Một số ý kiến về xác định giá trị Doanh nghiệp nhà nước Cổ phần hóa qua trường hợp Công ty Cổ phần Dụng cụ cơ khí Xuất khẩu

Lời Mở đầu Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước là một chủ trương được đề ra từ đầu những năm 90, tính đến nay, quá trình cổ phần hóa đã thực hiện được trên 10 năm. Trong hơn 10 năm thực hiện cổ phần hóa, vấn đề được nhắc đến nhiều nhất và cũng gặp nhiều vướng mắc nhất là xác định giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa. Đây là một vấn đề còn khá mới mẻ ở nước ta và là điểm mấu chốt để tiến hành cổ phần hóa thành công. Chính vì vậy, tất cả các đối tượng tham gia cổ phần hóa phải được trang bị kiến thức

doc83 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1423 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số ý kiến về xác định giá trị Doanh nghiệp nhà nước Cổ phần hóa qua trường hợp Công ty Cổ phần Dụng cụ cơ khí Xuất khẩu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cơ bản về định giá doanh nghiệp, không chỉ có vậy, còn cần một hệ thống các phương pháp định giá hoàn chỉnh, trong một quy trình định giá chặt chẽ. Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn tại Công ty cổ phần Dụng cụ cơ khí xuất khẩu, cùng với sự giúp đỡ tận tình của thày giáo PGS-TS Nguyễn Thành Độ và cơ quan thực tập, tôi xin chọn đề tài luận văn tốt nghiệp: “Một số ý kiến về xác định giá trị doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hóa qua trường hợp Công ty cổ phần Dụng cụ cơ khí xuất khẩu”. Nội dung của luận văn gồm 3 phần: - Phần I: Lý luận chung về xác định giá trị doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hóa. - Phần II: Xác định giá trị doanh nghiệp Nhà nước trong cổ phần hóa ở Công ty cổ phần Dụng cụ cơ khí xuất khẩu. - Phần III: Một số ý kiến về xác định giá trị doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hóa qua thực tế Công ty cổ phần Dụng cụ cơ khí xuất khẩu. Mục đích của luận văn: - Nghiên cứu về xác định giá trị doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hóa và cách thức tổ chức thực hiện. - Tìm hiểu thực trạng xác định giá trị doanh nghiệp nói chung và xác định giá trị doanh nghiệp trong cổ phần hóa ở Công ty cổ phần Dụng cụ cơ khí xuất khẩu nói riêng. - Trên cơ sở đó, rút ra một số kinh nghiệm, đồng thời đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện vấn đề xác định giá trị doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hóa ở Việt Nam trong thời gian tới. Mặc dù đã có nhiều cố gắng, nhưng do khuôn khổ luận văn cũng như những hạn chế của người viết nên chắc chắn không tránh khỏi thiếu sót. Vậy tác giả luận văn rất nhận mong được sự đóng góp ý kiến của các thày giáo, cô giáo, của cơ quan thực tập và của các bạn để luận văn được hoàn thiện hơn. Phần I: Lý luận chung về xác định giá trị doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hóa I- Tổng quan về xác định giá trị doanh nghiệp trong cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam. 1. Khái niệm, thực chất và sự cần thiết phải tiến hành cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam. 1.1. Khái niệm và thực chất cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam. Có rất nhiều khái niệm khác nhau về cổ phần hóa do các nhà nghiên cứu xem xét nội dung cổ phần hóa trên những góc độ khác nhau. Xin đưa ra một số khái niệm được dùng trong các bài viết của một số tác giả về cổ phần hóa để cùng xem xét và đưa ra một khái niệm chính xác nhất. Trong bài viết "Khía cạnh kinh tế-chính trị của vấn đề cổ phần hóa" trên tạp chí những vấn đề kinh tế thế giới tháng 2/1993, ông Bùi Tất Thắng - Viện Kinh tế học đã đưa ra định nghĩa: Cổ phần hóa là sự thay đổi hình thức xã hội hóa quá trình sản xuất từ dạng kinh tế Nhà nước sang công ty cổ phần. Định nghĩa này dựa trên quan điểm cho rằng kinh tế Nhà nước là một xã hội hóa của lực lượng sản xuất. Trong sách "Hỏi và đáp về cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam", tác giả Hoàng Công Thi cho rằng: Cổ phần hóa là chuyển sở hữu tài sản và lĩnh vực mà lâu nay Nhà nước nắm giữ vào tay các thành phần kinh tế, trong đó có thành phần tư nhân và thành phần quốc doanh. Quan điểm chủ đạo thể hiện trong khái niệm này là trong một nền kinh tế luôn có nhiều thành phần kinh tế cùng hoạt động. Theo tác giả Nguyễn Thiết - Viện kinh tế thế giới, Cổ phần hóa là quá trình chuyển sở hữu Nhà nước thành sở hữu tư nhân hoặc sở hữu hỗn hợp Nhà nước-tư nhân. Như vậy có thể thấy việc đưa ra một định nghĩa chính xác về cổ phần hóa là rất khó khăn. Tuy nhiên, có thể đưa ra một khái niệm tương đối bao trùm: Cổ phần hóa là biện pháp chuyển doanh nghiệp từ một chủ sở hữu thành doanh nghiệp nhiều chủ sở hữu. Từ đây có thể phát biểu khái niệm về cổ phần hóa doanh nghiệp như sau: Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước là một biện pháp chuyển doanh nghiệp từ sở hữu Nhà nước sang hình thức sở hữu nhiều thành phần. Từ các khái niệm về cổ phần hóa và cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước, cùng với thực tiễn cổ phần hóa trong thời gian qua, có thể nhận thấy thực chất của quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam là quá trình đa dạng hóa các hình thức sở hữu doanh nghiệp, trong đó doanh nghiệp Nhà nước là lực lượng chủ công, kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Ngoài ra, có thể thấy một số đặc điểm của cổ phần hóa ở nước ta, đó là: Thứ nhất, cổ phần hóa là quá trình chuyển đổi hình thức hoạt động từ doanh nghiệp Nhà nước sang công ty cổ phần. Một doanh nghiệp Nhà nước sau khi cổ phần hóa sẽ trở thành một công ty cổ phần, chịu sự điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp. Công ty cổ phần này sẽ có những đặc điểm chính sau: - Trách nhiêm vật chất của từng thành viên (cổ đông) là rất rõ ràng, có sự phân phối theo tỷ lệ góp vốn của mỗi thành viên. - Quyền sở hữu và quyền kinh doanh được tách bạch rõ ràng, không bị sự can thiệp trực tiếp có tính chất hành chính của chính quyền các cấp, các địa phương vào hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. - Do khắc phục được tính "vô chủ", vô trách nhiệm, phân phối theo lối bình quan... nên hiệu quả sản xuất kinh doanh được nâng cao, thu nhập của người lao động theo đó cũng tăng lên. - Cơ chế quản lý của công ty cổ phần (đặc biệt là cơ chế quản lý tài chính) vừa thông thoáng, vừa rõ ràng theo luật định sẽ giảm bớt rất nhiều sự trói buộc đối với doanh nghiệp và quyền tự chủ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được nâng cao rất nhiều. Thứ hai, cổ phần hóa là biện pháp chuyển doanh nghiệp từ một chủ sở hữu là Nhà nước sang nhiều chủ sở hữu. Trước khi cổ phần hóa, toàn bộ tài sản của doanh nghiệp Nhà nước thuộc một chủ sở hữu là Nhà nước và doanh nghiệp chỉ là người quản lý và sử dụng tài sản Nhà nước để sản xuất kinh doanh thực hiện các nhiệm vụ kinh tế xã hội do Nhà nước giao. Khi cổ phần hóa, các cổ đông sẽ trở thành chủ sở hữu một phần doanh nghiệp theo tỷ lệ vốn góp của mình, tức là doanh nghiệp sẽ trở thành đa sở hữu. Các thành phần sở hữu của doanh nghiệp khi đó có thể là thành phần kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản Nhà nước. Thứ ba, cổ phần hóa là biện pháp duy trì và nâng cao vai trò chủ đạo của doanh nghiệp Nhà nước. Chúng ta chủ trương cổ phần hóa nhưng không phải tất cả các doanh nghiệp Nhà nước đều cổ phần hóa mà Nhà nước chủ trương giữ lại một số doanh nghiệp, là các doanh nghiệp hoạt động công ích, các doanh nghiệp mà Nhà nước độc quyền kinh doanh. Cùng với một số biện pháp đổi mới sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước khác (giao bán khoán, cho thuê...), cổ phần hóa là một biện pháp để giảm bớt, loại bỏ dần các doanh nghiệp làm ăn yếu kém, không có hiệu quả. Giảm bớt không có nghĩa là làm giảm vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế Nhà nước mà ngược lại bởi vì khi đó quy mô của các doanh nghiệp Nhà nước còn lại (tập trung vào các doanh nghiệp công ích, các tổng công ty và các doanh nghiệp độc lập có ý nghĩa quan trọng) sẽ tăng lên, hiệu quả sản xuất kinh doanh được nâng lên làm cho kinh tế Nhà nước thực sự giữ được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Có một vấn đề cần làm rõ trong quá trình cổ phần hóa là cổ phần hóa có đồng nhất với tư nhân hóa hay không? Theo quan điểm cá nhân thì cổ phần hóa và tư nhân hóa không phải là một, bởi vì về thực chất, cổ phần hóa và tư nhân hóa có sự khác biệt: cổ phần hóa là chuyển doanh nghiệp từ sở hữu Nhà nước sang sở hữu nhiều thành phần, trong đó có thể vẫn tồn tại thành phần kinh tế Nhà nước với tư cách là đồng sở hữu; còn tư nhân hóa là chuyển toàn bộ quyền sở hữu cho khu vực tư nhân nắm giữ. Điểm mấu chốt để phân định giữa cổ phần hóa và tư nhân hóa chính là mức độ cổ phần hóa một doanh nghiệp Nhà nước: - Thứ nhất, nếu khi cổ phần hóa, Nhà nước vẫn nắm giữ một số cổ phần nhất định thì cổ phần hóa hoàn toàn không phải là tư nhân hóa. - Thứ hai, nếu Nhà nước bán toàn bộ cổ phần cho các cá nhân trong và ngoài doanh nghiệp, tức là quyền sở hữu tài sản doanh nghiệp đã chuyển từ Nhà nước sang cá nhân hoặc các chủ thể kinh tế khác thì cổ phần hóa là tư nhân hóa. Như vậy có thể thấy: cổ phần hóa hẹp hơn tư nhân hóa và cổ phần hóa chắc chắn không thể đồng nhất với tư nhân hóa. 1.2. Sự cần thiết phải thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam. Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta là một tất yếu khách quan xuất phát từ các nguyên nhân sau: 1.2.1. Vai trò và thực trạng của khu vực kinh tế Nhà nước. Trên thế giới, không có nước nào xóa bỏ hoàn toàn khu vực kinh tế Nhà nước và vai trò của khu vực này được xác định và thay đổi tùy theo thể chế chính trị, trình độ phát triển và mục tiêu của nền kinh tế quốc dân trong từng thời kỳ nhất định. ở nước ta, thành phần kinh tế Nhà nước mà đại diện là các doanh nghiệp Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, vô cùng quan trọng, được coi như mạch máu của nền kinh tế, có tác dụng định hướng, mở đường, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác phát triển. Mặc dù vai trò của thành phần kinh tế Nhà nước là rất quan trọng nhưng trong một thời gian dài, hệ thống các doanh nghiệp Nhà nước hoạt động chưa thực sự tương ứng với vai trò của mình. Trong khu vực kinh tế Nhà nước vẫn tồn tai 3 mâu thuẫn lớn, rất gay gắt cần phải giải quyết để đưa các doanh nghiệp Nhà nước về đúng vị trí xứng đáng của mình. Một là, mâu thuẫn giữa việc phải mở rộng hơn nữa quyền tự chủ sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp với việc vẫn chưa xác định được "ông chủ" đích thực, cụ thể của doanh nghiệp Nhà nước là ai. Tính chất "vô chủ" này đã dẫn đến những tác hại nghiêm trọng như: - Quyền hạn không tương xứng với trách nhiệm và thiếu rõ ràng. Giám đóc có quyền hạn rất lớn nhưng không quy định cụ thể trách nhiệm của người đứnh đầu doanh nghiệp như thế nào (đặc biệt là trách nhiệm vật chất) khi doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, bị phá sản hoặc tài sản Nhà nước bị thất thoát. - Quyền sở hữu và hành chính với quyền sử dụng và kinh doanh của doanh nghiệp không được tách bạch rõ ràng. điều này dẫn đến tình trạng giám đốc vừa là người đại diện duy nhất của một pháp nhân trong sản xuất kinh doanh, lại vừa là "thủ trưởng" của một đơn vị hành chính, nên không thể có điều kiện để chuyên lo nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, mag thường phải nghĩ để đối phó, "ăn ở" như thế nào cho vừa lòng cấp trên để tồn tại. Còn nhiều cấp trên doanh nghiệp thì luôn luôn có quyền can thiệp, chỉ bảo doanh nghiệp song lại không có trách nhiệm gì đối với doanh nghiệp. - Nhiều doanh nghiệp lưọi dụng tình trạng "vô chủ" và quyền hạn và trách nhiệm không rõ ràng đó để đục khoét của Nhà nước, thu lợi cá nhân. Hai là, mâu thuẫn giữa việc Nhà nước đang thiếu vốn trầm trọng với việc các doanh nghiệp Nhà nước chỉ trông chờ vào vốn cấp phát từ ngân sách Nhà nước, trong khi đó, vốn trong khu vực kinh tế Nhà nước thì ứ đọng rất lớn, sử dụng vô cùng lãng phí, hiệu quả thấp, thất thoát nghiêm trọng. Theo số liệu thống kê của Bộ tài chính, tổng số vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp Nhà nước là 70.184 tỷ đồng, bình quân một doanh nghiệp là 11,6 tỷ đồng, chỉ tương với vốn của một doanh nghiệp loại nhỏ của các nước trong khu vực như Thái Lan, Indonexia, Malayxia. Đến nay vẫn còn 46,1% số doanh nghiệp Nhà nước có số lao động dưới 100 người, 50% số doanh nghiệp có mức vốn dưới 1 tỷ đồng, trong đó gần một nửa có vốn dưới 500 triệu đồng. Vốn thực tế hoạt động của doanh nghiệp Nhà nước chỉ bằng 80% vốn hiện có do kinh doanh thua lỗ, công nợ khó đòi, tài sản mất mát kém phẩm chất, hàng hóa sản xuất ra không tiêu thụ được...Riêng vốn lưu động có 14.239 tỷ đồng và chỉ có 50% là được huy đô.ng vào sản xuất kinh doanh, 50% còn lại thì ứ đọng, không thể giải ngân. Như vậy có thể thấy rằng trong khu vực kinh tế Nhà nước xảy ra tình trạng vừa thiếu vốn vừa thừa vốn, đó là một nghịch lý cần được giải quyết kịp thời, càng sớm càng tốt. Ba là, mâu thuẫn giữa vai trò chủ đạo và đóng góp lớn cho ngân sách Nhà nước với việc làm ăn kém hiệu quả, thua lỗ, chứa đựng nhiều vấn đề tiêu cực. Hiện nay, các doanh nghiệp Nhà nước nắm giữ phần lớn tài sản quốc gia, mặt khác, ngân sách Nhà nước và nền tài chính quốc gia vẫn dựa vào nguồn thu từ kinh tế Nhà nước là chính. Trong khi đó, hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước lại không cao. Cụ thể, ở thời điểm 1/6/1995 chỉ có 47,6% hoạt động có lãi ở mức dưới 8%, khoảng 30% các doanh nghiệp lãi trên 8%, số doanh nghiệp thua lỗ chiếm 11%, bình quân mỗi doanh nghiệp lỗ 0,6 tỷ đồng mỗi năm, 12% doanh nghiệp hoạt động cầm chừng, không lỗ cũng không lãi. Từ thực trạng đó, có thể rút ra 2 kết luận quan trọng: - Thứ nhất, nếu tiếp tục duy trì thành phần kinh tế Nhà nước như hiện tại thì sẽ có lúc ngân sách Nhà nước, nền tài chính quốc gia sẽ sụp đổ và chế độ chính trị cũng khó đứng vững (thực tế ở Liên Xô và Đông Âu đã chứng minh điều đó). - Thứ hai, nếu nóng vội, chủ quan xóa bỏ toàn bộ thành phần kinh tế này, tức là xóa bỏ hoàn toàn các doanh nghiệp Nhà nước thì cũng sẽ đem lại những hậu quả tương tự như trên. Tóm lại, cả hai cách xử lý như trên đều không khả thi mà chỉ có câu trả lời duy nhất là tiến hành cải cách khu vực kinh tế Nhà nước vốn đang còn nhiều tồn tại để nó trở nên vững mạnh, xứng đáng với vị thế và vai trò đáng có của nó. Một trong những biện pháp cải tạo này là thực hiện cổ phần hóa một số doanh nghiệp Nhà nước. 1.2.2. Tác dụng của cổ phần hóa. Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước. Khi xác định chủ trương cổ phần hóa, Đảng và Nhà nước đã định ra các mục tiêu cần phải đạt được. Nghị định 44-CP ngày 29/6/1998 về chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần đã ghi rõ: Chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần nhằm các mục tiêu sau: 1. Huy động vốn của toàn xã hội, bao gồm cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội trong nước và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ, tạo thêm việc làm, phát triển doanh nghiệp, nâng cao sức cạnh tranh, thay đổi cơ cấu doanh nghiệp Nhà nước. 2. Tạo điều kiện để người lao động trong doanh nghiệp có cổ phần và những người đã góp vốn được làm chủ thực sự, thay đổi phương thức quản lý tạo động lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, tăng tài sản Nhà nước, nâng cao thu nhập của người lao động, góp phần tăng trưởng kinh tế đất nước. Các mục tiêu được đặt ra mang tính khả thi cao do cổ phần hóa có tác dụng rất lớn: - Cổ phần hóa tạo ra sự đan xen quyền sở hữu của Nhà nước, của người lao động trong doanh nghiệp và các tổ chức, cá nhân ngoài doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. - Giúp thực hiện dân chủ hóa và xã hội hóa trong hoạt động kinh tế, thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần - một nội dung quan trọng của đường lối đổi mới. - Cho phép duy trì các quan hệ kinh tế đã có, đồng thời cho phép thu hút thêm các nguồn vốn trong và ngoài nước với các hình thức đầu tư khác nhau (đầu tư trực tiếp, đầu tư gián tiếp), thông qua các "kênh" khác nhau. - Cổ phần hóa sẽ chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần nên nâng cao khả năng huy động vốn đầu tư phát triển doanh nghiệp; xác lập và nâng cao quyền làm chủ thực sự của doanh nghiệp và người lao động; góp phần chống tiêu cực, lãng phí, thiếu trách nhiệm trong hoạt động của doanh nghiệp; tạo điều kiện để Nhà nước tập trung nguồn lực vào các lĩnh vực chủ yếu, xây dựng các doanh nghiệp Nhà nước chủ lực đủ sức chủ đạo, điều khiển nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Với những tác dụng rất to lớn như vậy, cổ phần hóa đã trở thành một giải pháp cơ bản của quá trình cải cách doanh nghiệp Nhà nước và là một tất yếu khách quan. 2. Khái niệm giá trị doanh nghiệp và xác định giá trị doanh nghiệp trong quá trình cổ phần hóa. 2.1. Giá trị doanh nghiệp. Theo C.Mác, hàng hóa có giá trị và giá trị sử dụng. Doanh nghiệp cũng có giá trị và giá trị sử dụng, vì doanh nghiệp trong bất kỳ nền kinh tế nào, thuộc bất kỳ thành phần kinh tế nào khi đem bán dưới hình thức nào cũng được xem như hàng hóa. Nhưng doanh nghiệp có một đặc điểm cơ bản: đây là hàng hóa đơn chiếc, cá biệt, không một doanh nghiệp nào giống một doanh nghiệp nào, vì thế giá trị của nó cũng là giá trị cá biệt của một hàng hóa cá biệt. Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế, là một cơ cấu phức tạp của nhiều yếu tố có liên hệ mật thiết với nhau. Hoạt động của một doanh nghiệp phụ thuộc vào nhiều mối liên hệ bên trong và bên ngoài doanh nghiệp. Tất cả những cái đó trong một thể thống nhất tạo nên giá trị doanh nghiệp. Để có thể đưa ra khái niệm giá trị doanh nghiệp một cách chính xác, khi nghiên cứu cần chú ý tới các đặc điểm của doanh nghiệp và phải trên cơ sở một phương pháp luận đúng đắn, được xác lập trên các căn cứ căn cứ khoa học và thực tiễn.. Nghị định 44/1998/CP-NĐ ngày 29/6/1998 về chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần có quy định: Giá trị thực tế của doanh nghiệp là giá toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp tại thời điểm cổ phần hóa mà người mua và người bán cổ phần đều chấp nhận được. Tuy nhiên, để có thể hiểu khái niệm này cần phải tiếp cận giá trị doanh nghiệp dưới những góc độ cụ thể. 2.1.1. Giá trị thanh lý. Tài sản là một trong những yếu tố cấu thành doanh nghiệp. Khi xem xét như một tập hợp các tài sản thì giá trị thành lý của doanh nghiệp sẽ được ước lượng bằng số tiền thu được từ việc bán tài sản-các khoản nợ. Đối với một doanh nghiệp đang hoạt động, giá trị thanh lý thường nhỏ hơn giá trị thực của doanh nghiệp, bởi vì giá trị doanh nghiệp còn phụ thuộc yếu tố tổ chức của doanh nghiệp. Nói cách khác, tổng giá trị của tài sản riêng sẽ thường nhỏ hơn giá trị của tất cả các tài sản được kết hợp theo một cách tổ chức hiệu quả. Giá thanh lý thường có vai trò quan trọng trong mặc cả giá - nó đai diện cho giá khởi điểm – mức giá tối thiểu mà người bán sẵn sàng chấp nhận bán tài sản được đấu giá. Vì vậy, chủ doanh nghiệp sẽ không bán doanh nghiệp của mình với giá thấp hơn giá trị thanh lý. 2.2.2. Giá trị kiểm kê. Hoạt động kiểm kê của doanh nghiệp gồm có việc nêu đích danh, đếm số và đánh giá toàn bộ các tài sản của doanh nghiệp, một mặt để xác định các giá trị kế toán là đúng, mặt khác để đánh giá lại giá trị tài sản thực tế. Giá trị kiểm kê được gọi là giá trị tài sản có ròng đã được đánh giá lại. Tuy nhiên, chỉ tiêu này có một số nhược điểm: - Một là, các tính toán đều dựa trên giá ban đầu của tài sản được thực hiện trên sổ sách kế toán của doanh nghiệp. Mặc dù có sự điều chỉnh các giá trị sổ sách theo giá thị trường nhưng cá giá trị mới này vẫn mang tính chủ quan cao. - Hai là, phương pháp tính khấu hao. Vì có nhiều cách phân bổ chi phí khấu hao được sử dụng nên có thể có tình trạng hai doanh nghiệp cùng hoạt động tai cùng một thời điểm với những tài sản giống hệt nhau nhưng giá trị ròng của hai doanh nghiệp lại khác nhau. - Ba là, giá trị kiểm kê không đề cập đến giá trị thực của doanh nghiệp, một giá trị được đánh giá dựa trên giá trị sử dụng của nó. Vì vậy cũng chỉ nên lấy giá trị kiểm kê để làm cơ sở cho giá trị thực tế cũng như giá bán của doanh nghiệp. 2.2.3. Giá trị tài chính. Giá trị kiểm kê của doanh nghiệp chỉ tương ứng với giá trị doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định. Nó không tính đến điều kiện đã hình thành nên tài sản của doanh nghiệp qua quá trình hoạt động và vì vậy cũng không tính đến khả năng sinh lời hoặc các rủi ro có thể gặp trong tương lai. Người mua chỉ tiến hành mua doanh nghiệp với hy vọng kiếm được lợi nhuận và lợi nhuận siêu ngạch khi bán lại doanh nghiệp. Giá trị tài chính bắt nguồn từ đó. Nó thường xuyên dựa vào các tài liệu tham khảo, đặc biệt là của các quản lý chứng khoán, dựa trên sự định giá của thị trường chứng khoán. Giá trị thường bắt nguồn từ bên ngoài doanh nghiệp và các chuyển dịch trên chứng khoán được thực hiện mà không có ý đồ làm thay đổi việc quản lý cũng như kiểm soát doanh nghiệp. 2.2.4. Giá trị kinh tế. Trong một số trường hợp, khi yêu cầu định giá doanh nghiệp là bắt buộc thì giá trị tài chính bộc lộ những hạn chế vì thể hiện sự dánh giá không toàn diện về giá trị doanh nghiệp. Vì vậy một quan niệm khác về giá trị đã được thay vào: giá trị kinh tế. Giá trị kinh tế hay giá trị thực của doanh nghiệp được xác định bởi quy mô và mức độ chắc chắn của luồng thu nhập hàng năm trong tương lai do sự kết hợp các tài sản của doanh nghiệp trong một cơ cấu tổ chức mang lại. Giá trị kinh tế giả thiết một cuộc chẩn đoán tổng thể của doanh nghiệp, diễn ra bằng các yếu tố thặng dư hoặc thiếu hụt của tài sản bằng việc lượng định các yếu tố rủi ro hoặc thành công mà doanh nghiệp có thể gặp phải trong một tương lai xác định. Theo nghĩa này, doanh nghiệp được tiếp cận như một dự án, ở đó giá trị doanh nghiệp tương ứng với mức vốn đầu tư ban đầu có thể chấp nhận khi dự đoán được luồng thu nhập trong tương lai của dự án cùng với mức độ chắc chắn của luồng thu nhập đó. Giá trị kinh tế cũng phản ánh một cái nhìn toàn diện về các nghiệp vụ và cấu trúc của doanh nghiệp, tức là xem xét giá trị doanh nghiệp dưới cả góc độ của người bán và người mua. 2.2. Xác định giá trị doanh nghiệp. ở nước ta trước đây xác định giá trị doanh nghiệp chưa được quan tâm đúng với vai trò của nó, vấn đề này chỉ mới được thực sự đề cập đến từ khi Nhà nước có chủ trương cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước. Tại các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, giá trị doanh nghiệp là mối quan tâm hàng đầu của các nhà quản lý doanh nghiệp, các nhà đầu tư. trong hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động tài chính, mọi chiến lược, mọi quyết định khi đưa ra đều hết sức chú ý đến giá trị doanh nghiệp và vấn đề tăng giá trị doanh nghiệp. Chính vì vậy xác định giá trị doanh nghiệp trở thành vấn đề thường nhật của nền kinh tế. Giá trị xác định được là cơ sở để đánh giá chất lượng quản lý, để thương lượng trong mua-bán, sáp nhập doanh nghiệp... Thực chất của xác định giá trị doanh nghiệp chính là các hoạt động đi tìm giá trị kinh tế hay giá trị thực của doanh nghiệp. Giá trị doanh nghiệp của bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng là tổng hợp của 3 yếu tố: tài sản, tổ chức và lợi nhuận. Trong đó tài sản và lợi nhuận có thể lượng hóa thông qua các phương pháp kỹ thuật, dự báo trong khi yếu tố tổ chức là yếu tố rất khó có thể lượng hóa chính xác. Ngay cả khi lượng hóa được thì cũng không thể xác định giá trị doanh nghiệp bằng cách cộng đại số đối với 3 đại lượng này. Vì vậy, có thể thấy định giá là một công việc rất khó khăn vì phải tính đến nhiều yếu tố tác động lên doanh nghiệp, đồng thời phải đặt chúng trong mối quan hệ lẫn nhau. Có rất nhiều khái niệm về xác định giá trị doanh nghiệp do các tác giả đứng trên những góc độ khác nhau để xem xét: Nếu hiểu theo nghĩa hẹp thì: “Xác định giá trị doanh nghiệp là việc xác định tổng giá trị thực tế tài sản (hữu hình và vô hình) thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp”. Theo giáo sư W.Seabrooke và N.Walker, Viện đại học Portsmouth, Vương quốc Anh thì : “Định giá là một sự ước tính về giá trị của các quyền sở hữu tài sản cụ thể bằng hình thái tiền tệ cho một mục đích xác định rõ”. Một khái niệm khác cũng được nhiều người thừa nhận của giáo sư Lim Lam Yuan, Đại học quốc gia Singapore: “Định giá là một nghệ thuật hay khoa học về ước tính giá trị cho một mục đich cụ thể của một tài sản cụ thể tại một thời điểm của tài sản và cũng xem xét các yếu tố kinh tế cơ bản của thị trường, bao gồm các loại đầu tư lựa chọn”. Trong kinh tế học, giá trị được hiểu theo nhiều cách khác nhau. C.Mác định nghĩa giá trị là sự kết tinh của lao động xã hội cần thiết trong hàng hóa; một số nhà kinh tế học phương tây lại định nghĩa giá trị dưới góc độ chủ quan, dựa trên giá trị sử dụng, mức độ khan hiếm, ích lợi của hàng hóa. Hiện nay, ở các nước phát triển cho rằng: giá trị gắn liền với lợi ích thực sự của tài sản. Từ đó, nếu hiểu theo nghĩa rộng thì: Xác định giá trị doanh nghiệp là đánh giá lợi ích thực sự của doanh nghiệp trên cơ sở hiểu biết sâu sắc về nó trong một môi trường xác định. 3. Cơ sở khách quan của việc xác định giá trị doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hóa trong nền kinh tế thị trường. 3.1. Cơ sở khách quan của việc xác định giá trị doanh nghiệp và các yếu tố cấu thành giá trị doanh nghiệp. 3.1.1. Cơ sở khách quan của việc xác định giá trị doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp được đem trao đổi, mua bán dưới bất kỳ hình thức nào thì giá trị của nó được biểu hiện bằng tiền là giá cả. Để xác định giá cả trao đổi trên thị trường thì không thể duy ý chí bằng cách thêm bớt, ước lượng giá trị doanh nghiệp mà cần phải tính toán một cách chính xác trên cơ sở các quy luật khách quan của kinh tế thị trường. Tức là phải xuất phát từ quy luật sản xuất lưu thông hàng hóa (quy luật giá trị và quy luật cung cầu), quy luật cạnh tranh, quy luật lưu thông tiền tệ, đặc biệt là quy luật lợi nhuận của nền kinh tế nhiều thành phần. Phải nghiên cứu sự vận động, tác dụng của các quy luật này. Trên cơ sở đó, mới có các căn cứ để xác định giá trị. Theo quy luật giá trị thì giá trị của hàng hóa là do lao động xã hội cần thiết kết tinh trong đó quyết định. Vì thế, người ta thường khái quát rất đơn giản và khá chính xác là “theo chất định giá”. Nhưng theo quy luật cung cầu hàng hóa và dịch vụ thì khi cung cầu không cân bằng, không thể "theo chất định giá". Trái lại, một hàng hóa giá trị xã hội cao nhưng không mấy ai cần thì giá cả trao đổi phải thấp mới bán được. Ngược lại, một số hàng hóa khác, giá trị xã hội thấp nhưng cung không đủ cầu thì giá cả lên cao, người ta vẫn mua. điều kiện ở đay là tiền tệ ổn định. nhưng nếu tiền tệ lưu thông rối loạn, phá vỡ quan hệ cung cầu thì lại khác, không một hàng hóa nào mà giá cả thể hiện đúng giá trị của nó. Thiếu sức mua trên thị trường, tức thiếu tiền để lưu thông. Thiếu tiền thì giá cả phải hạ xuống cho phù hợp và ngược lại sức mua lớn, có nhiều tiền được đưa vào lưu thông. Khi cung giảm thì giá tăng. Chỉ chừng đó cũng thấy rõ các quy luật phát huy tác dụng trong kinh tế thị trường có lúc vân động phù hợp với nhau dù rất hiếm, nhưng lại luôn tồn tại các mặt đối lập của chúng với nhau. Tuy vậy, các quy luật này không loại bỏ, triệt tiêu nhau mà ngược lại chúng đều tồn tại trong điều kiện hoạt động của nền kinh tế thị trường, nói các khác chúng là những mặt đối lập trong một nền kinh tế thị trường thống nhất. Theo quy luật cạnh tranh, thì doanh nghiệp nào có thế lợi, có thực lực về công nghệ, về vốn, về đội ngũ lao động lành nghề, về thị trường tiêu thụ, uy tín với khách hàng sẽ đánh bại được các đối thủ cạnh tranh yếu hơn và khi đem bán sẽ dễ dàng bán được với giá cao. Trong nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường thì quy luật lợi nhuận luôn được các nhà đầu tư quan tâm. Theo quy luật này thì môi trường nào, lĩnh vực nào mang lại lợi nhuận cao thì sẽ được quan tâm đầu tư vốn và ngược lại môi trường, lĩnh vực đầu tư nào kém, không mang lại lợi nhuận hay lợi nhuận thấp thì sẽ không thu hút được các nhà đầ tư, thậm chí không được quan tâm đến. Trình bày các vấn đề này để thấy rằng, trong nền kinh tế thị trường thì quy luật lợi nhuận chi phối các hoạt động kinh tế và có tác dụng định hướng cho các quy luật kinh tế khác hoạt động. Việc xác lập một phương pháp luận cho việc xác định giá trị doanh nghiệp không thể không quan tâm đến các quy luật khách quan đó và phải lấy đó làm cơ sở cho việc xác định giá trị doanh nghiệp. 3.1.2. Các yếu tố cấu thành giá trị doanh nghiệp. Giá trị doanh nghiệp là một tổng hợp của các yếu tố cấu thành nên nó. Các yếu tố này gồm rất nhiều thành phần nhưng có thể phân loại các yếu tố cấu thành giá trị doanh nghiệp như sau: a) Giá trị tài sản hiện có, bao gồm tài sản cố định và tài sản lưu động. - Tài sản cố định trong các doanh nghiệp là các tư liệu lao động có giá trị lớn, được sử dụng lâu dài tại doanh nghiệp, tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh. Tài sản cố định gồm có tài sản cố định hữu hình và tài sản cố định vô hình. + Tài sản cố định hữu hình là những tài sản cố định có hình thái vật chất như văn phòng, nhà kho, phương tiện vận tải... + Tài sản cố định vô hình là những tài sản cố định không có hình thái vật chất, thể hiện một lượng giá trị đã được đầu tư có liên quan trực tiếp đến nhiều chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp như: quyền sử dụng đất, quyền sở hữu công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa... Tuy nhiên, tham gia cấu thành nên giá trị doanh nghiệp để cổ phần hóa chỉ gồm các loại tài sản cố định mà doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng và được định giá trên cơ sở giá trị ban đầu trừ khấu hao và điều chỉnh theo giá hiện hành. - Tài sản lưu động bao gồm vốn bằng tiền, vật tư hàng hóa, các khoản phải thu, giá trị tài sản lưu động khác (các khỏan thế chấp, ký quỹ, ký cược ngắn hạn)... Tài sản lưu động tham gia cấu thành nên giá trị doanh nghiệp cũng chỉ gồm các tài sản mà doanh nghiệp đang dùng mà không tính đến các loại tài sản lưu động mà doanh nghiệp không cần dùng. b) Giá đất nơi doanh nghiệp đang sử dụng vào sản xuất kinh doanh và đất được giao quyền sử dụng nhưng chưa dùng vào sản xuất kinh doanh. Theo quy định hiện hành thì giá trị đất không được tính vào giá trị doanh nghiệp mà Nhà nước chỉ tính giá cho thuê đất đối với các doanh nghiệp, tức là hàng năm các doanh nghiệp phải nộp tiền thuê đất cho Nhà nước. Giá thuê đất được Nhà nước quy định căn cứ vào vị trí, diện tích đất được giao, bao gồm cả phần đất dùng vào sản xuất kinh doanh và phần được giao nhưng chưa sử dụng vào kinh doanh. c) Giá trị lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp. Phần giá trị này là giá trị tăng thêm do các yếu tố lợi thế tạo ra như: vị trí địa lý, uy tín mặt hàng. Lợi thế này thể hiện ở tỷ suất lợi nhuận thực hiện tính trên vốn kinh doanh bình quân 3 năm trước khi tiến hành cổ phần hóa và chỉ tính tối đa 30% vào giá trị thực tế của doanh nghiệp. Tổng hợp các yếu tố trên sẽ hình thành nên giá trị doanh nghiệp để từ đó hình thành nên giá bán doanh nghiệp trong cổ phần hóa. 3.2. Mục đích, yêu cầu của việc xác định giá trị doanh nghiệp. ở nước ta, trong thời gian trước đây các doanh nghiệp Nhà nước hoạt động trong cơ chế cũ, vấn đề xác định giá trị doanh nghiệp chưa được quan tâm. Chỉ đến khi Đảng và Nhà nước có chủ trương cổ phần hoá thì vấn đề xác định giá trị doanh nghiệp mới được thực sự quan tâm. Nếu căn cứ vào chu kỳ sống của doanh nghiệp thì xác định giá trị doanh nghiệp nhằm các mục đích sau: - Khi doanh nghiệp mới thành lập: xác định giá trị doanh nghiệp giúp xác định giá trị của cổ phiếu bán ra (đối với các doanh nghiệp được phép phát hành cổ phiếu), giúp các định phần vốn của nhà đầu tư làm cơ sở cho việc đánh giá hoạt động đầu tư sau này. - Khi doanh nghiệp đang hoạt động mà ._.xuất hiện các hoạt động làm thay đổi sở hữu doanh nghiệp như chuyển nhượng, mua bán, sáp nhập thôn tính doanh nghiệp thì cần xác định giá trị doanh nghiệp để làm cơ sở cho sự thoả thuận mua-bán giữa các bên tham gia. - Khi kết thúc vòng đời của doanh nghiệp: nếu doanh nghiệp được thanh lý thì xác định giá trị doanh nghiệp giúp đưa ra mức giá rao bán, giá khởi điểm để đấu thầu; nếu doanh nghiệp giải thể hoặc phá sản xác định giá trị doanh nghiệp đẻ giải quyết quyền lợi về tài sản cho các chủ sở hữu (cổ đông). Nếu lấy mục đích của doanh nghiệp làm vị trí trung tâm để xem xét thì việc xác định gíá trị doanh nghiệp nhằm một trong các mục đích sau: - Mục đích chuyển nhượng quyền sở hữu: + Nhằm hỗ trợ người mua đặt giá chào hàng. + Hỗ trợ người bán quyết định giá bán chấp nhận được. + Thiết lập cơ sở cho sự trao đổi hàng hóa thực sự. + Thiết lập cơ sở cho sự công nhận hoặc hợp nhất quyền sở hữu của nhiều doanh nghiệp. + Xác định giá bán cho mỗi doanh vụ dự tính. - Mục đích tài chính và tín dụng: + Để ước tính giá trị doanh nghiệp trong trường hợp sử dụng doanh nghiệp làm vật đảm bảo thế chấp đã được đưa vào một đề nghị vay. + Cung cấp cho nhà đầu tư cơ sở pháp lý quyết định mua thế chấp doanh nghiệp. + Đặt ra các điều khoản cho thuê. + Phục vụ nhu cầu của người bảo hiểm. - Các mục đích của quản lý Nhà nước. + Giúp đánh giá chất lượng thực hiện các quy định của Nhà nước về tài chính kế toán. + Để ước tính các giá trị định mức thuế. + Giúp đưa ra các kế hoạch, chính sách, chiến lược mới. Xác định giá trị doanh nghiệp cho dù nhằm mục đích gì chăng nữa cũng phải đảm bảo yêu cầu: giá trị doanh nghiệp xác định phải đảm bảo chính xác với giá trị thực tế của doanh nghiệp (trong đó có xem xét tới các yếu tố thị trường và các mối quan hệ khác của doanh nghiệp), có như vậy mới đảm bảo cả người bán và người mua cùng chấp nhận được. Trong khuôn khổ luận văn này, chỉ xin đề cập đến vấn đề xác định giá trị doanh nghiệp trong cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước. Trong cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam, xác định giá trị doanh nghiệp là một quá trình, trong đó gồm rất nhiều công đoạn có liên quan mật thiết với nhau. Để cho giá trị doanh nghiệp xác định được chính xác thì mỗi công đoạn phải đảm bảo những yêu cầu riêng, đồng thời đảm bảo các bước thực hiện nhịp nhàng, hợp lý. + Kiểm kê tài sản trên sổ kế toán: phải phản ánh đầy đủ các tài sản có, đang dùng của doanh nghiệp trên sổ tại thời điểm định giá. + Kiểm kê tài sản thực tế: xác định tổng số tài sản cố định, tài sản lưu động trong thực tế, các tài sản chưa thể hiện trong sổ kế toán. + Tổ chức kiểm kê, đánh giá giá trị tài sản thực tế: hội đồng xác định phải đảm bảo đầy đủ các thành viên theo quy định của pháp luật, thực hiện đánh giá % còn lại chính xác, theo giá thị trường. + Thẩm định giá trị doanh nghiệp: các cơ quan có trách nhiệm phải nhanh chóng đưa ra các kết luận về giá trị của doanh nghiệp để không làm chậm quá trình cổ phần hóa. 3.3. Nguyên tắc xác định giá trị doanh nghiệp trong cổ phần hóa. Để giá trị doanh nghiệp xác định đảm bảo được các yêu cầu cũng như mục đích thực hiện thì khi xác định giá trị doanh nghiệp, chủ thể xác định phải thực hiện theo các nguyên tắc nhất định. Theo quy định tại Nghị định 44-CP, các nguyên tắc xác định giá trị doanh nghiệp gồm có: - Giá trị thực tế của doanh nghiệp là giá toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp cổ phần hóa mà người mua, người bán cổ phần đều chấp nhận được. Quy định này được hiểu là: giá trị doanh nghiệp xác định phải chính xác, vừa không làm giảm phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp vừa đảm bảo giá bán doanh nghiệp hấp dẫn người mua là các cổ động tương lai. - Các yếu tố xác định giá trị thực tế doanh nghiệp: + Số liệu trong sổ sách kế toán của doanh nghiệp tại thời điểm cổ phần hóa. + Giá trị thực tế tài sản tại doanh nghiệp xác định trên cơ sở hiện trạng về phẩm chất, tính năng kỹ thuật, nhu cầu sử dụng của người mua tài sản và giá thị trường tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp. + Lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp về vị trí địa lý, uy tín mặt hàng thể hiện ở tỷ suất lợi nhuận thực hiện tính trên vốn kinh doanh bình quân 3 năm trước khi cổ phần hóa. Giá trị lợi thế này chỉ tính tối đa 30% vào giá trị thực tế doanh nghiệp. Ngoài ra, để tiến kiệm chi phí cổ phần hóa, doanh nghiệp không nhất thiết phải thuê kiểm toán độc lập. 4. Mối quan hệ giữa giá trị xác định và giá bán doanh nghiệp. Sau khi xác định được giá trị doanh nghiệp thì giá trị này là cơ sở quan trọng cho việc định giá bán doanh nghiệp, bởi vì giá trị xác định chưa thể dùng để làn giá bán ngay. Bởi vì, khi doanh nghiệp được mua bán dù dưới hình thức nào cũng phụ thuộc vào các quy luật của thị trường như quy luật cạnh tranh, quy luật lưu thông tiền tệ và đặc biệt là quy luật lợi nhuận-một quy luật chi phối hầu hết các hoạt động trong cơ chế thị trường. Chính vì vậy, giá trị doanh nghiệp xác định được, về mặt nào đó có thể coi như giá thành sản phẩm và giá bán doanh nghiệp sẽ xoay quanh giá thành này. Khi một nước có thị trường chứng khoán phát triển với đầy đủ các chức năng của nó, các doanh nghiệp tham gia trên thị trường nhiều, “hàng hóa” được trao đổi nhiều thì giá trị và giá bán doanh nghiệp được xác định một cách rất chính xác trên thị trường. Tuy nhiên ở nước ta, thị trường chứng khóan mới ở vào giai đoạn sơ khai nên việc xác định giá trị và giá cả gặp nhiều khó khăn, giá bán đôi khi mang tính áp đặt, chưa thực sự khuyến khích được người mua. Tuy nhiên giá trị và giá bán doanh nghiệp cho dù xác định trên thị trường chứng khoán hay không cũng có mối quan hệ mật thiết và với lợi ích của các bên tham gia mua bán. - Giá bán thấp hơn giá trị xác định. Có thể lý giải trường hợp này là doanh nghiệp mặc dù có giá trị hữu hình lớn song lại lám ăn thua lỗ nên khó có thể bán cao hơn hoặc doanh nghiệp khuyến khích các nhà đầu tư bằng cách bán với giá rẻ. - Giá bán bằng giá trị xác định. Đây là một điều lý tưởng cho cả phía người mua lẫn doanh nghiệp vì người mua được mua "hàng" đúng giá, trong khi đối với doanh nghiệp, nó thể hiện mức độ đáp ứng của doanh nghiệp về nhiều mặt trên thị trường và được người mua chấp nhận. Tuy nhiên đây là trường hợp rất hiếm khi xảy ra, nhất là ở Việt Nam. - Giá bán cao hơn giá trị xác định. Có nghĩa là doanh nghiệp có khả năng sinh lời cao, triển vọng tương lai tốt, do vậy doanh nghiệp sẽ là nơi đầu tư có thể đem lại hiệu quả cao, do đó, các nhà đầu tư cạnh tranh nhau mua nên lại càng đẩy giá bán lên cao hơn giá trị thực tế của nó. Từ việc phân tích mối quan hệ giữa giá trị xác định và giá bán doanh nghiệp có thể thấy ngoài yêu cầu xác định chính xác giá bán của doanh nghiệp thì một nhu cầu cấp thiết khác đối với chúng ta hiện nay là phải nhanh chóng xây dựng được một thị trường chứng khoán đủ mạnh để giá bán doanh nghiệp thực sự phản ánh được các quy luật khách quan của kinh tế thị trường. II- Một số phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp. 1. Nguyên tắc của phương pháp định giá. Xác định giá trị doanh nghiệp là một công việc khó khăn, phức tạp, gồm nhiều bước khác nhau. Hơn nữa, giá trị doanh nghiệp được nhìn nhận từ nhiều góc độ khác nhau nên để xác định giá trị doanh nghiệp cuĩng có nhiều phương pháp khác nhau. Tuy nhiên tất cả các phương pháp này đều tuân theo các nguyên tắc thực hiện sau: 1.1. Giá trị doanh nghiệp xác định phải theo giá trị hiện hành của thị trường mới phù hợp với cơ chế và các quy luật của thị trường. Các yếu tố đều phải quy về giá cả hiện hành là giá mà thị trường mua và bán ở thời điểm diễn ra hoạt động mua bán, chuyển dịch sở hữu tài sản. Bất cứ một sự đánh giá không theo quy luật của thực tế khách quan, của yêu cầu thị trường sẽ rơi vào duy ý chí. Tất nhiên khi đó doanh nghiệp sẽ khó bán hoặc thậm chí không bán được. 1.2. Phải tiến hành định giá cho các doanh nghiệp thuộc các ngành nghề khác nhau theo giá hiện hành, không rập khuôn việc xác định từ doanh nghiệp sang doanh nghiệp khác bởi vì không có bất cứ hai doanh nghiệp nào giống nhau mà mỗi doanh nghiệp là một "sản phẩm" đặc thù, đơn chiếc. 1.3. Xác định giá trị doanh nghiệp theo quy luật cung cầu của thị trường và phải chú trọng vận dụng yếu tố chính sách cơ cấu, ngành nghề mà chiến lược kinh tế đặt ra. Có những doanh nghiệp muốn bán nhưng không có cầu thì cần thiết phải giảm giá đến mức đủ tạo ra và kích thích cầu, để thu hút vốn thực hiện nhu cầu của chiến lược. Ngược lại, với những doanh nghiệp cung có ít nhưng cầu lớn có thể điều chỉnh giá lên cao đến mức thích hợp để tạo ra cân bằng giữa cung và cầu. Xác định giá trị theo quy luật cung cầu và theo ngành sẽ phản ánh một cách rõ ràng triển vọng tương lai của cá doanh nghiệp mà các chủ thể đầu tư bỏ vốn đã cso sự cân nhắc về mức sinh lời tương lai khi bỏ vốn vào. Ngoài ra áp dụng giá thị trường theo quan hệ cung-cầu sẽ nhanh chóng đạt được sự thỏa thuận giữa bên bán và bên mua. 2. Phương pháp giá trị nội tại. Phương pháp giá trị nội tại là phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp dựa trên cở sở chính là tài sản và vốn hiện có trong thời gian hiện tại của một doanh nghiệp có điều chỉnh theo giá thị trường. Cơ sở khoa học: tài sản là một yếu tố cấu thành giá trị doanh nghiệp. Vì vậy, giá trị doanh nghiệp là tổng giá trị ròng của các tài sản bộ phận trong doanh nghiệp. Phương pháp tiến hành: để xác định giá trị ròng của tài sản có của doanh nghiệp, không chỉ căn cứ vào sổ sách kế toán mà phải tiến hành điều chỉnh đánh giá lại các tài sản của doanh nghiệp dựa trên sự hiểu biết sâu sắc về nguyên tắc kế toán, về tính chất, công dụng của các tài sản mà doanh nghiệp đang sử dụng, về môi trường mà doanh nghiệp đang hoạt động. Theo phương pháp này, giá trị doanh nghiệp gồm hai phần: - Giá trị tài sản hữu hình: giá trị này do các tài sản đã và đang được theo dõi trên sổ kế toán của doanh nghiệp tạo nên và được tính trực tiếp thông qua đánh giá tài sản này. - Giá trị tài sản vô hình: phần giá trị do các yếu tố không được hạch toán trên sổ sách kế toán của doanh nghiệp như khả năng nghề nghiệp của người lao động, uy tín doanh nghiệp, các mối liên hệ với khách hàng... được tính gián tiếp qua giá trị tài sản ròng của doanh nghiệp. 2.1. Để xác định giá trị tài sản hữu hình có thể sử dụng các cách tính toán sau: a) Dựa vào giá thị trường. Giá thị trường của từng tài sản thuộc sở hữu của doanh nghiệp là giá bán tài sản đó trên thị trường vào thời điểm đánh giá giá trị doanh nghiệp hay nói cách khác, giá thị trường của tài sản thuộc sở hữu doanh nghiệp của doanh nghiệp đơn giản là giá trị hiện tại của nguồn thu nhập mà nó có thể đưa lại cho chủ doanh nghiệp. Công thức tính: Trong đó: : Là tổng giá trị tài sản hữu hình của doanh nghiệp theo giá thị trường tại thời điểm xác định. : Giá trị thị trường của từng loại tài sản cụ thể tại thời điểm bán. n: Số lượng thực tế tài sản của doanh nghiệp. Phương pháp xác định giá trị tài sản hữu hình dựa vào giá thị trường không tính đến tính chất hệ thống quan hệ bổ sung hỗ trợ lẫn nhau giữa các tài sản của doanh nghiệp. Do đó, phương pháp này chỉ có giá trị thực tế lớn khi áp dụng đối với doanh nghiệp giải thể. b) Dựa vào giá trị ban đầu. Giá trị ban đầu tài sản của doanh nghiệp là tổng chi phí bằng tiền để mua sắm, lắp ráp, xây dựng các tài sản đó. Công thức tính: Trong đó: : Tổng giá trị tài sản hữu hình của doanh nghiệp theo giá trị ban đầu. : Giá trị ban đầu của loại tài sản i. : Giá trị hao mòn của loại tài sản i. k: Hệ số lạm phát trung bình. N: Số loại tài sản. n: Thời gian sử dụng tài sản. Cách xác định giá trị tài sản cố định dựa vào giá trị ban đầu thường chịu ảnh hưởng của nhân tố tiến bộ khoa học công nghệ và lạm phát. khi khoa học công nghệ ngày càng phát triển, máy móc mới sản xuât ra khiến cho máy móc cũ chịu cả hao mòn vô hình rất lớn, dẫn đến giá trị xác định không chính xác. Ngoài ra, khi chỉ số giá cả tăng cũng ảnh hưởng đến kết quả tính toán. 2.2. Xác định giá trị tài sản vô hình. a) Xác định dựa trên khả năng sinh lời trong tương lai của doanh nghiệp do phần giá trị này tạo nên. Để xác định giá trị vô hình của doanh nghiệp (), ta giả sử lợi nhuận trong tương lai của doanh nghiệp gồm hai phần: phần thứ nhất () do giá trị hữu hình () mang lại, phần thứ hai () do mang lại. m: Giá trị lợi tức trung bình của thị trường vốn. Từ đó, giá trị vô hình được tính là giá trị vốn hóa phần thứ hai của lợi nhuận theo tỷ suất sinh lời của (m’). Trong đó: : Lợi nhuận ước tính của . m’: tỷ suất sinh lời của . Để đơn giản, ta cho m’=2m thì khi đó giá trị vô hình cua doanh nghiệp là: Và như vậy, giá trị doanh nghiệp sẽ là: b) Cách tính khác. Lập luận cơ bản của cách tính này là: doanh nghiệp đầu tư một tổng thể các tài sản có hữu hình vào hoạt động sản xuất kinh doanh là vì mục tiêu sinh lời. Mặt khác, các tài sản có nếu không đầu tư vào doanh nghiệp này thì cũng sẽ được hưởng một mức lợi nhuận trung bình để chứng minh giá trị kinh tế hay tính hữu ích của nó. Trên cơ sơ đó, phân tích sự khác biệt giữa khả năng thu lợi nhuận của tài sản đó với lợi nhuận trung bình của nó. Nếu chênh lệch dương, không những giá trị tài sản của doanh nghiệp được công nhận mà nó còn làm xuất hiện lợi nhuận siêu ngạch thông qua sự hiện hữu của một tài sản có khác là tài sản vô hình (lợi thế thương mại-GW). Còn nếu chênh lệch âm, thì giá trị của tài sản có không được công nhận, đồng thời xảy ra sự mất giá của tài sản có. Trong trường hợp này gọi là bất lợi thương mại (BW). Các giá trị chênh lệch này được tính theo công thức sau: Trong đó: : tài sản có hữu hình được đưa vào sản xuất kinh doanh năm t. : khả năng thu lợi ròng năm t. r: tỷ suất lợi nhuận bình thường của tài sản. i: tỷ suất hiện tại hóa. N: thời kì vốn hóa của tiền lời. Giá trị tổng thể của doanh nghiệp được tính bằng cách lấy GW hay BW cộng với giá trị tài sản hữu hình V1. 2.3. Nhận xét về phương pháp xác định bằng giá trị nội tại. a) Điều kiện áp dụng. Để áp dụng phương pháp này doanh nghiệp cần có hệ thống sổ sách kế toán chính xác, đầy đủ, trên thị trường có các loại tài sản tương tự để có thể xác định giá trị tài sản của mình theo giá thị trường. Khi xác định theo phwong pháp này cần chú ý: - Tài sản dù cùng mục đích sử dụng nhưng nếu có đặc tính kỹ thuật khác nhau thì giá trị cũng khác nhau, khi đánh giá phải tính đến giá trị sử dụng của tài sản đó. - Việc đánh giá sẽ gặp khó khăn nếu không sử dụng chi phí thay thế tài sản giữa giá trị hiện tại và giá trị tài sản trong tương lai, vì vậy cần chú ý đến chi phí thay thế. - Đối với các loại tài sản không cần thiết phải mang tính đồng bộ có thể tách riêng để tiện cho việc tính toán. b) Ưu điểm. - Tính toán dễ dàng, đơn giản do giá trị tài sản của doanh nghiệp là chỉ tiêu có thể lượng hoá. - Giá trị doanh nghiệp được theo dõi và kiểm chứng bằng sổ kế toán. c) Nhược điểm. - Xác định giá trị tài sản vô hình không có tính chính xác cao do phụ thuộc chủ quan của người đánh giá. - Giá trị doanh nghiệp chưa được xem xét một cách đầy đủ, chưa đề cập tới yếu tố lợi nhuận trong tương lai của doanh nghiệp. - Giá trị doanh nghiệp chỉ mới được đánh giá trên quan điểm của chủ doanh nghiệp mà chưa tính đến đánh giá của các nhà đầu tư và các yếu tố cung cầu thị trường. - Giá trị dn tính theo phương pháp này bị tách rời khỏi khả năng sinh lời của doanh nghiệp trong tương lai. 3. Phương pháp giá trị lợi nhuận. Xác định giá trị doanh nghiệp theo phương pháp giá trị lợi nhuận là phương pháp đánh giá một cách tổng quát toàn bộ giá trị của doanh nghiệp. Giá trị đó không đơn thuần là tổng đại số của các tài sản trong doanh nghiệp mà có tính đến tính hệ thống của các tài sản đó. Cơ sở khoa học: khả năng sinh lời trong tương lai chính là thước đo giá trị của doanh nghiệp. 3.1. Đánh giá qua vốn hóa lợi nhuận. Phương pháp này có nguồn gốc từ một trong các phương pháp tính hiệu quả vốn đầu tư. Để tính toán giá trị doanh nghiệp, người ta thực hiện dự báo luồng thu nhập trong tương lai của doanh nghiệp rồi chiết khấu chúng về thời điểm hiện tại theo một tỷ lệ vốn hóa nhất định. Công thức chung: Trong đó: : Giá trị doanh nghiệp. : Thu nhập dự kiến năm t. i: Hệ số hiện tại hóa. n: Số năm hoạt động của doanh nghiệp. : Giá trị thanh lý của doanh nghiệp cuối năm n. Đến đây có hai quan điểm về xác định n: * Quan điểm thứ nhất: cho n thì thay vì dự đoán giá trị cho từng năm, người ta chỉ tiến hành ước lượng giá trị lợi nhuận bình quân trong tương lai Khi đó, công thức (1) có dạng như sau: Nếu theo quan điểm này thì việc thực hiện gặp nhiều trở ngại do xác định hệ số hiện tại hóa là rất khó khăn. Hệ số này liên quan trực tiếp đến mức độ rủi ro tồn tại cố hữu trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố như môi trường kinh doanh, đối thủ cạnh tranh, uy tín doanh nghiệp... Vì vậy, để đơn giản hoá, có thể chọn hệ số hiện tại hóa từ: - Chi phí vốn của doanh nghiệp: đó là chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để được sử dụng lượng vốn nào đó. Thường các doanh nghiệp huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau (lợi nhuận giữ lại, phát hành cổ phiếu, đi vay...). Khi đó, chi phí vốn của doanh nghiệp là : tỷ trọng của loại vốn i trong tổng vốn huy động. : chi phí vốn của loại vốn i (tính bằng %). - Lãi suất không rủi ro của thị trường cộng tỷ lệ rủi ro đối với các nước có thị trường chứng khoán phát triển. Lãi suất không có rủi ro thường được lấy từ lãi suất trái phiếu kho bạc hoặc trái phiếu ngân hàng đầu tư phát triển. - Tỷ suất lợi nhuận trung bình ngành. Nhận xét: phương pháp có ưu điểm là đã dùng giả thiết cho nđƠ để loại bỏ giá trị ra khỏi công thức. Việc xác định thực chất là xác định giá trị doanh nghiệp tại một thời điểm trong tương lai (năm thứ n). Tuy nhiên giả thiết này lại không có ý nghĩa thực tế. Ta không thể thuyết phục nhà đầu tư là doanh nghiệp sẽ tồn tại mãi (nđƠ) hoặc n đủ lớn để giá trị thanh lý của doanh nghiệp (sau khi đã dược hiện tại hóa) là không đáng kể so với . * Quan điểm thứ hai: quan điểm này cho rằng, n là một số hữu hạn, cụ thể do đó có thể xác định được . Vì vậy, mấu chốt của quan điểm này là phải có sự thống nhất giữa người mua và người bán về giá trị của n. Để xác định n cần có các thông tin về chu kỳ đầu tư, chu kỳ sống của doanh nghiệp. Cụ thể là thời gian khấu hao trung bình của tài sản cố định. Đó là khoảng thời gian cần thiết để hình thành một chu kỳ đầu tư, nó thích ứng với sự tính toán một cách chi tiết khi lựa chọn phương án đầu tư thông thường. Để xác định , người ta cho rằng không cần tính vì làm như vậy tức là một lần nữa đi tìm giá trị doanh nghiệp vào thời đỉểm năm n. Giá trị gồm hai thành phần: vốn sản xuất kinh doanh bỏ ra tại thời điểm hiện tại để tạo ra lợi nhuận và lợi thế kinh doanh (GW hay BW) R: Lợi nhuận không có rủi ro. KH: Khấu hao hàng năm. VLĐ: vốn lưu động thu hồi. Giá trị doanh nghiệp theo quan điểm này sẽ là:= Vốn SXKD + GW(BW) Nhận xét: quan điểm này mang tính thực tiễn cao nhưng kỹ thuật tính toán phức tạp. * Quan điểm thứ ba: cho rằng có thể dự đoán được tốc độ tăng bình quân lợi nhuận trong tương lai của công ty. Qua đó có thể xác định giá trị doanh nghiệp. k: tốc độ tăng lợi nhuận bình quân hàng năm. : Lợi nhuận năm đầu tiên tính từ thời điểm định giá. Nhận xét: quan điểm này mang tính linh hoạt hơn so với hai quan điểm trên bởi vì có thể vận dụng vào từng trường hợp cụ thể mà có thể tính hoặc loại bỏ giá trị . 3.2. Đánh giá qua lợi tức cổ phần hiện tại hóa. Cơ sở của phương pháp này là giá trị lý thuyết cổ phiếu bằng tổng các giá trị hiện tại hóa các khoản lợi tức thu được trong tương lai. Giá trị doanh nghiệp (cũng là giá trị lý thuyết tổng các cổ phiếu của doanh nghiệp) tính theo công thức: Trong đó: A: Giá trị doanh nghiệp (giá trị lý thuyết tổng cá cổ phiếu của doanh nghiệp). : Lợi tức cổ phiếu năm t. i: Tỷ suất hiện tại hóa. t: Năm thứ t. Thời điểm hiện tại hóa giả định là đầu năm thứ nhất. Tuỳ theo sự biến đổi của lợi tức có thể phân ra các trường hợp sau: a) Giá trị là ổn định. Khi đó giá trị doanh nghiệp sẽ là; b) Giá trị tăng đều hàng năm theo tỷ lệ k < i. c) Giá trị tăng theo tỷ lệ k > i. Trong trường hợp này phải coi sự tăng lên theo tỷ lệ k > i chỉ diễn ra trong một khoảng thời gian hạn định là n năm còn từ năm (n+1) tỷ lệ tăng hàng năm là k’< i. Khi đó giá trị doanh nghiệp xác định được khi cho tđƠ là: Nhận xét: giá trị doanh nghiệp đánh giá theo các cách này phản ánh được quan hệ giữa hiện tại và tương lai của doanh nghiệp. Tuy nhiên để thực hiện được phương pháp này thì đòi hỏi doanh nghiệp phải có cổ phiếu niêm yết trên một thị trường chứng khoán mạnh. 3.3. Nhận xét chung. a) Điều kiện áp dụng. - Đòi hỏi phải có thị trường chứng khoán phát triển. - Phải có cơ quan kiểm toán. - Các doanh nghiệp thực hiện chính xác ghi chép trên sổ kế toán và theo cùng một nguyên tắc thống nhất. - Doanh nghiệp thực hiện đánh giá giá trị phải làm ăn có hiệu quả, tốc độ tăng trưởng khá. b) Ưu điểm. - Phương pháp này xem xét doanh nghiệp với tư cách là tổng thể. - Phản ánh tương đối đầy đủ các yếu tố cấu thành giá trị doanh nghiệp. c) Nhược điểm. - Việc lựa chọn tỷ suất lợi nhuận chưa có căn cứ rõ ràng, mang tính chủ quan cao, trong khi chỉ tiêu này ảnh hưởng rất lớn đến kết quả tính toán. - Kỹ thuật tính toán dựa vào dự báo là chủ yếu kết quả khó đạt tính chính xác cao. 4. Phương pháp đấu giá trực tiếp. Đây là phương pháp khá được ưa chuộng ở các nước phát triển vì nó đề cao vai trò của các yếu tố thị trường và dung hoà được các xung đột về lợi ích. Cơ sở khoa học: dựa trên cung cầu thị trường về loại hình doanh nghiệp cần định giá. Phương pháp tiến hành: đấu giá doanh nghiệp tổ chức vào thời gian và địa điểm xác định theo quy định của pháp luật. Hai bên thông qua thoả thuận giá cả và đồng thời xác định giá trị doanh nghiệp. Nói cách khác, theo phương pháp này, người mua và người bán trực tiếp thương lượng giá trị doanh nghiệp trên cơ sở giá mời thầu. Tuy nhiên phương pháp này có nhược điểm là không phải lúc nào giá cả cũng phản ánh đúng giá trị doanh nghiệp đặc biệt có hại trong trường hợp doanh nghiệp đang gặp khó khăn hay bị thôn tính. Hơn nữa, việc tổ chức đấu giá thường phải tuân thủ một số quy định về bảo mật thông tin khá phức tạp. Nhận xét chung về các phương pháp định giá: Định giá doanh nghiệp là một khoa học dự đoán, vì vậy nó mang tính chủ quan cao. Mỗi phương pháp có những ưu điểm cũng như nhược điểm riêng và không có phương pháp nào hoàn toàn chính xác. Trên thực tế, việc xây dựng một phương pháp đánh giá tuyệt đối chính xác cũng là điều không tưởng. Vì vậy, tuỳ từng hoàn cảnh cụ thể mà vận dụng phương pháp nào cho hợp lý, mang lại hiệu quả cao. Phần II: xác định giá trị doanh nghiệp trong cổ phần hoá ở Công ty cổ phần Dụng cụ cơ khí xuất khẩu. I- Tổng quan về Công ty cổ phần Dụng cụ cơ khí xuất khẩu. A. Sự hình thành và phát triển Công ty cổ phần Dụng cụ cơ khí xuất khẩu. 1. Lịch sử phát triển Công ty Dụng cụ cơ khí xuất khẩu trước khi tiến hành cổ phần hóa. Công ty Dụng cụ cơ khí xuất khẩu Hà Nội là một công ty có bề dày lịch sử hơn 40 năm trưởng thành và phát triển. Mặc dù được thành lập trong thời kỳ bao cấp nhưng ngay từ buổi sơ khai, Công ty đã xác định phải vận dụng những phương pháp làm việc có hiệu quả phát huy tính năng động trong sản xuất kinh doanh để Công ty ngày càng lớn mạnh. Ngày 18/11/1960, Bộ Y tế đã ra quyết định thành lập Xưởng y cụ tiền thân của Công ty cổ phần Dụng cụ cơ khí xuất khẩu Hà Nội hiện nay. Xưởng khi đó có trụ sở tại phố Phủ Doãn và trong cơ cấu của xưởng chỉ có 2 tổ là tổ sửa chữa thiết bị và tổ cơ. Sản phẩm chính của xưởng là panh kéo, máy bơm, thuốc diệt muỗi, nồi nước cất... Để phù hợp với nhiệm vụ sản xuất mới, tăng khả năng phát triển và tạo điều kiện thuận lợi trong quản lý, ngày 27/12/1962, Bộ Y tế quyết định sáp nhập Xưởng y cụ và chân tay giả, đặt tại phố Minh Khai, do đồng chí Bạch Đăng Nghĩa làm giám đốc. Ngày 14/7/1964, Bộ lại tách và thành lập Nhà máy y cụ với nhiệm vụ sản xuất dụng cụ y tế, thiết bị bệnh viện, thiết bị dược phẩm và sửa chữa dụng cụ y tế. Tự chủ trong kinh doanh cùng đội ngũ công nhân lành nghề, Nhà máy đã có bước phát triển nhanh, lượng cán bộ công nhân tăng lên tới 700 người, diện tích đất được mở rộng thêm, nhiều nhà xưởng được xây dựng mới, đầu tư bổ sung một số máy móc thiết bị mới. Thời kỳ 1965-1975, do yêu cầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Nhà máy bắt đầu sản xuất các sản phẩm khó hơn như máy móc thiết bị và đồ dùng y tế phục vụ cho chiến trường, ngoài ra, Nhà máy đã nghiên cứu và chế thử các sản phẩm mới như máy điều hoà nhiệt độ, máy hút ẩm, tủ lạnh...Thời kỳ này, Nhà máy đạt mức tăng trưởng khá cao: tổng sản lượng tăng từ gấp 3 lần, nộp ngân sách tăng 34 lần, số lượng cán bộ công nhân tăng lên gần 1000 người. Ngày 6/1/1971, theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Nhà máy được chuyển từ Bộ Y tế sang Bộ cơ khí luyện kim và đổi tên thành Nhà máy y cụ I nhưng vẫn giữ nguyên chức năng sản xuất thiết bị và dụng cụ cơ khí, đi sâu nghiên cứu các thiết bị phục vụ bệnh viện có kỹ thuật phức tạp hơn như bơm dầu, ghế nha khoa, bơm thuỷ lực... đồng thời tận dụng năng lực sẵn có để nghiên cứu sản xuất các dụng cụ khoa học khác cũng như sản phẩm tiêu dùng nhu kìm điện, mỏ lết... Năm 1977, Nhà máy có được hợp đồng xuất khẩu đầu tiên sau những nỗ lực không biết mệt mỏi của toàn thể cán bộ công nhân Nhà máy. Từ đó, sản lượng xuất khẩu cứ tăng dần và đã đứng đầu Bộ cơ khí luyện kim về xuất khẩu. Đây là thời kì phát triển nhất của Nhà máy, các phân xưởng được chuyên môn hoá cao, nhiều thiết bị mới đã được đầu tư, lực lượng lao động có lúc lên tới 1.450 người sản lượng tăng lên nhanh chóng, từ 5 triệu đồng (1976) lên 4,5 tỷ đồng (1986), trong đó sản lượng xuất khẩu chiếm 70% tổng sản lượng của Nhà máy, nộp ngân sách Nhà nước năm sau cao hơn năm trước 10%. Ngày 1/1/1985, Bộ cơ khí luyện kim đã đổi tên thành Nhà máy Dụng cụ cơ khí xuất khẩu. Mặc dù hoạt động trong cơ chế bao cấp kế hoạch hoá nhưng Nhà máy đã mạnh dạn quản lý theo cách xoá bỏ dần cơ chế lạc hậu này, trong mọi công việc đều hạch toán lỗ lãi, tìm thêm nguồn sản xuất phụ, tìm kiếm thị trường mới. Vì vậy, sản xuất được phát triển, đời sống công nhân được ổn định, phong trào quần chúng sôi nổi, trong khi nhiều Nhà máy khác điêu đứng vì thiếu việc làm, công nhân phải nghỉ việc hàng loạt. Vào đầu những năm 90, khi mà hệ thống XHCN sụp đổ, Nhà nước bắt đầu thực hiện việc chuyển đổi sang cơ chế mới, Nhà máy bắt đầu gặp phải những khó khăn khi mất một bạn hàng lớn, thiết bị công nghệ lạc hậu, sản phẩm sản xuất có giá thành cao nhưng chất lượng lại chưa đáp ứng được nhu cầu nên khả năng cạnh tranh kém cả ở thị trường nội địa lẫn khả năng xuất khẩu. Lúc này, Nhà máy đã rơi vào hoàn cảnh rất khó khăn khi không có vốn để đầu tư thiết bị mới, đội ngũ công nhân tay nghề cao còn thiếu...Không chịu bó tay, Nhà máy đã tìm con đường đi riêng cho mình bằng cách tìm kiếm thị trường ở các nước thứ 3, nhận làm một số sản phẩm phụ do UNICEF tài trợ, tìm bạn hàng hợp tác xuất khẩu sang Đài Loan, Hàn Quốc...Bằng cách đó, Nhà máy đã dần dần vượt qua khó khăn, lấy lại vị thế vốn có của mình. Đến năm 1996, để phù hợp với vai trò của mình trong việc sản xuất và xuất khẩu sản phẩm cơ khí, được phép của các cơ quan chủ quản, Nhà máy đổi tên thành Công ty Dụng cụ cơ khí xuất khẩu. Trong 3 năm, từ 1997 đến 1999, kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty đã tăng đáng kể. Đó là kết quả của quá trình đổi mới máy móc thiết bị, đổi mới con người, nâng cao trình độ của cán bộ công nhân...nó cho thấy sự năng động trong sản xuất kinh doanh của Nhà máy trong cơ chế thị trường. 2. Công ty cổ phần Dụng cụ cơ khí xuất khẩu. Năm 1999, Công ty Dụng cụ cơ khí xuất khẩu bắt đầu tiến hành cổ phần hoá. Hình thức cổ phần hoá của Công ty là: bán toàn bộ giá trị hiện có thuộc vốn Nhà nước tại doanh nghiệp đẻ chuyển thành Công ty cổ phần. Đến năm 2000, quá trình cổ phần hoá ở Công ty đã hoàn thành và bắt đầu từ ngày 1/1/2001, Công ty chính thức trở thành công ty cổ phần, hoạt động theo Luật Doanh nghiệp. Tên công ty : Công ty cổ phần Dụng cụ cơ khí xuất khẩu. Tên giao dịch quốc tế: Export Mechanical Tool Stook Company. Tên giao dịch viết tắt: EMTSC. Trụ sở công ty: 229 Tây Sơn - Đống Đa - Hà Nội. 2.1. Mục tiêu, chức năng, quyền hạn và nghĩa vụ của Công ty cổ phần dụng cụ cơ khí xuất khẩu. 2.1.1. Mục tiêu của Công ty: - Giải quyết công ăn việc làm. - Tạo lợi nhuận tối đa cho các cổ đông. - Đóng góp cho ngân sách Nhà nước. 2.1.2. Chức năng của Công ty: - Sản xuất kinh doanh và xuất nhập khẩu các sản phẩm cơ khí, dụng cụ, phụ tùng xe đạp, xe máy, ô tô, lắp ráp xe máy, sản phẩm điện lạnh, các sản phẩm tiêu dùng, hàng gia dụng Inox, thiết bị y tế, bia và nước giải khát, vật tư thiết bị ngành cơ khí, giao thông vận tải, xây dựng. - Kinh doanh các dịch vụ và ngành nghề khác theo quy định của pháp luật. 2.1.3. Quyền hạn của Công ty: - Quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh. - Quyền quản lý tài chính. 2.1.4. Nghĩa vụ của Công ty: - Thực hiện các nghị quyết của Đại hội cổ đông. - Hoạt động theo đúng ngành nghề đã đăng ký kinh doanh. - Có trách nhiệm thực hiện các hợp đồng đã ký kết với khách hàng. - Thực hiện đầy đủ các chính sách với người lao động theo quy định của Luật Lao động. - Thực hiện pháp lệnh kế toán, báo cáo định kỳ theo quy định của Nhà nước. - Nộp đầy đủ các loại thuế theo quy định. - Báo cáo và công bố công khai hoạt động tài chính trước Đại hội đồng cổ đông. - Chia cổ tức đúng kỳ hạn. Để thực hiện được các mục tiêu, chức năng và nhiệm vụ của mình, Công ty đã thực hiện chiến lược đa dạng hoá sản phẩm, vừa sản xuất những mặt hàng truyền thống, vừa sản xuất những mặt hàng mới để tận dụng tối đa thế mạnh của mình, thực hiện việc liên doanh, liên kết với nhiều đối tác trong và ngoài nước như Công ty HONDA Việt Nam (sản xuất linh kiện và lắp ráp xe máy), Thụy Sỹ (phân xưởng thiết bị điện), Đài Loan (phân xưởng cơ khí thực hiện gia công một số chi tiết của xe máy VMEP), CHLB Đức (sản xuất bi), thực hiện việc đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm, mở rộng mạng lưới tiêu thụ, tìm kiếm bạn hàng... B. Một số đặc điểm của Công ty cổ phần Dụng cụ cơ khí xuất khẩu. 1. Đặc điểm lao động và cơ cấu tổ chức bộ máy của Công ty cổ phần dụn._.ớc đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, các Bộ, Tổng công ty 91, các địa phương quyết định danh sách doanh nghiệp Nhà nước sẽ cổ phần hóa. Sau khi đã quyết định doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hóa, vấn đề quan trọng nhất là xác định giá trị doanh nghiệp. Đây là công việc không dễ dàng, tốn không ít thời gian và công sức, bởi phần lớn doanh nghiệp Nhà nước của ta đã được thành lập và hoạt động vài chục năm, quá trình hình thành tài sản qua nhiều thời kỳ, giá cả khác nhau, thậm chí có thiết bị máy móc đã hết thời gian khấu hao nhưng vẫn còn tiếp tục sử dụng. Cũng theo quy định của Nhà nước: giá trị thực tế của tài sản tại doanh nghiệp xác định trên cơ sở hiện trạng về phẩm chất, tính năng kỹ thuật, nhu cầu sử dụng của người mua tài sản và giá thị trường tại thời điểm cổ phần hóa. Do vậy, để xác định tương đối chính xác giá trị thực tế của doanh nghiệp và có thể coi đó là giá thị trường để người mua (các nhà đầu tư, kể cả người lao động tại doanh nghiệp) và người bán (Nhà nước) chấp nhận được đòi hỏi phải mất 5 - 6 tháng là chuyện bình thường, thậm chí còn lâu hơn. Qua quá trình nghiên cứu và thực tế xác định giá trị doanh nghiệp trong quá trình cổ phần hóa ở Công ty cổ phần Dụng cụ cơ khí xuất khẩu, xin đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện và đẩy nhanh quá trình xác định giá trị doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hóa trong thời gian tới. A- Một số giải pháp cho vấn đề xác định giá trị doanh nghiệp đối với các doanh nghiệp tiến hành cổ phần hóa. 1. Giải quyết vấn đề tư tưởng. Tư tưởng, quan điểm của người lao động trong doanh nghiệp là một trong những vấn đề cần giải quyết trước tiên khi tiến hành cổ phần hóa. Nếu tư tưởng được giải quyết tốt thì nó là một trong những điều kiện đẩy nhanh cổ phần hóa và ngược lại, nếu tư tưởng vẫn vướng mắc thì sẽ là lực cản rất lớn gây châm trễ cho toàn bộ quá trình cổ phần hóa nói chung và xác định giá trị doanh nghiệp nói riêng. Vì vậy, Nhà nước, cơ quan chủ quản của doanh nghiệp và đặc biệt là cán bộ lãnh đạo trong doanh nghiệp phải là người đầu tiên quán triệt và phải tăng cường tiến hành các hoạt động tuyên truyền cho người lao động trong doanh nghiệp nhằm tạo ra sự thống nhất trong nhận thức về chủ trương cổ phần hóa của Nhà nước. - Một là, chủ trương cổ phần hóa không dẫn đến nguy cơ chệch hướng xã hôi chủ nghĩa và làm suy yếu kinh tế Nhà nước. - Hai là, cổ phần hóa không làm ảnh hưởng đến quyền lợi và vị trí của mỗi người trong doanh nghiệp nếu họ thực sự có khả năng và có đóng góp tích cực vào hoạt động của doanh nghiệp. Có thể thực hiện tốt công tác tuyên truyền thông qua việc tổ chức các buổi hội nghị, giải thích những thắc mắc của người lao động về cổ phần hóa; tạo điều kiện cho người lao động có khả năng được tham gia vào các công việc trong quá trình cổ phần hóa. 2. Thực hiện tốt công tác kế hoạch hóa. Theo quan điểm truyền thống thì kế hoạch hóa là tổng hợp các hoạt động nhằm xác định trước các mục tiêu, nhiệm vụ, đồng thời tổ chức thực hiện để đạt được các mục tiêu đó. Hiện nay, kế hoạch hóa được định nghĩa: kế hoạch hoá là một quá trình bắt đầu bằng việc thiết lập các mục tiêu và quyết định chiến lược, các chính sách và các kế hoạch chi tiết để đạt mục tiêu. Cho dù định nghĩa theo quan điểm nào thì bản chất của kế hoạch vẫn là trạng thía ý tưởng, sự suy nghĩ để vạch ra những mục tiêu và cách thức để đạt được những mục tiêu đó. Qua các phân tích ở trên có thể thấy tầm quan trọng của công tác kế hoạch trong doanh nghiệp. Tuy nhiên ở nước ta, một số doanh nghiệp chưa thực sự coi trọng công tác kế hoạch, có thể nhận thấy điều này trong quá trình xác định giá trị doanh nghiệp thời gian qua. Mặc dù quá trình cổ phần hóa nói chung và xác định giá trị doanh nghiệp nói riêng là một công việc phức tạp, thực hiện trong thời gian dài nhưng hầu như các doanh nghiệp chỉ lập kế hoạch thực hiện mang tính sơ bộ. Chính do chỉ đề ra kế hoạch sơ bộ nên trong quá trình thực hiện gặp phải nhiều vướng mắc không đáng có, dẫn đến thời gian công việc kéo dài. Để khắc phục tình trạng này, các doanh nghiệp cần xây dựng một bản kế hoạch chi tiết các công việc cần thực hiện ngay từ khi nhận được quyết định cổ phần hóa (ở đây chỉ xin đề cập đến lập kế hoạch chi tiết cho quá trình xác định giá trị doanh nghiệp). Bản kế hoạch chi tiết này sẽ giúp lập ra một lịch trình hoạt động mang tính khoa học, giúp cho các công việc diễn ra nhịp nhàng, không chồng chéo, từ đó rút ngắn được đáng kể thời gian thực hiện do đã lường trước được hầu hết các khả năng có thể xảy cũng như các biện pháp giải quyết vấn đề một cách hữu hiệu. Bản kế hoạch có thể được lập theo hướng sau: Bước công việc Thời gian thực hiện (từ...đến...) Công việc Biện pháp thực hiện Đối tượng thực hiện Ghi chú 1. Kiểm kê tài sản trên sổ sách kế toán ... 1. 2. ... ... ... 2. Kiểm kê tài sản thực tế 3. Xác định chất lượng còn lại của tài sản 4. Xác định giá thị trường 5. Kết quả 6. Tổng hợp Điểm mục “tổng hợp” có thể xây dựng một bản riêng để dễ dàng theo dõi kết quả thực hiện chung mà không nhất thiết phải nằm trong bản kế hoạch này. Ngoài ra, sau mỗi công việc hay bước công việc phải tiến hành kiểm điểm, đánh giá, rút kinh nghiệm để thực hiện các bước tiếp theo cho thật tốt. Sau khi xây dựng bản kế hoạch, có thể cụ thể hoá lịch trình làm việc theo sơ đồ GANTT, ví dụ như sau: Thời gian 1 2 3 ... Đối tượng thực hiện Công việc 1. 2. 3. ... ... ... ... Cần luôn luôn đảm bảo tính tập thể trong xây dựng kế hoạch này tức là kế hoạch phải được xây dựng trên cơ sở ý kiến của tập thể mới đảm bảo tính đúng đắn và tính khả thi cao. Nói chung, để lập được kế hoạch chi tiết đòi hỏi đầu tư thời gian, chi phí nhưng chắc chắn lợi ích mà nó mang lại là rất lớn nếu so với chi phí xây dựng kế hoạch hoặc chi phí phát sinh khi không có kế hoạch. 3. Giải quyết vấn đề xác định giá trị còn lại và giá thị trường của tài sản. Đây chính là những vấn đề gây cản trở chủ yếu cho quá trình định giá doanh nghiệp. Có thể thấy, việc xác định giá trị còn lại của doanh nghiệp là rất khó khăn, chính vì vậy, thường xảy ra tình trạng cán bộ doanh nghiệp đánh giá cao nhưng cơ quan thẩm định lại đánh giá thấp, gây tranh chấp về quyền lợi giữa hai bên. Có thể giải thích nguyên nhân của tình trạng này là: Thứ nhất, việc đánh giá này hoàn toàn dựa trên chủ quan của người đánh giá. Có thể thấy, phầnlớn cán bộ thẩm định không thể đánh giá đúng giá trị còn lại của tài sản trên cơ sở thực tế mà chủ yếu đánh giá trên dựa vào sổ sách, tài liệu. Trong khi đó, cán bộ đánh giá của doanh nghiệp là người thường xuyên tiếp xúc, sử dụng máy móc nên có thể đánh giá khá chính xác nhưng lại thường có tư tưởng cục bộ, nên kết quả đánh giá dễ cao hơn thực tế. Từ đó làm nảy sinh mâu thuẫn giữa các bên. Mâu thuẫn này rất khó giải quyết bởi mỗi bên đều giữ quan điểm của mình trong khi không thiếu máy móc, thiết bị, phòng thí nghiệm để đánh giá chính xác chất lượng cònlại của tài sản. Thứ hai, tiêu thức và phương pháp đánh giá không có sự thống nhất giữa các bên. Giá trị tài sản hay giá trị còn lại là một chỉ tiêu tổng hợp, có thể xác định qua nhiều tiêu thức khác nhau. Ví dụ, một máy dập có thể đánh giá qua động cơ, phụ tùng máy, thiết bị thay thế, chất lượng phôi sau khi dập, năng lượng tiêu hao, hao mòn vô hình, giá trị ban đầu...Vì thế, khác nhau trong sử dụng phương pháp đánh giá cũng tạo nên sự sai lệch trong kết quả đánh giá. Thứ đến là phương pháp đánh giá. Một trong những phương pháp thường được sử dụng là phương pháp cho điểm. Theo cách này, tất cả các tiêu thức có thể so sánh được liệt kê để cho điểm căn cứ theo tầm quan trọng cuả tiêu thức. Đây là cách làm khoa học và tương đối chính xác nhưng không phải doanh nghiệp cũng sử dụng trong đánh giá chất lượng còn lại của tài sản. Đơn cử như Công ty cổ phần Dụng cụ cơ khí xuất khẩu sử dụng phương pháp chuyên gia và đưa ra kết quả trên cơ sở tổng hợp ý kiến của tập thể. Chính vì vậy lại dẫn dến sự không thống nhất giữa hội đồng thẩm định và ban kiểm kê của doanh nghiệp. Thứ ba, chưa có tổ chức tư vấn chuyên ngành về vấn đề xác định giá trị còn lại. Việc xác định giá trị còn lại của một số tài sản thuộc doanh nghiệp đôi khi nằm ngoài khả năng chuyên môn của cán bộ kiểm kê. Đối với Công ty cổ phần Dụng cụ cơ khí xuất khẩu là việc xác định giá trị còn lại của nhà xưởng, công trình xây dựng cơ bản, trong khi không có một cơ quan chuyên tư vấn về lĩnh vực này cho nên cũng gây khó khăn cả cho hội đồng thẩm định. Ngoài ra, do sổ sách kế toán không thực hiện nghiêm chỉnh theo quy định của Nhà nước: ghi sai, ghi thiếu, chậm hạch toán...cũng khiến cho việc xác định giá trị doanh nghiệp bị chậm trễ. Để giải quyết những vấn đề này, các doanh nghiệp cần: - Thực hiện đúng Pháp lệch kế toán và các quy định về kế toán của Nhà nước. - Đối với các vấn đề không nắm rõ cần tham khảo ý kiến của các chuyên gia hoặc các tổ chức chuyên ngành để nhận được sự giúp đỡ cần thiết. Ngoài ra, nên chăng Nhà nước cần có các quy định cụ thể, thống nhất về các phương pháp, tiêu thức đánh giá tài sản để tránh xảy ra mâu thuẫn, gây tốn kém, lãng phí. Để xác định giá thị trường của tài sản, doanh nghiệp phải thực hiện nhiều bước khác nhau từ nghiên cứu giá cả thị trường của các tài sản tương đương đến tham khảo ý kiến của cơ quan chuyên môn...Tuy nhiên, để xác định được tương đối chính xác thì vẫn rất khó khăn do nhiều nguyên nhân khác nhau: - Nhiều loại tài sản chuyên dùng không có trên thị trường, giá thị trường chỉ có thể tính theo phương pháp điều chỉnh giá trị sổ sách theo tỷ lệ lạm phát trung bình và độ hao mòn ước tính nên giá trị xác định được không có tính chính xác cao. - Một số máy móc đã quá cũ, thậm chí hết khấu hao nhưng vẫn được sử dụng thì chưa có phương pháp giải quyết hữu hiệu. Nói chung, để xác định giá thị trường của tài sản một cách chính xác thì ngoài sự cố gắng của các doanh nghiệp cần có sự giúp đỡ của Nhà nước thông qua các quy định cụ thể. 4. Vấn đề tổ chức thực hiện tại doanh nghiệp. Theo quy định tại Thông tư 104/1998/TT-BTC thì những thành viên trong hội đồng kiểm kê tại doanh nghiệp gồm có giám đốc, kế toán trưởng, trưởng phòng kỹ thuật, tức là, đều là các thành viên kiêm nhiệm. Vì vậy khó tránh khỏi sự sao nhãng trong công việc chuyên môn hay công việc kiêm nhiệm (ở đây là nhiệm vụ xác định giá trị doanh nghiệp). Tuy nhiên, kiêm nhiệm là điều không thể tránh khỏi. Vấn đề là các thành viên này cần phải trang bị cho mình những kiến thức về công việc được giaovà phải có tinh thần trách nhiệm cao đối với mỗi mọi công việc của nình. Ngoài ra, người lao động trong doanh nghiệp cũng cần chủ động nghiên cứu, tham gia tích cực vào những công việc có thể để giảm bớt gánh nặng cho ban kiểm kê, đồng thời để bày tỏ quan điểm, nhận xét, đưa ra những ý kiến đề xuất giúp ban kiểm kê hoàn thành công việc một cách tốt nhất. B- một số kiến nghị đối với nhà nước. I- Một số nhận xét. Trong suốt quá trình thực hiện cổ phần hóa, Đảng và Nhà nước đã ban hành rất nhiều các văn bản pháp quy về vấn đề xác định giá trị doanh nghiệp. Giai đoạn đầu - giai đoạn thí điểm cổ phần hóa (5/1992 - 5/1996), giá trị doanh nghiệp được xác định theo phương pháp định giá tài sản có điều chỉnh (Thông tư số 36/TC-CN). Giai đoạn mở rộng cổ phần hóa (6/1996 - 6/1998), giá trị doanh nghiệp xác định trên cơ sở kết hợp giữa giá trị tài sản thuần và phương pháp so sánh trực tiếp (Thông tư số 50/TC/TCDN). Giai đoạn đẩy nhanh cổ phần hóa (từ 7/1998 đến nay), Thông tư 104/TT-BTC quy định phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp là tổng hợp giữa phương pháp giá trị tài sản có và khả năng sinh lời. Qua quá trình thực hiện cổ phần hóa thời gian qua, có thể rút ra một số nhận xét sau về các quy định hiện hành: 1. Ưu điểm. 1.1. Phân loại hợp lý các loại tài sản để định giá doanh nghiệp. Khi tiến hành xác định giá trị doanh nghiệp, các tài sản được phân loại thành tài sản thuộc sở hữu và không thuộc sở hữu của doanh nghiệp; trong số các loại tài sản thuộc sở hữu của doanh nghiệp lại phân thành tài sản doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng, tài sản không có nhu cầu sử dụng và tài sản hình thành từ quỹ khen thưởng phúc lợi. Đây là cách phân loại rất hợp lý, dựa trên cơ sở: tài sản là một bộ phận cấu thành, là nguồn gốc tạo nên doanh nghiệp và giá trị doanh nghiệp. Nói cách khác, tiêu thức để phân loại tài sản chính là lợi nhuận mà tài sản mang lại cho doanh nghiệp. Cách phân loại này là cơ sở đảm bảo cho việc tính đúng, tính đủ giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa; đảm bảo quyền lợi cho người bán (Nhà nước) và người mua (cổ đông). 1.2. Giá trị vô hình của doanh nghiệp. Trước đây, khi định giá thì phần giá trị vô hình thường bị bỏ qua hoặc xem nhẹ. Ngày nay, với sự phát triển của khoa học công nghệ, kinh tế thị trường, người ta cho rằng yếu tố vô hình mới là yếu tố quyết định giá trị sản phẩm hay giá trị tài sản. Chính vì vậy, Thông tư 104/TT-BTC đã quy định giá trị thực tế doanh nghiệp gồm hai phần là tổng giá trị thực tế của tài sản (giá trị tài sản hữu hình và giá trị vô hình). Đây là quy định thể hiện sự vượt trội trong cách tiếp cận mới đối giá trị doanh nghiệp, thể hiện một tư duy động, mang đậm phong cách hiện đại và phù hợp với cơ chế thị trường. 1.3. Phương pháp định giá. Mặc dù, về phương pháp định giá còn nhiều vấn đề cần bàn nhưng xác định giá trị doanh nghiệp phương pháp giá trị nội tại tỏ ra khá phù hợp với điều kiện của nước ta hiện nay. - Thứ nhất do việc tính toán theo phương pháp này không quá phức tạp, chi phí có thể chấp nhận được. - Thứ hai, phương pháp này tỏ ra hiệu quả trong xác định giá trị doanh nghiệp ở nước ta khi mà hầu hết các doanh nghiệp được thành lập từ lâu với máy móc, thiết bị lạc hậu,trình độ cán bộ định giá chưa đáp ứng yêu cầu... 2. Nhược điểm. Mặc dù các quy định của Nhà nước thường xuyên được sửa đổi bổ sung nhưng trong quá trình thực hiện vẫn có những bất cập, cần được hoàn thiện. Đó là: 2.1. Phương pháp định giá. Theo quy định hiện nay thì chỉ có duy nhất một phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp là phương pháp giá trị nội tại, trong khi ở các nước thường sử dụng tổng hợp các phương pháp. Mặc dù phương pháp này tỏ ra khá phù hợp với điều kiện nước ta hiện nay, nhưng chỉ với duy nhất một phương pháp trong số rất nhiều các phương pháp thì không thể tận dụng được ưu điểm của các phương pháp còn lại, đồng thời không có cơ sở để kiểm chứng tính xác thực tính, tính toàn diện của kết quả tính toán. 2.2. Giá trị lợi thế của doanh nghiệp. - Như trên đã trình bày, việc quy định giá trị doanh nghiệp gồm cả phần giá trị lợi thế là một ưu điểm. Sự phân chia giá trị doanh nghiệp thành hai bộ phận là giá trị hữu hình và giá trị lợi thế sẽ giúp dễ dàng lượng hoá, tính toán nhưng do sự phân chia này nên giá trị doanh nghiệp tính được sẽ nhỏ giá trị khi tính theo tổng hợp hai bộ phận. Nguyên nhân của sự khác biệt này là: giá trị lợi thế là một bộ phận cấu thành giá trị doanh nghiệp nên không thể tách rời nó trong mối quan hệ với các bộ phận khác vì như vậy sẽ vi phạm nguyên tắc tổng hợp trong xác định giá trị doanh nghiệp, dẫn đến giá trị xác định được không còn chính xác. - Phương pháp xác định giá trị lợi thế chưa thực sự tính đến khả năng sinh lời trong tương lai của doanh nghiệp, điều này không có lợi đối với các doanh nghiệp nhỏ hay doanh nghiệp mới thành lập. - Xác định giá trị lợi thế chỉ dựa trên lợi nhuận siêu ngạch của doanh nghiệp là chưa đầy đủ. Bởi vì giá trị lợi thế không chỉ phụ thuộc duy nhất vào lợi nhuận siêu ngạch mà còn phụ thuộc nhiều yếu tố khác: như thời gian, giá trị theo thời gian của tiền...(những yếu tố này vẫn chưa được đề cập đến trong Thông tư 104/TT-BTC). Có thể nêu ra một ví dụ để chứng minh luận điểm này: Xem xét 2 doanh nghiệp A và B cùng ngành nghề kinh doanh trên cùng địa bàn, có cùng số vốn Nhà nước, trong đó: Doanh nghiệp A có tỷ suất lợi nhuận trong 3 năm 1997,1998,1999 lần lượt là: 5%,10% và 0%. Doanh nghiệp A có tỷ suất lợi nhuận trong 3 năm 1997,1998,1999 lần lượt là: 0%, 5% và 10%. Nếu xác định theo quy định hiện hành thì hai doanh nghiệp này có cùng giá trị lợi thế kinh doanh nhưng rõ ràng doanh nghiệp B đang có xu hướng có lợi thế hơn doanh nghiệp A trong tương lai. - Theo Nghị định 44-CP và Thông tư 104-BTC nếu hiểu giá trị doanh nghiệp gồm giá trị tài sản (giá trị hữu hình) và lợi thế kinh doanh thì có nghĩa là coi giá trị lợi thế của doanh nghiệp là giá trị vô hình. Nếu coi như vậy có lẽ chưa thật sự chính xác, bởi vì: giá trị vô hình của doanh nghiệp gồm 2 phần: + Các chi phí làm tăng giá trị doanh nghiệp như: tiền mua bằng sáng chế, chi phí thành lập doanh nghiệp, chi phí nghiên cứu-phát triển... + Giá trị lợi thế của doanh nghiệp: uy tín công ty, nhãn mác sản phẩm, vị trí địa lý... Như vậy có thể thấy, giá trị lợi thế kinh doanh chỉ là một bộ phận cấu thành nên giá trị vô hình của doanh nghiệp. Ngược lại, nếu không coi giá trị lợi thế kinh doanh là giá trị vô hình thì đã bỏ sót một bộ phận cấu thành nên giá trị doanh nghiệp nằm trong giá trị vô hình (là các chi phí làm tăng giá trị doanh nghiệp). 2.3. Một số vấn đề khác. a) Các quy định về xác định giá hiện hành còn thiếu và chưa đồng bộ. Nhà nước chưa đưa ra một tiêu chuẩn, một quy định cụ thể về vấn đề xác định giá trị còn lại và giá thị trường của các loại tài sản của doanh nghiệp trong khi thực hiện vấn đề này ở doanh nghiệp là rất khó khăn do máy móc thiết bị cũ, lạc hậu, không đủ phương tiện đánh giá chính xác; có mâu thuẫn trong phương pháp xác định giữa hội đồng kiểm kê và hội đồng thẩm định do các tiêu thức được sử dụng để đánh giá là khác nhau... b) Giá trị đất đai của doanh nghiệp. Theo quy định hiện nay, giá trị đất không được tính vào giá trị doanh nghiệp mà hàng năm doanh nghiệp phải nộp tiền thuê đất. Đất đai thuộc quyền sở hữu của Nhà nước và không được mua bán, nhưng trên thực tế, các hoạt động chuyển nhượng quyền sử dụng đất diễn ra đã khiến hình thành giá thị trường của đất đai. Như vậy chính sự mâu thuẫn giữa quy định và thực tế đã khiến cho vấn đề “giá trị đất trong giá trị doanh nghiệp” trở thành vấn đề gây tranh cãi. Ngoài ra, Nhà nước cũng chưa có quy định về đối với trường hợp nhà cửa, vật kiến trúc là hàng hoá của doanh nghiệp; hay giá trị đất tính như thế nào trong trường hợp đất được giao theo chức năng kinh doanh địa ốc ? Vì vậy, Nhà nước cần có những điều chỉnh một số điểm trong Luật Đất đai có liên quan đến những vấn đề trên. c) Quy trình định giá. Theo quy định hiện hành thì toàn bộ quá trình định giá doanh nghiệp hầu hết do người mua (các cổ đông tương lai-các thành viên trong hội đồng kiểm kê) tiến hành, từ chuẩn bị hồ sơ, sổ sách đến thống nhất giá bán nhưng đến khâu cuối cùng là quyết định giá bán lại do Nhà nước quyết định. Như vậy có nghĩa là cổ đông phải chấp nhận mức giá Nhà nước đưa ra mà không có sự thoả thuận giữa bên bán và bên mua với đúng nghĩa của nó. Quy trình định giá còn nhiều thủ tục mang nặng tính hành chính, gây phiền hà, mất thời gian cho doanh nghiệp. Các thủ tục này cho thấy dường như vẫn tồn tại một phong cách làm việc theo cũ. II- kiến nghị với Nhà nước. 1. Chính xác hóa ngôn ngữ trong các quy định. Thứ nhất, chỉ có thể đưa ra một công thức tổng quát để xác định giá trị doanh nghiệp mà không thể làm như vậy đối với giá cả, bởi vì giá cả phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như cung cầu thị trường, điều kiện bán, vị thế của mỗi bên tham gia hoạt động mua bán...Vì vậy, không thể dùng giá trị doanh nghiệp để làm giá bán mà giá trị doanh nghiệp xác định được chỉ nên dùng làm cơ sở để xác định giá bán. Trong khi đó, Nghị định 44-CP quy định “giá trị doanh nghiệp ở thời điểm cổ phần hóa là giá trị thực tế mà người bán và người mua đều chấp nhận được”. Như vậy, phải chăng , giá trị doanh nghiệp được đồng nhất với giá cả. Thứ hai, việc quy định giá trị doanh nghiệp gồm giá trị tài sản hữu hình và giá trị lợi thế của doanh nghiệp là chưa chính xác, thiếu chuẩn mực do đồng nhất giá trị lợi thế và giá trị tài sản vô hình của doanh nghiệp. Thứ ba, theo Thông tư 132/1999/TT-BTC ngày 15/11/1999 của Bộ Tài chính: "Kết quả xác định giá trị DN do cơ quan tài chính công bố". Vậy trong trường hợp này do cơ quan tài chính địa phương công bố hay trình Bộ tài chính quyết định? Như vậy có khác gì thủ tục công bố giá trị doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hóa? Vì vậy, Nhà nước cần nhanh chóng chuẩn hoá các ngôn từ dùng trong các văn bản pháp luật, đồng thời có những hướng dẫn cụ thể đối với một số thắc mắc nêu trên để tránh có sự hiểu nhầm, từ đó dẫn đến thực hiện sai. 2. Từng bước hoàn chỉnh hệ thống các phương pháp định giá. Mặc dù phương pháp định giá mà chúng ta đang áp dụng tỏ ra khá phù hợp với điều kiện Việt Nam nhưng trong quá trình thực hiện đã nảy sịnh những bất cập, khi chỉ với duy nhất một phương pháp định giá như hiện nay. Đôi khi phương pháp định giá này tỏ ra cứng nhắc và thiếu chính xác, trong khi lại không có sự kiểm chứng. Vì vậy, nên chăng Nhà nước cho phép sử dụng đồng thời nhiều phương pháp định giá khác nhau để tận dụng ưu điểm của mỗi phương pháp. a) Phương pháp tính giá trị lợi thế. Về giá trị lợi thế của doanh nghiệp, Nhà nước nên qui định rõ các điều kiện cần và đủ để xét doanh nghiệp có lợi thế hay không, nếu có thì bắt buộc doanh nghiệp phải tính phần giá trị này vào giá trị doanh nghiệp. Phương pháp xác định giá trị lợi thế cũng cần có sự sửa đổi, có thể tính theo công thức sau: Trong đó: i: Chi phí vốn của doanh nghiệp. n: Thời hạn tính giá trị lợi thế. Xác định giá trị lợi thế theo công thức này có ưu điểm hơn do tính đến lợi thế của nhiều năm trong tương lai chứ không chỉ riền năm đầu tiên sau khi cổ phần hóa như cách xác định cũ. b) Phương pháp xác định giá trị tài sản cố định và tài sản lưu động bằng hiện vật. Nhà nước cần sớm quy định phương pháp định giá thống nhất, tránh tình trạng lộn xộn như hiện nay. Để có phương pháp xác định thống nhất có thể là hoàn thiện phương pháp hiện tại hoặc sử dụng phương pháp mới theo cách tính của một số nước (phương pháp lợi nhuận, phương pháp đấu giá...), hoặc là sử dụng tổng hợp tất cả các phương pháp. Tuy nhiên, trước hết chúng ta cần tạo tiền đề cho việc thực hiên thành công các phương pháp này, bằng cách xây dựng thị trường chững khoán đủ mạnh, cho ra đời thị trường bất động sản chính thống, xây dựng và hoàn thiện các văn bản pháp quy về đấu giá tài sản doanh nghiệp... 3. Một số kiến nghị khác. a) Giá thuê đất của doanh nghiệp. Hiện nay, có một thuận lợi là giá thuê đất đã được Nhà nước quy định theo vị trí. Nhưng quan trọng hơn Nhà nước cần thực hiện tiếp việc quy định giá thuê đất theo ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp theo hướng sau: giá thuê đất dùng cho doanh nghiệp kinh doanh các loại khách sạn, du lịch phải cao hơn giá thuê đất cho doanh nghiệp thương nghiệp và giá thuê đất dành cho thương nghiệp phải cao hơn giá thuê cho doanh nghiệp công nghiệp và doanh nghiệp công ích...Riêng giá thuê đất dành cho doanh nghiệp thương nghiệp kinh doanh đối ngoại phải cao hơn giá thuê đất đối với doanh nghiệp kinh doanh nội thương. Để phân loại như vậy có thể dùng phương pháp cho điểm (lập hệ số giá thuê theo ngành nghề). Ví dụ: ngay trên một vị trí như nhau, dùng loại đất có giá thuê cao (như đối với doanh nghiệp kinh doanh khách sạn, du lịch) làm hệ số chuẩn (1) và giá đất các hạng khác giảm dần theo ngành nghề (0,9-0,8-0,7...). Từ đó, cùng với hệ số giá thuê theo vị trí để tính ra giá thuê đất cụ thể cho mỗi doanh nghiệp. Ngoài ra Nhà nước cần tính cả giá thuê đất đối với phần đất mà doanh nghiệp đã được giao mà chưa sử dụng vào sản xuất kinh doanh, nếu không thì phải thu hồi nhằm tránh lãng phí đất. b) Cải cách thủ tục định giá. Theo quy định hiện nay thì hầu như toàn bộ quá trình dịnh giá được bên mua (cán bộ nhân viên doanh nghiệp) thực hiện trong khi quền quyết định giá bán lại thuộc người bán (Nhà nước). Thoạt nhìn thì có vẻ hợp lý bởi vì người bán là người có quyền quyết định giá bán. Tuy nhiên nếu đi sâu xem xét thì: nếu như quyết định giá của Nhà nước không thống nhất với người mua (đây là điều thường xảy ra) thì quá trình cổ phần hóa bị ách tắc, Nhà nước lại phải thực hiện điều chỉnh giá, gây chậm trễ, lãng phí thời gian, công sức, tiền bạc (mà đôi khi giá điều chỉnh vẫn chưa phù hợp). Vậy phải làm thế nào để vừa đạt được sự thoả thuận giữa hai bên, vừa tiết kiệm, vừa không gây thất thoát tài sản Nhà nước. Có hai cách giải quyết: - Một là, trong quá trình định giá phải có sự tham gia của bên thứ ba, là cơ quan kiểm toán độc lập. Hiện nay, “chỉ những doanh nghiệp không thực hiện đúng quy định của pháp luật về kế toán, thống kê thì cơ quan quyết định giá trị doanh nghiệp xem xétthuê tổ chức kiểm toán độc lập”. Trong khi nhiều doanh nghiệp dù thực hiện đúng các quy định của pháp luật về kế toán nhưng vẫn có nhu cầu thuê kiểm toán thì không được chấp nhận. Vì vậy, trong thời gian tới, Nhà nước cần quy định tất cả các doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hóa phải thực hiện kiểm toán các báo cáo tài chính, đồng thời cho phép doanh nghiệp được thuê kiểm toán độc lập và chi phí thuê kiểm toán được tính vào chi phí cổ phần hóa. Khi đó, ngoài nhiệm vụ định giá doanh nghiệp, vai trò của kiểm toán độc lập gần giống như người môi giới, họ là cầu nối trong việc thoả thuận giá cả giữa bên bán (Nhà nước) và bên mua (cổ đông tương lai-trong và ngoài doanh nghiệp). - Hai là, xoá bỏ cơ chế hội đồng định giá. Để thực hiện giải pháp này có hiệu quả thì việc xác định giá trị doanh nghiệp Nhà nước phải dựa trên cơ sở giá trị còn lại và giá cả thị trường chung của xã hội, trên cơ sở đấu giá doanh nghiệp và tài sản doanh nghiệp. Theo cách này có một số ưu điểm: giảm bớt phiền hà trong thủ tục định giá, từ đó rút ngắn thời gian thực hiện cổ phần hóa; tăng tính hấp dẫn đối với cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp Nhà nước, thu hút các chủ đầu tư mua hết các cổ phần của doanh nghiệp; đồng thời khắc phục tình trạng định giá quá thấp để bán hết cổ phần gây thiệt hại cho Nhà nước. Kết luận Cổ phần hóa là một trong những biện pháp nhằm cải cách, đổi mới khu vực kinh tế Nhà nước. Tuy nhiên, để cổ phần hóa thành công thì nhất thiết phải giải quyết được vấn đề xác định giá trị doanh nghiệp. Trên cơ sở kiến thức được học và thực tế xác định giá trị doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hóa thời gian qua, đề tài xin dừng lại ở việc nghiên cứu những vấn đề lý luận, kinh nghiệm xác định giá trị doanh nghiệp ở Công ty cổ phần Dụng cụ cơ khí xuất khẩu, từ đó, đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm đẩy nhanh và thực hiện có hiệu quả việc xác định giá trị doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hóa trong thời gian tới. Tác giả luận văn một lần nữa xin chân thành cảm ơn thày giáo PGS-TS Nguyễn Thành Độ đã trực tiếp hướng dẫn, đồng thời cũng xin cảm ơn các cán bộ phòng Tổ chức-Công ty cổ phần Dụng cụ cơ khí xuất khẩu đã tận tình giúp đỡ để có thể hoàn thành luận văn này. Phụ lục 1: Bảng kết quả xác định giá trị doanh nghiệp Công ty cổ phần Dụng cụ cơ khí xuất khẩu. Chỉ tiêu Số liệu sổ sách kế toán Số liệu thực tế Chênh lệch A-Tài sản đang dùng I- TSCĐ và đầu tư dài hạn 6.939.580.035 7.221.916.236 282.336.201 1.Tài sản cố định 4.892.066.035 5.174.402.236 282.336.201 a) TSCĐ hữu hình 4.892.066.035 5.174.402.236 282.336.201 b) TSCĐ vô hình 0 0 0 2. Các khoản đầu tư dài hạn 2.047.514.000 2.047.514.000 0 3. Chi phí XDCB dở dang 0 0 0 4. Các khoản ký quỹ, ký cược dài hạn 0 0 0 II- TSLĐ và đầu tư ngắn hạn 8.714.695.785 9.063.745.023 349.049.238 1. Tiền 632.592.128 632.592.128 0 + Tiền mặt tồn quỹ 19.991.952 19.991.952 0 + Tiền gửi ngân hàng 612.600.176 612.600.176 0 + Tiền đang chuyển 0 0 0 2. Đầu tư tài chính ngắn hạn 510.000.000 510.000.000 0 3. Các khoản phải thu 3.113.801.372 3.120.951.372 7.150.000 4. Giá trị vật tư hàng hóa tồn kho 4.417.466.143 4.766.515.381 349.049.238 - Nguyên vật liệu 1.867.564.140 1.867.564.140 0 - Công cụ, dụng cụ LĐ trong kho 94.647.170 94.647.170 0 - Bán thành phẩm tồn kho 402.254.833 402.254.833 0 - Thành phẩm tồn kho 2.053.000.000 2.390.239.238 337.239.238 - Công cụ LĐ đang dùng 0 11.810.000 11.810.000 5. TSLĐ khác 40.836.142 33.686.142 -7.150.000 6. Chi phí sự nghiệp 0 0 0 III- Giá trị lợi thế kinh doanh 0 0 0 Giá trị doanh nghiệp (I+II+III) 15.654.275.820 16.285.661.259 631.385.439 IV- Nợ thực tế phải trả 6.710.670.267 6.710.670.267 0 Tổng giá trị phần vốn NN tại doanh nghiệp 8.943.605.267 9.574.990.992 631.385.439 B- Tài sản không cần dùng 0 0 0 I- TSCĐ và đầu tư dài hạn 0 0 0 1. Tài sản cố định 0 0 0 2. Các khoản đầu tư tài chính dài hạn 0 0 0 3. Chi phí XDCB dở dang 0 0 0 4. Các khoản ký quỹ, ký cược dài hạn 0 0 0 II- TSLĐ và đầu tư ngắn hạn 0 0 0 C- TSCĐ đã khấu hao hết chờ xử lý 97.118.000 97.118.000 0 D- Tài sản hình thành từ quỹ khen thưởng, phúc lợi 0 0 0 Phụ lục 2: Danh mục tài liệu tham khảo. 1. Luật Doanh nghiệp - Quốc hội thông qua ngày 12/6/1999. 2. Một số ăn bản pháp quy của Nhà nước về cổ phần hóa: - Nghị định số 28/1996/NĐ-CP ngày 7/5/1996 của Chính phủ. - Thông tư 50/1996/TC-TCDN ngày 30/8/1996 của Bộ Tài chính. - Nghị định 44/1998/NĐ-CP ngày 29/6/1998 của Chính phủ. - Thông tư 104/1998/TT-BTC ngày 18/7/1998 của Bộ Tài chính. - Thông tư 132/1999/TT-BTC ngày 15/11/1999 của Bộ tài chính 3. Giáo trình Kinh tế và quản lý công nghiệp - GS-TS Nguyễn Đình Phan-NXB Giáo dục-1999. 4. Giáo trình Kinh tế và tổ chức sản xuất trong doanh nghiệp - PGS.TS Phạm Hữu Huy - NXB Giáo dục-1998. 5. Giáo trình Chiến lược và kế hoạch phát triển doanh nghiệp - PGS.TS Nguyễn Thành Độ - NXB Giáo dục-1998. 6. Báo cáo tổng kết của Công ty từ 1997 đến 2000. 7. Điều lệ Công ty cổ phần Dụng cụ cơ khí xuất khẩu. 8. Đề án cổ phần hoá Công ty cổ phần Dụng cụ cơ khí xuất khẩu. 9. Hồ sơ xác định giá trị Công ty cổ phần Dụng cụ cơ khí xuất khẩu. 10. Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, Kinh nghiệm thế giới - Hoàng Đức Tảo - NXB Thống Kê-1993. 11. Hỏi và đáp về cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam - Hoàng Công Thi - NXB Thống Kê 1993. 12. Tạp chí Tài chính số 5/1995; 5/1998; 13. Các phương pháp thẩm định giá trị tài sản-Nhiều tác giả-NXB TPHCM-1997. 14. Một số tài liệu có tham khảo khác. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0288.doc
Tài liệu liên quan