, cốp pha kim loại, kích căng ứn xuất trước. Các loại máy đào đất ... Hình thành và trang bị hệ thống máy móc , công cụ kiểm tra chất lượng của các bộ phận làm chất lượng từ với mọi cấp tổ đội , xí nghiệp Hệ thống các máy móc thiết bi , dụngcụ kiểm tra chất lượng là một bộ phận hết sức quan trọng trong công tác quản lý chất lượng sản phẩm. Nó là bộ phận không thể thiếu được bởi lẽ nó là tiếng nói bằng số trong công tác quản lý chất lượng xây dựng. Nếu như khách hàng không có hệ thống máy móc, công cụ này thì không thể có cách gì xác định chất lượng xây dựng cao hay thấp của công trình . Hiện nay ở xí nghiệp xây dựng số 2, hệ thống máy móc, công cụ kiểm chất lượng đã bước đầu được trang bị, nhưng với xu hướng quốc tế hoá như hiện nay, để công ty có nhiều khả năng và cơ hội liên doanh hợp tác với những hãng xây dựng nước ngoài cùng thi công xây lắp các công trình lớn đòi hỏi kỹ thuật cao, độ chính xác lớn thì yêu cầu đặt ra với công ty là cần tiếp tục đầu tư trang thiết bị hệ thống máy móc, công cụ kiểm tra chất lượng, sao cho xí nghiệp có được một hệ thống công cụ kiểm tra chất lượng hiện đại , đầy đủ các công cụ này có độ chính xác cao , tốc độ xử lý thông tin nhanh, dễ dàng thuận tiện trong sử dụng và được sự thừa nhận của cộng đồng. Để có thể trang bị được hệ thống công cụ chất lượng công trình tiên tiến hiện đại và đầy đủ thì xí nghiệp cần phải có nguồn kinh phí, nguồn kinh phí trong công tác đầu tư này là lấy từ sản xuất. Tiếp đó xí nghiệp phải tiếp tục nghiên cứu nắm bắt các thông tin về thị trường công nghệ xây dựng nói chung và các công nghệ kiểm tra chất lượng công trình nói riêng, xác định các loại công nghệ kiểm tra nạo là tiên tiến, hiện đại nhất là những loại nào để có thể phù hợp nhất với khả năng và điều kiện thực tế của xí nghiệp cũng như toàn ngành xây dựng hiện nay, từ đó mà xí nghiệp xác định được những loại công nghệ mà xí nghiệp cần và có thể đầu tư trang bị. Cuối cùng xí nghiệp tiến hành bỏ chi phí để đầu tư trang bị. Cũng cần chú ý rằng việc xác định loại máy móc công cụ kiểm tra chất lượng công trình cần quan tâm giá cả của chúng ra sao cho khi chọn công nghệ có được những công cụ, thiết bị vừa đảm bảo tính tiên tiến hiện đại vừa đảm bảo mức chi phí hợp lý. Với tình hình như hiện nay thì công ty cần trang bị một số loại máy móc, công cụ kiểm tra chất lượng công trình sau: _ Máy siêu âm để kiểm tra độ khít kín của mối hàn _ Máy súng bắn điện tử để kiểm tra cường độ bê tông _ Máy động lực thuỷ tĩnh để kiểm tra tâm mốc _ Đồng hồ vạn năng để kiểm tra các thiết bị điện chống sét _ Máy bơm áp lực để kiểm tra các đường ống. Kiến nghị 3 : Xây dựng và kiện toàn hệ thống tổ chức nói chung và bộ phận quản lý chất lượng sản phẩm - công trình nói riêng. Trước hết xí nghiệp cần chú ý xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý nói chung và cán bộ làm công tác quản lý chất lượng nói riêng. Sắp xếp đội ngũ cán bộ này theo các phong ban, các chức danh cụ thể trên cơ sở căn cứ vào trình độ chuyên môn của từng người. Muốn vậy xí nghiệp cần xây dựng các tiêu chuẩn chuyên môn cho từng chức danh quản lý và cần nghiêm túc, chặt chẽ trong qúa trình tuyển dụng cán bộ quản lý vào xí nghiệp, làm sao cho người cán bộ quản lý phải có trình độ học vấn cao ( đại học và trên đại học ) và thực sự am hiểu sâu sắc về lĩnh vực mình đang phụ trách. Về bộ phận quản lý chất lượng công trình thì xí nghiệp cần xây dựng một hệ thống suốt từ trên xuống dưới ( xí nghiệp - tổ, đội ) tức là xây dựng ở mỗi đơn vị trực thuộc một bộ phận, các phong ban, hay những người trực tiếp làm công tác quản lý chất lượng công trình , của cấp trên giao xuống phổ biến thực hiện ở đơn vị mình phụ trách, báo cáo kết quả và chịu trách nhiệm trực tiếp về kết quả thực hiện với cấp trên mình. Cụ thể: ở xí nghiệp thành lập một phong ban chất lượng công trình, bao gồm những cán bộ có đầy đủ năng lực về kinh tế, kỹ thuật, am hiểu sâu sắc về chất lượng công trình có nhiệm vụ xây dựng kế hoạch và chiến lược chất lượng công trình cho toàn bộ xí nghiệp, sau đó xây dựng kế hoạch thực hiện và phân nhiệm xuống các phân xưởng trực thuộc. Ở phân xưởng cũng xây dựng một bộ phận lam chất lượng công trình ( chẳng hạn đội ngũ chất lượng công trình ) có nhiệm vụ tiếp nhận kế hoạch nhiệm vụ về chất lượng công trình từ phòng ban chất lượng công trình ở xí nghiệp phổ biến thực hiện ở phân xưởng mình đồng thới báo cáo và chịu trách nhiệm với cấp trên xí nghiệp về kết quả thực hiện của phòng ban mình. Sự phân cấp rõ ràng nay vừa bảo đảm tính thống nhất trong quản lý, giúp cho xí nghiệp dễ dàng trong công tác quản lý nói chung và quản lý chất lượng nói riêng như qúa trình ra quyết định, quy trách nhiệm về điều chỉnh những sai lệch dễ dàng hơn , nhanh chóng hơn , ở các đơn vị trực thuộc thi thực hiện một cách năng động hơn , hiệu quả hơn . Tiếp đó xí nghiệp cần tiến hành đào tạo cán bộ làm công tác giám sát , quản lý xây dựng nói chung và làm công tác quản lý chất lượng nói riêng . Chúng ta cần phải nhận thức được một điều rằng quản lý chất lượng bắt đầu băng đào tạo và kết thúc từng bước đào tạo cán bộ Đào tạo cán bộ là một công việc cấp bách bởi lẽ khách hàng không dễ gì có một đội ngũ có kiến thức về pháp luật về kinh tế và kỹ thuật với chất lượng cao cả về chuyên môn lẫn nhân cách , trong thời gian ngắn . Nếu không có lớp cán bộ được đào tạo thì dù có các phương tiện hiện đại thì công tác quản lý chất lượng sẽ trở thành lời bàn xuông . Quản lý chất lượng đòi hỏi sự đổi mới cơ chế quản lý của toàn xí nghiệp, do đó đòi hỏi có sự thay đổi tư duy của tất cả cán bộ của xí nghiệp. Để giải quyết vấn đề này thì qúa trình đào tạo phải được tiến hành liên tục. Côngtác đào tạo cán bộ làm công tác giám sát, quản lý xây dựng nói chung và làm công tác quản lý chất lượng xây dựng nói riêng ở xí nghiệp hiện nay cần được tiến hành theo các hướng sau: Dạng các phương pháp quản lý ở tất cả các cấp. xí nghiệp cần triển khai những chương trình đào tạo chi tiết cho mọi cấp công tác bao gồm giám đốc các ban, các kỹ sư, đốc công, những người phổ biến hoạt động của các nhóm, công nhân sản xuất, tổ chức các khoá chuyên cho cán bộ phòng cung ứng vật tư, kỹ thuật, phòng kinh tế thị trường. Huấn luyện dài ngày ở xí nghiệp trong thời gian vừa qua, việc dạy các phương pháp quản lý chất lượng thông thường kéo dài năm sáu ngày. Thế chưa đủ, xí nghiệp tổ chức các lớp khoá học dài hơn chẳng hạn ba, bốn tháng, hơn nữa cần có nhiều buổi trong tháng. Học viên trong mỗi tuần hoặc tháng học thì đem những kiến thức đã học áp dụng vào thực tiễn nơi làm việc. Sau đó họ chuyển sang giai đoạn học sau đã được trang bị những kết quả hoạt động thực tiễn vừa qua, nói cách khác chương trình đó đòi hỏi lý thuyết và thực hành luân phiên nhau. Có như vậy thì chương trình đào tạo mới thu được kết quả cao. Sự huấn luyện phải liên tục. Hằng năm chương trình huấn luyện tổng hợp đều bổ sung những khoá mới bởi lẽ mỗi năm mỗi người qua thêm một tuổi và lại có những cán bộ mới đến làm ở xí nghiệp do đó qúa trình huấn luyện phải xây dựng sao cho đáp ứng được những nhu cầu của xí nghiệp và của các thành viên trong xí nghiệp . Kiến nghị 4: xí nghiệp cần dựa vào đội ngũ công nhân kỹ thuật bậc cao, thợ đầu đàn làm nòng cốt đồng thời có những chính sách khuyến khích lợi ích vật chất cho cán bộ công nhân để nâng cao chất lượng công trình xây dựng. Để có nhiều công trình có chất lượng cao xí nghiệp cần phải dựa vào lực lượng công nhân kỹ thuật bậc cao thợ đầu đàn của các ngành nghề của xí nghiệp, giao trách nhiệm và động viên công nhân giữ gìn vai trò hạt nhân trong công việc giúp đỡ công nhân trong tổ sản xuất, thi công theo quy trình quy phạm, tiêu chuẩn kỹ thuật, bảo nhau làm theo bản thiết kế, chống làm dối làm ẩu để đảm bảo công trình đạt chất lượng cao theo yêu cầu công việc. Mặt khác xí nghiệp cũng cần phải chú ý đến chế độ lương thưởng theo số lượng và chất lượng công việc, trong đó có khuyến khích đơn giá lương, khoán với những công việc đạt chất lượng theo yêu cầu, tiêu chuẩn quy định của xí nghiệp. Đồng thời cần có chế độ trợ cấp cho công nhân, thợ đầu đàn trong những trường hợp tạm thiếu việc làm, trong trừong hợp gia đình có hiếu, hỷ ... Nhờ đó mà tạo ra sự gắn bó lâu dài giữa công nhân với xí nghiệp. Đây là những việc cần làm bởi lẽ công nhân là người trực tiếp làm ra sản phẩm, công trình đạt chất lượng cao. Ở xí nghiệp số 2 chú ý hết sức đến việc động viên công nhân viên chức trong toàn xí nghiệp phát huy sáng kiến, cái tiến bộ kỹ thuật áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, đổi mới công nghệ trong sản xuất xây lắp nhằm đạt được năng suất, chất lượng hiệu quả cao. Ở xí nghiệp sử dụng số 2 hiện nay cũng bao công ty, xí nghiệp xây dựng khác công nhân của xí nghiệp gồm 2 bộ phận đã qua biên chế đào tạo và một bộ phận hợp đồng theo thời vụ chưa qua đào tạo hoặc có chăng thì cũng chỉ qua tập huấn 1-2 ngày. Đây hiện đang là một trong những khó khăn đối với xí nghiệp trong việc quản lý chất lượng công trình xây dựng. Tỉ lệ công nhân được đào tạo theo biên chế , giảm số công nhan hợp đồng theo thời vụ hoặc là tiến hành đào tạo nâng cao trình độ tay nghề của đội ngũ công nhân hợp đồng theo thời vụ , tăng cường công tác kiểm tra đánh giá tay nghề trong khâu tuyển dụng ký hợp đồng với đội ngũ công nhân hợp đồng theo thời vụ này . Trong qúa trình làm việc cần tổ chức theo dõi , giám sát chặt chẽ để tránh hiện tượng bỏ bê công việc, làm việc thiếu trách nhiệm của công nhân. Cần cho công nhân nhận thức được rằng quản lý chất lượng công trình không phải là công việc của một ai mà của mọi ngươì cùng tham gia làm công trình. Công nhân cũng phải chịu trách nhiệm đối với chất lượng công trình. Kiến nghị 5 : áp dụng các phương pháp thống kê trong quản lý chất lượng công trình có thể nói từ trước đến giờ, ở xí nghiệp xây dựng số 2 vẫn tồn tại một cách thuần tuý một phương pháp quản lý chất lượng công trình đó là kiểm tra và điều chỉnh, điều này như đã phân tích là gây ra sự lãng phí lớn và khó khăn cho khách hàng năng tránh khỏi sự lặp lại. Để khách hàng khắc phục điều này thì xí nghiệp nên đổi mới phương pháp quản lý theo hướng kiểm tra phân tích, điều chỉnh tức là tiến hành kiểm tra phát hiện sai hỏng sau đó tiến hành điều chỉnh. Cái mới ở đây là thêm bước phân tích - phân tích thống kê. Phân tích thống kê thường được áp dụng và tiến hành phân tích chất lượng sản phẩm và qúa trình nó cho phép làm rõ mọi liên hệ giữa các yếu tố nguyên nhân và kết quả, cho phép tìm kiếm các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm. Đá CƯỜNG ĐỘ BÊ TÔNG THẤP CÔNG NGHỆ MÔI TRƯỜNG NGUYÊN VẬT LIỆU CON NGƯỜI THIẾT BỊ Độ bẩn Phụ gia Tính chất Độ bẩn Cát Xi măng Độ ẩm Nhiệt độ Cách thức Đường bộ Thời gian Máy Trộn Động lực Thời gian Tình trạng Thời gian Máy đầm Tư tưởng Phân tán Trách nhiệm Không nghiêm Quản lý Cấp bậc bình quân Trình độ kỹ thuật Giáo dục chưa tốt Năng lượng Định lượng Cỡ hạt Định lượng Định lượng Định lượng Bảo quản Ở đây xin giới thiệu cụ thể về phương pháp sơ đồ nhân quả còn gọi là sơ đồ cành cây, sơ đồ xương cá. Chất lượng sản phẩm chịu ảnh hưởng ở mức độ khác nhau của các yếu tố chính lại chịu ảnh hưởng bởi các nhân tố có liên quan theo thứ bậc từ lớn tới nhỏ. Có thể đưa ra năm yếu tố cơ bản thường gây ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm - công trình xây dựng là: Vật liệu, thiết bị máy móc, phương pháp công nghệ và môi trường sản xuất kinh doanh (xem sơ đồ trang 77). Khi phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng công trình phải đi từ tổng quát đến cụ thể, từ ngoài vào trong, từ lớn đến nhỏ, để nắm bắt đúng, chi tiết về bản chất. Loại sơ đồ này được sử dụng thuận lợi trong quản lý chất lượng toàn diện cho phép xí nghiệp tìm ra những nguyên nhân từ lớn đến nhỏ nằm trong qúa trình sản xuất kinh doanh của xí nghiệp. Ta ví dụ: Theo dõi kiểm tra cường độ kết cấu bê tông do một đội xây dựng thực hiện thấy cường độ bê tông thấp hơn so với quy định, ta có thể vẽ sơ đồ xương cá để phân tích và tìm ra nguyên nhân hiện tượng này như sơ đồ xương cá (trang 77) Phương pháp sơ đồ nhân quả (Sơ đồ xương cá trang 77) còn giúp xí nghiệp đưa ra những biện pháp cải tiến nâng cao chất lượng công trình đúng nơi, đúng chỗ và có hiệu qủa, nó là một công cụ quan trọng đáp ứng kiểm soát chất lượng toàn diện trong đó có kiểm tra chất lượng. Kiến nghị 6: Trong qúa trình tham gia dự thầu xây dựng công trình, xí nghiệp cần nhận rõ yêu cầu về kỹ thuật không đơn thuần là một tài liệu giải thích kỹ thuật cho bản vẽ mà nó còn là một bộ phận cấu thành hồ sơ mời thầu và quyết định giá thành của hợp đồng mà nhà thầu thắng thầu sẽ ký kết với chủ đầu tư . Trong bất kỳ hồ sơ mời thầu nào cũng bao gồm 2 nội dung cơ bản đó là nhà đầu tư đưa ra mức giá dự thầu và các yêu cầu về kỹ thuật về công trình của mình, trong đó các yêu cầu kỹ thuật là tài liệu bằng văn bản mô tả chi tiết nội dung công việc, vật liệu sử dụng, phương pháp lắp đặt và yêu cầu chất lượng nhằm nhân công để thực hiện một công việc đã được ký kết trong hợp đồng kinh tế. Nhiều năm trước đây trong xây dựng chưa bắt buộc tiến hành đấu thầu chỉ từ khi ban hành quy chế đầu thâù xây lắp số 60 BXD/ VKT ngày 30 /3/1994 điều lệ quản lý xây dựng cơ bản có những quy định về đấu thầu xây lắp thì công việc soạn thảo " các yếu tố kỹ thuật " trong hồ sơ đấu thầu mới được thực hiện. Chính vì vậy mà xí nghiệp xây dựng số 2 cũng như các công ty xây dựng khác ít nhiều chưa quan tâm đến các yêu cầu kỹ thuật này, họ chỉ coi đó là những tài liệu giải thích kỹ thuật cho bản thiết kế. Họ chỉ chú trọng đến khối lượng và thời gian khi đưa ra giá trị thầu, điều này đã làm cho giá thầu nhiều khi chưa đủ để thực hiện công việc với các yêu cầu kỹ thuật tương ứng. Do vậy mà khi thắng thầu, tiến hành xây dựng thì không đảm bảo đúng yêu cầu kỹ thuật dẫn đến chất lượng công trình kém hay nếu đảm bảo được các yêu cầu kỹ thuật thì sẽ làm cho giá công trình tăng lên. Ta lấy ví dụ: Trong một cuộc đấu thầu trong các yêu cầu kỹ thuật chủ đầu tư đưa ra yêu cầu sử dụng đá đổ bê tông là một loại đá có cường độ cao chỉ có ở miền trung nước ta để chế tạo bê tông có cường độ cao. Công ty thắng thầu đã không để ý tới việc này vì cho rằng đá để đổ bê tông là loại vật liệu thông thường, khi thi công công ty đã buộc phải bỏ qua yêu cầu kỹ thuật này vì công trình lại ở Hà nội, điều này dẫn đến chất lượng bê tông nói riêng hay chất lượng công trình nói chung đã giảm thấp. Trong cuộc đấu thầu khác trong các yêu cầu kỹ thuật nối xây là một dọc một ngang công ty không tính đến nên để tốn nhiều nhân công để thực hiện công việc này gây tốn phí lớn. Qua phân tích ở trên ta thấy công tác quản lý chất lượng công trình thì yêu cầu xí nghiệp cần có sự quản lý ngay cả trong khâu đấu thầu, cần quan tâm nghiên cứu kỹ về yêu cầu kỹ thuật trong hồ sơ mời thầu khi quyết định định giá trị dự thầu ,để đảm bảo khả năng thực hiện và bảo đam chất lượng công trình xây dựng. Một số ý kiến với nhà nước Về phía nhà nước để đảm bảo tốt, tạo điều kiện, môi trường thuân lợi cho công tác quản lý chất lượng công trình ở xí nghiệp xây dựng số 2 cũng như các công ty khác trong cả nước thì theo tôi Nhà nước tiến hành thực hiện một số việc sau đây : Thứ nhất: Nhà nước cần tiếp tục, sửa đổi, bổ sung và ban hành quy chế đấu thầu nhằm tiếp tục đổi mới quản lý đầu tư xây dựng, đáp ứng tăng cường quản lý lĩnh vực này trong giai đoạn đổi mới. Trong đó Nhà nước cần quan tâm chú ý đến " các yêu cầu kỹ thuật " trong các hồ sơ mời thầu bắt buộc các hồ sơ 2 phải có và làm sao cho trong đấu thầu ngày mội nghiêm về đấu các yêu cầu kỹ thuật hơn là về đấu giá, tức là nhà đầu tư đưa ra các yêu cầu kỹ thuật cao và ngày càng cao trong hồ sơ mời thầu. Các nhà đấu thầu sẽ xem đánh giá nếu bảo đảm được hơn thì thắng thầu, lấy các yêu cầu kỹ thuật là tiêu chuẩn để nghiệm thu bàn giao công trình khi đã hoàn thành. Thứ hai: phải thiết lập một chính sách chiến lược trong ngành xây dựng và vạch ra các bước thực hiện cụ thể trong đó cần nhìn rộng ra thế giới và khu vực để học tập nhằm tăng tốc độ và đuổi kịp trình độ chung trong thời gian ngắn nhất. Thứ ba: Phải hoàn thiện quản lý chất lượng thống nhất từ Cục giám định Nhà nước về chất lượng công trình xây dựng tới các tỉnh thành phố trực thuộc trung ương, các bộ và cơ quan ngang bộ, các tổng công ty lớn. Thực hiện chế độ phân cấp, nhằm quản lý cho công tác quản lý chất lượng của các công trình xây dựng trong phạm vi toàn quyền. Thứ tư : Phải đánh giá phân loại và quản lý được các tổ chức tư vấn hành nghề đảm bảo chất lượng cho các sản phẩm à công trình xây dựng. Muốn quản lý chất lượng công trình thì phải quản lý và kiểm tra các chất lượng hoạt động của các tổ chức này trong qúa trình làm ra sản phẩm thiết kế, khảo sát lập dự án thiết kế - các giai đoạn thi công xây lắp và cả trong quy trình khai thác sử dụng hoạt động có chất lượng của thị trường cung cấp dịch vụ chất xám này sẽ đảm bảo cho thị trường xây dựng lành mạnh. Thứ năm: Phải đầu tư thiết bị đo lường và thí nghiệm ở cấp độ khác nhau để tạo thành một hệ thống các phòng thí nghiệm sắp tới các phòng thí nghiệm phải được phân theo ba cấp: Phòng thí nghiệm của các nhà đầu tư xây dựng, phòng thí nghiệm này đảm bảo chất lượng công việc của nhà thầu xây lắp. Phòng thí nghiệm tĩnh hoặc phòng thí nghiệm hậu trường của các đơn vị tư vấn, quản lý chất lượng. Các phòng thí nghiệm này giúp cho chủ đầu tư kiểm soát chất lượng công trình của các nhà thầu xây lắp. Phòng thí nghiệm trọng điểm thực hiện các xí nghiệp trọng tài hoặc phúc tra, phục vụ các cơ quan quản lý Nhà nước về chất lượng. Các phòng thí nghiệm này có thể đặt ở các viện nghiên cứu lớn, các trường đại học lớn vì ở đó có đội ngũ chuyên gia giỏi đủ năng lực tổ chức thực hiện và đánh giá. Hệ thống các phong thí nghiệm với trang thiết bị hiện đại đội ngũ cán bộ thí nghiệm viên tinh thông nghề nghiệp và đội ngũ kỹ sư giỏi sẽ là công cụ không thể thiếu được trong qúa trình quản lý chất lượng công trình xây dựng. Tới một thời điểm nào đó chỉ các tổ chức tư vấn các phòng thí nghiệm được công nhận theo ISO-9000 mới có quyền tham gia công việc đảm bảo chất lượng công trình xây dựng. Thời điểm đó sẽ không còn xa nữa vì qúa trình công nhận lẫn nhau giữa các nước ASEAN đã tới gần. Thứ 6 là: Nhà nước cần tổ chức hội nghị chất lượng công trình xây dựng trong toàn quốc để bàn về các biện pháp lớn nhằm tăng cường năng lực của các Nhà nước trong lĩnh vực khảo sát thiết kế thi công xây lắp và nghiệm thu công trình, sản xuất vật liệu xây dựng, cung ứng vật tư thiết bị, phục vụ xây dựng công trình, tăng cường năng lực của ban quản lý dự án, công trình các công ty tư vấn đầu tư và xây dựng, hệ thống kiểm định và đánh giá chất lượng công trình, hệ thống giám định Nhà nước về chất lượng. Thứ bảy: Cần có quy chế khuyến khích các doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp Trách nhiệm hữu hạn trong việc áp dụng tiêu chuẩn Quốc tế về chất lượng như ISO 9000 trong xây dựng và tiêu chuẩn chất lượng Việt Nam ISO 8402-1994 TCVN 5814-1994 ISO 9000-1 TCVN 5200-1994 ISO 9001-1994 TCVN 5201-1995 ISO 9002-1994 TCVN 5202-1995 ISO 9003-1994 TCVN 5203-1995 ISO 9004-1-1994 TCVN 5204-1-1995 ISO 9004-2-1994 TCVN 5204-2- 995 ISO 10011-1- 1994 TCVN 5950-1-1995 ISO 10011-2- 1994 TCVN 5950-2-995 ISO 10011-3- 1994 TCVN 5950-3-1995 ISO 10013-1994 TCVN 5951-1995 Thứ tám là: Nhà nước cần có chương trình, kế hoạch văn bản pháp quy biên soạn các phương pháp luận của đảm bảo và nâng cao chất lượng công trình xây dựng, những người thẩm định viên, thẩm kế viên và giám định viên xây dựng. KẾT LUẬN Trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước như nước ta hiện nay. Mọi tổ chức sản xuất kinh doanh đều đang đứng trước những khó khăn thử thách lớn trong việc làm như thế nào để tồn tại và phát triển được trước các tổ chức sản xuất kinh doanh trong và ở khu vực cũng như trên thế giới. Khó khăn và thách thức này chỉ có thể giải quyết khi doanh nghiệp chú trọng đến việc nâng cao chất lượng sản phẩm của mình mà muốn vậy thì không còn gì khác là phải nâng cao chất lượng của công trình quản lý chất lượng sản phẩm. Quản lý chất lượng công trình ở xí nghiệp số 2 hiện nay cũng như ở một số công ty xây dựng khác vẫn đang ở bước giao thời từ nhận thức đến thực hiện, vẫn chưa được đúng đắn và hiệu quả do đó mà nó đòi hỏi sự đổi mới và hoàn thiện việc đổi mới và hoàn thiện công tác quản lý chất lượng công trình xây dựng ở xí nghiệp xây dựng số 2 chỉ có thể thành công khi xí nghiệp xác định được những tồn tại của công tác quản lý chất lượng tìm ra những nguyên nhân của nó từ đó đưa ra một hệ thống các giải pháp khắc phục, đối chiếu với các giải pháp với khả năng hiện thực của công ty để tìm ra biện pháp hiệu quả nhất , có tính khả thi cao để rồi áp dụng một cách triệt để. Việc đổi mới và hoàn thiện công tác quản lý chất lượng công trình xây dựng ở xí nghiệp xây dựng số 2 cũng cần phải có sự hỗ trợ kết hợp cuả Nhà nước. Nhà nước cần có chính sách, biện pháp của mình để tạo ra một môi trường thuận lợi cho các công ty nói chung và xí nghiệp xây dựng số 2 nói riêng trong việc thực hiện công tác quản lý chất lượng sản phẩm. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Quản trị kinh doanh – NXB thống kê - 2000 Nguyễn Trí Tụng – QTCL – sản phẩm Quản trị dự án đầu tư - NXB thống kê - 2000 Quản tri chất lượng sản phẩm theo phương pháp Nhật bản Giáo trình tổ chức thi công - ĐHXD Quản lý chất lượng đồng bộ Điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng Các tiêu chuẩn nghiệm thu kỹ thuật công tác bê tông, lề cốt thép – Bộ XD Các tạp chí xây dựng Các điều lệ xây dựng cơ bản Báo cáo tổng kết của xí nghiệp xây dựng số 2 giai đoạn 1994-2001 MỤC LỤC Bảng kê những chữ viết tắt NHẬN XÉT CỦA XÍ NGHIỆP XÂY DỰNG SỐ 2 Trong thời gian thực tập tại xí nghiệp xây dựng số 2 sinh viên Trịnh Ngọc Chuân luôn chấp hành tốt nội quy, quy chế của xí nghiệp đề ra. Sinh viên Chuân đi sâu vào tìm hiểu, nghiên cứu tình hình thực tế về công tác chất lượng công trình xây dựng của xí nghiệp. Chuyên đề của sinh viên Chuân đã phản ánh xác thực công tác chất lượng sản phẩm công trình mà xí nghiệp đang áp dụng. Đồng thời đã đề xuất một số biện pháp với xí nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả chất lượng công trình trong những năm tới. Hà Nội, ngày 23 tháng 04 năm 2002 BẢNG KÊ CÁC CHỮ VIẾT TẮT IOTC: Tổ chức tiêu chuẩn chất lượng Nhà nước Liên Xô ISO: Tổ chức tiêu chuẩn chất lượng thế giới CP: Chính phủ XHCN: Xã hội chủ nghĩa KCS: Kiểm tra chất lượng sản phẩm PDCA: Phòng quản lý chất lượng P: Cải tiến D: Kiểm tra C: Thực hiện A: Củng cố TQM: Quản lý chất lượng đồng bộ SDCA: Tiêu chuẩn hoá, thực hiện, kiểm tra, hành động TCVN: Tiêu chuẩn chất lượng Việt Nam MEC: Uỷ ban điện kỹ thuật ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docE0024.doc
Tài liệu liên quan