Một số vấn đề về thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam

Lời nói đầu Việt Nam đang đi trên con đường đổi mới và hội nhập với nền kinh tế thế giới. Những qui luật kinh tế khách quan và tất yếu đang từng giờ, từng phút điều chỉnh nền kinh tế toàn cầu, nền kinh tế của từng khu vực, từng quốc gia và bản thân mỗi chúng ta. Chúng ta cần phải hiểu các qui luật đó và tự điều chỉnh bản thân cho phù hợp với diễn biến của qui luật. Quá trình mở cửa, hội nhập kinh tế trong khu vực tiến đến toàn cầu hóa nền kinh tế đang dần chứng tỏ là một qui luật của loài người

doc85 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1416 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số vấn đề về thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tiến bộ. Để bắt kịp với quá trình này thì mỗi quốc gia phải liên tục có những cải cách nhằm làm phù hợp và thích nghi với môi trường bên ngoài. Trong công cuộc cải cách đó, cải cách về thuế luôn được các quốc gia đặc biệt chú trọng bởi tầm quan trọng của nó đối với sự phát triển và ổn định lâu dài về mọi mặt của mỗi quốc gia. Khái niệm cạnh tranh về thuế giữa các quốc gia lớn trên thế giới đã xuất hiện trong một hai thập kỉ gần đây đã khiến cho các quốc gia còn lại cũng phải liên tục tiến hành cải cách thuế nhằm tăng cường sức cạnh tranh trên các lĩnh vực thương mại mậu dịch, lực lượng lao động... Đối với Việt Nam trong thời gian tới, khi Hiệp định về thuế quan AFTA, Hiệp định thương mại Việt-Mỹ và tiếp tục sau khi Việt Nam được gia nhập WTO phát huy hiệu lực thì những biến đổi về cơ cấu thuế và nguồn thu ngân sách sẽ là một điều không thể tránh khỏi. Nhận thức được điều đó, nước ta đã và đang tiến hành cuộc cải cách nhằm hoàn thiện hệ thống thuế còn nhiều thiếu sót để có thể theo kịp và bắt nhịp với tốc độ phát triển kinh tế của các nước trong khu vực và thế giới, đồng thời cũng có thể đạt được các mục tiêu về kinh tế-xã hội-chính trị mà Nhà nước đã đề ra. Trong mười năm gần đây, hệ thống thuế nước ta đã có rất nhiều thay đổi; nhiều sắc thuế mới đã ra đời, các sắc thuế có từ trước cũng được sửa đổi nhằm thích nghi với điều kiện mới. Pháp lệnh thuế thu nhập cá nhân ra đời năm 1991, cho đến nay qua năm lần sửa đổi, bổ sung và hiện nay Chính phủ đang nghiên cứu nhằm xây dựng thành Luật thuế thu nhập cá nhân là một trong những minh chứng cho công cuộc cải cách thuế của Việt Nam. Thuế thu nhập cá nhân là một sắc thuế trực thu có vai trò hết sức quan trọng. Nó đã ra đời tương đối sớm ở các nước phát triển và ngày nay thì phát triển rộng rãi ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Sự phát triển của nó đồng hành với sự phát triển của nền kinh tế. Điều đó đã được khẳng định khi nhìn vào lịch sử phát triển thuế thu nhập cá nhân ở các nước phát triển. Việt Nam đang trên con đường phát triển và thuế thu nhập cá nhân là một sắc thuế không thể thiếu được. Nó sẽ sớm khẳng định được vai trò và chức năng của mình là một nguồn thu quan trọng trong ngân sách nhà nước và là công cụ góp phần đảm bảo công bằng xã hội một cách đắc lực. Chính vì vậy, việc nghiên cứu và hoàn chỉnh pháp lệnh thuế thu nhập cá nhân, đồng thời sớm xây dựng thành Luật thuế thu nhập cá nhân là một việc làm cần thiết từ bây giờ. Là một sinh viên chuyên ngành Tài chính công-Thuế, em rất mong muốn được tìm hiểu và nghiên cứu về thuế. Đề tài “ Một số vấn đề về thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam” mà em dự định nghiên cứu sẽ là một cơ hội tốt cho em để được nghiên cứu sâu hơn về thuế, trong đó đặc biệt là thuế thu nhập cá nhân. Em hi vọng sau khi viết đề tài này, với sự giúp đỡ của cô giáo hướng dẫn em là TS. Nguyễn Thị Bất và các cô chú trên Tổng cục thuế, nơi em thực tập, em sẽ bổ sung và hoàn chỉnh hơn nữa những kiến thức và hiểu biết của mình về thuế nói chung và thuế thu nhập cá nhân nói riêng. CHƯƠNG 1 Thuế thu nhập cá nhân và quản lý thuế thu nhập cá nhân Các vấn đề cơ bản của thuế thu nhập cá nhân 1.1.1 Khái niệm thuế thu nhập cá nhân Thuế thu nhập cá nhân là một loại thuế trực thu đánh trên thu nhập của các cá nhân trong từng thời kì. Thuế thu nhập cá nhân là một sắc thuế xuất hiện tương đối sớm. Lần đầu tiên nó xuất hiện ở nước Anh vào năm 1799. Đầu tiên nó đã bị phản đối rất nhiều, bản thân thủ tướng nước Anh William Pitt năm 1798 đã từng nói “ Thật là nhục nhã và xấu hổ đối với cơ quan thuế và hình ảnh của một quốc gia khi bắt một quí ông hay một quí cô phải nói với ai đó về thu nhập của họ”. Nhưng chỉ một năm sau thì chính ông đã phải thay đổi quan điểm, và thuế thu nhập cá nhân đã ra đời. Ở Mỹ, thuế thu nhập cá nhân đã xuất hiện trong thời kì chiến tranh 1812, và nó cũng dựa vào điều luật thuế của nước Anh năm 1798. Sau 1815, nó lại bị xoá bỏ ở Mỹ do Nhà nước không có nhu cầu tăng thu ngân sách. Nhưng cho đến năm 1862, thuế thu nhập cá nhân lại quay trở lại nước Mỹ sau khi Bộ luật thuế 1862 được tổng thống Licoln phê chuẩn, nó nhằm mục đích cung cấp nguồn tài chính cho cuộc nội chiến của nước Mỹ Nguồn: History of Taxation- www.tax.org . Ở một số nước khác thuế thu nhập cá nhân cũng xuất hiện từ khá sớm, nước Nhật năm 1887,Trung Quốc năm 1936 còn Hàn Quốc thì loại thuế này ra đời muộn hơn vào năm 1974 Nguồn: Giáo trình quản lý thuế-ĐHKTQD, trang 105 . Vậy thuế thu nhập cá nhân là gì, nó có những đặc điểm và vai trò gì mà khiến các quốc gia đặc biệt quan tâm và đưa nó thành một sắc thuế trong hệ thống thuế? 1.1.2 Các loại hệ thống thu thuế thu nhập cá nhân Hệ thống thuế thu nhập cá nhân thường được tổ chức theo hai mô hình: hệ thống tổng thể ( global system ) và hệ thống riêng biệt ( schedular system ). Hệ thống tổng thể: sử dụng một thuế suất để tính nghĩa vụ thuế cho thu nhập từ các nguồn khác nhau. Tạo điều kiện cho công bằng dọc. Hệ thống riêng biệt: sử dụng các thuế suất khác nhau cho thu nhập từ các nguồn khác nhau Hầu hết các quốc gia đều chọn hệ thống tổng thể. Tuy nhiên trong một số trường hợp hệ thống riêng biệt cũng có thể được vận dụng kết hợp, nhằm đảm bảo tính linh hoạt cao hơn và có ảnh hưởng đến những động cơ khuyến khích thúc đẩy tăng trưởng kinh tế hay phù hợp với yêu cầu quản lí đặc thù riêng biệt của từng nguồn thu nhập. Về cơ sở của việc tính thuế: để hướng đến mục tiêu công bằng dọc, các nước thường qui định thu nhập bình quân làm căn cứ tính thuế theo 2 cơ sở: Thu nhập bình quân chịu thuế được xác định theo từng cá nhân. Mỗi cá nhân được chọn làm cơ sở tính thuế. Cách tính đơn giản, dễ áp dụng những mục tiêu công bằng đạt được chưa cao. Các nước áp dụng theo cách tính này, thường kèm theo các qui định khấu trừ hay chước giảm theo gia cảnh một số chi phí nhất định cho việc thực hiện nghĩa vụ đối với gia đình. Thu nhập bình quân chịu thuế xác định theo hộ gia đình. Thu nhập bình quân/người/hộ gia đình sẽ là thu nhập tính thuế. Số thuế thu sẽ sát với khả năng nộp thuế của các cá nhân và qua đó mục tiêu công bằng có khả năng đạt được nhiều hơn. Tuy nhiên, cách thu này hoàn toàn không đơn giản và đòi hỏi nhiều điều kiện mới có thể tổ chức quản lí thu tốt. 1.1.3 Đặc điểm của thuế thu nhập cá nhân Thu nhập chịu điều tiết của thuế sẽ căn cứ vào cụ thể nguồn gốc phát sinh của các khoản thu nhập và căn cứ vào đặc điểm cư trú hay một số đặc điểm khác tuỳ theo luật của từng nước. Thông thường các nước vẫn sử dụng nguyên tắc cư trú để đánh thuế thu nhập cá nhân. Quan niệm về nơi cư trú giữa các quốc gia gần như là tương đồng. Nó có những nội dung cơ bản sau: (i) có nơi ở chính tại quốc gia đó hoặc có thời gian sống ở đó từ 183 ngày trở lên hoặc lâu hơn những nơi khác. Thời gian này có thể thay đổi theo qui định của từng quốc gia (ii) Hành nghề chính tại quốc gia đó, tức là phần lớn thu nhập của đối tượng được tạo ra từ những hoạt động này (iii) Có trung tâm lợi ích kinh tế tại quốc gia đó, tức là có phần vốn đầu tư chủ yếu hoặc có trụ sở hoạt động ở quốc gia đó. Thu nhập chịu thuế bao gồm tất cả các khoản thu nhập theo qui định của Nhà nước sau đó được khấu trừ đi các khoản chi phí khác được phép khấu trừ theo qui định của Nhà nước. Nhà nước sẽ có một danh mục các khoản thu nhập mà phải tính vào thu nhập chịu thuế, đồng thời sẽ có một danh mục khác liệt kê các chi phí được phép khấu trừ khỏi thu nhập chịu thuế trước khi tính thuế. Ví dụ ở Pháp thì người ta chia ra làm tám loại thu nhập. Ta có thể kể tóm tắt ở đây: thu nhập từ cho thuê bất động sản; thu nhập từ tiền lương...; thu nhập từ hoạt động sản xuất công nghiệp và thương mại; thu nhập từ hoạt động sản xuất nông nghiệp; thu nhập của một số lãnh đạo doanh nghiệp; thu nhập từ hoạt động phi thương mại; thu nhập từ bán tài sản; thu nhập từ đầu tư động sản. Còn ở Việt Nam, người ta chia thu nhập chịu thuế ra làm hai loại là thu nhập thường xuyên và thu nhập không thường xuyên; trong đó thu nhập thường xuyên có năm loại thu nhập chịu thuế và thu nhập không thưòng xuyên có sáu loại thu nhập chịu thuế. Ta sẽ trình bày chi tiết hơn về nội dung thuế của Việt Nam ở chương sau. Ngoài ra, có những trường hợp các cá nhân có thu nhập phát sinh ở nước ngoài mà đã nộp thuế một phần ở nước ngoài, thì khi đó việc khấu trừ thuế nộp ở trong nước sẽ phụ thuộc vào hiệp định kí kết giữa quốc gia đó và bên nước ngoài về việc tránh đánh thuế trùng. Các đối tượng không cư trú tại quốc gia đó thì sẽ chỉ có nghĩa vụ nộp thuế TNCN đối với phần thu nhập phát sinh tại quốc gia đó. Do đối tượng nộp thuế đồng thời cũng chính là đối tượng chịu thuế nên thuế thu nhập cá nhân được xếp vào loại thuế trực thu. Phạm vi điều chỉnh của luật thuế thu nhập cá nhân là rất rộng lớn và do đặc điểm đối tượng chịu thuế trực tiếp phải nộp thuế nên sức ảnh hưởng của nó đối với nền kinh tế và thái độ của dân cư là hết sức to lớn. Không giống như các loại thuế gián thu, ví dụ thuế tiêu dùng, khoản thuế được tính sẵn trong giá thanh toán nên nó không ảnh hưởng nhiều đến tâm lí của người mua về khoản thuế mình phải nộp, thuế trực thu có thể hiểu bóng bẩy là Nhà nước trực tiếp thò tay vào túi chúng ta và lấy tiền của ta ra, điều đó chắc chắn sẽ có ảnh hưởng mạnh về tâm lí của người nộp thuế. Chính vì vậy, mỗi khi chính phủ có những thay đổi trong chính sách thuế TNCN như việc điều chỉnh thuế suất và thay đổi phạm vi các đối tượng được miễn giảm thuế thì đều gây ra những phản ứng mạnh mẽ trong dân cư. Ví dụ ở Mỹ vừa qua, khi tổng thống George Bush quyết định giảm mức lãi suất thuế TNCN từ nay cho đến năm 2006 và giảm dần các đối tượng được miễn giảm thuế, nó lập tức đã gây ra những phản ứng rất gay gắt. Bởi vì họ cho rằng sự giảm thuế suất thì chỉ nhằm vào các bậc thuế ở mức thu nhập cao, tức là nó đem lại lợi ích cho tầng lớp giàu có và vó thu nhập cao trong xã hội, còn đối với tầng lớp dân cư có mức thu nhập trung bình và thấp thì chính sách thuế của Tổng thống dường như không đem lại cho họ điều gì. Mà nó cũng đồng nghĩa với việc nguồn thu ngân sách chính phủ có thể giảm đi, các hoạt động mang tính phúc lợi xã hội mà chủ yếu nhằm hỗ trợ người nghèo do đó cũng sẽ giảm đi. Hoặc ngay như tại Việt Nam, khi Pháp lệnh thuế TNCN lần đầu tiên đi vào thực hiện 1-4-1991, các cá nhân người nước ngoài làm việc và có thu nhập phát sinh tại Việt Nam phản ứng cũng khá quyết liệt khi thấy rằng thuế suất thuế TNCN đối với họ là quá cao, do lúc đó thu nhập trung bình của nước ta vẫn còn thấp còn trong khi đó lương trả cho các chuyên gia nước ngoài thì cao hơn nhiều so với trong nước. Sau này,chúng ta đã phải liên tục sửa đổi bổ sung nội dung pháp lệnh nhằm đảm bảo phù hợp hơn. Tuy nhiên cho đến nay, sau năm lần sửa đổi bổ sung nội dung pháp lệnh thì chúng ta vẫn còn nhiều điều phải bàn. Ở đây, ta muốn khẳng định lần nữa là thuế TNCN mang đặc điểm là loại thuế trực thu và phạm vi điều tiết rất rộng nên nó có ảnh hưởng rất mạnh đến tâm lí của dân cư. Thuế thu nhập cá nhân thông thường là loại thuế lũy tiến. Các nước thường xây dựng một biểu thuế luỹ tiến, các bậc ứng với mức thu nhập càng cao thì có mức thuế suất biên càng cao. Do đó những người có thu nhập càng cao thì phải chịu mức thuế đóng góp cao hơn so với những người có mức thu nhập thấp hơn. Nó góp phần đảm bảo tính chất công bằng trong phân phối xã hội, công bằng ở đây là công bằng theo chiều dọc. Biểu thuế luỹ tiến được xây dựng căn cứ vào nguyên tắc đánh thuế dựa vào khả năng nộp thuế của các cá nhân khác nhau. Những người có thu nhập cao thì có nhiều khả năng nộp thuế cao hơn những người có thu nhập thấp và ngược lại. Tư tưởng đánh thuế dựa vào khả năng nộp thuế của Nhà vua Writ Nguồn: www.taxworld.org: History of taxation - vị vua nước Anh vào thế kỉ thứ 17- đã là cơ sở cho sự phát triển rất sớm của các biểu thuế luỹ tiến. Khoảng cách tương đối giữa các bậc thuế suất sẽ quyết định tính chất luỹ tiến mạnh hay yếu của biểu thuế. Khoảng cách này mà càng lớn thì mức độ lũy tiến của biểu thuế càng cao và ngược lại. Thuế thu nhập cá nhân là một loại thuế phức tạp và mang tính trung lập đối với cơ cấu kinh tế. Do đặc điểm là điều tiết lên thu nhập của dân cư, phạm vi điều tiết rất rộng nên việc quản lý đối với loại thuế này là hết sức khó khăn. Nó dễ gây phản ứng của người nộp thuế. Đồng thời do tính chất phân tán và động của đối tượng chịu thuế và nguồn thuế nên công tác quản lí thu rất khó khăn. Chính vì đặc điểm này mà chi phí hành thu của thuế thu nhập cá nhân rất cao.Ngoài ra, nó điều tiết lên thu nhập chứ không phải là lên tiêu dùng nên nó không có tác động trực tiếp đối với một ngành kinh tế cụ thể nào cả. Tuy nhiên, nếu xem xét một cách sâu sắc thì thuế thu nhập cá nhân vẫn có những tác động nhất định đối với cơ cấu nền kinh tế. Thuế thu nhập cá nhân được sử dụng như là một công cụ thuế đắc lực trong chính sách tài khóa quốc gia, nó ảnh hưởng đến tổng cầu nền kinh tế, do đó nó cũng có những ảnh hưởng nhất định đối với cơ cấu kinh tế. 1.1.4 Vai trò của thuế thu nhập cá nhân Nền kinh tế ngày càng phát triển, mức sống người dân càng cao thì thuế thu nhập cá nhân ngày càng góp phần quan trọng trong nguồn thu ngân sách Nhà nước. Chúng ta biết rằng thuế thu nhập cá nhân thu được dựa vào mức thu nhập của dân cư. Thu nhập của dân cư càng cao thì nó cũng đồng nghĩa với mức thu từ thuế TNCN sẽ tăng. Điều đó chỉ có thể có được khi nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, GDP lớn. Thông thường, ở những nước càng phát triển thì tỉ trọng đóng góp của thuế trực thu càng lớn, trong đó thuế TNCN chiếm tỉ trọng khá cao. Ta có thể thấy được điều đó qua số liệu một số nước phát triển trong khối OECD “năm 1980 tỉ lệ thuế thu nhập cá nhân của các nước trong khối OECD là 10,9% GDP, trong khi đó tỉ lệ này vào năm 1995 là 10,4%” Nguồn: Tài chính tháng 5/2001 . Ta cũng có thể xem cấu trúc thuế trong khối OECD từ năm 1980-1995 để từ đó thấy được vai trò của thuế thu nhập cá nhân trong nguồn thu ngân sách chính phủ hàng năm ở những nước phát triển. Bảng 1- Thay đổi cấu trúc thuế trong khối OECD từ 1980-1995 Đơn vị tính:% Sắc thuế 1980 1985 1990 1995 Thuế thu nhập cá nhân 32 30 30 27 Thuế thu nhập công ti 7 8 8 8 Bảo hiểm xã hội 25 25 25 25 Thuế tài sản 5 5 5 5 Thuế tiêu dùng chung 14 16 17 18 Thuế hàng hóa và DV khác 17 16 15 15 (Nguồn OECD Revenue Statistic) Còn ở những nước đang phát triển, đời sống người dân chưa cao, thu nhập trung bình mới chỉ đủ cho các hoạt động sinh hoạt cần thiết của người dân và tiết kiệm ra một phần nhỏ. Số lượng những người có thu nhập cao, giàu có trong xã hội thì chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong xã hội, đại bộ phận dân cư là có thu nhập và mức sống còn thấp so với dân cư các nước phát triển. Chính vì vậy, khả năng đóng góp thuế TNCN cho Nhà nước ở các nước đang phát triển vẫn còn rất thấp. Ví dụ ở Trung Quốc là một nước đang phát triển nhưng có mức độ phát triển cao thì thuế TNCN chỉ chiếm 13,4% năm 1994 và 16,3% năm 1996 tổng số thu; trong khi đó nguồn thuế TNCN ở Mỹ đạt xấp xỉ 48% năm 1994 trên tổng số thu các loại thuế và phí; còn ở nước ta thì con số này là 0,87% năm 1994 Nguồn: Nghiên cứu Tài chính kế toán số 52 . Nhìn vào số liệu, ta có thể thấy rằng thuế TNCN thu được tỉ lệ thuận với mức độ phát triển của nền kinh tế, với thu nhập trung bình của dân cư. Thuế TNCN do đó tất yếu sẽ dần trở thành một nguồn thu quan trọng hàng đầu trong nguồn thu ngân sách nhà nước. Thuế thu nhập cá nhân góp phần tăng tỉ lệ tiết kiệm quốc gia, tạo điều kiện tăng đầu tư và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Ta biết rằng mỗi một đơn vị thu nhập bao gồm hai phần: đơn vị tiêu dùng và phần còn lại là đơn vị tiết kiệm. Khi bạn có thu nhập là một triệu đồng, bạn phải nộp thuế giả sử là 100.000, bạn còn lại 900.000 trong đó bạn tiêu dùng hết 800.000 còn 100.000 bạn dành tiết kiệm. Nếu như không có thuế thu nhập cá nhân, bạn có quyền tiêu dùng 850.000 và tiết kiệm 150.000; Nếu như khoản thuế nộp không sử dụng trong chi tiêu chính phủ thì có nghĩa là tiết kiệm quốc gia trong trường hợp trước là 200.000 (100.000+100.000); còn ở trường hợp sau thì tiết kiệm quốc gia chỉ là 150.000 bằng chính với tiết kiệm khu vực tư nhân. Khi tiết kiệm tăng thì sẽ có nhiều nguồn vốn hơn dành cho đầu tư vào trang thiết bị máy móc. Theo phân tích mô hình của nhà kinh tế học Solow thì tỉ lệ tiết kiệm quốc gia có ảnh hưởng vô cùng quan trọng trong tăng trưởng và ổn định kinh tế lâu dài. Nó cung cấp nguồn vốn để đầu tư vào máy móc, thiết bị, nhà xưởng, hay nghiên cứu khoa học để có thể tăng sản lượng trong tương lai. Nhật Bản là minh chứng rõ nét nhất cho thấy ảnh hưởng của tiết kiệm đối với sự phát triển kinh tế. Việc sử dụng thuế TNCN là một công cụ điều tiết giữa tiêu dùng và tiết kiệm, tránh những tiêu dùng xa hoa mà thay vào đó là đầu tư vào tư bản và con người, sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế lâu dài. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là càng tăng thuế TNCN thì sẽ càng tăng tỉ lệ tiết kiệm quốc gia. Chúng ta cũng đã đề cập ở trên là thuế thu nhập cá nhân có ảnh hưởng mạnh đến tâm lí và phản ứng của dân cư. Nếu chúng ta cố gắng duy trì mức thuế suất thuế TNCN cao thì sẽ không khuyến khích người lao động tham gia sản xuất kinh doanh. Sở dĩ như vậy là vì người lao động cảm thấy khi họ lao động vất vả để kiếm tiền thì ngay sau khi nhận tiền họ đã phải trả một phần lớn thu nhập đó cho Nhà nước. Do đó họ sẽ không còn động lực cao trong lao động và kiếm tiền. Đây cũng là một nguyên nhân để giải thích tại sao một số nước Bắc Âu như Thụy Điển, nơi mà có mức điều tiết thu nhập giữa người giàu và người nghèo cao, trong xã hội có mức phúc lợi cao trên thế giới thì hiện nay lại tụt hậu về kinh tế hơn so với một số nước Tây Âu, nơi mà sự điều tiết về thu nhập không mạnh mẽ bằng; điều tương tự cũng xảy ra giữa Mỹ và Canada. Theo các nhà kinh tế giải thích thì một phần nguyên nhân là do việc điều tiết thu nhập của người có thu nhập cao quá lớn đã dẫn đến mất động lực của người lao động hoặc người lao động sẽ chuyển sang làm việc ở những nước khác có mức thuế TNCN thấp hơn. Do đó, năng suất lao động đã không tăng mạnh như đáng lẽ nó có thể. Chúng ta cần có một mức thuế suất vừa phải và hợp lí để đảm bảo việc tăng tỉ lệ tiết kiệm quốc gia nhưng đồng thời vẫn duy trì được nỗ lực và động cơ làm việc của người lao động. Thuế thu nhập cá nhân góp phần đảm bảo tính công bằng và giảm bớt sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội. Một chức năng quan trọng của thuế là nhằm đảm bảo tính công bằng và giảm bớt sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội. Trong các loại thuế thì thuế TNCN thể hiện rõ nét nhất vai trò này. Do đặc điểm là thuế đánh trên thu nhập của các cá nhân cùng với tính chất luỹ tiến của thuế TNCN đã thu hẹp được khoảng cách về thu nhập giữa các cá nhân có mức thu nhập cao và các cá nhân có mức thu nhập thấp. Đây là quan điểm công bằng theo chiều dọc, những người có khả năng nộp thuế càng cao thì sẽ nộp nhiều thuế hơn và ngược lại. Nó khác so với quan điểm công bằng theo chiều ngang là tất cả mọi người sẽ nộp thuế cùng với một tỉ lệ như nhau. Các khoản thuế thu được sau đó có thể được chính phủ sử dụng để trợ giúp lại những người có mức thu nhập thấp. Trên lí thuyết đây là một loại thuế rất ưu việt trong việc điều hòa thu nhập giữa người giàu và người nghèo. Tuy nhiên trên thực tế nó vẫn còn gây rất nhiều tranh cãi giữa các nhà kinh tế. Khoảng cách giàu nghèo trong xã hội ngày càng mở rộng hơn. Người ta đặt ra câu hỏi là liệu chính sách thuế TNCN có thực sự đem lại sự phân phối công bằng hơn cho xã hội hay là nó không có tác dụng gì cả hay nếu có thì là không đáng kể. Và một vấn đề nữa cũng được đem ra tranh cãi giữa các nhà kinh tế về tính công bằng của chính sách thuế. Người ta đặt câu hỏi là liệu hiệu quả công bằng mà chính sách thuế đem lại có xung đột với hiệu quả kinh tế hay không. Chúng ta đã biết rằng bất cứ một hoạt động nào cũng chứa đựng trong nó hai tác dụng; tác dụng hiệu quả kinh tế và tác dụng về hiệu quả công bằng. Hiệu quả kinh tế là việc sử dụng tối ưu nhất các nguồn lực của xã hội mà từ đó có thể tạo ra tổng lợi ích cho xã hội là lớn nhất, còn hiệu quả công bằng quan tâm đến việc phân phối tổng lợi ích xã hội đã thu được cho các thành viên trong xã hội. Giữa hiệu quả kinh tế và hiệu quả công bằng thường xảy ra những mâu thuẫn đối nghịch, được cái này thì phải hi sinh cái còn lại. Chính vì vậy, đối với các nước đang phát triển, bài toán được đặt ra là nên đưa vấn đề nào lên ưu tiên, hiệu quả kinh tế hay công bằng. Các nước chấp nhận một cái bánh to và chia không đều hay một cái bánh nhỏ và chia đều? Để đánh giá hiệu quả kinh tế thì người ta có nhiều công cụ để tính toán, nhưng để đánh giá hiệu quả công bằng thì là một vấn đề hết sức khó khăn vì bản thân nó đã là một khái niệm trừu tượng. Thế nào là công bằng? Rất khó có thể đưa ra một định nghĩa hoàn chỉnh để tất cả mọi người thống nhất. Bạn trồng trong vườn của mình một vườn hoa rất đẹp và rất thơm, rất nhiều người trầm trồ khen ngợi vườn hoa của bạn và mỗi buổi chiều thường sang vườn hoa nhà bạn để thưởng thức. Nhưng có một người hàng xóm của bạn bị bệnh về đường hô hấp sang phàn nàn với bạn rằng hương hoa nhà bạn làm anh ta cảm thấy khó chịu và đòi bạn phá vườn hoa đó đi. Câu hỏi đặt ra là bạn nên để nguyên đó hay phá vườn hoa đi, có cách lựa chọn nào là công bằng không? Vấn đề công bằng càng trở nên phức tạp hơn khi phân tích về chính sách thuế TNCN. Người có thu nhập cao thắc mắc tại sao họ phải đóng thuế nhiều hơn những người có thu nhập thấp hơn họ. Họ nói rằng bởi vì tôi lao động nhiều hơn, hoặc trước đây tôi phải vất vả học hành, bỏ chi phí thời gian và tiền của để có thể làm được những công việc đòi hỏi trình độ hơn, do đó tôi có thu nhập cao hơn những người lười lao động hoặc không chịu khó vươn lên là điều tất nhiên. Do đó tiền thuế thu nhập mà mọi người phải đóng phải là như nhau. Cách giải thích này cũng hoàn toàn có cơ sở của nó. Nhưng ngược lại, người có thu nhập thấp lại lí luận rằng vì tôi không có cơ hội nhận được việc làm tốt, vì trước đây gia đình tôi khó khăn nên tôi không có điều kiện đi học đại học... những người có thu nhập cao hơn là do họ có những điều kiện thuận lợi và may mắn hơn tôi, do đó cần phải lấy một phần thu nhập của họ để hỗ trợ chúng tôi bù đắp vào sự không may mắn và không thuận lợi mà chúng tôi đã gặp phải. Lí luận của những người này cũng không sai. Nếu cho họ mọi điều kiện y hệt như người có thu nhập cao thì họ chắc sẽ cũng có một mức thu nhập tương tự. Vậy cách đánh thuế như thế nào là công bằng? Liệu chính sách thuế thu nhập theo biểu thuế lũy tiến đã là công bằng với những người có thu nhập cao hay chưa? Và biểu thuế lũy tiến với các bậc thuế như vậy đã là công bằng hay chưa? Các chính phủ đều chấp nhận và coi một biểu thuế lũy tiến là công bằng hơn cho tất cả, tất nhiên nó cũng phải hi sinh quyền lợi của một số ít để đảm bảo quyền lợi số đông. Việc điều chỉnh mức thuế suất thuế thu nhập sẽ là công cụ để chính phủ điều chỉnh mức công bằng lệch về phía nào, người có thu nhập cao hay người có thu nhập thấp. Chúng ta cần phải hiểu ở đây ý nghĩa công bằng chỉ là mang tính tương đối, nó công bằng cho một bộ phận dân cư nhưng nó cũng là không công bằng cho một bộ phận dân cư khác. Chính sách thuế TNCN được xây dựng nhằm mục đích là đem lại sự công bằng cao nhất cho xã hội trong điều kiện có thể, tất nhiên là nó cũng cần phải đảm bảo các mục tiêu khác của xã hội. Thuế thu nhập cá nhân là loại thuế được các Chính phủ ở các nước phát triển sử dụng rộng rãi trong việc điều hành chính sách tài khoá và các chính sách kinh tế khác. Do thuế TNCN chiếm một phần lớn nguồn thu ngân sách Nhà nước, đồng thời nó ảnh hưởng trực tiếp đến quyết định tiêu dùng và tiết kiệm của dân cư nên nó có vai trò hết sức quan trọng trong chính sách tài khóa của chính phủ các nước. Chính sách tài khóa của chính phủ là chính sách sử dụng chi tiêu chính phủ và thuế là hai công cụ cơ bản để điều chỉnh tổng cầu của nền kinh tế, khi nền kinh tế suy thoái thì chính phủ có thể tăng chi tiêu hoặc giảm thuế để từ đó kích cầu và đưa nền kinh tế tăng trưởng trở lại; còn khi nền kinh tế đang ở thời kì phát triển quá nóng so với mức bình thường thì chính phủ lại giảm chi tiêu của mình hoặc tăng thuế để làm giảm tổng cầu. Chính phủ có thể điều chỉnh các loại thuế khác nhau căn cứ theo diễn biến chu kì kinh doanh, nhưng loại thuế được điều chỉnh chủ yếu vẫn là thuế thu nhập, có thể là thuế thu nhập công ti hoặc thuế thu nhập cá nhân. Mức sản lượng của nền kinh tế tương ứng với tổng mức thu nhập của chính nó, do đó để điều chỉnh mức sản lượng người ta có thể điều chỉnh mức thu nhập của dân cư, từ đó điều chỉnh tổng cầu và đưa nền kinh tế đến mức sản lượng mong muốn. Khi tăng thuế thu nhập thì thu nhập thực tế của dân cư giảm đồng nghĩa với việc giảm chi tiêu của dân cư do đó tổng cầu giảm, sản lượng cân bằng của nền kinh tế giảm; còn khi giảm thuế thì điều ngược lại sẽ xảy ra. Mức độ ảnh hưởng của thuế thu nhập cá nhân sẽ phụ thuộc vào độ co giãn của thu nhập đối với sự thay đổi của thuế suất. Nếu độ co giãn là nhạy cảm thì chỉ cần thay đổi thuế suất một tỉ lệ nhỏ cũng có thể làm thay đổi tổng cầu một lượng đáng kể; ngược lại nếu là không nhạy cảm thì tổng cầu sẽ thay đổi không đáng kể. Thuế thu nhập cá nhân cũng là loại thuế được sử dụng chủ yếu trong việc thanh toán nợ của chính phủ. Nếu thế hệ chúng ta chi tiêu nhiều hơn so với mức thu thì đồng nghĩa với việc thế hệ sau chúng ta sẽ phải gánh chịu thuế thu nhập cá nhân cao hơn để thanh toán các khoản nợ nần đó. Bên cạnh chức năng là một công cụ đắc lực trong việc thực hiện chính sách tài khoá của chính phủ, việc quản lí thuế TNCN cũng giúp Nhà nước trong quản lí giám sát thu nhập của dân cư, từ đó có thể đánh giá chính xác hơn về mức sống và thu nhập của dân cư nhằm đưa ra các chính sách kinh tế phù hợp hơn. Để tiến hành thu thuế thu nhập của dân cư thì chính phủ cũng phải xây dựng một hệ thống thuế để tiến hành thu và cũng là để giám sát việc thu nộp. Vì vậy chính phủ có thể nắm rõ được tình hình thu nhập của toàn bộ dân cư. Khi làm được điều này, chính phủ sẽ có thể đánh giá chính xác hơn về thực trạng nền kinh tế, sự phân bố thu nhập trong dân cư và còn rất nhiều yếu tố khác nữa, từ những đánh giá này mà chính phủ có thể đưa ra các chính sách kinh tế phù hợp hơn như là các chính sách về việc làm, chính sách bảo hiểm trợ cấp xã hội... Thuế thu nhập cá nhân làm cho mỗi người dân có ý thức hơn về nghĩa vụ và quyền của mình đối với Nhà nước. Điều này ta có thể thấy rõ nét khi đem so sánh về ý thức con người giữa các nước phát triển như Mỹ, Pháp, Đức... với các nước đang phát triển như Indonesia, Lào hay như bản thân Việt Nam. Do ở các nước phát triển, hệ thống thuế trực thu đã phát triển và hầu hết mọi người dân đều phải tự tính thuế và nộp thuế cho mình, do đó quan niệm về thuế của họ rất rõ ràng, họ cảm thấy mình có nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước của mình. Họ cảm thấy tự hào khi nộp thuế vì biết mình đã đóng góp cho Nhà nước. Tất nhiên cũng có nhiều trường hợp trốn thuế nhưng đây chỉ là những trường hợp cá biệt. Còn ở những nước đang phát triển thì sao? Khái niệm nộp thuế cho Nhà nước còn là điều hết sức mới lạ đối với rất nhiều người. Họ không biết mình phải nộp thuế. Hàng ngày chúng ta vẫn phải nộp thuế, nhưng do là thuế gián thu nên chúng ta không biết. Khi phải tính và nộp thuế trực thu thì nhiều người không hề thấy thoải mái chút nào. Chính vì không phải tự tính thuế và nộp thuế cho mình nên ý thức thuế của người dân ở những nước đang phát triển là rất thấp. Minh chứng đơn giản là việc dân cư đi qua cầu phải nộp phí, lệ phí; có phải ai cũng nộp không, nếu trốn nộp được thì họ cũng sẽ sẵn sàng làm ngay cho dù đó chỉ là một khoản tiền rất nhỏ. Nhìn những nước phát triển, dù không có người thu tiền phí và lệ phí thì người đi qua những nơi mà phải nộp phí và lệ phí vẫn tự giác bỏ đồng xu vào chỗ thu tiền rồi mới đi qua. Cũng chính vì sự nhận thức về nghĩa vụ nộp thuế đối với Nhà nước của người dân những nước đang phát triển thấp hơn người dân những nước phát triển cho nên ý thức về quyền con người của họ cũng thấp hơn. Những người càng có ý thức về nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước càng cao thì họ càng có ý thức về quyền của mình đối với Nhà nước cao hơn, họ đòi hỏi Nhà nước cũng phải thực hiện lại những nghĩa vụ đối với họ. Chính vì vậy, ta có thể thấy rằng sự phát triển của thuế thu nhập cá nhân cũng là một bước đánh dấu sự phát triển về nhận thức và văn hóa của con người. Đi kèm với sự phát triển về kinh tế bao giờ cũng là sự phát triển về con người. Quản lý thuế thu nhập cá nhân Nội dung của quản lý thuế thu nhập cá nhân Quản lý thuế thu nhập cá nhân hết sức phức tạp, nó khó khăn hơn rất nhiều so với quản lý các sắc thuế khác. Do cơ sở thuế ở đây là thu nhập của các cá nhân, các khoản thu nhập thì hết sức phong phú và đa dạng, đối tượng nộp thuế thì phân tán... nên việc quản lý được các khoản thu nhập của dân cư là hết sức khó khăn. Chính vì khó khăn trong công tác quản lý thu nhập nên công tác tính thuế thu nhập cá nhân càng trở nên khó khăn hơn. Muốn quản lý tốt thuế thu nhập cá nhân thì trước hết chúng ta cần phải hoàn chỉnh nội dung Luật thuế thu nhập cá nhân. Sau khi có các văn bản qui định về thuế thu nhập cá nhân thì đến công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân. Nhiệm vụ của công tác này là đảm bảo việc thực hiện tốt các qui định về thuế thu nhập cá nhân trong văn bản pháp luật, đồng thời từ quá trình thực hiện sẽ rút ra được những khúc mắc, những vấn đề chưa hợp lý để đề xuất lên cơ quan làm luật nhằm nghiên cứu điều chỉnh lại cho phù hợp. Chính vì sự ràng buộc chặt chẽ giữa văn bản qui định về thuế thu nhập cá nhân và công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân, nên khi đề cập đến nội dung công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân, ta không thể không đề cập đến công tác xây dựng văn bản pháp luật qui định về thuế thu nhập cá nhân. Nguyên tắc cơ bản trong việc xây dựng văn bản pháp luật nói chung là phải đơn giản, rõ ràng và chặt chẽ. Điều này càng đúng hơn đối với quá trình xây dựng văn bản pháp luật qui định về thuế, bao gồm cả thuế thu nhập cá nhân. Nguyên tắc này rất cần thiết và có ý nghĩa quan trọng đến hiệu quả thực hiện của công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân. Ngoài yêu cầu cơ bản này thì văn bản thuế thu nhập cá nhân phải qui định sa._.o cho đảm bảo được nguồn thu ngân sách đã được đề ra. Đó là các qui định về mức thuế suất, về các bậc thu nhập trong biểu thuế suất... Trong mỗi điều kiện hoàn cảnh kinh tế thì cần phải có sự điều chỉnh đảm bảo sự phù hợp của biểu thuế với tình hình kinh tế-xã hội cũng như yêu cầu đặt ra trong việc huy động nguồn thu cho ngân sách. Qui định trong văn bản thuế TNCN cũng cần phải đảm bảo tính công bằng đối với cả người nộp thuế và cả xã hội. Nó đóng vai trò là phân phối lại thu nhập trong xã hội, giảm bớt sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội nhưng nó cũng đồng thời phải đảm bảo cho thu nhập thực tế sau khi nộp thuế của các đối tượng nộp thuế. Bởi vì mức thuế phải nộp có ảnh hưởng không nhỏ đối với động cơ và sự phấn đấu làm việc của người lao động. Tất nhiên, xây dựng một sắc thuế TNCN hoàn chỉnh mà có thể thỏa mãn đầy đủ các nguyên tắc trên là một điều hết sức khó khăn. Chính vì vậy, mỗi quốc gia khi xây dựng Luật thuế TNCN cho nước mình thì phải căn cứ vào tình hình cụ thể, căn cứ vào hiệu quả và chi phí kinh tế để quyết định xem cần chú trọng vào vấn đề nào hơn. Đối với công tác quản lý thu thuế thì trước hết chúng ta cần phải xây dựng Bộ máy quản lý thuế thu nhập cá nhân. Một đội ngũ cán bộ thuế chuyên trách được đào tạo chuyên sâu trong công tác quản lý thu thuế TNCN là điều cần thiết nếu như chúng ta muốn thực hiện thực hiện tốt công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân. Đội ngũ này cần phải tổ chức lại một cách thống nhất, đồng bộ và có khoa học. Nếu làm được điều này thì chúng ta sẽ vừa tiết kiệm được chi phí cho công tác quản lý thu thuế đồng thời vẫn đảm bảo thực hiện tốt công tác thu thuế. Công tác quản lý thu thuế thu nhập cá nhân đặc biệt quan trọng ở khâu quản lý thu nhập của các đối tượng nộp thuế. Nếu quản lý tốt được thu nhập của người lao động thì công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân chắc chắn cũng sẽ được thực hiện tốt. Vậy thì cần phải làm gì trong công tác quản lý thu nhập của đối tượng nộp thuế? Rõ ràng chúng ta chưa biết chính xác ai là những đối tượng phải nộp thuế trước khi kê khai thu nhập của họ. Chính vì vậy, chúng ta cần phải giám sát thu nhập của tất cả các đối tượng lao động. Để từ đó chúng ta có thể xác định được đối tượng nào phải nộp thuế và nộp thuế là bao nhiêu. Muốn thực hiện tốt điều này thì chúng ta cần phải có chế độ giám sát các khoản thu nhập một cách chặt chẽ. Cần phải có chế độ sổ sách kế toán, chứng từ đầy đủ chặt chẽ, tất cả các khoản chi trả thu nhập cần phải được làm sáng tỏ trong sổ sách kế toán. Khi đó cơ quan thuế sẽ dễ dàng hơn nhiều trong việc xác định cũng như kiểm tra thu nhập của người lao động. Đồng thời để tạo thuận lợi cho công tác giám sát kiểm tra các đối tượng nộp thuế thì cơ quan thuế cần phải tiến hành cấp mã số thuế cho các đối tượng nộp thuế và cơ quan chi trả thu nhập. Sau khi cấp mã số thuế thì cơ quan thuế có thể giám sát các đối tượng qua mã số thuế của họ, nhờ đó mà tránh được tình trạng thiếu sót các đối tượng nộp thuế đồng thời cũng đảm bảo sự nhanh gọn cho cơ quan thuế trong công tác quản lý thu thuế. Sau khi quản lý được thu nhập của các đối tượng nộp thuế thì cơ quan tiến hành công tác tính thuế và các đối tượng phải nộp thuế sẽ nộp thuế cho cơ quan thuế. Việc tính thuế và nộp thuế có thể được thực hiện theo hai cách. Cách thứ nhất là thông qua cơ quan uỷ nhiệm thu, hay là cơ quan chi trả thu nhập tính thuế cho các đối tượng nộp thuế mà làm việc trong đơn vị mình và có thu nhập do đơn vị mình chi trả. Sau khi tính thuế và khấu trừ thuế của đối tượng nộp thuế thì cơ quan chi trả thu nhập sẽ tiến hành khấu trừ phần thuế phải nộp ra khỏi thu nhập trước thuế của đối tượng nộp thuế để đem nộp cho cơ quan thuế. Cơ quan chi trả thu nhập sẽ được hưởng một khoản tiền theo tỉ lệ trên số thuế thu được và nộp cho cơ quan thuế. Cách thứ hai là đối tượng nộp thuế sẽ trực tiếp kê khai thu nhập của mình và tự tính mức thuế mình phải nộp. Sau đó, các đối tượng nộp thuế sẽ đến nộp tờ khai cho cơ quan thuế và tiến hành nộp khoản thuế cho cơ quan thuế hay cơ quan có chức năng thu thuế. Cơ quan thuế sẽ có nhiệm vụ ghi lại tất cả các khoản thuế mà các đối tượng nộp thuế phải nộp, để từ đó có thể giám sát và kiểm tra khi cần thiết. Đồng thời đó cũng là cơ sở để đảm bảo sự minh bạch trong công tác thu nộp thuế, cả cho đối tượng nộp thuế và cơ quan thuế cũng như cơ quan uỷ nhiệm thu. Công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân không chỉ dừng lại ở việc thu thuế đầy đủ đúng như qui định, nó còn cần phải phát hiện ra những bất cập, thiếu sót trong qui định về nội dung luật thuế cũng như những qui định trong công tác quản lý kê khai nộp thuế. Trong quá trình thực hiện quản lý thuế, cơ quan sẽ dễ dàng tìm ra những sai sót trong quá trình lập chính sách, đồng thời cũng sẽ dễ tìm ra những cách thức phương pháp quản lý thuế tốt nhất, thuận tiện nhất, đơn giản nhất và tất nhiên đảm bảo được yêu cầu thu đủ và kịp thời. Qua đó cơ quan thuế có thể kiến nghị lên cấp trên xem xét để từ đó có thể hoàn thiện tốt hơn Luật thuế TNCN và công tác tổ chức quản lý thuế thu nhập cá nhân. Sự cần thiết phải tăng cường quản lý thuế TNCN Như chúng ta đã đề cập trong phần vai trò của thuế TNCN, ta có thể thấy rằng sắc thuế có một tầm quan trọng đặc biệt trong hệ thống thuế của mọi quốc gia.Nó được đánh giá cao trong vai trò tạo nguồn thu trong ngân sách và vai trò điều tiết thu nhập của dân cư, đồng thời nó cũng được xem là công cụ thuế đắc lực trong việc thực hiện chính sách tài khóa của chính phủ. Chính vì tầm quan trọng của sắc thuế này nên chúng ta cần thiết phải tổ chức tốt công tác quản lý thuế TNCN. Quản lý tốt là quản lý sao cho đạt được các mục tiêu đã đề ra trong kế hoạch. Các mục tiêu đó thông thường bao gồm các mục tiêu về số thu thuế, số đối tượng nộp thuế phải đầy đủ, đảm bảo sự công bằng trong quá trình thu nộp thuế đồng thời cũng phải tối thiểu chi phí cho công tác tổ chức quản lý thu. Đồng thời việc quản lý tốt thuế TNCN cũng sẽ góp phần giám sát tốt thu nhập của dân cư, tránh được các khoản thu nhập ngầm phi pháp. Việc quản lý tốt sẽ khuyến khích người dân hiểu và tự giác thực hiện tốt việc kê khai và nộp thuế. Nó cũng sẽ góp phần đưa sắc thuế này thành một sắc thuế quan trọng trong hệ thống thuế. Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân Nội dung Luật thuế thu nhập cá nhân Đây là yếu tố đầu tiên và cũng là quan trọng nhất. Muốn thực hiện tốt thì trước hết nội dung Luật phải thống nhất, chặt chẽ, rõ ràng và dễ hiểu. Đây mới là những điều kiện bước đầu để có một hệ thống Luật không có khe hở và mâu thuẫn, tránh những trường hợp do Luật có khe hở và các đối tượng lợi dụng để trốn thuế. Còn muốn có một Luật thuế hoàn chỉnh, có thể phát huy tối đa hiệu quả đối với toàn bộ xã hội và nền kinh tế thì chúng ta còn cần có những nghiên cứu toàn diện về mặt kinh tế và xã hội để từ đó xây dựng biểu thuế hợp lí, phát huy có hiệu quả nhất đối với sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế và xã hội. Bộ máy hành thu của cơ quan thuế Đây là cơ quan chịu trách nhiệm tiến hành tính thuế và thu thuế đối với các đối tượng có nghĩa vụ phải nộp thuế. Hiệu quả hoạt động của Bộ máy hành thu phụ thuộc rất nhiều vào đội ngũ cán bộ thu thuế và cách thức tổ chức đội ngũ này. Một đội ngũ cán bộ thu thuế có trình độ và nghiệp vụ thuế tốt cộng với phẩm chất đạo đức tốt là một điều kiện hết sức quan trọng đối với bộ máy của cơ quan thuế. Đồng thời với việc sắp xếp tổ chức đội ngũ cán bộ khoa học, có phân công trách nhiệm và công việc rõ ràng thì sẽ càng góp phần tăng tính hiệu quả của Bộ máy hành thu. Quá trình thanh tra công tác thu nộp thuế thường xuyên của cấp trên cũng sẽ góp phần quan trọng vào việc thực hiện nghiêm túc của cơ quan thu thuế cấp cơ sở cũng như của người nộp thuế. Đồng thời Bộ máy hành thu của cơ quan thuế cũng cần phải tăng cường sự gắn kết với các cơ quan nơi các đối tượng nộp thuế làm việc và có thu nhập. Mối dây liên kết càng chặt chẽ sẽ càng làm giảm đi những khai báo sai của đối tượng chịu thuế đồng thời cơ quan thuế cũng sẽ dễ dàng phát hiện những sai phạm hơn. Sự phát triển của hệ thống ngân hàng và ứng dụng các tiến bộ khoa học về tin học và mạng Muốn có một hệ thống thu thuế phát triển thì sự phát triển của hệ thống ngân hàng là điều kiện không thể thiếu được. Việc sử dụng tài khoản rộng rãi trong dân cư, giảm bớt việc nắm giữ tiền mặt sẽ giúp cho cơ quan thuế giảm bớt khối lượng những công việc không cần thiết đồng thời cũng giảm bớt các hiện tượng tiêu cực do việc kiểm tra trên tài khoản sẽ đơn giản và rõ ràng hơn nhiều so với kiểm tra tiền mặt. Một hệ thống thanh toán điện tử hiện đại sẽ giúp giảm bớt các chi phí về đi lại, sổ sách giấy tờ... Sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ thông tin đã đem lại những ứng dụng vô cùng quí giá và công tác thu thuế cũng sẽ hiệu quả hơn rất nhiều nếu biết sử dụng những thành tựu này. Cơ quan luật pháp Cơ quan luật pháp làm việc có hiệu quả, luật pháp thực hiện được nghiêm minh thì sẽ đảm bảo việc vi phạm luật sẽ giảm đi. Các đối tượng nộp thuế cũng như cơ quan thu thuế cũng sẽ thực hiện nghiêm túc hơn, bởi họ biết rằng khi vi phạm họ sẽ không tránh khỏi những hình phạt nếu bị phát hiện. Tình hình kinh tế và mức sống người dân Hiệu quả của công tác quản lý thu thuế thu nhập cá nhân phụ thuộc không nhỏ vào mức độ phát triển kinh tế và đời sống của dân cư. Cùng một đơn vị thu thuế trên một khu vực, nếu số đối tượng nộp thuế thu nhập nhiều thì sẽ giảm bớt chi phí trên một đồng thuế thu được, ngược lại nếu có ít đối tượng nộp thuế và số thuế thu được ít thì chi phí cho một đồng thuế thu được sẽ cao. Sự phát triển kinh tế sẽ đồng hành với sự phát triển của cơ sở hạ tầng phục vụ cho công tác quản lý nói chung và công tác quản lý thuế nói riêng, khi cơ sở hạ tầng tốt thì khả năng quản lý thuế cũng sẽ đơn giản và hiệu quả hơn. Trình độ dân trí Trình độ dân trí tỉ lệ thuận với ý thức về trách nhiệm nộp thuế. 1.3 Quản lý thuế thu nhập cá nhân ở một số nước trên thế giới Trong phần này chúng ta sẽ đi xem xét và nghiên cứu luật thuế thu nhập cá nhân và tính chất quản lý thu thuế ở một số nước trên thế giới. Qua việc nghiên cứu này, chúng ta sẽ rút ra được câu trả lời tại sao họ lại áp dụng như vậy, áp dụng được trong điều kiện hoàn cảnh nào. Từ đó, căn cứ vào tình hình cụ thể ở Việt Nam, chúng ta có thể đề ra được những biện pháp nhằm xây dựng tốt nhất Luật thuế thu nhập cá nhân. 1.3.1 Quản lý thuế thu nhập cá nhân ở Anh Nước Anh chính thức đưa thuế thu nhập cá nhân vào trong hệ thống Luật thuế là vào năm 1799, dưới thời thủ tướng William Pitt, nhằm tài trợ cho cuộc chiến tranh với Napoleon. Đến nay, sau hai trăm năm lịch sử, thuế thu nhập cá nhân ở nước Anh đang ngày càng thể hiện vai trò quan trọng của mình. Về nội dung Luật thuế Thu nhập tính thuế Nước Anh qui định tất cả các cá nhân cư trú trên lãnh thổ nước Anh, nhận được các khoản thu nhập có nguồn gốc từ nước Anh thì sẽ phải kê khai thu nhập và tính thuế thu nhập. Các khoản thu nhập chịu thuế bao gồm thu nhập từ tiền công, bao gồm cả tiền thưởng; lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh; cổ tức từ cổ phần; lãi đầu tư và gửi ngân hàng; tiền trợ cấp tìm việc. Bảng 2- Biểu thuế suất thuế thu nhập cá nhân nước Anh Thu nhập chịu thuế (Ê/tháng ) Thuế suất(%) 0-1880 10 1880-29400 22 29400- 40 Nguồn: www.irs.org.uk Mức chước giảm cá nhân là 4535 Ê, tức là 4535 Ê thu nhập đầu tiên sẽ không bị đánh thuế, đơn vị thu nhập thứ 4536 trở đi mới bắt đầu bị tính thuế. Ngoài ra, còn có các mức chước giảm gia cảnh khác nữa, ví dụ đối với người già thì mức chước giảm là 5990 Ê ( 65-74 tuổi) và 6260 Ê ( 74 tuổi trở lên). Về tổ chức quản lý thu thuế Nước Anh áp dụng phương pháp khấu trừ tại nguồn để tiến hành thu thuế thu nhập cá nhân ( PAYE- Pay As You Earn ). Phương pháp này đã được sử dụng từ năm 1944. Thu nhập của người lao động sẽ được khấu trừ đi khoản thuế mà họ phải đóng, khi đó khoản thu nhập mà người lao động nhận được là khoản thu nhập sau thuế. Cơ quan chi trả thu nhập cho người lao động sẽ khấu trừ và nộp lại thuế cho cơ quan thuế. Tuy nhiên hiện nay cách thức này đang gặp một số vấn đề bất cập do những biến đổi về xã hội. Trước đây, người lao động thường làm việc gắn với chủ, nhưng bây giờ thì việc thay đổi việc làm, có nhiều nghề một lúc, tự làm hay là làm công việc nửa ngày đã dẫn đến việc thu thuế bằng cách khấu trừ tại nguồn tỏ ra không thực sự hiệu quả. 1.3.2 Quản lý thuế thu nhập cá nhân ở nước Mỹ Về nội dung Luật thuế Thu nhập tính thuế Mỹ đánh thuế thu nhập cá nhân người trong nước và người nước ngoài trên cơ sở thu nhập toàn thế giới. Đối với người nước ngoài không là đối tượng cư trú thì chỉ nộp thuế trên phần thu nhập phát sinh có nguồn gốc từ Mỹ. Các khoản thu nhập do làm việc trên đất Mỹ đều phải chịu thuế thu nhập; các khoản thu nhập do chuyển nhượng tài sản và thu nhập đầu tư; các khoản thu nhập từ tiền lãi, cổ tức, tiền cho thuê và tiền bản quyền có nguồn gốc từ Mỹ... Đồng thời, các khoản chi phí liên quan đến công việc tạo ra thu nhập cũng sẽ được khấu trừ: công tác phí, chi phí cần thiết cho công việc, tuy nhiên tổng tất cả các khoản khấu trừ này không được phép vượt quá 2% thu nhập gộp sau khi điều chỉnh. Ngoài ra, trong luật còn qui định cụ thể một số loại chi phí khác được khấu trừ. Bảng 3- Biểu thuế suất thuế thu nhập cá nhân ở Mỹ Đối với hai vợ chồng khai chung một tờ khai: Thu nhập chịu thuế( $/năm) Thuế suất(%) 0-45200 15 45200-109250 27.5 109250-166500 30.5 166500-297350 35.5 297350- 39.1 Đối với hai vợ chồng nộp tờ khai riêng: Thu nhập chịu thuế( $/năm) Thuế suất(%) 0-22600 15 22601-54625 27.5 54625-83250 30.5 83250-148675 35.5 148675- 39.1 Đối với người độc thân: Thu nhập chịu thuế( $/năm) Thuế suất(%) 0-27050 15 27050-65550 27.5 65550-136750 30.5 136750-297350 35.5 297350 39.1 Đối với người chủ gia đình: Thu nhập chịu thuế( $/năm) Thuế suất(%) 0-36250 15 36250-93650 27.5 93650-151650 30.5 151650-297350 35.5 297350- 39.1 Nguồn: Đề tài nghiên cứu thuế thu nhập cá nhân của TPHCM Nước Mỹ cũng áp dụng việc chước trừ gia cảnh. Ví dụ, hai vợ chồng cùng khai thì được khấu trừ $7200, $4300 cho người độc thân, $6350 cho chủ gia đình và $3600 cho hai vợ chồng khai riêng. Ngoài ra, còn có một số qui định cụ thể hơn về các đối tượng được chước trừ gia cảnh. Về tổ chức quản lý thu thuế Nước Mỹ áp dụng khấu trừ tại nguồn đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công. Đối với các khoản thu nhập khác (thu nhập kinh doanh cá thể, lãi tiết kiệm hay cho vay, cổ tức) không thuộc diện khấu trừ tại nguồn thì phải được kê khai hàng quí trên cơ sở tạm khai, tạm nộp vào các ngày 15/4, 15/6, 15/9, 15/12 là hạn chót. 1.3.3 Quản lý thuế thu nhập cá nhân ở Thái Lan. Về nội dung Luật thuế Thu nhập tính thuế Thái Lan đánh thuế thu nhập cá nhân người trong nước và người nước ngoài đối với thu nhập phát sinh từ tiền lương, tiền công hoặc thu nhập do hoạt động kinh doanh thực hiện trên đất Thái Lan, bất kể các khoản thu nhập này nhận được bên trong hay bên ngoài lãnh thổ Thái Lan. Thu nhập chịu thuế ở Thái Lan bao gồm các khoản thu nhập do cung cấp dịch vụ trên đất Thái Lan, tiền lương, tiền công, tiền hưu bổng, tiền cho thuê nhà, tiền chi trả hộ;các khoản thu nhập từ chuyển nhượng tài sản và thu nhập đầu tư (có một số ngoại lệ như thu nhập do chuyển nhượng cổ phần của một công ty có niêm yết trên thị trường chứng khoán thì được miễn thuế, thu nhập do chuyển nhượng công phiếu, trái phiếu, tín phiếu kho bạc thì người nộp thuế có thể lựa chọn hoặc nộp thuế khấu lưu theo thuế suất cố định là 15% và khỏi phải cộng thu nhập này vào thu nhập cá nhân để nộp thuế thu nhập); thu nhập từ tiền lãi gửi ngân hàng, hay cho công ti tài chính vay chịu thuế khấu lưu theo thuế suất cố định 15% và được khấu trừ vào số thuế thu nhập phải nộp. Các khoản chi phí liên quan đến công việc không được khấu trừ. Khấu trừ đối với tiền đóng BHXH tối đa là Bht 300.000 ; tiền lãi vay để mua nhà hoặc xây nhà được trừ tối đa là Bht 10000. Bảng 4- Biểu thuế suất thuế thu nhập cá nhân ở Thái Lan Thu nhập chịu thuế( Bht/năm) Thuế suất(%) 0-100.000 5 100.000-500.000 10 500.000-1.000.000 20 1.000.000-4.000.000 30 4.000.000- 37 Nguồn: Đề tài nghiên cứu thuế thu nhập cá nhân của TPHCM Thái Lan cũng xem xét tới miễn giảm gia cảnh. Cá nhân có thu nhập từ tiền lương được hưởng khoản chước giảm cá nhân bằng 40% tiền lương, nhưng không quá Bht 60.000; mỗi cá nhân được hưởng các khoản khấu trừ là Bht 30.000 cho bản thân mình và cho vợ ( chồng); Bht 15.000 cho mỗi đứa con và Bht 12.000 cho mỗi đứa con được đi học ở trường được Nhà nước công nhận. Về tổ chức quản lý thu thuế Thái Lan sử dụng phương pháp khấu trừ tại nguồn đối với các khoản thu nhập từ tiền lương, các phụ cấp khác, các thu nhập từ cổ tức... Số thuế nộp bên ngoài Thái Lan không được xem là khấu trừ thuế trừ khi có hiệp định thuế. Năm tính thuế là năm dương lịch và mọi người đều phải nộp tờ khai thuế chậm nhất là ngày 31/3 năm sau. 1.3.4 Quản lý thuế thu nhập cá nhân ở Singapore Các cá nhân thường trú tại Singapore thuộc đối tượng chịu thuế có nghĩa vụ nộp thuế thu nhập đối với các khoản: thu nhập phát sinh tại Singapore, hoặc xuất phát từ Singapore; thu nhập bên ngoài Singapore được nhận tại Singapore. Đối với những người không thường trú được thuê mướn tại Singapore thì thu nhập có từ việc làm trong thời gian không quá 60 ngày trong 1 năm thì được miễn thu thuế, không áp dụng với các đối tượng phục vụ biểu diễn chuyên nghiệp và các giám đốc không thường trú của các công ty thường trú tại Singapore, còn làm việc trên 60 ngày và dưới 183 ngày thì áp dụng mức thuế suất thống nhất 15% trên tổng số thù lao, nếu mức thuế phải trả không thấp hơn mức mà người thường trú phải chi trả trong điều kiện tương tự. Bảng 5- Biểu thuế suất thuế thu nhập cá nhân ở Singapore Thu nhập chịu thuế( S$/năm) Thuế suất(%) 0-7500 2 7500-20.000 5 20.000-35.000 8 35.000-50.000 12 50.000-75.000 16 75.000-100.000 20 100.000-150.000 22 150.000-200.000 23 200.000-400.000 26 400.000- 28 Nguồn: Đề tài nghiên cứu thuế thu nhập cá nhân của TPHCM 1.3.5 Biểu thuế suất của một số nước trên thế giới Bảng 6- Biểu thuế thu nhập cá nhân của Ấn Độ năm 1998-1999 Thu nhập chịu thuế( RS/năm) Thuế suất(%) 0-40.000 0 40.000-60.000 10 60.000-150.000 20 150.000- 30 Nguồn: www.njt.com Bảng 7- Biểu thuế thu nhập cá nhân của Cananda Thu nhập chịu thuế( Canada $/năm) Thuế suất(%) 0-30.004 17 30.005-60.009 25 60.009- 29 Nguồn: www.ccra-adrc.gc.ca/tax/individuals Bảng 8- Biểu thuế thu nhập cá nhân của Malaysia Thu nhập chịu thuế( RM/tháng) Thuế suất(%) 0-2500 0 2500-5000 1 5000-10.000 3 10.000-20.000 5 20.000-35.000 9 35.000-50.000 15 50.000-70.000 20 70.000-100.000 25 100.000-150.000 28 150.000- 29 Nguồn: Tạp chí thuế Nhà nước tháng 2-2002 Trên đây là nội dung cơ bản của Luật thuế thu nhập cá nhân và cách thức tổ chức quản lý thu thuế thu nhập cá nhân của một số nước trên thế giới. Vận dụng những kinh nghiệm trong xây dựng Luật thuế thu nhập cá nhân của các nước, căn cứ vào tình hình cụ thể về kinh tế-xã hội-chính trị ở Việt Nam, sẽ giúp chúng ta hoàn chỉnh tốt nhất nội dung qui định trong Pháp lệnh thuế thu nhập cá nhân. CHƯƠNG 2 Thực trạng quản lý thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam Ở chương một, chúng ta đã nghiên cứu những lí luận chung và cơ bản nhất về thuế thu nhập cá nhân. Đó là những lí luận mang tính căn bản và làm cơ sở phân tích khi chúng ta bước tiếp sang chương hai và chương ba. Ở chương hai, chúng ta sẽ nghiên cứu về nội dung pháp lệnh thuế thu nhập cá nhân nước ta, những sửa đổi bổ sung từ khi pháp lệnh ra đời cho đến nay; và sau đó chúng ta sẽ xem xét tiếp quá trình thực hiện nội dung pháp lệnh trong suốt thời gian qua. Từ đó, chúng ta cũng sẽ rút ra ra những thành tựu mà pháp lệnh thuế thu nhập cá nhân đã đạt được trong thời gian qua và những vướng mắc mà chúng ta còn gặp phải để từ đó có thể tìm ra những giải pháp thích hợp nhất cho quá trình quản lý thực hiện Luật thuế thu nhập cá nhân trong thời gian tới. Lịch sử hình thành và áp dụng thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam Cùng với quá trình chuyển đổi cơ chế quản lí kinh tế theo hướng thị trường và chủ trương thực hiện một nền kinh tế mở, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ra đời vào năm 1987 đã tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nước ngoài đưa vốn vào Việt Nam làm ăn. Thị trường lao động cũng bắt đầu xuất hiện những vấn đề mới. Tiền lương cho lao động làm ở công ty nước ngoài cao hơn nhiều lần so với lao động ở cơ quan Nhà nước. Sự khác biệt về mức tiền lương quá lớn trong xã hội đã gây ra những mâu thuẫn nhất định và hậu quả là việc chảy máu chất xám. Chính sách thuế thu nhập cá nhân với tên gọi là “ Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao” được ban hành vào 27/12/1990, có hiệu lực thi hành bắt đầu từ 4/1991, cho đến nay đã qua năm lần sửa đổi, bổ sung. Những ngày đầu, thuế thu nhập cá nhân chỉ áp dụng nhằm điều tiết chênh lệch thu nhập cao trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Sau đó, qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung, phạm vi thu thuế cũng được mở rộng dần đến các khu vực hưởng lương khác tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước và một số cơ quan của Nhà nước. Cho đến nay, sau 10 năm Pháp lệnh ra đời, nó đang thể hiện những bước phát triển nhất định và chứng tỏ mình là một sắc thuế quan trọng trong nguồn thu ngân sách trong thời gian tới. Nội dung cơ bản trong pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao hiện nay Như ở phần trên đã trình bày, Pháp lệnh thuế thu nhập cá nhân nước ta ra đời từ ngày 1-4-1991, cho đến nay đã qua năm lần sửa đổi và bổ sung vào các năm 1994,1997,1999 và 2001. Ta sẽ trình bày nội dung pháp lệnh trên bốn khía cạnh (i) đối tượng nộp thuế và các loại thu nhập phải nộp thuế (ii) căn cứ tính thuế và biểu thuế (iii) giảm thuế, miễn thuế ; xử lí vi phạm và khen thưởng; công tác khiếu nại Đối tượng nộp thuế và các loại thu nhập phải nộp 2.2.1.1 Đối tượng nộp thuế Hiện nay, theo pháp pháp lệnh số 35/2001/PL-UBTVQH và thông tư hướng dẫn số 05/2002/TT-BTC thì đối tượng nộp thuế thu nhập bao gồm: Công dân Việt Nam ở trong nước hoặc đi công tác, lao động ở nước ngoài có thu nhập. Cá nhân là người không mang quốc tịch Việt Nam nhưng định cư không thời hạn tại Việt Nam có thu nhập. Người nước ngoài có thu nhập tại Việt Nam bao gồm: Người nước ngoài làm việc tại Việt Nam trong các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, văn hóa, xã hội... của Việt Nam hoặc của nước ngoài, các văn phòng đại diện, các chi nhánh công ty nước ngoài, các cá nhân hành nghề độc lập Người nước ngoài tuy không hiện diện tại Việt Nam nhưng có thu nhập phát sinh tại Việt Nam trong các trường hợp như : thu nhập từ chuyển giao công nghệ, tiền bản quyền. 2.2.1.2 Thu nhập chịu thuế Ở nước ta, thu nhập chịu thuế được chia thành hai loại là thu nhập thường xuyên và thu nhập không thường xuyên . Thu nhập thường xuyên gồm Các khoản thu nhập dưới các hình thức tiền lương, tiền công, tiền thù lao Các khoản phụ cấp Các khoản thu nhập được chi trả hộ về tiền nhà, điện nước. Riêng tiền nhà tính theo số thực chi trả hộ, nhưng không quá 15% tổng số thu nhập về tiền lương, tiền công, tiền thù lao. Các khoản thu nhập ổn định của các cá nhân do tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ các loại không thuộc đối tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp như: thiết kế, kiến trúc, dịch vụ tư vấn theo hợp đồng dài hạn, giảng dạy, luyện thi, biểu diễn văn hóa nghệ thuật; hoạt động thể dục thể thao mang tính chuyên nghiệp. Các khoản thu nhập khác do tham gia các Hiệp hội kinh doanh, Hội đồng quản trị doanh nghiệp. Các khoản thưởng bằng tiền, hiện vật từ các nguồn khác nhau. Thu nhập không thường xuyên gồm Thu nhập về quà biếu, quà tặng bằng hiện vật do các tổ chức, cá nhân từ nước ngoài gửi về cho các cá nhân ở Việt Nam dưới mọi hình thức Thu nhập về chuyển giao công nghệ theo từng hợp đồng, bao gồm: (i) chuyển giao quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng các đối tượng sở hữu công nghiệp (ii) chuyển giao thông qua việc mua bán cung cấp (có hoặc không kèm theo thiết bị); bí quyết kĩ thuật, phương án công nghệ, qui trình công nghệ, thiết kế hoặc mẫu thiết kế, công thức, bản vẽ, sơ đồ, bảng, biểu, thông số kĩ thuật, hoặc kiến thức kĩ thuật chuyên môn khác. (iii) thực hiện các dịch vụ hỗ trợ và tư vấn Thu nhập về tiền bản quyền các tác phẩm văn học, nghệ thuật. Thu nhập về thiết kế kĩ thuật xây dựng, thiết kế kĩ thuật công nghiệp và các dịch vụ tư vấn, đào tạo, dịch vụ môi giới, thu nhập từ các hoạt động biểu diễn nghệ thuật, thể dục, thể thao không mang tính chất chuyên nghiệp. Thu nhập từ các hoat động khoa học như hội thảo, đề tài nghiên cứu khoa học các cấp Trúng thưởng xổ số do Nhà nước phát hành và các hình thức xổ số khuyến mại. Trong luật định còn ghi rõ những khoản thu nhập không thuộc diện chịu thuế thu nhập bao gồm sáu khoản. Căn cứ tính thuế và biểu thuế Ta sẽ trình bày nội dung thông tư qui định về căn cứ tính thuế và biểu thuế trước khi đi vào phân tích chúng. Căn cứ tính thuế thu nhập là thu nhập chịu thuế và thuế suất. 2.2.2.1 Đối với thu nhập thường xuyên Thu nhập thường xuyên chịu thuế là tổng thu nhập của từng cá nhân qui định tại khoản 1 điều 2 Nghị định số 78/2001/NĐ-CP tính bình quân tháng trong năm, cụ thể: Công dân Việt Nam ở trong nước hoặc đi công tác lao động ở nước ngoài, cá nhân là người không mang quốc tịch Việt Nam nhưng định cư không thời hạn tại Việt Nam: lấy tổng thu nhập thu được trong năm kể cả thu nhập ở nước ngoài chia cho 12 tháng (theo năm dương lịch). Trường hợp công dân Việt Nam có thời gian làm việc ở trong nước và ở nước ngoài thì thu nhập chịu thuế là tổng thu nhập phát sinh ở trong nước và ở nước ngoài. Người nước ngoài cư trú tại Việt Nam từ 183 ngày trở lên (sau đây gọi là người cư trú tại Việt Nam) lấy tổng số thu nhập phát sinh trong năm, bao gồm thu nhập phát sinh tại Việt Nam và thu nhập phát sinh ngoài Việt Nam chia cho 12 tháng. Trường hợp kê khai thu nhập bình quân tháng ở nước ngoài thấp hơn thu nhập bình quân tháng ở Việt Nam mà không chứng minh được thì lấy thu nhập bình quân tháng trong thời gian tại Việt Nam để làm căn cứ tính thuế cho thời gian ở nước ngoài. Tháng tính thuế qui ước là 30 ngày. Người nước ngoài ở Việt Nam từ 30 ngày đến 182 ngày thì thu nhập chịu thuế là tổng thu nhập phát sinh do công việc làm tại Việt Nam trong khoảng thời gian đó không phân biệt nơi nhận thu nhập ở Việt Nam hay ở nước ngoài. Thuế suất đối với thu nhập thường xuyên áp dụng theo biểu thuế luỹ tiến từng phần qui định tại điều 10 Pháp lệnh thuế thu nhập: Bảng 9- Biểu thuế đối với thu nhập thường xuyên của công dân Việt Nam Đơn vị: 1000 VNĐ Bậc Thu nhập bình quân tháng/người Thuế suất(%) 1 đến 3.000 0 2 Trên 3.000 đến 6.000 10 3 Trên 6.000 đến 9.000 20 4 Trên 9.000 đến 12.000 30 5 Trên 12.000 đến 15.000 40 6 Trên 15.000 50 Đối với các cá nhân, sau khi đã nộp thuế thu nhập theo qui định tại Biểu thuế này, nếu phân thu nhập còn lại bình quân trên 15.000.000 đồng/tháng thì thu bổ sung số vượt trên 15.000.000 đồng. Bảng 10- Biểu thuế thu nhập thường xuyên của người nước ngoài cư trú tại Việt Nam và công dân Việt Nam lao động, công tác ở nước ngoài Đơn vị: 1.000 VNĐ Bậc Thu nhập bình quân tháng/ người Thuế suất(%) 1 đến 8.000 0 2 Trên 8.000 đến 20.000 10 3 Trên 20.000 đến 50.000 20 4 Trên 50.000 đến 80.000 30 5 Trên 80.000 đến 120.000 40 6 Trên 120.000 50 Đối với người nước ngoài ở Việt Nam từ 30 ngày đến 182 ngày, áp dụng thuế suất thống nhất 25% trên tổng số thu nhập. Đối với người Việt Nam có thời gian làm việc ở trong nước và ở nước ngoài thì nộp thuế theo biểu thuế tương ứng. Thuế thu nhập thường xuyên được tính theo phương pháp lũy tiến từng phần trong các bậc thuế. Cách tính được cụ thể hóa biểu phụ lục số 2 đính kèm thông tư này. 2.2.2.2 Đối với thu nhập không thường xuyên Thu nhập không thường xuyên chịu thuế là số thu nhập của từng cá nhân không phân biệt người Việt Nam hay người nước ngoài trong từng lần phát sinh thu nhập theo qui định tại khoản 2 điều 2 Nghị định số 78/2001/NĐ-CP, cụ thể: Thu nhập về quà biếu, quà tặng từ nước ngoài chuyển về được tính trên giá trị quà biếu, quà tặng từng lần, kể cả trường hợp người nhận là chủ doanh nghiệp tư nhân. Thu nhập về chuyển giao công nghệ, thiết kế kĩ thuật xây dựng, thiết kế kĩ thuật công nghiệp tính theo giá trị quyết toán từng hợp đồng, không phân biệt số lần chi trả. Thu nhập về trúng thưởng xổ số tính theo từng lần mở và nhận giải thưởng. Thuế suất đối với thu nhập không thường xuyên áp dụng theo qui định tại điều 12 Pháp lệnh thuế thu nhập, điều 9 Nghị định số 78/2001/NĐ-CP. Bảng 11- Biểu thuế thu nhập không thường xuyên Đơn vị: 1.000 VNĐ Bậc Thu nhập mỗi lần phát sinh Thuế suất(%) 1 đến 2.000 0 2 Trên 2.000 đến 4.000 5 3 Trên 4.000 đến 10.000 10 4 Trên 10.000 đến 20.000 15 5 Trên 20.000 đến 30.000 20 6 Trên 30.000 30 Thuế suất 5% trên tổng thu nhập áp dụng đối với: Thu nhập về chuyển giao công nghệ trên 2 triệu đồng/lần Thu nhập về quà biếu, quà tặng bằng hiện vật từ nước ngoài chuyển về trên 2 triệu đồng/lần Thuế suất 10% trên tổng số thu nhập áp dụng đối với thu nhập về trúng thưởng xổ số trên 12,5 triệu đồng/lần 2.2.3 Giảm thuế, miễn thuế, xử lí vi phạm và khen thưởng, công tác khiếu nại Về giảm thuế và miễn thuế , theo qui định trong thông tư số 05/2002/TT-BTC; thì cá nhân người nộp thuế gặp khó khăn do thiên tai, địch họa, tai nạn làm thiệt hại tài sản, thu nhập ảnh hưởng đến đời sống bản thân thì người nộp thuế được xét giảm hoặc miễn thuế trong năm tuỳ theo mức độ thiệt hại. Số thuế được xét miễn giảm bằng tỉ lệ giữa số tiền thiệt hại so với thu nhập chịu thuế trong năm nhưng không vượt quá số tiền thuế phải nộp cả năm. Cơ quan thuế sẽ phân cấp trách nhiệm xét duyệt đối với các trường hợp này tuỳ theo số tiền thuế miễn giảm. Xử lí vi phạm và khen thưởng. Các hành vi sai trái trong việc kê khai và nộp thuế sẽ bị xử phạt hành chính; nếu ở mức độ nặng thì có thể sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Việc xử lí vi phạm sẽ do thủ trưởng cơ quan trực tiếp quản lí thu thuế hoặc Cục trưởng, Chi cục trưởng của cơ quan trực tiếp quản lí thu thuế tuỳ th._.ế thu nhập cá nhân CHƯƠNG 3 Những kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam Trước tình hình thực hiện Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao trong thời gian vừa qua mà chúng ta đã nghiên cứu ở trên, để khắc phục được các mặt hạn chế và phát huy những thành tựu chúng ta đã đạt được, tôi xin được đưa ra đây những đề xuất của mình. Những đề xuất của tôi được xuất phát trên cơ sở xây dựng Luật thuế TNCN thật đơn giản, rõ ràng và chặt chẽ. Do hệ thống thuế nước ta còn rất nhiều yếu kém, muốn cải cách được thì cần phải thực hiện trong một thời gian dài. Chính vì vậy, trong ngắn hạn, muốn thực hiện tốt quản lý thuế TNCN thì chúng ta chỉ có thể cải cách nội dung luật nhằm giảm bớt khó khăn trong công tác quản lý thuế TNCN của ngành thuế. Đồng thời đây cũng là xu thể của cuộc cải cách thuế trên thế giới trong thập kỉ 90. Kinh nghiệm cho thấy một luật thuế càng phức tạp bao nhiêu, càng mong muốn thực hiện được đầy đủ các mục tiêu về công bằng một cách tuyệt đối thì kết quả thực tế chỉ là sự méo mó trong quá trình thực hiện. Sự công bằng thì chưa thực hiện được bao nhiêu, trong khi đó càng trường hợp trốn thuế hoặc dựa vào khe hở của luật để tránh thuế, chi phí cho quản lý thu thuế đều tăng lên. So sánh giữa hiệu quả và chi phí thì các quốc gia đều thấy rằng cần phải đơn giản luật đi, nhờ đó mà quá trình thực hiện sẽ được thuận lợi và hiệu quả hơn. Phần 1: Kiến nghị việc xây dựng nội dung Luật thuế thu nhập cá nhân Phần 2: Kiến nghị về tổ chức thực hiện Luật thuế thu nhập cá nhân 3.1 Kiến nghị xây dựng nội dung Luật Thu nhập chịu thuế Chúng ta cần phải cố gắng bao quát hết các loại thu nhập. Muốn làm được điều này thì ngay cả trong cách phân loại nội dung thu nhập chịu thuế thì chúng ta cũng cần phải trình bày một cách có hệ thống. Hiện nay, một số loại thu nhập vẫn còn chưa được xếp vào thu nhập chịu thuế, đó là thu nhập từ các hoạt động đầu tư vốn, gửi lãi tiết kiệm, từ các hoạt động kinh doanh cá thể và một số loại thu nhập khác. Tất cả các hoạt động này đều đem lại thu nhập cho các cá nhân không khác gì so với thu nhập từ tiền lương hay một số hình thức khác, chính vì vậy không có lí gì chúng lại nằm ngoài phạm vi điều tiết của thuế thu nhập cá nhân. Việc bổ sung thêm các loại thu nhập này sẽ góp phần đảm bảo tính công bằng cũng như tăng thu cho ngân sách Nhà nước. Theo kinh nghiệm của các nước thì chúng ta nên chia thu nhập theo tính chất nguồn hình thành thu nhập. + Tiền lương, tiền công lao động, tiền thưởng, tiền trợ cấp + Thu nhập từ sản xuất kinh doanh công thương nghiệp + Thu nhập từ các hoạt động sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp + Thu nhập từ hoạt động cho thuê nhà đất + Thu nhập từ các hoạt động phi thương mại, hành nghề tự do + Thu nhập từ chuyển dịch bất động sản, cổ phần, cổ phiếu + Thu nhập khác từ lãi tiết kiệm, lãi cổ phần, cổ phiếu, trúng số... Một vấn đề nữa trong nội dung thu nhập chịu thuế là chúng ta không nên phân biệt giữa thu nhập thường xuyên và thu nhập không thường xuyên. Chúng nên tính gộp thành tổng toàn bộ thu nhập thay vì tách riêng ra thành thu nhập thường xuyên và thu nhập không thường xuyên. Điều này sẽ làm đơn giản việc tính thuế hơn, người nộp thuế sẽ chỉ phải kê khai các khoản thu nhập mình nhận được trong năm rồi từ đó tính thuế theo một biểu thuế chung duy nhất, đối với cơ quan thuế thì cũng sẽ bớt một công đoạn phân loại và kiểm tra việc kê khai thuế thu nhập là thu nhập thường xuyên hay không thường xuyên. Hơn nữa, căn cứ để phân chia thành thu nhập thường xuyên và thu nhập không thường xuyên là không rõ ràng. Chính vì vậy, nó càng tạo điều kiện cho các đối tượng tìm cách hoán chuyển thu nhập thường xuyên thành thu nhập không thường xuyên nhằm giảm bớt số lượng thuế thu nhập phải đóng. Cách tính thuế thu nhập không thường xuyên là căn cứ vào thu nhập phát sinh từng lần chứ không phải là theo năm, do đó các mức thu nhập lẻ tẻ dưới mức khởi điểm chịu thuế sẽ không phải chịu thuế thu nhập, mặc dù nếu gộp chúng lại thì có thể chúng sẽ vượt mức khởi điểm chịu thuế. Đây là một điều mâu thuẫn. Thực tế ở một số nước trong quá trình xây dựng luật thuế nói chung đều cho thấy việc xây dựng luật một cách quá phức tạp với mục đích đảm bảo tính công bằng cao thường tỏ ra không có hiệu quả như mong muốn, mà ngược lại nó còn tạo ra nhiều kẽ hở để những kẻ trốn thuế lợi dụng. Xu hướng xây dựng một luật thuế thật đơn giản, tránh phức tạp không cần thiết và chặt chẽ là hợp lí hơn cả. Biểu thuế suất thuế thu nhập Về xây dựng biểu thuế suất, em có hai quan điểm như sau. Quan điểm thứ nhất là chúng ta nên xem xét việc xây dựng biểu thuế thu nhập cá nhân với một mức thuế suất, mức thu nhập chịu thuế khởi điểm là 0. Điều đó có nghĩa là bất cứ ai có thu nhập đều phải có nghĩa vụ nộp thuế theo một tỉ lệ cố định trên tổng thu nhập. Nó dựa vào quan điểm xây dựng biểu thuế công bằng theo chiều ngang, chứ không phải là công bằng theo chiều dọc như biểu thuế lũy tiến. Quan điểm này của em dựa trên những luận cứ sau. Thứ nhất đó là tính đơn giản trong chính sách thuế thu nhập cá nhân. Chúng ta đã biết hệ thống thuế nước ta còn rất yếu kém, khả năng quản lý thu thuế còn rất nhiều hạn chế. Trong khi đó, thuế thu nhập cá nhân là một sắc thuế hết sức phức tạp, ngay cả đối với những nước phát triển có hệ thống rất tốt thì sự thất thoát thu thuế từ thuế thu nhập cá nhân là rất lớn, như ở Pháp hàng năm thất thoát là từ 15-25% NSNN. Để thực hiện tốt sắc thuế này trong điều kiện hệ thống thu thuế nước ta còn yếu thì biện pháp duy nhất là làm đơn giản trong nội dung Luật thuế. Chúng ta đã biết sự khó khăn và phức tạp của thuế thu nhập cá nhân phần lớn là do biểu thuế của nó là lũy tiến, mỗi mức thu nhập khác nhau sẽ chịu một mức thuế suất biên khác nhau. Để đơn giản Luật thuế thì chúng ta có thể xây dựng biểu thuế một mức thuế suất. Khi đó chúng ta sẽ chỉ cần sử dụng phương pháp khấu trừ tại nguồn, mỗi khi cơ quan chi trả thu nhập thì họ sẽ phải khấu trừ khoản thu nhập đó lại theo một tỉ lệ nhất định để nộp lại cho cơ quan thuế. Sự đơn giản trong xây dựng luật thuế cũng là xu hướng của thế giới. Trong thời gian gần đây, hầu hết các nước đang phát triển đều tiến hành cải cách thuế nhằm làm đơn giản nội dung Luật thuế cũng như công tác tổ chức. Thuế thu nhập cá nhân ngày càng được giảm bớt số bậc thuế suất cũng như mức thuế suất xuống, số các trường hợp được miễn giảm cũng giảm đi rất nhiều. Còn xét về tính công bằng thì sắc thuế này xây dựng trên quan điểm công bằng theo chiều ngang.Chúng ta không nhất thiết phải xây dựng biểu thuế theo quan điểm công bằng theo chiều dọc. Các sắc thuế như thuế thu nhập doanh nghiệp cũng xây dựng theo biểu thuế một thuế suất. Tính công bằng theo chiều ngang hay chiều dọc có những đặc điểm khác nhau khi phân tích về mặt lí thuyết, nhưng trên thực tế thì chưa chắc nó đã đúng như chúng ta mong muốn. Điều quan trọng là chúng ta cần phải căn cứ vào tình hình thực tế, căn cứ vào chi phí thu thuế cũng như số thuế thu được mà quyết định xem cách thức nào hiệu quả hơn. Ngược lại, nếu chúng ta vẫn áp dụng theo biểu thuế lũy tiến như hiện nay thì theo tôi nên hạ thấp mức khởi điểm chịu thuế xuống đồng thời hạ thấp mức thuế suất khởi điểm xuống. Cơ sở cho ý kiến này là việc hạ thấp mức khởi điểm chịu thuế xuống sẽ tăng khả năng bao quát thu nhập của toàn bộ dân cư. Đồng thời việc hạ thấp mức thuế suất tương ứng với mức khởi điểm mới sẽ có ảnh hưởng không đáng kể đến thu nhập sau thuế của người lao động. Ví dụ nếu hạ thấp mức khởi điểm chịu thuế xuống mức 1.500.000 VNĐ và mức thuế suất biên tương ứng là 5% thì thuế thu nhập của người có thu nhập hàng tháng là 2.000.000 VNĐ sẽ chỉ là 25.000 VNĐ. Theo kết quả điều tra xã hội học của Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh thực hiện năm 2000 tại ba thành phố Hà Nội, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh thì mức thu nhập bình quân ở ba vùng sẽ như sau: Bảng 15- Điều tra về mức thu nhập trung bình của dân cư Tiêu chí Hà Nội Hồ Chí Minh Đà Nẵng Số tuyệt đối Tỷ trọng (%) Số tuyệt đối Tỷ trọng (%) Số tuyệt đối Tỷ trọng (%) 1. Nghề nghiệp - Cán bộ, công nhân viên 323 18.7 223 21.5 76 15 -Người kinh doanh 123 7.1 178 17.1 80 15.8 -Học sinh, sinh viên 298 17.3 189 18.2 101 20 -Nghề khác 979 56.8 449 43.2 248 49.1 2. Thu nhập hàng tháng -Dưới 500.000 377 21.9 150 14.4 171 33.9 -Từ 500.000- 1 triệu 849 44.9 436 42.0 194 38.4 -Từ 1 triệu- 5 triệu 499 25.8 427 41.1 131 25.9 - Trên 5 triệu 43 2.5 26 2.5 9 1.8 Nguồn: Đề án xây dựng thuế TNCN TPHCM Có thể ước tính mức thu nhập bình quân tháng: Hà Nội (400.000*377)+(750.000*849)+(3.000.000*499)+(6.000.000*43) =2.542.550.000 =>thu nhập bình quân là 2.542.550.000/1768=1.438.093 VNĐ Thành phố Hồ Chí Minh (400.000*150)+(750.000*436)+(3.000.000*427)+(6.000.000*26) =1.824.000.000=>thu nhập bình quân là 1.824.000.000/1039=1.755.534 VNĐ Đà Nẵng (400.000*171)+(750.000*194)+(3.000.000*131)+(6.000.000*9) =660.900.000=>thu nhập bình quân là 660.900.000 /505=1.308.712 VNĐ Với mức thu nhập bình quân như vậy, theo tôi chúng ta nên đưa mức thu nhập khởi điểm chịu thuế là 1.500.000 VNĐ. Như vậy, khả năng bao quát của thuế thu nhập cá nhân sẽ rộng hơn nhiều. Mức thu nhập cao nhất là 15.000.000 như hiện nay, lớn gấp 10 lần so với thu nhập bình quân là một con số phù hợp và tương đồng đối với biểu thuế ở các nước đang phát triển. Vấn đề thứ hai trong biểu thuế là việc xác định khoảng cách thuế suất biên giữa các bậc thuế. Theo ý kiến tôi thì chúng ta nên mở rộng khoảng cách thuế ở các bậc đầu, sau đó thu hẹp lại ở những bậc cao. Giải thích cho quan điểm này là những người có mức thu nhập thật cao thì một sự gia tăng nhỏ của thuế suất biên cũng đã tạo ra một sự gia tăng lớn về tiền thuế phải nộp. Nếu duy trì khoảng cách cao giữa các bậc thuế suất thì những người có thu nhập thật cao sẽ phải nộp một khoản tiền thuế lớn vượt xa so với những người ở mức thu nhập chịu thuế kề cận anh ta. Tính luỹ tiến như vậy sẽ là quá cao đối với người có thu nhập cao, người lao động sẽ trực tiếp so sánh giữa số thuế họ phải đóng ở bậc trước với số thuế họ đóng ở bậc sau, khoảng cách này càng xa thì sẽ khiến họ thấy lao động để tạo thu nhập thêm của họ sẽ đem lại hiệu quả không cao. Chính vì vậy, động lực lao động sẽ giảm sút, và đó là điều mà các nhà xây dựng Luật thuế thu nhập cá nhân không muốn. Vì vậy, theo ý kiến của tôi, xây dựng một biểu thuế suất khoảng năm bậc thuế, thuế suất ban đầu là 5%, phân bổ khoảng cách từng bậc theo biên độ rộng ở bậc thấp, hẹp ở các bậc cao là một biểu thuế hợp lí và nó cũng là phổ biến ở hầu khắp các nước trên thế giới. Còn cụ thể từng bậc thuế suất biên là bao nhiêu thì cần phải có sự nghiên cứu một cách khoa học. Về việc phân biệt biểu thuế suất giữa người Việt Nam và người nước ngoài thì theo tôi, tại thời điểm hiện tại chúng ta vẫn phải duy trì. Chúng ta sẽ cố gắng thu hẹp dần khoảng cách giữa mức khởi điểm chịu thuế và thống nhất một biểu thuế suất chung, nhưng điều đó còn phụ thuộc vào mức độ phát triển của nước ta, phụ thuộc vào thu nhập trung bình của người lao động. Khi những điều kiện về mức thu nhập chưa tương đồng thì việc áp dụng một biểu thuế suất chung thống nhất là điều chưa nên làm. 3.2 Kiến nghị về xây dựng cơ cấu tổ chức thực hiện Luật thuế thu nhập cá nhân 3.2.1 Công tác kê khai, thu nộp thuế Công tác kê khai và thu nộp thuế là một phần vô cùng quan trọng quyết định đến hiệu quả thực hiện của pháp lệnh thuế thu nhập hiện nay. Bất cập tồn tại chủ yếu ở khâu này. Do chưa có biện pháp tổ chức kê khai thực sự khoa học và có hiệu quả thực tế nên thất thoát trong thu thuế là rất lớn. Phương pháp khấu trừ tại nguồn là cần thiết và quan trọng trong công tác thu thuế nhưng nó chưa đủ. Theo ý kiến của riêng tôi thì chúng ta nên đồng thời áp dụng phương pháp khấu trừ tại nguồn và phương pháp quản lí thu nhập tại địa phương. Phương pháp khấu trừ tại nguồn duy nhất không thể nào đảm bảo được việc thu thuế một cách đầy đủ. Thay vào đó, việc tính thuế nên đưa về cho các đội thuế ở địa phương cùng đảm nhiệm. Các cá nhân hàng tháng sẽ có nhiệm vụ kê khai toàn bộ thu nhập của mình, sau đó sẽ nộp thuế cho cơ quan thuế địa phương. Cơ quan thuế với đội ngũ cán bộ có kinh nghiệm sẽ làm nhiệm vụ kiểm tra các khai báo của các cá nhân. Việc kiểm tra tại địa phương sẽ dễ dàng được thực hiện hơn thông qua việc căn cứ vào mức sống và mức chi tiêu của các hộ gia đình. Tất nhiên đây chỉ là một cách xác định tương đối, nhưng nó cũng sẽ giúp phần nào cho cơ quan thuế trong việc xác định các đối tượng để kiểm tra lại tính chính xác của việc kê khai. Các cơ quan chi trả thu nhập sẽ phải có nghĩa vụ trả lời chính xác cho cơ quan thuế về các khoản thu nhập của người lao động. Việc quản lí này đòi hỏi phải có mã số thuế cho mỗi cá nhân người lao động. Đồng thời với cách quản lí thuế ở khu vực địa phương nơi các cá nhân cư trú sẽ giúp cơ quan thuế xác định chính xác hơn về khả năng thu nhập của các cá nhân thông qua mức sống của gia đình anh ta. Tính khả thi và hiệu quả của phương pháp này có thể kiểm tra thông qua việc thực hiện thí điểm ở một số khu vực dân cư. Nếu như nó tỏ ra hiệu quả và khả thi thì chúng ta nên áp dụng sớm và rộng rãi. 3.2.2 Chúng ta cần phải hoàn thiện lại hệ thống thu thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao. Hiện nay,công tác quản lí thuế thu nhập cá nhân được thực hiện theo hai cách. Với các đối tượng làm việc tại cơ quan chi trả thu nhập do cơ quan thuế cấp cục hay cấp chi cục quản lý thì đăng lý kê khai thuế thu nhập cá nhân với các cấp quản lý thuế tương ứng. Còn đối với các cơ quan chi trả thu nhập không thuộc đối tượng do cơ quan thuế quản lý thu thuế GTGT, thuế TNDN thì kê khai đăng ký thuế thu nhập cá nhân tại Cục thuế tỉnh nơi đơn vị đóng trụ sở. Nhưng do số đối tượng ở trường hợp thứ hai chiếm phần lớn, vì vậy chúng ta cần phải tìm một biện pháp quản lý co hiệu quả với số đối tượng này tốt hơn. Phương pháp quản lý hiện nay tuy có thuận lợi là đơn giản cho cả phía cơ quan thuế và cơ quan chi trả có đối tượng thuộc diện chịu thuế thu nhập, nhưng trước tình hình hiện nay, khi mà thu nhập của dân cư đã tăng cao, đối tượng có thu nhập cao nằm ngoài khu vực kinh doanh là khá lớn thì phương pháp này đã không thể khai thác triệt để được nguồn thu, bỏ sót rất nhiều đối tượng. Sự mất bình đẳng do việc bỏ sót đối tượng nộp thuế sẽ ảnh hưởng không tốt đến những người nộp thuế và không khuyến khích họ tự giác kê khai. Chính vì vậy, tôi thấy cần phải xây dựng phòng chuyên trách trong nhiệm vụ quản lí kê khai các doanh nghiệp và các cá nhân thuộc diện nộp thuế thu nhập. Với đội ngũ cán bộ được đào tạo chuyên sâu và chỉ có nhiệm vụ quản lí trong lĩnh vực này sẽ giúp cho việc quản lí được chặt chẽ, đồng bộ và có hiệu quả hơn. 3.2.3 Chúng ta phải có sự phân công trách nhiệm và quyền hạn rõ ràng. Mỗi cá nhân phải được phân công những công việc một cách cụ thể chi tiết và sau đó mọi vấn đề liên quan họ sẽ phải chịu trách nhiệm trước cơ quan thuế. Các thủ tục giấy tờ hành chính cần cố gắng đơn giản, gọn nhẹ. Đây là vấn đề không chỉ của riêng ngành thuế mà nó còn là đặc điểm chung của hệ thống cơ quan hành chính ở nước ta hiện nay. Điều này đã gây ra lãng phí rất lớn cho xã hội. Nếu không giải quyết được vấn đề này thì nền kinh tế nước ta sẽ bị kìm hãm và khó có thể phát triển được. Vì vậy, theo tôi vấn đề quan trọng đầu tiên mà chúng ta cần phải làm là cải cách hành chính Bộ máy thuế của nước ta và nói rộng hơn là cải cách toàn bộ Bộ máy hành chính của nước ta hiện nay. Chỉ khi đó thì các hoạt động kinh tế xã hội nói chung và nói riêng ở đây là việc tổ chức thực hiện Luật thuế thu nhập cá nhân mới đạt được hiệu quả cao. 3.2.4 Để thuận tiện cho công tác quản lí thu, chúng ta cũng cần phải thực hiện công tác đăng kí thuế và cấp mã số thuế cho các đối tượng. Việc quyết định cấp mã số thuế cho tất cả những người lao động có thu nhập phải kê khai hàng năm cũng chưa thực sự cần thiết vì số người có mức thu nhập chưa đến mức phải đóng thuế là chiếm tỉ trọng lớn; nhưng ngược lại nếu chỉ cấp mã số thuế cho những đối tượng có kê khai thu nhập và đến mức phải nộp thuế thì cũng chưa hợp lí. Sự biến động thu nhập là một điều tương đối phổ biến trong thời kì kinh tế thị trường do các cá nhân có sự chuyển đổi nghề nghiệp thường xuyên hơn, làm nhiều nghề một lúc. Theo ý kiến của riêng tôi, chúng ta nên áp dụng đăng kí cấp mã số thuế căn cứ vào ngành nghề. Đối với những ngành nghề mà theo điều tra trong xã hội là có mức thu nhập cao, có thể qua mức nộp thuế thì chúng ta yêu cầu tất cả các đối tượng này đều phải kê khai. Ví dụ một số ngành nghề như ca sĩ, giáo viên, kiến trúc sư, luật sư, tư vấn thiết kế... và các hộ thuộc diện kinh doanh cá thể, doanh nghiệp tư nhân. Trong đó, các cán bộ cơ quan Nhà nước đều phải có nghĩa vụ kê khai thu nhập hàng năm, các cơ quan Nhà nước phải có trách nhiệm giúp đỡ cơ quan thuế trong việc khấu trừ phần thuế thu nhập của cán bộ cơ quan mình. Chỉ có thể làm tốt công tác quản lí thu nhập của dân cư nếu chúng ta làm tốt tất cả các công việc này. 3.2.5 Quản lí thuế thu nhập cá nhân muốn có hiệu quả thì nó cần phải được thực hiện đồng thời với sự giám sát của cấp cơ sở. Mọi hoạt động thu nhập của con người đều diễn ra hoặc ở nơi làm việc hoặc ở nơi sinh sống. Do vậy, công tác quản lí thu nhập nơi người lao động sinh sống là hết sức cần thiết. Quản lí theo cách này sẽ đặc biệt hữu ích trong việc quản lí đối với các cá nhân hành nghề tự do, không có nơi làm ổn định. Cơ quan thuế cũng có thể căn cứ vào mức sống, mức tiêu dùng của các hộ gia đình để tiến hành kiểm tra tính chính xác trong việc kê khai thu nhập. Muốn thực hiện tốt điều này thì chúng ta không thể không chú trọng quan tâm đến vai trò của các tổ chức quản lí xã hội ở địa phương. Sự kết hợp giữa cơ quan thuế và cơ quan quản lí địa phương là hết sức cần thiết nếu như muốn thực hiện tốt việc quản lí thu nhập của dân cư. Tuy nhiên, chúng ta cũng sẽ có thể gặp phải hiện tượng sách nhiễu từ phía cán bộ thuế và các cán bộ địa phương đối với người dân. Chính vì vậy, cần có những văn bản đảm bảo việc thực hiện là trên tinh thần xây dựng kiểm tra đôn đốc thực hiện đúng những qui định trong chính sách thuế thu nhập, không cho phép đó là cái cớ để gây phiền hà cho người dân. 3.2.6 Sự kết hợp chặt chẽ giữa cơ quan thuế với các cơ quan chức năng khác trong việc quản lí thuế thu nhập cũng không thể được xem nhẹ. Các cơ quan chức năng như Sở Thương mại, Sở Lao động, Sở Công an, Sở Văn hóa-Thông tin, Sở Ngoại vụ... cũng cần phải xác định rõ trách nhiệm của mình trong việc phối kết hợp với cơ quan thuế để thực hiện nhiệm vụ quản lí các đối tượng nộp thuế thu nhập. 3.2.7 Chúng ta cũng cần phải thường xuyên phổ biến, tuyên truyền, vận động và giáo dục về thuế thu nhập cá nhân để mọi đối tượng nộp thuế am hiểu về pháp luật và tự giác thực hiện luật thuế. Đây là một vấn đề hết sức quan trọng. Chúng ta cần phải giáo dục ý thức pháp luật của dân cư, trong đó đặc biệt là thế hệ trẻ. Những chương trình giáo dục pháp luật từ trong trường học là điều hết sức bổ ích. Nước ta được xem là một trong số những nước mà dân cư có ý thức về luật pháp nói chung thuộc dạng kém trên thế giới. Muốn khắc phục được nhược điểm này thì không có cách gì khác là chúng ta phải đưa giáo dục pháp luật vào trong học đường. Đồng thời, chúng ta cũng cần có các chương trình giới thiệu và tuyên truyền về pháp luật nói chung cho đông đảo dân cư được biết, tránh tình trạng như đối với Pháp lệnh thuế thu nhập hiện nay, rất nhiều người khi được hỏi thì hoàn toàn xa lạ với vấn đề này. 3.2.8 Để thực hiện tốt nội dung Pháp lệnh, chúng ta cũng cần phải ban hành những chế tài và qui định về việc xử phạt đối với các trường hợp vi phạm. Hiện nay, nước ta chưa có Luật tố tụng thuế vụ, chính vì điều này đã khiến cho rất nhiều tổ chức, cá nhân coi thường và không thực hiện các qui định trong Luật thuế. Theo điều tra thăm dò thì có tới 60.19% số người được hỏi cho rằng chúng ta không thực hiện được tốt các qui định trong luật là do sự kém nghiêm minh của luật pháp, còn 20.5% thì cho rằng là ý thức người dân về thuế chưa cao, số còn lại thì cho rằng là do luật qui định chưa hợp lí và khoa học nên hiệu quả thực hiện còn thấp. 3.2.9 Sự phát triển của hệ thống ngân hàng cũng như những biện pháp của Ngân hàng và Kho bạc Nhà nước nhằm giảm chi tiêu tiền mặt cũng là một nhân tố hết sức quan trọng đối với hiệu quả của việc quản lí thu thuế thu nhập của cơ quan thuế. Như chúng ta đã trình bày ở chương 2, việc sử dụng tiền mặt phổ biến ở nước ta đã gây ra nhiều khó khăn trong công tác quản lí nguồn thu nhập của dân cư. Muốn chuyển dần sang việc sử dụng tài khoản séc thay cho tiền mặt đòi hỏi phải có những cơ chế qui định cụ thể từ phía Ngân hàng Nhà nước và Kho bạc Nhà nước. Những qui định về hình thức thanh toán tiền lương phải qua tài khoản séc cũng nên dần dần áp dụng ở nước ta. Bên cạnh đó, hệ thống ngân hàng thương mại, nơi mà các khách hàng sẽ mở tài khoản séc, cũng cần phải phát triển hơn nữa để đáp ứng được nhu cầu thanh toán qua tài khoản của dân cư. Việc thanh toán qua tài khoản séc phải hết sức thuận tiện và đơn giản thì mới có thể khuyến khích người dân sử dụng. Nếu như các chi phí về thời gian, thủ tục quá phức tạp thì người dân sẽ không hứng thú gì trong việc sử dụng tài khoản séc, ngược lại nếu nó thuận tiện thì sẽ rất khuyến khích bởi vì nó an toàn hơn nhiều so với việc giữ tiền mặt trong túi. Giảm thanh toán bằng tiền mặt mà sử dụng rộng rãi thanh toán qua tài khoản sẽ không chỉ phục vụ cho hoạt động quản lí thu nhập của dân cư trong việc kê khai và nộp thuế thu nhập mà nó còn tiết kiệm rất nhiều chi phí cho xã hội. Vì vậy, chúng ta cần cố gắng sớm có những qui định và biện pháp cụ thể nhằm khuyến khích thanh toán qua tài khoản. 3.2.10 Sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, trong đó đặc biệt là công nghệ thông tin liên lạc và mạng điện tử đã đem lại rất nhiều ứng dụng tiện ích cho xã hội. Việc vận dụng những thành tựu về khoa học công nghệ như là tin học, công nghệ mạng vào công tác quản lí thuế sẽ giúp cho cơ quan thuế rất nhiều. Sự chính xác, nhanh gọn, đơn giản trong công tác thu nộp thuế sẽ là điều kiện tốt để Luật thuế thu nhập cá nhân được thực hiện có hiệu quả. Một mạng lưới máy tính nối kết giữa tất cả các cơ quan thuế trên toàn bộ lãnh thổ quốc gia sẽ giúp cho việc xác định thông tin như mã số thuế, số thuế phải nộp, đã nộp và tất cả các thông tin khác về cá nhân nộp thuế chỉ thực hiện trong vài phút. So sánh với việc quản lí bằng giấy tờ văn bản như hiện nay thì thực sự nó là một bước tiến khá xa. 3.2.11 Ngoài ra, để thuế thu nhập cá nhân sớm trở thành một nguồn thu quan trọng của Nhà nước thì Chính phủ cần có những chính sách để phát triển mạnh mẽ kinh tế và đời sống của người dân. Chúng ta đã phân tích ở trên rằng nguồn thu từ thuế thu nhập cá nhân phụ thuộc rất nhiều vào thu nhập thực tế của dân cư. Ở những nước phát triển thì thuế trực thu là thuế có tỉ trọng cao trong nguồn thu ngân sách, ngược lại ở những nước đang phát triển thì thuế gián thu lại chiếm tỉ trọng cao hơn. Nó phản ánh mức thu nhập của dân cư ở những nước đang phát triển thấp hơn so với những nước phát triển. Chúng ta cần phải tập trung phát triển kinh tế, cố gắng đưa nền kinh tế bắt kịp với các nước trong khu vực rồi tiến xa hơn. Và đó cũng chính là mục tiêu lớn lao nhất mà chúng ta đang phấn đấu theo đuổi và xây dựng- mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh. Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao là một sắc thuế mới ở nước ta. Mười năm hình thành và phát triển của sắc thuế này quả thực là hết sức ngắn ngủi. Những bất cập trong quá trình xây dựng Luật và thực hiện là điều không thể tránh khỏi. Nhưng với quyết tâm xây dựng và hoàn chỉnh sắc thuế này, chúng ta hi vọng rằng sắc thuế này sẽ sớm trở thành một sắc thuế thực sự có hiệu quả và sẽ phát huy tối đa các chức năng và vai trò của nó. Điều đặc biệt quan trọng là chúng ta cần phải đưa sắc thuế này thành một sắc thuế phổ thông, đại đa số dân cư sẽ hiểu biết về nó và thấy mình có nghĩa vụ đối với việc nộp thuế thu nhập. Muốn làm được điều này thì cần phải hết sức nhấn mạnh đến việc công bằng, tức là không để phổ biến những cá nhân mà đáng lẽ phải nộp thuế nhưng vẫn trốn thuế mà không có sự can thiệp của luật pháp, nếu có thì số đối tượng này chỉ là một con số rất nhỏ và hãn hữu. Chỉ có như vậy thì mới tạo được niềm tin và việc nghiêm túc thực hiện của các đối tượng nộp thuế. Kết luận Như vậy, sau ba chương nghiên cứu về thuế thu nhập cá nhân, chúng ta đã đề cập đến một số vấn đề cơ bản về thuế thu nhập cá nhân nói chung và thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam. Trước hết, chúng ta có thể chắc chắn rằng thuế thu nhập cá nhân là một sắc thuế hết sức cần thiết đối với mọi quốc gia. Nó mang ý nghĩa cả về mặt kinh tế, xã hội và chính trị. Không một ai có thể phủ nhận được những vai trò tích cực mà nó đem lại cho xã hội. Ở Việt Nam, sắc thuế này mới ra đời được hơn mười năm, nhưng nó cũng đã đạt được những thành tựu nhất định, thu ngân sách hàng năm từ thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao đã tăng mạnh qua các năm, số người đăng ký, kê khai nộp thuế thu nhập cũng không ngừng tăng lên. Các văn bản qui định về thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao được sửa đổi, bổ sung và ngày càng hoàn thiện cho phù hợp với hoàn cảnh thực tế của kinh tế và xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh đó, do những nguyên nhân chủ quan và khách quan, pháp lệnh thuế thu nhập cá nhân vẫn chưa thực sự phát huy hết vai trò và chức năng của nó. Nguyên nhân khách quan có thể là do nền kinh tế nước ta chưa thực sự phát triển, đời sống của dân cư vẫn còn ở mức thấp, do vậy khả năng huy động nguồn thu từ thu nhập của dân cư không cao. Thêm vào đó, pháp lệnh thuế thu nhập cá nhân mới ra đời, do vậy nó chưa được sự nhận thức và thực hiện rộng rãi của dân cư. Những tiền đề căn bản cho việc thực hiện tốt công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân ở nước ta vẫn còn rất hạn chế, đó là việc sử dụng tiền mặt rộng rãi trong dân cư, những ứng dụng khoa học kỹ thuật trong công tác quản lý thuế chưa được sử dụng... Nhưng việc thực hiện pháp lệnh thuế thu nhập cá nhân chưa thực sự hiệu quả như khả năng của nó chủ yếu là do những nguyên nhân chủ quan. Những nguyên nhân đó xuất phát từ phía cơ quan làm luật, cơ quan thuế, một số cơ quan khác có liên quan đến quá trình thu nộp thuế, và ý thức của những người có nghĩa vụ kê khai và nộp thuế. Các văn bản pháp luật hiện nay về thuế thu nhập cá nhân còn một số vấn đề chưa thực sự hợp lý. Trong quá trình thực hiện, cơ quan thuế chưa tìm ra cách tổ chức thu thuế đối với các cá nhân có nghĩa vụ kê khai và nộp thuế một cách có hiệu quả, rất nhiều đối tượng nộp thuế đã bị bỏ sót. Nguyên nhân này cũng một phần là do các cơ quan chi trả thu nhập chưa thực hiện nghiêm túc nhiệm vụ khấu trừ phần thuế thu nhập từ thu nhập của người lao động trong đơn vị họ quản lý. Một số ngành nghề như ca sĩ, giáo viên, thiết kế... thì thu nhập của họ chưa được cơ quan thuế giám sát quản lý. Số người tự giác kê khai và nộp thuế thu nhập cá nhân không nhiều, phần lớn là những người chủ trương trốn không phải nộp thuế được thì trốn. Chính vì lí do này, cho nên đến nay, thuế thu nhập cá nhân vẫn chưa phát huy được hết vai trò của nó. Để khắc phục những bất cập đang tồn tại trong pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao và quá trình thực hiện của nó, chúng ta cần có những sửa đổi một cách đồng bộ trên cả phương diện văn bản pháp luật và công tác tổ chức thu nộp thuế thu nhập cá nhân. Đối với văn bản qui định về thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao hiện nay, chúng ta nên điều chỉnh lại sao cho bao quát được hết các khoản thu nhập của dân cư, xoá bỏ sự phân biệt giữa thu nhập thường xuyên và thu nhập không thường xuyên, thu hẹp dần khoảng cách về biểu thuế giữa người nước ngoài và người Việt Nam tiến dần đến thống nhất một biểu thuế chung. Thêm vào đó, chúng ta nên hạ thấp mức thu nhập khởi điểm chịu thuế nhằm bao quát được rộng rãi hơn tầng lớp dân cư nộp thuế, đồng thời có khả năng tăng được nguồn thu cho ngân sách. Về mức thuế suất, chúng ta nên thu hẹp dần khoảng cách giữa các bậc thuế suất ở mức thu nhập từ thấp đến cao. Căn cứ tính thuế cũng cần phải quan tâm đến yếu tố gia cảnh của người nộp thuế. Về công tác tổ chức thực hiện, chúng ta nên xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách trong lĩnh vực quản lý việc kê khai và nộp thuế thu nhập cá nhân. Công tác quản lý cần kết hợp ở cả nơi các cá nhân làm việc và nơi cư trú nhằm đảm bảo tính chính xác và đầy đủ. Sự kết hợp giữa các cơ quan quản lý đối tượng lao động và cơ quan thuế cần phải được tăng cường, công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục về thuế thu nhập cá nhân cũng phải được chú trọng hơn nữa. Đồng thời chúng ta cũng cần phải tăng cường hoạt động thanh toán bằng séc và qua chuyển khoản, hạn chế việc sử dụng tiền mặt. Có như vậy thì công tác quản lý thu nhập của dân cư mới có thể thực hiện được tốt. Với đề tài “ Một số vấn đề về thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam”, em mong muốn thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam sẽ phát triển và sớm trở thành một sắc thuế quan trọng trong hệ thống thuế Việt Nam, phát huy tốt những vai trò và chức năng của nó để đưa nền kinh tế phát triển liên tục và ổn định đồng thời đảm bảo được sự công bằng trong xã hội. Một lần nữa, em xin chân thành cám ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của cô giáo hướng dẫn em là TS. Nguyễn Thị Bất và các cô chú trên Tổng cục thuế nơi em thực tập. Sinh viên Nguyễn Việt Hưng Danh mục tài kiệu tham khảo Pháp lệnh thuế thu nhập cá nhân các năm 1991,1994,1997,1999 và 2001 cùng các Nghị định, Thông tư hướng dẫn. Giáo trình Quản lý thuế-ĐH Kinh tế quốc dân Giáo trình Tài chính học và Thuế của trường Đại học Tài chính Kế toán Tạp chí Thuế Nhà nước Các tạp chí khác như Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, Tài chính-Kế toán, Kinh tế và dự báo... Các bài phân tích về thuế ở các trang web trên mạng. Luật thuế thu nhập cá nhân của Mỹ, Anh, Canada và một số nước khác trên thế giới. Principles of Economics- GregoryMankiw Đề tài: Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao: Thực trạng và việc hoàn thiện chính sách, biện pháp quản lý thu 12-2001 Cơ quan chủ trì đề tài: Cục thuế Thành phố Hồ Chí Minh MỤC LỤC ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docI0003.doc
Tài liệu liên quan