Nâng cao chất lượng tín dụng hộ sản xuất tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Hoa lư - Ninh Bình

Lời mở đầu Như chúng ta đã biết, trong điều kiện hiện nay, khi khu vực hoá, toàn cầu hoá đang trở thành xu hướng phổ biến thì song song với quá trình hợp tác theo nguyên tắc hai bên cùng có lợi, giữa các quốc gia luôn kèm theo quá trình cạnh tranh vô cùng gay gắt và khốc liệt. Trong môi trường kinh tế thế giới như vậy, yêu cầu khách quan và cấp bách đối với nước ta là phải nâng cao năng lực cạnh tranh kinh tế của mình để hội nhập ngày càng sâu, rộng và có hiệu quả hơn. Một trong những giải pháp

doc65 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1224 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng tín dụng hộ sản xuất tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Hoa lư - Ninh Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
để nâng cao năng lực cạnh tranh kinh tế là lành mạnh hoá hệ thống Tài chính – Ngân hàng. Hoạt động Ngân hàng đặc biệt là hoạt động tín dụng mà được đảm bảo an toàn, hiệu quả thì sẽ đóng góp tích cực vào việc ổn định & cải thiện môi trường kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, duy trì nhịp độ tăng trưởng của nền kinh tế, tăng uy tín quốc gia. Đối với một quốc gia có hơn 70% dân số là nông dân như Việt Nam, việc phát triển sản xuất nông nghiệp chiếm giữ một vai trò cực kỳ quan trọng. Để thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, Hội nghị Trung ương VI khẳng định: "Sự phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước có vai trò vô cùng quan trọng cả trước mắt và lâu dài, làm cơ sở để ổn định và phát triển kinh tế xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng, Nghị quyết Đảng bộ tỉnh Ninh Bình lần thứ XIX đã xác định: Từng bước đi lên công nghiệp hóa- hiện đại hóa Nông nghiệp nông thôn, từng bước đổi mới về cơ cấu kinh tế. Trong lĩnh vực nông nghiệp đi vào chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, phát triển các ngành nghề truyền thống, phát triển dịch vụ du lịch và vật liệu xây dựng… trên cơ sở tiềm năng, thế mạnh của tỉnh, trong đó có huyện Hoa Lư, theo hướng sản xuất hàng hoá góp phần phát triển kinh tế, ổn định đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, giữ gìn trật tự an toàn xã hội. NHNo & PTNT Việt Nam nói chung, NHNo & PTNT huyện Hoa Lư nói riêng trong những năm qua đã mở rộng mạng lưới huy động vốn, mở rộng đầu tư tín dụng đôi với các thành phần kinh tế, nhất là đối với kinh tế hộ sản xuất và đã đạt được những kết quả rất đáng khích lệ, góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế đề ra, luôn coi hộ sản xuất là người bạn đồng hành của Ngân hàng hiện nay, trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Ninh Bình là một tỉnh nằm trong vùng đồng bằng Bắc Bộ nên kinh tế chủ yếu là nông nghiệp. Vì vậy, việc phát triển kinh tế hộ sản xuất là tất yếu khách quan, là vấn đề cấp thiết trong chiến lược phát triển kinh tế của tỉnh nhằm khai thác hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của tỉnh, trong đó tín dụng đối với hộ sản xuất có vai trò hết sức quan trọng. Mặc dù vậy, sẽ thật không khách quan khi cho rằng sẽ không có những tồn tại cần khắc phục, không có rủi ro hay không có những khó khăn đặc biệt trong hoạt động tín dụng nói chung và tín dụng hộ sản xuất nói riêng. Tín dụng hộ sản xuất vẫn chưa thực sự tương xứng với tiềm năng của Ngân hàng cũng như nhu cầu cuả hộ sản xuất. Chất lượng tín dụng không chỉ là mối quan tâm của các nhà quản lý Ngân hàng, mà còn là mối quan tâm của toàn xã hội vì đây là tín hiệu tổng hợp vừa phản ánh trình độ hoàn thiện pháp luật theo cơ chế thị trường trong quản lý kinh tế nói chung & hoạt động quản lý Ngân hàng nói riêng vừa phản ánh sự lớn mạnh và những mặt còn bất cập trong quản lý điều hành Ngân hàng. Chính vì thế, làm thế nào để nâng cao chất lượng tín dụng luôn luôn là vấn đề nóng bỏng, thu hút sự quan tâm không chỉ của các nhà quản lý Ngân hàng mà còn của cả các nhà quản lý kinh tế khác. Tuy phạm vi nghiên cứu khác nhau nhưng tất cả đều hướng tới mục tiêu chung là làm thế nào để cải thiện và nâng cao chất lượng tín dung trong các Ngân hàng thương mại quốc doanh, đặc biệt là NHNo & PTNT. Xuất phát từ nhận thức về tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng tín dụng trong kinh doanh Ngân hàng, tôi đã lựa chọn đề tài “Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng hộ sản xuất tại NHNo&PTNT huyện Hoa lư - Ninh Bình” làm chuyên đề tốt nghiệp. Đề tài này lấy hoạt động cho vay hộ sản xuất làm đối tượng nghiên cứu và giới hạn việc nghiên cứu trên giác độ kinh tế hộ sản xuất ở huyện Hoa Lư và trên góc độ cho vay của NHNo & PTNT huyện Hoa Lư đối với hộ sản xuất. Kết cấu của đề tài ngoài phần mở đầu và kết luận còn gồm 3 chương: Chương 1: Chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất trong nền kinh té thị trường. Chương 2: Thực trạng chất lượng Tín dụng đối với hộ sản xuất tại NHNo & PTNT huyện Hoa Lư. Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tín dụng hộ sản xuất tại NHNo & PTNT Huyện Hoa Lư trong thời gian tới. Nội dung của đề tài này là một vấn đề rất phức tạp cả về lý luận và thực tiễn. Ngoài ra, việc nghiên cứu, tìm hiểu vẫn còn hạn chế trong thực tiễn, thời gian nghiên cứu ngắn, phạm vi nghiên cứu còn hẹp do đó sẽ không tránh khỏi những sai sót, khiếm khuyết. Với mong muốn hoàn thiện đề tài của mình đáp ứng được những đòi hỏi cả về lý thuyết và thực tiễn, tôi rất mong nhận được sự giúp đỡ của các thầy cô, của Ban giám đốc NHNo & PTNT huyện Hoa Lư để cho đề tài được hoàn thành. Em xin chân thành cảm ơn ! Những vấn đề lý luận chung Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại ngày càng diễn ra mạnh mẽ đã cuốn hút các thành phần kinh tế phát triển, trong đó có sự đổi mới và phát triển không ngừng nhất là nền sản xuất nông nghiệp đang trên con đường công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Sau khi đất nước được thống nhất, Đảng ta xác định và coi trọng sự phát triển của ngành nông nghiệp, nó là mặt trận hàng đầu của thời kỳ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Vì thế nhiều chính sách phát triển nông thôn mới, xã hội mới. Nhất là đầu tư vốn trực tiếp đến hộ sản xuất đã được ban hành. - Chỉ thị 100 của ban bí thư về phát triển nông nghiệp nông thôn. - Khoán 10 của Bộ Chính trị tới hộ nông dân trong sản xuất nông nghiệp. Thông qua các chính sách phát triển nông nghiệp nó đã tháo gỡ vướng mắc, qua đó để khơi dậy tinh thần làm chủ của người nông dân trong sản xuất nông nghiệp. Thực hiện nghị quyết lớn của đảng về phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn. NHNo&PTNT Việt Nam đã có văn bản 499A hướng dẫn nghiệp vụ cho vay vốn sản xuất nông nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp và kinh tế nông thôn. - Mặt khác như chúng ta đã biết, Đại hội thứ VII của đảng đã đề ra cương lĩnh và chương trình hành động của mình là xây dựng đất nước - ổn định đất nước về kinh tế đến năm 2000 phát triển kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trên con đường công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Quán triệt sâu sắc mụch tiêu phương hướng của Đảng mà đại hội VII đề ra trong công cuộc đổi mới của đất nước đối với nền kinh tế quốc dân. Hòa chung với công cuộc đổi mới đó ngành ngân hàng đã đổi mới hoạt động của mình, đổi mới về thị trường kinh doanh và đổi mới về công nghệ Ngân hàng. Phù hợp với tính chất kinh doanh của ngành, đồng thời mạnh dạn cách nghĩ, cách làm trong hoạt động kinh doanh của mình trên 3 khâu chủ yếu là tiền tệ – tín dụng và thanh toán. -Thông qua việc đầu tư vốn tín dụng Ngân hàng, các thành phần kinh tế, các tổ chức kinh tế tập thể, doanh nghiệp tư nhân, hộ sản xuất đã có vốn để phát triển sản xuất hàng hóa tạo nhiều sản phẩm cho xã hội, tạo được công ăn việc làm cho người lao động. Sau khi vốn tín dụng Ngân hàng đầu tư hộ vay đã làm ăn có hiệu quả kinh tế. Thực hiện việc trả gốc và lãi Ngân hàng đúng cam kết. Mặt khác đống góp đầy đủ cho ngân sách nhà nước. Người lao động còn có một số khoản thu nhập để cải thiện đời sống và có tích lũy đầu tư tái sản xuất phát triển. - Khi có vốn Ngân hàng trực tiếp đầu tư đến tay người sản xuất đã hạn chế được nạn cho vay nặng lãi ở nông thôn, bộ mặt nông thôn ngày càng đổi mới. Số hộ nghèo ngày càng giảm hòa nhập vào công cuộc công nghiệp – hiện đại hóa đất nước mà Đảng đã đề ra. chương 1 chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất trong nền kinh tế thị trường 1.1- Hộ sản xuất trong nền kinh tế thị trường Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI với đường lối đổi mới, nông nghiệp được xác định là “Mặt trận hàng đầu”, tiếp tục đổi mới quản lý kinh tế nhằm giải phóng lực lượng sản xuất ở nông thôn chuyển nền nông nghiệp tự túc tự cấp sang sản xuất hàng hoá theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước. Chính vì vậy những năm gần đây, các nhà kinh tế bắt đầu quan tâm thực sự đến sự phát triển nông thôn, nông nghiệp và mô hình kinh tế hộ sản xuất. Sự quan tâm nghiên cứu về hộ sản xuất của các nhà khoa học đã đánh dấu thời kỳ thay đổi thái độ đối với sản xuất trong hệ thống lý thuyết chính thống và hệ thống chính sách kinh tế xã hội hiện thời. 1.1.1 Khái niệm và đặc điểm hộ sản xuất: Nói đến sự tồn tại của hộ sản xuất trong nền kinh tế, trước hết chúng ta cần thấy rằng hộ sản xuất không chỉ có nước ta mà còn có ở tất cả các nước có nền sản xuất nông nghiệp trên thế giới. Trong một số từ điển chuyên ngành kinh tế cũng như từ điển ngôn ngữ hộ là tất cả những người cùng sống trong một mái nhà. Nhóm người đó bao gồm những người cùng chung huyết tộc và những người làm công. Liên hợp quốc cho rằng: “Hộ là những người cùng sống chung dưới một mái nhà, cùng ăn chung và có chung một ngân quỹ”. Trên góc độ Ngân hàng, “Hộ sản xuất” là một thuật ngữ được dùng trong hoạt động cung ứng vốn tín dụng cho hộ gia đình để làm kinh tế chung của cả hộ. Hiện nay, trong các văn bản pháp luật ở Việt Nam, hộ được xem như một chủ thể trong các quan hệ dân sự do pháp luật quy định và được định nghĩa là một đơn vị mà cá thành viên có hộ khẩu chung, tài sản chung và hoạt động kinh tế chung. Một số thuật ngữ khác được dùng để thay thế thuật ngữ “Hộ sản xuất” là “Hộ”, “Hộ gia đình”. Ngày nay hộ sản xuất đang trở thành một nhân tố quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước và là sự tồn tại tất yếu trong quá trình xây dựng một nền kinh tế đa thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Để phù hợp với xu thế phát triển chung, phù hợp với chủ trương của Đảng và Nhà nước, NHNo & PTNT Việt Nam ban hành phụ lục số 1 kèm theo quyết định số 499A ngày 2/9/1993, theo đó thì khái niệm hộ sản xuất được hiểu như sau: “hộ sản xuất là đơn vị kinh tế tự chủ, trực tiếp hoạt động sản xuất kinh doanh, là chủ thể trong mọi quan hệ sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất của mình”. Thành phần chủ yếu của hộ sản xuất bao gồm: Hộ nông dân, hộ tư nhân, cá thể, hộ gia đình xã viên, hộ nông, lâm trường viên. Như vậy, hộ sản xuất là một lực lượng sản xuất to lớn ở nông thôn. hộ sản xuất trong nhiều ngành nghề hiện nay phần lớn hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn. Các hộ này tiến hành sản xuất kinh doanh đa dạng kết hợp trồng trọt với chăn nuôi và kinh doanh ngành nghề phụ. Đặc điểm sản xuất kinh doanh nhiều ngành nghề mới trên đã góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của các hộ sản xuất ở nước ta trong thời gian qua. 1.1.2 Vai trò của hộ sản xuất trong nền kinh tế thị trường. Từ khi NQ10 - Bộ chính trị ban hành, hộ nông dân được thừa nhận là một đơn vị kinh tế nông thôn, nhờ đó người nông dân gắn bó với ruộng đất hơn, chủ động đầu tư vốn để thâm canh, tăng vụ, khai phá thêm hàng ngàn hécta đất mới, vừa đổi mới cơ cấu sản xuất. Việc trao quyền tự chủ cho hộ nông dân đã khơi dậy nhiều làng nghề truyền thống, mạnh dạn vận dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất... Điều đó khẳng định sự tồn tại khách quan của hộ sản xuất với vai trò là cầu nối trung gian giữa hai nền kinh tế, là đơn vị tích tụ vốn, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lao động, giải quyết việc làm ở nông thôn. Hộ sản xuất có vai trò là chủ thể trong nền kinh tế nói chung và kinh tế nông thôn nói riêng. Kinh tế Nông nghiệp Nông thôn muốn phát triển, muốn hiện đại hoá Nông nghiệp Nông thôn thì trước hết hộ sản xuất phải được trang bị tư liệu sản xuất hiện đại, trang bị những kĩ năng sản xuất tiên tiến và đặc biệt phải có vốn đầu tư để sản xuất kinh doanh. Hộ sản xuất góp phần quan trọng trong việc tạo ra sản phẩm Nông – Lâm – Ngư nghiệp, tạo ra của cải vật chất, làm đa dạng phong phú về chủng loại sản phẩm, hình thành các thị trường sản phẩm sôi động, tạo nên động lực thúc đẩy phát triển kinh tế khu vực Nông nghiệp Nông thôn. Hộ sản xuất là thị trường tiêu thụ các sản phẩm công nghiệp, thương mại dịch vụ như máy móc, trang thiết bị… để phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng và sản xuất Nông nghiệp, là nơi cần một lực lượng lao động lớn trong xã hội. Hộ sản xuất còn có vai trò quan trọng trong việc thực hiện các chủ trương, đường lối chính sách xoá đói giảm nghèo, chính sách lao động, chính sách huy động nội lực, chính sách phủ xanh đất trống đồi núi trọc, chính sách khuyến nông, khuyến lâm… của Đảng và Nhà nước. Những chính sách này đã đạt được những thành tựu đáng kể, đặc biệt là trong việc giải phóng sức lao động của Nông thôn, khuyến khích người dân phát huy sức người, sức của để xây dựng quê hương đất nước. Thành tựu nổi bật nhất trong lĩnh vực Nông nghiệp là chuyển nền nông nghiệp sản xuất tự cấp, tự túc thành nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá với tỉ trọng xuất khẩu cao, giá trị sản xuất Nông-Lâm-Ngư nghiệp năm sau luôn cao hơn năm trước. Thực hiện phương châm “dân có giầu thì nước mới mạnh”, hộ sản xuất là nơi khai thác tiềm năng về đất đai, đồi núi, sông ngòi… Để mở rộng các ngành nghề sản xuất như trồng trọt, chăn nuôi, đánh bắt và các ngành nghề truyền thống như nghề mộc, gốm sứ, mây tre đan, dệt lụa, hộ sản xuất còn tạo điều kiện cho việc sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của địa phương góp phần quyết định cho kiến trúc thượng tầng. Hộ sản xuất còn có vai trò quan trọng trong việc củng cố khối liên minh công nông thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. 1.1.3 Chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế hộ sản xuất. Đối với Việt Nam nông nghiệp và nông thôn có vị trí đặc biệt quan trọng. Nông thôn là nơi làm việc sinh sống của gần 80% dân số, đa số còn nghèo, có thu nhập gần 40% GDP cả nước; là thị trường rộng lớn, tiêu thụ hàng hoá, sản phẩm của mọi ngành nghề xã hội; là nơi cung cấp nguyên liệu và lao động cho công nghiệp và các nghành nghề khác phát triển. Nông nghiệp và nông thôn còn là nơi chủ yếu và quyết định sự phát triển bền vững và tính cân bằng môi trường sinh thái đảm bảo ổn định, đa dạng hoá tự nhiên. Chúng ta tiến lên chủ nghĩa xã hội dựa trên nền sản xuất thuần nông. Sớm nhận thức rõ vai trò của nông nghiệp trong quá trình xây dựng đất nước, Đảng và Nhà nước ta từng bước có những chủ trương chính sách về nông nghiệp, tạo điều kiện cho kinh tế hộ phát triển làm nòng cốt để phát triển kinh tế nông thôn. Tháng 1/1981 ban bí thư trung ương Đảng ban hành chỉ thị 100 về khoán trong nông nghiệp, thực chất là giải phóng (tự do hoá) sức lao động của hàng chục hộ nông dân thoát khỏi sự rằng buộc của cơ chế tập trung. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, với đường lối đổi mới, nông nghiệp được xác định là “Mặt trận hàng đầu” tiếp tục đổi mới quản lý kinh tế nhằm giải phóng lực lượng sản xuất ở nông thôn, chuyển nền nông nghiệp tự túc tự cấp sang sản xuất hàng hoá theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Đảng và Nhà nước đã ban hành những chủ trương, chính sách để thực hiện định hướng nêu trên. Nhờ đó nền kinh tế hộ sản xuất dần được đặt vào đúng vị trí của nó. Tháng 4/1998- Bộ chính trị đã ban hành Nghị quyết 10 nhằm cụ thể hoá một bước quan điểm đổi mới của Đại hội VI đối với lĩnh vực quản lý nông nghiệp, tạo điều kiện cho việc hình thành và thúc đẩy kinh tế hộ sản xuất phát triển. Từ đó hộ nông dân được thừa nhận là một đơn vị kinh tế tự chủ trong sản xuất kinh doanh và là đơn vị kinh tế ở nông thôn. Sau nghị quyết 10 của Bộ trính trị, rồi đến NQ 66 HĐBT của hội đồng bộ trưởng ngày 02/ 03/ 1992, cùng luật doanh nghiệp tư nhân NĐ 29 ngày 29 /03/1998, luật Công ty ... thì hộ sản xuất đã được thừa nhận là một đơn vị kinh tế bình đẳng như các thành phần kinh tế khác. Điều này được khẳng định tại điều 21 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992: “Kinh tế gia đình được khuyến khích phát triển”. Đại hội lần thứ VII của Đảng với chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều nhiều thành phần theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước. Chủ trương đúng đắn của Đại hội VII đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển nền kinh tế nói chung và đặc biệt đối với kinh tế hộ gia đình nói riêng. Tháng 6/1993 tại kỳ họp lần thứ 5 (khoá VII), Đảng đã ban hành nghị quyết TW5, Tiếp tục khẳng định quyền tự chủ của hộ với tư cách là một chủ thể kinh tế ở nông thôn được thừa nhận quyền sử dụng đất đai (5 quyền ), quyền vay vay vốn tín dụng, quyền lựa chọn phương án sản xuất kinh doanh có lợi nhất, quyền tự do lưu thông tiêu thụ sản phẩm. Nghị quyết TW cùng với các văn bản luật, Nghị định của Chính phủ đã tạo hành lang pháp lý, khơi dậy động lực cho hơn 10 triệu hộ nông dân phát triển từ. Từ đó phát triển mạnh nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII với chủ trương công nghiập hóa- hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn thì nông nghiệp nông thôn nói chung, hộ sản xuất nói riêng đã được đặt lên vị trí hàng đầu của sự nghiệp công nghiập hóa- hiện đại hóa đất nước. Nghị quyết TW VI lần I (khoá VIII) với chủ trương “tiếp tục công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, nhất là công nghiệp hóa-hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn” đã khẳng định nông nghiệp nông thôn là lĩnh vực có vai trò cực kỳ quan trọng cả trước mắt và lâu dài làm cơ sở để ổn định và phát triển kinh tế xã hội. Cùng với chính sách về các thành phần kinh tế, kinh tế hộ được khuyến khích phát triển: “Kinh tế hộ gia đình được tồn tại và phát triển lâu dài, luôn luôn có vị trí quan trọng.” 1.2. tín dụng ngân hàng đối với hộ sản xuất: 1.2.1. Khái niệm và phân loại Tín dụng Ngân hàng: Khái niệm: Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu sang người sử dụng và sau một thời gian nhất định được quay trở lại người sở hữu một lượng giá trị lớn hơn ban đầu. Trong quan hệ tín dụng của Ngân hàng đối với kinh tế hộ sản xuất thì Ngân hàng là người chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị (người cung ứng vốn - người cho vay), còn hộ sản xuất là người (nhận cung ứng vốn - người đi vay). Sau một thời gian nhất định hộ sản xuất trả lại số vốn đã nhận từ ngân hàng, số vốn hoàn trả lại lớn hơn số vốn ban đầu (phần lớn hơn gọi là lãi). 1.2.2. Vai trò của Tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất: - Đáp ứng nhu cầu vốn cho kinh tế hộ sản xuất mở rộng sản xuất kinh doanh, mở rộng thêm ngành nghề, khai thác các tiềm năng về lao động, đất đai, mặt nước và các nguồn lực vào sản xuất, tăng sản phẩm cho xã hội, tăng thu nhập cho hộ sản xuất. - Tạo điều kiện cho kinh tế hộ sản xuất tiếp cận và áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất kinh doanh, tiếp cận với cơ chế thị trường và từng bước điều tiết sản xuất phù hợp với tín hiệu của thị trường. - Thúc đẩy kinh tế hộ sản xuất chuyển từ sản xuất tự cấp, tự túc sang sản xuất hàng hoá, góp phần thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn. - Thúc đẩy các hộ gia đình tính toán, hạch toán trong sản xuất kinh doanh, tính toán lựa chọn đối tượng đầu tư để đạt được hiệu quả cao nhất. Tạo nhiều việc làm cho người lao động. - Hạn chế tình trạng cho vay nặng lãi trong nông thôn. 1.2.3. Yếu tố ảnh hưởng đến quan hệ giữa Ngân hàng với hộ sản xuất: Quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng và hộ sản xuất một mặt cũng giống như các quan hệ tín dụng khác trong cơ chế thị trường, nhưng điều khác biệt ở đây, đó còn là chính sách của Đảng và Nhà nước. Chính vì vậy có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng tới quan hệ tín dụng này. - Chính sách của chính phủ: Trên 70% dân số nước ta sống ở nông thôn, hình thức sản xuất chủ yếu là làm kinh tế ở quy mô gia đình. Do vậy sự phát triển kinh tế hộ sản xuất có ảnh hưởng lớn đến mọi mặt đời sống kinh tế đất nước. Các chính sách của chính phủ sẽ tạo cơ sở để vốn tín dụng Ngân hàng tiếp cận đến các hộ sản xuất. - Chính sách của Ngân hàng: Trong sản xuất kinh doanh, mục tiêu hàng đầu là đạt được lợi nhuận và an toàn trong kinh doanh. Mức độ rủi ro đầu tư trong nông nghiệp, nông thôn cao trong khi tỷ suất lợi nhuận không cao vì chi phí lớn, do dó hạn chế nhiều trong việc mở rộng cho vay và giảm hiệu quả tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất. Đối với NHNo&PTNT, hộ gia đình là khách hàng truyền thống, là đối tượng phục vụ chính, do vậy chính sách cho vay của Ngân hàng có ảnh hưởng quyết định đến khối lượng cho vay các hộ sản xuất. - Sự phát triển của hộ sản xuất: Mối quan hệ giữa Ngân hàng và khách hàng vay vốn là quan hệ hai chiều. Vì vậy khả năng sản xuất kinh doanh của các hộ sản xuất có ảnh hưởng trực tiếp đến khối lượng cho vay của Ngân hàng đối với các hộ sản xuất. Hiện nay, phần lớn hộ gia đình năng lực sản xuất kinh doanh thấp kém do trình độ kinh nghiệm còn hạn chế, kinh tế hộ còn trong giai đoạn tự cung tự cấp, sản xuất nhỏ, manh mún, sản xuất còn chưa phát triển, người nông dân còn chưa thực sự đặt quá trình sản xuất của mình trong nền kinh tế hàng hoá và đối với các nguyên tắc hoạt động của nền kinh tế đó, chủ động tìm ra phương hướng thúc đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế. Vì thế, việc cho vay của Ngân hàng đối với hộ sản xuất còn nhiều vấn đề nan giải. 1.2.4 Các hình thức tín dụng đối với hộ sản xuất: 1.2.4.1 Tín dụng trực tiếp: + Tín dụng trực tiếp tại hội sở: mọi hoạt động sẽ được tiến hành trực tiếp từ khâu xem xét, đánh giá đến việc giải ngân và thu nợ. Tuy nhiên, theo phương thức này phải có điều kiện thuận tiện về điều kiện đi lại, về thủ tục, về việc giải ngân. + Tín dụng thông qua tổ cho vay lưu động: tổ cho vay lưu động do chính Ngân hàng lập ra. Tổ này sẽ trực tiếp tiếp cận khách hàng xa hội sở Ngân hàng. Hoạt động của tổ được thực hiện theo định kỳ. Việc giải ngân cũng như thu nợ sẽ được thực hiện bởi tổ này. + Tín dụng thông qua tổ, nhóm: các tổ, nhóm này do những thành viên vay vốn tham gia hình thành nên. Cán bộ Ngân hàng cùng các cán bộ của tổ chức đoàn thể xuống địa bàn cho vay giới thiệu, tư vấn về việc thành lập tổ, nhóm. Từng khách hàng sẽ làm đơn tự nguyện tham gia tổ, nhóm rồi bầu ra một tổ trưởng. Để tổ, nhóm có tính pháp lý thì phải có xác nhận của tổ chức đoàn thể, chính quyền địa phương. Nếu thành viên nào có nhu cầu vay vốn, tổ trưởng sẽ xác nhận nhu cầu vay. Việc ký kết hợp đồng tín dụng sẽ được thực hiện giữa từng thành viên với Ngân hàng. Việc giải ngân, thu nợ sẽ được thực hiện thông qua tổ trưởng. 1.2.4.2. Tín dụng gián tiếp: Theo phương thức này thì Ngân hàng không trực tiếp tiếp xúc với hộ sản xuất mà sẽ thông qua các trung gian. Trung gian có thể là các tổ chức tài chính trung gian hoặc có thể là các tổ chức kinh tế. 1.3 - Chất lượng Tín Dụng Ngân Hàng đối với hộ sản xuất. 1.3.1 Khái niệm chất lượng tín dụng ngân hàng. Tín dụng là phạm trù kinh tế mang tính chất lịch sử, ra đời và tồn tại trong nền kinh tế sản xuất và trao đổi hàng hoá. Nó là một trong những sản phẩm chính của Ngân hàng. Đây là hình thức sản phẩm mang hình thái phi vật chất là dịch vụ đặc biệt. Sản phẩm này chỉ có khả năng đánh giá được sau khi khách hàng đã sử dụng. Do vậy có thể cho rằng chất lượng tín dụng Ngân hàng là việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng, đáp ứng nhu cầu phát triển Ngân hàng và mục tiêu phát triển kinh tế xã hội. Như vậy, chất lượng tín dụng Ngân Hàng được thể hiện qua các điểm sau: - Đối với khách hàng: Tín dụng Ngân hàng đưa ra phải phù hợp với yêu cầu của khách hàng về lãi suất (giá cả sản phẩm), kỳ hạn, phương thức thanh toán, hình thức thanh toán, thủ tục đơn giản thuận tiện tuy nhiên vẫn đảm bảo các nguyên tắc của tín dụng Ngân hàng. - Đối với Ngân hàng: Ngân hàng đưa ra các hình thức cho vay phù hợp với phạm vi mức độ, giới hạn với bản thân Ngân hàng để luôn đảm bảo tính cạnh tranh, an toàn, sinh lời theo nguyên tắc hoàn trả đầy đủ và có lợi nhuận. 1.3.2 Sự cần thiết nâng cao chất lượng tín dụng hộ sản xuất. Hoạt động tín dụng Ngân hàng bao gồm cả huy động vốn và cho vay. Mục tiêu của Ngân hàng thương mại khi đầu tư tín dụng phải thu được cả gốc và lãi đúng hạn. Nhưng thực tế hoạt động của Ngân hàng luôn phát sinh nhiều rủi ro, đặc biệt là đối với tín dụng hộ sản xuất vì cho vay hộ sản xuất chủ yếu là sản xuất nông nghiệp mà sản xuất nông nghiệp lại phụ thuộc nhiều bởi điều kiện tự nhiên - điều kiện nằm ngoài vùng khống chế Ngân hàng. Vì vậy, nâng cao chất lượng tín dụng là cần thiết để khắc phục rủi ro chủ quan đồng thời hạn chế tối đa những rủi ro khách quan. Nâng cao chất lượng tín dụng thể hiện qua yêu cầu quản lý danh mục tài sản có của Ngân hàng. Quản lý việc sử dụng nguồn vốn là vấn đề quan trọng cả trước mắt và lâu dài trong đảm bảo cũng như phát triển hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Chất lượng tín dụng là cơ sở để đánh giá việc thực hiện tốt hay xấu cả quy trình tín dụng từ khi nhận hồ sơ vay vốn cho tới khi thu hồi được cả gốc lẫn lãi. Trong môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt như hiện nay thì việc nâng cao chất lượng tín dụng lại càng trở nên cần thiết. 1.3.3 Chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng Ngân Hàng đối với hộ sản xuất: Hiện nay, hầu hết các Ngân hàng thương mại ở Việt Nam thì hoạt động tín dụng vẫn chiếm khoảng 75% - 80% trong tổng tài sản có của Ngân hàng. Vì thế sự tồn tại và hưng thịnh của Ngân hàng phụ thuộc rất nhiều vào tín dụng và chất lượng tín dụng. Các Ngân hàng thường đánh giá chất lượng tín dụng khoản vay thông qua một số chỉ tiêu cơ bản sau: 1.3.3.1 Chỉ tiêu định tính. a) Đảm bảo nguyên tắc cho vay: Để đánh giá chất lượng một khoản cho vay, điều đầu tiên phải xem xét là khoản cho vay đó có bảo đảm nguyên tắc cho vay hay không. Theo quyết định 1627/QĐ ngày 15/01 /2002, tại Điều 6 Nguyên tắc vay vốn ghi rõ: "Khách hàng vay vốn của tổ chức tín dụng phải đảm bảo hai nguyên tắc cơ bản để cho vay là: Thứ nhất: Sử dụng đúng mục đích theo thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. Thứ hai: Hoàn trả đầy đủ cả gốc lẫn lãi đúng hạn đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. b) Cho vay đảm bảo có điều kiện: Chỉ tiêu định tính thứ hai để đánh giá chất lượng tín dụng Ngân hàng đó là cho vay bảo đảm có điều kiện,cũng theo quyết định 1627/ QĐ - Chính phủ, tại Điều 7 Điều kiện vay vốn ghi rõ:"Tổ chức tín dụng xem xét và quyết định cho vay khi khách hàng có đủ các điều kiện sau: - Một là: Có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật. Đối với hộ sản xuất phải thường trú tại địa bàn nơi chi nhánh NHNo&PTNT đóng tại trụ sở có xác nhận hộ khẩu nơi thường trú và có xác nhận của UBND xã (phường) nơi cho phép hoạt động sản xuất kinh doanh. - Hai là: Khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết. Hộ sản xuất vay vốn phải có vốn tự có tham gia và dự án sản xuất kinh doanh, dịch vụ. Hộ sản xuất phải kinh doanh có hiệu quả, không có nợ quá hạn trên 6 tháng với Ngân hàng. - Ba là: Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp: Không vi phạm pháp luật, phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội. - Bốn là: Hộ sản xuất có dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất kinh doanh khả thi, có hiệu quả. - Năm là: Hộ sản xuất thực hiện các quy định về đảm bảo tiền vay. Cũng như các loại khách hàng khác, cho vay hộ sản xuất cũng bao gồm cho vay có bảo đảm và không bảo đảm. Tuy nhiên, riêng đối với lĩnh vực nông nghiệp nông thôn, Nhà nước có các chính sách về bảo đảm riêng, bao gồm: + Đối với các món vay nhỏ, các Ngân hàng và tổ chức tín dụng được cho phép vay không bảo đảm (Thông tư 10/2000/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước). + Hướng dẫn thực hiện nghị quyết 11/2000/NQ-CP ngày 31/7/2000, Hộ gia đình, Chủ trang trại được vay đến 20 triệu đồng không phải thế chấp; Quyết định số 103/2000/QĐ-TTg ngày 25/8/2000, các Hộ nông dân nuôi trồng thuỷ sản được vay 50 triệu đồng không phải thế chấp. + Tuy nhiên, để làm căn cứ trong việc xét duyệt cho vay Hộ nông dân phải xuất trình cho Ngân hàng các giấy tờ liên quan đến việc giao quyền sử dụng đất, mặt khác các Ngân hàng được phép giữ lấy chứng nhận quyền sử dụng đất khi cấp tín dụng. + Các hộ nghèo được áp dụng hình thức cho vay bảo đảm bằng tín chấp. Bất cứ một khoản cho vay hộ sản xuất nào đều phải xem xét đến năm điều kiện cho vay để đánh giá chất lượng khoản vay. c) Quá trình thẩm định: Quá trình thẩm định là chỉ tiêu định tính quan trọng nhất quyết định tới chất lượng khoản cho vay. Quá trình thẩm định là cách tốt nhất để Ngân hàng nắm được thông tin về khách hàng về năng lực pháp luật, đạo đức của khách hàng, tình hình tài chính của khách hàng, khả năng trả nợ của khách hàng... Đây là khâu không thể thiếu được trong quá trình quyết định cho vay và theo dõi khoản vay. Quá trình thẩm định phải tuân theo các các quy định và nội dung thẩm định cho vay của từng Ngân hàng. Một khoản cho vay có chất lượng là khoản cho vay đã được thẩm định và phải đảm bảo các bước của quá trình thẩm định. Quá trình thẩm định một khoản cho vay hộ sản xuất rất phức tạp do đặc điểm sản xuất kinh doanh của hộ là sản xuất kinh doanh tổng hợp. Vì vậy, việc tuân thủ quy trình thẩm định và nội dung thẩm định cho vay là bắt buộc để một khoản vay đạt chất lượng. 1.3.3.2 Chỉ tiêu định lượng: Không giống chỉ tiêu định tính, chỉ tiêu định lượng giúp cho Ngân hàng có cách đánh giá cụ thể hơn về chất lượng tín dụng, qua đó giúp Ngân hàng có biện pháp xử lý kịp thời những khoản vay kém chất lượng. Các chỉ tiêu mà Ngân hàng thường dùng là: a) Doanh số cho vay hộ sản xuất: Doanh số cho vay hộ sản xuất là chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh tổng số tiền Ngân hàng cho hộ sản xuất vay trong thời kỳ nhất định, thường là một năm. Ngoài ra Ngân hàng còn dùng chỉ tiêu tương đối phản ánh tỷ trọng cho vay hộ sản xuất trong tổng doanh số cho vay của Ngân hàng trong một năm. Tỷ trọng cho vay HSX = Doanh số cho vay HSX x 100% Tổng doanh số cho vay b) Doanh số thu nợ hộ sản xuất: Doanh số thu nợ hộ sản xuất chỉ là chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh tổng số tiền Ngân hàng thu hồi được sau khi đã giải ngân cho hộ sản xuất trong một thời kỳ. Tỷ lệ thu nợ HSX = Doanh số thu nợ của HSX X 100% Tổng dư nợ của HSX Để phản ánh tình hình thu nợ hộ sản xuất, Ngân hàng còn sử dụng chỉ tiêu tương đối phản ánh tỷ trọng thu hồi được trong tổng doanh số cho vay hộ sản xuất của Ngân hàng trong thời kỳ. Chỉ tiêu này được tính bằng công thức: Doanh số thu nợ HSX x 100% Doanh số cho vay HSX c) Dư nợ quá hạn hộ sản xuất: Dư nợ quá hạn hộ sản xuất là chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh tổng thể số tiền Ngân hàng chưa thu hồi được sau một thời gian nhất định kể từ ng._.ày khoản cho vay đến hạn thanh toán tại thời điểm đang xem xét. Bên cạnh chỉ tiêu tuyệt đối, Ngân hàng thường xuyên sử dụng chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn hộ sản xuất: Tỷ lệ nợ quá hạn HSX = Dư nợ quá hạn HSX x 100% Tổng dư nợ HSX Đây là chỉ tiêu quan trọng nhất để đánh giá hiệu quả tín dụng hộ sản xuất và chất lượng tín dụng đầu tư cho vay đối với hộ sản xuất. Dư nợ quá hạn càng nhỏ, tỷ lệ nợ quá hạn thấp thì chất lượng tín dụng càng cao. Hoạt động Ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng Ngân hàng nói riêng đều chứa đựng nhiều rủi ro tác động đến lợi nhuận và sự an toàn kinh doanh của Ngân hàng. Do vậy, việc đảm bảo thu hồi đủ vốn cho vay đúng hạn, thể hiện qua tỷ lệ nợ quá hạn thấp là vấn đề quan trọng trong quản lý Ngân hàng, liên quan đến sự sống còn của Ngân hàng. Để xem xét chi tiết hơn khả năng không thu hồi được nợ người ta sử dụng chỉ tiêu tỷ lệ khó đòi. Tỷ lệ khó đòi = Tổng nợ khó đòi x 100% Tổng nợ quá hạn Đây cũng là một chỉ tiêu tương đối. Tỷ lệ này ở mức cao là dấu hiệu cho thấy nguy cơ mất vốn cao do các khoản cho vay có vấn đề. d) Vòng quay vốn tín dụng hộ sản xuất: Vòng quay vốn TD HSX = Doanh số thu nợ HSX Dư nợ bình quân HSX Trong đó: Dư nợ bình quân HSX = Dư nợ đầu năm + Dư nợ cuối năm 2 Đây là một chỉ tiêu quan trọng xem xét chất lượng tín dụng hộ sản xuất, phản ánh tần suất sử dụng vốn. Vòng quay càng lớn với số dư nợ luôn tăng, chứng tỏ đồng vốn Ngân hàng bỏ ra đã được sử dụng một cách hiệu quả, tiết kiệm chi phí, tạo ra lợi nhuận lớn cho Ngân Hàng. e) Lợi nhuận của Ngân hàng: Lợi nhuận = Tổng thu - Tổng chi - Thuế Trong tổng thu, lãi thu từ cho vay là chủ yếu, mà hộ sản xuất là khách hàng chính của Ngân hàng, cho nên lợi nhuận Ngân hàng là thước đo hiệu quả sử dụng vốn của Ngân hàng cũng như chất lượng cho vay hộ sản xuất. 1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng Ngân Hàng đối với hộ sản xuất. Việc nâng cao chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất có ý nghĩa rất lớn với Ngân hàng, hộ sản xuất và nền kinh tế, nó mang tính quyết định sự thành bại của Ngân hàng. Do vậy, yêu cầu phải nâng cao chất lượng tín dung hộ sản xuất là một yêu cầu thường xuyên đối với Ngân hàng. Để làm tốt điều đó, trước hết phải xem xét các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dung hộ sản xuất. 1.4.1. Chính sách của Đảng và Nhà nước: Chính sách của Đảng và Nhà nước cũng là những nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả cho vay như: - Về cơ chế cho vay, về đảm bảo tiền vay, về giao đất giao rừng. - Về hành lang quản lý - Về tiêu thụ, bao tiêu sản phẩm, trợ giá trong sản xuất nông nghiệp, đối tượng cho vay... 1.4.2. Chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước đối với Ngân hàng thương mại như thực hiện cơ chế cho vay mở rộng. 1.4.3. Chủ quan của Ngân hàng thương mại. Đây cũng là những nhân tố ảnh hưởng lớn đến hiệu quả cho vay của Ngân hàng thương mại như: + Nguồn vốn của Ngân hàng thương mại + Uy tín - tín nhiệm - tinh thần phục vụ của Ngân hàng thương mại + Trình độ của cán bộ Ngân hàng trong thẩm định cho vay - trong tiếp thị, trong Marketing và sự am hiểu về khoa học kỹ thuật cũng như am hiểu về pháp luật (nhất là luật kinh tế). + Tổ chức, phân công công tác phù hợp với năng lực của cán bộ. 1.4.4 Chủ quan của khách hàng vay vốn: Yếu tố chủ quan của khách hàng vay vốn cũng là những yếu tố cơ bản tác động đến hiệu quả cho vay của Ngân hàng thương mại. - Trình độ, năng lực sản xuất kinh doanh - Sự am hiểu về khoa học kỹ thuật - Sự am hiểu và nhậy cảm với kinh tế thị trường và thị yếu - Trình độ quản lý và chấp hành pháp luật cũng như sự am hiểu pháp luật. 1.4.5. Thị trường: Thị trường cũng là nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả cho vay của Ngân hàng thương mại, yếu tố thị trường tác động đến đầu vào đầu ra của sản phẩm, của hàng hoá trong sản xuất kinh doanh. Đôi lúc nó tác động bất lợi đến tiêu thụ sản phẩm gây khó khăn cho người sản xuất, từ đó ảnh hưởng đến hậu quả cho vay của Ngân hàng vì người sản xuất vay vốn Ngân hàng. 1.4.6. Thiên tai: Trong quá trình sản xuất kinh doanh, nhà sản xuất kinh doanh vay vốn Ngân hàng gặp phải rủi ro như nắng hạn kéo dài, mưa lũ, chăn nuôi bị dịch bệnh... không được thu hoạch, không có vốn trả nợ vốn vay đã gây ảnh hưởng đến hiệu quả cho vay của Ngân hàng thương mại. chương 2 Thực trạng chất lượng tín dụng đối với Hộ sản xuất tại NHN0 & PTNT huyện Hoa lư 2.1 Khái quát tình hình kinh tế xã hội huyện hoa lư 2.1.1 Tình hình kinh tế xã hội ở huyện Hoa Lư. Hoa Lư là huyện mới được tái lập từ ngày 01 tháng 9 năm 1994 tách ra từ huyện Tam Điệp thuộc tỉnh Ninh Bình. Phía đông giáp huyện Yên Khánh, phía nam giáp TX Tam Điệp, phía tây, phía bắc giáp huyện Gia Viễn. NHNo&PTNT huyện Hoa Lư có trụ sở tại trung tâm huyện là thị trấn thiên tôn nằm cách Thành phố Ninh Bình 6 km theo quốc lộ 1A và đường 59. Huyện Hoa Lư có 10 xã và một thị trấn, trong đó có 6 xã thuộc diện miền núi khu vực II, diện tích tự nhiên là 102,88 km2, trong đó diện tích canh tác là 7.821 ha. Dân số 65.675 người, số hộ là 29.268 hộ. Toàn huyện có 45 doanh nghiệp ,46 hợp tác xã nông nghiệp,3 hợp tác xã tín dụng. Hoa Lư là một huyện thuần nông với sản phẩm làm ra chủ yếu là lúa và cây màu. Tốc độ tăng trưởng kinh tến bình quân trong 5 năm từ 2001 đến năm 2005 đạt 9,3% năm * Sản xuất nông - lâm nghiệp và thuỷ sản: - Về trồng trọt: Do điều kiện thời tiết thuận lợi và có sự tập trung chỉ đạo sát sao của các cấp, các ngành, nhất là cơ sở, nông dân đã mạnh dạn tiếp thu ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và đầu tư vào sản xuất, do đó sản xuất nông nghiệp trong 5 năm từ năm 2001 đến năm 2005 liên tục được mùa lớn, là huyện được tỉnh đánh giá có tốc độ tăng năng xuất cao. Năng xuất lúa đạt 116 tạ/ha, tổng sản lượng lương thực bình quân từ năm 2001 đến năm 2005 đạt 75.800 tấn tăng 8.2% so với kế hoạch, lương thực bình quân đầu người đạt 633 kg/ năm tăng 5.5% so với kế hoạch, diện tích cấy lúa ổn định từ 12.500 đến 12.800 ha/năm, tập trung chuyển dịch cơ cấu mùa vụ và cây trồng, mở rộng diện tích lúa đặc sản, lúa chất lượng cao để nâng giá trị thu nhập trên diện tích canh tác. Diện tích cây màu, cây ngắn ngày tiếp tục được mở rộng, tiếp tục chuyển đổi cây trồng có giá trị kinh tế cao, đẩy mạnh và phát triển phong trào cánh đồng 50triệu đồng/ ha / năm và hộ nông dân có thu nhập 50 triệu đồng/ năm. hiện tại toàn huyện có 29 cánh đồng với 300 ha đạt giá trị thu hoạch trên 50 triệu đồng/ ha/ năm và 87 hộ nông dân thu nhập từ 50 triệu đồng trở lên/ năm . - Về chăn nuôi: Tiếp tục phát triển mạnh đàn gia súc, gia cầm, đã có những mô hình chăn nuôi theo hướng trang trại, giá trị chăn nuôi ngày càng tăng, chiếm trên 30% giá trị sản xuất nông nghiệp, tổng đàn lợn (không kể lợn sữa) là 58.857 con, tổng đàn bò là 7.204 con, đàn gia cầm là 479.086 con. - Về thuỷ sản: Diện tích nuôi trồng thuỷ sản toàn huyện tiếp tục được mở rộng, đã chuyển 199 ha ruộng cấy lúa kém hiệu quả sang nuôi trồng thuỷ sản theo mô hình một lúa một cá, diện tích nuôi trồng thuỷ sản toàn huyện năm 2005 là 675 ha tăng 125% và sản lượng thuỷ sản năm 2005 tăng gấp 2 lần so với năm 2000. * Sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp: Sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp có bước phát triển mới, tổng giá trị sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn huyện năm 2005 đạt 37.500 triệu đồng, tăng 66% so với năm 2000. Tuy sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp có bước phát triển, song vẫn đánh giá ngành công nghiệp là nhỏ lẻ, manh mún và không ổn định. Không có đầu mối sản xuất lớn làm chủ đạo, hoàn toàn sản xuất tự phát, dẫn đến tiêu thụ sản phẩm gặp khó khăn, ít có khả năng cạnh tranh trên thị trường bên ngoài. * Thu - chi ngân sách nhà nước: Tổng thu ngân sách nhà nước năm 2006 đạt 16.000 triệu đồng, tăng 43.3% so với năm 2001. Chi ngân sách đảm bảo đúng luật, bám sát nhu cầu chi cho nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, giáo dục của huyện phục vụ kịp thời các mục tiêu phát triển kinh tế, văn hoá theo chủ trương đường lối kế hoạch đề ra. * Những khó khăn về phát triển kinh tế: - Công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp phát triển chưa mạnh , còn chiếm tỉ trọng thấp trong cơ cấu kinh tế, giá trị ngày công lao động chưa cao . - Cơ cấu chuyển dịch trong nông nghiệp còn chậm, ngành nghề trong nông thôn chưa phát triển phong phú và đa dạng, thu nhập của người nông dân còn thấp. - Đầu tư vào các ngành kinh tế, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng còn chậm. - Sản xuất nông nghiệp chưa chuyển mạnh sang sản xuất hàng hoá, tỉ lệ lúa chất lượng cao, lúa đặc sản còn thấp, hiệu quả hoạt động của một số hợp tác xã nông nghiệp sau chuyển đổi chưa cao, chưa phát huy được vai trò sản xuất kinh doanh, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển. - Kinh tế tăng trưởng khá nhưng chưa vững chắc, cơ cấu kinh tế có bước chuyển dịch đúng hướng nhưng còn chậm so với yêu cầu đề ra và tiềm năng thế mạnh của địa phương . * Định hướng phát triển kinh tế của huyện Hoa Lư trong 5 năm (2006-2011): - Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm đạt 11% -Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất bình quân hàng năm : + Nông nghiệp tăng 5% + Dịch vụ tăng 26% + CN – TTCN – XDCB tăng 20% - Cơ cấu kinh tế đến năm 2011 đạt: + Nông nghiệp 45% + Dịch vụ 33% + CN – TTCN – XDCB 22% - Tổng sản lượng lương thực có hạt bình quân hàng năm đạt 72.000 tấn , lương thực bình quân đầu người 600 Kg trở lên . - Giá trị sản phẩm trên một ha canh tác bình quân 35 triệu đồng / năm - Thu ngân sách trên địa bàn năm 2011 đạt 26 tỉ - Đến năm 2011 tỉ lệ hộ nghèo còn 12% - Giải quyết việc làm bình quân mỗi năm cho 3.000 lao động trở lên , đặc biệt quan tâm đến xuất khẩu lao động … Tổng sản lượng lương thực quy thóc 77.800 tấn trở lên. - Giá trị sản xuất nông - lâm nghiệp, thuỷ sản tăng 7% so với năm 2003 - Giá trị sản suất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp đạt 30 tỷ đồng, tăng 6,9% so với năm 2003 - Giảm tỷ lệ hộ đói nghèo còn 12,5%, giảm 14,7% so với năm 2003 2.1.2 Tình hình hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng khác trên địa bàn huyện Hoa lư Hiện nay trên địa bàn huyện Hoa Lư có hai tổ chức tín dụng cùng tham gia hoạt động (trong đó Ngân hàng Chính sách xã hội mới đi vào hoạt động từ đầu năm 2003) mà đối tượng phục vụ chủ yếu của các tổ chức tín dụng đều là hộ sản xuất, do đó đã tạo ra sự cạnh tranh khá gay gắt trong hoạt động tín dụng. Tuy nhiên xét về mạng lưới tổ chức, tiềm lực tài chính, quy mô hoạt động, ưu thế và vị trí thì NHNo & PTNT đã chiếm lĩnh được thị trường, trong đó hoạt động của NHNo & PTNT huyện Hoa Lư cũng có đóng góp không nhỏ cho sự phát triển của NHNo & PTNT tỉnh Ninh Bình. 2.2 Khái quát về NHN0 & PTNT huyện Hoa lư 2.2.1 Sơ lược về quá trình hình thành và phát triển của NHNo & PTNT huyện Hoa Lư NHNo&PTNT huyện Hoa Lư là chi nhánh Ngân hàng thương mại quốc doanh hoạt động theo Luật Ngân hàng, luật các tổ chức tín dụng và điều lệ của NHNo&PTNT Việt Nam nhiệm vụ kinh doanh chủ yếu là huy động vốn và cho vay để phát triển kinh tế xã hội địa phương cùng với mục tiêu của ngân hàng là tìm kiếm lợi nhuận , là huyện thuần nông nên hoạt động của NHNo&PTNT huyện Hoa Lư cũng có những thuận lợi và khó khăn nhất định . * Thuận lợi: Qua một thời gian thực hiện luật Ngân Hàng Nhà Nước, Luật các tổ chức tín dụng, quyết định 72 của HĐQT NHNo&PTNT Việt Nam đã có kết quả khả quan. Đồng thời quyết định 67 và nghị định 178 của Chính phủ được ban hành đã tạo ra hành lang pháp lý và môi trường kinh doanh thuận lợi cho các Ngân hàng thương mại nói chung và NHNo&PTNT nói riêng. Mặt khác, Đảng và Chính phủ đã có nhiều biện pháp kích cầu để thúc đẩy nền kinh tế đất nước. tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn phát triển ổn định hơn và đạt được mục tiêu đã đề ra trong năm, đời sống nhân dân trong huyện được cải thiện . - NHNo&PTNT Huyện Hoa Lư luôn luôn được sự ủng hộ của các cấp, các ngành lãnh đạo, ban ngành của huyện, của chính quyền từ huyện đến xã, thôn trong việc thực hiện các chế độ chính sách Ngân hàng. - Sự hiểu biết của khách hàng về chính sách tín dụng Ngân hàng đã được nâng lên một cách rõ rệt. - Sự chỉ đạo, điều hành sát sao của ban giám đốc Ngân hàng huyện cùng với sự nhiệt tình trách nhiệm của đội ngũ cán bộ nhân viên trong toàn chi nhánh. * Khó khăn: - Nền kinh tế có xuất phát điểm thấp, mặc dù môi trường kinh tế đã có bước phát triển, song bên cạnh đó còn nhiều hạn chế. Sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp manh mún. Qui mô sản xuất nông nghiệp nhỏ lẻ, ít mang tính chất hàng hoá và phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên. - Khối hợp tác xã nông nghiệp là thành phần kinh tế tập thể chủ yếu của huyện đến nay đã được củng cố và kiện toàn, song hiệu quả hoạt động chưa cao, các khâu dịch vụ cho xã viên còn nhiều hạn chế, công tác quản lý và điều hành hợp tác xã chưa đảm bảo theo đúng luật hợp tác xã, đặc biệt là vốn cổ phần hầu như không đáng kể, chưa đủ điều kiện để quan hệ tín dụng với Ngân hàng. - Sự cạnh tranh của các tổ chức tín dụng khác như Ngân hàng công thương, các quĩ tín dụng nhân dân trên địa bàn, Ngân hàng chính sách xã hội và các tổ chức khác như Bưu điện, Kho bạc, tổ chức bảo hiểm với nhiều hình thức kinh doanh dịch vụ khác nhau, tính cạnh tranh trong hoạt động Ngân hàng ngày càng trở nên gay gắt hơn. - Đối tượng khách hàng chủ yếu là nông dân, nên các món tiền gửi và tiền vay nhỏ lẻ làm tăng chi phí của Ngân hàng. Những khó khăn trên đã ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT huyện Hoa Lư, tuy nhiên với tinh thần trách nhiệm cao trong công việc, đội ngũ cán bộ NHNo&PTNT huyện Hoa Lư đã cố gắng đoàn kết nhất trí cao cho nên từ khi tách lập đến nay ngoài việc thực hiện nhiệm vụ chung của hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam, NHNo&PTNT Huyện Hoa Lư còn góp phần đáng kể trong việc phát triển kinh tế trên địa bàn và của toàn xã hội đó là: + Huy động vốn: Khai thác và nhận tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, có kỳ hạn, tiền gửi thanh toán của các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế trong nước và nước ngoài bằng VND và ngoại tệ, phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu, kỳ phiếu ngân hàng và thực hiện các hình thức huy động vốn khác theo quy định của NHNo&PTNT Việt Nam, tiếp nhận các nguồn vốn tài trợ, uỷ thác của chính phủ, chính quyền đại phương và các tổ chức kinh tế, cá nhân trong và ngoài nước khi tổng giám đốc cho phép. + Cho vay phục vụ các nhu cầu sản xuất kinh doanh, xây dựng cơ sở hạ tầng và dịch vụ đời sống đối với các hộ sản xuất và các thành phần kinh tế. + Kinh doanh ngoại hối theo quy định của NHNo&PTNT Việt Nam và của NHNo & PTNT tỉnh Ninh Bình. + Làm các dịch vụ Ngân hàng…. Từ khi tái lập đến nay thời gian hoạt động chưa dài xong NHNo&PTNT huyện Hoa Lư đã đạt được những kết quả đáng kể như: Huy động được hầu hết số tiền nhàn rỗi trong dân trên cơ sở đó cung cho nền kinh tế một khối lượng vốn lớn góp phần vào việc phát triển nền kinh tế, giảm tỉ lệ đói nghèo trên địa bàn, tạo được uy tín và hình ảnh đẹp cho toàn hệ thống Ngân hàng thương mại. 2.2.2. Cơ cấu bộ máy tổ chức và mạng lưới kinh doanh của NHNo & PTNT huyện Hoa Lư. NHNo&PTNT huyện Hoa Lư là chi nhánh Ngân hàng thương mại quốc doanh hoạt động theo Luật các tổ chức tín dụng và điều lệ của NHNo&PTNT Việt Nam. Nhiệm vụ kinh doanh chủ yếu là: - Huy động mọi nguồn vốn nội tệ tạm thời nhàn rỗi của các thành phần kinh tế. - Cho vay phục vụ các nhu cầu sản xuất kinh doanh, xây dựng cơ sở hạ tầng và dịch vụ đời sống đối với các hộ sản xuất và các thành phần kinh tế. - Làm dịch vụ chuyển tiền. - Thực hiện dịch vụ uỷ thác của ngân hàng phục vụ người nghèo và thực hiện giải ngân các nguồn vốn uỷ thác như WB, ADB, RDF, KFW. - NHNo&PTNT huyện Hoa Lư có 3 địa điểm giao dịch: Trung tâm Ngân hàng huyện và 1 chi nhánh Ngân hàng cấp 3 mới đi vào hoạt động từ năm 1996. Tại Ngân hàng huyện có 3 phòng: phòng kinh doanh, phòng kế toán ngân quỹ và phòng tổ chức hành chính. - Phòng kinh doanh: Chịu trách nhiệm xây dựng kế hoạch về kinh doanh (gồm cho vay, thu nợ) của ngân hàng. - Phòng kế toán – ngân quỹ: Có trách nhiệm huy động nguồn vốn, thu chi tiền mặt, hạch toán kế toán và thanh toán. - Phòng tổ chức hành chính: Có trách nhiệm tham mưu cho giám đốc công tác vận dụng và thi hành chính sách, chủ trương của Nhà nước, đảm bảo triển khai các nghiệp vụ mang tính chất hành chính Ngân hàng. Số lao động của đơn vị có 47 người, trong đó có 34 cán bộ hợp đồng dài hạn và 13 cán bộ hợp đồng ngắn hạn: Trình độ đại học có 25 đồng chí, trình độ trung cấp có19 đồng chí và có 1 bảo vệ chuyên trách. 2 đồng chí lái xe. NHNo&PTNT Huyện Hoa Lư đã thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước về phát triển kinh tế nhiều thành phần, công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn, chi nhánh đã có quan hệ tín dụng với nhiều thành phần kinh tế khác nhau, nhưng lĩnh vực chủ yếu là địa bàn nông nghiệp và nông thôn. Bộ máy hoạt động được tổ chức thống nhất toàn chi nhánh. Các Ngân hàng cấp 3 trực tiếp giao dịch tại các khu vực nông thôn xa trung tâm ngân hàng huyện để một mặt mở rộng, tăng cường hoạt động của chi nhánh tại địa bàn huyện, mặt khác để tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân trong quan hệ tín dụng với ngân hàng (hiện nay tất cả 100% số xã và thị trấn trên địa bàn huyện đều có cán bộ tín dụng của chi nhánh trực tiếp theo dõi cho vay, thu nợ. 2.2.3 Tình hình kinh doanh của NHNo&PTNT Huyện Hoa Lư: 2.2.3.1. tình hình huy động vốn. Thực hiện phương châm “ Đi vay để cho vay” nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn phục vụ kịp thời nhu cầu sản xuất kinh doanh thông qua việc tích cực thu hút moi nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi của các tổ chức kinh tế và nhân dân bằng nhiều hình thức như huy động tiền gửi, tiết kiệm, bán kỳ phiếu trái phiếu đặc biệt là NHNo &PTNT Huyện Hoa Lư đã áp ụng những hình thức huy động tiết kiệm dự thửơng với mức lãi xuất hấp dẫn theo đề án của NHNo&PTNT Việt Nam; NHNo&PTNT Huyện Hoa Lư đã đề ra những biện pháp tích cực linh hoạt và luôn giữ được lòng tin với khách hàng. Đội ngũ cán bộ nhiệt tình và hiểu biết trong mọi lĩnh vực biết khơi dậy nguồn vốn tiềm ẩn trong dân cư. Do đó nguồn vốn huy động tại chỗ ngày càng tăng dần, góp phần quan trọng vào việc mở rộng cho vay và giảm bớt việc vay vốn Ngân hàng cấp trên. Cụ thể kết qủa huy động vốn qua các năm được thể hiện ở bảng số liệu sau: Bảng1: Nguồn vốn huy động của NHNo&PTNT Huyện Hoa Lư Đơn vị: Triệu đồng chỉ tiêu Vốn huy động năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 số tiền Tăng giảm so 2004 số tiền Tăng giảm so 2005 số tiền tỷ lệ% số tiền tỷ lệ% I-NV Huy động 57,918 60,723 2,805 4.84 87,514 26,791 44.12 1- TG không kỳ hạn 28,544 27,005 (1,539) (5.39) 45,499 18,494 68.48 - TG các TCKT 28,137 26,176 (1,961) (6.97) 43,717 17,541 67.01 - TG tiết kiệm 407 829 422 103.69 1,782 953 114.96 2- TG có kỳ hạn 29,374 33,718 4,344 14.79 42,015 8,297 24.61 - TG các TCKT - TG tiết kiệm 28,821 33,229 4,408 15.29 41,796 8,567 25.78 - TG kỳ phiếu T. phiếu 553 489 (64) (11.57) 219 (270) (55.21) Lãi xuất đầu vào 0.48% 0.39% -0.09% 0.49% 0.10% (Nguồn: Báo cáo Kết quả hoạt động kinh doanh của NHNo & PTNT Hoa Lư năm 2004 – 2006) Qua số liệu trên cho thấy rằng NHNo&PTNT Huyện Hoa Lư đã đạt những thắng lợi đáng kể trong công tác huy động nguồn vốn. Nguồn vốn tăng trưởng khá nhanh, số liệu cho thấy đến 31tháng 12 năm 2004 tổng nguồn vốn chỉ đạt được ở mức: 57.918 triệu nhưng đến 31 tháng 12 năm 2005 là: 60.723 triệu tăng 2.805 triệu đạt tỷ lệ là 4,84% đặc biệt là năm 2006 do áp dụng linh hoạt các hình thức huy động, lãi suất huy động khá hấp dẫn với nhiều hình thức huy động phong phú và hấp dẫn đặc biệt là những hình thức huy động tiết kiệm dự thưởng theo đề án của NHNo&PTNT Việt Nam và NHNo&PTNT Tỉnh Ninh Bình Nên nguồn vốn năm 2006 tăng trưởng khá nhanh đến 31 tháng 12 năm 2006 có số dư là : 87.514 triệu tăng so với năm 2005 là: 26.791 triệu và tỷ lệ là 44,12%. Về cơ cấu nguồn vốn cũng có sự thay đổi rõ rệt nguồn vốn có xu hướng ổn định thể hiện ở chỗ tiền gửi có kỳ hạn tăng trưởng nhanh và ổn định .năm 2004 tiền gửi có kỳ hạn chỉ có số dư là: 29.374 triệu đến cuối năm 2005 có số dư là:33.718 triệu tăng so với 2004 là 4.344 triệu tỷ lệ 14.79% đặc biệt năm 2006 tiền gửi có kỳ hạn đạt mức: 42.015 triệu so với năm 2005 tăng 8.297 triệu với tỷ lệ là 24,61%. Tiền gửi không kỳ hạn năm 2005 có xu thế giảm so với năm 2004 số dư tiền gửi không kỳ hạn đến 31/12/2005 chỉ là: 27.005 triệu giảm so với 2003 là: 1.539 triệu. Nhưng đến năm 2006 tiền gửi không kỳ hạn có số dư là: 45.499 triệu tăng so với năm 2005 là: 18.494 triệu Điều này càng chứng tổ răng công tác huy động nguôn vốn của NHNo&PTNT Huyện Hoa Lư Năm 2006 đạt được những kết quả đáng kể. Lãi suất huy động đầu vào bình quân khá ổn định chỉ giao động ở biên độ nhỏ năm 2004 lãi xuất đầu vào là: 0,48% đến năm 2005 giảm xuống 0,39 % điều này cho thấy mặc du lãi xuất đầu vào giảm 0,09% nhưng nguồn vốn năm 2005 vẫn tăng 2.805 triệu. Năm 2006 lãi xuất đầu vào tăng lên 0.49% nhưng tốc đọ tăng trưởng nguồn vốn lại khá cao. Càng cho thấy rằng công tác huy động nguồn vốn trong những năm gần đây là khá tốt đáp ứng được nhu cầu tăng trưởng tín dụng đi đôi với tăng trưởng nguồn vốn. 2.2.3.2.Tình hình sử dụng vốn : Cùng với sự đổi mới của toàn ngành, chi nhánh NHNo&PTNT Huỵện Hoa Lư đã xác định hoạt động kinh doanh phải luôn đổi mới để thích nghi với cơ chế thị trường, phải thực hiện tốt luật Ngân hàng Nhà nước và luật các tổ chức tín dụng, các văn bản chỉ đạo của chính phủ văn bản hướng dẫn của nghành về hoạt động tín dụng. Huy động vốn là một vấn đề khó song sử dụng vốn như thế nào lại là vấn đề phức tạp… vì sử dụng vốn như thế nào cho có hiệu quả tránh thất thoát vốn, mất vốn . Cụ thể công tác sử dụng vốn qua các năm được thể hiện ở bảng số liệu sau: Bảng 2: Cơ cấu dư nợ vốn tín dụng của NHNo&PTNT Huyện Hoa Lư Đơn Vị: Triệu Đồng Chỉ tiêu đến 31/12/2004 đến 31/12/2005 đến 31/12/2006 Tổng số Tỷ lê% so với tổng dư nợ Tổng số Tỷ lê% so với tổng dư nợ Tổng số Tỷ lê% so với tổng dư nợ Tổng Dư nợ 45,240 70,627 140,730 1- DN theo thành phần KT 45,240 100 70,627 100 140,730 100 - Kinh tế quốc doanh 116 0.26 - KT ngoài quốc doanh 45,124 99.74 70,627 100 140,730 100 + Trong đó hộ sản xuất 34,568 76.41 52,688 74.60 130,030 92.4 + CV đời sống+ CV Khác 10,556 23.33 17,939 25.40 10,700 7.6 2- DN theo tính chất nguôn vốn 45,240 100 70,627 100 140,730 100 - D nợ ngắn hạn 22,802 50.40 38,042 53.9 71,675 50.9 - D Nợ trung, dài hạn 22,438 49.60 32,585 46.1 69,055 49.1 (Nguồn: Báo cáo Kết quả hoạt động kinh doanh của NHNo & PTNT Hoa Lư năm 2004 – 2006) Là một huyện nền kinh tế cơ bản là thuần nông do đó NHNo&PTNT huyện Hoa Lư luôn xác định lấy nông nghiệp nông thôn là thị trường để hoạt động đã sử dụng tối đa các nguồn vốn trên địa bàn, tranh thủ vốn của tỉnh và trung ương để mở rộng tín dụng có hiệu quả. Căn cứ vào thực trạng kinh tế xã hội của từng xã từng khách hàng để có kế hoạch đầu tư vốn an toàn. Với phương châm ưu tiên vốn phát triển sản xuất kinh doanh coi trọng đầu tư vốn trung và dài hạn. Mở rộng cho vay đời sống tới các đối tượng có thu nhập ổn định. Tiếp tục thực hiện các nguồn vốn cho vay uỷ thác đầu tư như vốn ADB nguồn vốn WB, nguồn vốn KFW. Mặt khác thực hiện quyết định số 67/QĐ của thủ tướng chính phủ về chính sách tín dụng nông nghiệp nông thôn phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn. NHNo&PTNT huyện Hoa Lư đã chủ động tham mưu cho UBND các cấp triển khai quyết định 67 với các xã trên địa bàn, từng bước mở rộng đầu tư tín dụng có hiệu quả. Gắn cấp uỷ với địa phương và các đoàn thể, quần chúng cùng than gia vào công tác Ngân hàng theo đúng chủ trương của Đảng và Nhà Nước. Qua bảng số liệu trên cho thấy trên cơ sở huy động vốn trên địa bàn NHNo&PTNT Huyện Hoa Lư đã sử dụng vào việc đầu tư cho hộ sản xuất tạo điều kiện cho nền kinh tế trên địa bàn ngày càng phát triển dư nợ tín dụng ngày 1 tăng năm sau cao hơn năm trước điều đó thể hiện tại thời điểm 31/12/2004 dư nợ tín dụng chỉ ở mức: 45.240 trệu nhưng đến năm 2005 đa tăng lên mức 70.627 triệu tăng 25.378 triệu tốc độ tăng là 56,11%. Năm 2006 dư nợ đạt mức 140.730 triệu so với năm 2005 tăng 70.103 triệu tốc độ tăng là 99,2% đây là tốc độ tăng trưởng khá lớn thể hiện những thành qủa trong công tác tín dụng của NHNo&PTNT huyện Hoa Lư Năm 2006. Hoạt động trên địa bàn sản xuất nông nghiệp là chủ yếu do đó NHNo&PTNT huyện Hoa Lư tập trung phần lớn vốn vào lĩnh vực sản xuất nông nghiệp thuộc thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Điều này được thể hiện trong cơ cấu dư nợ vốn tín dụng tại thời điểm 31/12/2005 cũng như thời điểm 31/12/2006 thì toàn bộ vốn mà NHNo&PTNT huyện Hoa Lư đầu tư tập trung ở lĩnh vực kinh tế ngoài quốc doanh. Trong đó hộ sản xuất chiếm một tỷ trọng rất lớn cụ thể dư nợ hộ sản xuất tại: Thời điểm 31/12/2004 là: 34.568 Triệu bằng 76,41% tổng dư nợ. Thời điểm 31/12/2005 là: 52.668 triệu bằng 74,6% tổng dư nợ. Thời điểm 31/12/2006 là: 130.030 triệu bằng 92,4% tỏng dư nợ. Như vậy chứng tỏ trong quá trình hoạt động NHNo&PTNT huyện Hoa Lư đã thực hiện chuyển đổi cơ cấu đầu tư vốn tín dụng phù hợp với chính sách kinh tế của Đảng Nhà nước và chính sách tín dụng của nghành đó là việc thực hiện phương châm “Đi vay để cho vay”lấy hiệu quả kinh doanh làm thức đo hàng đầu trong hoạt động tăng cường đầu tư thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển. 2.3 Thực trạng chất lượng TíN DụNG đối với hộ sản xuất tại NHNo & PTNT huyện Hoa lư Hoa Lư là một huyện thuần nông kinh tế phát triển với tốc độ không cao tính đến thời điểm hiện nay Hoa Lư có 29.268 hộ 118.820 khẩu trong đó hộ nông dân nghèo chiếm 2.845 hộ 10.367 khẩu tỷ lệ hộ nghèo khoảng 9,5% các hộ sản xuất chủ yến còn mang tính chất tự cấp tự túc chưa có nhiều sản phẩm hàng hoá, chế biến, dịch vụ chưa được mở rộng các nghành nghề phụ trên địa bàn còn rất hạn chế sản phẩm sản xuất nông nghiệp chủ yếu là cây lúa nước đậu tương, lạc ngô khoai. Trình độ dân chí còn thấp việc tính toán còn chậm nên việc lập dự án kinh tế còn mang tính chiếu lệ và đơn giản. 2.3.1 Thể lệ Tín dụng mà NHNo & PTNT huyện Hoa lư thực hiện đối với các thành phần kinh tế: Để đảm bảo chất lượng tín dụng, các cán bộ tín dụng tại NHNo & PTNT huyện Hoa Lư tuân thủ các quy trình sau: - Sau khi trực tiếp nhận hồ sơ vay vốn của khách hàng, cán bộ tín dụng kiểm tra tính hợp lệ, hợp pháp của hồ sơ, đối chiếu với danh mục của hồ sơ theo quy định của NHNo & PTNT Việt Nam, báo cáo trưởng phòng tín dụng hoặc Giám đốc (Đối với Ngân Hàng cấp 3). - Nếu hồ sơ đầy đủ đảm bảo tính pháp lý, thì trưởng phòng cử cán bộ tiến hành thẩm định các điều kiện vay vốn theo quy định và lập báo cáo thẩm định trình trưởng phòng tín dụng hoặc Giám đốc. - Sau khi thẩm định xong, nếu không cho vay phải thông báo cho khách hàng bằng văn bản và nêu rõ lý do không cho vay. Nếu giải quyết cho vay thì cùng khách hàng lập hợp đồng tín dụng (hoặc sổ vay vốn), hợp đồng bảo đảm tiền vay theo quy định trình duyệt cho vay. Sau đó chuyển hồ sơ vay vốn, hồ sơ pháp lý cho kế toán cho vay, cán bộ tín dụng lưu giữ hồ sơ kinh tế (nếu có) và vào sổ theo dõi cho vay, thu nợ. - Sau khi phát hành tiền vay tối đa 1 tháng, cán bộ tín dụng phải kiểm tra tình hình sử dụng vốn của khách hàng. - Căn cứ vào kết quả kiểm tra, nếu vi phạm thì tuỳ theo mức độ vi phạm của khách hàng có thể xử lý: Tạm ngừng cho vay, chuyển nợ quá hạn, chấm dứt cho vay, khởi kiện trước pháp luật. - Trước khi món vay của khách hàng đến hạn 10 ngày, cán bộ tín dụng nhận giấy báo nợ đến hạn từ bộ phận kế toán và gửi thông báo này cho khách hàng. Trường hợp đến hạn mà khách hàng chưa trả được do nguyên nhân khách quan, bất khả kháng và khách hàng có giấy đề nghị gia hạn nợ thì cán bộ tín dụng kiểm tra, xác minh, đề nghị cho gia hạn nợ theo quy định (Vốn cho vay ngắn hạn tối đa, không quá 12 tháng, vốn cho vay trung dài hạn thời gian tối đa bằng một nửa thời hạn của khoản vay trên hợp đồng tín dụng), trình trưởng phòng tín dụng và giám đốc phê duyệt sau đó chuyển giấy đề nghị gia hạn được duyệt cho kế toán và có giấy báo gia hạn nợ cho khách hàng. - Đôn đốc khách hàng trả nợ đúng kỳ hạn và đề xuất các biện pháp cần thiết, lưu gửi hồ sơ theo quy định của NHNo & PTNT Việt Nam. - Về xử lý rủi ro: Trong trường hợp vốn bị tổn thất do nguyên nhân bất khả kháng như: Bão lụt, hạn hán, dịch bệnh…Nhà nước có chính sách xử lý cho cả người vay và Ngân hàng (khoanh nợ, giản nợ, xoá nợ). Tuỳ theo mức độ thiệt hại theo chính sách xử lý rủi ro trong quyết định số 67QĐ-TTG ngày 30/03/1999 của thủ tướng chính phủ và ngân hàng lập hồ sơ đầy đủ theo hướng dẫn tại thông tư liên tịch số 03/1999 ngày 22/11/1997 của Ngân hàng Nhà nước và bộ tài chính các văn bản hướng dẫn của NHNo & PTNT Việt Nam . Trong thực tế tại NHNo & PTNT Huyện Hoa Lư, một số cán bộ chưa làm đúng quy trình cho vay, nhất là khâu thẩm định còn nhiều hạn chế: Thiếu kiến thức pháp luật, hạn chế kiến thức về tài chính, kinh tế, kỹ thuật…nên trong tác nghiệp còn lúng túng, chưa chủ động tìm kiếm khách hàng, tìm kiếm các dự án đầu tư. Một số cán bộ còn tư tưởng sợ trách nhiệm, không giám cho vay làm hạn chế khả năng mở rộng tín dụng, làm suy giảm lòng tin cuả khách hàng, từ đó làm giảm chất lượng tín dụng . 2.3.2 Tình hình cho vay, thu nợ và dư nợ: Từ khi Chính phủ có Nghị định 14/CP ngày 02/03/1993 và thông tư 01/TT-NHNN ngày 26/3/1993 về cho vay hộ sản xuất đến nay, NHNo & PTNT huyện Hoa Lư đã có một cuộc cách mạng trong hoạt động tín dụng, đó là chuyển hướng cho vay từ cho vay các đơn vị kinh tế quốc doanh là chủ yếu sang cho vay kinh tế hộ phát triển nông nghiệp nông thôn là chủ yếu bên cạnh các thành phần kinh tế khác. Để thực hiện nghị định 14/CP và thông tư 01/TT-NHNN, NHNo & PTNT huyện Hoa Lư đã có rất nhiều biện pháp thích hợp nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu về vốn của các hộ sản xuất. Hiện nay, NHNo & PTNT huyện Hoa Lư đã có những giải pháp thích hợp trong hoạt động tín dụng đối với hộ sản xuất như: Mở rộng mạng lưới kinh doanh trên địa bàn huyện hoa lư, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong quan hệ vay tiền, t._.báo cho cán bộ tín dụng. Từ ngày 20 đến ngày 25 các cán bộ tín dụng đi gặp gỡ khách hàng để xác định khả năng thu của từng khách hàng đến hạn tháng sau, từ đó có biện pháp cụ thể đến từng khách hàng, nếu có khó khăn phải báo cáo cho lãnh đạo để có biện pháp giúp đỡ. Làm tốt phần này đã hạn chế nợ quá hạn phát sinh. - Phần 3 là nợ chưa đến hạn: sẽ tổ chức kiểm tra sau, chú ý những món nợ từ 10 triệu đồng trở lên và tập trung kiểm tra vào hai nội dung đó chính là: Vật tư bảo đảm tiền vay và diễn biến của tài sản thế chấp, nếu có vấn đề thì xử theo các biện pháp tín dụng, giúp đỡ khách hàng khắc phục khó khăn có điều kiện trả nợ Ngân hàng. - Phần 4 cho vay mới: Yêu cầu cho vay nghiêm chỉnh, đúng quy trình nhằm tạo ra mặt bằng dư nợ mới chất lượng lành mạnh hơn. Để xử lý những khoản nợ quá hạn cần thực hiện các giải pháp sau: Thứ nhất: Đối với nợ quá hạn phải thu ngay: là loại nợ bị quá hạn do định kỳ hạn nợ chưa sát, do thu hoạch mùa màng chậm, tiêu thụ sản phẩm và thanh toán chậm, do nguyên nhân khách quan như thiên tai mất mùa, cán bộ tín dụng phải bám sát khách hàng để theo dõi đôn đốc thu hồi nợ, cho phép khách hàng được ra hạn nợ. Khi khách hàng có đủ khả năng trả nợ phải thu ngay, thu đủ 100%. Tuy nhiên Ngân hàng cần ngăn chặn việc gia hạn nợ tuỳ tiện, gia hạn để chạy theo chỉ tiêu đề ra khi nhận khoán, giấu giếm khuyết điểm. Cán bộ tín dụng phải xác định được nguồn hoàn trả của các hộ vay, nếu điều này không thể thực hiện được thì không được phép gia hạn. Đối với hộ vay vốn có tài sản thế chấp khi gia hạn không đủ giá trị theo quy định thì yêu cầu có thêm tài sản thế chấp. Thứ hai: Đối với nợ quá hạn phải thu dần: Là loại nợ khách hàng thiếu khả năng thanh toán không đủ tiền trả ngay một lần, cán bộ tín dụng phải chia số nợ ra nhiều kỳ để khách hàng trả dần, mỗi lần ít nhất 15% số nợ ghi trên khế ước. Thứ ba: Đối với nợ khó đòi: Tỷ lệ nợ khó đòi, tỷ lệ nợ khó đòi trên tổng số nợ quá hạn của Ngân hàng cao do cả nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan như khách hàng sử dụng vốn sai mục đích vay vốn, kinh doanh kém dẫn đến thua lỗ. Có thể áp dụng các biện pháp như thu giữ tài sản thế chấp, thu hồi sản phẩm vào mùa vụ... 3.2.1.6 Ngân hàng đưa ra các sản phẩm khuyến khích: Các sản phẩm này vừa khuyến khích hộ sản xuất vay vốn vừa khuyến khích hộ trả nợ đúng hạn, bao gồm: - Khuyến khích hoàn vốn nhanh: Theo đặc tính này, Ngân hàng định ra một mức lãi suất cao hơn mức lãi suất vay thông thường. Nếu khách hàng trả gốc và lãi đúng hạn hoặc trước hạn thì vào ngày đáo hạn khách hàng đó sẽ được hưởng 20% số lãi mà họ đã thanh toán cho Ngân hàng. Yếu tố này thúc đẩy họ thanh toán đúng hạn. Bên cạnh đó đặc tính này tạo ra sự gặp gỡ thường xuyên giữa Ngân hàng và khách hàng, từ đó giúp Ngân hàng giám sát và đưa ra giải pháp giải quyết nợ khó đòi có thể xảy ra hoặc hỗ trợ khách hàng trong sản xuất. - Cho vay trả góp: Việc thu nợ gốc vào cuối kỳ hạn nợ đã không tạo cho Ngân hàng thói quen trả nợ, đặc biệt đối với những hộ có thu nhập thấp. Vì vậy Ngân hàng đưa ra phương thức cho vay trả góp, phương thức này cho phép khách hàng trả nợ gốc làm nhiều lần trong kỳ hạn nợ vay. Số tiền trả nợ gốc phụ thuộc vào chu kỳ sản xuất kinh doanh và các khoản thu nhập để trả nợ của khách hàng. - Lãi suất linh hoạt: Ngân hàng đưa ra nhiều mức lãi suất khác nhau ứng với từng mức tiền vay cụ thể, từng loại hình sản xuất, kinh doanh cụ thể để khuyến khích khách hàng vay vốn tập trung vào những mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước và của địa phương. - Kết hợp tín dụng với tiết kiệm: Ngân hàng đưa ra sản phẩm tiết kiệm nhằm khuyến khích hộ sản xuất đặc biệt là hộ có thu nhập thấp gửi tiết kiệm và vay vốn hoàn trả đúng hạn ứng với những số tiền tiết kiệm, khách hàng được vay một hạn mức tín dụng có ưu đãi về hơn lãi suất, thời hạn. Sản phẩm này vừa giải quyết được vấn đề tài sản thế chấp , vừa bảo đảm để khách hàng hoàn trả tiền vay đúng hạn, vừa góp phần giúp các hộ sản xuất tiết kiệm tiền nâng cao mức sống, mở rộng sản xuất kinh doanh của họ. 3.2.1.7. Duy trì mối quan hệ lâu dài với khách hàng vay vốn. Mối quan hệ giữa Ngân hàng và khách hàng vay vốn là quan hệ 2 chiều chặt chẽ. Ngân hàng hỗ trợ về vốn sản xuất kinh doanh cho khách hàng và ngược lại, khách hàng vay vốn đem lại nguồn thu chủ yếu cho Ngân hàng. Bởi thế, chính sách đối với khách hàng đối với khách hàng vay vốn là trọng tâm trong chiến lược kinh doanh của bất kỳ Ngân hàng thương mại nào. Đối với NHNo & PTNT huyện Hoa Lư thiết lập được quan hệ lâu dài với hộ sản xuất sẽ đem lại rất nhiều lợi ích: + Biết được nhu cầu vay thực tế cũng như chu kỳ sản xuất kinh doanh của họ để có hình thức tài trợ thích hợp đáp ứng nhu cầu vốn. + Giảm chi phí để điều tra về khách hàng trước khi ra quyết định cho vay vì thông tin của khách hàng đã được lưu trữ tại Ngân hàng. + Bảo đảm an toàn vốn vay và chất lượng tín dụng món vay vì những khách hàng có quan hệ lâu dài thường kinh doanh có hiệu quả và ý thức trả nợ tốt. Từ đó tạo nguồn thu ổn định, vững chắc cho Ngân hàng. Tuỳ từng đối tượng hộ vay mà Ngân hàng có những chính sách thích hợp. Đối với khách hàng vay vốn lần đầu, nhân viên Ngân hàng phải xoá bỏ tâm lý e ngại ban đầu thông qua sự chủ động giúp đỡ họ giải quyết vướng mắc về thủ tục cho vay, cách thức giải ngân, thu lãi và nợ gốc: tiến hành giải ngân nhanh chóng sau khi xét duyệt cho vay để tạo ấn tượng ban đầu tốt đẹp về hình ảnh Ngân hàng. Đối với khách hàng đã quen từ trước có tín nhiệm, Ngân hàng có thể ưu đãi về lãi suất cho vay, giảm bớt các điều kiện cho vay vốn ... Mặt khác trong quá trình kinh doanh nếu khách hàng gặp khó khăn chưa trả được nợ, Ngân hàng cùng tháo gỡ và tạo điều kiện giúp đỡ họ để họ tiếp tục quá trình sản xuất kinh doanh. Cán bộ Ngân hàng nên thăm hỏi, tặng quà đúng các dịp ý nghĩa như: lễ, tết đối với khách hàng vay lớn có tín nhiệm cao để thắt chặt hơn mối quan hệ. 3.2.2. Giải pháp mở rộng cho vay hộ sản xuất đảm bảo chất lượng. 3.2.2.1. Lập kế hoạch cho vay. Hoạt động cho vay hộ sản xuất tạo ra thu nhập hàng đầu cho NHNo & PTNT huyện Hoa Lư. Sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng cơ cấu vốn đầu tư và được đảm bảo khi có sự lựa chọn khách hàng cẩn thận. Tất cả điều những điều này nằm trong chính sách cho vay hay kế hoạch chiến lược các hoạt động cho vay của Ngân hàng. Cơ cấu kế hoạch có thể chia ra thành 2 phần cụ thể là: - Xác định thị trường: Là đề ra phương hướng cho vay của Ngân hàng bao gồm việc lựa chọn các ngành hoặc hoạt động kinh tế có triển vọng phục vụ hiệu quả và lâu dài, hạn chế cho vay ngành kém hiệu quả. - Thiết lập đường lối tín dụng: Là xác định phương hướng chung phân bổ các khoản cho vay khách hàng thuộc các nhóm ngành. Điều này giúp Ngân hàng phân bổ một cách cân đối cơ cấu đầu tư nhằm đạt được sự tăng trưởng bền vững trong ngành được tài trợ trong khi vẫn cho phép đa dạng hoá hoạt động, phân tán rủi ro trong cho vay. Việc thiết lập căn cứ trên mục tiêu chương trình phát triển kinh tế của tỉnh cũng như định hướng của ngành, phân định chức năng rõ ràng với từng đơn vị cơ sở. Các chi nhánh Ngân hàng huyện (Ngân hàng cấp III ) cung cấp các dữ liệu kinh tế xã hội, báo cáo về cơ cấu cho vay, phân tích cung cầu tín dụng của hộ sản xuất tại địa bàn hoạt động. Yêu cầu đặt ra thông tin phải đảm bảo tính chính xác, đầy đủ, kịp thời và thường xuyên được cập nhật. NHNo & PTNT Huyện Hoa lư đã tổng hợp và sàng lọc thông tin lập ra kế hoạch cho vay thường niên và thời kỳ 3 năm, 5 năm. Việc lập kế hoạch chính xác và khoa học sẽ hướng dẫn các nhân viên Ngân hàng nhất là cán bộ tín dụng tập trung nỗ lực vào đối tượng khách hàng chính một cách hiệu quả hơn. 3.2.2.2. Tăng cường tiếp cận đến từng hộ sản xuất. Việc xây dựng và củng cố mạng lưới Ngân hàng cơ sở rộng khắp với nhiều điểm giao dịch là điều kiện thuận lợi giúp cho Ngân hàng tiếp xúc gần hơn đến các hộ gia đình nhưng chưa tạo điều kiện cho khách hàng nhỏ đến với Ngân hàng. Một số lý do hộ sản xuất còn ít được tiếp cận đến tín dụng Ngân hàng đã được tổng kết lại: 1. Thiếu thông tin từ phía Ngân hàng. 2. Nhiều vùng còn xa với các điểm giao dịch của Ngân hàng. 3. Chi phí cho vay cao. 4. Yêu cầu thế chấp ngặt nghèo. 5. Hồ sơ giấy tờ phức tạp. 6. Rủi ro trong nông nghiệp có thể dẫn đến khách hàng không trả được nợ. Do đó việc tiếp xúc trực tiếp với các hộ gia đình đóng một vai trò quan trọng trong việc mở rộng tiếp cận. Ngân hàng cần một hệ thống thông tin tuyên truyền về lợi ích khi quan hệ với Ngân hàng cũng như giúp đỡ tìm ra vướng mắc của họ để cùng tháo gỡ. Để mở rộng tiếp cận từng hộ sản xuất, Ngân hàng cần thực hiện một số vấn đề sau: Thứ nhất: Cần tăng cường năng lực thẩm định món vay nhỏ và quy trình cho vay để đẩy mạnh tiến bộ mở rộng khả năng tiếp cận. Thứ hai: Cần tăng cường năng lực thẩm định các món vay nhỏ và quy trình thẩm định cũng nên được hoàn thiện với các thủ tục riêng để đơn giản hoá hoạt động phân tích dự án. Cần soạn thảo các bảng tham khảo nhanh chóng về doanh thu và chi phí dưới hình thức một danh sách kiểm tra đối với từng hoạt động sản xuất khác như: chăn nuôi, trồng trọt ... Thứ ba: Khi đánh giá hiệu quả công việc của cán bộ tín dụng, nên bổ sung thêm một tiêu thức đó là số lượng người vay do cán bộ tín dụng quản lý. Thứ tư: Cán bộ tín dụng không nên bị bắt buộc phải đình chỉ hoạt động cho vay của mình trong trường hợp đã tuân thủ đầy đủ các quy chế cho vay trong quá trình thẩm định, xét duyệt và theo dõi khoản vay. Nếu như cán bộ tín dụng đã tuân thủ đầy đủ các quy chế cho vay, họ không nên quy trách nhiệm đối với những rủi ro đã xảy ra. Rủi ro của các khoản vay trong trường hợp đó mang tính chất thể chế hơn là rủi ro của cá nhân tín dụng. 3.2.2.3. Đa dạng hoá các loại hình cho vay, phương thức cho vay có kết hợp giữa thời hạn cho vay với chu kỳ sản xuất và thu hoạch. Phương thức cho vay từng lần có ưu điểm là có thể đảm bảo an toàn vốn vay do mỗi lần cho khách hàng vay, Ngân hàng đều tiến hành thẩm định hồ sơ xin vay; đồng thời có thể kế hoạch hóa được nguồn vốn và việc tính toán thu nợ, thu lãi đơn giản hơn xong nó có nhược điểm là thủ tục xin vay rườm rà, không thuận tiện cho khách hàng, khối lượng hồ sơ chứng từ nhiều. Hiện nay, với phương châm hoạt động định hướng theo khách hàng, các Ngân hàng ở nhiều nước trên thế giới và một số Ngân hàng thương mại Việt Nam áp dụng phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng rất phổ biến. Như vậy, để tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng, giảm khối lượng giấy tờ trong kế toán, tăng cường khả năng cạnh tranh, NHNo & PTNT Việt Nam nên áp dụng phương pháp cho vay theo hạn mức nhiều hơn. Trong điều kiện hiện nay, việc áp dụng phương pháp cho vay này tại NHNo & PTNT huyện Hoa Lư gặp một số khó khăn sau: - Do nhu cầu vốn đa số hộ sản xuất là không thường xuyên, những hộ này thường thiếu vốn đầu tư ban đầu nên họ chỉ vay một lần rồi thôi hoặc sau một thời gian khá dài họ mới vay lại. - Do hoạt động sản xuất kinh doanh của các hộ sản xuất phần lớn là không ổn định: hiện nay thị trường tiêu thụ các mặt hàng do các hộ sản xuất kinh doanh trong các ngành nông, lâm, ngư, diêm nghiệp rất thất thường lúc thì được lãi rất lớn, lúc thì lại thua lỗ kéo dài do công tác dự báo thị trường của ta còn khá hạn chế, các hộ sản xuất chưa có kế hoạch lâu dài, vững chắc, thấy trồng cây gì, con gì có lãi cao là đổ xô vào dẫn đến cung vượt cầu, hàng không bán được, rồi thua lỗ như việc trồng điều, tiêu, ớt, nuôi tôm... Đối với hộ vay vốn kinh doanh buôn bán thì họ có nhu cầu vốn thường xuyên song cũng do thị trường biến động nên khi buôn bán gặp nhiều khó khăn. Hiện nay đa số các đại lý là đại lý hoa hồng, vốn tự có hầu như không có nên cán bộ tín dụng rất khó xác định nhu cầu vay vốn thực tế của họ là bao nhiêu. Với những khó khăn trên, để có thể áp dụng phương thức co vay này một cách hiệu quả, Ngân hàng cần phải phân chia khách hàng, cụ thể ở đây là các hộ sản xuất bao gồm cả hộ gia đình, cá nhân, tổ hợp tác thành các nhóm. Đối với những hộ sản xuất có nhu cầu vay vốn không thường xuyên thì áp dụng phương pháp cho vay từng lần, còn những hộ có nhu cầu vốn thường xuyên thì chỉ nên áp dụng phương pháp cho vay theo hạn mức tín dụng đối với: + Các hộ hoạt động trong các ngành nông lâm ngư diêm nghiệp có nhu cầu vốn thường xuyên như các trang trại trồng trọt chăn nuôi với quy mô lớn, làm ăn có hiệu quả, thu nhập tương đối ổn định. Đối với những hộ này, do nhu cầu thị trường hiện nay có nhiều biến động nên cán bộ tín dụng cần phải kiểm tra nắm bắt tình hình kinh doanh của họ, có thể giới thiệu mối làm ăn hoặc đưa ra lời khuyên giúp họ hoạt động tốt hơn. + Đối với những hộ làm nghề thủ công mỹ nghệ kinh doanh có hiệu quả, có nhu cầu vốn thường xuyên như các hộ làm nghề chạm, khắc, dệt lụa, mây tre đan xuất khẩu... + Đối với các đại lý bán buôn và bán lẻ hoạt động kinh doanh tốt. Đối với những hộ này, khi cho vay cán bộ tín dụng cần phải biết các mối quan hệ làm ăn, số tiền mà hộ thực sự bỏ ra để kinh doanh, trên cơ sở đó xác định chính xác nhu cầu vốn vay của khách hàng. Ngoài ra, cán bộ tín dụng cũng phải quan tâm đến danh mục mặt hàng mà hộ kinh doanh, xem xét nhu cầu về mỗi mặt hàng trên địa bàn, qua đó đánh giá sự hợp lý của danh mục hàng hoá kinh doanh và có thể đưa ra lời khuyên cho khách hàng nên tăng cường buôn bán mặt hàng gì để có hiệu quả cao. Thực hiện phương thức cho vay tay ba. Đây là phương thức cho vay gián tiếp đến hộ sản xuất thông qua các công ty cung ứng vật tư, công ty bao tiêu sản phẩm. Cơ cấu cho vay gồm ba bên: Ngân hàng, công ty cung ứng sản phẩm hoặc công ty bao tiêu sản phẩm và hộ sản xuất. Như vậy, nhìn chung trong thời gian qua Ngân hàng đã từng bước đa dạng hoá hình thức cho vay, góp phần tích cực thúc đẩy sự phát triển của nông nghiệp và nông thôn, song cần phải kết hợp giữa thời hạn cho vay với với chu kỳ sản xuất và thu hoạch của sản phẩm nông nghiệp, vì đối tượng cho vay phải tương ứng với chu kỳ sản xuất cộng với thời gian tiêu thụ sản phẩm, như vậy mới tạo điều kiện cho các hộ nông dân thu hồi được vốn và có lãi để trả nợ. 3.2.2.4. Ngân Hàng chủ động tìm các dự án và tư vấn cho khách hàng. Một nguyên nhân dẫn đến khách hàng không có khả năng trả nợ là khách hàng không biết sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và tiêu thụ ở đâu. Vì thế nhu cầu tư vấn của khách hàng lớn. Muốn giải quyết vấn đề này đòi hỏi Ngân hàng phải thực hiện tốt các giải pháp sau: - Thứ nhất: Ngân hàng chủ động phối hợp cùng các ngành khác tìm kiếm các dự án sản xuất, kinh doanh đưa đến cho khách hàng và trợ giúp vốn cho khách hàng. Ngân hàng giúp khách hàng lập dự án và tính toán khả năng sinh lời của dự án. - Thứ hai: Ngân hàng phối hợp với các cơ quan khoa học, kỹ thuật để giúp tư vấn cho khách hàng về kỹ thuật sản xuất, về hoạt động liên quan đến sản xuất kinh doanh, về ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất. - Thứ ba: Ngân hàng tổ chức các lớp đào tạo cán bộ tín dụng về khoa học kỹ thuật, liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh, về pháp luật ... để cán bộ tín dụng trực tiếp tư vấn cho khách hàng. - Thứ tư: Ngân hàng tư vấn cho khách hàng về các vấn đề pháp lý liên quan đến hợp đồng sản xuất, kinh doanh, hợp đồng thực hiện dự án khi có nhu cầu. - Thứ năm: Ngân hàng chủ động phối hợp với các ngành khác tìm thị trường cung ứng vật tư và thị trường tiêu thụ sản phẩm cho khách hàng. Đồng thời Ngân hàng cũng thực hiện cho hộ sản xuất vay thông qua các công ty cung ứng vật tư và tổ chức tiêu bao sản phẩm. Đây là hình thức cho vay gián tiếp đến hộ sản xuất của Ngân hàng, với quy trình tín dụng có cơ cấu ba bên: Ngân hàng, Công ty cung ứng vật tư hoặc đơn vị bao tiêu sản phẩm và hộ sản xuất. 3.2.2.5. Cải tiến hồ sơ thủ tục và thể lệ tín dụng sao cho vừa đơn giản, vẫn đảm bảo tính pháp lý cao. Trong điều kiện hiện nay, số hộ có đủ giấy tờ hợp lệ, đủ trình độ để kê khai những giấy tờ trong quy định về thể lệ tín dụng của Ngân hàng chưa nhiều, song nhu cầu vốn lại rất lớn. Nếu Ngân hàng không cho họ vay thì sẽ dẫn đến mất khách hàng, hoặc tổ chức tín dụng khác thu hút mất, cho nên cho nên việc cải tiến thủ tục hồ sơ gọn nhẹ an toàn và thuận tiện là một yêu cầu tất yếu, muốn vậy Ngân hàng cần phải: - Có thể lệ tín dụng chung mà trong đó chỉ quy định đối tượng không cho vay còn biện pháp cho vay, điều kiện cho vay cần cụ thể cho một số đối tượng, địa bàn đặc thù. ở những vùng hẻo lánh, vùng xa do hạn chế về trình độ và điều kiện đi lại làm thủ tục khó khăn, vậy giấy tờ không thể dài dòng và phức tạp. - Cải tiến bộ hồ sơ cho vay của hộ loại II, rút bớt hoặc gộp một số loại giấy tờ còn chồng chéo, trùng lặp để tạo điều kiện đơn giản hoá trong quá trình lập hồ sơ và theo dõi thực hiện cả đối với Ngân hàng và khách hàng như: nên tìm cách gộp tờ khai tài sản thế chấp, biên bản định giá tài sản, giấy uỷ quyền phát mại tài sản vào cùng hợp đồng thế chấp (vì đằng nào thông tin trong những giấy tờ này phải nêu lại trong hợp đồng thế chấp) nhưng vẫn phải đảm bảo tính pháp lý. 3.2.2.6 Vấn đề tài sản thế chấp. Mọi Ngân hàng khi cho vay đều muốn thu hút nguồn vốn của mình bằng con đường hoàn trả cả gốc và lãi của người vay chứ không muốn bằng con đường xử lý những tài sản dùng làm đảm bảo tiền vay. Mặc dù vậy cầm cố, thế chấp tài sản vẫn là cần thiết khi cho vay vì đó là cơ sở để thu hồi vốn khi người vay không hoàn trả được nợ nhất là đối với hoạt động của các hộ sản xuất nông nghiệp có nhiều rủi ro cho nên trong thời gian tới, vấn đề tài sản thế chấp Ngân hàng cần phải: - Không nên quá tập trung vào vấn đề tài sản thế chấp, cầm cố khi xem xét một khoản vay vì nhiều khi sẽ mất đi cơ hội kinh doanh mà tuỳ từng trường hợp cụ thể kết hợp với hình thức tín chấp, đơn giản hoá những vấn đề liên quan dến những tài sản thế chấp cầm cố vì thực tế khi đến vay Ngân hàng thì loại giấy tờ mà người vay phải kê khai nhiều khi không phải giấy tờ liên quan trực tiếp đến khoản vay mà chủ yếu những giấy tờ này liên quan đến tài sản đảm bảo tiền vay trong trường hợp thế chấp cầm cố chỉ là một hợp đồng phụ của hợp đồng tín dụng hoàn toàn không có ý nghĩa quyết định để nâng cao chất lượng tín dụng. - Khi các cơ quan quản lý nhà nước chịu trách nhiệm cấp giấy chứng thư quyền sở hữu tài sản cho các chủ sở hữu còn chậm, chưa được rộng khắp thì Ngân hàng chủ động thay đổi một số quy định về thế chấp, cầm cố để giữ khách hàng là cần thiết. 3.2.2.7 Phát huy hiệu quả cơ chế khoán tài chính. Theo khoán tài chính thì dùng 5 chỉ tiêu: nguồn vốn, dư nợ, thu nợ đến hạn, thu nợ quá hạn, thu lãi để xác định thu nhập cho từng cán bộ tín dụng đã đem lại những tác động tích cực nhưng do môi trường kinh doanh của mỗi địa bàn khác nhau ảnh hưởng rất lớn đến kết quả hoạt động của Ngân hàng nói chung, cán bộ tín dụng nói riêng, thực tế cho thấy những nơi có môi trường kinh doanh thuận lợi thì cán bộ tín dụng cũng như Ngân hàng có thể hoàn thành 5 chỉ tiêu này một cách dễ dàng, có thu nhập cao và ngựơc lại với các địa bàn khó khăn cán bộ tín dụng sẽ rất khó hoàn thành 5 chỉ tiêu, và thu nhập sẽ thấp. Như vậy, những chỉ tiêu này áp dụng chung cho mọi Ngân hàng và cán bộ tín dụng thì không phù hợp. Cho nên Ngân hàng cần điều chỉnh lại các chỉ tiêu trên theo từng địa bàn để cho công bằng đảm bảo đời sống thu nhập của các cán bộ tín dụng. 3.3. Một số kiến nghị. 3.3.1. Đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. - Ngân hàng Nhà nước cần có những chính sách và biện pháp tích cực sớm nâng cao chất lượng công tác thông tin tín dụng phục vụ cho vay của các Ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng, cần bắt buộc các Ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng tham gia vào hoạt động của hệ thống thông tin tín dụng, coi đó như một quyền lợi và nghĩa vụ của mình. - Ngân hàng Nhà nước cần có biện pháp nâng cao hơn nữa chất lượng công tác thanh tra, kiểm soát để đảm bảo cho hoạt động tín dụng an toàn, hiệu quả và môi trường cạnh tranh lành mạnh trong kinh doanh tiền tệ tín dụng và dịch vụ Ngân hàng. Các tổ chức tài chính, Ngân hàng nước ngoài, tổ chức tín dụng quốc doanh và ngoài quốc doanh của Ngân hàng Nhà nước, không được hạ thấp tiêu chuẩn tín dụng để cạnh tranh một cách không lành mạnh, giành giật khách hàng của nhau. - Đề nghị Ngân hàng Nhà nước phối kết hợp với các Bộ, Ngành có liên quan để sửa đổi, bổ sung một số nội dung tại thông tư số 03/TTLT/NHNN - BTP - BCA - BTC - TCĐC hướng dẫn việc xử lý tài sản đảm bảo tiền vay để thu nợ cho các tổ chức tín dụng, cụ thể như sau: + Tài sản đảm bảo tiền vay tại tổ chức tín dụng hầu hết là bất động sản và đây cũng là vướng mắc nhất khi xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ, tại khoản 2 mục III phần B thông tư 03 quy định: “Trong trường hợp tài sản đảm bảo là quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất không xử lý được theo thoả thuận của các bên trong hợp đồng thì các tổ chức tín dụng đưa tài sản ra bán đấu giá để thu hồi nợ hoặc khởi kiện ra Toà án”. Đây là vấn đề rất khó khăn, vướng mắc trong thực tế do thủ tục, trình tự đấu giá, thủ tục tố tụng dân sự. Vì vậy đề nghị theo hướng “tổ chức tín dụng có quyền chủ động áp dụng các phương thức xử lý tài sản đảm bảo, tức là trực tiếp bán, chuyển nhượng, cho thuê tài sản để thu hồi nợ”. + Nên bỏ nội dung: tổ chức tín dụng phải xin phép việc bán đấu giá quyền sử dụng đất vì việc thế chấp quyền sử dụng đất đã được đăng ký tại Sở địa chính hoặc UBND xã - phường - thị trấn mà thay vào đó là khi bán quyền sử dụng đất, tổ chức tín dụng có thể trực tiếp bán cho người mua theo quy định tại Nghị định 178. + Đề nghị cho miễn thuế chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản bảo đảm để xử lý thu hồi nợ - Ngân hàng Nhà nước trên địa bàn tỉnh cần nắm vững phương hướng nhiệm vụ và mục tiêu phát triển kinh tế của tỉnh nhà, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội của toàn tỉnh, những ngành kinh tế mũi nhọn để tư vấn cho các tổ chức tín dụng trên địa bàn để đầu tư cho các dự án định hướng phát huy được hiệu quả vốn tín dụng và đảm bảo thu hồi vốn đúng hạn. Thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra tại chỗ cũng như giám sát từ xa đối với hoạt động của các tổ chức tín dụng trên địa bàn nhằm ngăn chặn tình trạng cạnh tranh thiếu lành mạnh của các tổ chức tín dụng, mặt khác ngăn chặn cán bộ tín dụng thực hiện sai các văn bản chế độ cũng như quy trình nghiệp vụ cho vay… góp phần nâng cao chất lượng hoạt động của ngành Ngân hàng trên toàn tỉnh. 3.3.2.Đối với uỷ ban nhân dân tỉnh Ninh Bình. Trên cơ sở kế hoạch phát triển kinh tế của tỉnh, đề nghị tỉnh chỉ đạo các ngành chức năng có quy hoạch cụ thể kinh tế vùng, ngành nghề, cây con. Từ đó, chỉ đạo xây dựng các dự án khả thi làm căn cứ giúp Ngân hàng nghiên cứu đầu tư phục vụ phát triển kinh tế địa phương; chỉ đạo các cơ quan hữu quan phối hợp với nhau tạo điều kiện giúp đỡ Ngân hàng trong việc xử lý tài sản đảm bảo. Tiếp tục chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, tạo điều kiện cho các hộ vay vốn dễ dàng hơn; nghiên cứu điều chỉnh khung giá đất thổ cư phù hợp với giá thị trường, tạo thuận lợi để người vay tăng giá trị tài sản đảm bảo, nâng mức vốn vay Ngân hàng; tăng cường phối hợp giữa các ban ngành để làm công tác dự báo thị trường, đặc biệt là thị trường nông phẩm tốt hơn; giành một số kinh phí của tỉnh để hỗ trợ cho các hợp tác xã, các hộ sản xuất nâng cao trình độ quản lý, hiểu biết về kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi, chế biến. 3.3.3. Đối với NHNo&PTNT Việt Nam: Chính phủ đã ban hành văn bản về ưu đãi cho vay đối với mô hình kinh tế trang trại, NHNo & PTNT Việt Nam nên sớm ban hành quy chế cho vay mô hình kinh tế này. Đề nghị NHNo & PTNT Việt Nam kiến nghị với các cơ quan chính phủ có biện pháp tăng cường hiệu lực của các trung tâm bán đấu giá để hỗ trợ Ngân hàng xử lý nợ bằng các biện pháp như xiết nợ, mua bán nợ, xử lý triệt để những khoản nợ khó đòi. NHNo &PTNT Việt Nam cần nghiên cứu, tổng kết cho phù hợp hơn về cơ chế cho vay qua tổ nhóm, cơ chế giải ngân, thu nợ mô hình tổ chức cho vay lưu động, xác định rõ hình thức cho vay trang trại để mở rộng các mô hình có hiệu quả, tạo hành lang pháp lý rõ ràng, chặt chẽ, thuận lợi cho mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng đối với hộ sản xuất. NHNo & PTNT Việt Nam cần định ra sản phẩm dịch vụ cải tiến phù hợp với thực tế (với hộ nông dân, hộ sản xuất) như áp dụng hình thức tài khoản tiền gửi không kỳ hạn với nhiều mức lãi suất khác nhau tuỳ thuộc vào số dư trên tài khoản. NHNo & PTNT Việt Nam nên tiếp tục mở rộng mạng lưới đến cấp xã hơn nữa để chiếm lĩnh thị trường, giữ vững khách hàng truyền thống. Đồng thời chuyển các Ngân hàng liên xã thành các đơn vị sinh lời, tạo điều kiện cho việc triển khai hệ thống khuyến khích cán bộ, hệ thống thông tin quản lý nhằm phân tích đầy đủ chính xác hơn nữa về tình hình hoạt động của mỗi chi nhánh. 3.3.4 Đối với NHNo & PTNT Tỉnh Ninh Bình. Để nâng cao chất lượng tín dụng trước hết cần quan tâm tới con người vì yếu tố con ngươì là trung tâm của mọi vấn đề. Lãnh đạo Ngân hàng nên triển khai đào tạo đội ngũ cán bộ có năng lực thấp, đào tạo và giúp đỡ cán bộ tín dụng có kiến thức về cơ chế thị trường, những kiến về khoa học kỹ thuật liên quan đến hoạt động Ngân hàng, bồi dưỡng kiến thức pháp luật, có như vậy cán bộ tín dụng mới có đủ khả năng đánh giá, thẩm định các dự án đầu tư đạt kết quả. Đặc biệt nâng cao trình độ vi tính và ngoại ngữ để hướng tới việc "giao dịch một cửa". Phối hợp với ban ngành kinh tế trong tỉnh phổ biến và triển khai mạnh mẽ chủ trương cho vay của Chính phủ theo quyết định 67/ QĐ- CP về chính sách tín dụng đối với việc phát triển nông nghiệp nông thôn. Tăng cường cơ sở vật chất: máy tính, các phương tiện làm việc cho các chi nhánh, từng bước hiện đại hoá Ngân hàng, góp phần nâng cao vị thế Ngân hàng trên thị trường. Phối hợp với ngành liên quan để xây dựng các định mức kinh tế kỹ thuật của từng loại cây con chủ yếu trên địa bàn, qua đó chỉ đạo các NHNo&PTNT trực thuộc xây dựng định suất đầu tư phù hợp với thực tế trên địa bàn, chỉ đạo các chi nhánh Ngân hàng trực thuộc phối hợp với UBND phường (huyện), xã thực hiện việc lập "Hồ sơ kinh tế địa phương ", xây dựng đề án chiến lược kinh doanh theo sự chỉ đạo của NHNo & PTNT Việt Nam, để giúp cho cán bộ tín dụng xác định chính xác nhu cầu của hộ. Tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền, quảng cáo hoạt động của Ngân hàng trên các phương tiện thông tin đại chúng, vận động khách hàng mở tài khoản tiền gửi tư nhân và vận động thanh toán không dùng tiền mặt qua Ngân hàng. Đề nghị NHNo & PTNT Việt Nam nghiên cứu chế độ ưu đãi cho đội ngũ cán bộ tín dụng ở địa bàn nông thôn các chế độ về công tác phí thoả đáng, để khuyến khích cán bộ tín dụng bám sát địa bàn, hoàn thành suất sắc nhiệm vụ. Đề nghị với chính phủ cho phép cho vay theo quyết định 67/ QĐ- CP đối với nhu cầu vay vốn phục vụ tiêu thụ hàng nông sản tại nông thôn, những hộ kinh doanh nhỏ ở thành thị để tạo điều kiện cho khách hàng được vay vốn thuận tiện. Tóm lại, đầu tư tín dụng đối với hộ sản xuất là một bộ phận quan trọng trong tổng thể các loại hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT. Để mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng đối với hộ sản xuất, cần phải có sự phối kết hợp đồng bộ của các cấp, các cơ quan, ban ngành liên quan và sự nỗ lực của bản thân Ngân hàng thì mới đạt được hiệu quả cao. Kết luận Đường lối đổi mới kinh tế của Đảng và Nhà nước đề ra đã tạo môi trường thuận lợi cho các thành phần kinh tế phát huy tiềm năng, thế mạnh của mình. Trong quá trình đổi mới cơ cấu kinh tế theo hướng Công nghiệp hóa-hiện đại hóa, các Ngân hàng thương mại đóng vai trò rất quan trọng với và họ thực sự đã góp phần lớn vào công cuộc đổi mới của đất nước. Với phương châm “Đi vay để cho vay”, vốn tín dụng thực sự thúc đẩy được sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế, đã và đang từng bước xoá đói giảm nghèo ở nông thôn và phát triển kinh tế theo chiến lược phát triển kinh tế đến năm 2010 của Đảng và Nhà nước. Trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa, các thành phần kinh tế đều tham gia vào quá trình sản xuất, lưu thông hàng hoá, các quan hệ kinh tế được mở rộng, cho vay với mọi thành phần kinh tế ngày càng nhiều, rủi ro về khả năng thu hồi vốn ngày một tăng lên. Với tư cách là một tổ chức kinh doanh tiền tệ, đồng thời là một công cụ hữu hiệu của Nhà nước nhằm phục vụ lợi ích phát triển kinh tế xã hội, các Ngân hàng thương mại nói chung và NHNo & PTNT huyện Hoa Lư nói riêng đã từng bước chuyển dịch cơ cấu tín dụng của mình hướng tới mở rộng quan hệ tín dụng với mọi thành phần kinh tế để khai thác tiềm năng, thế mạnh phát triển kinh tế của tỉnh Ninh Bình và của đất nước, đặc biệt là thành phần kinh tế hộ sản xuất có tiềm năng to lớn, thu hút nguồn vốn lớn trong tổng nguồn vốn đầu tư cho nền kinh tế, là nhân tố chủ yếu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn theo hướng Công nghiệp hóa-hiện đại hóa. Mặc dù trong quá trình hoạt động kinh doanh còn gặp nhiều khó khăn, chất lượng tín dụng chưa thực sự cao nhưng với định hướng đúng đắn và với sự nỗ lực, cố gắng của mình, NHNo & PTNT Hoa Lư đã ngày càng mở rộng tín dụng và cũng như từng bước nâng cao được chất lượng tín dụng đối với các thành phần kinh tế nói chung và kinh tế hộ sản xuất nói riêng, góp phần thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng và phát triển theo hướng Công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước. Qua quá trình học tập tại trường cộng với thời gian thực tập 3 tháng tại NHNo & PTNT huyện Hoa Lư, tôi đã tiếp thu được những kiến thức lý luận cơ bản và những kinh nghiệm làm việc thực tế nhất định. Mặc dù đã được sự giúp đỡ tận tình của cô giáo, thạc sỹ Lê Hương Lan và các cô, các chú trong NHNo & PTNT Huyện Hoa Lư song chuyên đề của tôi mới chỉ đưa ra được một số giải pháp và kiến nghị chưa thật cụ thể. Tuy vậy, tôi cũng hy vọng rằng những ý kiến của tôi sẽ được Ngân hàng tiếp thu, trên cơ sở đó Ngân hàng sẽ nghiên cứu thêm để có thể ứng dụng trong thực tế, từng bước nâng cao chất lượng tín dụng đối với hộ sản xuất. Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của cô giáo, thạc sỹ Lê Hương Lan và Ban lãnh đạo cùng toàn thể cán bộ nhân viên NHNo & PTNT huyện Hoa Lư đã tạo điều kiện cho tôi hoàn thành chuyên đề này./. mục lục ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc2313.doc