Một số vấn đề về thông tin đối ngoại phục vụ phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay – Thực trạng và giải pháp

Tài liệu Một số vấn đề về thông tin đối ngoại phục vụ phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay – Thực trạng và giải pháp: MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Ngày nay, toàn cầu hóa là xu thế khách quan mà bất cứ một quốc gia nào dù lớn hay nhỏ muốn phát triển kinh tế đều phải tham gia.Trong xu thế ấy, hội nhập kinh tế quốc tế là một nội dung quan trọng.Chủ động tham gia vào quá trình toàn cầu hóa là cơ sở để giữ gìn độc lập, tự chủ trong quá trình hội nhập. Các quốc gia, đặc biệt là các nước đang phát triển như Việt Nam muốn đạt được mức tăng trưởng cao phải tổ chức lại thị trường, cấu trúc lại nền kinh tế theo... Ebook Một số vấn đề về thông tin đối ngoại phục vụ phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay – Thực trạng và giải pháp

doc82 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1662 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Một số vấn đề về thông tin đối ngoại phục vụ phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay – Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hướng mở cửa ra bên ngoài, thực hiện có hiệu quả các hoạt động kinh tế đối ngoại. Muốn vậy, một trong những giải pháp đó là phổ biến ra bên ngoài đầy đủ, kịp thời các thông tin về đất nước, con người, đường lối, chính sách kinh tế nhằm thu hút sự quan tâm của nhà kinh doanh, tổ chức tài chính tiền tệ, chính phủ các nước trên thế giới, nói cách khác là phải thực hiện tốt công tác thông tin đối ngoại. Đối với các doanh nghiệp, thông tin đối ngoại giúp giới thiệu về mình, tạo dựng uy tín, thương hiệu với đối tác nước ngoài, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới. Ở Việt Nam, bước vào thời kỳ đổi mới, xuất phát từ mục tiêu phát triển kinh tế xã hội với sự lựa chọn theo định hướng xã hội chủ nghĩa, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta đã có những chuyển biến cả về chất và lượng. Báo cáo Chính trị Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã nêu rõ: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, đảm bảo độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia và giữ gìn bản sắc dân tộc, bảo vệ môi trường.” Đây là một chủ trương lớn trong chính sách đối ngoại, hội nhập của Đảng và Nhà nước ta.Theo quan điểm này, hội nhập kinh tế quốc tế trong điều kiện toàn cầu hóa kinh tế là một quá trình mà trọng tâm là chủ động mở cửa kinh tế, tham gia sâu vào phân công hợp tác quốc tế, tạo điều kiện để kết hợp có hiệu quả mọi nguồn lực trong nước và nước ngoài, mở rộng không gian và môi trường để phát triển, nâng cao thế và lực của nước ta trong quan hệ kinh tế quốc tế. Để hiện thực hóa chủ trương trên, bên cạnh việc nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp....thì một vấn đề quan trọng là chúng ta phải cung cấp một cách có hiệu quả các thông tin về Việt Nam ra thế giới. Nói cách khác, chúng ta phải làm tốt công tác thông tin đối ngoại. Thông tin đối ngoại được hiểu là toàn bộ các hoạt động thông tin truyền thông nhằm làm cho các nước, người nước ngoài (bao gồm cả người nước ngoài đang sinh sống, công tác tại Việt Nam), người Việt Nam đang sinh sống và làm việc ở nước ngoài hiểu về đất nước, con người Việt Nam, đường lối chủ trương, chính sách và thành tựu đổi mới của ta, trên cơ sở đó tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân thế giới, sự đóng góp của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, thu hút sự quan tâm của nhà kinh doanh, tổ chức tài chính tiền tệ, chính phủ các nước trên thế giới. Đối với các doanh nghiệp, thông tin đối ngoại giúp giới thiệu về mình, tạo dựng uy tín, thương hiệu với đối tác nước ngoài, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới. Đặc biệt khi Việt Nam đã gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, tham gia các sân chơi mới, có nhiều cơ hội cũng như thách thức đối với sự phát triển của kinh tế thì vị trí của thông tin đối ngoại càng có tầm quan trọng. Nhận thức được vấn đề đó, Đảng và Nhà Nước ta luôn chú trọng đến công tác thông tin đối ngoại. Nhiều văn bản về vấn đề này đã ra đời như chỉ thị 11-CT/TW, ngày 13/6/1992 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khó VII “Về đổi mới và tăng cường công tác Thông tin đối ngoại” và Thông báo 188-TB\TW ngày 29/12/1999, của Bộ Chính trị khóa VIII” ý kiến thường vụ Bộ Chính trị về công tác Thông tin đối ngoại trong tình hình mới...” Các chỉ thị, Nghị quyết của Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã nêu rõ tầm quan trọng, kết quả và yếu kém của công tác thông tin đối ngoại trong thời gian qua, đồng thời chỉ ra những biện pháp cần khắc phục trong thời gian tới. Quán triệt kịp thời sự chỉ đạo của Thường vụ Bộ Chính trị, ngày 26/4/2000 Thủ tướng Chính phủ đã ra chỉ thị 10/2000/CT-TTg “Về tăng cường quản lý và đẩy mạnh công tác Thông tin đối ngoại”. Chỉ thị nhấn mạnh rằng trong xu thế hội nhập quốc tế chung hiện nay hơn lúc nào hết, công tác thông tin đối ngoại càng trở nên bức thiết, cần phải được triển khai một cách đồng bộ, thiết thực và có hiệu quả với sự chỉ đạo của Trung ương và sự tham gia tích cực của các Bộ, ngành và các địa phương. Với những yêu cầu đặt ra cả về lý luận và thực tiễn như trên, việc tìm hiểu và nghiên cứu về vấn đề: “Một số vấn đề về thông tin đối ngoại phục vụ phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay – Thực trạng và giải pháp” là hết sức cần thiết và tôi chọn đó làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Là một mặt quan trọng trong hoạt động đối ngoại của Đảng, Nhà nước cũng như các ngành, các doanh nghiệp, việc nghiên cứu vấn đề thông tin đối ngoại cần được quan tâm đúng mức. Năm 2001, Ban Chỉ đạo công tác thông tin đối ngoại do đồng chí Vũ Khoan, Bí thư Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng được thành lập nhằm giúp Ban Bí thư Trung ương Đảng, Thủ tướng Chính phủ theo dõi, đánh giá tình hình, điều hành, chỉ đạo, phối hợp công tác thông tin đối ngoại. Ban Chỉ đạo đã tổ chức một số hội nghị tổng kết công tác này qua các thời kì và có tạp chí thông tin đối ngoại ra hàng tháng. Trong nghiên cứu, về vấn đề thông tin đối ngoại, hiện nay có một số công trình như: Đề tài: “Thông tin đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta trong tình hình mới” của Vụ Tuyên truyền và Hợp tác quốc tế Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương, nay là Ban Tuyên giáo Trung ương. “Định hướng hoạt động và quản lý báo chí trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay” của tác giả PGS.TS. Trần Quang Nhiếp chủ biên (2002). Luận văn thạc sỹ “Một số vấn đề về công tác thông tin đối ngoại” của tác giả Trần Thị Quỳnh Hoa. Tuy nhiên, chưa có đề tài hoặc công trình khoa học nào nghiên cứu toàn diện về thông tin đối ngoại phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế. Đề tài khóa luận này mang đến một hướng nghiên cứu mới mẻ, góp phần tìm hiểu sâu hơn kết quả của những nghiên cứu trước đó và gợi mở những vấn đề mới về công tác thông tin đối ngoại trong thời điểm hiện nay. Mục đích nghiên cứu Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn của thông tin đối ngoại phục vụ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam, đưa ra một số quan điểm và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả thông tin đối ngoại phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế. Với mục đích nghiên cứu trên, luận văn có những nhiệm vụ sau: Phân tích vị trí, vai trò của công tác thông tin đối ngoại phục vụ phát triển kinh tế trong thời gian trước đó, đặc biệt từ sau khi chỉ thị 11 CT/TW ra đời và nghiên cứu những yêu cầu mới đặt ra trong thời điểm sắp tới. Chỉ ra những quan điểm của Đảng và Nhà nước về công tác thông tin đối ngoại nhằm phục vụ và phát triển kinh tế một cách hiệu quả. Nghiên cứu một cách có hệ thống các vấn đề lý luận về thông tin đối ngoại phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế. Nghiên cứu, khảo sát thực trạng hoạt động thông tin đối ngoại của Việt Nam phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay, chỉ ra những thành tựu, yếu kém và nguyên nhân của những thành tựu yếu kém đó. Đưa ra một số quan điểm và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động thông tin đối ngoại phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong thời điểm sắp tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là đánh giá hoạt động thông tin đối ngoại phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung vào phân tích đánh giá hoạt động trên ở Việt Nam nói chung; ở tầm vi mô, luận văn sẽ nêu thực tiễn hoạt động thông tin đối ngoại của các tỉnh, thành tiêu biểu như thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hà Nội... và một số doanh nghiệp. Về thời gian, luận văn sẽ nghiên cứu hoạt động thông tin đối ngoại của Việt Nam từ năm 1992 đến nay, nghĩa là từ sau khi Chỉ thị 11CT/TW ra đời, rồi tới năm 2005 khi Ban chỉ đạo công tác thông tin đối ngoại được thành lập nhằm giúp ban bí thư Trung ương Đảng, Thủ tướng chính phủ theo dõi, đánh giá tình hình, điều hành, chỉ đạo, phối hợp công tác thông tin đối ngoại… 5. Cở sở lí luận, cơ sở thực tiễn và phương pháp nghiên cứu: 5.1. Cơ sở lí luận: Đề tài nghiên cứu lấy chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng, các quan điểm, nguyên tắc chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về công tác thông tin đối ngoại làm cơ sở phương pháp luận. Ngoài ra, đề tài còn vận dụng một số lý thuyết thông tin đối ngoại, lý thuyết truyền thông để nghiên cứu, tìm hiểu các vấn đề có liên quan đến lĩnh vực thông tin đối ngoại nhằm mục đích phục vụ cho phát triển kinh tế trong giai đoạn hiện nay. 5.2. Cơ sở thực tiễn: Đề tài được thực hiện trên cơ sở khảo sát, nghiên cứu thực trạng hoạt động của công tác thông tin đối ngoại nói chúng, nhằm phát triển kinh tế nói riêng thông qua các báo cáo tổng kết tình hình triển khai thực hiện Chỉ thị số 11 – CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa VII) vừa qua. 5.3. Phương pháp nghiên cứu: Đề làm rõ những nội dung cơ bản đã đặt ra của luận văn, trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng nhiều phương pháp như thống kê, so sánh, phân tích thực chứng.... Đồng thời, kết hợp với phương pháp tổng kết từ thực tiễn và khách quan: Đánh giá mặt được, chưa được, nguyên nhân trên cơ sở thực tế của tình hình; không đòi hỏi công tác thông tin đối ngoại phải đáp ứng nghiên cứu tách khỏi những điều kiện khách quan cho phép… 6. Những đóng góp mới về mặt khoa học: Hiện nay, Việt Nam mới chỉ có những công trình nghiên cứu về công tác thông tin đối ngoại trên nhiều lĩnh vực nói chung, chưa có công trình nghiên cứu nào tập trung chuyên sâu vào công tác thông tin đối ngoại phục vụ cho phát triển kinh tế trong giai đoạn hội nhập, phát triển theo xu hướng toàn cầu hóa. Do đó, về mặt khoa học, đề tài khóa luận này sẽ góp phần đặt nền móng cho việc nghiên cứu công tác thông tin đối ngoại phục vụ phát triển kinh tế một cách hệ thống, hoàn chỉnh và toàn diện hơn. Đặc biệt, khóa luận muốn khái quát các vấn đề lý luận về thông tin đối ngoại và vai trò nó trong hội nhập kinh tế quốc tế. Đây là khía cạnh rất mới, đồng thời đóng một vai trò quan trọng ảnh hưởng mạnh mẽ đến công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. 7.Ý nghĩa thực tiễn của khóa luận: Tác giả hy vọng luận văn sẽ có những ý nghĩa thực tiễn sau: Thứ nhất, nêu lên thực trạng hoạt động thông tin đối ngoại phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay, những thành tựu và hạn chế, nguyên nhân và bài học kinh nghiệm đầy ý nghĩa. Thứ hai, đưa ra các quan điểm, giải pháp cơ bản tạo cơ sở vững chắc nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động thông tin đối ngoại phục vụ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong thời gian tới. 8.Kết cấu khóa luận: Khóa luận có kết cấu 3 phần: mở đầu, nội dung và kết luận. Riêng phần nội dung của khóa luận có kết cấu cụ thể như sau: CHƯƠNG I MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG VỀ THÔNG TIN ĐỐI NGOẠI PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN KINH TẾ 1.1.Quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về hoạt động thông tin đối ngoại phục vụ phát triển kinh tế Bối cảnh tình hình và những yêu cầu đặt ra cho công tác thông tin đối ngoại qua các giai đoạn Những Chỉ thị quan trọng của Đảng và Nhà nước về hoạt động thông tin đối ngoại phục vụ kinh tế 1.2 Nhiệm vụ của Thông tin đối ngoại nhằm phát triển kinh tế: 1.2.1 Thông tin đối ngoại làm tốt công tác giới thiệu chủ trương, đường lối phát triển kinh tế 1.2.2 Thông tin đối ngoại giới thiệu, quảng bá những thành tựu công cuộc đổi mới, tiềm năng thế mạnh của đất nước CHƯƠNG II THÔNG TIN ĐỐI NGOẠI PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN KINH TẾ SAU 15 NĂM THỰC HIỆN CHỈ THỊ 11CT/TW – THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA 2.1 Thực trạng hoạt động thông tin phục vụ phát triển kinh tế trong 15 năm thực hiện chỉ thị 11 CT/TW Thực trạng thông tin đối ngoại với các ngành kinh tế Thực trạng thông tin đối ngoại với một số tỉnh, thành kinh tế quan trọng 2.1.3 Thực trạng thông tin đối ngoại với các doanh nghiệp 2.2 Nguyên nhân, kinh nghiệm và những vấn đề đặt ra cho công tác thông tin đối ngoại phục vụ phát triển kinh tế 2.2.1 Nguyên nhân những tồn tại trong hoạt động thông tin đối ngoại phục vụ kinh tế 2.2.2 Kinh nghiệm trong công tác thông tin đối ngoại phục vụ phát triển kinh tế 2.2.3 Những vấn đề đặt ra cho công tác thông tin đối ngoại CHƯƠNG III PHƯƠNG HƯỚNG CƠ BẢN VÀ CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU CHO HOẠT ĐỘNG THÔNG TIN ĐỐI NGOẠI PHỤC VỤ KINH TẾ TRONG THỜI GIAN TỚI Bối cảnh mới, thời cơ và thách thức Phương hướng cơ bản 3.3 Nhiệm vụ cụ thể 3.4 Các giải pháp chủ yếu CHƯƠNG I MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG VỀ THÔNG TIN ĐỐI NGOẠI PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN KINH TẾ 1.1. Quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về hoạt động thông tin đối ngoại phục vụ phát triển kinh tế 1.1.1.Bối cảnh tình hình và những yêu cầu đặt ra cho công tác thông tin đối ngoại qua các giai đoạn Giai đoạn 1991 – 1996: Năm 1991, Liên Xô tan rã, chủ nghĩa xã hội sụp đổ ở một loạt các nước Đông Âu và Liên Xô. Cục diện chiến tranh lạnh, đối đầu giữa hai phe XHCN và TBCN kéo dài gần nửa thế kỉ cơ bản kết thúc. Thế giới còn lại một siêu cường duy nhất là Mỹ. Trật tự thế giới cũ bị phá vỡ, nhưng trật tự thế giới mới chưa hình thành. Dưới ảnh hưởng của tư duy chiến tranh lạnh, Mỹ coi các nước xã hội chử nghĩa còn lại là đối tượng cần thanh toán: Trung Quốc, Việt Nam, Lào, Cuba, Triều Tiên. Đồng thời, chủ nghĩa dân tộc hồi giáo ở Trung Đông trỗi dậy, đe dọa vùng nguyên liệu năng lượng của Mỹ và đồng minh làm cho Mỹ hết sức lo ngại. Cuối cùng, Mỹ đưa ra phương án: Dùng “diễn biến hòa bình” để chuyển hóa các nước xã hội chủ nghĩa còn lại nhằm mục tiêu đến năm 1999, chiến thắng không cần chiến tranh”; tập trung lực lượng quân sự để khống chế vùng Trung Đông, Trung Á, ngăn chặn chủ nghĩa dân tộc hồi giáo, giữ vững vùng nguyên liệu, năng lượng quan trọng. Trong giai đoạn này, tình hình nước ta gặp nhiều khó khăn nghiêm trọng. Đất nước chưa ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội. Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, Việt Nam mất gần như hoàn toàn chỗ dựa chính trị quốc tế, viện trợ kinh tế và quân sự, thị trường quốc tế. Sản xuất suy giảm và đời sống nhân dân gặp khó khăn. Được sự hỗ trợ của bọn phản động quốc tế, các tổ chức của bọn ngụy quân, ngụy quyền lưu vong tổ chức xâm nhập vũ trang về Việt Nam hòng gây bạo loạn lật đổ chính quyền. Các phần tử phản động và cơ hội trong nước ngóc đầu dậy. Một số cán bộ đảng viên dao động lập trường, tuyên truyền những luận điểm đa nguyên đa đảng, đòi thay đổi con đường định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng ta. Trước tình hình phức tạp đó, Đại hội Đảng lần thứ VII đã vạch ra “Cương lĩnh xây dựng CNXH trong thời kì quá độ” cùng với Chủ nghĩa Mác- Lênin. Tư tưởng Hồ Chí Minh được coi là nên tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng và dân tộc. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VII ghi rõ “Với chính sách đối ngoại rộng mở, chúng ta tuyên bố rằng: Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển” Sau Đại hội, Hội nghị Trung ương lần thứ 3 (1992) đã ra nghị quyết về chính sách đối ngoại và kinh tế đối ngoại. Nghị quyết nêu ra tư tưởng chỉ đạo là “giữ vững nguyên tắc độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội, đồng thời phải rất sáng tạo năng động, linh hoạt, phù hợp với vị trí, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của nước ta cũng như diễn biến tình hình thế giới và khu vực, phù hợp với từng đối tượng nước ta có quan hệ”. Nghị quyết cũng đưa ra bốn phương châm đối ngoại quan trọng: Thứ nhất, đảm bảo lợi ích dân tộc, trong đó kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân. Thứ hai, giữ vững độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đẩy mạnh đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại. Thứ ba, nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế. Thứ tư, ưu tiên hợp tác khu vực, đồng thời mở rộng quan hệ hợp tác với tất cả các nước. Nhận thức được sâu sắc vị trí của công tác thông tin đối ngoại trong việc triển khai chính sách đối ngoại và kinh tế đối ngoại trong giai đoạn mới, để triển khai cụ thể Nghị quyết Đại hội VII và Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VII), ngày 13/6/1992, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị 11-CT/TW “Đổi mới và tăng cường công tác thông tin đối ngoại”. Trước đó, trong thời kì kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Ban Bí thư Trung ương Đảng cũng đã ra các Chỉ thị 45 (1962) “Về công tác tuyên truyền đối ngoại” và Chỉ thị 128 (1966) “Về tăng cường công tác tuyên truyền đối ngoại”. Sau chiến thắng năm 1975, Chỉ thị 11 là Chỉ thị đầu tiên về công tác thông tin đối ngoại, ra đời trong bối cảnh tình hình cách mạng nói chung và hoạt động đối ngoại nói riêng đang đứng trước những chuyển biến hết sức to lớn. Chỉ thị đã chỉ rõ tình trạng yếu kém kéo dài của thông tin đối ngoại chúng ta trong thời gian dài từ năm 1975 đến năm 1991: “1- Chưa làm cho thế giới hiểu đúng và kịp thời tình hình Việt Nam. Sách báo, thông tin của ta ra nước ngoài quá ít, chất lượng thấp. 2- Chưa xác định chủ đề trọng tâm trong từng thời kỳ. Chưa tận dụng mọi khả năng, nhất là khả năng phong phú về hợp tác quốc tế và đa dạng hóa các loại hình thông tin. Nội dung và hình thức đều nghèo nàn, chưa thật hợp với đối tượng từng nước, từng khu vực. 3- Sự chỉ đạo của các cơ quan Đảng, Nhà nước chưa kịp thời, sắc bén, kém hiệu lực. Lực lượng này làm công tác thông tin đối ngoại còn bị phân tán. Thiếu bộ máy chỉ đạo thống nhất với công tác này. Sở dĩ có những khuyết điểm trên đây là do các cơ quan lãnh đạo và quản lý công tác thông tin đối ngoại chưa có nhận thức đúng về tầm quan trọng của công tác này, buông lỏng sự chỉ đạo trong một thời gian dài, các ngành và địa phương chưa thấy rõ trách nhiệm của mình, không có chính sách, chế độ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác thông tin đối ngoại, phương tiện cơ sở vật chất – kỹ thuật thiếu thốn”. Chỉ thị đã nêu lên những nội dung chủ yếu của thông tin đối ngoại là: “1- Đường lối, chính sách và thành tựu đổi mới toàn diện của nước ta, những chủ trương quan trọng của ta nhằm giải quyết một số vấn đề lớn hoặc đáng chú ý về kinh tế, chính trị, xã hội... kịp thời phê phán, bác bỏ những thông tin xuyên tạc, sai lệch về tình hình Việt Nam, nhất là tình hình dân chủ, nhân quyền, ngăn chặn việc truyền bá vào nước ta những quan điểm, tư tưởng, lối sống, văn hóa phản động, đồi trụy, kích động bạo lực. 2- Chính sách đối ngoại kể cả chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta, những khả năng to lớn của Việt Nam trong quan hệ hợp tác với các nước. 3- Đất nước, con người, lịch sử và nền văn hóa lâu đời hết sức phong phú của các dân tộc anh em trong cộng đồng dân tộc Việt Nam. Tùy từng địa bàn, đối tượng và yêu cầu của từng lúc mà xác định nội dung và hình thức thông tin cho thích hợp, có trọng tâm, trọng điểm”. Sau khi Chỉ thị 11 ra đời, Ban Tuyên giáo Trung Ương, thực hiện phân công của Ban Bí thư là “phổ biến, hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện Chỉ thị này đến các ngành, các cấp, theo dõi và báo cáo kết quả với Ban Bí thư” đã triển khai kế hoạch một cách toàn diện công tác nhằm khắc phục những yếu kém mà Chỉ thị nêu ra. Ban đã cùng với các Bộ, ngành tổ chức Hội nghị sơ kết 1 năm, Hội nghị sơ kết 3 năm thực hiện Chỉ chị 11 vào các năm 1993 và 1995. Giai đoạn 1996 – 2000: Năm 1996, Đảng ta tiến hành Đại hội Đại biểu lần thứ VIII, trong bối cảnh tình hình có nhiều chuyển biến theo hướng thuận cho đất nước Sau 10 năm đổi mới, với nhiều thành tựu to lớn và toàn diện, Đại hội nhận định “đất nước ra cơ bản đã thoát ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội”. Về đối ngoại, chúng ta đã chuyển sang một tình thế hoàn toàn mới: Việt Nam bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc (1991), kí các thỏa thuận hợp tác kinh tế - thương mại – đầu tư với Liên minh châu Âu (1992), gia nhập Hiệp hội các nước Đông Nam Á (1995). Những đòn chiến lược này làm phá sản âm mưu bao vây cấm vận và bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch; Mỹ buộc phải tuyên bố bỏ cấm vận Việt Nam (1994) và thiết lập quan hệ ngoại giao đầy đủ, mở Đại sứ quán và của Đại sứ đầu tiên đến Việt Nam (7/1995). Đại hội VII xác định đất nước ta “bước vào thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, đưa ra chủ trương “hội nhập kinh tế quốc tế”. Vì vậy, thông tin đối ngoại cũng bước vào thời kì phát triển mới. Lực lượng thông tin đối ngoại được tăng cường mạnh mẽ. Lãnh đạo các cấp tham gia trực tiếp thông tin, lần đầu tiên, Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu họp báo quốc tế, đối thoại hàng chục phóng viên nước ngoài. Cơ quan đại diện ngoại giao ta được xác lập ở Mỹ và nhiều địa bàn khác, triển khai lực lượng ở tất cả những địa bàn quan trọng trên thế giới. Xuất khẩu của ta tăng nhanh, đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng vọt vào các năm 1995, 1996; lực lượng thông tin kinh tế, thương mại, du lịch đối ngoại của ta phát triển đột biến. Phương tiện thông tin đối ngoại, kỹ thuật truyền dẫn thông tin được tăng cường. Đài Tiếng nói Việt Nam phủ sóng hầu hết các địa bàn trọng điểm, kênh truyền hình VTV4 bắt đầu thuê vệ tinh phát hình đến một số khu vực châu Á và châu Âu. Đặc biệt, tháng 11/1997 với việc kết nối Việt Nam và mạng Internet toàn cầu, thông tin đối ngoại Việt Nam có bước tiến nhảy vọt, tin tức Việt Nam từ nay được cập nhật khắp thế giới. Trước tình hình đó, được phép của Ban Bí thư Trung ương Đảng, Ban Tuyên giáo Trung ương đã triệu tập “Hội nghị tổng kết 5 năm thực hiện Chỉ thị 11” vào tháng 8 – 1998. Hội nghị đã tổng kết những bước tiến mới của thông tin đối ngoại và kiến nghị Trung ương tăng cường chỉ đạo công tác trong tình hình mới. Ngày 29-12-1998, Thường vụ Bộ Chính trị (khóa VIII) đã ra Thông báo số 188 – TB/TW “Về công tác thông tin đối ngoại trong tình hình mới”. Sau khi đánh giá bước chuyển biến lớn và thành tích lớn, Bộ Chính trị đã chỉ ra những yếu kém cần khắc phục: “Tuy nhiên, công tác này chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp đổi mới. Chất lượng, hiệu quả, tính thuyết phục, sức hấp dẫn và tính chiến đấu chưa cao. Đội ngũ cán bộ trong lĩnh vực công tác này còn thiếu và chưa đồng đều cả về năng lực và trình độ, chưa nhận thức đầy đủ và sâu sắc tầm quan trọng của thông tin đối ngoại trong toàn bộ công tác đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Việc xác định trách nhiệm của từng ngành, từng cấp trong chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác thông tin đối ngoại có nhiều mặt chưa rõ, cho nên quản lý và phối hợp các lực lượng trong nước cũng như triển khai ở ngoài nước còn lúng túng. Đầu tư phân tán, thiếu đồng bộ, kém hiệu quả”. Bộ Chính trị yêu cầu tiếp tục thực hiện Chỉ thị 11, đồng thời chú trọng một số việc sau đây: “+ Ngoài việc tiếp tục quan hệ và chủ động xúc tiến công tác thông tin, tuyên truyền hướng vào các đối tượng và địa bàn đã được xác định tại Chỉ thị 11, ưu tiên cung cấp thông tin đúng định hướng cho người nước ngoài đến Việt Nam sinh sống, làm việc, du lịch, học tập và các nhà Việt Nam học trên thế giới.Tranh thủ họ để qua đó đưa thông tin giới thiệu về Việt Nam ra thế giới. + Tiếp tục và nâng cao chất lượng hệ thống thông tấn báo chí, xuất bản quốc gia như Thông tấn xã Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, một số báo và nhà xuất bản lớn để làm nòng cốt cho công tác thông tin đối ngoại.Từng bước và tổ chức chặt chẽ việc đưa các bộ phận chính của hệ thống này chuyển ngữ lên mạng Internet, nhằm cập nhật tin tức về Việt Nam trên thế giới. Khi cử các đoàn ra hoặc đón các đoàn nước ngoài vào Việt Nam (thăm hữu nghị, hội thảo khoa học, học tập, du lịch, sáng tác, làm kinh tế, biểu diễn nghệ thuật, thi đấu thể thao, phóng viên báo chí...), các ngành, các cấp phải có kế hoạch thông tin đối ngoại để tranh thủ giới thiệu về Việt Nam. Có chủ trương, chính sách và biện pháp thích hợp nhằm khuyến khích những người Việt Nam sinh sống ở nước ngoài tham gia làm thông tin đối ngoại về Việt Nam. + Kết hợp chặt chẽ việc tổ chức lực lượng trong nước với việc triển khai công tác thông tin ở nước ngoài, giữa thông tin đối nội với thông tin đối ngoại, giữa chính trị đối ngoại và kinh tế đối ngoại, văn hóa đối ngoại, giữa ngoại giao nhà nước, đối ngoại đảng và đối ngoại nhân dân, tạo và phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng làm công tác thông tin đối ngoại. Cơ quan ngoại giao và thường trực của ta ở nước ngoài cần tăng cường hoạt động thông tin đối ngoại. Có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp, các cơ sở văn hóa, khoa học, các địa phương tự giới thiệu, quảng cáo ra nước ngoài, chỉ đạo chặt chẽ và hỗ trợ các đơn vị xuất khẩu sách báo, phim ảnh, văn hóa phẩm, triển lãm sáng tạo, biểu diễn nghệ thuật của Việt Nam ra nước ngoài. Tăng cường hợp tác trao đổi và tranh thủ sự giúp đỡ của nước ngoài để nâng cao hiệu quả thông tin của ta”. Giai đoạn 2001 – 2007: Đất nước bước vào thế kỉ XXI, Đại hội IX của Đảng (tháng 4 năm 2001) đã vạch ra “Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001 – 2010 “nhằm đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Đại hội đã vạch ra đường đối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế, đặt trọng tâm công tác đối ngoại vào hoạt động kinh tế đối ngoại.Ta thực hiện lộ trình AFTA, kí Hiệp định Thương mại song phương với Hoa Kỳ, gia nhập WTO. Quan hệ quốc tế của ta tiếp tục được rộng mở, nâng cao hơn bao giờ hết. Bộ Chính trị ra Nghị quyết 07 “Về hội nhập kinh tế quốc tế”, Nghị quyết 36 “Về công tác vận động người Việt Nam ở nước ngoài”... Ngay sau đại hội, nhận thức được sự phát triển mạnh mẽ sắp tới của các lực lượng thông tin đối ngoại, ngày 27-12-2001, Ban Bí thư Trung ương (khóa IX) đã ban hành Quyết định 16-QĐ/TW “Về việc thành lập Ban Chỉ đạo công tác thông tin đối ngoại” và kèm theo quyết định này là “Quy chế phối hợp chỉ đạo hoạt động thông tin đối ngoại”. Ban Chỉ đạo công tác thông tin đối ngoại là cơ quan phối hợp, giúp Ban Bí thư Trung ương Đảng và Thủ tướng Chính phủ theo dõi tình hình, điều hành, chỉ đạo, phối hợp công tác thông tin đối ngoại. Ban chỉ đạo định kỳ và thường xuyên đánh giá tình hình, đề xuất chủ trương về công tác thông tin đối ngoại, trình Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định. Lần đầu tiên, chúng ta đã hình thành cơ quan lãnh đạo, chỉ đạo công tác thông tin đối ngoại, đánh dấu bước tiến mới trước yêu cầu và sự phát triển mới của công tác. Việc Thường vụ Bộ Chính trị khóa VIII ra Thông báo 188 và Ban Bí thư Trung ương khóa IX ra Quyết định 16 nhằm cụ thể hóa các nhiệm vụ mà Chỉ thị 16 đã nêu ra, đồng thời, trước bước phát triển vượt bậc của thông tin đối ngoại, Đảng ta đã bổ sung những phương hướng, biện pháp mới, làm cho Chỉ thị 11 thích ứng với các giai đoạn mới của Cách Mạng Việt Nam. 1.1.2. Những Chỉ thị quan trọng của Đảng và Nhà nước về hoạt động thông tin đối ngoại phục vụ kinh tế Chỉ thị 11 - CT/TW ngày 13-6-1992 của Ban Bí thư: "Về đổi mới và tăng cường công tác thông tin đối ngoại" Từ Đại hội VI của Đảng đến nay, công tác thông tin đối ngoại của ta đã thu được một số kết quả tốt trong việc giới thiệu nước Việt Nam đổi mới ra nước ngoài, góp phần phân hóa những lực lượng đối địch, từng bước phá thế bao vây, cấm vận và mở rộng quan hệ với các nước trong khu vực Đông Nam Á, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, tranh thủ được sự đồng tình và hợp tác của nhiều nước, nhiều lực lượng trên thế giới, cả giới kinh doanh và chính giới. Tuy nhiên, công tác thông tin đối ngoại của ta vẫn ở tình trạng yếu kém kéo dài. Những khuyết điểm và nhược điểm chính là : 1- Chưa làm cho thế giới hiểu đúng và kịp thời tình hình Việt Nam. Sách báo, thông tin của ta ra nước ngoài quá ít, chất lượng thấp. 2- Chưa xác định chủ đề trọng tâm trong từng thời kỳ. Chưa tận dụng mọi khả năng, nhất là khả năng phong phú về hợp tác quốc tế và đa dạng hóa các loại hình thông tin. Nội dung và hình thức đều nghèo nàn, chưa thật hợp với đối tượng từng nước, từng khu vực. 3- Sự chỉ đạo của các cơ quan Đảng, Nhà nước chưa kịp thời, sắc bén, kém hiệu lực. Lực lượng làm công tác thông tin đối ngoại còn bị phân tán. Thiếu bộ máy chỉ đạo thống nhất đối với công tác này. Sở dĩ có những khuyết điểm trên đây là do các cơ quan lãnh đạo và quản lý công tác thông tin đối ngoại chưa có nhận thức đúng về tầm quan trọng của công tác này, buông lỏng sự chỉ đạo trong một thời gian dài; các ngành và địa phương chưa thấy rõ trách nhiệm của mình, không có chính sách, chế độ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác thông tin đối ngoại; phương tiện, cơ sở vật chất - kỹ thuật thiếu thốn. Tình hình thế giới diễn biến hết sức nhanh chóng và phức tạp. Chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu và Liên Xô sụp đổ; phong trào cộng sản, công nhân quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc lâm vào tình trạng khủng hoảng. Các lực lượng thù địch với chủ nghĩa xã hội và chế độ ta đẩy mạnh các hoạt động thông tin liên lạc, lừa bịp nhằm chống lại nhân dân ta. Mặt khác, nhiều người, nhiều nước trên thế giới muốn tìm hiểu đường lối, kết quả đổi mới của nước ta và đất nước, con người của ta; chúng ta cần làm cho nhân dân thế giới hiểu rõ chính sách đối ngoại của ta để tranh thủ dư luận thế giới và tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Công tác thông tin đối ngoại phải được đổi mới và tăng cường nhằm đáp ứng những yêu cầu đó của cách mạng trong tình hình mới. Thứ nhất, về nội dung thông tin đối ngoại. 1- Đường lối, chính sách và thành tựu đổi mới toàn diện của nước ta, những chủ trương quan trọng của ta nhằm giải quyết một số vấn đề lớn hoặc đáng chú ý về kinh tế, chính trị, xã hội… Kịp thời phê phán, bác bỏ những thông tin xuyên tạc, sai lệch về tình hình Việt Nam, nhất là về tình hình dân chủ, nhân quyền, ngăn chặn việc truyền bá vào nước ta những quan điểm, tư tưởng, lối sống, văn hóa phản động, đồi trụy, kích động bạo lực. 2- Chính sách đối ngoại, kể cả chính sách kinh tế đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta, những khả năng to lớn của Việt Nam trong quan hệ hợp tác với các nước. 3- Đất nước, con người, lịch sử và nền văn hóa lâu đời, hết sức phong phú của các dân tộc anh em trong cộng đồng dân tộc Việt Nam. Tùy từng địa bàn, đối tượng và yêu cầu của từng lúc mà xác định nội dung và hình thức thông tin cho thích hợp, có trọng tâm, trọng điểm. Thông tin sang các nước láng giềng và trong khu vực: Trung Quốc, Lào, Campuchia; các nước ASEAN; Nhật Bản, Đông Bắc Á, Ấn Độ, Australia. Thông tin sang Mỹ, các nước Tây Âu, Bắc Âu, Đông Âu và Liên Xô (trước đây), châu Phi, Mỹ La tinh, hướng vào chính giới, các nhà kinh doanh, trí thức, báo chí, các tổ chức đoàn kết, hòa bình, hữu nghị phi chính phủ, các lực lượng tiến bộ.Thông tin cho cộng._. đồng người Việt Nam ở nước ngoài, nhất là ở Tây Âu, Bắc Mỹ, Liên Xô (trước đây) và Đông Âu. Thứ hai, về lực lượng và phương thức thông tin đối ngoại Cần gấp rút tổ chức lại các lực lượng của ta; đồng thời tận dụng mọi khả năng và đa dạng hóa các phương thức hợp tác quốc tế để tăng cường lực lượng, nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác thông tin đối ngoại. 1- Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam cần được tăng cường. Tăng công suất phát sóng và nghiên cứu hình thức hợp tác để tiếp âm cho một số đối tượng; nâng cao chất lượng các chương trình phát thanh bằng tiếng nước ngoài của Đài và chương trình phát thanh bằng tiếng Việt cho người Việt Nam ở nước ngoài. 2- Nâng cao chất lượng chương trình truyền hình của Đài Truyền hình Việt Nam, mở rộng việc trao đổi chương trình và hợp tác với đài truyền hình các nước. 3- Thông tấn xã Việt Nam nâng cao chất lượng báo ảnh Việt Nam và các bản tin đối ngoại hiện có; tranh thủ mọi khả năng hợp tác và tài trợ của nước ngoài bằng nhiều hình thức như cùng viết, trao đổi xuất bản phẩm hoặc in và phát hành bản tin ở một số nước. 4- Bộ Văn hóa, thông tin, thể thao tổ chức tốt việc in đẹp với giấy tốt, xuất bản và phát hành sách báo chí đối ngoại. Tăng cường trao đổi ấn phẩm, băng hình, triển lãm, các đoàn văn hóa, nghệ thuật, v.v… Kiện toàn Nhà xuất bản ngoại văn "Thế giới" thuộc Bộ Văn hóa, thông tin và thể thao và báo "Đầu tư Việt Nam" thuộc Ủy ban Nhà nước về hợp tác và đầu tư. Tập trung cán bộ và phương tiện làm cho tờ báo đối ngoại "Tin Việt Nam" (Vietnam Courier) thành tờ báo có tính chất quốc gia, có chất lượng cao về nội dung và hình thức. Việc giao báo Vietnam Courier cho cơ quan nào quản lý do Hội đồng Bộ trưởng quyết định. 5- Ngành du lịch, hàng không cũng có nhiệm vụ tham gia công tác thông tin đối ngoại. 6- Sử dụng tốt hơn kênh đoàn ra và đoàn vào. Đối với đoàn ra, các ngành và địa phương có trách nhiệm quản lý, giao nhiệm vụ trong đó có công tác thông tin đối ngoại. Từng thời kỳ Ban Tư tưởng - văn hóa Trung ương phối hợp với Bộ Ngoại giao, Ban Đối ngoại Trung ương có định hướng nội dung thông tin ra ngoài cho các ngành, các đoàn thể quần chúng, các tổ chức đoàn kết, hòa bình và hữu nghị, kinh tế đối ngoại, v.v… Các đoàn đi về cần báo cáo kết quả hoạt động với ngành chủ quản và Ban Đối ngoại, Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương. Tận dụng giới báo chí, văn nghệ sĩ, trí thức nước ngoài viết về Việt Nam, hoặc các giới điện ảnh, nhiếp ảnh nước ngoài làm phim, chụp ảnh giới thiệu Việt Nam theo hướng ủng hộ ta. Chỉ đạo và quản lý tốt hoạt động của Trung tâm báo chí thuộc Bộ Ngoại giao. 7- Cung cấp thông tin kịp thời cho các đại sứ, tùy viên văn hóa, báo chí các nước tại Việt Nam và các đoàn nước ngoài vào Việt Nam. Đài Phát thanh Tiếng nói Việt Nam và Đài Truyền hình Việt Nam có chương trình phát thanh và truyền hình hàng ngày bằng tiếng Anh dành cho người nước ngoài đang ở Việt Nam. 8- Cung cấp thông tin kịp thời về tình hình trong nước cho các cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài (đại sứ quán, tổng lãnh sự quán, đảng bộ ngoài nước, quản lý lao động, quản lý lưu học sinh, kinh tế - thương mại …). Các cơ quan này có trách nhiệm làm công tác thông tin đối ngoại, phát hành rộng rãi các ấn phẩm và tuyên truyền từ trong nước gửi ra, dựng các bảng ảnh, ra bản tin… Bộ Ngoại giao phối hợp với Bộ Văn hóa, thông tin và thể thao đề xuất tiêu chuẩn, lựa chọn tùy viên văn hóa, báo chí cử đi công tác ở các sứ quán của ta đáp ứng yêu cầu hiện nay. Bộ Văn hóa, thông tin và thể thao phối hợp với Bộ Ngoại giao sớm thể chế hóa chế độ, chính sách, tiêu chuẩn đào tạo, sử dụng và bồi dưỡng cán bộ làm công tác thông tin đối ngoại. 9- Tăng cường đầu tư cho công tác thông tin đối ngoại, tăng thêm cơ sở vật chất kỹ thuật cho các cơ quan làm công tác thông tin đối ngoại.Có chế độ cước phí hợp lý đối với các ấn phẩm, tài liệu thông tin đối ngoại gửi ra ngoài nước. Thứ ba, về tổ chức chỉ đạo thực hiện: 1- Ban Bí thư phối hợp với Hội đồng Bộ trưởng chỉ đạo và quản lý thống nhất công tác thông tin đối ngoại. Về phía Đảng, Ban Bí thư giao cho Ban Tuyên giáo Trung ương chủ trì phối hợp với Ban Đối ngoại Trung ương và các cơ quan hữu quan để định hướng về nội dung, đôn đốc, kiểm tra và theo dõi về bố trí, quản lý, bồi dưỡng cán bộ hoạt động trong lĩnh vực công tác thông tin đối ngoại. Về phía Nhà nước, đề nghị Hội đồng Bộ trưởng giao cho Bộ Văn hóa, thông tin và thể thao phối hợp với Bộ Ngoại giao, Bộ Nội vụ và các cơ quan hữu quan thể chế hóa việc thực hiện công tác thông tin đối ngoại của các ngành. 2- Cuối mỗi năm, Ban Tư tưởng - văn hóa Trung ương phối hợp với Bộ Văn hóa, thông tin và thể thao báo cáo công tác này với Ban Bí thư và Hội đồng Bộ trưởng, đề xuất phương hướng công tác tới. 3- Ban Tư tưởng - văn hóa Trung ương có trách nhiệm phổ biến, hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện chỉ thị này đến các ngành, các cấp, theo dõi và báo cáo kết quả với Ban Bí thư. Chỉ thị 10/2000/CT – TTg ngày 26/4/2000 của Thủ tướng chính phủ: “Về tăng cường quản lý và đẩy mạnh công tác thông tin đối ngoại” Kể từ sau Hội nghị tổng kết Chỉ thị 11 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (Khóa VII) tháng 6/1998, các ngành, các cấp đã có nhiều hoạt động tích cực trên lĩnh vực thông tin đối ngoại, đạt được nhiều kết quả khả quan. Nhìn chung, trong những năm qua công tác thông tin đối ngoại đã tiến hành có định hướng, tập trung vào những nhiệm vụ trọng tâm. Bước đầu Nhà nước đã dành ngân sách thích đáng cho các hoạt động và dịch vụ thông tin đối ngoại, đổi mới và ngày càng hiện đại hoá hệ thống thông tin viễn thông và kết nối mạng Internet toàn cầu, tạo điều kiện cập nhật thông tin về Việt Nam đến mọi nơi trên thế giới. Đội ngũ làm công tác thông tin đối ngoại được tăng cường. Cơ sở vật chất kỹ thuật được trang bị thêm. Nhận thức của các ngành, các cấp, các địa phương về công tác thông tin đối ngoại có một bước chuyển biến mới. Tuy nhiên, trong quá trình đổi mới đất nước, công tác thông tin đối ngoại chưa đáp ứng được yêu cầu của tình hình mới và còn bộc lộ nhiều yếu kém mà Thông báo số 188/TB-TW ngày 29 tháng 12 năm 1998 của Thường vụ Bộ Chính trị về công tác thông tin đối ngoại đã chỉ rõ: "Chất lượng hiệu quả, tính thuyết phục, mức hấp dẫn và tính chiến đấu chưa cao. Đội ngũ cán bộ trong lĩnh vực này còn thiếu và chưa đồng đều cả về năng lực và trình độ, chưa nhận thức đầy đủ và sâu sắc tầm quan trọng của thông tin đối ngoại trong toàn bộ công tác đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Việc xác định trách nhiệm của từng ngành, từng cấp trong chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác thông tin đối ngoại có nhiều mặt chưa rõ, cho nên quản lý và phối hợp các lực lượng trong nước cũng như triển khai ở ngoài nước còn lúng túng. Đầu tư phân tán, thiếu đồng bộ, kém hiệu quả". Sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh là một sự nghiệp lâu dài, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phát huy sáng tạo, tinh thần tự lực tự cường, kết hợp có hiệu quả những nguồn lực, tiềm năng bên trong là chính với những nguồn lực bên ngoài mà quá trình hợp tác và hội nhập quốc tế mang lại. Với chức năng của mình, công tác thông tin đối ngoại phải tham gia tích cực và có hiệu quả nhất vào việc phát huy thuận lợi, tận dụng thời cơ, hạn chế tiêu cực, khắc phục yếu kém, góp phần thiết thực vào việc thực hiện thành công những mục tiêu phát triển của đất nước.Vì vậy, hơn lúc nào hết, công tác thông tin đối ngoại càng trở nên bức thiết, cần phải được triển khai một cách đồng bộ, thiết thực và hiệu quả với sự chỉ đạo thống nhất của Trung ương và sự tham gia tích cực của các Bộ, ngành và các địa phương. Quán triệt Chỉ thị số 11/CT-TW ngày 13 tháng 6 năm 1992 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khoá VII) và Thông báo số 188/TB - TW ngày 29 tháng 12 năm 1998 của Thường vụ Bộ Chính trị, để làm tốt công tác thông tin đối ngoại, đáp ứng đòi hỏi của tình hình mới, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các Bộ, ngành, địa phương, các cấp thấu suốt và thực hiện các chủ trương, nhiệm vụ sau đây: Thứ nhất, phương châm triển khai công tác thông tin đối ngoại: 1. Tất cả các Bộ, ngành, các địa phương, các cấp đều có trách nhiệm chỉ đạo và tổ chức thực hiện tốt công tác thông tin đối ngoại trong phạm vi quản lý của mình. 2. Công tác thông tin đối ngoại cần được triển khai toàn diện, rộng khắp, song có trọng tâm, trọng điểm, trước hết là đối với các nước láng giềng và trong khu vực, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài; ưu tiên cung cấp thông tin đúng định hướng cho người nước ngoài đến Việt Nam sinh sống, làm việc, du lịch, học tập và các nhà Việt Nam học trên thế giới. 3. Tổ chức, phối hợp và phát huy sức mạnh tổng hợp của nhiều lực lượng làm công tác thông tin đối ngoại: giữa các lực lượng chuyên trách nòng cốt với các cơ quan đại diện của ta ở nước ngoài, các đoàn ra nước ngoài, người Việt Nam sinh sống và làm việc ở nước ngoài, cũng như bạn bè quốc tế; giữa thông tin đối ngoại với thông tin đối nội; giữa hoạt động thông tin đối ngoại với hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa đối ngoại; giữa ngoại giao Nhà nước với đối ngoại Đảng, đối ngoại nhân dân; giữa các cơ quan Trung ương với các địa phương; giữa các cơ quan Nhà nước với các doanh nghiệp Thứ hai, phân công về mặt quản lý Nhà nước và tổ chức thông tin đối ngoại: 1. Bộ Văn hóa - Thông tin chủ trì, phối hợp với Bộ Ngoại giao và các cơ quan có liên quan thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về công tác thông tin đối ngoại. Bộ Văn hóa - Thông tin và Ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài phối hợp với các ngành liên quan làm tốt công tác thông tin, văn hóa cho cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. 2. Bộ Ngoại giao có trách nhiệm chính trong việc theo dõi tình hình và triển khai hoạt động thông tin đối ngoại trên địa bàn ngoài nước. 3. Bộ Tài chính bố trí kinh phí cho hoạt động thông tin đối ngoại trong ngân sách Nhà nước hàng năm. 4. Bộ Kế hoạch và Đầu tư có kế hoạch đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật cho hoạt động thông tin đối ngoại. 5. Các Bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp có nhiệm vụ: a) Chỉ đạo các cơ quan chuyên trách thực hiện nhiệm vụ thông tin đối ngoại; b) Tổ chức thực hiện các hoạt động thông tin đối ngoại đối với các đối tượng có liên quan ở trong nước và ở nước ngoài. Thứ ba, phương hướng đẩy mạnh công tác thông tin đối ngoại: 1. Tiếp tục nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành, nhất là các cơ quan quản lý Nhà nước và các cơ quan chuyên trách làm công tác thông tin đối ngoại về tầm quan trọng của công tác này trước mắt cũng như lâu dài. 2. Phối hợp chặt chẽ giữa các ngành, các địa phương trong tổ chức, chỉ đạo thực hiện và quản lý hoạt động thông tin đối ngoại nhằm phát huy tối đa mọi khả năng tạo nên sức mạnh tổng hợp đẩy mạnh và mở rộng công tác thông tin đối ngoại. 3. Tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, có trọng tâm trọng điểm để phục vụ công tác thông tin đối ngoại; chú ý đầu tư cho các cơ quan báo chí, truyền thông đại chúng, bao gồm cả báo chí điện tử, các cơ quan xuất bản; các cơ quan hợp tác và giao lưu văn hóa với nước ngoài. Thứ tư, nội dung chủ yếu của thông tin đối ngoại: 1. Thông tin đối ngoại có nhiệm vụ phổ biến rộng rãi đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta, những chủ trương quan trọng trên mọi lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng...; bác bỏ những thông tin sai lệch, xuyên tạc về Việt Nam. 2. Đường lối và chính sách đối ngoại, bao gồm cả chính sách kinh tế đối ngoại; chủ trương nhất quán Việt Nam ''sẵn sàng là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển''; yêu cầu và tiềm năng của Việt Nam trong quan hệ hợp tác với các nước trên nguyên tắc cùng có lợi, tôn trọng độc lập, chủ quyền và quyền tự quyết của nhau. 3. Giới thiệu đất nước - con người, lịch sử và nền văn hoá lâu đời, phong phú, đa dạng, đậm đà bản sắc dân tộc của Việt Nam. Thứ năm, những việc cần làm ngay: Để đưa công tác thông tin đối ngoại vào nề nếp, các cấp, các ngành cần xây dựng các kế hoạch dài hạn và ngắn hạn, các quy chế quản lý thích hợp làm căn cứ chủ động triển khai. Cụ thể là: 1. Bộ Văn hóa - Thông tin chủ trì, phối hợp với Bộ Ngoại giao và các Bộ, ngành liên quan xây dựng: a) Quy chế tổ chức và quản lý Nhà nước về hoạt động thông tin đối ngoại của các Bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp; b) Quy chế phối hợp giữa các cơ quan: Bộ Văn hóa - Thông tin, Bộ Ngoại giao, Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương, Ban Đối ngoại Trung ương về xây dựng nội dung cũng như về kế hoạch triển khai hoạt động thông tin đối ngoại; c) Xây dựng kế hoạch hoạt động thông tin đối ngoại trên địa bàn trong nước 2 năm 2000 - 2001; d) Cùng Bộ Ngoại giao vạch kế hoạch cử tùy viên văn hoá ở một số cơ quan đại diện ngoại giao tại một số địa bàn cần thiết và kế hoạch xây dựng các cơ quan thường trú một số báo chí Việt Nam ở ngoài nước. 2. Bộ Ngoại giao chủ trì, phối hợp với Bộ Văn hoá - Thông tin và các Bộ, ngành liên quan xây dựng: a) Quy chế tổ chức và quản lý hoạt động thông tin đối ngoại trên địa bàn ngoài nước; b) Kế hoạch hoạt động thông tin đối ngoại trên địa bàn ngoài nước 2 năm 2000 - 2001. 3. Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan: a) Phân bổ và hướng dẫn các Bộ, ngành, địa phương, các cơ quan chuyên trách sử dụng hợp lý và có hiệu quả kinh phí dành cho hoạt động thông tin đối ngoại; b) Xây dựng chính sách trợ giá, trợ cước cho việc in ấn và phát hành các tài liệu (bao gồm cả sách) dùng cho thông tin đối ngoại. 4. Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan xây dựng: Kế hoạch đầu tư xây dựng và nâng cao chất lượng hệ thống cơ sở vật chất - kỹ thuật của thông tin đối ngoại, trước hết là các cơ quan chuyên trách làm công tác thông tin đối ngoại 2 năm 2000 - 2001. 5. Tổng cục Bưu điện, Tổng cục Du lịch, Cục Hàng không Dân dụng Việt Nam xây dựng: Kế hoạch của ngành mình (mỗi ngành có kế hoạch riêng) tham gia công tác thông tin đối ngoại 2 năm 2000 - 2001. 6. Các cơ quan thông tin - báo chí, xuất bản chuyên trách đối ngoại, các cơ quan truyền thông đại chúng: Thông tấn xã Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, các báo và tạp chí lớn, các cơ quan thông tin - báo chí khác vạch kế hoạch hàng năm về công tác thông tin đối ngoại của đơn vị mình. 7. Các Bộ, ngành được giao nhiệm vụ xây dựng các đề án và kế hoạch cần hoàn thành và trình Thủ tướng Chính phủ trong quý II năm 2000. Cuối cùng, Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin chủ trì phối hợp với Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, Bộ trưởng Bộ Tài chính, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Thủ trưởng các Bộ, ngành có liên quan chịu trách nhiệm hướng dẫn và kiểm tra việc thi hành Chỉ thị về tăng cường quản lý và đẩy mạnh công tác thông tin đối ngoại. Chỉ thị 26 – CT/TW ngày 10/ 9/ 2008 của Ban Bí thư: “Về tiếp tục đổi mới và tăng cường công tác thông tin đối ngoại trong tình hình mới” Trong hơn 16 năm qua, thực hiện Chỉ thị số 11 - CT/TW, ngày 13-6-1992 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa VII), công tác thông tin đối ngoại đã được tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, mở rộng địa bàn và đối tượng thông tin, góp phần quan trọng để bạn bè quốc tế và đồng bào ta ở nước ngoài hiểu rõ hơn về đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước ta, thành tựu đổi mới của đất nước, văn hóa và con người Việt Nam, đấu tranh chống lại các hoạt động tuyên truyền, xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp Cách mạng của Đảng và nhân dân ta, đóng góp tích cực vào thành tựu đối ngoại và công cuộc đổi mới của đất nước. Tuy nhiên, công tác thông tin đối ngoại vẫn còn nhiều hạn chế. Thông tin còn thiếu chủ động, nội dung thông tin còn chưa kịp thời, nhạy bén, chưa thật phù hợp với từng đối tượng và địa bàn khác nhau, tính hấp dẫn và thuyết phục chưa cao, năng lực phản bác các thông tin sai trái còn hạn chế, chậm ứng dụng các thành tựu công nghệ hiên đại (mạng Internet, truyền hình cáp…) vào hoạt động thông tin; công tác chỉ đạo, phối hợp hoạt động của các đơn vị làm công tác thông tin đối ngoại còn chưa chặt chẽ… Ngày nay, đất nước ta sau hơn 20 năm đổi mới giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, thế và lực, uy tín quốc tế được nâng lên, Đảng bước vào giai đoạn phát triển mới đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế và những thuận lợi, thời cơ lớn và cả những khó khăn, thách thức gay gắt. Trên thế giới, quá trình toàn cầu hóa và cách mạng khoa học – công nghệ diễn ra rất mạnh mẽ, tác động mọi mặt đến đời sống; hòa bình, hợp tác vẫn là xu thế lớn nhưng chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột dân tộc, tôn giáo, hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố vẫn diễn ra ỏ nhiều nơi với tính chất ngày càng phức tạp; các thế lực thù địch vẫn tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước, sự nghiệp đổi mới của nhân dân ta. Để đáp ứng yêu cầu của đất nước trong tình hình mới, công tác thông tin đối ngoại cần phải được tiếp tục đổi mới và tăng cường mạnh mẽ trên mọi lĩnh vực. Thứ nhất, về mục đích, yêu cầu và phương châm hoạt động: Với mục đích: Công tác thông tin đối ngoại được đổi mới và tăng cường, mở rộng phạm vi và nâng cao chất lượng hoạt động nhằm góp phần thực hiện thắng lợi đường lối đối ngoại, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của Đảng, nhân dân ta trong tình hình mới, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, tường bước đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Với yêu cầu: Đổi mới công tác thông tin đối ngoại cả về nội dung và phương thức hoạt động, tăng cường mạnh mẽ hoạt động thông tin đối ngoại cả về số lượng và chất lượng; nâng cao tính chủ động, sáng tạo, tính linh hoạt, sự phong phú và sắc bén của các hoạt động thông tin đối ngoại. Công tác thông tin đối ngoại là nhiệm vụ của hệ thống chính trị với lực lượng nòng cốt là các đơn vị trực tiếp làm nhiệm vụ thông tin đối ngoại. Với phương châm, tiếp tục quán triệt và thực hiện tốt phương châm “ chính xác, kịp thời, sinh động, phù hợp từng đối tượng”; hết sức chú ý gắn kết chặt chẽ giữa thông tin đối nội với thông tin đối ngoại, tận dụng sức mạnh nội lực và ngoại lực trong hoạt động thông tin đối ngoại. Thứ hai, nội dung, phương thức hoạt động và lực lượng tham gia Về nội dung: Tăng cường tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, luật pháp, chính sách của Nhà nước, thành tựu đổi mới của đất nước ta để bạn bè quốc tế và đồng bào ta ở nước ngoài có hiểu biết hơn, đầy đủ và đúng đắn hơn về sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ tổ quốc của nhân dân ta; đẩy mạnh tuyên truyền, giới thiệu, quảng bá hình ảnh đất nước, lịch sử, văn hóa và con người Việt Nam, tiềm năng phát triển và hợp tác của Việt Nam với cộng đồng quốc tế trên các lĩnh vực; đấu tranh phản bác, các quan điểm sai trái của các phần tử cơ hội, các thế lực thù địch một cách chủ động, có tính thuyết phục và hiệu quả hơn; tăng cường công tác nắm bắt tình hình, nghiên cứu, dự báo để hoạt động thông tin đối ngoại chủ động, kịp thời và hiệu quả hơn. Về phương thức hoạt động và lực lượng tham gia: - Huy động mọi lực lượng, mọi khả năng để mở rộng và đa dạng hóa các phương thức thông tin đối ngoại; cấp ủy đảng, chính quyền, mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội các cấp, các ngành, cán bộ, đảng viên, nhân dân, trên cơ sở nhận thức đúng đắng về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác thông tin đối ngoại trong giai đoạn phát triển mới của đất nước; cần nâng cao trách nhiệm, tự giác tham gia hoạt động thông tin đối ngoại phù hợp với khả năng và điều kiện của mình. - Căn cứ tình hình cụ thể trong từng thời gian, từng địa bàn, tiến hành thông tin đối ngoại một cách linh hoạt, sát hợp với từng đối tượng, hấp dẫn và hiệu quả. Tăng cường công tác thông tin đối ngoại thông qua các diễn đàn song phương và đa phương, các đoàn ra, đoàn vào, hoạt động đối ngoại của Đảng, Nhà nước, đối ngoại nhân dân; các hoạt động triển lãm, hội chợ, tham quan, du lịch của nguaòi Việt nam ra nước ngoài và người nước ngoài vào Việt Nam; qua các đối tác kinh tế, văn hóa, giáo dục nước ngoài của Việt Nam, người Việt Nam ở nước ngoài về thăm Tổ quốc, cơ quan đại diện của Việt Nam và các phương tiện thông tin đại chúng quốc tế, nhất là truyền hình, thông tấn và các tờ báo uy tín của nước ngoài… - Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật cho hoạt động thông tin đối ngoại, phát triển các phương tiện thông tin hiện đại, nhất là Internet, truyền hình cáp; đầu tư có trọng điểm cho một số báo hình, báo viết, báo mạng, bằng tiếng Việt Nam và tiếng nước ngoài, tạo ra những thương hiệu báo chí Việt Nam có uy tín quốc tế. - Tăng cường các bộ làm công tác thông tin đối ngoại, bố trí cán bộ chuyên trách hoặc bán chuyên trách về công tác thông tin đối ngoại ở các bộ, ban, ngành, địa phương, các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội… Nghiên cứu, sắp xếp đội ngũ phóng viên thường trú các cơ quan báo chí ở nước ngoài một cách hợp lý; xây dựng cơ chế hoạt động của đội ngũ tùy viên văn hóa tại các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài. Xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác thông tin đối ngoại có bản lĩnh chính trị vững vàng, có trình độ nghiệp vụ, chuyên môn giỏi, nhạy bén và linh hoạt trong xử lý các tình huống, nhất là các vấn đề nhạy cảm, phức tạp. Thứ ba, tổ chức thực hiện: - Tiếp tục hoàn thiện cơ chế thống nhất chỉ đạo đối với công tác thông tin đối ngoại đã hình thành, tăng cường phân công, phối hợp giữa các lực lượng, tạo ra sức mạnh tổng hợp trong hoạt động thông tin đối ngoại. Theo hướng đó, cần thực hiện một số giải pháp quan trọng sau đây: - Ban Chỉ đạo công tác thông tin đối ngoại làm tốt vai trò tham mưu giúp Ban Bí thư chỉ đạo, Chính phú thống nhất quản lý, kiểm tra các hoạt động thông tin đối ngoại; chủ trì, phối hợp với các cơ quan chức năng xây dựng chiến lược thông tin đối ngoại trình Ban Bí thư. - Bộ Công an, Bộ Quốc phòng kịp thời cung cấp thông tin và phối hợp với Bộ phận Thường trực Ban Chỉ đạo thông tin đối ngoại để tham mưu, đề xuất chủ trương, biện pháp xử lý những vẫn đề nhạy cảm, phức tạp, nhất là các vấn đề liên quan tới dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo, chủ quyền lãnh thổ… - Bộ ngoại giao, Bộ thông tin và Truyền thông cũng các cơ quan hữu quan phối hợp quản lý chặt chẽ hoạt động của các phóng viên nước ngoài và cung cấp thông tin, tạo điều kiện thuận lợi cho họ hiểu rõ đường lối, chính sách của Việt Nam, tranh thủ những báo chí nước ngoài có thiện cảm với Việt Nam. Các đại sứ quán, văn phòng đại diện, cơ quan báo chí của ta ở nước ngoài cần chủ động, tích cực, sáng tạo các biện pháp có hiệu quả trong hoạt động thông tin đối ngoại. - Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Văn hóa, Thể thao và du lịch có trách nhiệm quản lý nhà nước đối với hoạt động văn hóa, báo chí đối ngoại (kể cả website, web-blog). Ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài và các cơ quan chức năng khác có kế hoạch hỗ trợ phát triển các hoạt động văn hóa, các loại hình truyền thống, báo chí tích cưcj trong cộng đồng người Việt ở nước ngoài. - Đài truyền hình Việt Nam, Đài tiếng nói Việt Nam xây dựng kế hoạch mở rộng phạm vi phủ sóng, nâng cao thời lượng, chất lượng phát sóng, cải tiến mạnh mẽ nội dung các chuyên mục và cách thức thể hiện phù hợp với các đối tượng, địa bàn nước ngoài. Thông tấn xã Việt Nam, Báo Nhân dân, Báo quân đội nhân dân, các đài, báo ở Trung ương cà địa phương… tăng cường chất lượng thông tin; các nhà xuất bản các ấn phẩm nhiều thứ tiếng, giới thiệu, quảng bá hình ảnh đất nước, con người, văn hóa Việt Nam đến nhiều nước trên thế giới, nhất là các nước có đông người Việt Nam định cư. - Bộ Giáo dục và đào tạo chủ trì, phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương, các học viện, trường đại học, viện nghiên cứu xây dựng chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chuyên ngành thông tin đối ngoại. - Các bộ, ban, ngành, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể Trung ương và địa phương thực hiện các hoạt động thông tin đối ngoại phù hợp với điều kiện thực tế của mình. - Văn phòng Trung ương Đảng, Bộ Tài chính, Bộ kế hoạch và Đầu tư cùng các cơ quan liên quan bảo đảm kinh phí trong ngân sách nhà nước hàng năm cho việc đầu tư cơ sở vật chất – kỹ thuật và các hoạt động thông tin đối ngoại. - Ban tuyên giáo Trung ương – cơ quan thường trực của Ban Chỉ đạo công tác thông tin đối ngoại chủ trì, phối hợp với các cơ quan chức năng theo dõi, kiểm tra và hàng năm tổ chức sơ kết việc thực hiện chỉ thị này, báo cáo Ban Bí thư, Thường trực Chính phủ. Nhiệm vụ của Thông tin đối ngoại nhằm phát triển kinh tế: 1.2.1. Thông tin đối ngoại làm tốt công tác giới thiệu chủ trương, đường lối phát triển kinh tế Công tác thông tin đối ngoại phục vụ phát triển kinh tế có nhiệm vụ hết sức quan trọng trong việc triển khai đường lối đối ngoại của Việt Nam sau Đại hội X của Đảng. Đồng thời góp phần lớn cho sự hiểu biết của cộng đồng thế giới về đường lối chính sách phát triển kinh tế xã hội của đất nước với tinh thần quyết tâm cao của cả dân tộc trên con đường tiến tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Nhiệm vụ của công tác thông tin đối ngoại là giữ vững, củng cố môi trường hòa bình, tạo các điều kiện kinh tế quốc tế thuận lợi hơn nữa cho công cuộc đổi mới, đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ kinh tế hợp tác trên quốc tế và trong khu vực. Công tác thông tin đối ngoại tập trung hơn nữa vào những vấn đề mà thế giới quan tâm đến nước ta. Một trong những vấn đề đó là tạo nhiều việc làm và giải quyết các vấn đề việc làm: để tận dụng sức lao động đang còn dư thừa, chiến lược và chính sách phát triển của chúng ta phải khuyến khích hỗ trợ những ngành, những doanh nghiệp, những sản phẩm xử dụng nhiều lao động, nhất là công nghiệp chế biến, chế tạo, thương mại, dịch vụ, các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Bên cạnh đó, nhà nước tiếp tục đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, kinh tế - xã hội cho các vùng nghèo và trợ giúp về điều kiện sản xuất, nâng cao kiến thức, cải thiện mức sống một cách bền vững. Đồng thời, nhà nước tăng cường đầu tư và đổi mới chính sách để thu hút đầu tư vào lĩnh vực môi trường. Ngoài ra, Việt Nam quyết tâm chống tham nhũng, mở rộng dân chủ và xây dựng Nhà nước pháp quyền, tạo môi trường lành mạnh thuận lợi cho đầu tư của nước ngoài, thu hút FDI và tranh thủ quỹ ODA. Đặc biệt, công tác thông tin đối ngoại nhằm phát triển kinh tế còn góp phần tích cực trong cuộc đấu tranh chống lại các luận điệu tuyên truyền sai lệch, xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân thế giới đối với lập trường kiên định, đường lối đúng đắn của nhà nước ta. Hơn nữa, công tác này đem thông tin nhiều và đầy đủ hơn nữa về đất nước, con người, bề dày lịch sử văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc và thế mạnh du lịch của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế. 1.2.2. Thông tin đối ngoại giới thiệu, quảng bá những thành tựu công cuộc đổi mới, tiềm năng thế mạnh của đất nước Những thành tựu của 22 năm đổi mới (1986-2008) đóng một vai trò vô cùng quan trọng và ý nghĩa, làm cho thế và lực của nước ta lớn mạnh hơn nhiều. Nước ta chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) là cơ hội để đổi mới và phát triển kinh tế xã hội nhanh hơn, có hiệu quả hơn. Môi trường hòa bình tiếp tục được giữ vững. Nhưng điều kiện thuận lợi ấy cho phép chúng ta đẩy nhanh hơn nhịp độ phát triển đất nước trong thời gian tới. Dù vậy, thách thức trước mắt cũng rất lớn. Đất nước vẫn còn trong tình trạng kém phát triển và tụt hậu xa về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Quá trình hội nhập quốc tế đồng thời cũng buộc chúng ta phải thực hiện nhiều cam kết, chịu nhiều sức ép và cạnh tranh. Nạn tham nhũng và tệ quan liêu còn rất nghiêm trọng. Sự chống phá của các thế lực thù địch bằng âm mưu “diễn biến hòa bình” và bạo loạn lật đổ tiếp diễn gay gắt; những thiên tai lớn và dịch bệnh xảy ra thất thường; an ninh trật tự và an toàn xã hội ở một số vùng và địa phương chưa đảm bảo vững chắc. Trước tình hình đó, công tác thông tin đối ngoại phải triển khai kịp thời mạnh mẽ, rộng khắp để thế giới hiểu Việt Nam về chiều hướng, tiềm năng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước những năm tới. Năm 2006 và 5 năm 2006 – 2010 phát triển kinh tế xã hội nhanh hơn, bền vững hơn, sớm vượt qua ngưỡng cửa của nước đang phát triển có thu nhập thấp (năm 2010, thậm chí sớm hơn bình quân GDP trên người/ năm là 1000 hoặc 1100 USD). Trong khi tiếp tục khai thác các yếu tố phát triển theo chiều rộng, phải đặc biệt coi trọng các yếu tố phát triển về chiều sâu; tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế thì mới duy trì được tốc độ phát triển cao (GDP bình quân từ 7,5% đến 80% năm) đồng thời kết hợp tốt hơn nữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường, hết sức coi trọng phát triển con người, thực sự mở rộng dân chủ, phát huy cao độ sức mạnh vật chất, trí tuệ và tinh thần của dân để đổi mới và phát triển đất nước nhanh hơn, bền vững hơn. Công tác thông tin đối ngoại cần thực hiện tốt hơn về hội nhập kinh tế quốc tế và nâng cao sức cạnh tranh. Năm 2006 và 5 năm 2006 – 2010 là thời gian nước ta hội nhập sâu rộng vào hệ thống kinh tế khu vực và toàn cầu. Chúng ta đẩy mạnh đàm phán gia nhập WTO, hoàn tất vào cuối năm 2006, hội nhập đầy đủ với khu vực thương mại tự do Đông Nam Á (AFTA), cùng với các quốc gia khác trong ASEAN xúc tiến đàm phán các hiệp định thương mại tự do với nhiều nước trong khu vực. Việc thực hiện các cam kết song phương, đặc biệt là với các dối tác lớn được nâng tầm cao hơn. Đây là cơ hội lớn để nước ta mở rộng thị trường, tranh thủ thêm nguồn vốn và công nghệ cho sự phát triển đất nước; đồng thời sẽ nảy sinh nhiều thách thức trong môi trường cạnh tranh quyết liệt hơn. Không chỉ có các cấp, ngành, cơ quan hành chính Nhà nước, hiện nay, một số doanh nghiệp cũng tham gia thực hiện thông tin đối ngoại, thậm chí đưa thông tin đối ngoại trở thành một trong những nội dung của chiến lược maketing. Có công ty qua nghiên cứu đ._.động thông tin đối ngoại, quan tâm đầu tư thích đáng cho các lực lượng làm công tác thông tin đối ngoại. 2.2.3 Những vấn đề đặt ra cho công tác thông tin đối ngoại phục vụ phát triển kinh tế: Sau nhiều năm tăng trưởng cao, kinh tế thế giới đang bước vào giai đoạn khó khăn. Trong nước, Ðảng, Nhà nước và nhân dân ta đã và đang nỗ lực vượt qua những khó khăn trước mắt do những tác động không thuận của kinh tế thế giới và thiên tai liên tiếp, tập trung ổn định kinh tế vĩ mô; đồng thời, đón bắt những thời cơ và thành quả của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế mang lại, đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo đảm phát triển bền vững, phấn đấu sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng để đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Ðất nước ta đang bước vào giai đoạn phát triển mới với những yêu cầu cao hơn, trước những cơ hội và thách thức đan xen trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng hơn và trong bối cảnh một thế giới biến động nhanh và phức tạp. Quán triệt nhiệm vụ phát triển đất nước, công tác thông tin đối ngoại đã góp phần đẩy mạnh các hoạt động kinh tế với bên ngoài, đưa đất nước hội nhập ngày càng sâu rộng, hiệu quả vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Hợp tác kinh tế đã trở thành một trong những nội dung chính trong các chương trình đối ngoại của lãnh đạo Ðảng, Nhà nước, Chính phủ và QH. Sau khi trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), công cuộc hội nhập kinh tế quốc tế được đẩy mạnh hơn nữa và đạt được những kết quả cụ thể trong vận động các nước công nhận quy chế thị trường, thúc đẩy và tham gia tạo dựng các khuôn khổ hợp tác kinh tế song phương và đa phương mới, phù hợp lợi ích của ta. Đồng thời, điều đó cũng đặt ra nhiều vấn đề cho công tác này trong thời gian tới: Một là, công tác thông tin đối ngoại phục vụ kinh tế rất cần có những biện pháp cụ thể, thiết thực, hiệu quả, và có trọng tâm, trọng điểm để đưa quan hệ song phương của ta với các đối tác, nhất là các đối tác hàng đầu tiếp tục đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững, tăng hàm lượng phát triển; hướng mạnh nội dung các chương trình hợp tác với các đối tác vào việc phục vụ tốt nhất sự phát triển của đất nước, qua đó tạo sự đan xen lợi ích nhiều hơn và xây dựng vị thế tốt nhất để phát huy lợi thế so sánh của nước ta trong hợp tác quốc tế. Cùng với các quan hệ song phương, tiếp tục củng cố và nâng cao vai trò của Việt Nam ở các tổ chức, diễn đàn khu vực và quốc tế; phát huy vị trí Ủy viên không thường trực Hội Ðồng Bảo An Liên Hợp Quốc và vai trò tích cực của ta trong hợp tác ASEAN; chủ động tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu và khu vực cũng như cuộc đấu tranh chung vì hòa bình, ổn định, hợp tác bình đẳng giữa các quốc gia. Hai là, triển khai công tác thông tin đối ngoại phục vụ kinh tế thực hiện tốt vai trò đột phá - mở đường, tham mưu, đồng hành và đôn đốc, cùng các bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta; tăng cường công tác nghiên cứu, thông tin, dự báo, nhất là cung cấp thông tin kịp thời cho doanh nghiệp khi muốn tham gia đầu tư và xuất khẩu hàng hoá ra nước ngoài để xác nhận đối tác được an toàn và được tiếp cận chính xác về thị trường một cách hiệu quả, giữ được uy tín trong kinh doanh khi hàng hoá VN ra nước ngoài, tích cực đóng góp cho định hướng chính sách kinh tế đối ngoại nói riêng và phát triển kinh tế nói chung, trong đó có chính sách quản lý kinh tế vĩ mô. Ba là, công cuộc xây dựng đất nước tiếp tục cần đến sự ủng hộ của bạn bè quốc tế, chúng ta thật sự cần nguồn vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý của những quốc gia đã đi tiên phong. Chúng ta sẽ không tìm được những đối tác cần thiết nếu không biết quảng bá tiềm năng, quảng bá đường lối cởi mở, sẵn sàng làm bạn với các nước của Việt Nam cũng như chủ trương, chính sách mang tính chiến lược về kinh tế của Việt Nam. Do đó, công tác thông tin đối ngoại phục vụ kinh tế chính là một trong những cách hiệu quả nhất để quảng bá, giới thiệu về hình ảnh Việt Nam cùng những tiềm năng về kinh tế của đất nước. Bốn là, triển khai hiệu quả các biện pháp cụ thể nhằm khắc phục những khó khăn trước mắt đưa nền kinh tế nước ta tiếp tục phát triển vững chắc kết hợp với việc thúc đẩy hợp tác trên các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, khoa học - công nghệ... Đặc biệt, triển khai Chỉ thị của Ban Bí thư về tiếp tục đổi mới và tăng cường công tác thông tin đối ngoại trong tình hình mới, cần đổi mới và sáng tạo về hình thức, sắc bén và phong phú về nội dung, đa dạng và linh hoạt về cách thể hiện. Tạo bước phát triển mạnh mẽ phục vụ hiệu quả cho việc phát triển kinh tế, góp phần tạo nền tảng tinh thần, gắn kết bền vững các mối quan hệ quốc tế của đất nước và là nhịp cầu hữu nghị đưa Việt Nam ra thế giới; đồng thời chắt lọc, tiếp thu tinh hoa của thế giới. Năm là, công tác thông tin đối ngoại cần gắn liền với việc quy hoạch, đào tạo cán bộ nhằm tạo ra một đội ngũ cán bộ đáp ứng được những yêu cầu đặt ra cho công tác đối ngoại trong thời kỳ mới. Một lực lượng cán bộ đối ngoại mạnh về chuyên môn, trang bị cho mình cả kiến thức nền tảng về kinh tế, vững vàng về bản lĩnh chính trị, trong sáng về đạo đức, sẵn sàng đương đầu với thách thức... là yếu tố then chốt, quyết định thành công của công tác thông tin đối ngoại Việt Nam. Cuối cùng, công tác thông tin đối ngoại phục vụ kinh tế cần chú trọng hơn nữa công tác vận động người Việt Nam ở nước ngoài, đóng góp tích cực cho sự nghiệp phát triển và bảo vệ Tổ quốc. Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không tách rời của dân tộc, gắn bó với đất nước về văn hóa, lịch sử, huyết thống... Thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước, công tác thông tin đối ngoại đã tích cực vận động kiều bào xây dựng cộng đồng đoàn kết, hòa nhập và tôn trọng pháp luật sở tại; đồng thời hướng về cội nguồn, đóng góp cho sự nghiệp phát triển đất nước với nhiều hình thức đa dạng như đầu tư về nước, kiều hối (mỗi năm 4 tỉ - 5 tỉ USD), làm cầu nối trong quan hệ với sở tại và đóng góp chất xám để phát triển các mặt khoa học, công nghệ và quản lý tại Việt Nam. CHƯƠNG III PHƯƠNG HƯỚNG CƠ BẢN VÀ CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU CHO HOẠT ĐỘNG THÔNG TIN ĐỐI NGOẠI PHỤC VỤ KINH TẾ TRONG THỜI GIAN TỚI 3.1. Bối cảnh mới, thời cơ và thách thức: Hiện nay, nước ta đang đứng trước bối cảnh tình hình thế giới và trong nước có những chuyển biến mau lẹ, phức tạp, khó lường. Việt Nam hội nhập sâu rộng, thông tin đối ngoại có nhiều cơ hội nhưng cũng gặp phải những khó khăn, thách thức gay gắt. Sau hơn 20 năm đổi mới, sức mạnh tổng hợp của đất nước tăng lên rất nhiều, tạo nên thế và lực mới. Việt Nam có vai trò ngày càng tăng ở khu vực và trên thế giới, vị thế tiếp tục nâng cao, đặc biệt với vai trò là Ủy viên không thường trực của Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc, thành viên của WTO…Mục tiêu nhanh chóng đưa Việt Nam trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 càng đòi hỏi việc giới thiệu, quảng bá hình ảnh đất nước ra bên ngoài tốt hơn, đặc biệt là việc giới thiệu tiềm năng, đất nước con người, văn hóa Việt Nam, môi trường chính trị, xã hội ổn định, là một yêu cầu lớn. Trong khi xu hướng hòa bình, hợp tác và hữu nghị vẫn là xu hướng chính trong quan hệ giữa các nước thì những nhân tố bất ổn định, nguy cơ xung đột về sắc tộc, dân tộc, sự chống phá của các thế lực thù địch đang tăng lên. Cộng đồng hơn 3 triệu người Việt Nam ở nước ngoài, đại đa số luôn hướng về đất nước và có khả năng đóng góp nhiều mặt, nhưng vẫn có bộ phận không nhỏ chưa có thông tin đầy đủ về đất nước, thậm chí còn có những nhìn nhận mặc cảm, sai lệch về đất nước. Nhìn tổng quát, thông tin đối ngoại một mặc có điều kiện phát triển, môi trường thông tin và đối tượng thông tin được mở rộng; mặt khác tính phức tạp cũng nhiều hơn. Sự phát triển của công nghệ thông tin đang điễn ra ở quy mô toàn cầu tạo cơ hội tốt để Việt Nam nhanh chóng tiếp cận với công nghệ mới, các kỹ năng, các phương tiện thông tin, kỹ thuật truyền thông hiện đại, những kinh nghiệm tổ chức hoạt động, những cơ sở lý luận mới để từ đó hỗ trợ quá trình đổi mới và phát triển của thông tin nước ta nói chung và thông tin đối ngoại nói riêng. Đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp nhân dân không ngừng được cải thiện. Hợp tác và giao lưu văn hóa giữa nước ta với các nước được đẩy mạnh. Đó chính là những tiền đề khích lệ văn hóa nội sinh phát triển, đồng thời có điều kiện thuận lợi tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại, tạo ra cơ hội tốt để giới thiệu với bạn bè khắp năm châu những vẻ đẹp độc đáo của nền văn hóa dân tộc Việt Nam. Toàn cầu hóa trên thế giới đang diễn ra mạnh mẽ, tạo ra những tác động sâu sắc về nhiều mặt cho sự phát triển của mỗi nước. Nền kinh tế thế giới tiếp tục phục hồi và phát triển cho các quốc gia, dân tộc. Nhưng toàn cầu hóa kinh tế cũng chứa đựng nhiều yếu tố bất bình đẳng, gây khó khăn, thách thức lớn cho các quốc gia, nhất là các nước đang phát triển. Biến đổi khí hậu, bệnh dịch, ô nhiễm môi trường, cạnh tranh kinh tế, thương mại, giành giật tài nguyên, năng lượng, thị trường, công nghệ… giữa các nước ngày càng gay gắt tác động trực tiếp đến sự ổn định chính trị và tăng trưởng kinh tế của các quốc gia, khu vực, toàn cầu. Những tác động đó càng lớn và phức tạp hơn ở những nước có nền kinh tế chuyển đổi như Việt Nam. Trong hoàn cảnh đó, yêu cầu của thông tin đối ngoại là phải tham gia tích cực và hiệu quả tuyên truyền đường lối đổi mới, hội nhập, chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ rộng mở của nước ta; đấu tranh không khoan nhượng với những âm mưu vu cáo, xuyên tạc của các thế lực thù địch, bôi nhọ chế độ ta. Đây là nhiệm vụ hết sức nặng nề, đòi hỏi sự đầu tư thích đáng cả về nguồn lực vật chất lẫn con người, đặc biệt đòi hỏi sự đột phá về tư duy và cách thể hiện. Giao lưu quốc tế giữa các quốc gia hiện nay là quá trình vừa là hợp tác, vừa đấu tranh, trong đó ngoài đấu tranh về lợi ích kinh thế thì đấu tranh về tư tưởng, quan điểm và văn hóa ngày càng nổi lên, thậm chí có lúc gay gắt. Với những lợi thế vượt trội trong một số lĩnh vực, nhiều nước trong quan hệ quốc tế đang tìm cách áp đặt quan điểm, tư tưởng, văn hóa và lối sống của mình cho những nước khác. Trong điều kiện đó, thông tin đối ngoại của ta đứng trước thách thức là làm sao phải xử lý thỏa đáng mối quan hệ giữa nhu cầu mở rộng, phát triển quan hệ đối ngoại với việc bảo vệ lợi ích quốc gia, nền văn hóa dân tộc. 3.2. Phương hướng cơ bản - Đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả của thông tin đối ngoại nhằm tiếp tục góp phần làm cho thế giới hiểu rõ chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thành tựu đổi mới của đất nước, qua đó góp phần đấu tranh chống quan điểm sai trái, phản động của các thế lực thù địch, cơ hội. - Thông tin đối ngoại góp phần giữ vững môi trường hòa bình, tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới, đẩy mạnh phát triển kinh tế- xã hội, tăng cường sức mạnh quốc phòng- an ninh, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh. - Công tác thông tin đối ngoại phải phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo trong hành động, tập trung mọi nỗ lực và phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, nâng cao hiệu quả, góp phần tích cực nhất vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đây là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, của cả hệ thống chính trị, trong đó lực lượng nòng cốt là các binh chủng trực tiếp làm nhiệm vụ thông tin đối ngoại; phải xác định đây là nhiệm vụ cơ bản, thường xuyên cả trước mắt và lâu dài của tất cả các cơ quan, các đơn vị, doanh nghiệp, các bộ, ban, ngành, các địa phương và trung ương. 3.3. Nhiệm vụ cụ thể Một là, tiếp tục bám sát các nhiệm vụ chính trị trong các nghị quyết, các văn bản chỉ đạo của Đảng, Nhà nước để cụ thể hóa bằng các chủ đề thông tin đối ngoại thiết thực, hiệu quả. Tăng cường giới thiệu thành tựu công cuộc đổi mới, quảng báo hình ảnh về đất nước, con người, văn hóa Việt Nam đến nhiều nước trên thế giới. Tăng thời lượng phát thanh, truyền hình, báo điện tử ra các nước, các khu vực, đưa được nhiều thông tin và sản phẩm văn hóa có nội dung tốt đến với đồng bào ta ở nước ngoài và bạn bè quốc tế. Hai là, cùng với hoạt động đối ngoại của Đảng, Nhà nước, và nhân dân, thông tin đối ngoại tập trung sức tuyên truyền, quảng bá, tọa môi trường thuận lợi cho sự phát triển kinh tế, xã hội, thúc đẩy các hoạt động đầu tư, du lịch, tìm kiếm thị trường, xây dựng hình ảnh, thương hiệu quốc gia, tạo môi trường tốt để nền kinh tế nước ta phát triển nhanh và bền vững. Ba là, kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu của các thế lực thù địch tuyên truyền những quan điểm sai trái, phản động xung quanh các vấn đề dân chủ, nhân quyền, tôn giáo và các vấn đề nhạy cảm khác, nhằm tác động xấu đến tư tưởng và tâm trạng xã hội, ảnh hưởng đến sự ổn định của đất nước, làm phương hại đến an ninh, chủ quyền quốc gia, trật tự an toàn xã hội. Bốn là, tiếp tục củng cố, nâng cao hiệu quả hoạt động của công tác thông tin đối ngoại, nhất là bộ phận thường trực, nghiên cứu sắp xếp lại các cơ quan báo, đài, đặc biệt là đề xuất biện pháp chỉ đạo nội dung thông tin, cơ chế quản lý đối với hệ thống báo điện tử, các trang thông tin điện tử (Website, Weblog). Năm là, tăng cường lực lượng thông tin đối ngoại, kiện toàn các cơ quan chuyên trách về tuyên truyền đối ngoại của các bộ, ban ngành, địa phương và của các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài. Bố trí hợp lý đội ngũ phóng viên thường trú ở nước ngoài và tăng cường tùy viên văn hóa cho các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài. Sáu là, chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác thông tin đối ngoại; tăng cường cơ sở vật chất, đảm bảo trang thiết bị cần thiết cho các hoạt động thông tin đối ngoại. . Các giải pháp chủ yếu: Từ những thành công, hạn chế của công tác thông tin đối ngoại trong 15 năm qua và yêu cầu đặt ra cho sự phát triển đất nước trong giai đoạn mới, công tác thông tin đối ngoại cần tập trung sớm một số giải pháp đột phá là: đây mạnh công tác ngoại giao phục vụ kinh tế, tăng cường vận động xúc tiến đầu tư nước ngoài, tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; xây dựng tổ chức bộ máy phục vụ công tác đối ngoại theo hướng chính quy, chuyên nghiệp, nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về công tác đối ngoại: Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng đối với công tác đối ngoại, nâng cao nhận thức về công tác đối ngoại trong thời kỳ mới nhằm đảm bảo việc thực hiện tốt đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, tư duy đối ngoại của các cấp, các ngành, đoàn thể, các cơ quan, đơn vị và nhân dân về vai trò, vị trí và tầm quan trọng của công tác đối ngoại trong bối cảnh hội nhập quốc tế đang ngày càng phát triển rộng khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới. Nhất là, sớm ban hành chỉ thị mới và xây dựng chiến lược về công tác thông tin đối ngoại: Chỉ thị mới về công tác thông tin đối ngoại trực tiếp chỉ đạo hoạt động của lĩnh vực này sau 15 năm thực hiện Chỉ thị 11, đưa ra những định hướng phù hợp hơn về đối tượng, nội dung, địa bàn. Cần sớm có kế hoạch xây dựng Chiến lược thông tin đối ngoại trong tình hình mới, đó là chiến lược tổng thể và chiến lược cho từng đối tượng theo các kế hoạch từ ngắn hạn, trung hạn đến dài hạn; quy định cụ thể để tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng, nhất là của cấp ủy đảng các cấp; sự quản lý của Nhà nước đối với công tác thông tin đối ngoại. Thứ hai, đẩy mạnh công tác thông tin đối ngoại phục vụ kinh tế, tích cực và chủ động hội nhập quốc tế, đẩy mạnh tuyên truyền về chương trình hội nhập kinh tế quốc tế, chuẩn bị tốt lộ trình thực hiện các cam kết AFTA, WTO và các thỏa thuận song phương của Việt Nam với các nước. Làm tốt công tác vận động xúc tiền đầu tư, mở rộng và tìm kiếm thị trường, thu hút nguồn lực về vốn, công nghệ và trình độ quản lý tiên tiến, hiện đại. Nhạy bén nắm bắt, tranh thủ tận dụng những làn song đầy tư mới và những cơ hội mới để tích cực tuyên truyền, quảng bá, thu hút đầu tư trực tiếp từ nước ngoài, từ các tập đoàn đa quốc gia vào xây dựng hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng kinh tế, xây dựng các khu công nghiệp, khu kinh tế, khu du lịch, dịch vụ; đồng thời chú trọng thu hút viện trợ phi chính phủ nước ngoài và nguồn lực từ người Việt Nam ở nước ngoài; chương trình hợp tác “hai hành lang một vành đai kinh tế” nhằm cụ thể hóa và thực hiện hiệu quả các nội dung đã được ký kết giữa Chính phủ hai nước Việt Nam và Trung Quốc; vận động thu hút nguồn vốn dầu tư từ dầu mỏ từ Trung Đông đối với một số lĩnh vực cơ sở hạ tầng quan trọng và phát triển quan hệ thương mại với các nước trong khu vực này… Thứ ba, hoàn thiện cơ chế phối hợp để phát huy có hiệu quả hoạt động của các lực lượng, các loại hình tham gia, từng bước nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động của thông tin đối ngoại. - Ban chỉ đạo công tác thông tin đối ngoại cần chú trọng xây dựng cơ chế phối hợp khoa học, hiệu quả, chặt chẽ, thường xuyên giữa các cơ quan thông tin đối ngoại nhằm sử dụng tốt nhất sức mạnh của từng cơ quan, nhất là cơ quan báo chí, phát huy mạnh mẽ vai trò của bộ phận thường trực, nhóm giúp việc, đảm bảo cơ chế cung cấp thông tin để kịp thời xử lý các vấn đề nảy sinh một cách kịp thời, nhất là các vấn đề nhạy cảm, phức tạp. Tăng cường và phát huy có hiệu quả sự phối hợp các hoạt động đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân. - Từng bước nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động thông tin đối ngoại, đảm bảo cơ chế, chính sách và sự phối hợp có hiệu quả của các ngành, các bộ có liên quan như ngoại giao, kinh tế, tài chính, thương mại, văn hóa, du lịch, thể thao…Bố trí cán bộ hoạt động chuyên trách trong lĩnh vực thông tin đối ngoại để tập trung tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan, xây dựng chương trình hành động thống nhất, đồng bộ và chủ động về thông tin đối ngoại. Thứ tư, củng cố và mở rộng quan hệ hợp tác hữu nghị với các tổ chức quốc tế trên thế giới, thông qua đó là những giải pháp nhằm giới thiệu, nâng cao vai trò và vị thế của đất nước trên trường quốc tế. Đó là, việc tăng cường và mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực về y tế, giáo dục, khoa học công nghệ, văn hóa, thể thao du lịch, quy hoạch và phát triển đô thị, nông nghiệp, đào tạo nghề, bảo vệ môi trường,.. Đẩy mạnh công tác xúc tiến, mở rộng thị trường xuất khẩu lao động; rà soát và xây dựng các thỏa thuận hợp tác song phương với các nước đã ký các thỏa thuận hợp tác hữu nghị nhằm củng cố, duy trì và phát triển quan hệ hợp tác trên các lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu tư, du lịch, y tế, văn hóa. Quan tâm giúp đỡ đối với các nước có quan hệ kết nghĩa, truyền thống cà còn gặp khó khăn như Lào, Campuchia. Mở rộng và phát triển quan hệ với các nước: Canada, Đức, Mỹ, Nhật Bản. Thứ năm, đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác thông tin tuyên truyền đối ngoại và văn hóa đối ngoại, nhằm quảng bá, xây dựng và giới thiệu hình ảnh của Việt Nam, nâng cao vị thế, tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Xây dựng chương trình tổng thể về thông tin tuyên truyền đối ngoại. Mời tư vấn nước ngoài để giúp tư vấn để công tác tuyên truyền quảng bá đạt hiệu quả cao nhu kinh nghiệm một số nước đã làm. Trong công tac thông tin tuyên truyền, cần tổ chức biên soạn, dịch, in ấn và phát hành các tài liệu, phim ảnh, tờ rơi, đĩa DVD về Việt Nam bằng tiếng Anh, Nhật Bản, Hàn, Trung Quốc, Pháp, Đức nhằm giới thiệu về mọi lĩnh vực của Việt Nam, như là một đất nước cởi mở, năng động, địa điểm đầu tư lý tưởng, các điều kiện, cơ hội thuận lợi cho các nhà đầu tư cũng như các tiềm năng, lợi thế của đất nước. Mạnh dạn đăng cai tổ chức những sự kiện, hội nghị quốc tế để tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền, quảng bá, học tập kinh nghiệm phát triển Việt Nam vững chắc. Chú trọng giao lưu văn hóa, nghệ thuật, thể thao với các nước; tham gia các sự kiện quốc tế (Lễ hội biển Brest tại Pháp năm 2008, các hoạt động kết nghĩa, hợp tác hữu nghị…). Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và có chế tài xử lý sự xâm nhập của các sản phẩm và dịch vụ văn hóa không lành mạnh. Bảo đảm thực thi pháp luật sở hữu trí tuệ, tọa môi trường thuận lợi cho sáng tạo các sản phẩm văn hóa, tinh thần. Phối hợp với các Bộ, ngành Trung ương liên quan để kịp thời nắm bắt tình hình diễn biến chính trị, kinh tế - văn hóa – xã hội của các nước, nhằm được cung cấp thông tin, và định hướng nội dung thông tin, quảng bá tốt cho đất nước, các tổ chức đoàn kết, hòa bình và hữu nghị, kinh tế đối ngoại… Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan thông tin đại chúng (đài phát thanh, đài truyền hình, báo chí…) để kịp thời thông tin, tuyên truyền về công tác thông tin đối ngoại, quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam, tiềm năng, lợi thế,… để thu hút đầu tư, sự giúp đỡ, hợp tác hữu nghị với các nước. Thứ sáu, sử dụng hiệu quả các thành tựu khoa học công nghệ, đặc biệt là INTERNET. Ứng dụng công nghệ hiện đại trong thông tin: xây dựng website, weblog và các forum trên INTERNET làm nơi cung cấp thông tin, trao đổi thông tin và diễn đàn trên mạng với các cấp ủy ngoài nước (với những quy định và phương thức bảo mật phù hợp). Lập đường dây nóng thong qua hệ thống ADSL với các cấp ủy ngoài nước, trước mắt là với các địa bàn có cán bộ chuyên trách. Để khai thác một cách hữu hiệu mạng thông tin toàn cầu Internet vào mục đích phục vụ thông tin đối ngoại, cần có cơ chế hỗ trợ để đưa càng nhiều ấn phẩm thông tin đối ngoại lên mạng Internet. Đây cũng là biện pháp kinh tế nhất để đưa được nhiều thông tin về Việt Nam ra nước ngoài thay vì gửi các ấn phẩm thông tin đối ngoại ra nước ngoài qua đường bưu điện rất tốn kém. Thứ bảy, đẩy mạnh việc đổi mới, đa dạng hóa nội dung, các loại hình tham gia công tác thông tin đối ngoại phù hợp với địa bàn và yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chính trị trong từng thời kỳ. - Tiếp tục đa dạng hóa nội dung thông tin đối ngoại trong điều kiện mới, đặc biệt tận dụng vai trò, vị thế của đất nước ngày càng nâng cao trên trường quốc tế để giới thiệu và quảng bá hình ảnh Việt Nam. Khuyến khích các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế, loại hình văn hóa xây dựng hình ảnh, thương hiệu, từ đó tiến tới xây dựng thương hiệu quốc gia. - Mở rộng và tăng cường các loại hình thông tin đối ngoại cả trong và ngoài nước, đặc biệt là hệ thống các phương tiện thông tin đại chúng, báo chí trong và ngoài nước. Tiếp tục tổ chức các đoàn khảo sát thông tin đối ngoại tới các địa bàn có đồng bào kiều ta sinh sống, những nước có quan hệ đối tác chiến lược về ngoại giao, kinh tế Việt Nam một cách kịp thời và hiệu quả. Mở rộng thành phần, địa bàn khảo sát trong nước với sự tham gia của các địa phương kết hợp trao đổi kinh nghiệm về công tác thông tin đối ngoại. Thứ tám, chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, từng bước xây dựng cơ chế, chính sách đối với cán bộ làm công tác thông tin đối ngoại. - Tăng cường chi phí đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực phục vụ công tác thông tin đối ngoại, thạo về nghiệp vụ, giởi về ngoại ngữ, đặc biệt chú trọng bồi dưỡng về chính trị, về công nghệ thông tin, nghiệp vụ báo chí đối ngoại cho đội ngũ phóng viên, biên tập viên đối ngoại. Có chính sách khuyến khích đội ngũ cộng tác viên. - Nghiên cứu xây dựng cơ chế chính sách đặc thù, góp phần khuyến khích, thu hút cán bộ, chuyên gia giỏi tham gia hoạt động thông tin đối ngoại. Thứ chín, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất. Quan điểm đầu tư thích đáng về tài chính, cơ sở vật chất- kỹ thuật cho các cơ quan làm công tác thông tin đối ngoại, trong đó tập trung đầu tư từng bước các phương tiện thông tin hiện đại cho các đơn vị, lực lượng chủ lực. Đầu tư và sắp xếp hợp lý các cơ quan thường trú, các Trung tâm văn hóa Việt Nam ở nước ngoài. Cuối cùng, mở rộng và nâng cao vai trò, hiệu quả của công tác ngoại giao nhân dân, công tác về người Việt Nam ở nước ngoài đối với các hoạt động của Liên hiệp các tổ chức hữu nghị và Hội Liên lạc Việt kiều, thông qua việc đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền về đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước; chủ trương tăng cường mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực…, nhằm tăng cường vận động thu hút viện trợ phi chính phủ nước ngoài, và đóng góp của bà con Việt kiều trong việc đầu tư xây dựng, phát triển đất nước. KẾT LUẬN Hiện nay và trong những năm tiếp theo, Việt nam có nhiều cơ hội nhưng cũng có những thách thức mới trong việc thực hiện mục tiêu trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Thành tựu của 20 năm đổi mới làm cho thế và lực của nước ta lớn mạnh hơn nhiều so với trước đây, tạo tiền đề cần thiết đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Chúng ta đã mở rộng được các quan hệ hợp tác quốc tế; giữ vững môi trường hòa bình, tạo thêm nhiều thuận lợi cho công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế với nhịp độ nhanh hơn. Tuy nhiên, nước ta đang đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen nhau, diễn biến phức tạp: Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới vẫn tồn tại; sự tác động của suy thoái kinh tế thế giới, những khó khăn trong điều tiết nền kinh tế vĩ mô, thiếu kinh nghiệm trong tham gia hội nhập kinh tế quốc tế và tham gia giải quyết những vấn đề quan trọng về hòa bình, an ninh của khu vực và thế giới. Trong khi đó, các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình” bạo loạn lật đổ, tìm cách lũng đoạn về kinh tế, gây mất ổn định về chính trị, hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta. Trong bối cảnh như vậy, để đưa đất nước ta phát triên nhanh, ổn định, bền vững phải biết tranh thủ và tận dụng thời cơ; coi trọng hơn nữa việc giới thiệu quảng bá hình ảnh đất nước, con người, văn hóa Việt Nam. Tranh thủ sự ủng hộ rộng rãi, sự hợp tác, giúp đỡ của các nước trên thế giới, đòi hỏi tăng cường và đẩy mạnh hơn nữa công tác thông tin đối ngoại nói chung, công tác thông tin đối ngoại phục vụ kinh tế nói riêng, xây dưng chiến lược thực hiện phù hợp với tình hình trong thời kỳ mới. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng Việt Ban chỉ đạo công tác thông tin đối ngoại (2004), Kỷ yếu Hội nghị công tác thông tin đối ngoại toàn quốc tháng 3/2004, Hà Nội. Ban chỉ đạo công tác thông tin đối ngoại, Tạp chí Thông tin đối ngoại, các số từ tháng 1/2006 đến nay. Ban Tuyên giáo Trung ương (2006), Báo cáo Tổng quan kết quả nghiên cứu đề án “Đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thông tin đối ngoại trong tình hình mới”. Ban Tuyên giáo Trung ương (2007), Báo cáo Tổng kết công tác tuyên truyền đối ngoại của báo chí nước ta trong thời gian qua, số 6-BC/BTGTW, 5/6/2007. Ban Tuyên giáo Trung ương (2007), Báo cáo về chuyến khảo sát công tác thông tin đối ngoại tại thành phố Hà Nội. Ban Tuyên giáo Trung ương (2007), Báo cáo về chuyến khảo sát công tác thông tin đối ngoại tại thành phố Hồ Chí Minh. Ban Tuyên giáo Trung ương (2007), Báo cáo về chuyến khảo sát công tác thông tin đối ngoại tại thành phố Đà Nẵng. Ban Tuyên giáo Trung ương (2007), Báo cáo về chuyến khảo sát công tác thông tin đối ngoại tại tỉnh Tây Ninh. Ban Tuyên giáo Trung ương (2007), Báo cáo về chuyến khảo sát công tác thông tin đối ngoại tại hai địa phương Hải Phòng và Lạng Sơn. Ban Tuyên giáo Trung ương (z2008), Báo cáo Tổng kết 15 năm thực hiện Chỉ thị 11 – CT/TW của Ban Bí thư khóa VII về đổi mới và tăng cường công tác tuyên truyền đối ngoại, số 97-BC/BTGTW, 8/5/2008. Ban Tuyên giáo Trung ương (2008), Chiến lược phát triển thông tin đối ngoại trong thời kỳ mới, 21/8/2008. Bộ Ngoại giao Việt Nam (2000), Báo cáo về công tác TTĐN (từ sau thông báo số 188/TB-TW ngày 29/12/1998 của thường vụ Bộ Chính trị), 28/6/2000. Bộ Ngoại giao Việt Nam (2007), Đề án “Nâng cao hiệu quả công tác thông tin đối ngoại giai đoạn 2007-2010 và định hướng đến 2020”, 11/9/2007. Đảng Cộng sản Việt Nam (1992), Chỉ thị về đổi mới và tăng cường công tác thông tin đối ngoại, số 11 - CT/TW ngày 13/6/1992. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Thông báo ý kiến của Thường vụ Bộ Chính trị về công tác thông tin đối ngoại trong tình hình mới, số 188 – TB/TW ngày 29/12/1998. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Quyết định của Ban Bí thư về việc thành lập Ban chỉ đạo công tác thông tin đối ngoại, Quy chế phối hợp chỉ đạo hoạt động thông tin đối ngoại ban hành cùng Quyết định 16 của Ban Bí thư, số 16 ngày 26/12/2001 Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Nghị quyết của Bộ Chính trị về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài, số 36 – NG/TW ngày 26/3/2004. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Lê Thanh Bình (2005), Báo chí truyền thông và kinh tế, văn hóa – xã hội, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội. 22. Nguyễn Phú Bình (2000), “Thông tin đối ngoại cần chú ý đến cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài”, Thông tấn – Nội san nghiệp vụ TTXVN (8), Hà Nội. Trần Quang Nhiếp (2002), Định hướng hoạt động và quản lý báo chí trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Tạ Ngọc Tấn (2004), Truyền thông đại chúng, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Thủ tướng Chính phủ (2000), Chỉ thị của Thủ tướng chính phủ về tăng cường quản lý và đẩy mạnh công tác thông tin đối ngoại, số 10/2000/CT - TTg, ngày 24/6/2000. Tổng cục du lịch (2007), Báo cáo tình hình công tác thông tin đối ngoại thực hiện Chỉ thị 11 – CT/TW của Ban Bí thư khóa VII. Sở Ngoại vụ TP. Hồ Chí Minh (2008), Báo cáo Thông tin đối ngoại phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Ủy ban Quốc gia (2007), Báo cáo công tác thông tin đối ngoại về Hợp tác kinh tế quốc tế. Các trang thông tin điện tử Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam www.dangcongsan.org.vn Báo điện tử Vietnamnet www.vietnamnet.vn Báo Thế giới và Việt Nam www.tgvn.com.vn Bộ Ngoại giao Việt Nam www.mofa.gov.vn Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Việt Nam www.cinet.gov.vn Bộ Thông tin và Truyền thông www.mic.gov.vn Đài Tiếng nói Việt Nam www.vov.vn Đài Truyền hình Việt Nam www.vtv.vn Tạp chí Cộng sản www.tapchicongsan.org.vn Tạp chí Quê hương www.quehuong.org.vn MỤC LỤC ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVKT080.doc
Tài liệu liên quan