Nâng cao chất lượng phân tích tài chính Doanh nghiệp trong hoạt động tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần các Doanh nghiệp Ngoài Quốc doanh (VPBank) Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU Năm 2005 có lẽ là năm sôi động nhất đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam. Tin tức về việc cổ phần hóa Vietcombank, những đợt tăng vốn điều lệ của các ngân hàng thương mại ngoài quốc doanh, các ngân hàng nước ngoài trở thành cổ đông chiến lược của Sacombank, ACB, Techcombank....thường xuyên là tin chính trong các chuyên mục kinh tế trên các phương tiện thông tin đại chúng. Trong bối cảnh đó, Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam – VPBank cũng đạt đượ

doc79 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1292 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng phân tích tài chính Doanh nghiệp trong hoạt động tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần các Doanh nghiệp Ngoài Quốc doanh (VPBank) Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c nhiều thành công đáng khích lệ: tăng vốn điều lệ từ 198 tỷ lên 310 tỷ đồng, mở rộng mạng lưới hoạt động, tăng trưởng tốt trong hoạt động huy động vốn cũng như trong hoạt động tín dụng, lợi nhuận tăng nhanh,...Tuy vậy, trong điều kiện cạnh tranh ngày càng khốc liệt của thị trường, trong thời gian tới, VPBank cần tiếp tục nâng cao hiệu quả hoạt động: nâng cao hiệu quả công tác quản trị, nâng cao chất lượng tín dụng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,... nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. Một trong những biện pháp quan trọng là nâng cao chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp phục vụ cho hoạt động tín dụng . Thật vậy, chất lượng của phân tích tài chính doanh nghiệp được nâng cao sẽ làm cơ sở cho VPBank ra những quyết định tín dụng đúng đắn, an toàn, từ đó nâng cao chất lượng tín dụng của ngân hàng. Với mong muốn tìm ra những biện pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp tại VPBank, đề tài: “ Nâng cao chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp trong hoạt động tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam” đã được lựa chọn làm luận văn. Luận văn, ngoài Lời mở đầu và Kết luận, được kết cấu làm 3 chương: Chương 1 Chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại. Chương 2 Thực trạng hoạt động phân tích Tài chính doanh nghiệp trong hoạt động tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam – VPBank. Chương 3 Giải pháp nâng cao chất lượng phân tích Tài chính doanh nghiệp trong hoạt động tín dụng tại VPBank. CHƯƠNG 1 CHẤT LƯỢNG PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1. HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1.1. Khái quát các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại Ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế, cung cấp các loại hình dịch vụ tài chính đa dạng: huy động tiền gửi, cho vay, cung cấp dịch vụ thanh toán, chuyển đổi tiền tệ, bảo lãnh,...Không chỉ đóng vai trò là người thu hút tiền từ trong dân cư để đầư tư, cho vay đối với các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, nó còn đóng vai trò là công cụ quan trọng để thực hiện chính sách tiền tệ của Chính phủ nhằm điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Theo chức năng này, ở hầu hết các quốc gia đều có sự phân chia thành 2 bộ phận: Ngân hàng trung ương và các Ngân hàng thương mại (NHTM). Hiểu theo nghĩa đơn giản, NHTM là trung gian tài chính mà một người bình thường thường xuyên giao dịch nhất. Các NHTM được phân biệt với các tổ chức tài chính khác bởi các dịch vụ tài chính đa dạng mà nó cung cấp cho nền kinh tế, cho dù trong điều kiện hiện nay, sự lấn sân của các tổ chức tài chính vào việc cung ứng các dịch vụ ngân hàng đang diễn ra ngày một mạnh mẽ: NHTM là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất, đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. TS. Phan Thị Thu Hà, 2004, Giáo trình Ngân hàng thương mại. Tuỳ thuộc vào cách thức phân loại mà hệ thống NHTM sẽ được tổ chức hoạt động theo những mô hình khác nhau: Theo hình thức sở hữu: Ngân hàng tư nhân, Ngân hàng cổ phần, Ngân hàng quốc doanh, Ngân hàng liên doanh; Theo tính chất hoạt động: Ngân hàng đơn năng, Ngân hàng đa năng, Ngân hàng bán buôn, Ngân hàng bán lẻ,...Với xu hướng hoạt động trên nhiều lĩnh vực, nhiều ngành nghề và trên địa bàn rộng lớn, mô hình Ngân hàng đa năng với mục tiêu cung cấp mọi dịch vụ Ngân hàng cho mọi đối tượng đang là sự lựa chọn của nhiều Ngân hàng thương mại lớn nhằm đa dạng hóa danh mục đầu tư, mở rộng địa bàn hoạt động, giảm thiểu rủi ro và tăng cường xây dựng hình ảnh Ngân hàng mình, tạo vị thế cạnh tranh với các đối thủ. Trong khi đó, mô hình Ngân hàng bán lẻ với mục tiêu chủ yếu là cung cấp các dịch vụ trực tiếp cho doanh nghiệp, hộ gia đình và cá nhân với các khoản tín dụng nhỏ đang là xu hướng lựa chọn của các Ngân hàng nhỏ nhằm chiếm lĩnh một phân khúc thị trường bị bỏ qua bởi các Ngân hàng lớn. Từ quá trình huy động vốn từ dân cư, các tổ chức kinh tế, các tổ chức uỷ thác,... Ngân hàng thương mại sẽ có trong tay một lượng tiền khổng lồ. Số tiền này sẽ được đầu tư trở lại nền kinh tế : cho vay đối với các tổ chức, cá nhân để phục vụ quá trình sản xuất, tiêu dùng, thực hiện đầu tư , bảo lãnh, tài trợ, chiết khấu, kinh doanh ngoại tệ,...Thực hiện các hoạt động này, Ngân hàng thương mại đã cho ta thấy rõ tính ưu việt của một trung gian tài chính: là người dẫn vốn từ nơi dư thừa tới nơi có nhu cầu, với chi phí được giảm thiểu một cách tối đa nhờ vào quy mô lớn cũng như khả năng tiếp cận thông tin có hiệu quả của đội ngũ nhân viên Ngân hàng. Từ lịch sử thành lập Ngân hàng, trải qua một quá trình phát triển lâu dài cho đến nay, rất nhiều dịch vụ mới, hiện đại đã được các NHTM cung cấp cho nền kinh tế: thanh toán điện tử, Ngân hàng tại nhà (Home banking), Ngân hàng qua điện thoại (Phone banking),...Tuy vậy, cho đến ngày nay, những dịch vụ cơ bản mà NHTM cung cấp vẫn không thay đổi so với thời điểm hình thành ban đầu: Thực hiện đổi tiền, mua bán ngoại tệ, nhận tiền gửi, cho vay, đầu tư, cung cấp các dịch vụ thanh toán, chiết khấu các giấy tờ có giá, bảo quản tài sản, tài trợ các hoạt động của Chính phủ,...Việc cung ứng đa dạng các dịch vụ từ truyền thống đến hiện đại này của NHTM đã góp phần thúc đẩy các hoạt động thanh toán, tiêu dùng, đầu tư,...từ đó góp phần nâng cao khả năng vận hành của nền kinh tế. Rõ ràng, với những hoạt động cơ bản, những chức năng quan trọng của mình, sự hoạt động có hiệu quả của Ngân hàng thương mại đóng một vai trò quan trọng trong việc tạo sự ổn định, tăng hiệu quả, cũng như thúc đẩy sự phát triển bền vững của nền kinh tế. Một trong những yếu tố góp phần quan trọng đến sự thành công của một Ngân hàng thương mại chính là hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại đó. 1.1.2. Hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại 1.1.2.1. Tín dụng của Ngân hàng thương mại * Khái niệm Hoạt động tín dụng được xác định: Cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thỏa thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác. Luật các Tổ chức tín dụng số 07/1997/QHX Khi nói đến hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại, có thể hiểu theo nghĩa là việc Ngân hàng cho vay đối với khách hàng, là hoạt động tài trợ của Ngân hàng cho khách hàng. * Các hình thức tín dụng của NHTM Các Ngân hàng thương mại lớn hiện nay đều tổ chức thực hiện đa dạng các loại hình tín dụng từ cho vay thực hiện đầu tư dự án, cho vay hỗ trợ sản xuất kinh doanh, bảo lãnh,... cho đến các hình thức tài trợ tiêu dùng như cho vay thấu chi, cho vay trả góp ,...Việc đa dạng hoá các loại hình tín dụng là một trong những yếu tố cần thiết để mở rộng tín dụng có hiệu quả, cạnh tranh, cũng như đảm bảo phân bổ rủi ro cho Ngân hàng. Chính bởi vậy, các loại hình tín dụng rất đa dạng và ngày càng đáp ứng được nhu cầu của sản xuất, kinh doanh, và của đời sống. Việc phân loại các nghiệp vụ tín dụng có thể dựa trên nhiều tiêu thức khác nhau, tuỳ thuộc vào đặc tính của loại hình, cũng như vào mục đích quản lý của Ngân hàng. Phân theo hình thức cấp tín dụng ta có các nghiệp vụ Chiết khấu thương phiếu, cho vay: thấu chi, cho vay trực tiếp từng lần, cho vay theo hạn mức, cho vay luân chuyển, cho vay trả góp..., cho thuê tài sản (thuê mua), bảo lãnh,... Phân theo hình thức đảm bảo ta có tín dụng tín chấp và tín dụng thế chấp, trong đó tín dụng tín chấp thường rất hạn chế do nó đòi hỏi uy tín rất cao của khách hàng để đảm bảo cho việc chi trả của khoản tín dụng được cấp. Phân theo thời hạn tín dụng ta có tín dụng ngắn hạn, trung và dài hạn Ngoài ra, việc phân loại tín dụng có thể thực hiện theo nhiều tiêu thức khác như phân loại tín dụng theo ngành nghề kinh doanh, theo lĩnh vực tài trợ, theo loại tiền, theo đối tượng được cấp tín dụng,...Việc phân loại tín dụng rõ ràng như vậy sẽ rất hữu ích cho nhà quản lý trong việc tổ chức vận hành, điều hành, kiểm soát có hiệu quả các hoạt động tín dụng của Ngân hàng, góp phần quan trọng vào thành công của Ngân hàng trên thị trường đang cạnh tranh ngày một khốc liệt. 1.1.2.2. Các nguyên tắc tín dụng Ngân hàng Để đảm bảo cho khả năng sinh lời, cũng như đảm bảo tính an toàn cho Ngân hàng, hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại phải dựa trên một số nguyên tắc nhất định. Các nguyên tắc này được cụ thể hoá trong các quy định, quy chế về cho vay, tổ chức hoạt động tín dụng của Ngân hàng Nhà nước cũng như của chính các Ngân hàng thương mại. Thứ nhất, khách hàng phải cam kết hoàn trả gốc và lãi với thời hạn xác định. Nguồn gốc của các khoản tín dụng của Ngân hàng chính là từ các khoản tiền mà Ngân hàng huy động (vay mượn) từ dân cư, các tổ chức kinh tế, tổ chức tài chính khác. Vì vậy, để đảm bảo khả năng chi trả khi phát sinh nhu cầu từ phía người cho vay, cũng như đảm bảo có thể bù đắp chi phí hoạt động, giữ vững sự ổn định, phát triển, Ngân hàng luôn yêu cầu người nhận tín dụng phải thực hiện cam kết này. Thứ hai, khách hàng phải cam kết sử dụng đúng mục đích đã thoả thuận khoản tín dụng được cấp. Mục đích sứ dụng tín dụng của khách hàng phải hợp pháp, không bị pháp luật cấm, phù hợp với quy định của Ngân hàng Nhà nước, cũng như quy định riêng của Ngân hàng cấp tín dụng. Thứ ba, Ngân hàng tài trợ dựa trên dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Đây là cơ sở để thực hiện nguyên tắc thứ nhất trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng, vì dự án có hiệu quả thì mới có được nguồn trả nợ tin cậy, đảm bảo cho Ngân hàng. Tuy vậy, việc xác định tính hiệu quả đôi khi còn khó khăn do không thể dự đoán chính xác các điều kiện thị trường, vì vậy để đảm bảo cho khoản tín dụng, Ngân hàng có thể yêu cầu khách hàng cung cấp tài sản đảm bảo, tuỳ theo mức độ đảm bảo của tài sản, cũng như mức độ rủi ro của dự án, phương án sản xuất kinh doanh. 1.1.2.3. Quy trình tín dụng của Ngân hàng thương mại Để chuẩn hoá quy trình tiếp xúc, phân tích, giải ngân và thu nợ đối với khách hàng, các NHTM đặt ra quy trình tín dụng phù hợp với đặc điểm về tổ chức, quản lý tại chính Ngân hàng của mình. Đây chính là các bước, nội dung công việc mà cán bộ tín dụng, các phòng ban có liên quan trong Ngân hàng phải thực hiện khi tài trợ cho khách hàng. Quy trình tín dụng bao gồm 4 bước cơ bản theo như mô hình được trình bày sau đây. Phân tích trước khi cấp tín dụng Xây dựng và ký kết hợp đồng tín dụng Giải ngân và kiểm soát trong khi cấp tín dụng Thu nợ hoặc đưa ra các phán quyết tín dụng mới Bước 1 Bước 2 Bước 3 Bước 4 Mô hình 1.1. Quy trình tín dụng của NHTM Bước 1: Phân tích trước khi cấp tín dụng Đây là bước quan trọng nhất, quyết định đến chất lượng của hoạt động tín dụng tài trợ cho doanh nghiệp. Nội dung chủ yếu là thu thập và xử lý các thông tin liên quan đến khách hàng như tư cách pháp lý, uy tín, khả năng hoạt động hiện tại của khách hàng, mục đích và năng lực sử dụng vốn vay, khả năng tạo ra lợi nhuận cũng như chi trả, và các điều kiện khác có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động của doanh nghiệp. Bước 2: Xây dựng và kí kết hợp đồng tín dụng Hợp đồng tín dụng là thoả thuận giữa Ngân hàng và khách hàng, trong đó cam kết phía Ngân hàng sẽ cấp cho khách hàng một khoản tín dụng nhất định trong một khoảng thời gian và lãi suất nhất định, với những điều khoản quy định về quyền lợi và nghĩa vụ của các bên tham gia. Một hợp đồng tín dụng giữa khách hàng với Ngân hàng sẽ bao gồm những nội dung như: thông tin về khách hàng, nhu cầu tín dụng của khách, mục đích sử dụng khoản tín dụng, lãi suất áp dụng, thời hạn của khoản tín dụng, cũng như các mức phí, các điều kiện về loại đảm bảo, điều kiện giải ngân, phương thức thanh toán,... và các quy định, điều kiện khác. Đây là cơ sở để Ngân hàng tiến hành giải ngân và thu hồi nợ theo đúng tiến độ, cũng như đảm bảo cho những yêu cầu về mặt pháp lý, về mặt an toàn, về phương diện quản lý. Bước 3: Giải ngân và kiểm soát trong khi cấp tín dụng Sau khi kí kết hợp đồng tín dụng, theo đúng như những cam kết trong hợp đồng, Ngân hàng sẽ tiến hành giải ngân cho khách hàng. Sau khi giải ngân, trong thời hạn hợp đồng vẫn còn hiệu lực, phía Ngân hàng vẫn phải kiểm soát tài chính đối với khách hàng để đảm bảo cho khoản vay của mình. Trong thời gian này, việc phân tích tài chính cũng cần thiết để đảm bảo Ngân hàng có thể phát hiện những thay đổi về tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính của doanh nghiệp, việc thực hiện hợp đồng, tiến độ công việc của khách hàng nhằm tránh xảy ra những kết cục bất lợi cho phía Ngân hàng. Bước 4: Thu nợ hoặc đưa ra các phán quyết tín dụng mới Quan hệ tín dụng kết thúc khi khách hàng hoàn trả đầy đủ cả gốc và lãi đã cam kết. Trong một số trường hợp, việc thanh toán gốc hay lãi của khách hàng cho Ngân hàng không được thực hiện như cam kết: trả thiếu, trả chậm. Trong trường hợp đó, Ngân hàng phải trực tiếp tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến tình trạng này. Nếu khách hàng thực sự gặp khó khăn trong kinh doanh, trong hoạt động và vẫn đang cố gắng khắc phục khó khăn, có thiện chí trong việc thanh toán nợ, Ngân hàng có thể xem xét gia hạn nợ, điều chỉnh kỳ hạn nợ hoặc miễn giảm nợ , cho vay thêm để hỗ trợ khách hàng. Đó chính là sự trợ giúp về tài chính cần thiết để giúp đỡ doanh nghiệp khắc phục những bất ổn trong hoạt động của mình. Tuy vậy khi khách hàng do yếu kém trong hoạt động sản xuất, quản lý, hoặc do có tình trạng lừa đảo, cố tình trì hoãn, nợ nần dây dưa,.. thì Ngân hàng lần lượt phải xem xét đến các phương án như phân loại lại nợ, áp dụng các biện pháp thu hồi nợ như phong toả và bán tài sản thế chấp, nhờ đến sự trợ giúp của cơ quan Pháp luật,.. Bằng việc xem xét quy trình phân tích tín dụng của Ngân hàng, một lần nữa vai trò quan trọng của phân tích tài chính doanh nghiệp trong hoạt động tín dụng được khẳng định lại. Hoạt động phân tích tài chính của khách hàng được thực hiện ở các giai đoạn trước, trong và sau khi cho vay, và đây là yếu tố cơ bản quyết định đến chất lượng của một khoản tín dụng, tác động trực tiếp tới khả năng hoạt động, cũng như lợi nhuận của Ngân hàng. Việc phân tích chính xác các thông tin là điều kiện tiên quyết đối với hiệu quả sử dụng của một khoản tín dụng cả về phía Ngân hàng cũng như về phía khách hàng. 1.2. CHẤT LƯỢNG PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.2.1. Phân tích tài chính doanh nghiệp trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại 1.2.1.1. Khái niệm, mục tiêu phân tích Tài chính doanh nghiệp * Khái niệm Phân tích Tài chính doanh nghiệp là việc sử dụng một tập hợp các khái niệm, phương pháp và các công cụ phục vụ cho việc xử lý các thông tin kế toán, những thông tin về quản lý, những thông tin về thị trường,... nhằm đánh giá toàn diện về thực trạng tài chính của một doanh nghiệp, mức độ và chất lượng hiệu quả hoạt động, đánh giá rủi ro, cũng như đưa ra những dự báo trong tương lai của doanh nghiệp. * Mục tiêu phân tích Tài chính doanh nghiệp đối với NHTM Từ khái niệm về phân tích Tài chính doanh nghiệp ta có thể thấy vai trò quan trọng của việc phân tích này. Việc đánh giá năng lực tài chính của một doanh nghiệp là vô cùng quan trọng, không chỉ với các cán bộ quản lý doanh nghiệp đó mà còn với các nhà đầu tư vào doanh nghiệp, bạn hàng, người cho vay. Khi đánh giá đúng đắn về thực trạng tài chính của doanh nghiệp, các đối tượng trên có thể đưa ra những quyết định chính xác về khả năng tiếp cận với doanh nghiệp trên giác độ nhà đầu tư, người cho vay hay là đối tác của doanh nghiệp,... Người cho vay phải phân tích tài chính doanh nghiệp để xác định khả năng vay và trả nợ của người vay vốn. Đặc biệt đối với các NHTM, khi giữ vai trò là người cho vay, việc hoàn trả gốc và lãi vay đúng thời hạn là một yếu tố rất quan trọng, tác động trực tiếp tới khả năng thanh khoản, khả năng sinh lãi cũng như khả năng hoạt động của Ngân hàng. Việc hoàn trả các khoản gốc và lãi vay đúng kì hạn hoàn toàn phụ thuộc vào năng lực hoạt động, vào nguồn trả nợ của doanh nghiệp. Những doanh nghiệp có hoạt động kinh doanh yếu kém hoặc hoạt động kinh doanh không có triển vọng cải thiện hay phát triển sẽ có rất ít cơ hội được tiếp cận với các khoản tín dụng của ngân hàng. Trong khi đó, một doanh nghiệp có thể kinh doanh hiệu quả nhưng có yếu kém trong công tác quản lý tài chính cũng có thể tác động xấu đối với việc thanh toán đầy đủ, đúng hạn khoản tín dụng của NHTM, gây bất lợi cho Ngân hàng. Bởi vậy, vấn đề phân tích tài chính doanh nghiệp là một bước quan trọng để xem xét việc có xác lập quan hệ tín dụng giữa NHTM và khách hàng hay không. Như vậy, mục đích của phân tích tài chính doanh nghiệp là việc xác định đúng năng lực tài chính của doanh nghiệp để Ngân hàng ra quyết định cấp tín dụng cho doanh nghiệp hoặc tăng cường kiểm tra, giám sát đối với các doanh nghiệp đang sử dụng khoản tín dụng của mình. Phân tích tài chính doanh nghiệp là một khâu quan trọng xuyên suốt trong hoạt động tín dụng của NHTM, từ lúc phát sinh nhu cầu tín dụng từ phía khách hàng, qua quá trình phân tích tín dụng, trong giai đoạn cho vay, cho đến khi tất toán một hợp đồng tín dụng, nhằm đảm bảo an toàn và sinh lợi cho khoản tín dụng của Ngân hàng. 1.2.1.2. Nội dung phân tích Tài chính doanh nghiệp của Ngân hàng thương mại Thông tin sử dụng trong phân tích tài chính doanh nghiệp Việc xác định những thông tin được sử dụng trong phân tích là rất quan trọng. Do đặc điểm hoạt động Ngân hàng là phải đảm bảo chính xác, an toàn cao, những thông tin mà Ngân hàng cần tập hợp để phân tích, xử lý không chỉ giới hạn trong những báo cáo tài chính do khách hàng cung cấp. Có thể phân chia nguồn thông tin cần thiết phục vụ công tác phân tích theo nguồn thông tin như sau: * Thông tin do khách hàng cung cấp : là những thông tin có được do quá trình tiếp xúc lần đầu với khách hàng, thông tin do khách hàng cung cấp trong hồ sơ vay vốn. Những thông tin về tài chính của khách hàng có thể có được trong hồ sơ tài chính, gồm các báo cáo tài chính trong một số năm, các kế hoạch tài chính trong tương lai. Một thông tin cũng rất quan trọng là phương án vay vốn với sự phản ánh chi tiết về sử dụng tiền vay và kế hoạch trả nợ của khách hàng. Bằng việc kiểm nghiệm ban đầu giữa thông tin được cung cấp bởi các nhà quản lý doanh nghiệp với thông tin được cung cấp thông qua các tài liệu, hồ sơ tài chính cũng do khách hàng cung cấp, cán bộ tín dụng có thể bước đầu đánh giá được mức độ tin cậy, cũng như tính chính xác của các thông tin. Cán bộ tín dụng có thể sử dụng thông tin kế toán của doanh nghiệp như là một nguồn thông tin quan trọng nhất. Do bản chất của hoạt động kế toán là việc phản ánh và giám đốc một cách liên tục, toàn diện và có hệ thống tất cả các mặt hoạt động kinh tế tài chính của doanh nghiệp, kế toán hoạt động như một nhà cung cấp thông tin đáng tin cậy cho việc phân tích tài chính. Thông tin kế toán được phản ánh khá đầy đủ trong các báo cáo kế toán - là những báo cáo tổng hợp nhất về tình hình tài sản, nguồn vốn của chủ sở hữu và công nợ cũng như tình hình tài chính, kết quả kinh doanh trong kỳ của doanh nghiệp. Việc phân tích tài chính doanh nghiệp có thể được thực hiện dựa trên các báo cáo kế toán chủ yếu: Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả kinh doanh và Báo cáo ngân quỹ (Báo cáo lưu chuyển tiền tệ). Bảng cân đối kế toán (Bảng tổng kết tài sản) là một báo cáo tài chính phản ánh tổng quát tình hình vốn của doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định theo tài sản và theo nguồn hình thành nên tài sản (nguồn vốn). Về bản chất, bảng cân đối kế toán là một bảng cân đối tổng hợp giữa tài sản với nguồn vốn chủ sở hữu và công nợ phải trả. Đây là một báo cáo tài chính có ý nghĩa quan trọng trong việc nghiên cứu, đánh giá một cách tổng quát tình hình, kết quả kinh doanh, trình độ sử dụng vốn và những triển vọng kinh tế, tài chính của doanh nghiệp. Nhìn vào Bảng cân đối kế toán, nhà phân tích có thể nhận biết được về loại hình doanh nghiệp, quy mô, mức độ tự chủ tài chính của doanh nghiệp. Bảng cân đối kế toán là một tài liệu quan trọng giúp cho các nhà phân tích đánh giá được khả năng cân bằng tài chính, khả năng thanh toán và khả năng cân đối vốn của doanh nghiệp. Báo cáo kết quả kinh doanh: là một báo cáo tài chính phản ánh các khoản doanh thu, chi phí và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp cho một thời kỳ nhất định. Nó cung cấp những thông tin tổng hợp về tình hình và kết quả sử dụng các nguồn lực về vốn, lao động, kỹ thuật và trình độ quản lý trong hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp. Thông thường, báo cáo kinh doanh được NHTM sử dụng để phân tích là báo cáo về Lợi nhuận, lỗ: phản ánh kết quả kinh doanh của doanh nghiệp gồm kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động tài chính và hoạt động bất thường. Đối với nhà phân tích, báo cáo kinh doanh cũng đóng một vai trò quan trọng vì nó cho biết sự dịch chuyển của tiền trong quá trình sản xuất kinh doanh, cho phép dự tính về khả năng hoạt động của doanh nghiệp trong tương lai. Báo cáo kinh doanh sử dụng kết hợp với Bảng cân đối kế toán sẽ cho phép cán bộ tín dụng tính toán được các chỉ tiêu về hoạt động, về khả năng sử dụng tổng hợp các nguồn lực của doanh nghiệp (sẽ được làm rõ trong phần tiếp theo). Báo cáo kết quả kinh doanh cũng giúp nhà phân tích so sánh doanh thu với số tiền thực nhập quỹ khi bán hàng hóa dịch vụ, so sánh tổng chi phí với số tiền thực xuất quỹ phục vụ cho hoạt động của doanh nghiệp, từ đó xác định lại các khoản phải thu, phải trả của doanh nghiệp, làm rõ khả năng chiếm dụng vốn hay tình trạng bị chiếm dụng vốn của doanh nghiệp,.. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ (báo cáo ngân quỹ) là báo cáo tài chính phản ánh các khoản thu và chi tiền trong kỳ của doanh nghiệp theo từng hoạt động kinh doanh, hoạt động đầu tư và hoạt động tài chính. Mục đích của báo cáo lưu chuyển tiền tệ nhằm cung cấp cho người sử dụng biết được các thông tin về sự biến động của tiền và các khoản tương đương tiền, sự vận động của dòng tiền đối trọng với dòng vật chất của doanh nghiệp Cán bộ tín dụng khi xem xét báo cáo ngân quỹ có thể dự đoán được lượng tiền mang lại từ các hoạt động tương lai của doanh nghiệp thông qua xem xét thu và chi trong quá khứ, có thể đánh giá khả năng thanh toán của doanh nghiệp cũng như khả năng quản lý của nhà lãnh đạo, tìm ra mối liên hệ giữa lợi nhuận (lỗ) ròng và luồng tiền tệ vì doanh nghiệp không thể thu được lợi nhuận nếu trong quá trình hoạt động, họ thiếu tiền để phục vụ sản xuất kinh doanh. Cán bộ tín dụng cũng có thể xác định những nhu cầu tài chính trong tương lai của doanh nghiệp như nhu cầu đầu tư tài sản cố định, đầu tư vào mở rộng quy mô hay vào các hoạt động khác,... Bên cạnh những báo cáo tài chính trên, cán bộ tín dụng cũng có thể dựa vào Thuyết minh báo cáo tài chính để phục vụ cho việc phân tích của mình. Đây là một báo cáo được lập dựa trên các sổ kế toán kỳ báo cáo, Bảng cân đối kế toán kỳ báo cáo, Báo cáo kết quả kinh doanh kỳ báo cáo và Thuyết minh báo cáo tài chính của năm trước. Vì được lập dựa trên các báo cáo tài chính quan trọng như vậy nên Thuyết minh báo cáo tài chính cũng là một nguồn thông tin tổng hợp đáng tin cậy cho việc phân tích. Như vậy, bằng việc xem xét đến các báo cáo tài chính của một doanh nghiệp, cán bộ tín dụng có thể tiến hành phân tích, đánh giá Tài chính doanh nghiệp một cách khá đầy đủ, chi tiết, nhằm phục vụ cho việc ra quyết định của mình. Bên cạnh nguồn thông tin bên trong doanh nghiệp, cán bộ tín dụng cần quan tâm tới các thông tin khác được cung cấp bên ngoài doanh nghiệp, nhằm tránh tình trạng chỉ nhận được thông tin từ một chiều, dễ gây sai lệch về kết quả đánh giá. * Thông tin do Ngân hàng tìm hiểu, mua lại: để làm phong phú thêm nguồn tin, tăng độ tin cậy của thông tin, bằng các cách khác nhau, Ngân hàng có thể khai thác thêm những thông tin liên quan đến các hoạt động, cũng như tình trạng hiện tại, thông tin nội bộ,..của doanh nghiệp. Đó có thể là những thông tin xác minh những hồ sơ mà doanh nghiệp cung cấp cho Ngân hàng, thông tin bổ sung làm rõ cho các báo cáo trong quá khứ và hiện tại, cũng có thể là thông tin có liên quan, tác động mật thiết tới hoạt động tương lai của doanh nghiệp. Nói chung, đây là những thông tin mà để có được, Ngân hàng phải chịu những tốn kém về thời gian và chi phí. * Thông tin do Ngân hàng nắm giữ, lưu trữ : là những thông tin mà Ngân hàng đã có được từ các quá trình giao dịch trước đây của khách hàng với Ngân hàng, những thông tin về môi trường, lĩnh vực kinh doanh, ngành nghề của doanh nghiệp mà cán bộ tín dụng đã tích luỹ được qua quá trình làm việc với các khách hàng tương tự, từ sự am hiểu về công việc sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp,... Đây là thông tin đáng tin cậy nhất vì nó được xây dựng, đã qua quá trình xử lí, kiểm nghiệm trên nền tảng vững chắc, lâu dài, hơn nữa đó là những thông tin không bị “bóp méo” do những lý do khác nhau. Tuy vậy, để trở thành nguồn thông tin đáng tin cậy nhất, công tác lưu trữ và xử lý thông tin từ trước phải được diễn ra một cách an toàn, chính xác, đảm bảo dễ dàng cho việc tra cứu. Việc kết hợp sử dụng các nguồn thông tin hợp lý là nền tảng cho hoạt động phân tích bởi để phân tích có hiệu quả, không chỉ phụ thuộc vào khả năng, kĩ năng của cán bộ tín dụng mà còn phụ thuộc rất lớn vào yếu tố chất lượng nguồn thông tin sử dụng cho phân tích. Bằng việc xác định chính xác các thông tin, việc phân tích sẽ được tiến hành dễ dàng, với độ tin cậy cao, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt của động tín dụng Ngân hàng. Phương pháp phân tích Phương pháp truyền thống trong phân tích tài chính doanh nghiệp là phương pháp tỷ số, trong đó các tỷ số được sử dụng để đánh giá, so sánh. Các tỷ số này là các tỷ số đơn, được thiết lập bằng cách lấy tỷ lệ của chỉ tiêu này so với chỉ tiêu khác. Đây là phương pháp có tính hiện thực cao, hiệu quả lớn bởi lẽ, thứ nhất, nguồn thông tin kế toán như ta đã biết – sẽ cung cấp một lượng thông tin đáng kể với độ tin cậy khá cao; thứ hai, việc áp dụng các công nghệ phân tích xử lý hiện đại cho phép nhà phân tích có thể xử lý thông tin một cách nhanh chóng, chính xác với số lượng lớn; và thứ ba, phương pháp này giúp cho nhà phân tích khai thác số liệu một cách hiệu quả, dựa vào đó có thể phân tích có hệ thống hàng loạt tỷ số theo chuỗi thời gian liên tục, hoặc cho từng giai đoạn. Để phát huy có hiệu quả kết quả của phân tích thông qua phương pháp tỷ số, cần xác định các ngưỡng, các tỷ số tham chiếu, và qua đó phải so sánh giữa trị số mà doanh nghiệp đạt được với trị số tham chiếu đó. Như vậy, song song với phương pháp tỷ số, chúng ta sẽ áp dụng phương pháp so sánh. Khi phân tích, cán bộ tín dụng thường so sánh các bộ số liệu nhận được qua thời gian (so sánh giữa các thời kỳ) để nhận biết xu hướng thay đổi trong tình hình tài chính, sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp,..; so sánh theo không gian (so sánh với mức trung bình ngành) để đánh giá vị thế của doanh nghiệp trong ngành; so sánh giữa chỉ tiêu đạt được với chỉ tiêu kế hoạch của doanh nghiệp để thấy được mức độ phấn đấu, cũng như khả năng dự tính của doanh nghiệp,.. Bên cạnh đó, cán bộ tín dụng còn có thể sử dụng phương pháp phân tích tài chính DUPONT để phục vụ cho công việc của mình. Bản chất của phương pháp này là tách một tỷ số tổng hợp phản ánh thực trạng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như thu nhập trên tài sản (ROA), thu nhập trên vốn chủ sở hữu (ROE),... thành tích số của một chuỗi các tỷ số có mối quan hệ nhân quả. Với phương pháp này, người phân tích có thể nhận biết được nguyên nhân dẫn đến các kết quả đạt được của doanh nghiệp, thông qua phân tích ảnh hưởng của từng tỷ số thành phần tới tỷ số tổng hợp. Tóm lại, để phân tích Tài chính doanh nghiệp có hiệu quả, cán bộ tín dụng không những phải có khả năng tiếp cận, đánh giá nguồn thông tin mà còn phải có kĩ năng phân tích, xử lí thông tin, phải có đủ năng lực chuyên môn mới có thể đưa ra kết luận chính xác, phục vụ tốt cho việc phân tích của mình. Để làm rõ hơn vấn đề này, chúng ta có thể xem xét nội dung phân tích Tài chính doanh nghiệp của NHTM trong hoạt động tín dụng của mình. Nội dung phân tích Tài chính doanh nghiệp trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại * Phân tích các chỉ tiêu trên Báo cáo tài chính Đánh giá tài sản của khách hàng Trong Bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp, phần tài sản phản ánh số kết dư giá trị tài sản tại một thời điểm. Các thông tin về tài sản cho biết quy mô, chất lượng tài sản, khả năng quản lý của khách hàng. Hơn nữa, đối với những tài sản của khách hàng dùng để đảm bảo cho khoản vay, sẽ quyết định đến quy mô tài trợ cũng như khả năng thu hồi nợ của Ngân hàng trong trường hợp xảy ra rủi ro. Vì vậy, các thông tin về tài sản của khách hàng khá quan trọng đối với quyết định cho vay của Ngân hàng. Ngân quỹ : bao gồm tiền gửi Ngân hàng, tiền mặt trong két, các khoản đầu tư ngắn hạn có thể nhanh chóng chuyển đổi thành tiền, các khoản phải thu. Các khoản tiền gửi và tiền mặt trong ngân quỹ của doanh nghiệp luôn có thể đáp ứng được nhu cầu chi trả, tuy vậy trong cơ cấu tài sản của doanh nghiệp thì giá trị này thường chiếm một phần rất nhỏ, bởi các doanh nghiệp không muốn bị ứ đọng về vốn. Chính vì vậy, khi xem xét ngân quỹ của doanh nghiệp, Ngân hàng cần quan tâm đến các khoản phải thu, và loại trừ những khoản không thu được, khó thu được, hay đã bán lại cho người khác. Các khoản tín dụng ngắn hạn sẽ liên quan chặt chẽ tới tình hình ngân quỹ của khách hàng, đặc biệt thời hạn cho vay hoặc kì hạn trả tiền có thể tính toán dựa vào số ngày của kì thu tiền. Hàng tồn kho: Là một khoản mục khá quan trọng trong phân tích tài chính của khách hàng. Rất nhiều khoản vay ngắn hạn nhằm mục đích tăng dự trữ hàng hoá phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Nghiên cứu hàng tồn kho của doanh nghiệp sẽ cho phép cán bộ tín dụng đánh giá được tình trạng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp: hàng tồn kho có quá nhiều hay không, nguyên nhân dẫn đến tình trạng tăng đột biến hàng tồn kho? Do yếu kém trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp hay do việc mở rộng sản xuất kinh doanh? Nếu hàng tồn kho qu._.á ít thì nguyên nhân là do doanh nghiệp trì trệ trong hoạt động kinh doanh phải cắt giảm sản lượng hay do hoạt động sản xuất kinh doanh tiến hành có hiệu quả nên việc sản xuất, cung ứng không đáp ứng kịp thời với nhu cầu về sản lượng? Phân tích hàng tồn kho cũng phải gắn với việc kiểm tra sổ sách, kho bãi của doanh nghiệp để xác định liệu hàng tồn kho có đúng như khai báo, đánh giá phẩm chất, quy cách của hàng tồn kho, phát hiện hàng giả, hay hàng nhận gửi,... Có thể nói, phân tích, đánh giá chỉ tiêu về tiền, phải thu và hàng tồn kho là những đánh giá cơ bản đầu tiên của phân tích tài chính doanh nghiệp, nhằm có được cái nhìn tổng thể ban đầu về khách hàng. Bên cạnh đó, Tài sản cố định của doanh nghiệp cũng được xem xét, tìm hiểu, vì thông thường, ở các doanh nghiệp sản xuất thì giá trị tài sản cố định chiếm tỷ trọng lớn, nó sẽ liên quan đến mức độ đầu tư của doanh nghiệp cho sản xuất, khả năng đảm bảo cho những khoản vay của doanh nghiệp. Việc đánh giá về tài sản cố định sẽ chủ yếu phục vụ cho hoạt động tài trợ trung và dài hạn của Ngân hàng. Đánh giá nguồn vốn của khách hàng Phân tích Nợ của khách hàng: có thể phân chia Nợ thành nợ ngắn hạn và nợ dài hạn, trong đó yếu tố quan trọng là Nợ ngắn hạn. Để có thể duy trì hoạt động, doanh nghiệp phải quản lý tốt tình hình tài chính, đảm bảo việc thu, chi đúng hạn. Các khoản nợ ngắn hạn có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động quản lý tài chính hàng ngày của doanh nghiệp. Nếu không đảm bảo chi trả trong ngắn hạn, doanh nghiệp sẽ phải đối mặt với nguy cơ phá sản ngay cả khi hoạt động kinh doanh vẫn đang diễn ra thuận lợi. Bởi vậy, Ngân hàng cần quan tâm đến chỉ tiêu về nợ ngắn hạn của doanh nghiệp, nguồn đảm bảo cho việc chi trả các khoản nợ đó khi đến hạn, cũng như quan tâm đến các khoản nợ xấu của doanh nghiệp, nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó. Các chủ nợ của khách hàng cũng cần được quan tâm nghiên cứu để Ngân hàng xác định vị thế của mình trong số các chủ nợ, liên quan đến thứ tự ưu tiên trong thanh toán sau này. Phân tích Vốn chủ sở hữu: được thể hiện dưới hình thức vốn góp ban đầu, các quỹ, lợi nhuận giữ lại,...Xem xét vốn chủ sở hữu cho phép cán bộ tín dụng đánh giá mức độ đầu tư, mức độ tự chủ về tài chính của doanh nghiệp, khả năng mở rộng tín dụng phục vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Rõ ràng, với các điều kiện tương đương thì một doanh nghiệp có vốn chủ sở hữu lớn hơn sẽ có cơ hội cao hơn để tiếp cận với khoản tín dụng của Ngân hàng. Phân tích luồng tiền Việc khách hàng tạo ra nhiều lợi nhuận trong quá khứ hoặc có khả năng tạo ra lợi nhuận trong tương lai cũng chưa đủ để đảm bảo cho việc hoàn thành nghĩa vụ chi trả của khách hàng, trong trường hợp việc quản lý thu – chi của doanh nghiệp có nhiều bất cập. Liên quan chặt chẽ với khả năng hoạt động của doanh nghiệp là hoạt động quản lý thu – chi, vào, ra của dòng tiền đối trọng với dòng vật chất. Khi kỳ hạn thanh toán nợ lệch pha với kỳ hạn thu tiền của doanh nghiệp, vấn đề hoàn trả đầy đủ, đúng hạn cho Ngân hàng có thể bị vi phạm. Chính vì vậy, Ngân hàng cần đánh giá chi tiết cả sự vận động dòng tiền của doanh nghiệp trong tương lai để có thể đưa ra những dự tính, những quyết định hợp lý liên quan đến việc cấp tín dụng cho khách hàng. * Phân tích các nhóm tỷ số tài chính Như ta đã biết, phương pháp tỷ số là phương pháp rất thông dụng trong phân tích tài chính một doanh nghiệp. Khi sử dụng, có thể kết hợp với phương pháp so sánh hoặc phương pháp phân tích DUPONT để có thể đánh giá, so sánh về mặt thời gian, không gian giữa các giá trị nhận được, hoặc phân tích ảnh hưởng, tác động của các nhân tố khác nhau tới chỉ tiêu nhân tố tổng hợp. Liên quan đến phân tích các tỷ số, có thể phân chia thành các nhóm chỉ tiêu sau: Nhóm chỉ tiêu về khả năng thanh toán Là nhóm chỉ tiêu được sử dụng để đánh giá khả năng đáp ứng các nghĩa vụ thanh toán ngắn hạn của doanh nghiệp. Tài sản lưu động Khả năng thanh toán hiện hành = ¾¾¾¾¾¾¾ Nợ ngắn hạn Như ta đã biết, tài sản lưu động bao gồm tiền, các chứng khoán ngắn hạn dễ chuyển nhượng, các khoản phải thu và hàng tồn kho; còn nợ ngắn hạn bao gồm các khoản vay ngắn hạn các tổ chức tín dụng, các khoản phải trả nhà cung cấp, phải trả phải nộp khác,...Cả tài sản lưu động và nợ ngắn hạn đều có thời hạn nhất định, tuy vậy không lớn hơn một năm. Tỷ số này cho phép xác định khả năng thanh toán trong ngắn hạn của doanh nghiệp, nó cho biết mức độ các khoản nợ của các chủ nợ ngắn hạn được trang trải bằng các tài sản có thể chuyển đổi thành tiền. Tài sản lưu động – dự trữ Khả năng thanh toán nhanh = ¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾ Nợ ngắn hạn Đây là chỉ tiêu được đo bằng tỷ số giữa các tài sản quay vòng nhanh với nợ ngắn hạn. Tài sản quay vòng nhanh là những tài sản có thể nhanh chóng chuyển đổi thành tiền, gồm: tiền, chứng khoán ngắn hạn, các khoản phải thu. Tài sản dự trữ (tồn kho) là tài sản khó chuyển đổi thành tiền hơn trong số các tài sản lưu động, và dễ bị giảm giá trị khi bán gấp. Do vậy, tỷ số khả năng thanh toán nhanh cho biết khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp mà không phụ thuộc vào việc bán tài sản dự trữ. Trên thực tế, việc sử dụng chỉ tiêu thanh toán nhanh sẽ hợp lý hơn việc sử dụng chỉ tiêu thanh toán hiện hành vì một doanh nghiệp chỉ thực sự quản lý các hoạt động tốt khi có thể đáp ứng các yêu cầu chi trả đến hạn mà không phải bán bớt đi các khoản dự trữ - vốn là cơ sở cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Thêm vào đó, việc quản lý các khoản mục trong tài sản lưu động hợp lý (được phản ánh rõ nét hơn qua chỉ tiêu thứ hai) cũng sẽ giúp cho doanh nghiệp hoạt động có ổn định và hiệu quả hơn. Bên cạnh đó, để đánh giá khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn khi đến hạn, các nhà phân tích còn quan tâm đến chỉ tiêu vốn lưu động ròng (net working capital ) hay vốn lưu động thường xuyên của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này được xác định bằng cách xác định phần chênh lệch giữa tổng tài sản lưu động và tổng nợ ngắn hạn, hay là phần chênh lệch giữa vốn thường xuyên ổn định (vốn dài hạn) với tài sản cố định ròng. Khả năng đáp ứng nghĩa vụ thanh toán, mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh và khả năng nắm bắt thời cơ thuận lợi của nhiều doanh nghiệp phụ thuộc lớn vào vốn lưu động ròng. Do vậy sự tăng trưởng của không ít các doanh nghiệp còn được thể hiện ở khả năng tăng trưởng vốn lưu động ròng. Nhóm tỷ số phản ánh khả năng cân đối vốn Được sử dụng để đo lường phần vốn góp của các chủ sở hữu doanh nghiệp so với phần tài trợ của các chủ nợ. Trong phân tích tài chính, cán bộ tín dụng sẽ nhìn vào mức độ góp vốn của chủ sở hữu doanh nghiệp để có thể đánh giá mức độ tin tưởng vào sự đảm bảo an toàn cho các món nợ. Nếu các chủ sở hữu chỉ đóng góp một tỷ lệ nhỏ vào trong tổng vốn thì khi xảy ra rủi ro trong kinh doanh, các chủ nợ sẽ là người gánh chịu phần lớn thiệt hại, như vậy các chủ sở hữu vừa có thể nắm quyền điều hành hoạt động doanh nghiệp nhưng lại phải chịu trách nhiệm rất nhỏ. Đó là việc bất hợp lý mà bất kỳ chủ nợ nào cũng không mong muốn. Bởi vậy, việc cân nhắc tài trợ tín dụng cho doanh nghiệp cũng phần nào bị tác động bởi kết quả phân tích về nợ của doanh nghiệp Hệ số nợ : được xác định bằng tỷ số nợ trên tổng nguồn vốn (tài sản), phản ánh nghĩa vụ của chủ doanh nghiệp đối với các chủ nợ trong việc góp vốn. Về phía các chủ nợ, họ thích hệ số nợ vừa phải vì hệ số này càng thấp thì khoản vay của họ càng được đảm bảo an toàn, trong khi đó chủ sở hữu doanh nghiệp thì lại ưa thích hệ số nợ cao vì họ muốn gia tăng lợi nhuận bằng cách mở rộng đi vay phục vụ việc tăng cường hoạt động sản xuất kinh doanh đem lại lợi nhuận lớn, lại được hưởng phần tiết kiệm thuế nhờ lãi vay, mà vẫn có thể toàn quyền kiểm soát doanh nghiệp. Nhưng, nếu hệ số nợ quá cao, tình trạng mất khả năng thanh toán của doanh nghiệp là hoàn toàn có khả năng xảy ra, bởi vậy xác định hệ số nợ hợp lý là công việc phân tích dành cho phía Ngân hàng khi xem xét cấp tín dụng cho khách hàng. Bên cạnh hệ số nợ, tỷ suất tự tài trợ cũng là một chỉ tiêu có giá trị tương đương trong việc phân tích khả năng tự chủ về vốn, khả năng mở rộng tín dụng đối với doanh nghiệp. Tỷ suất tự tài trợ được xác định bằng cách lấy tỷ số giữa vốn chủ sở hữu và tổng nguồn vốn, như vậy có thể dễ dàng nhận thấy giữa Hệ số nợ và Tỷ suất tự tài trợ có mối liên hệ với nhau: tổng của 2 chỉ tiêu này đúng bằng 1 đơn vị. Khả năng thanh toán lãi vay = EBIT/ lãi vay. Trong đó, EBIT là lợi nhuận trước thuế và lãi vay (Earning Before Tax and Interests), phản ánh số lợi nhuận trước thuế mà doanh nghiệp đạt được chưa tính đến yếu tố phải trả lãi vay. Chỉ tiêu này chỉ ra mức độ của lợi nhuận đảm bảo khả năng trả lãi vay là như thế nào. Nếu chỉ tiêu này không lớn hơn 1, nó chỉ ra rằng lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp không đủ để bù đắp chi phí trả lãi, và nếu tình hình tài chính không được tốt, việc không thể hoàn trả lãi vay đến hạn đe doạ trực tiếp đến tình trạng phá sản của doanh nghiệp. Nhóm tỷ số về khả năng hoạt động Các tỷ số hoạt động được sử dụng để đánh giá hiệu quả sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp. Vốn của doanh nghiệp được dùng để tài trợ cho các loại tài sản khác nhau như tài sản cố định, tài sản lưu động. Do vậy, bên cạnh phân tích chỉ tiêu về sử dụng tổng tài sản, cán bộ tín dụng có thể phân tích các chỉ tiêu về hiệu quả sử dụng của từng bộ phận cấu thành nên tài sản. Trong phân tích này, chỉ tiêu doanh thu được sử dụng chủ yếu để xem xét khả năng hoạt động của doanh nghiệp. Doanh thu trong năm Vòng quay tiền = ¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾ Tiền và các tài sản tương đương tiền bình quân Vòng quay tiền cho phép xác định số lần mà tiền và các tài sản tương đương được quay vòng trong một năm. Chỉ số này cao cho thấy hiệu quả sử dụng tiền của doanh nghiệp là tốt, và nó còn phản ánh khả năng hỗ trợ cho việc thanh toán bằng tiền của nguồn thu từ bán hàng là tốt. Tuy vậy, do chưa phản ánh được giá vốn của hàng bán trong đó, cũng như chưa phản ánh được thời hạn thu tiền của doanh thu, nên chưa chắc doanh thu của doanh nghiệp tăng là kết quả của sự gia tăng trong hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Doanh thu trong năm Vòng quay hàng tồn kho = ¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾¾ Giá trị hàng tồn kho bình quân Đây là một chỉ tiêu khá quan trọng để đánh giá hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tỷ số này cho biết số vòng quay của hàng tồn kho trong năm kinh doanh, nếu vòng quay lớn phản ánh tài sản tồn kho quay vòng nhanh, và đó là dấu hiệu cho thấy tình hình hoạt động khả quan của doanh nghiệp. Tuy vậy, phải xác định rõ liệu lượng hàng tồn kho bình quân trong năm có phản ánh đúng tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp không, hay do hoạt động sản xuất kinh doanh gặp khó khăn nên chỉ sản xuất trong lượng hàng tồn kho mà không bổ sung thêm tồn kho mới, hay có hiện tượng doanh nghiệp đi gửi hàng ở nơi khác,... Thực tế, để phản ánh chính xác hơn ý nghĩa của chỉ tiêu này, tử số của tỷ số này được thay bằng chỉ tiêu Giá vốn hàng bán, vì giá vốn này phản ánh chính xác lượng hàng đã được tiêu thụ - tương ứng với lượng tồn kho được sử dụng để sản xuất ra nó; trong khi đó chỉ tiêu Doanh thu còn bao gồm cả những khoản giảm trừ, những chi phí khác trong đó, có thể phản ánh không đúng về bản chất của chỉ tiêu. Doanh thu trong năm Vòng quay khoản phải thu = ¾¾¾¾¾¾¾¾¾ Phải thu bình quân Cũng như chỉ tiêu vòng quay hàng tồn kho, chỉ tiêu này cho biết bình quân số vòng quay khoản phải thu trong kỳ kinh doanh của doanh nghiệp. Số vòng quay khoản phải thu cao cho thấy vốn của doanh nghiệp được quay vòng nhiều (khoản thu được từ những khoản phải thu sẽ tạo vốn đi vào quá trình sản xuất kinh doanh, từ đó tạo ra hàng hoá và hàng bán được sẽ tạo ra những khoản phải thu mới...), hoặc cho thấy tương quan lớn giữa doanh thu của doanh nghiệp so với các khoản phải thu, cho thấy tình hình thu tiền bán hàng của doanh nghiệp là tốt, từ đó doanh nghiệp có khả năng tái đầu tư hoặc khả năng thanh toán các khoản đến hạn cao. Trên cơ sở Vòng quay khoản phải thu, cán bộ tín dụng cũng có thể xác định chỉ tiêu kỳ thu tiền bình quân, được xác định bằng cách lấy số ngày bình quân của chu kỳ kinh doanh chia cho số vòng quay khoản phải thu. Chỉ tiêu đó phản ánh số ngày bình quân để thu hồi khoản phải thu của doanh nghiệp, và được sử dụng để phân tích bổ sung hoặc để tính những chỉ tiêu tổng hợp khác. Thông thường, số ngày bình quân của chu kỳ kinh doanh được lấy là 360 ngày, từ đó ta có: Kỳ thu tiền bình quân = Phải thu ´ 360/ Doanh thu Hiệu suất sử dụng tài sản = Doanh thu / Tổng tài sản Chỉ tiêu này còn được gọi là vòng quay toàn bộ tài sản của doanh nghiệp, nó cho biết một đồng tài sản đem lại bao nhiêu đồng doanh thu. Chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp, tuy vậy vẫn cần chú ý đến các khoản làm giảm trừ doanh thu, các chi phí liên quan đến bán hàng, quản lý, tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp trong doanh thu chung,.. bởi đây là những yếu tố góp phần ảnh hưởng tới lợi nhuận tạo ra từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó phản ánh chính xác hơn hiệu quả của việc sử dụng tài sản của doanh nghiệp. Có thể phân chia, đánh giá chi tiết hiệu quả sử dụng của từng khoản mục trong chỉ tiêu tài sản: hiệu suất sử dụng tài sản cố định, và các hiệu suất như đã được phản ánh với các tên gọi khác trên đây (vòng quay hàng tồn kho, vòng quay khoản phải thu,...). Chú ý là chỉ tiêu tài sản cố định sử dụng trong phân tích được xác định với giá trị còn lại tính đến thời điểm lập báo cáo. Nhóm tỷ số về khả năng sinh lãi Là những tỷ số phản ánh tổng hợp nhất về hiệu quả sản xuất - kinh doanh và quản lý doanh nghiệp. Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm = TNST/ Doanh thu Chỉ tiêu này được xác định bằng cách lấy Thu nhập sau thuế của doanh nghiệp chia cho Doanh thu thuần từ hoạt động sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp. Nó phản ánh số lợi nhuận sau thuế được tạo ra bởi một đồng doanh thu. Tỷ số này cao hay thấp, tăng trưởng hay sụt giảm so với các kỳ trước hay so với mức trung bình ngành đều có thể là cơ sở để khẳng định về tình hình hoạt động của doanh nghiệp có xu hướng tốt hay xấu đi. Doanh lợi vốn chủ sở hữu: ROE = TNST/ VCSH Tỷ số thu nhập sau thuế trên vốn chủ sở hữu này phản ánh khả năng sinh lợi của vốn chủ sở hữu, nó được các nhà đầu tư đặc biệt quan tâm khi họ quyết định bỏ vốn đầu tư vào doanh nghiệp, tuy vậy đối với Ngân hàng thì đây cũng là một yếu tố quan trọng để có thể đánh giá hiệu quả hoạt động doanh nghiệp một cách khá toàn diện. Việc tăng mức doanh lợi vốn chủ sở hữu là một mục tiêu quan trọng nhất trong hoạt động quản lý tài chính của doanh nghiệp, và nó cũng phản ánh được sự gia tăng tổng hợp về các mặt trong hoạt động của doanh nghiệp. Doanh lợi tài sản: ROA = TNST/ Tài sản Đây là chỉ tiêu tổng hợp nhất, đánh giá mức sinh lợi trên một đồng vốn đầu tư. Việc tăng, giảm chỉ tiêu này cũng là cơ sở cho việc xác định năng lực hoạt động của doanh nghiệp trong so sánh tương quan về thời gian, không gian. Việc xác định các tỷ số trên có thể được xác định khác nhau ở các Ngân hàng, khi họ thay thế chỉ tiêu Thu nhập sau thuế EAT bằng chỉ tiêu Thu nhập trước thuế EBT. Các kết quả có thể khác nhau nhưng với các kết quả đó, kết luận về tình hình tài chính của doanh nghiệp là hoàn toàn tương đương, vì giữa hai chỉ tiêu này chỉ có sự khác nhau về tỷ lệ cố định: (1- Thuế suất thuế TNDN). Trong phân tích của mình, cán bộ tín dụng có thể sử dụng phương pháp phân tích tài chính DUPONT để xem xét ảnh hưởng của các yếu tố thành phần tới yếu tố tổng hợp của doanh nghiệp. Tách ROE ROE = TNST/ VCSH = TNST/ TS ´ TS/ VCSH = ROA ´ EM Trong đó EM: Số nhân vốn. Như vậy, qua phân tích có thể thấy các yếu tố tác động đến doanh lợi vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp bao gồm doanh lợi tài sản, và số nhân vốn của doanh nghiệp. EM là hệ số nhân vốn của chủ sở hữu, nó cho biết mức độ huy động vốn từ bên ngoài của doanh nghiệp. Nếu ROE tăng do EM tăng, điều đó cho thấy doanh lợi vốn chủ sở hữu đã gia tăng do việc gia tăng nợ của doanh nghiệp, điều này cũng hợp lý do hiệu ứng của việc tiết kiệm thuế nhờ lãi vay. Nếu ROE tăng do ROA tăng, rõ ràng rằng việc gia tăng hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp sẽ tác động làm gia tăng doanh lợi của chủ sở hữu. Trong trường hợp có biến động ngược lại, cán bộ tín dụng hoàn toàn có thể phân tích tương tự để đi đến kết luận về các nhân tố ảnh hưởng, cũng như mức độ ảnh hưởng tới chỉ tiêu chung. Tách ROA ROA = TNST/ Tài sản = TNST/ Doanh thu ´ Doanh thu/ Tài sản = PM ´ AU Trong đó, PM là doanh lợi tiêu thụ sản phẩm, còn AU là hiệu suất sử dụng tài sản của doanh nghiệp, như đã được giới thiệu ở trên. Như vậy, thông qua phân tích tách tỷ số, ta có thể xác định các yếu tố ảnh hưởng tới các chỉ tiêu ROA, ROE, từ đó sẽ xác định được các chỉ tiêu tác động mạnh mẽ tới tình hình tài chính của doanh nghiệp. * Lập bảng tài trợ Trong phân tích nguồn vốn và sử dụng vốn (lập Bảng tài trợ ), người ta thường xem xét sự thay đổi các nguồn vốn và cách thức sử dụng vốn của doanh nghiệp trong một thời kỳ theo số liệu giữa hai thời điểm lập Bảng cân đối kế toán. Bảng tài trợ cho phép người phân tích xác định rõ các nguồn cung ứng vốn và việc sử dụng các nguồn vốn đó. Khi lập bảng này, cán bộ tín dụng trước hết phải liệt kê sự thay đổi các khoản mục trên Bảng cân đối kế toán từ đầu kỳ đến cuối kỳ. Mỗi sự thay đổi được phân biệt ở hai cột: sử dụng vốn và nguồn vốn theo nguyên tắc: - Nếu các khoản mục bên tài sản tăng hoặc các khoản mục bên nguồn vốn giảm thì điều đó thể hiện việc sử dụng vốn. - Nếu các khoản mục bên tài sản giảm hoặc các khoản mục bên nguồn vốn tăng thì điều đó thể hiện việc tạo nguồn. Việc thiết lập Bảng tài trợ là cơ sở để cán bộ tín dụng chỉ ra những trọng điểm đầu tư vốn và những nguồn vốn chủ yếu được hình thành để đầu tư. Sau khi đã phân tích các chỉ tiêu như trên, một phân tích rất quan trọng đối với cán bộ tín dụng là xác định nhu cầu vốn thực sự của doanh nghiệp, trong đó nhu cầu vốn được xác định khác nhau căn cứ vào loại hình tín dụng mà doanh nghiệp xin tài trợ. Dựa vào đặc điểm của từng loại hình tín dụng, có thể xác định một số nhu cầu vốn của doanh nghiệp như sau: Đối với cho vay trực tiếp từng lần Nhu cầu vay vốn = Nhu cầu vốn cho SXKD – Vốn tự có – Vốn khác trong đó, nhu cầu vốn cho SXKD chính là tổng nhu cầu về TSCĐ và TSLĐ phục vụ cho hoạt động SXKD. Đối với cho vay theo hạn mức Hạn mức tín dụng = Nhu cầu bổ sung VLĐ – Vốn tự có – Vốn khác Nhu cầu bổ sung VLĐ = Tổng chi phí SXKD/ vòng quay VLĐ Tổng chi phí SXKD = Chi phí NVL dự trữ + Chi phí Sản phẩm dở dang + Thành phẩm tồn kho bình quân + Chi phí bình quân khác Vòng quay VLĐ = Vòng quay hàng tồn kho + Thời gian thu hồi các khoản phải thu - Thời gian chậm trả các khoản phải trả Đối với cho vay theo dự án đầu tư Mức cho vay tối đa = Nhu cầu vốn Thực hiện dự án - Vốn tự có tham gia dự án - Vốn khác Tóm lại, trong phân tích tài chính doanh nghiệp, với rất nhiều nguồn thông tin cung cấp khác nhau, việc xác minh, xử lý và chọn lọc các thông tin là hết sức quan trọng. Hơn nữa, đối với mỗi loại hình doanh nghiệp, với mỗi loại hình vay vốn, thời hạn vay vốn khác nhau, các phân tích cũng như các chỉ tiêu để đánh giá là khác nhau. Bởi vậy, nhiệm vụ của cán bộ tín dụng là phải sử dụng các chỉ tiêu phù hợp, thực hiện các phân tích với độ chính xác, độ tin cậy tối đa để đảm bảo cho chất lượng của phân tích tài chính doanh nghiệp. 1.2.2. Chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại 1.2.2.1. Khái niệm chất lượng phân tích Tài chính doanh nghiệp Theo Từ điển thuật ngữ kinh tế – NXB Từ điển Bách Khoa Hà Nội, 2001 thì: Chất lượng là toàn bộ các đặc tính của một hàng hoá hoặc dịch vụ đáp ứng được yêu cầu của người mua. Vật liệu, kiểu dáng và kỹ thuật chế biến là những đặc điểm quan trọng của chất lượng sản phẩm, ảnh hưởng đến việc tiêu dùng sản phẩm đó. Như vậy, có thể hiểu nghĩa chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp của Ngân hàng như sau: Chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp là toàn bộ các đặc tính của phân tích đáp ứng với yêu cầu và mục đích của Ngân hàng. Thông tin và phương pháp xử lý thông tin phục vụ cho phân tích, sự phù hợp của các chỉ tiêu phân tích là những đặc điểm quan trọng của chất lượng phân tích, ảnh hưởng đến việc sử dụng kết quả phân tích. Một phân tích sẽ có chất lượng tốt nếu nó đáp ứng cao với yêu cầu của Ngân hàng, phù hợp với chiến lược hoạt động, phát triển của Ngân hàng. Vì vậy, khi so sánh giữa kết quả hoạt động tín dụng của hai Ngân hàng khác nhau, nếu một Ngân hàng có hoạt động tín dụng hiệu quả hơn Ngân hàng kia thì cũng chưa thể kết luận rằng chất lượng tín dụng của Ngân hàng đó là tốt hơn, mà phải quan tâm đến cả chiến lược hoạt động của hai Ngân hàng. Có thể Ngân hàng hoạt động kém hiệu quả hơn là do áp dụng chính sách rủi ro hơn, vì vậy trong trường hợp này, chất lượng của phân tích nhấn mạnh vào tính phù hợp với mục tiêu, chính sách. 1.2.2.2. Chỉ tiêu phản ánh chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp Mức độ chính xác của kết quả phân tích Như đã nêu trên, một phân tích có chất lượng tốt nếu nó đáp ứng cao với yêu cầu sử dụng của ngân hàng, đem lại kết quả phù hợp với mục tiêu, chiến lược hoạt động của ngân hàng. Ngân hàng sử dụng kết quả phân tích nhằm đưa ra quyết định đối với khoản tín dụng của khách hàng, liên quan đến việc cấp hay không cấp tín dụng cho khách hàng, tăng cường hay buông lỏng giám sát, quản lý đối với một khoản tín dụng của khách hàng. Vì vậy để đảm bảo cho quyết định được đưa ra một cách chính xác, làm cơ sở cho thực hiện mục tiêu đã đặt ra, nâng cao hiệu quả hoạt động cho ngân hàng, các kết quả phân tích phải đảm bảo độ chính xác cao. Mức độ chính xác được đề cập ở đây bao gồm cả chính xác về mặt các kết quả phân tích đạt được cũng như chính xác về mặt sử dụng các tiêu thức để tiến hành phân tích. Một phân tích sẽ không thể đạt chất lượng tốt nếu chỉ đạt được tính chính xác về con số mà không tính đến sự phù hợp của chỉ tiêu phân tích với mục đích sử dụng kết quả phân tích. Thời gian tiến hành phân tích Việc phân tích tài chính khách hàng chỉ có thể diễn ra trong một thời gian nhất định, đảm bảo cho ngân hàng có thể đưa ra những quyết định kịp thời. Kết quả phân tích tín dụng đưa ra không những đòi hỏi phải đạt độ chính xác cao mà còn phải kịp thời, nhanh chóng để Ngân hàng đưa ra các quyết định tín dụng của mình, nhằm tiết kiệm thời gian, nâng cao hiệu quả hoạt động cho ngân hàng. Việc chậm trễ trong phân tích tài chính khách hàng có thể làm cho khách hàng mất đi cơ hội kinh doanh, cũng có thể làm cho ngân hàng phải chịu thêm chi phí cho khoản huy động được của mình trong những ngày chậm trễ, hoặc có thể dẫn đến việc mất khách hàng.Vì vậy, cùng kết quả phân tích như nhau, thời gian phân tích cũng góp phần phản ánh chất lượng của phân tích. Chi phí tiến hành phân tích Việc tìm nguồn khai thác thông tin rẻ hơn, giảm chi phí cho hoạt động phân tích chính là việc nâng cao chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp của NHTM. Chi phí thấp sẽ góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế của hoạt động phân tích, là cơ sở cho nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Bên cạnh các chỉ tiêu trên, có thể đánh giá chất lượng của phân tích tài chính doanh nghiệp thông qua tỷ lệ nợ xấu của Ngân hàng. Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ là tỷ lệ để đánh giá chất lượng của tổ chức tín dụng. Tỷ lệ nợ xấu phản ánh tình trạng yếu kém về khả năng thanh toán của các khách hàng đối với khoản tín dụng của ngân hàng, trong đó chiếm tỉ trọng lớn là các khách hàng doanh nghiệp. Bởi vậy, trong chừng mực nào đó, có thể coi đây là một chỉ tiêu phản ánh chất lượng của phân tích tài chính doanh nghiệp đối với NHTM. Việc xác định các chỉ tiêu phản ánh chất lượng phân tích là rất quan trọng. Để nâng cao chất lượng của phân tích Tài chính doanh nghiệp, Ngân hàng phải xác định được các chỉ tiêu phản ánh chất lượng phân tích, từ đó tìm ra những yếu tố tác động, ảnh hưởng đến các chỉ tiêu đó, qua đó xác định, thực hiện các biện pháp thích hợp nhằm nâng cao chất lượng phân tích, góp phần đạt được mục đích của mình. 1.3. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI CHẤT LƯỢNG PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.3.1. Chất lượng nguồn thông tin phân tích Điều kiện tiên quyết đảm bảo cho kết quả phân tích được chính xác chính là chất lượng của nguồn thông tin phục vụ cho việc phân tích. Một phân tích không thể đạt kết quả chính xác nếu thông tin mà nó sử dụng không chính xác, không đáng tin cậy. Chất lượng nguồn thông tin được xác định bởi tính chính xác và tính thời sự của thông tin. Một tín hiệu tốt từ phía doanh nghiệp hay một dấu hiệu không tốt từ phía doanh nghiệp nếu được phản ánh kịp thời sẽ góp phần quan trọng cho việc ra quyết định tín dụng đối với doanh nghiệp. Một thông tin chính xác là cơ sở cho ngân hàng ra quyết định phù hợp với tình hình thực tiễn của doanh nghiệp. Chất lượng nguồn thông tin phụ thuộc chủ yếu vào tính chính xác của các số liệu do khách hàng cung cấp. Thông thường, với những thông tin được cung cấp bởi các tổ chức bên ngoài, những thông tin do chính ngân hàng lưu trữ, tính chính xác thường đạt rất cao. Vấn đề là đối với các doanh nghiệp khi đi vay vốn của ngân hàng, để đạt được mục đích, họ thường làm “đẹp” các số liệu của mình, và việc xác minh những thông tin này thường là rất khó khăn. Tình trạng này còn xảy ra tồi tệ hơn khi mà các doanh nghiệp sử dụng những bộ số liệu khác nhau để đối phó với các cơ quan khác nhau, nhằm che giấu tình trạng khó khăn hoặc bất minh của mình. Điều này gây ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng của phân tích tài chính doanh nghiệp trong hoạt động tín dụng của NHTM. Những quyết định cho vay trong trường hợp này cho thấy sự lỏng lẻo trong phân tích tài chính khách hàng của ngân hàng, từ đó làm giảm hiệu quả của khoản tín dụng, cũng như nâng cao khả năng tổn thất cho ngân hàng. Bên cạnh nguồn thông tin do khách hàng cung cấp, việc phân tích của cán bộ tín dụng cũng sử dụng những thông tin lưu trữ tại Ngân hàng, hoặc những thông tin được khai thác từ các nguồn khác. Trong quá trình giao dịch với khách hàng, Ngân hàng sẽ lưu trữ những thông tin cần thiết về khách hàng, về lĩnh vực kinh doanh, những điều kiện thuận lợi và khó khăn trong lĩnh vực hoạt động của khách hàng, cũng như những kinh nghiệm xử lý và giải quyết các tình huống gặp phải,…Ngân hàng cũng có thể tiến hành mua thông tin từ các tổ chức cung cấp tin để phục vụ cho nhu cầu của mình. Những thông tin này sẽ là cơ sở cho việc khai thác và đối chiếu sau này nhằm phân tích chính xác, đầy đủ hơn về khách hàng. Nếu các thông tin được cung cấp không đầy đủ hoặc kém chính xác, hoặc việc lưu trữ và xử lý thông tin không được chú trọng và còn xảy ra hiện tượng sai sót, nhầm lẫn, việc phân tích tài chính khách hàng sẽ gặp nhiều khó khăn, và có thể dẫn đến quyết định sai lầm trong cho vay, trong việc xác định thời hạn, lãi suất hoặc số tiền cho vay đối với khách hàng. Như vậy, chất lượng nguồn thông tin là yếu tố cơ bản đầu tiên có ảnh hưởng lớn tới hoạt động phân tích tài chính khách hàng, bên cạnh đó còn những yếu tố khá quan trọng khác cũng ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động này. 1.3.2. Phương pháp phân tích Việc sử dụng phương pháp phân tích tài chính khách hàng được thực hiện khác nhau đối với các khách hàng khác nhau. Như ta đã biết, có rất nhiều phương pháp để phân tích tài chính khách hàng. Mỗi phương pháp khác nhau cho ta xác định những thông tin khác nhau về tình hình tài chính, hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp mới thành lập, không thể sử dụng phương pháp so sánh theo thời gian vì sẽ không đủ số liệu, thay vào đó có thể sử dụng phép so sánh theo không gian để đánh giá năng lực hoạt động của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có quy mô lớn hơn, với nhu cầu tín dụng lớn cần phải được phân tích kĩ càng, sử dụng nhiều phương pháp phân tích hơn, so với một doanh nghiệp có quy mô nhỏ hơn, nhu cầu vốn ít hơn. Một phương pháp phân tích được sử dụng đúng chỗ sẽ cung cấp thông tin chính xác cho cán bộ tín dụng, ngược lại một phương pháp, một chỉ tiêu được sử dụng không hợp lý sẽ làm ảnh hưởng tới kết quả phân tích. 1.3.3. Đội ngũ cán bộ tín dụng Cán bộ tín dụng là người trực tiếp làm việc, tiếp xúc với khách hàng, đồng thời cũng chính là người thực hiện việc phân tích tài chính khách hàng, vì vậy họ đóng một vai trò quan trọng việc tác động tới chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp của Ngân hàng. Số lượng, chất lượng cán bộ tín dụng là hai yếu tố cơ bản tác động tới chất lượng đó. Khi quy mô của cán bộ tín dụng nhỏ so với khối lượng công việc, mỗi cán bộ tín dụng phải đảm nhiệm một khối lượng công việc lớn, vì vậy ảnh hưởng không tốt tới chất lượng của phân tích, còn khi quy mô của cán bộ tín dụng là lớn so với lượng công việc thì gây ra sự lãng phí về nguồn nhân lực, gây tốn kém chi phí cho Ngân hàng. Trong khi đó, chất lượng của cán bộ tín dụng bao gồm cả trình độ chuyên môn, kinh nghiệm nghề nghiệp và cả tư chất đạo đức. Trình độ chuyên môn cho phép cán bộ tín dụng có thể sử dụng linh hoạt, hợp lý các công cụ phân tích, trong khi đó kinh nghiệm nghề nghiệp cho phép cán bộ tín dụng cảm nhận được các thông tin đáng ngờ, cảm nhận được các rủi ro tiềm ẩn, xử lý tốt các số liệu nghi vấn. Cuối cùng, yếu tố tư chất đạo đức của cán bộ tín dụng cũng tác động tới kết quả phân tích. Nếu cán bộ tín dụng công tâm, trung thực thì các kết quả phân tích của họ sẽ mang tính khách quan. Nếu cán bộ tín dụng không chú tâm vào công việc, hoặc có hiện tượng câu kết với khách hàng, đó sẽ là nguy cơ xấu cho hoạt động tín dụng của ngân hàng. Cả ba yếu tố này của cán bộ tín dụng đều phải được đảm bảo đồng bộ, nhịp nhàng nhằm làm cho kết quả phân tích được chính xác. 1.3.4. Các nhân tố khác Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ công tác phân tích Việc khai thác thông tin từ những nguồn sẵn có, việc thu thập và xử lý thông tin đòi hỏi phải có một hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật tốt nhằm rút ngắn thời gian, nâng cao độ chính xác, tăng độ tin cậy của nguồn thông tin. Một cơ sở vật chất, các phương tiện phục vụ cho công tác phân tích nghèo nàn, lạc hậu sẽ là yếu tố tác động tiêu cực tới chất lượng của phân tích. Hệ thống máy tín._.g. Dư nợ tín dụng và lợi nhuận do tín dụng mang lại chiếm tỷ trọng lớn, và ngày càng gia tăng cũng cho thấy hiệu quả của hoạt động tín dụng của VPBank. Về mặt tổ chức hoạt động, Ngân hàng đã thành công trong việc xây dựng quy trình tín dụng hợp lý, với các văn bản, quy chế hướng dẫn việc tổ chức thực hiện phân tích tín dụng khá đầy đủ, chi tiết, làm cơ sở cho hoạt động phân tích tài chính của khách hàng. Về mặt đội ngũ cán bộ, Ngân hàng sở hữu một đội ngũ nhân viên trẻ, năng động, nhiệt tình, sáng tạo trong công việc, góp phần nâng cao hiệu quả trong công việc. Về mặt quản lý, Ngân hàng cũng đã đạt được những hiệu quả nhất định trong việc nắm bắt kịp thời, sao sát về những diễn biến thị trường để tạo các điều kiện tốt hơn cho mình trong hoạt động. 2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân 2.3.2.1. Hạn chế Bên cạnh những thành công đã đạt được, vẫn còn những hạn chế mà Ngân hàng cần phải khắc phục để nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của mình, xứng đáng với mục tiêu Ngân hàng bán lẻ hàng đầu khu vực. Trong việc cung cấp thông tin lưu trữ, tra cứu thông tin Thông tin lưu trữ tại Ngân hàng là không nhiều, chủ yếu là dựa vào các hồ sơ tín dụng cũ lưu giữ, việc truy xuất thông tin còn khó khăn. Ngân hàng cũng đã tham gia hệ thống lưu giữ thông tin của trung tâm thông tin tín dụng CIC nhưng chưa thực sự quan tâm tới việc cập nhật thông tin cho trang này, bằng chứng là có khách hàng đã từng quan hệ tín dụng với VPBank nhưng khi tra cứu trên CIC thì không có thông tin. Thông tin tham khảo từ bảng chấm điểm tín dụng vẫn còn chưa xác đáng: cho dù các bảng chấm điểm tín dụng được xây dựng khá chi tiết cho các chỉ tiêu, các mức độ nhưng vẫn còn chưa chú trọng việc phân biệt quy mô của doanh nghiệp, bảng còn mang tính chủ quan của lãnh đạo Ngân hàng. Trong khi đó một số chỉ tiêu định lượng về các tỷ số tài chính do Ngân hàng đưa ra lại thiếu chi tiết cho đối tượng, chưa đảm bảo tin cậy cho việc tham khảo. Trong việc thực hiện phân tích tài chính Phương pháp so sánh theo thời gian, không gian chưa được thực hiện. Nếu không có sự so sánh như vậy thì không thể nhận thấy sự yếu kém hoặc sự suy giảm trong hoạt động của doanh nghiệp qua thời gian, đối với các doanh nghiệp có cùng lĩnh vực,...Cũng như vậy, phương pháp phân tích tài chính DUPONT chưa được sử dụng. Đây là một phương pháp cũng góp phần quan trọng cho việc làm rõ phân tích tài chính doanh nghiệp, khi mà việc biến động của các chỉ tiêu được chỉ ra những yếu tố, cũng như mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đó. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ chưa được đánh giá như là một Báo cáo tài chính quan trọng giúp cho việc phân tích, trong các yêu cầu của Ngân hàng đối với khách hàng không nhất thiết phải có báo cáo này. Sau cùng, việc lập và sử dụng Bảng tài trợ cũng chưa được áp dụng để đánh giá về tình hình nguồn vốn và sử dụng nguồn vốn của khách hàng, từ đó không giúp cho CBTD xác định chính xác sự vận động của giá trị trong doanh nghiệp. Trong tổ chức cán bộ Chưa có sự chuyên môn hoá dựa trên mảng hoạt động, hiện tại các cán bộ tín dụng phải đảm nhiệm nhiều hoạt động tín dụng, với nhiều lĩnh vực khác nhau, làm cho hiệu quả công việc còn chưa cao. Hơn nữa, đội ngũ nhân viên trẻ lại gây ra một hạn chế về mặt kinh nghiệm trong phân tích, dẫn đến việc thu thập, xử lý thiếu thông tin, tạo ra các kết quả nhầm lẫn, sai lệch trong phân tích,...làm cho chất lượng phân tích còn chưa cao. Trong công nghệ Những công nghệ cũ kỹ, lạc hậu vẫn được sử dụng trong Ngân hàng, làm giảm hiệu quả hoạt động của cán bộ tín dụng, từ đó ảnh hưởng tới chất lượng của phân tích tín dụng. Việc xếp hạng tín dụng tuy đã có bảng hướng dẫn nhưng để đánh giá xếp hạng, CBTD vẫn phải làm theo các bước thủ công để tính điểm. Việc quản lý nợ, thu hồi gốc và lãi của CBTD cũng chưa được tự động hoá, CBTD buộc phải thường xuyên tự theo dõi để nhắc khách hàng trả lãi khi đến sát ngày trả,... 2.3.2.2. Những nguyên nhân Nguyên nhân thuộc về VPBank Chưa đảm bảo được chất lượng của nguồn thông tin Thông tin sử dụng để phân tích tài chính khách hàng được tổng hợp từ nhiều nguồn, trong đó có các nguồn quan trọng là thông tin do khách hàng cung cấp và thông tin do ngân hàng cung cấp, hướng dẫn. Đối với thông tin do khách hàng cung cấp, CBTD hầu như chỉ có thể đánh giá được qua việc tiếp xúc ban đầu với khách hàng, chính vì vậy công tác tiếp xúc ban đầu với khách hàng là rất quan trọng. CBTD nếu sơ suất trong khâu tiếp xúc sẽ gặp khó khăn trong việc xác minh lại những thông tin trong các báo cáo tài chính, trong phương án kinh doanh mà doanh nghiệp đề ra. Việc ngân hàng không có những đợt đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên để cung cấp những thông tin, kinh nghiệm trong việc tiếp xúc với khách hàng chính là nguyên nhân dẫn đến sự không đảm bảo trong thông tin nói trên. Đối với thông tin do VPBank cung cấp, sự đảm bảo là vẫn chưa cao do chưa có cho riêng mình một mạng thông tin khai thác nội bộ, các thông tin hướng dẫn như các chỉ số về chỉ tiêu tài chính, bảng xếp hạng tín dụng vẫn chưa thực sự đầy đủ và chính xác để có thể giúp cho việc tham khảo của CBTD cũng như của các cán bộ có liên quan tới việc phân tích tài chính doanh nghiệp. Chưa coi trọng đến các phương pháp phân tích Có thể nhận thấy như vậy khi mà một số phương pháp phân tích cơ bản chưa được chú trọng ở đây. Chất lượng của nguồn thông tin là rất tốt nhưng công việc phân tích cũng giữ một vai trò quan trọng vì không những nó giúp đưa ra được một kết quả phân tích xác đáng, chi tiết mà còn có thể thông qua nó để phát hiện những bất thường trong thông tin tham khảo. Không có những so sánh, hay có những phân tích chi tiết về nguyên nhân, nguồn gốc của kết quả phân tích, sẽ làm cho việc phân tích của CBTD có nhiều thiếu sót. Khi thiếu sót trong khâu phân tích, CBTD có thể sẽ mắc phải những sai lầm khi đưa ra những thông tin còn bị hạn chế, sai sót, hoặc có thể sẽ bị bỏ qua cơ hội đến với khách hàng. Chưa chú trọng đến công tác đào tạo cán bộ Thời lượng đào tạo không nhiều, quy mô đào tạo còn hạn chế, và nội dung đào tạo chưa được sâu sát sẽ là nguyên nhân dẫn đến chất lượng của đội ngũ cán bộ công nhân viên. Cán bộ công nhân viên, đặc biệt là cán bộ tín dụng là người có vai trò rất lớn trong đánh giá, phân tích tài chính khách hàng. CBTD là người thu thập, xử lý và phân tích thông tin. Dù được dựa trên thông tin và phương pháp phân tích xác đáng, song sự non yếu trong kinh nghiệm hoặc sự yếu kém trong chuyên môn của CBTD sẽ là nguyên nhân dẫn đến những sai lầm trong quyết định cho vay của VPBank, hoặc cả trong quyết định không cho vay của Ngân hàng. Các nhân tố khác Do những yếu tố nhầm lẫn, sơ suất, hay do yếu tố rủi ro trong nội bộ: sai sót trong khâu ghi chép, nhập liệu, tính toán, mức độ tỉnh táo, tập trung trong công việc,...Bên cạnh đó là sự yếu kém, lạc hậu trong công nghệ cũng là nguyên nhân gây nên sự lãng phí thời gian và tiền bạc để quản lý những khoản vay...Tất cả những yếu tố này cũng tác động tới kết quả phân tích theo chiều hướng xấu, làm giảm chất lượng của việc phân tích, gây nên tình trạng kém hiệu quả trong hoạt động chung của VPBank. Những nguyên nhân bên ngoài Nguyên nhân về phía khách hàng: Khách hàng là người cung cấp thông tin trực tiếp cho Ngân hàng, là người thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh. Những thông tin do khách hàng cung cấp vẫn còn thiếu chính xác: việc tổ chức hoạt động của khách hàng không gặp thuận lợi do các yếu tố khác nhau, khách hàng có ý lừa ngân hàng, .. tất cả điều này đều tác động làm sai lệch kết quả phân tích, đánh giá của Ngân hàng. Nguyên nhân về phía cơ quan quản lý Nhà nước Việc cơ quan Nhà nước còn chưa tạo điều kiện thuận lợi cho việc phân tích: nhũng nhiễu, yếu kém trong tổ chức, quản lý làm ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng của phân tích tài chính khách hàng. Việc cơ quan quản lý Nhà nước không đưa ra được sự quản lý sát sao với thị trường, cũng như không đưa ra những thông tin chung về thị trường, những chi tiêu về mức trung bình ngành gây khó khăn cho việc làm cơ sở so sánh, đánh giá doanh nghiệp trong hoạt động phân tích của các Ngân hàng nói chung, và của VPBank nói riêng. Những yếu tố về thị trường Sự bất ổn, rủi ro trong thị trường hoạt động của doanh nghiệp, sự cạnh tranh giữa các Ngân hàng tác động tới mọi hoạt động trong Ngân hàng, không loại trừ cả hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp, từ đó ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng của hoạt động này. Thực trạng hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp tại VPBank và các yếu tố tác động tới nó đã được làm rõ. Trên cơ sở những nhân tố tác động đó, những giải pháp nâng cao chất lượng của phân tích tài chính doanh nghiệp tại Ngân hàng sẽ được nghiên cứu ở chương tiếp theo. CHƯƠNG 3 GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TẠI VPBANK 3.1. ĐỊNH HƯỚNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA VPBANK TRONG THỜI GIAN TỚI Để hoàn thành mục tiêu tăng trưởng trong thời gian tới và mục tiêu trở thành Ngân hàng bán lẻ hàng đầu khu vực trong tương lai không xa, VPBank đã đặt ra cho mình định hướng phát triển như sau: 3.1.1. Những định hướng chung Bảng 3.1. Định hướng của VPBank trong thời gian tới. Khách hàng mục tiêu - Khách hàng tiêu dùng cá nhân. - Doanh nghiệp vừa và nhỏ(SME) - Hộ kinh doanh cá thể. Tín dụng - Đa dạng hoá và phát triển các dịch vụ tín dung bán lẻ. - Tín dụng mua nhà và mua xe ôtô sẽ là các sản phẩm chiến lược. - Phát triển các loại hình tín dụng bán lẻ mới như: tín dụng mua xe máy, cho vay nóng các hộ kinh doanh. Dịch vụ - Triển khai các dịch vụ áp dụng công nghệ mới như internet-banking, home-banking - Cải tiến và hoàn thiện quy trình chuẩn. - Sử dụng các hoạt động xúc tiến bán hàng để bán chéo sản phẩm. - Cá nhân hoá các sản phẩm dịch vụ. Mạng lưới phân phối - Phát triển thêm nhiều chi nhánh trên các tỉnh thành phố - Mở rộng nhiều loại hình kênh phân phối(Trung tâm liên hệ khách hàng, internet, ATM, mobile…) Công nghệ - Áp dụng hệ thống core – banking mới để phát triển các hoạt động kinh doanh - Phát triển tối đa các ứng dụng của hệ thống core banking mới - Triển khai các phần mềm ứng dụng khác như: CRM, quản trị rủi ro, quản lý hành chính… Nhân sự - Lập kế hoạch nhân sự trung và dài hạn phù hợp theo tiến trình phát triển của ngân hàng. - Sử dụng chính sách cổ đông hóa nhân viên ( Nguồn: VPBank hội sở, 2005) 3.1.2. Những định hướng riêng của hoạt động tín dụng Trong năm 2006, ban điều hành VPBank đề ra mục tiêu phấn đấu đạt được một số chỉ tiêu chủ yếu như sau: Nguồn vốn huy động: tăng trưởng 35% so với năm 2005 Dư nợ tín dụng trong hạn: tăng trưởng 30% so với năm 2005 Lợi nhuận sau dự phòng: xấp xỉ 100 tỷ đồng. Theo đó, để thực hiện các định hướng trên, VPBank đã xác định các biện pháp thực hiện những biện pháp như: Chú trọng các biện pháp tăng cường huy động vốn: nghiên cứu các sản phẩm dịch vụ bán lẻ, nhất là các sản phẩm có ứng dụng công nghệ ngân hàng hiện đại như sản phẩm thẻ, thanh toán điện tử, phát triển các dịch vụ, mở rộng, nâng cấp các phòng giao dịch thành các chi nhánh cấp II để tăng cường hoạt động của các đơn vị, đẩy mạnh việc quảng bá hình ảnh Ngân hàng để thu hút khách hàng. Tiếp tục duy trì quan hệ tốt trên thị trường liên Ngân hàng, khai thác và sử dụng hiệu quả nguồn vốn từ thị trường liên ngân hàng để gia tăng lợi nhuận. Chú trọng công tác đào tạo cho đội ngũ nhân viên , đặc biệt là các nhân viên mới cho các chi nhánh, các phòng giao dịch, đảm bảo chất lượng hoạt động tại các điểm giao dịch. 3.2. GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TẠI VPBANK Với những định hướng phát triển nói chung và định hướng cụ thể về hoạt động tín dụng trong thời gian tới, Ngân hàng VPBank đã cho thấy mục tiêu nâng cao khả năng hoạt động, nâng cao vị thế của mình trên thị trường. Để góp phần thực hiện định hướng đó, việc nâng cao chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp trong hoạt động tín dụng là hoàn toàn cần thiết. Trên cơ sở những nguyên nhân tác động làm hạn chế việc nâng cao chất lượng tài chính doanh nghiệp , xin đưa ra những giải pháp sau: 3.2.1. Nâng cao chất lượng thông tin phân tích Thông tin phân tích là yếu tố quan trọng hàng đầu tác động đến chất lượng của phân tích. Vì vậy, nâng cao chất lượng của thông tin sử dụng trong phân tích là yếu tố cơ bản để nâng cao chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp tại VPBank. * Tăng cường việc tìm hiểu khách hàng ban đầu, tăng cường tiếp xúc với khách hàng Thực tế cho thấy công tác tiếp xúc với khách hàng ban đầu rất quan trọng. Thông tin do khách hàng cung cấp thường là thông tin ít chính xác nhất do nhiều nguyên nhân khác nhau.Việc thu thập, xác minh thông tin trong thời điểm này là cơ sở cho việc tiết kiệm thời gian, chi phí sau này trong quá trình phân tích. Thông qua kiểm nghiệm thông tin ban đầu, CBTD có thể đánh giá được độ chính xác, cũng như mức độ tin cậy của thông tin nhận được, hoặc bổ sung thêm những thông tin cần quan tâm. Việc tiếp xúc với khách hàng trong và sau khi cho vay cũng nhằm mục đích tương tự, nó cung cấp, làm phong phú thêm thông tin cho CBTD cũng như giúp cho CBTD có thể đánh giá, theo dõi sao sát tình hình tài chính tại doanh nghiệp, phục vụ cho việc đưa ra các phán quyết tín dụng kịp thời, hợp lý. * Nghiên cứu, triển khai những chính sách, quy chế, ban hành những tài liệu phục vụ tốt cho công việc phân tích của cán bộ tín dụng VPBank cần sửa đổi hệ thống chấm điểm tín dụng, cung cấp các khung giá trị cho các chỉ số chi tiết hơn, chính xác hơn, làm tài liệu hướng dẫn tin cậy cho CBTD trong việc đánh giá các kết quả phân tích của mình. Hơn nữa, do khách hàng mục tiêu của Ngân hàng có đặc điểm là nhỏ lẻ nên số lượng phân tích là nhiều, một sự tăng nhỏ trong thời gian phân tích bình quân sẽ kéo theo một thời gian lớn phải dành cho việc phân tích, từ đó làm giảm chất lượng của phân tích, vì vậy quy trình nghiệp vụ cũng cần được nghiên cứu kĩ lưỡng để rút ngắn thời gian phân tích, nâng cao hiệu quả của việc phân tích chung. * Tăng cường đối thoại nhiều chiều giữa các cơ quan quản lý, Ngân hàng và khách hàng Tăng cường đối thoại sẽ giúp các bên tìm ra những vướng mắc, khó khăn để cùng nhau giải quyết vấn đề, cùng nhau hỗ trợ giúp đõ nâng cao hiệu quả hoạt động của mỗi bên. Tăng cường tiếp xúc với cơ quan quản lý cho phép Ngân hàng có thêm những thông tin về môi trường ngành, nghề kinh doanh, có thêm sự trợ giúp trong việc tìm hiểu những thông tin mới. Tăng cường hội thảo, gặp mặt với khách hàng sẽ giúp Ngân hàng có thêm nhiều thông tin về khách hàng, hiểu rõ hơn về khách hàng, từ đó có nhiều phương án áp dụng trong làm việc với từng khách hàng khác nhau. Tăng cường hợp tác giữa 3 bên sẽ giúp tăng cường mối quan hệ hợp tác giữa các bên nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các chủ thể kinh tế. * Nâng cao khả năng lưu trữ , truy xuất thông tin của Ngân hàng Thông tin lưu trữ tại Ngân hàng có được qua việc đúc kết thông tin từ hồ sơ của khách hàng, và các thông tin thu thập được từ nhiều nguồn khác. Đây là nguồn thông tin tin cậy với giá rẻ cho hoạt động phân tích tài chính. Các phòng, ban, các cán bộ có liên quan có nhiệm vụ tổng hợp , đúc kết thông tin, đúc kết kinh nghiệm nhằm làm cơ sở dữ liệu cho việc xây dựng, truy xuất thông tin của hệ thống. Trung tâm Tin học phải đảm bảo việc truy cập thông tin được thông suốt, dễ dàng và chính xác, phục vụ kịp thời và chuẩn xác cho cán bộ có nhu cầu tham khảo. 3.2.2. Chú trọng đến phương pháp phân tích tài chính khách hàng Trước hết, phải xác định tầm quan trọng của Báo cáo lưu chuyển tiền tệ, Thuyết minh báo cáo tài chính trong các báo cáo tài chính mà khách hàng cung cấp cho Ngân hàng. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ (ngân quỹ) là cơ sở cho việc dự đoán xu thế của dòng tiền trong tương lai, liên quan mật thiết đến chi khả năng chi trả của doanh nghiệp. Trong khi đó, thuyết minh báo cáo tài chính sẽ là một báo cáo tổng hợp cho phép nhìn nhận tổng thể về doanh nghiệp.. Việc bỏ qua 2 loại báo cáo trên là một thiếu sót trong phân tích, làm giảm thiểu tính tin cậy của phân tích. Thứ hai, phải áp dụng phương pháp phân tích DUPONT cho việc phân tích, phải áp dụng triệt để hơn nữa các phương pháp đã biết để nâng cao độ chi tiết, độ chính xác của phân tích. Khi phân tích chi tiết, sẽ giúp cho Ngân hàng tìm được lý do thực sự dẫn đến những sự cải thiện hay sự suy giảm về năng lực tài chính của khách hàng, từ đó sẽ cân nhắc đến việc có tài trợ cho khách hàng hay không. Thứ ba, sử dụng Bảng tài trợ để đánh giá thêm về tình hình huy động vốn và sử dụng vốn của doanh nghiệp, phát hiện những biểu hiện không tốt, những bất thường trong hoạt động của doanh nghiệp. Việc sử dụng Bảng tài trợ đôi khi cũng không cần lập, phân tích chi tiết mà chỉ cần nêu ra những biến động chính trong việc huy động và sử dụng vốn của khách hàng. Thứ tư, tiến hành nghiên cứu xem xét đến việc thu phí phân tích tài chính. Đây là một biện pháp vừa làm tăng thu cho Ngân hàng, vừa đảm bảo Ngân hàng không bị những hao tổn về mặt thời gian và tiền bạc khi phải phân tích tài chính khách hàng, thu xếp nguồn vốn cho khách hàng. Khi bù đắp được chi phí cho phân tích tài chính doanh nghiệp, rõ ràng Ngân hàng đã nâng cao chất lượng của hoạt động này. 3.2.3. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tín dụng Tăng cường đào tạo, cập nhật kiến thức cho đội ngũ nhân viên trẻ, có cơ chế để xác định những cán bộ tín dụng tốt, làm cho cán bộ tín dụng nhận thức được vai trò của phân tích tài chính, tổ chức phân cấp hoạt động cho các cán bộ tín dụng là những biện pháp dài hạn để có thể nâng cao chât lượng hoạt động của các nhân viên tín dụng. Các nhân viên mới được tuyển dụng nên được đào tạo và chỉ dẫn làm việc một cách bài bản, kĩ lưỡng và trong một môi trường chuyên nghiệp giúp họ có thể nhanh chóng nắm bắt công việc, cũng như có thể sớm học tập được những kinh nghiệm của lớp người trước, đẩy nhanh hơn nữa tiến độ công việc của các CBTD. Một CBTD được đào tạo bài bản, có năng lực chuyên môn, có khả năng tiếp cận các công nghệ phục vụ cho công việc, có tư cách đạo đức tốt,... sẽ là cơ sở để VPBank có thể nâng cao hiệu quả hoạt động phân tích khách hàng của mình lên gấp bội. Bên cạnh đó, phải có cơ chế thường xuyên kiểm tra, giám sát hoạt động của CBTD, có những biện pháp khích lệ, khen thưởng kịp thời, thoả đáng với những cán bộ tốt, xuất sắc, có như vậy mới có thể nắm rõ, khuyến khích các cán bộ tín dụng thực hiện tốt công việc của mình. Trong trường hợp xấu hơn, việc giám sát và quản lý tốt hoạt động của CBTD sẽ tránh cho Ngân hàng gặp phải những rủi ro không đáng có, hoặc hạn chế việc tạo lập một hình ảnh không tốt về Ngân hàng trong khách hàng, khi khách hàng phải tiếp xúc với những CBTD có những tiêu cực trong hành vi của mình. 3.2.4. Các giải pháp khác Để khắc phục tình trạng sai sót, nhầm lẫn, thiếu chặt chẽ trong khi quan hệ tín dụng với khách hàng, cần tăng cường công tác kiểm soát nội bộ việc tuân thủ các quy định, các điều lệ, quy chế, phát hiện các trường hợp sai phạm, thiếu sót, từ đó nhanh chóng khắc phục sự cố nhằm đảm bảo tính an toàn, tính hiệu quả cho Ngân hàng. Hoạt động quản lý, dự báo cũng phải được nâng cao để có thể dự tính được những rủi ro, những chi phí liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp, liên quan đến công tác phân tích khách hàng. Ngân hàng cũng cần nắm bắt được các cơ hội kinh doanh khi gặp điều kiện thuận lợi, điều này đòi hỏi phải có sự chuẩn bị một cách kĩ lưỡng và khoa học trong công tác quản lý nguồn lực của VPBank. Đổi mới công nghệ hiện đã lạc hậu: công nghệ áp dụng hiện tại của Ngân hàng đã bộc lộ nhiều yếu kém khi không tự động xử lý được nhiều công việc, không đáp ứng được công tác quản trị. Việc không thể sử dụng công nghệ cao phục vụ cho việc nhập liệu và nhận kết quả về xếp hạng tín dụng, việc quản lí lãi vay, thời hạn trả nợ không được tự động mà buộc cán bộ tín dụng hoặc lãnh đạo phải tự theo dõi, việc không thông suốt trong hệ thống,... tất cả đều làm cho hoạt động của VPBank bị ảnh hưởng, trong đó bị ảnh hưởng không nhỏ chính là chất lượng của phân tích tài chính doanh nghiệp. Công nghệ được cải tiến cũng sẽ giúp ích hữu hiệu cho công tác quản lý thông tin khách hàng, quản lý nhân viên, quản lý các khoản vay,...Như vậy, việc cải tiến, đổi mới công nghệ là hoàn toàn cần thiết để VPBank có thể nâng cao chất lượng hoạt động của mình, trong đó bao gồm cả chất lượng hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp. 3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 3.3.1. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước Xây dựng các văn bản pháp luật, các quy chế hoạt động của các TCTDchặt chẽ, phù hợp với yêu cầu của thị trường Ngân hàng Nhà nước cần xây dựng các văn bản quy định hoạt động của các TCTD sao cho phải đảm bảo sự ổn định trong hoạt động cũng như sự cạnh tranh lành mạnh, sự bình đẳng giữa các Ngân hàng. Việc nghiên cứu các chính sách, các quy chế cần được quan tâm hơn nữa, đảm bảo cho các NHTM có thể đáp ứng hợp pháp, kịp thời với các nhu cầu thanh toán, tín dụng khác nhau ngày càng đa dạng của các tổ chức trong nền kinh tế Tăng cường hướng dẫn tổ chức thực hiện, thi hành các điều lệnh, hướng dẫn thực hiện quy trình tín dụng tại các Ngân hàng Hoạt động này đảm bảo sự kiểm soát của NHNN đối với các NHTM, tránh cho tình trạng ở mỗi nơi lại làm theo những cách thức khác nhau, gây nên sự xáo trộn trong hoạt động , quản lý. Tăng cường hướng dẫn thực hiện quy trình tín dụng cũng sẽ giúp cho các Ngân hàng hiểu rõ hơn, thực hiện chuẩn xác hơn các quy trình đó, làm cơ sở cho việc xây dựng quy trình tín dụng riêng của mình. Nâng cao hiệu quả của trung tâm thông tin tín dụng CIC Việc đưa trung tâm này vào hoạt động là một trong những bước tiến quan trọng của NHNN, thể hiện sự trợ giúp từ phía Nhà nước với các tổ chức tín dụng. Trung tâm này trong những năm vừa qua đã cung cấp thông tin cho một số lượng lớn các câu hỏi tín dụng từ các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước. Tuy vậy, sự thiếu cập nhật thông tin của trung tâm làm cho hiệu quả của trung tâm thông tin này chưa đáp ứng được nhu cầu tra cứu thông tin ngày một tăng như hiện nay. Thêm vào đó, sự chậm trễ trong cung cấp tin, sự thiếu ổn định trong hoạt động của trang thông tin luôn là những vấn đề gây bức xúc với các đối tượng sử dụng tin, mà đa phần là các NHTM. Bởi vậy, NHNN cần tăng cường hợp tác với các cơ quan hữu quan các Ban, ngành, đoàn thể, cùng các đối tượng có liên quan để xây dựng trung tâm ngày một lớn mạnh, cập nhật với diễn biến thay đổi liên tục của thị trường, hoạt động ổn định hơn, và với thời gian xử lý nhanh hơn, đáp ứng các nhu cầu ngày càng gia tăng của các TCTD. Gắn kết các NHTM cả cổ phần và quốc doanh Lâu nay vẫn có sự cạnh tranh ngầm giữa các NHTM của cả hai khối, và có khoảng cách lớn trong hoạt động của khối NHTM cổ phần và NHTM quốc doanh, trong đó khối NHTM quốc doanh có được nhiều ưu ái hơn, hoặc có những khoản tín dụng theo chỉ định lớn hơn, với lượng khách hàng nhiều hơn,... NHNN với vị trí của mình cần đứng ra dần dần xoá bỏ các khoảng cách này giữa các Ngân hàng, tạo cơ chế để tăng cường cạnh tranh lành mạnh giữa các khối NHTM với nhau, cũng như giữa từng Ngân hàng với nhau.Thêm vào đó, với vai trò là người chỉ đạo, NHNN phải đảm bảo việc liên kết giữa các NHTM với nhau nhằm tăng cường sự tra cứu thông tin lẫn nhau, tránh trường hợp khách hàng chuyển nợ , đảo nợ, lừa đảo,... Trường hợp khách hàng đảo nợ hoặc đem tài sản đi thế chấp tại nhiều NHTM không phải là chuyện hiếm, vì vậy các NHTM cần nâng cao sự gắn kết để có hệ thống cảnh báo thông tin tín dụng, là cơ sở cho việc nâng cao tính an toàn trong hoạt động của Ngân hàng. Những nhiệm vụ quan trọng này có thể thực hiện tốt nếu được đặt dưới sự chỉ đạo của NHNN. 3.3.2. Kiến nghị với các cơ quan quản lý Nhà nước Kiến nghị với Bộ Tài chính Bộ Tài chính cần ban hành hệ thống hạch toán kế toán chuẩn mực, đảm bảo chính xác và khoa học để làm cơ sở cho việc hạch toán của các doanh nghiệp được rõ ràng, chính xác, đây là những thông tin rất cần thiết phục vụ cho công tác phân tích của Ngân hàng. Việc tăng cường quản lý, giám sát tổ chức thực hiện đối với các doanh nghiệp cũng cần được củng cố, đảm bảo cho việc hướng các doanh nghiệp quen dần với cách thức thực hiện công việc khoa học và minh bạch. Hiện tại, chế độ hạch toán kế toán tuy mới được ban hành nhưng vẫn còn nhiều bất cập trong việc phân loại, định khoản các khoản mục, gây khó khăn cho công tác quản lý, cũng như cho người sử dụng thông tin từ các BCTC của doanh nghiệp. Bộ Tài chính cần phối hợp với Tổng cục thống kê để cung cấp các thông tin tổng quan về hệ thống doanh nghiệp, các chỉ tiêu tài chính trung bình ngành làm cơ sở cho việc đánh giá, phân tích tài chính của các Ngân hàng. Việc so sánh theo không gian ngành nghề cũng là một yếu tố quan trọng để xác định năng lực của doanh nghiệp trên lĩnh vực hoạt động của họ. Đây chính là cơ sở cho việc thực hiện phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp bằng cách so sánh theo giác độ không gian. Tỷ số trung bình ngành cho phép xác định những doanh nghiệp nào có hoạt động SXKD tốt và chưa tốt (khi đem so sánh với mức trung bình ngành của các chỉ tiêu), là cơ sở cho xếp hạng, đánh giá chung về doanh nghiệp. Kiến nghị với cơ quan thuế, các cơ quan khác. Tổng cục thuế, Tổng cục Hải quan cần được tổ chức hoạt động hiệu quả hơn, minh bạch hơn, được trao quyền nhiều hơn nhằm nâng cao sự quản lí, thanh tra, xử phạt các trường hợp sai phạm của các doanh nghiệp, làm cơ sở cho độ chính xác, độ tin cậy của các Báo cáo tài chính được tăng thêm. Sự phối hợp hoạt động của các cơ quan này với doanh nghiệp trước hết chính là để nâng cao hiệu quả hoạt động của nền kinh tế, sau đó nó là cơ sở tin cậy cho các NHTM sử dụng thông tin do khách hàng cung cấp, phục vụ hoạt động của mình. Các cơ quan Nhà nước khác cần tạo điều kiện thông thoáng, đơn giản, tiết kiệm cho chi phí hoạt động của cả doanh nghiệp cũng như của cả Ngân hàng, tránh các thủ tục gây phiền hà, rắc rối hay tạo điều kiện tham nhũng, nhận đút lót của các cán bộ Nhà nước. Đây là biện pháp cần thiết để tăng cường niềm tin của các nhà đầu tư, của các tổ chức kinh tế vào sự điều hành của Chính phủ, của Nhà nước, cũng như là cơ sở để hiệu quả hoá các hoạt động kinh tế trong xã hội. 3.3.3. Kiến nghị với các cơ quan khác Các cơ quan Kiểm toán cần không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động của mình bằng việc kiểm tra, kiểm soát kĩ lưỡng, phản ánh trung thực khách quan các kết quả nhận được, làm cơ sở tin cậy cho việc sử dụng thông tin của những người quan tâm, trong đó có các NHTM. Trong một tương lai gần, việc kiểm tra, kiểm soát hoạt động, tuân thủ,.. đối với các doanh nghiệp sẽ được thực hiện thường xuyên hơn, chặt chẽ hơn. Vì vậy, giữa các cơ quan Kiểm toán và NHTM cần có sự hợp tác hành động nhằm nâng cao hơn hiệu quả hoạt động của chính tổ chức mình. Các cơ quan, phương tiện thông tin đại chúng cần phản ánh vụ, việc một cách chính xác, khách quan trung thực nhằm cung cấp những thông tin đáng tin cậy cho các Ngân hàng, tránh trường hợp đưa tin sai sự thật, bóp méo hoặc che giấu sự thật, làm ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của bất cứ tổ chức nào, từ các doanh nghiệp, đến các TCTD, hoặc các tổ chức khác... Các tổ chức, Hiệp hội nhà nghề cần nâng cao chất lượng hoạt động của mình bằng việc giúp đỡ trong khâu tổ chức, hoạt động của các đơn vị thành viên, mở rộng kết nạp hướng dẫn hoạt động cho các thành viên mới, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của các đơn vị, các doanh nghiệp...Giữa các tổ chức, hiệp hội này và các NHTM cũng cần có sự hợp tác, liên kết chặt chẽ để cùng nhau nâng cao chât lượng, hoàn thiện hoạt động của mình. KẾT LUẬN Nâng cao hiệu quả hoạt động là mục tiêu đặt ra với mọi tổ chức trong nền kinh tế, với NHTM cũng vậy. Tại Việt Nam, khi mà tỷ trọng doanh thu từ hoạt động tín dụng của các NHTM còn chiếm rất cao thì việc nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng của NHTM là cơ sở chính cho việc thực hiện mục tiêu trên. Một trong những yếu tố góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng là việc nâng cao chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp trong hoạt động tín dụng của NHTM. Trước mỗi nhu cầu tín dụng, cán bộ tín dụng phải tiến hành phân tích tài chính khách hàng để có thể xác định thực trạng tài chính, khả năng hoạt động của khách hàng, cũng như dự báo tình hình tài chính trong tương lai của doanh nghiệp, để quyết định việc có hay không cấp tín dụng cho khách hàng. Trong luận văn, những vấn đề cơ bản về phân tích tài chính doanh nghiệp trong hoạt động tín dụng tại NHTM nói chung, và tại VPBank nói riêng đã được đề cập: các thông tin sử dụng trong phân tích, các phương pháp sử dụng để phân tích, các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả phân tích,…Trên cơ sở đó, luận văn được nghiên cứu đã đưa ra những giải pháp trước mắt và lâu dài, những kiến nghị đối với các cơ quan hữu quan nhằm cải thiện, nâng cao chất lượng phân tích này tại VPBank. Hy vọng trong tương lai, sẽ có những giải pháp mới được tiếp tục nghiên cứu nhằm làm cho hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp tại VPBank sẽ ngày càng hoàn thiện và hiệu quả hơn, giúp Ngân hàng thực hiện tốt các mục tiêu của mình. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Luật các tổ chức tín dụng Việt Nam, số 07/1997/QHX. 2. Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng. (Ban hành theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN) 3. Quyết định số 493/2005/ QĐ- NHNN Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng 4. TS. Nguyễn Văn Công (chủ biên), 2003, Lý thuyết và thực hành kế toán tài chính, NXB Tài chính. 5. TS. Phan Thị Thu Hà (chủ biên), 2004, Giáo trình Ngân hàng thương mại, NXB Thống kê. 6. PGS.TS. Lưu Thị Hương (chủ biên), 2003, Giáo trình tài chính doanh nghiệp, NXB Thống kê. 7. Frederic S. Mishkin, 2001, Tiền tệ, Ngân hàng và thị trường tài chính, NXB Khoa học và kĩ thuật. 8. Peter S.Rose, 2004, Quản trị Ngân hàng thương mại, NXB Tài chính. 9. Các văn bản, báo cáo của VPBank: Báo cáo thường niên 2003,2004,2005; các Bản tin VPBank, Tổng kết hoạt động kỳ 2002-2005,... 10. Các báo, tạp chí: Tạp chí Ngân hàng, thông tin tài chính, Thời báo kinh tế Sài Gòn. 11. Các trang thông tin: www. gso.gov. vn www. vneconomy.com.vn www. creditinfo.org.vn MỤC LỤC ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36410.doc
Tài liệu liên quan