Nâng cao đời sống kinh tế người có công ở tỉnh Quảng Nam

Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Hoạt động sống của con người gắn liền với quá trình không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống. Trong đó, đời sống kinh tế là vấn đề cốt lõi, là điều kiện tất yếu khách quan đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của mỗi cá nhân và toàn xã hội, không phân biệt quốc gia, dân tộc, giai cấp. Xét đến cùng, mọi cuộc đấu tranh giai cấp nhằm giải quyết vấn đề kinh tế, là không ngừng thoả mãn nhu cầu ngày càng cao của con người, của xã hội loài người, hay nói một cách

doc91 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1308 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao đời sống kinh tế người có công ở tỉnh Quảng Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
khác là không ngừng nâng cao đời sống kinh tế. Trong quá trình phát triển lịch sử xã hội loài người đã trải qua nhiều hình thái kinh tế xã hội, hình thái kinh tế xã hội sau bao giờ cũng tiến bộ và phát triển hơn hình thái kinh tế xã hội trước. Trong đó, nền kinh tế xã hội của hình thái xã hội sau bao giờ cũng phát triển hơn xã hội trước. Dưới góc độ kinh tế - chính trị, mục tiêu phát triển kinh tế là những điều kiện, động lực mạnh mẽ thúc đẩy và đảm bảo để nâng cao đời sống của con người, xã hội. Ngược lại, nền kinh tế kém phát triển sẽ kìm hãm sự phát triển của quốc gia, dân tộc. Vì vậy, việc nghiên cứu xây dựng các chính sách đảm bảo phát triển kinh tế bền vững để tạo tiền đề nâng cao đời sống kinh tế cho cộng đồng xã hội và có như thế mới thực hiện được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Tuy nhiên, phát triển kinh tế, nâng cao đời sống kinh tế phải xuất phát từ thực tế khách quan, phù hợp với quy luật kinh tế khách quan, gắn với thực hiện công bằng xã hội... mới mong đạt được những hiệu quả tốt nhất. Người có công là bộ phận hết sức đặc thù của xã hội Việt Nam. Bởi vì không đâu như ở Việt Nam, cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giành độc lập tự do cho đất nước diễn ra trong một thời gian rất dài và vô cùng ác liệt đã để lại hậu quả vô cùng nặng nề về sức người và sức của. Trong đó, người có công là lực lượng chủ yếu chịu nhiều hy sinh mất mát. Đó là những người như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy: "Khi nạn ngoại xâm ào ạt đến, nó như trận lụt to. Nó đe doạ cuốn trôi cả tính mệnh, tài sản, chìm đắm cả bố mẹ, vợ con nhân dân ta. Trước cơ nguy biến ấy, số đông thanh niên yêu quý của nước ta đã dũng cảm xông ra trận. Họ quyết tâm đem xương máu của họ đắp thành một bức tường đồng, một con đê vững để ngăn nạn ngoại xâm tràn ngập Tổ quốc làm hại đồng bào. Họ quyết hy sinh tính mệnh để giữ tính mệnh đồng bào. Họ quyết hy sinh gia đình, tài sản của họ để bảo vệ gia đình và tài sản đồng bào. Họ quyết liều chết chống địch để cho Tổ quốc và đồng bào sống. Họ là những chiến sỹ anh dũng của chúng ta. Trong đó có người đã bỏ lại một phần thân thể ở mặt trận, có người đã bỏ mình ở chiến trường. Đó là thương binh liệt sỹ". Nhận rõ sự hy sinh to lớn đó người từng dạy: "Những người con trung hiếu ấy Chính phủ và đồng bào phải báo đáp thế nào cho xứng đáng", "Tổ quốc và đồng bào phải biết ơn, giúp đỡ cho những người con anh dũng ấy, mọi người phải luôn học tập tinh thần dũng cảm của các liệt sỹ để vượt qua tất cả khó khăn, gian khổ hoàn thành sự nghiệp cách mạng mà các liệt sỹ đã để lại" [ 1, tr.16-17]. Người có công đa phần những người yếu thế, khó khăn về kinh tế, là những người cần được Nhà nước xã hội chăm lo một cách đặc biệt. Vì vậy, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần đối với người có công không chỉ là sự đền ơn đáp nghĩa và không chỉ là trách nhiệm của Đảng, nhà nước, mà còn là trách nhiệm của cộng đồng và của toàn xã hội. Thực hiện đạo lý truyền thống của dân tộc ”Uống nước nhớ nguồn” “Đền ơn đáp nghĩa” những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách, chế độ và tổ chức vận động toàn dân, toàn quân chăm sóc đời sống vật chất, tinh thần đối với thương binh, gia đình liệt sỹ và người có công, giải quyết có hiệu quả những tồn đọng về chính sách sau chiến tranh, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội của đất nước, tăng thêm lòng tin đối với Đảng, nhà nước. Đặc biệt, trong lĩnh vực đời sống kinh tế của người có công ngày càng được quan tâm và có cải thiện đáng kể, hệ thống chính sách với các chế độ trợ cấp, đãi ngộ từng bước được điều chỉnh, việc tổ chức sản xuất - việc làm được quan tâm thích đáng, việc cải thiện nhà ở được đầu tư triển khai ở nhiều cấp, các chương trình chăm sóc người có công được xã hội và cộng đồng quan tâm và đã có những kết quả to lớn góp phần cải thiện cuộc sống đối với người có công... Đến nay, đa số gia đình chính sách có cuộc sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của cộng đồng dân cư nơi cư trú. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được đời sống của một bộ phận không nhỏ thương bệnh binh, thân nhân liệt sỹ còn nhiều khó khăn, nhất là đối tượng ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng trước đây. Tình hình đó đòi hỏi Đảng và Nhà nước và nhân dân ta phải tiếp tục làm tốt hơn công tác chăm sóc, tiếp tục nâng cao mức sống, đảm bảo đời sống của họ ngày một tốt hơn. Xuất phát từ thực trạng đời sống kinh tế người có công thời gian qua ở Quảng Nam, để tổ chức khảo sát một cách cơ bản, đề ra các giải pháp hiệu quả, góp phần nâng cao đời sống của người có công trên phạm vi của tỉnh Quảng Nam nói riêng và cả nước nói chung. Do đó tôi chọn đề tài: Nâng cao đời sống kinh tế người có công ở tỉnh Quảng Nam, làm luận văn tốt nghiệp . 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Thực hiện chính sách ưu đãi đối với người có công trong nhiều thập niên qua, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm có nhiều chủ trương chính sách và tăng cường công tác quản lý chỉ đạo tổ chức thực hiện nhằm từng bước nâng cao đời sống người có công. Các ngành các cấp, luôn xem đây là nhiệm vụ chính trị quan trọng thường xuyên trong việc xây dựng triển khai các chiến lược trung hạn, dài hạn và các giải pháp có tính lâu dài cũng như trước mắt. Trên cấp độ quốc gia, sau hàng loạt các Nghị định đã ban hành, năm 1995 Nhà nước đã ban hành Pháp lệnh ưu dãi đối với Thương bệnh binh, gia đình liệt sỹ, người có công. Đây là lần đầu tiên có một Pháp lệnh được xây dựng có cơ sở khoa học, có hệ thống về đối tượng và tiêu chuẩn, về chế độ chính sách, định tính và định lượng hợp lý... đã thể hiện sự quan tâm của Đảng, nhà nước đối với người có công, qua đó đảm bảo được một bước lợi ích, công bằng xã hội và góp phần nâng cao đời sống kinh tế của họ, góp phần ổn định chính trị xã hội trong thời gian qua. Tuy nhiên, dưới sự tác động của nền kinh tế thị trường trong quá trình đổi mới, nhiều chính sách, chế độ không còn phù hợp, nhà nước đã nghiên cứu, ban hành nhiều Nghị định kịp thời điều chỉnh chế độ chính sách đối với người có công, để phù hợp với giai đoạn phát` triển mới, ngày 29/6/2005 Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh số 26/2005/PL-UBTVQH11, đây là một văn bản được xây dựng trên cơ sở khoa học nghiên cứu một cách hệ thống, phù hợp với tình hình hiện nay, định hướng cho việc thực hiện chính sách ưu đãi, góp phần cải thiện nâng cao đời sống kinh tế đối với người có công ở giai đoạn hiện nay và trong những năm tới. Riêng đối với tỉnh Quảng Nam, việc nghiên cứu, ban hành các cơ chế chính sách mặc dù đã có nhiều người đề cập nhưng còn phân tán, thiếu tính hệ thống và không cơ bản. Các công trình nghiên cứu tổng kết việc thực hiện các chương trình hỗ trợ, góp phần nâng cao đời sống kinh tế đối với người có công như việc tổng kết thực hiện 5 năm, 10 năm thực hiện Pháp lệnh ưu đãi người có công năm 1995, Đề án hỗ trợ cải thiện nhà ở đối với người có công giai đoạn 1995-2000 và 2001-2005; Tổng kết thực hiện chương trình giải quyết việc làm theo Nghị quyết 120/HĐBT, ngày 11/4/1992 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ)... đã bước đầu đã xác định rõ việc thực hiện chính sách đối với người có công, đã góp phần cải thiện đáng kể đời sống vật chất và tinh thần đối với người có công và góp phần vào sự tăng trưởng phát triển kinh tế, ổn định trật tự xã hội trên địa bàn tỉnh Quảng Nam. Đồng thời qua các công trình trên cũng đã khái quát được tình hình thực hiện chính sách, đảm bảo công bằng xã hội, trách nhiệm của nhà nước, xã hội đối với người có công của nhà nước nói chung và của tỉnh Quảng Nam nói riêng trong thời gian qua. Song những công trình đó mới chỉ nêu những vấn đề có tính hiện tượng, bề ngoài, kết quả tổ chức thực hiện, hạn chế ở việc giới thiệu một số kết quả nhất định chưa phân tích những căn nguyên, những nhân tố có tính cốt lõi tác động đến việc thực hiện chính sách, đảm bảo nâng cao đời sống nói chung và đời sống kinh tế của người có công trong thời gian qua và vì vậy việc đề ra giải pháp chưa mang tính cơ bản khái quát, phù hợp với yêu cầu của thực tiễn hiện nay trên địa bàn tỉnh. Bên cạnh đó, về giới khoa học, tuy trong thời gian qua đã có một số đề án nghiên cứu ở cấp quốc gia nhằm phục vụ cho việc xây dựng các chính sách đối với người có công ở tầm vĩ mô, nhưng ở trên địa bàn tỉnh Quảng Nam ngoài việc tổ chức một số cuộc toạ đàm mang tính lĩnh vực (toạ đàm về hỗ trợ cải thiện nhà ở đối với người có công), các cuộc khảo sát nhỏ (nhóm đối tượng như: Khảo sát thực trạng chăm sóc Thương bệnh binh nặng; thực trạng chăm sóc, phụng dưỡng Bà mẹ Việt Nam anh hùng)... việc nghiên cứu khoa học về những vấn đề liên quan đến lợi ích kinh tế của người có công còn rất nhiều hạn chế, chưa có công trình nào trùng tên với đề tài nghiên cứu. Vì vậy, việc cần có một công trình nghiên cứu một cách độc lập và sâu sắc dưới góc độ kinh tế chính trị để tìm ra những vấn đề mang tính quy luật, khách quan trong sự vận động của đời sống kinh tế của người có công trên địa bàn tỉnh đến nay vẫn còn bỏ ngõ. Và đó cũng là những nguyên nhân chưa tạo ra được các giải pháp mang tính cơ bản lâu dài để giúp cho người có công đảm bảo cuộc sống cá nhân, gia đình họ và qua đó đóng góp cho sự phát triển chung của xã hội thúc đẩy sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá của tỉnh Quảng Nam trong thời gian tới. 3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn Xuất phát từ tính chất vấn đề cần nghiên cứu và khả năng của bản thân, luận văn đặt ra các mục đích và nhiệm vụ sau đây: 3.1. Mục đích của luận văn - Hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta cũng như các nhà khoa học khác về vấn đề công bằng xã hội, nâng cao đời sống kinh tế đối với người có công . - Khái quát bức tranh về thực trạng người có công, tình hình thực hiện các chính sách, đảm bảo lợi ích, công bằng xã hội, nâng cao đời sống kinh tế của người có công, trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp mang tính khả thi cho việc tìm kiếm các cách thức nhằm góp phần nâng cao đời sống nói chung và đời sống kinh tế cho đối tượng người có công trên địa bàn tỉnh Quảng Nam trong thời gian tới. 3.2. Nhiệm vụ của luận văn - Khảo sát, kế thừa và nghiên cứu các công trình, các tài liệu có liên quan đến hướng nghiên cứu của luận văn. - Làm rõ lý luận chung về công bằng xã hội và nâng cao đời sống kinh tế đối với người có công. - Phân tích thực trạng đối tượng người có công và đời sống của người có công trên địa bàn tỉnh Quảng Nam từ 1997 đến nay. - Đề xuất một số giải pháp chủ yếu để góp phần nâng cao đời sống kinh tế đối với người có công trên địa bàn tỉnh, góp phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Quảng Nam trong thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Luận văn nghiên cứu về thực tiễn đời sống người có công ở địa bàn tỉnh Quảng Nam. - Luận văn nghiên cứu các vấn đề về liên quan đến đời sống nói chung và đời sống kinh tế người có công và các vấn đề có liên quan chủ yếu là trong những năm 2001-2005. Các vấn đề có liên quan khi nghiên cứu nhằm phục vụ cho việc kiến giải các lập luận, các giải pháp, các nhận định được luận văn rút ra. 5. Phương pháp nghiên cứu luận văn Để đạt được mục tiêu và nhiệm vụ luận văn đặt ra, ngoài phương pháp luận khoa học Mác - Lênin, luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể như: khảo sát, điều tra nghiên cứu thực tế, tổng hợp, phân tích và một số phương pháp khác có liên quan. 6. ý nghiã của luận văn Có thể cung cấp cho các cấp chính quyền, các nhà khoa học quan tâm đến vấn đề công bằng xã hội và đời sống kinh tế của người có công địa bàn tỉnh Quảng Nam những luận cứ khoa học. Vấn đề mang tính lý luận về chính sách đối với người có công trên phạm vi cả nước nói chung và trên địa bàn tỉnh Quảng Nam nói riêng. Kết quả của luận văn có thể giúp cho các cấp chính quyền trong địa bàn tỉnh tham khảo, nghiên cứu ứng dụng trong việc hoạch định các chính sách kinh tế đối với người có công trên địa bàn địa phương đơn vị mình. 7. Kết cấu của Luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu nội dung luận văn gồm 3 chương 6 tiết. Chương 1 : Nâng cao đời sống kinh tế đối với người có công - một trong những nhiệm vụ để thực hiện công bằng xã hội 1.1. công bằng xã hội là một Tất yếu của kinh tế thị trường hiện đại 1.1.1. Khái niệm công bằng xã hội Công bằng xã hội là một phạm trù lịch sử. Trong mỗi giai đoạn phát triển của nhân loại, con người có quan niệm và đánh giá khác nhau về công bằng xã hội phù hợp với địa vị, lợi ích của từng giai cấp, tầng lớp khác nhau trong xã hội đó. Chính vì vậy khi đề cập đến công bằng xã hội Ph.ăng-ghen viết: “Công bằng của của những người Hy Lạp và La Mã là sự công bằng của chế độ nô lệ. Công bằng của giai cấp tư sản năm 1789 là những đòi hỏi phải xoá bỏ chế độ phong kiến mà nó coi là bất công” [12, tr.273]. Từ điển Bách khoa Việt Nam viết về công bằng xã hội: Công bằng xã hội là phương thức đúng đắn nhất để thỏa mãn một cách hợp lý những nhu cầu của các tầng lớp xã hội, các nhóm xã hội, các cá nhân, xuất phát từ những khả năng hiện thực của những điều kiện kinh tế xã hội nhất định. Về nguyên tắc, chưa thể có sự công bằng nào được coi là tuyệt đối trong chừng mực mà mâu thuẩn giữa nhu cầu của con người và khả năng hiện thực của xã hội còn chưa được giải quyết. Bởi vậy, mỗi thời đại lại có những đòi hỏi riêng về công bằng xã hội. Tư tưởng về công bằng xã hội được đặt ra rất sớm trong lịch sử nhân loại. Khi tư duy đạt đến trình độ nhất định, con người đã biết đặt mình trong mối quan hệ với tự nhiên, với người khác và với xã hội. Có so sánh mới thấy sự hơn thua, cao thấp, được mất giữa người này với người khác, giữa cá nhân với xã hội. Có thể nói so sánh là khởi điểm của tư tưởng công bằng. Xã hội càng phát triển thì tư tưởng về công bằng càng phát triển. ở xã hội cộng sản nguyên thuỷ, con người sinh hoạt và lao động mang tính cộng đồng nhằm thoả mãn nhu cầu của mình. Xã hội này tồn tại trên nguyên tắc cùng làm cùng hưởng. Do sản xuất hết sức thấp kém làm cho sản phẩm lao động quá ít ỏi chỉ đảm bảo cho sự tồn tại của cộng đồng ở mức tối thiểu, do vậy sản phẩm đó phải được chia đều cho mọi thành viên trong cộng đồng. Như vậy ở thời kỳ này công bằng xã hội là phương thức để đảm bảo cho sự tồn tại của cộng đồng nguyên thuỷ- phương thức tối ưu và duy nhất. Sự công bằng ở thời kỳ này đồng nhất với chủ nghĩa bình quân. ở cuối thời kỳ cộng sản nguyên thuỷ, do lực lượng sản xuất phát triển của cải làm ra không những đủ nuôi sống cộng đồng mà còn có tích luỹ. Chính phần của cải dư thừa nầy đủ kích thích cho sự nẩy sinh xung đột về lợi ích của những người trong cộng đồng. Tư hữu, giai cấp và nhà nước ra đời làm cho công bằng xã hội bị vi phạm ở mức độ “văn minh hơn”. Cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra ngày càng gay gắt và công bằng xã hội trở thành một trong những nội dung chính trị của cuộc đấu tranh đó. Trong các thời đại khác nhau, con người đều quan tâm đến vấn đề công bằng xã hội và đã có nhiều nhận thức đánh giá giải quyết khác nhau: Pla-tôn (427-437, trước Công nguyên) là một trong những nhà triết học kiệt xuất thời cổ đại. Trong học thuyết triết học của mình, Pla- tôn cho rằng: xã hội được chia làm ba hạng người tương ứng với ba phần của linh hồn con người. Nhà nước xuất hiện từ sự đa dạng của nhu cầu con người và từ đó xuất hiện các dạng phân công lao động để thoả mãn nhu cầu ấy. Vì vậy trong xã hội cần phải duy trì các hạng người khác nhau, và do đó không thể có sự hoàn toàn bình đẳng giữa mọi người được. Công lý là ở chỗ mỗi hạng người làm hết trách nhiệm của mình, biết sống đúng với tầng lớp của mình, nói một cách khác là phải biết phận mình. A-rixtốt (384-322 trước công nguyên) bộ óc bách khoa toàn thư của triết học Hy Lạp cổ đại. Ông cho rằng, việc phân chia giai cấp và địa vị giai cấp là một trật tự tự nhiên. Công bằng là sự đối xử ngang nhau, bình đẳng chỉ với những người trong cùng một giai cấp. Còn những người ở các giai cấp khác nhau thì không thể có chung một sự công bằng. Đó chính là lẽ đương nhiên, là sự công bằng của tự nhiên. T. Hốp-xơ (1588-1679) là nhà triết học đại biểu cho chủ nghĩa duy vật Anh thế kỷ XVII. Vấn đề trung tâm trong học thuyết của ông là lạm bàn về xã hội và nhà nước, Hốp-xơ cho rằng: con người là giống nhau, nghĩa là theo tạo hóa, con người phải bình đẳng, phải được hưởng sự công bằng. Nhưng do lòng tham lam ích kỷ và dục vọng của bản thân nên không thể có sự bình đẳng và công bằng với nhau được. Từ sự phân tích đó ông chỉ ra: để đi đến sự hoà hợp, công bằng giữa con người với con người thì phải có một lực lượng đứng lên trên dàn xếp các lợi ích cá nhân, đó là Nhà nước. Như vậy Hốp-xơ đã có tư tưởng duy vật về các hiện tượng xã hội. Tuy nhiên ông không thấy được nhà nước cũng mang bản chất giai cấp cuả nó, trong xã hội có đối kháng giai cấp, nhà nước không thể nào thiết lập được sự công bằng chung cho toàn xã hội. Xpi-nô-za (1632-1677), nhà triết học duy vật lỗi lạc Hà Lan, là người kế tục Hốp - xơ trong học thuyết về xã hội. Ông đưa ra quan điểm hạn chế quyền lực vô hạn của nhà nước bằng những đòi hỏi về tự do. Xpi-nô-za đã đề ra tư tưởng giải phóng con người và chìa khoá để giải phóng chính là nhận thức. Nhận thức và không ngừng nâng cao nhận thức là biện pháp để con người tránh khỏi mọi tệ nạn xã hội, giải phóng mọi áp bức bất công. Theo ông, những tệ nạn xã hội, áp bức và bất công có nguyên nhân từ sự dốt nát, không nhận thức được hiện thực, không chế ngự được lòng tham của mình. Tuy nhiên, ở đây ông đã bộc lộ quan điểm không triệt để về xã hội. J.J. Rút-xô (1712-1778) nhà triết học khai sáng vĩ đại người Pháp, đã phê phán các quan hệ đẳng cấp và chế độ chuyên chế. Theo ông, xã hội công dân đã tạo ra một xiềng xích mới để trói buột kẻ yếu, trao vũ khí và sinh lực cho kẻ mạnh, tiêu diệt không thương tiếc bình đẳng cá nhân, duy trì quan hệ bất bình đẳng. Muốn xoá bỏ bất công cần phải có một nhà nước kiểu mới trong đó nhân dân phải có vai trò thật sự trong chính quyền. Rút-xô đã phê phán sâu sắc tính hai mặt của sở hữu tư nhân và chính sở hữu tư nhân làm cho xã hội phân hoá thành kẻ giàu người nghèo. Các cơ sở pháp lý về sở hữu là xiềng xích trói buộc người nghèo và là đôi cánh cho những người giàu có. Như vậy, mặt trái của sở hữu đã làm cho xã hội bất công hơn. Để xoá bỏ được tình trạng đó, con người cần phải lập “khế ước xã hội” để cải biến chính mình, loại bỏ tính xấu xa đặc biệt là lòng tham và tính ích kỷ thì sẽ đạt được công bằng và bình đẳng. Những giải pháp của ông mang ý tưởng nhân đạo nhất định, tuy nhiên vẫn chưa thoát khỏi hạn chế của lịch sử. Can- tơ (1724-104), người thiết lập nền triết học cổ điển Đức, ông có những đóng góp hết sức to lớn vào tư tưởng công bằng xã hội. Theo ông, công bằng xã hội bao gồm công bằng về bảo hộ, công bằng trong trao đổi và trong phân phối. Trong đó công bằng trong phân phối là quan trọng nhất. Theo ông, trạng thái không pháp luật là một xã hội không công bằng về phân phối, thông thường gọi nó là trạng thái tự nhiên. Đối lập với trạng thái tự nhiên là trạng thái văn minh, bởi vì xã hội này xây dựng trên sự công bằng về phân phối. Tư tưởng của Can-tơ về công bằng sau này được nhiều người chấp nhận và vận dụng. Các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng như Xanh- xi-mông người (Pháp), Pu-riê (người Pháp) và Owen (người Anh) đã phê phán xã hội đương thời được xây dựng trên nền tảng tư hữu- nguyên nhân của mọi bất công xã hội. Đồng thời, đề ra việc xây dựng một xã hội mới mà trong đó nguyên tắc tối cao là mọi người đều phải lao động, mọi người đều được hưởng thụ như nhau, xoá bỏ hết mọi đặc quyền, đặc lợi, xây dựng một xã hội công bằng. Xã hội công bằng là điều kiện để đem đến sự công bằng cho tất cả các thành viên. Tuy nhiên, mô hình xã hội mà các ông xây dựng ngay từ đầu đã biến thành những điều không tưởng (cả lý luận và thực tiễn). Như vậy, vấn đề công bằng xã hội được đề cập trong suốt quá trình lịch sử của nhân loại, nó phản ánh sự đấu tranh của các giai cấp về quyền sỡ hữu về tư liệu sản xuất, tổ chức và quản lý sản xuất, xã hội, phân phối và sử dụng sản phẩm lao động. Các nhà tư tưởng trong lịch sử nhân loại đã trình bày những quan niệm khác nhau về công bằng xã hội mặc dù chưa đầy đủ và chưa hệ thống. Song những quan niệm đó là tiền đề lý luận quan trọng làm cơ sở cho việc nghiên cứu vấn đề công bằng xã hội cho các nhà tư tưởng sau này. * Quan niệm của chủ nghĩa Mác- Lê-nin về công bằng xã hội trong chủ nghĩa xã hội. Bằng việc kế thừa có chọn lọc những tư tưởng của các nhà triết học trước đó, trên nền tảng thế giới quan duy vật biện chứng, Các Mác, Ph.Ăng- ghen và V.I.Lênin đã giải quyết một cách triệt để các vấn đề về tự nhiên, xã hội và tư duy. Trong học thuyết của mình các ông đã bàn nhiều về công bằng xã hội. Khi phân tích chủ nghĩa tư bản, Các Mác đã chỉ ra rằng: sự tăng trưởng kinh tế trong chủ nghĩa tư bản đồng nghĩa với quá trình tăng cường bóc lột giai cấp công nhân, do vậy sự tăng trưởng đó, về bản chất không dẫn đến công bằng xã hội được. Phương thức phân phối trong chủ nghĩa tư bản là bất hợp lý, bởi nó không dựa vào sức lao động, mà căn cứ vào tài sản, vào lượng vốn. Và kết quả của những phương thức này là: nhà tư bản ngày càng giàu lên trên sự đau khổ và nghèo đói của những người lao động, người công nhân. Từ sự phân phối không công bằng đó đã làm cho những mâu thuẫn xã hội nẩy sinh và ngày càng trở nên gay gắt. Các Mác đã chỉ ra rằng phương thức phân phối tư bản chủ nghĩa đó sẽ mất đi khi mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất mang tính chất xã hội hoá ngày càng cao với quan hệ sản xuất dựa trên chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất trong phương thức tư bản chủ nghĩa trở nên gay gắt đến mức bùng nổ cách mạng xã hội xã hội chủ nghĩa, để mở ra một thời đại mới. Trong thời đại mới đó tư liệu sản xuất sẽ được công hữu hoá và phương thức phân phối sản phẩm sẽ hợp lý hơn, công bằng xã hội sẽ được đảm bảo. Trong tác phẩm “Phê phán cương lĩnh Gô-ta” Các Mác đã chỉ ra những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội “Cái xã hội mà chúng ta nói ở đây không phải là một xã hội cộng sản chủ nghĩa đã phát triển trên những cơ sở của chính nó, mà trái lại là một xã hội cộng sản chủ nghĩa vừa thoát thai từ xã hội tư bản chủ nghĩa, do đó một xã hội về mọi phương diện: kinh tế, đạo đức, tinh thần, còn mang dấu vết của xã hội cũ mà nó đã lọt lòng ra”[13,tr.33]. Do đó, theo Các Mác, dưới chế độ xã hội chủ nghĩa người lao động làm việc theo năng lực của bản thân và được nhận lại phần vừa đúng cái mà anh ta đã đóng góp cho xã hội sau khi đã trừ đi số lao động cần thiết để duy trì phát triển sản xuất và quỹ phúc lợi xã hội. Đây là một nguyên tắc mang tính công bằng trong chủ nghĩa xã hội. Bởi vì, theo nguyên tắc này tất cả những người sản xuất đều có quyền ngang nhau trong việc tham gia vào quỹ tiêu dùng của xã hội khi làm một công việc ngang nhau. Nguyên tắc phân phối trên đây được coi là công bằng. Tuy nhiên Các Mác cũng chỉ rõ rằng trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội, sự phân phối công bằng đó chẳng những chưa loại trừ được, mà vẫn còn hàm chứa trong nó sự chấp nhận một tình trạng bất bình đẳng nhất định giữa các thành viên trong xã hội và với một công việc ngang nhau và do đó, với một phần tham dự như nhau vào quỹ tiêu dùng của xã hội thì trên thực tế người này vẫn lĩnh hơn người kia, người nầy vẫn giàu hơn người kia” [12, tr.35], do vậy, “Muốn tránh tất cả những thiếu sót ấy thì quyền phải không bình đẳng, chứ không phải là bình đẳng” [13, tr.35]. Đây vừa là ưu việt, vừa là thiếu sót của phân phối theo lao động, một thiếu sót không thể tránh khỏi trong giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa. V.I. Lênin trong một số tác phẩm của mình cũng đã đề cập đến vấn đề công bằng xã hội trong chủ nghiã xã hội, ông cho rằng “Như thế là trong giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa (mà người ta vẫn thường gọi là chủ nghĩa xã hội), “pháp quyền tư sản” chưa bị xoá bỏ hoàn toàn, mà chỉ bị xoá bỏ một phần, chỉ bị xoá bỏ với mức độ phù hợp với cuộc cách mạng kinh tế đã được hoàn thành, nghĩa là chỉ trong phạm vi tư liệu sản xuất thôi. “Pháp quyền tư sản” thừa nhận tư liệu sản xuất là sở hữu riêng của cá nhân. Chủ nghĩa xã hội biến tư liệu sản xuất thành tài sản chung” [11, tr.116]. Đặc biệt V.I. Lênin chú ý đến công bằng trong phân phối lao động “Người nào không làm thì không có ăn”: nguyên tắc xã hội chủ nghĩa ấy được thực hiện: “Số lượng lao động ngang nhau, thì hưởng số lượng sản phẩm ngang nhau”, nguyên tắc xã hội chủ nghĩa naỳ cũng đã được thực hiện” [11, tr.116]. Như vậy, theo Các Mác, Ph.Ăng ghen và V.I.Lênin thì trong chủ nghĩa xã hội, công bằng xã hội trong lĩnh vực kinh tế đóng vai trò là cơ sở và quyết định các lĩnh vực khác như văn hoá, xã hội... cụ thể là về phương diện quan hệ giữa cống hiến (thực hiện nghiã vụ) và hưởng thụ (được hưởng quyền lợi). Trong chủ nghĩa xã hội công bằng cơ bản là làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, sản phẩm được phân phối theo nguyên tắc “làm theo năng lực hưởng theo lao động”. Công bằng xã hội mà các nhà kinh điển chỉ ra ở đây là công bằng xã hội mang tính tương đối, còn nhiều hạn chế, nó chỉ tồn tại ở một giai đoạn thấp của xã hội cộng sản chủ nghĩa. Bởi vì, xã hội mới này chỉ là giai đoạn quá độ từ chủ nghĩa tư bản- một xã hội bất công bằng, bất bình đẳng sang xã hội cộng sản chủ nghĩa- một xã hội có một sự công bằng tuyệt đối. Do vậy, công bằng xã hội trong chủ nghĩa xã hội còn nhiều khiếm khuyết. “Nhưng đó là những thiếu sót không thể tránh khỏi trong giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa, lúc nó vừa lọt lòng từ xã hội tư bản chủ nghĩa ra, sau những cơn đau đẻ kéo dài. Quyền không bao giờ có thể cao hơn chế độ kinh tế và sự phát triển của xã hội do chế độ kinh tế đó quyết định” [13, tr.35-36]. Quan niệm về công bằng trong chủ nghĩa xã hội sẽ bị thay đổi cùng với sự tự mất đi của chủ nghĩa xã hội để ra đời một xã hội cao hơn- xã hội cộng sản chủ nghĩa. Sự mất đi sớm hay muộn tuỳ thuộc vào sự phát triển của sản xuất, sự phát triển của xã hội. Do vậy công bằng xã hội là một khái niệm mang tính lịch sử, nó có thể biến đổi, ra đời và mất đi. Theo các ông, để xã hội đạt được công bằng thực sự, một cách tuyệt đối chỉ khi con người không còn lệ thuộc vào phân công lao động nữa, lúc đó khoảng cách giữa lao động trí óc và lao động chân tay được rút ngắn tối đa, lao động không còn là phương tiện để sinh sống nữa mà là một nhu cầu hoạt động và phát triển. Khi đó cá nhân được phát triển một cách toàn diện, sản xuất xã hội sẽ có sự tiến bộ vượt bậc chưa từng có trong lịch sử, của cải trở nên dư thừa “chỉ khi đó người ta mới có thể vượt hẳn khỏi giới hạn chật hẹp của pháp quyền tư sản và xã hội mới có thể ghi trên lá cờ của mình: “Làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu” [13, tr.36]. Như vậy, theo chủ nghĩa Mác: Trong giai đoạn thấp của chủ nghĩa cộng sản, mặc dù chế độ công hữu về tư liệu sản xuất đã được thiết lập, song phương thức phân phối tương ứng đó vẫn chưa đạt tới sự công bằng thật sự. Đó mới chỉ là một bước tiến bộ nhất định bước đầu về công bằng xã hội. Điều quan trọng là cùng với chế độ công hữu thì sản xuất càng phát triển, mọi cá nhân phải có cơ hội phát huy mọi tiềm năng để vươn tới sự ngang nhau về năng lực, điều kiện, cơ hội, khi đó mới có thể đạt được sự công bằng tuyệt đối. * Một số quan niệm về công bằng xã hội ở nước ta Trong thời kỳ trước đổi mới. Giai đoạn trước 1975, ở miền Bắc nhiệm vụ giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước được đặt lên trên hết, với khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến; tất cả vì miền Nam ruột thịt”. Thời gian này nền kinh tế mang nặng “tính chất thời chiến” cùng với sự viện trợ lớn từ các nước bên ngoài nhằm tập trung phục vụ cho sự nghiệp thống nhất nước nhà. Vì vậy, vấn đề phát triển kinh tế trở thành thứ yếu sau nhiệm vụ cấp bách là đánh đuổi giặc ngoại xâm, thống nhất đất nước. Công bằng xã hội là thực hiện phân phối theo nguyên tắc “Cộng sản thời chiến”. Các chính sách xã hội phải chú ý thoả đáng đến lợi ích của các đối tượng, gia đình có chồng, con đi làm nhiệm vụ chiến đấu. Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, non sông thu về một mối, cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Từ hàng loạt khó khăn và bề bộn sau chiến tranh, với tinh thần “lạc quan” của người chiến thắng chúng ta bắt tay vào kiến thiết đất nước. Cùng với việc “giữ vững” cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp chúng ta tiếp tục duy trì chế độ công hữu về tư liệu sản xuất dưới hai hình thức sở hữu quốc doanh và hợp tác xã. Trong giai đoạn này kinh tế tăng trưởng chậm, hàng hoá thiếu về số lượng, kém về chất lượng và chính từ những bất cập đó mà dẫn đến quan niệm về phân phối không dựa theo nguyên tắc mức độ đóng góp lao động mà vẫn duy trì phương thức phân phối bình quân kiểu bao cấp. Quan niệm này đã được triển khai trong việc thực hiện chế độ tiền lương của khu vực nhà nước, chế độ phân phối sản phẩm trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, chế độ học phí, viện phí trong lĩnh vực giáo dục và y tế. Công bằng của cơ chế hành chính, bao cấp trong giai đoạn nầy được hiểu và thực hiện theo chủ nghĩa bình quân, nhưng đó là sự bình quân trong nghèo khó. Nhưng chính vì biết “chia đều sự nghèo khó” nên số đông là người lao động vẫn chấp nhận được trong một thời gian dài. Đánh giá về thời kỳ thực hiện cơ chế tập trung quan liêu bao cấp G.S,T.S. Lê Hữu Tầng viết: “Trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp mà chúng ta lầm tưởng là duy nhất đúng, là cái duy nhất đảm bảo xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, khái niệm công bằng đồng nhất hoàn toàn với khái niệm bình đẳng, còn khái niệm bình đẳng được hiểu là sự ngang bằng nhau hoàn toàn giữa người và người về quan hệ kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội... Kết quả là khái niệm về công bằng về thực chất bị đem đồng nhất với khái niệm cào bằng một cách bình quân chủ nghĩa. Mọi sự đi lệch khỏi trục bình quân đó đều bị coi là biểu hiện của sự không công bằng. Chính quan niệm sai lầm đã làm suy giảm, thậm chí triệt tiêu mất động lực của sự phát triển kinh tế xã hội và việc thực hiện quan điểm đó trong cuộc sống về thực chất là bóc lột người có công đối với sản xuất và phát triển xã hội” [26, tr.62]. ở thời kỳ nầy người ta đã nhầm lẫn giữa công bằng xã hội và bình đẳng xã hội. Công bằng xã hội được quan niệm là sự ngang bằng về mọi phương diện kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội... giữa mọi thành viên trong xã hội. Chính từ chỗ._. quan niệm sai lầm đó đã làm triệt tiêu động lực phát triển kinh tế, xã hội làm cho người lao động thờ ơ với quyền làm chủ của mình. Và điều này chính Ph. Ăgghen cũng đã từng cảnh báo: “Nếu cho rằng luận điểm “bình đẳng = công bằng” là một nguyên tắc tối cao và là một chân lý cuối cùng thì thật là ngu xuẩn. Bình đẳng chỉ tồn tại trong khuôn khổ đối lập với bất bình đẳng, công bằng chỉ tồn tại trong trong khuôn khổ đối lập với không công bằng” [14, tr.840]. Như vậy ở trước thời kỳ đổi mới, chúng ta đã có cách hiểu chưa đầy đủ về công bằng và bình đẳng xã hội: đã đồng nhất công bằng với bình đẳng, đó là sự ngang nhau hoàn toàn giữa mọi thành viên trong xã hội về mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Và thực chất công bằng ở đây là cào bằng, chia đều theo chủ nghĩa bình quân; chủ nghĩa bình quân chính là “kẻ tòng phạm” với bất công xã hội. Với quan niệm như vậy, bên cạnh những mặt tích cực như tập trung được lực lượng cho các hoạt động mang tính cộng đồng, tập thể thì mặt trái của nó cũng đã nẩy sinh đó là triệt tiêu động lực phát triển cho mọi khả năng, năng lực của xã hội. Chính những yếu tố bất hợp lý của chủ nghĩa bình quân đã làm cho người lao động thờ ơ với quyền làm chủ tư liệu sản xuất của mình, không quan tâm đến hiệu quả sản xuất. Thời kỳ đổi mới. Đánh dấu sự nghiệp đổi mới đất nước được bắt đầu từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (năm 1986), chúng ta đã mạnh dạn chuyển nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc tiếp nhận nền kinh tế thị trường là một sự lựa chọn hoàn toàn đúng đắn của Đảng và nhân dân ta. Trong những năm qua kinh tế thị trường đã mang lại sự tăng trưởng kinh tế cao; đời sống các tầng lớp nhân dân được cải thiện rõ rệt. Tuy nhiên, bên cạnh đó, những vấn đề thuộc mặt trái của kinh tế thị trường đang len lỏi và tác động mạnh mẽ tới mọi mặt của đời sống xã hội. Trong các vấn đề nổi lên thì vấn đề công bằng xã hội gây chú ý nhất, nó trở thành tiêu điểm của mọi vấn đề được bàn bạc, được đề cập sôi nổi trên các diễn đàn từ các góc độ khác nhau. ở góc độ kinh tế chính trị, chúng tôi thống nhất với quan niệm cho rằng: công bằng xã hội và bình đẳng xã hội là hai khái niệm khác nhau. Bình đẳng xã hội là nói tới sự ngang bằng nhau giữa người với người trong xã hội về một, một số hay mọi phương diện nào đấy (về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội...) có nghĩa là chưa thể có được sự công bằng xã hội hoàn toàn khi nền kinh tế còn ở mức thấp. Trong khi đó, nói tới công bằng xã hội là nói tới sự ngang bằng nhau giữa người với người không phải về một phương diện nào đấy bất kỳ, mà chính là về một phương diện hoàn toàn xác định: phương diện quan hệ giữa nghĩa vụ và quyền lợi hay giữa cống hiến và hưởng thụ theo nguyên tắc: cống hiến (thực hiện nghĩa vụ) ngang nhau thì hưởng thụ (được hưởng quyền lợi) ngang nhau. Công bằng xã hội chính là một dạng, một biểu hiện cụ thể của bình đẳng xã hội và thực hiện công bằng xã hội chính là thực hiện của một phần bình đẳng xã hội, là thực hiện bình đẳng về một phương diện nhất định - phương diện giữa cống hiến và hưởng thụ - và là một bước tiến trên con đường lâu dài nhằm dần dần đạt tới bình đẳng xã hội một cách hoàn toàn [25, tr.27, 31]. ở phương diện khác, công bằng được hiểu theo hai góc độ: công bằng theo chiều ngang nghĩa là đối xử ngang nhau với những người có đóng góp như nhau. Công bằng theo chiều dọc nghĩa là đối xử khác nhau đối với những người có những khác biệt bẩm sinh hoặc có những điều kiện xã hội khác nhau. Nếu công bằng theo chiều ngang được thực hiện bởi cơ chế thị trường thì công bằng theo chiều dọc cần có sự điều tiết của nhà nước. Việc phân định như thế sẽ đảm bảo công bằng thực sự. Qua đây có thể thấy công bằng xã hội là một khái niệm rộng, hoàn chỉnh gồm các yếu tố: kinh tế, chính trị, xã hội và văn hoá. Như vậy: “Công bằng xã hội là một giá trị định hướng để con người thoả mãn những nhu cầu cơ bản về đời sống vật chất và tinh thần trong mối quan hệ tương đối hợp lý giữa cá nhân và nhóm xã hội, phù hợp với khả năng hiện thực của những điều kiện kinh tế- xã hội nhất định” [27, tr.9]. Không bao giờ có thể đạt được công bằng tuyệt đối trong khi mâu thuẩn giữa nhu cầu ngày càng cao của con người và khả năng đáp ứng nhất định của xã hội còn chưa thể giải quyết được. Trong khi khẩu hiệu “làm theo năng lực, hưởng theo lao động” còn gặp không ít mâu thuẫn và không phải dễ dàng khắc phục được ngay thì chắc chắn còn rất lâu chúng ta mới thực hiện được khẩu hiệu “làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu”. Công bằng xã hội phải được quan niệm một cách toàn diện bao gồm cả trong lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, trong đó công bằng về kinh tế là gốc, là quyết định. Công bằng về kinh tế không phải chỉ có công bằng trong hưởng thụ, mà trước hết và quan trọng phải là sự công bằng trong sự tiếp cận với điều kiện làm kinh tế, điều kiện phát huy sức sáng tạo của các cá nhân và cộng đồng. Ngày nay công bằng xã hội cần phải phân biệt với những loại bất công khác nhau: Loại bất công “tự nhiên”, là loại bất công do sự cấu tạo về thể chất sinh học của mỗi người cũng như những khác biệt về trình độ phát triển do lịch sử để lại (ví dụ sự khác biệt do sinh ra và sống ở đồng bằng hay miền núi; thành thị hay nông thôn). Đối với loại bất công này hướng lâu dài là dựa trên sự phát triển ngày càng cao của xã hội mà thu hẹp dần bất công, và trước mắt phải cố gắng đến mức tối đa để bù đắp những thiệt thòi do bất công này gây ra, không thể để trở thành tình huống căng thẳng và xung đột xã hội có hại cho sự phát triển chung của cộng đồng. Loại bất công tạm thời, ở đây hiểu theo nghĩa tương đối, là phải chấp nhận sự bất công nầy nếu muốn đưa đất nước thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”. Chúng ta biết rằng nói “dân giàu” nhưng không phải mọi người cùng một lúc đều có thể giàu như nhau. Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII ghi rõ: “Coi việc có một bộ phân dân cư giàu trước là cần thiêt cho sự phát triển” [7, tr.47]. Đó cũng là quan điểm của Hồ Chí Minh: “Làm cho người nghèo thì đủ ăn. Người đủ ăn thì khá giàu. Người khá giàu thì giàu thêm” [15, tr.65]. Trong một thời gian nhất định, chưa thể loại trừ tình trạng nghèo tuyệt đối và tương đối. Sự phân hoá giàu nghèo không thể tránh khỏi, nhưng không để xảy ra tình trạng khoảng cách giàu, nghèo ngày càng tăng “kẻ ăn không hết, người lần chẳng ra”, “nước chảy chỗ trũng”, người nghèo vô phương kế mà không có sự giúp đỡ nào có hiệu quả từ phía cộng đồng, xã hội và chính phủ. Nói một cách khác, chúng ta chấp nhận sự làm giàu chính đáng, hợp pháp và có lợi cho sự phát triển của đất nước. Đó là sự làm giàu dựa trên những năng lực và nguồn lực chính đáng, sự làm giàu này không vấp phải một hạn chế nào. Tài kinh doanh, óc tổ chức quản lý, sáng kiến đều có điều kiện phát huy đến mức cao nhất qua cạnh tranh lành mạnh. Loại bất công phi lý và phi pháp, đó là tất cả những bất công đi ngược lại lợi ích của sự phát triển của xã hội, làm cho đời sống xã hội biến dạng và đạo đức xã hội suy đồi. Những bất công phi lý, phi pháp này phải bị xoá bỏ càng sớm bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Việc xoá bỏ những bất công phi lý, phi pháp, điều tiết những bất công tự nhiên và chấp nhận những bất công tạm thời tuy là việc làm quan trọng, nhưng dù sao vẫn là mặt thụ động của việc thực hiện công bằng xã hội. Theo chúng tôi mặt quan trọng, tích cực, chủ động hơn của nhiệm vụ quản lý sự phát triển xã hội là phải dần dần tạo ra các điều kiện thuận lợi, điều kiện ngang nhau cho mọi thành viên đều có thể phát triển. Trong cơ chế thị trường, sự phân hoá giàu nghèo là một hiện tượng phổ biến có tính khách quan, nó mang tính hai mặt: tiêu cực gắn với bất bình đẳng xã hội và mặt tích cực gắn với phân công lao động xã hội. Khi có sự phân tầng xã hội tính năng động của cá nhân được phát huy là cơ sở tất yếu kéo theo tính năng động của xã hội, tạo động lực cho sự phát triển. Chấp nhận sự phân hoá giàu nghèo đang diễn ra được hiểu theo nghĩa cống hiến ngang nhau thì hưởng thụ ngang nhau, đó là cách hiểu mới về công bằng xã hội. Nếu sự phân hoá giàu nghèo là do tài năng, trí tuệ và những điều kiện khách quan khác quy định thì việc thu nhập không ngang nhau là công bằng. Song, có thể coi là bất công nếu có sự cách biệt giữa người lao động chân chính đang sống nghèo khó với những kẻ làm giàu phi pháp bằng các hành vi tham nhũng, buôn lậu, lừa đảo, trốn thuế... Sự bất công còn xảy ra ngay trong lực lượng lao động, đó là sự chênh lệch quá lớn về thu nhập giữa những người trong những ngành nghề có lợi thế nghề nghiệp, hoặc những ngành nghề ít nhiều có tính chất độc quyền với những người lao động ở các ngành khác. Như vậy, hiện nay ở chúng ta người lao động sẵn sàng chấp nhận tạm thời sự chưa bình đẳng, nhưng không chấp nhận sự không công bằng; công bằng phải được xây dựng trên cơ sở cống hiến và hưởng thụ ngang nhau. Mỗi cá nhân muốn cống hiến được cho xã hội thì cá nhân tối thiểu phải có hai điều kiện: Thứ nhất, phải có môi trường thuận lợi nhằm vừa tạo điều kiện cho cá nhân có khả năng cống hiến, vừa là thước đo để đánh giá khách quan sự cống hiến của mỗi cá nhân, đó có thể gọi là “cơ hội xã hội”. Cơ hội xã hội là điều kiện rất quan trọng mà không có nó thì cá nhân dù có nhiệt tình cống hiến đến mấy cùng với tài năng thực sự đôi khi cũng trở thành bất lực. Thứ hai, muốn cống hiến thì phải có năng lực nhất định; năng lực càng cao thì khả năng cống hiến càng lớn. Trên cơ sơ những quan niệm về công bằng xã hội đã trình bày, có thể hiểu về công bằng xã hội như sau: Công bằng xã hội là một giá trị định hướng để thoả mãn một cách hợp lý những nhu cầu cơ bản về đời sống vật chất và tinh thần trong quan hệ phân phối sản phẩm xã hội và khả năng tiếp cận các cơ hội phát triển giữa các cá nhân, nhóm xã hội dựa trên sự tương xứng giữa cống hiến và hưởng thụ, xuất phát từ khả năng hiện thực của những điều kiện kinh tế- xã hội nhất định. 1.1.2. Công bằng xã hội là vấn đề quan trọng của vấn đề phân phối trong nền kinh tế thị trường hiện đại Trong các tác phẩm của mình, khi nói đến công bằng xã hội, bao giờ Các Mác cũng đề cập tới những lĩnh vực phân phối sản phẩm xã hội theo lao động. Đây là lĩnh vực đặc biệt có ý nghĩa để xem xét vấn đề công bằng. Nhưng theo Các Mác, phân phối sản phẩm, đến lượt nó, lại bị phụ thuộc vào quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất. Ai nắm quyền sở hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội đồng thời là giai cấp thống trị xã hội. Quan niệm duy vật lịch sử của Các Mác bắt nguồn từ luận điểm cho rằng sản xuất vật chất và phân phối sản phẩm là cơ sở, là nền tảng tồn tại của mọi xã hội. Do đó muốn cắt nghĩa đúng đắn mọi hiện tượng xã hội thì phải tìm vào gốc rễ của nó là sản xuất vật chất và các quan hệ sản xuất, trong đó quan hệ sở hữu là quan hệ đóng vai trò trung tâm. Trong tác phẩm: “Phê phán cương lĩnh Gô-Ta”, công bằng xã hội được thể hiện trong nguyên tắc phân phối theo lao động.. Các Mác đã chỉ rõ rằng trong xã hội xã hội chủ nghĩa, sau khi đã khấu trừ đi những khoản cần thiết để tái sản xuất cũng như để duy trì đời sống của cộng đồng, toàn bộ số sản phẩm của xã hội còn lại sẽ được phân phối theo nguyên tắc: mỗi người sản xuất sẽ được nhận trở lại từ xã hội một số lượng vật phẩm tiêu dùng trị giá ngang với số lượng lao động mà anh ta cung cấp cho xã hội sau khi đã khấu trừ số lao động của anh ta cho các quỹ xã hội [ 13, tr.30-34]. Đó là một nguyên tắc phân phối công bằng vì nó đảm bảo cho tất cả những người sản xuất đều có quyền hưởng thụ ngang nhau khi làm một công việc ngang nhau trong xã hội. Tuy nhiên, trong xã hội không phải mọi người đều bình đẳng với nhau về cơ hội phát triển mà còn tồn tại nhiều khác biệt, như về nguồn gốc xuất thân, về địa vị xã hội, về năng khiếu cá nhân, về năng lực lao động... Do vậy trên thực tế, với một công việc ngang nhau nhưng vẫn có tình trạng người này lĩnh hơn người kia và do đó, người nầy giàu hơn người kia. Vì vậy, Các Mác cho rằng, sự phân phối công bằng vẫn phải chấp nhận một tình trạng bất bình đẳng nhất định giữa các thành viên trong xã hội. Theo Mác, mỗi thời đại kinh tế có một phương thức phân phối riêng đặc trưng cho nó. Phương thức ấy do những quan hệ sản xuất quyết định. Không có phương thức phân phối chung cho mọi thời đại thì điều đó cũng có ý nghĩa rằng, không có một khái niệm công bằng chung chung. Mặc dù tiêu chí chung của công bằng nằm trong quan hệ phân phối. Trong chủ nghĩa tư bản, cũng giống như các phương thức phân phối trước đây, phương thức phân phối tư bản chủ nghĩa không phải là vĩnh cửu. Nó cũng mang tính lịch sử. Trong quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa, phân phối căn cứ vào tài sản, vào vốn và theo phương thức nầy thì kết quả nhà tư bản ngày càng giàu thêm, lao động ngày càng bị tha hoá, bất bình đẳng xã hội ngày càng lớn. Đó là sự công bằng xã hội đối với giai cấp tư sản “Bọn tư sản há chẳng khẳng định rằng sự phân phối hiện nay là “công bằng” đó sao? Và quả vậy, trên cơ sở phương thức sản xuất hiện nay thì đó há chẳng là sự phân phối duy nhất “công bằng” hay sao?”. Việc phân phối không công bằng đó đã làm cho những mâu thuẫn xã hội càng trở nên gay gắt. Phương thức phân phối tư bản chủ nghĩa sẽ mất đi khi mâu thuẫn cơ bản giữa quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và lực lượng sản xuất trong xã hội tư bản chủ nghĩa gay gắt đến mức bùng nổ cách mạng xã hội. Một thời đại mới, thời đại của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản xuất hiện. Trong thời đại mới, tư liệu sản xuất sẽ được công hữu hoá và phân phối sản phẩm sẽ dựa trên một cơ sở pháp lý hơn. Đó là phân phối theo lao động. Theo tư tưởng của Mác, công bằng xã hội không phải là một ý tưởng, một mong muốn mà là kết quả tất yếu của sự vận động trong bản thân phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Phân phối theo lao động, trên thực tế, là một phương thức mới để xác lập công bằng xã hội, và hơn nữa, còn là để giải phóng con người ra khỏi sự bất công và bất bình đẳng xã hội nói chung. Các Mác chia hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa thành hai giai đọan: Giai đoạn thấp là chủ nghiã xã hội; và giai đoạn cao là chủ nghiã cộng sản. Trong chủ nghĩa xã hội, thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động, đây là nguyên tăc phân phối công bằng nhất. Mặt khác, Mác cũng chỉ rõ, trong điều kiện chủ nghĩa xã hội, sự phân phối theo lao động còn hàm chứa trong nó sự chấp nhận một tình trạng bất bình đẳng nhất định giữa các thành viên trong xã hội. Trong chủ nghĩa xã hội, người lao động không phải đã được thừa hưởng trọn vẹn giá trị do lao động của mình tạo ra. Lao động đó phải được khấu trừ những khoản sau đây: Một là thay thế những tư liệu sản xuất đã tiêu dùng; Hai là, một phần phụ thêm để mở rộng sản xuất; Ba là, dự trữ hoặc dành cho quỹ bảo hiểm; Bốn là, chi phí cho quản lý chung; Năm là, tạo quỹ dùng cho quỹ phúc lợi xã hội; Sáu là, tạo quỹ cần thiết để nuôi dưỡng những người không có hoặc có rất ít khả năng lao động. Như vậy, ngay với chủ nghĩa xã hội, tức là một xã hội đã được tổ chức theo nguyên tắc của chủ nghĩa tập thể dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu thì sự công bằng đó vẫn chưa phải là công bằng lý tưởng, công bằng tuyệt đối theo đúng nghĩa. Trong những điều kiện như nhau thì vẫn có sự khác nhau, thậm chí khác nhau rất xa về năng lực, điều kiện, hoàn cảnh và ở đó, cái quyền ngang nhau đó, tức là sự bình đẳng vẫn “bị giới hạn trong khuôn khổ tư sản” nếu mà chúng ta dùng một thước đo như nhau tức là “giá trị lao động”. Cho nên “với một công việc ngang nhau và do đó với một phần tham dự như nhau vào quỹ tiêu dùng của xã hội thì trên thực tế, người nầy vẫn lĩnh hơn người kia, người này vẫn giàu hơn người kia.v.v...[13, tr.35]. Bởi vậy, C. Mác kết luận về những hạn chế tất yếu của công bằng trong chế độ xã hội chủ nghĩa như sau: “Đó là những thiếu sót không thể tránh khỏi trong giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa, lúc nó vừa mới lọt lòng từ xã hội tư bản chủ nghĩa ra, sau những cơn đau đẻ kéo dài. Quyền không bao giờ có thể ở một mức cao hơn chế độ kinh tế và sự phát triển văn hoá của xã hội do chế độ kinh tế đó quyết định” [13, tr.34-36]. Đó vừa là ưu việt, vừa là thiếu sót của nguyên tắc phân phối theo lao động- một thiếu sót theo Mác, là không thể tránh khỏi trong giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa. Theo Mác, sự công bằng thật sự sẽ đạt được khi xã hội bước vào giai đoạn cao - giai đoạn cộng sản chủ nghiã, khi con người không còn phụ thuộc vào sự phân công lao động. Lúc đó, khoảng cách giữa lao động trí óc và lao động chân tay được rút ngắn tối đa; lao động không còn là phương tiện để sinh sống mà là một nhu cầu hoạt động và phát triển, khi cùng với sự phát triển toàn diện của cá nhân thì sức sản xuất xã hội sẽ tiến bộ vượt bậc chưa từng có trong lịch sử, của cải trở nên dư thừa, và cho đến khi đó người ta “mới có thể vượt ra khỏi giới hạn chật hẹp của pháp quyền tư sản và xã hội mới có thể ghi trên lá cờ của mình: làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu” [13, tr.36]. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo quan điểm của Chủ nghĩa Mác- Lênin về công bằng xã hội vào hoàn cảnh thực tiễn của Việt Nam, Người đã đưa ra một quan niệm khái quát về công bằng xã hội trong chủ nghĩa xã hội: “chủ nghĩa xã hội là gì ? là mọi người được ăn no, mặc ấm, sung sướng, tự do. Nhưng, nếu muốn tách riêng ra một mình mà ngồi ăn no, mặc ấm người khác mặc kệ, thế là không tốt. Mình muốn ăn no, mặc ấm, cũng cần làm sao cho tất cả mọi người được ăn no, mặc ấm” [ 15, tr.682] Năm 1966, khi cuộc kháng chiến cống Mỹ cứu nước bước vào giai đoạn quyết liệt, nhân dân miền Bắc phải chịu nhiều thiếu thốn, khó khăn trong cuộc sống để dồn sức người sức của cho tiền tuyến lớn miền Nam, Người luôn chú ý đến vấn đề thực hiện công bằng xã hội cho mọi người dân Việt Nam “Không sợ thiếu chỉ sợ không công bằng”. Trên lập trường của Chủ nghiã Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định mục tiêu xây dựng đất nước ta trong giai đoạn hiện nay là “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, vững bước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu đó chứa đựng nội dung vừa phát triển kinh tế-xã hội, vừa thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội cho nhân dân lao động. Công bằng xã hội luôn luôn biến đổi phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Trong hoàn cảnh của chúng ta hiện nay cần khẳng định rằng phân phối theo lao động trước sau vẫn là tiêu chí quan trọng bậc nhất của công bằng. Tiêu chí này xuyên suốt cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, là hình thức phân phối chủ yếu trong điều kiện hiện nay của nước ta. Lao động không chỉ là lao động hiện tại mà còn là những lao động quá khứ đã tích luỹ vào trong vốn, tài sản, tư liệu sản xuất... thực hiện phân phối theo hình thức này sẽ gắn kết được kết quả lao động với lợi ích của người lao động, nhờ vậy người lao động sẽ có động lực trong quá trình sản xuất, giúp họ có thu nhập cao. Quan điểm này được Đảng ta khẳng định: “Cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế” [9, tr.88]. Để thực hiện được tốt hình thức phân phối nầy đòi hỏi người lao động phải có sức khoẻ và tri thức. Do đó nhà nước phải tạo mọi điều kiện cho người lao động có điều kiện chăm lo sức khoẻ và học tập thông qua hệ thống y tế và giáo dục đào tạo, có nghĩa là: tăng cường đầu tư cho y tế và giáo dục, để nâng cao sức khoẻ và trí tuệ cho người lao động là điều kiện cần thiết để thực hiện triệt để phân phối theo lao động. Nếu trước đây chúng ta coi phân phối theo lao động là tiêu chí duy nhất của sự công bằng thì ngày nay trong điều kiện chuyển sang cơ chế thị trường, trước nhu cầu bức bách phải thu hút vốn đầu tư để có điều kiện mở rộng và đẩy mạnh sản xuất thì ngoài phân phối theo lao động chúng ta còn phải coi trọng hình thức: “...phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh...” [9, tr.88]. Các nguồn lực khác ở đây được hiểu là vốn, tài sản, công cụ sản xuất... được gọi chung là tài sản đóng góp vào quá trình sản xuất. Tuỳ theo mức đóng góp mà được hưởng phần thu nhập tương ứng. Hình thức phân phối này cho phép thu hút, huy động moị nguồn lực của các thành phần kinh tế tham gia vào quá trình sản xuất. Ngoài phân phối theo lao động và theo nguồn vốn, để đảm bảo công bằng xã hội trong quá trình phân phối còn phải tính đến nhiều cống hiến khác cho xã hội. Đó là những đóng góp về tài năng, sức lực, xương máu cho lợi ích chung của cộng đồng xã hội. Trong đó, đặc biệt là sự cống hiến của người có công trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ và xây dựng đất nước. Một trong những đặc thù lớn nhất của nước ta là chiến tranh kéo dài: chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ, kẻ thù biên giới phía Bắc và Tây Nam. Bên cạnh đó còn có lực lượng tham gia quân tình nguyện giúp các nước bạn Lào, Cămpuchia trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Chính vì vậy đã có nhiều gia đình, nhiều đồng bào chiến sỹ, nhiều vùng đất đã không tiếc công sức, tiền của, máu xương cống hiến cho sự nghiệp cách mạng góp phần thực hiện nhiệm vụ cao cả. Ngày nay, bước vào guồng quay của kinh tế thị trường thì chính họ là những người bị thiệt thòi nhất bởi họ không còn sức lao động do nêu đơn, thương tật, già yếu, khó khăn về vốn, họ rơi vào nhóm nghèo của xã hội, Bởi vậy, thực hiện công bằng xã hội trong điều kiện hiện nay không thể không tính đến sự cống hiến trong quá khứ của những thế hệ người đã kinh qua chiến tranh... Việc thực hiện chính sách nhân đạo, phong trào làm việc thiện, phong trào đền ơn đáp nghĩa, thành lập quỹ xoá đói giảm nghèo... là trách nhiệm của toàn xã hội, là sự đền ơn đáp nghĩa chứ tuyệt nhiên không phải là sự ban ơn. Trong điều kiện hiện nay còn có sự bất bình đẳng trong thu nhập, việc thực hiện phân phối thông qua phúc lợi xã hội có tác dụng giảm bớt sự bất bình đẳng đó. Phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải đặt mục tiêu tiến bộ và công bằng xã hội lên trên hết, coi đó là mục tiêu của mọi chính sách phát triển kinh tế xã hội, ngược lại phát triển kinh tế xã hội là vì mục tiêu đảm bảo thực hiện công bằng xã hội, vì tự do, hạnh phúc của con người. Vì vậy, Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ của Đảng (khoá VII) đã khẳng định “Tăng tưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển. Công bằng xã hội thể hiện cả ở khâu phân phối hợp lý tư liệu sản suất, lẫn ở khâu phân phối kết quả sản xuất, cũng như ở điều kiện phát triển năng lực của mọi thành viên trong cộng đồng” [7, tr.47]. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng, tư tưởng về công bằng xã hội tiếp tục được Đảng ta quán triệt và làm rõ trong điều kiện mới: “Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển. Công bằng xã hội phải thể hiện ở tất cả các khâu phân phối hợp lý tư liệu sản xuất lẫn ở khâu phân phối kết quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội và phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình” [8, tr.113]. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta một lần nữa khẳng định: “... tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường” [9,tr.24]. Đến Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng lại tiếp tục khẳng định: Kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước, ở từng lĩnh vực, địa phương; thực hiện công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển, thực hiện tốt chính sách xã hội trên cơ sở phát triển kinh tế, gắn quyền lợi và nghĩa vụ, cống hiến và hưởng thụ, tạo động lực mạnh mẽ và bền vững hơn cho phát triển kinh tế - xã hội. Tập trung giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc” [10, tr.32]. 1.2. Nâng cao đời sống kinh tế đối với người có công là một trong những nhiệm vụ quan trọng để đảm bảo công bằng xã hội 1.2.1. Nâng cao đời sống kinh tế đối với người có công cách mạng là trách nhiệm của nhà nước và toàn xã hội trong tiến trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Mặc dù chính sách ưu đãi người có công đã được thực hiện gần 6 thập kỷ qua, nhưng cho đến ngày nay cũng chưa có một văn bản nào nêu rõ khái niệm người có công. Tuy nhiên, qua các quy định tiêu chuẩn đối với từng đối tượng là người có công, chúng tôi nêu ra khái niệm người có công như sau: Theo nghĩa rộng: người có công là những người thuộc một dân tộc nào đó, tự nguyện hiến dâng cuộc đời mình cho đại nghĩa, cho sự nghiệp của đất nước. Họ có những đóng góp, những cống hiến xuất sắc, phục vụ cho lợi ích của đất nước, của dân tộc. Người có công gồm những người không phân biệt tôn giáo, tín ngưỡng, dân tộc, nam nữ, tuổi tác, miễn là họ có những hành động xuất sắc có lợi cho dân tộc. ở đây có thể thấy rõ những tiêu chí cơ bản của người có công, đó là phải có đóng góp, cống hiến xuất sắc và vì lợi ích dân tộc. Những đóng góp, cống hiến của họ có thể là trong các cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do cho Tổ quốc và cũng có thể là trong công cuộc xây dựng và phát triển của đất nước. Như đã nêu trên, phạm trù người có công rất rộng, trong phạm vi của luận văn này, chúng tôi chỉ tập trung vào những đối tượng là người có công trước cách mạng tháng 8 năm 1945, trong các cuộc kháng chiến cứu nước và trong bảo vệ Tổ quốc của dân tộc. Như vậy, khái niệm người có công ở đây được hiểu theo nghĩa hẹp. Người có công hiểu theo nghiã hẹp này như sau: Người có công là những cá nhân không phân biệt tôn giáo, tín ngưỡng, dân tộc, nam nữ... có những đóng góp, những cống hiến xuất sắc trong thời kỳ trước cách mạng tháng Tám năm 1945, trong các cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền công nhận. Như vậy, ở khái niệm này, người có công là những người tham gia hoặc giúp đỡ cách mạng mà hy sinh xương máu hoặc một phần thân thể của mình hoặc cống hiến cả cuộc đời mình cho sự nghiệp cách mạng và được các cơ quan có thẩm quyền công nhận. Các loại đối tượng người có công: Theo quy định hiện hành, các đối tượng có công có nhiều loại, trong phạm vi của luận văn, chỉ nêu những đối tượng có công theo nghĩa hẹp đã trình bày trên. Những đối tượng có công này được quy định trong Pháp lệnh ưu đãi người có công số 26/2005/PLUBTVQH11 ngày 29/6/2005 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và Nghị định số 54/2006/NĐ-CP ngày 26/5/2006 của Chính phủ, bao gồm: + Thương binh: Là những quân nhân, công an nhân dân vì chiến đấu, hoặc trực tiếp chiến đấu; bị địch bắt, tra tấn vẫn không chịu khuất phục, kiên quyết đấu tranh, để lại thương tích thực thể; làm nghĩa vụ quốc tế; đấu tranh chống tội phạm hoặc dũng cảm thực hiện công việc cấp bách, nguy hiểm phục vụ quốc phòng, an ninh, dũng cảm cứu người, cứu tài sản của nhà nước, nhân dân, làm nhiệm vụ quốc phòng, an ninh ở địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn mà bị thương tật, mất sức lao động từ 21% trở lên. Những người không thuộc lực lượng vũ trang nhân dân (công an nhân dân, quân đội nhân dân), trong khi làm những nhiệm vụ trên đây mà bị thương suy giảm khả năng lao động từ 21% trở lên thì được hưởng chính sách như thương binh. + Bệnh binh: Là những quân nhân, công an nhân dân mắc bệnh làm suy giảm khả năng lao động từ 41% trở lên do chiến đấu hoặc trực tiếp phục vụ chiến đấu; hoạt động ở địa bàn có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn; làm nghĩa vụ quốc tế; dũng cảm làm công việc cấp bách, nguy hiểm phục vụ quốc phòng an ninh khi xuất ngũ về với gia đình + Liệt sỹ: Là những người đã hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế hoặc vì lợi ích của nhà nước, của nhân dân được Nhà nước tặng bằng “Tổ quốc ghi công” trong khi: Chiến đấu hoặc trực tiếp phục vụ chiến đấu; Trực tiếp đấu tranh chính trị, binh vận với địch có tổ chức với địch; Hoạt động cách mạng, hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù đày tra tấn nhưng không chịu khuất phục, kiên quyết đấu tranh hoặc thực hiện chủ trương vượt tù, vượt ngục hy sinh; làm nghĩa vụ quốc tế; đấu tranh chống tội phạm; dũng cảm thực hiện công việc cấp bách, nguy hiểm hoặc phục vụ nhiệm vụ quốc phòng, an ninh; dũng cảm cứu người, cứu tài sản của nhà nước của nhân dân; Do ốm đau, tai nạn khi đang làm nhiệm vụ quốc phòng an ninh ở địa bàn kinh tế có điều kiện kinh tế- xã hội đặc biệt khó khăn; Thương binh chết vì vết thương tái phát. + Thân nhân liệt sỹ: Là những người thân thiết, ruột thịt hoặc có công nuôi dưỡng liệt sỹ trước khi hy sinh, như: - Vợ (hoặc chồng) của liệt sỹ. Chỉ xác định là những người kết hôn hợp pháp với liệt sỹ trước khi liệt sỹ hy sinh và quan hệ hôn nhân còn tới thời điểm liệt sỹ hy sinh và được báo tử (hợp pháp ở đây được hiểu là có đăng ký kết hôn hoặc được tổ chức, đoàn thể có thẩm quyền công nhận).Trong trường hợp liệt sỹ có nhiều vợ (trước khi có luật hôn nhân gia đình) mà thực tế đã được thừa nhận thì những người vợ đó cũng được công nhận là thân nhân liệt sỹ. - Con liệt sỹ: là những người như: con đẻ, con nuôi, con ngoài giá thú, được pháp luật thừa nhận.. - Cha mẹ đẻ của liệt sỹ: là những người thực sự nuôi dưỡng liệt sỹ như con khi liệt sỹ còn nhỏ tuổi trong một khoảng thời gian nhất định nào đó (theo quy định hiện hành của nước ta, thì thời gian nuôi dưỡng tối thiểu là 10 năm khi liệt sỹ còn dưới 16 tuổi hoặc tối thiểu là 5 năm trong điều kiện hết sức đặc biệt). Qua cách phân loại này có thể thấy thân nhân liệt sỹ có thể là người có quan hệ huyết thống, quan hệ hôn nhân hoặc quan hệ nuôi dưỡng được pháp luật thừa nhận. Những người nầy tuy không phải trực tiếp là người có công, nhưng có quan hệ trực tiếp với người có công nên cũng là đối tượng chính của Pháp lệnh ưu đãi. + Những người tham gia hoạt động cách mạng, hoạt động kháng chiến. ở Việt Nam, do đặc điểm lịch sử, qua các thời kỳ cách mạng có những người tham gia hoat động cách mạng trong các thời kỳ lịch sử khác nhau và họ cống hiến khả năng, công sức cho sự nghiệp cách mạng trong các thời kỳ đó. Những người này là những người có công với đất nước, bao gồm: - Người hoạt động cách mạng trước ngày 01 tháng 01 năm 1945; Người hoạt đông cách mạng từ ngày 01 tháng 01 năm 1945 đến trước ngày._.gười, gia đình có công Chính sách ưu đãi đối với người có công là hệ thống công cụ cuả Đảng và Nhà nước nhằm ghi nhận công lao sự hy sinh của những người có công, đáp ứng phần nào sự hy sinh của họ cho sự nghiệp của dân tộc. Phản ảnh trách nhiệm của Nhà nước cộng đồng xã hội, là thể hiện sự đãi ngộ đặc biệt về đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần đối với những người có công lao với đất nước. Chính sách ưu đãi đối với người có công nhằm đảm bảo đời sống vật chất và tinh thần cho nhóm đối tượng đặc biệt, và còn nhằm đạt mục tiêu góp phần đảm bảo công bằng xã hội. Thực hiện chính sách đãi ngộ của Đảng và nhà nước đối với người có công, trong những năm qua, tuy trong điều kiện là một tỉnh còn nhiều khó khăn, điểm xuất phát còn thấp nhưng Đảng bộ và chính quyền các cấp ở tỉnh Quảng Nam đã xác định đây là một nhiệm vụ chính trị trọng tâm thường xuyên và có những nỗ lực rất lớn trong việc quán triệt tổ chức vận dụng, xây dựng những cơ chế chính sách như hỗ trợ cải thiện nhà ở, giải quyết việc làm, hỗ trợ đào tạo - dạy nghề... và đã có những kết quả khá tốt góp phần đảm bảo, cải thiện và nâng cao một bước về đời sống vật chất và tinh thần, tạo được những chuyển biến tích cực đến đời sống người có công. Tuy nhiên, bên cạnh đó, còn có những bất cập do đặc điểm của một tỉnh trọng điểm trong chiến tranh thiệt hại về người và vật chất lớn; do số lượng đối tượng đông, là tỉnh còn nghèo, nên việc tổ chức thực hiện chính sách còn có những tồn tại, đời sống người có công còn nhiều người còn khó khăn. Mặt khác, trong tình hình hiện nay, dưới tác động của nền kinh tế thị trường, những mặt trái của kinh tế thị trường tác động hàng ngày, hàng giờ đến tâm tư tình cảm cuộc sống người có công, tạo ra những mâu thuẫn, tình trạng không công bằng mới xuất hiện. Vì vậy, để thực hiện tốt chính sách đối với người có công trong thời gian tới, chính quyền tỉnh Quảng Nam cần tập trung chỉ đạo thực hiện tốt một số nhiệm vụ chủ yếu sau: Một là, tiếp tục chỉ đạo xem xét giải quyết có hiệu quả những tồn đọng về công tác xác nhận đối với nhưng người hoạt động cách mạng, hoạt động kháng chiến hy sinh, bị thương hoặc bị địch bắt tù đày, cán bộ thuộc diện tiền khởi nghĩa trong 3 thời kỳ cách mạng còn tồn sót chưa được cấp có thẩm quyền công nhận, giải quyết chính sách theo quy định của nhà nước, đảm bảo hợp tình, hợp lý, đảm bảo không để những trường hợp thật sự có công nhưng không được xác nhận, thực hiện chính sách đãi ngộ của nhà nước, thông qua đó ghi nhận sự hy sinh, cống hiến của họ đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc. Cách mạng Việt Nam đặc biệt là ở miền Nam, là cuộc cách mạng toàn dân, toàn diện, hoạt động trong điều kiện bí mật, ở những vùng miền khác nhau, vì vậy không có điều kiện lưu giữ, lưu trữ giấy tờ, cho nên việc quy định thủ tục xác nhận phải có những giấy tờ gốc (như giấy chứng thương, nhập viện, ra viện...) để làm cơ sở là cần thiết nhưng là điều không hợp lý. Thực tế, cách mạng miền Nam nhiều trường hợp là cơ sở nội tuyến, đơn tuyến, trong lòng địch, trong các tổ chức của địch, mà người được giao nhiệm vụ chỉ có người giao nhiệm vụ mới biết họ, nếu người giao nhiệm vụ hy sinh hoặc vì lý do nào đó từ trần thì sẽ không còn ai chứng nhận quá trình hoạt động cách mạng, để được hưởng chính sách của nhà nước. Đối với những trường hợp không còn lưu giữ được hồ sơ, giấy tờ cũ, giấy tờ gốc, dựa vào cơ sở trụ bám, dựa vào nhân dân và cán bộ cốt cán hoạt động cùng thời để xem xét một cách khách quan, hợp tình, hợp lý để xác lập thủ tục, đề nghị công nhận, không để người có công nhưng không được hưởng chính sach của nhà nước. Khảo sát một cách đầy đủ, thống kê lập danh sách những trường hợp là cán bộ Lão thành cách mạng, cán bộ thuộc diện “ Tiền khởi nghĩa” theo từng địa phương đã từ trần, hy sinh chưa được công nhận đề nghị với Đảng và Nhà nước công nhận, giải quyết chế độ đối với thân nhân của họ, đảm bảo công bằng giữa công lao và hưởng chế độ ưu đãi của nhà nước. Phối hợp với các cơ quan, các ngành có liên quan xem xét giải quyết tốt những tồn đọng về công tác xác nhận và thực hiện chính sách đối với Thanh niên xung phong tham gia trong kháng chiến hoàn thành nhiệm vụ đã về gia đình hiện nay chưa được hưởng chế độ ưu đãi gì của nhà nước. Thực trạng hiện nay, có nhiều người thuộc diện trên đây (khoảng trên 2 ngàn người) đã kê khai, nhưng không lập được thủ tục vì không tìm được người xác nhận, không có giấy tờ gốc, chưa được tặng Kỷ niệm chương Thanh niên xung phong, dẫn đến nhiều người trong số họ chưa được hưởng chính sách, thiệt thòi quyền lợi. Hai là, đẩy nhanh tiến độ thực hiện các chính sách ưu đãi của nhà nước đối với người có công và thân nhân của họ, như chế độ đối với người dân có công giúp đỡ cách mạng được tặng Huân chương kháng chiến, Huy chương kháng chiến, chế độ trợ cấp đối với thân nhân người có công đã từ trần trước ngày 01/10/1995; chế độ trợ cấp đối với người hoạt động kháng chiến, hoạt động cách mạng sau ngày thống nhất đất nước đã về gia đình nhưng chưa được hưởng chế độ... Tỉnh Quảng Nam, diện đối tượng này khá nhiều, riêng người có công giúp đỡ cách mạng khoảng 60 ngàn người mới giải quyết được trên 40 ngàn trường hợp còn khoảng 20 ngàn, người có công từ trần trước 01/010/1995, khoảng 70 ngàn, mới giải quyết được gần 50 ngàn còn khoảng 20 ngàn... Đa số người có công, thân nhân chủ yếu của họ (cha, mẹ, vợ, chồng...) tuổi đã cao, nhiều người rất cao, do vậy phải tập trung chỉ đạo, cấp xã, phường hướng dẫn người có công và thân nhân của họ kê khai, xác lập thủ tục thực hiện chính sách. Khẩn trương làm tốt công tác thẩm định, giải quyết kịp thời không để những trường hợp đã xác lập hồ sơ chờ đợi. Xử lý kiên quyết những trường hợp nhũng nhiễu trong việc thực hiện chính sách đối với người có công. Ba là, tập trung chỉ đạo thực hiện các chương trình chăm sóc người có công: + Huy động nguồn lực, đẩy nhanh tiến độ tổ chức thực hiện chương trình hỗ trợ cải thiện nhà ở đối với người có công, ưu tiên trước đối với các đối tượng là các mẹ Việt Nam anh hùng, Lão thành cách mạng, Tiền khởi nghĩa, thương bệnh binh nặng, người có công nêu đơn, người có công đặc biệt khó khăn về nhà ở... theo Đề án hỗ trợ cải thiện nhà ở đối với người có công của tỉnh được Chính phủ đồng ý thực hiện thí điểm. Phấn đấu đến cuối năm 2007, cơ bản hoàn thành và đạt được mục tiêu đề ra, (khoảng hơn 4 ngàn nhà, với tổng kinh phí đầu tư khaỏng trên 60 tỷ đồng), hoàn thành giai đoạn 1, cơ bản không còn hộ khó khăn ở nhà tạm bợ dột nát. Theo kết quả khảo sát vào năm 1998, toàn tỉnh có trên 20 ngàn hộ có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn về nhà ở cần có sự hỗ trợ của nhà nước, cộng đồng. Trong hơn 8 năm qua, bằng sự nỗ lực của các cấp các ngành, địa phương cơ sở và gia đình trên địa bàn tỉnh đã hỗ trợ trên 16 ngàn trường hợp với tổng nguồn kinh phí hàng trăm tỷ đồng góp phần cải thiện nhà ở, ổn định cuộc sống người có công. Tuy nhiên, số lượng nhà còn lại cần hỗ trợ rất lớn, thời gian còn lại theo đề án không nhiều, để hoàn thành cần tranh thủ nguồn vốn trung ương, tiếp tục làm tốt công tác vận động các tổ chức kinh tế, xã hội trong và ngoài tỉnh, con em Quảng Nam hiện đang sống ở quê và trên mọi miền đất nước với nghĩa tình và trách nhiệm hỗ trợ, huy động nguồn lực để triển khai thực hiện. + Làm tốt việc chăm sóc sức khoẻ đối với người có công. Phần lớn người có công tuổi đã cao, sức khoẻ kém. Tuy người có công đa số có chế độ bảo hiểm y tế, nhưng chế độ bảo hiểm y tế chỉ thực sự có tác dụng khi người có công đến điều trị chữa bệnh tại cơ sở y tế của nhà nước. Thực tế, ở vùng nông thôn hiện nay, việc đi lại chưa phải là thuận lợi, tâm lý của người có công ở nông thôn là ngại đến bệnh viện và khi đến bệnh viện là bất đắc dĩ và đã quá trễ rồi. Vì vậy, một mặt, tăng cường việc theo dõi thăm khám, điều trị tại nhà, tại cơ sở . Các cơ quan chức năng làm tốt công tác phối hợp với cơ sở y tế sử dụng có hiệu quả nguồn kinh phí chi cho chế độ điều dưỡng tại gia, tổ chức khám và kết hợp điều trị bệnh với điều dưỡng, góp phần nâng cao thể trạng, chăm sóc tốt sức khoẻ người có công. Tổ chức tốt công tác điều dưỡng nâng cao sức khoẻ đối với người có công, trước hết phải đảm bảo cơ sở vật chất (nhà điều dưỡng), nâng cao năng lực của cơ sở điều dưỡng (Trung tâm điều dưỡng Thương bệnh binh nặng và Người có công của tỉnh), tăng số lượng người được điều dưỡng tập trung từ 25% hiện nay lên 35-40% vào năm 2008, góp phần phục hồi, nâng cao sức khoẻ người có công, nhất là đối với Lão thành cách mạng, Bà mẹ Việt nam anh hùng, thương bệnh binh nặng, những người sức khoẻ kém. Tổ chức nâng cấp cải tạo cơ sở hiện có, trong 1-2 năm tới huy động nguồn đầu tư xây mới 1-2 nhà điều dưỡng (khoảng 100 phòng). Thực hiện liên kết, phối hợp với các cơ quan y tế, cơ sở y tế trong việc thực hiện chế độ điều dưỡng người có công tại gia đình, điều dưỡng tập trung. Sử dụng có hiệu quả và đúng ý nghĩa nguồn kinh phí chi cho điều dưỡng tại gia, không xem đó là khoản trợ cấp khó khăn đột xuất. Cùng với việc chăm lo về vật chất, khi thực hiện điều dưỡng, tổ chức tốt các hoạt động giao lưu, tham quan danh lam thắng cảnh trong tỉnh và ngoài tỉnh góp phần động viên về tinh thần đối với người có công. Bốn là, tập trung hoàn thành Đề án sửa chữa, nâng cấp, tôn tạo mộ nghĩa trang liệt sỹ, xây dựng nhà bia ghi tên liệt sỹ, Đài Tưởng niệm của tỉnh giai đoạn 2002-2005 và 2010, đảm bảo nơi yên nghỉ của các anh hùng liệt sỹ ngày càng đẹp thể hiện là công trình lịch sử- chính trị- văn hoá, từng bước thực hiện công viên hoá nghĩa trang liệt sỹ, để giáo dục truyền thống đấu tranh cách mạng đối với các thế hệ hôm nay và mai sau. Năm là, tổ chức tổng kết việc thực hiện chính sách ưu đãi đối với người có công để kiến nghị với nhà nước những tồn đọng vướng mắc về tình hình triển khai thực hiện các chính sách của nhà nước qua thực tiển triển khai để nhà nước kịp thời điều chỉnh qua đó đảm bảo quyền lợi chế độ, góp phần nâng cao đời sống vơí người có công, như thương binh, đồng thời là cán bộ nghĩ hưởng chế độ mất sức lao động hoặc bệnh binh chỉ hưởng một loại trợ cấp. Về nguyên tắc, thương binh là thể hiện sự cống hiến xương máu, nên họ được đãi ngộ, đó là thực hiện công bằng. Gần đây, chế độ trợ cấp đối với người có công giúp đỡ cách mạng quy định họ chỉ được hưởng kể từ ngày ký quyết định là điều không hợp lý so với những trường hợp cũng là đối tượng này khi được thực hiện trước đây (trước đây được truy lĩnh từ ngày có chính sách)... 3.2.4. Làm tốt công tác xã hội hoá, huy động sự đóng góp, hỗ trợ của cộng đồng, xã hội cùng với Nhà nước chăm lo đời sống kinh tế đối với người có công; Đẩy nhanh tiến độ và thực hiện có kết quả các chương trình chăm sóc, hỗ trợ người có công Truyền thống ngàn đời nay đã chứng minh rằng, khi các cá nhân làm việc nghĩa thì không kể công, nhưng nhà nước và cộng đồng không bao giờ quên ơn họ, không bao giờ quên việc báo nghĩa đối với những người đã hy sinh, đã cống hiến vì độc lập tự do của dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói : “Đảng và đồng bào ta tưởng nhớ mãi mãi những người con ưu tú đã phấn đấu đến cùng cho sự nghiệp giải phóng dân tộc và cho lý tưởng Cộng sản chủ nghĩa” [16, tr.802]. Tư tưởng này đã thể hiện đạo lý truyền thống của dân tộc ta “ăn quả nhớ người trồng cây”. Từ ngàn xưa, những anh hùng, những người có công với nước luôn luôn được tôn thờ, dựng tượng, được xây đền thờ... Ngày nay tư tưởng đạo lý ấy cần được phát huy. Đây chính là tư tưởng, là cội nguồn cơ bản để thực hiện xã hội hoá công tác ưu đãi người có công. Lịch sử cũng đã chứng minh rằng cộng đồng và chỉ có cộng đồng mới có khả năng thực hiện tốt công tác chăm sóc, giúp đỡ những người có công với nước. Vì vậy, nhà nước với tư cách là người đại diện cho cộng đồng, là chủ thể đề ra và thực hiện các chính sách đối với người có công. Các chính sách của nhà nước không chỉ là sự thông qua các loại trợ cấp ưu đãi mà còn thông qua các chính sách, chế độ khác như khám chữa bệnh, đảm bảo công ăn việc làm, đảm bảo các hoạt động của đời sống tinh thần, tình cảm của người có công. Nhà nước, với chức năng của mình, điều hành, điều phối các hoạt động của các cấp, các ngành, phối hợp các tổ chức các đoàn thể quần chúng trong việc chăm sóc người có công. Thực tế cũng đã chứng minh rằng, dù nhà nước có cố gắng bao nhiêu, nhưng nếu không có sự tham gia của cộng đồng thì cũng không thể đáp ứng được các nhu cầu trong cuộc sống của người có công. Tư tưởng xã hội hoá ở đây thể hiện ở chỗ dưới sự định hướng của nhà nước và với truyền thống nhân nghĩa, thuỷ chung, toàn thể cộng đồng, các cấp các ngành, bằng các hoạt động và biện pháp thực tiễn, cùng nhau nhau góp sức chăm lo đời sống người có công. Sự giúp sức của cộng đồng không chỉ là những vấn đề “cơm áo, gạo tiền” trước mắt mà còn là những “cú huých”, là nguồn động viên, tiếp sức cho các đối tượng vượt mọi khó khăn, vươn lên làm chủ bản thân, làm chủ cuộc sống, tiếp tục đóng góp cho xã hội. Đó là thực hiện phương châm Nhà nước, nhân dân và đối tượng cùng làm”, kết hợp, hoà quyện vào nhau, làm cho chính sách đối với người có công vừa mang tính chính trị vừa mang đậm đà bản sắc, truyền thống nhân văn của dân tộc ta. “Quan tâm chăm sóc thương bệnh binh, gia đình liệt sỹ và những người có công với cách mạng, coi đó vừa là trách nhiệm của nhà nước, vừa là trách nhiệm của toàn dân” [6, tr.74]. Thực hiện phương châm ấy, thời gian qua ở Quảng Nam đã hình thành nhiều phong trào và thu được những kết quả nhất định, góp phần cùng nhà nước thực hiện tốt chính sách đối với người có công trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên, kết quả đạt được là không đồng đều, không thường xuyên, tổ chức thực hiện mới chỉ là nhiệm vụ của cơ quan chức năng nhà nước, chưa có sự chỉ huy thống nhất, huy động sự tham gia của các tổ chức Đảng, đoàn thể. Để thực hiện xã hội hoá công tác chăm sóc đối với người có công, thực hiện “thế kiềng 3 chân”, trong thời gian tới cần triển khai thực hiện các nội dung: Một là, trước hết phải làm tốt công tác tuyên truyền về truyền thống đấu tranh cách mạng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ độc lập tự do, tuyên truyền về chủ trương chính sách của Đảng, nhà nước, góp phần nâng cao nhận thức các tầng lớp nhân dân, ý thức, nghĩa vụ trách nhiệm của công dân; để mọi người, mọi tổ chức tự nguyên, tự giác tham gia cùng nhà nước trong việc chăm sóc người có công. Hai là, củng cố ban chỉ đạo vận động Quỹ Đền ơn đáp nghĩa các cấp từ tỉnh đến xã, thị trấn để chỉ đạo có kết quả cuộc vận động các nguồn lực hỗ trợ chăm sóc người có công. Các cấp các ngành, đoàn thể, theo chức năng của mình có trách nhiệm tham gia vận động, đóng góp. Hình thành chương trình hành động cụ thể; có cơ chế, chính sách huy động, nội dung, mục tiêu huy động, không vận động một cách chung chung; tăng cường công tác quản lý sử dụng nguồn vật chất hỗ trợ từ các tổ chức, cộng đồng phục vụ có hiệu quả cho nâng cao đời sống của người có công, chống thất thoát lãng phí, chi dùng sai mục đích [4, tr.6]. Ba là, thường xuyên, định kỳ tổ chức sơ kết, phát huy những đơn vị cá nhân có thành tích trong công tác vận động, đóng góp công sức, vật chất thực hiện chương trình chăm sóc người có công. 3.2.5. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, trách nhiệm của cộng đồng, xã hội trong việc hoạch định chiến lược, tổ chức thực hiện các chính sách đối với người có công gắn với việc xây dựng, thực hiện các chương trình phát triển kinh tế, văn hoá, an sinh xã hội Đặc điểm có tính quy luật của mối quan hệ giữa chính sách kinh tế và chính sách đối với người có công là sự thống nhất biện chứng, sự phụ thuộc và tương tác lẫn nhau giữa hai loại chính sách này và chúng có mối quan hệ tác động tích cực đến việc nâng cao đời sống kinh tế người có công. Việc nâng cao đời sống của dân cư nói chung và đối tượng có công nói riêng và sự đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của đời sống xã hội là mục tiêu cuối cùng của sự phát triển kinh tế. Nói một cách khác phát triển kinh tế là cơ sở, là điều kiện vật chất để thực hiện tốt chính sách đối với người có công. Trong những năm gần đây, nhờ những chính sách cởi mở, kinh tế-xã hội đạt được những thành tựu quan trọng nhưng đến nay ...Quảng Nam vẫn là một tỉnh nghèo, thu nhập bình quân đầu người thấp (375 USD/năm) mới bằng 60% mức trung bình cả nước. Kinh tế phát triển chưa tương xứng với tiềm năng lợi thế của mình. Công nghiệp, dịch vụ còn nhỏ bé, kinh tế biển chưa phát triển. Cơ sở hạ tầng còn nhiều hạn chế; thu ngân sách trên địa bàn còn thấp, thu hút vốn dầu tư nhất là đầu tư nước ngoài chưa nhiều. Đời sống của một bộ phận nhân dân, nhất là miền núi, vùng cát còn nhiều khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo còn cao. Chất lượng giáo dục, chăm sóc sức khoẻ nhân dân còn hạn chế... [ 5, tr.11]. Để tiếp tục phát triển kinh tế xã hội trong những năm tới, Quảng Nam phải tận dụng cho được thời cơ và vận hội mới, nỗ lực phấn đấu cao để phát triển nhanh hơn, mạnh hơn, toàn diện và vững chắc hơn, tạo được sự phát triển có tính đột phá, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá để đạt trình độ phát triển trung bình của cả nước vào những năm tiếp theo, tiến bước đồng hành với sự phát triển toàn vùng và cả nước trong giai đoạn mới. Để đạt được mục tiêu đó, Quảng Nam cần chú trọng một số vấn đề chủ yếu sau: Một là, tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của nhà nước đối với công tác ưu đãi xã hội đối với người có công, thực hiện phương châm Đảng lãnh đạo tuyệt đối và toàn diện, đối với công tác thương binh liệt sỹ- người có công, trong nhiệm kỳ, trong phương hướng nhiệm vụ của mình các cấp đảng phải xây dựng nghị quyết, có chương trình lãnh đạo cụ thể, định hướng để chính quyền, mặt trận và các đoàn thể triển khai thực hiện. Nhà nước với vai trò chủ đạo của mình tăng cường công tác quản lý, để tăng cường công tác quản lý nhà nước phải nhanh chóng hoàn thiện và ban hành đầy đủ các quy định luật pháp liên quan đến người có công một cách đồng bộ. Chỉ khi đó mới thực hiện đầy đủ sự công bằng xã hội, tránh hiện tượng lạm dụng, bỏ sót đối tượng, thực hiện sai chính sách của nhà nước đối với người có công. Các cấp chính quyền, một mặt, thực hiện đầy đủ kịp thời các chính sách, chế độ chính sách ưu đãi của nhà nước, mặt khác, từ tình hình cụ thể của địa phương, nghiên cứu hoàn chỉnh các thiết chế, quy định của mình trên các lĩnh vực việc làm, cải thiện nhà ở, giáo dục đào tạo, thực hiện ưu đãi xã hội đối với người có công. Xây dựng và củng cố bộ máy tổ chức, cán bộ làm công tác chính sách người có công, vừa có tâm, vừa có tầm, trong hoạt động ưu đãi. Đảm bảo chính sách, đặc biệt là chính sách đối với đội ngũ cán bộ làm công tác chính sách ở cơ sở như định biên, bảo hiểm xã hội, trợ cấp, thù lao để họ yên tâm công tác, nêu cao tinh thần trách nhiệm thực thi công vụ. Hai là, nêu cao trách nhiệm cộng đồng trong tổ chức thực hiện chính sách đối với người có công. Thực hiện chính sách, nâng cao đời sống người có công, trước hết, là trách nhiệm của Đảng và Nhà nước. Nhưng không chỉ là của Đảng và Nhà nước mà đó còn là trách nhiệm của cộng đồng xã hội. Cộng đồng dân cư với tư cách là người thừa hưởng thành quả của những thế hệ đã hy sinh, cống hiến để có thành quả hôm nay, phải có trách nhiệm và nghĩa vụ chăm lo đến người có công, đó là truyền thống đạo lý, là công bằng xã hội. Để cộng đồng xã hội tham gia có hiệu quả vào các chương trình chăm sóc người có công, các cấp uỷ đảng, chính quyền phải làm tốt công tác tuyên truyền chủ trương chính sách của nhà nước về chính sách đối với người có công, mà cụ thể là Pháp lệnh ưu đãi người có công số 26/2005/PLUBTVQH11, ngày 26/5/2005 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khoá 11, Nghị định số 54/2006/NĐ-CP, ngày 26/5/2006 của Chính phủ, giáo dục truyền thống đấu tranh cách mạng, nâng cao nhận thức của cộng đồng dân cư, tiếp tục duy trì và phát huy phong trào chăm sóc người có công cách mạng “Đền ơn đáp nghĩa”, huy động có hiệu quả sự đóng góp của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế và nhân dân; hình thành các quỹ hỗ trợ việc làm, quỹ hỗ trợ cải thiện nhà ở, hỗ trợ những trường hợp khó khăn, ốm đau bệnh tật, rũi ro trong cuộc sống. Bên cạnh việc nêu cao trách nhiệm cộng đồng trong việc hỗ trợ vật chất, tinh thần đối với người có công, động viên phát huy trách nhiệm của cộng đồng trong việc giám sát thực hiện chính sách chế độ đối với người có công, đảm bảo công bằng, đúng pháp luật. Ba là, thực hiện chính sách ưu đãi người có công gắn với việc xây dựng, thực hiện các chương trình phát triển kinh tế, văn hoá, an sinh xã hội. Tăng trưởng kinh tế tạo ra sự chênh lệch mức sống trong dân cư, tăng trưởng kinh tế càng cao thì mức chênh lệch càng lớn, nhất là đối với người có công, những đối tượng yếu thế thì sự chênh lệch đó càng không tránh khỏi. Nước ta nói chung, tỉnh Quảng Nam nói riêng đang trên đà hội nhập kinh tế quốc tế, nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân ngày càng tăng. Điều này cũng đã gây ra sức ép rất lớn cho sự phát triển và tăng trưởng kinh tế. Mặt khác, trong lĩnh vực văn hoá, không phải lúc nào phát triển văn hoá cũng có tỷ lệ thuận với phát triển kinh tế. Hiện nay, tuy ở nước ta nói chung, tỉnh Quảng Nam nói riêng, kinh tế tuy đã có những bước phát triển nhất định nhưng văn hóa còn tồn tại nhiều vấn đề nổi cộm. Vì vậy, vấn đề đặt ra cho những năm tới là phải làm cho tăng trưởng kinh tế luôn luôn gắn với phát triển văn hoá theo hướng tiến bộ. Kết hợp tăng trưởng kinh tế với thực hiện công bằng xã hội, thường xuyên giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội; thu nhập của xã hội trong những năm tới sẽ đa dạng và phức tạp, giải quyết vấn đề công bằng xã hội sẽ khó khăn hơn trước. Có rất nhiều giải pháp để giải quyết công bằng xã hội nhưng giải pháp cơ bản nhất đối với Quảng Nam trong thời gian tới là: + Quy hoạch, xây dựng và phát triển các khu, cụm công nghiệp phải được xem là nhiệm vụ hàng đầu. Đẩy nhanh tốc độ triển khai hoạt động các khu công nghiệp, cụm công nghiệp đã cơ bản hoàn thành xây dựng cơ sở hạ tầng, trước hết, tập trung đẩy mạnh tốc độ phát triển khu kinh tế mở Chu Lai để thu hút mạnh mẽ các nguồn lực trong nước trở thành hạt nhân phát triển kinh tế của tỉnh và của cả vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, cũng là nơi đi đầu thử nghiệm thực hiện những cơ chế chính sách kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa mở cửa, hội nhập kinh tế khu vực và thế giới; + Thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn, chuyển đổi mạnh cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá. Phát huy lợi thế có bờ biển dài và đẹp, có rừng nguyên sinh, phát triển du lịch dịch vụ. Đặc biệt quan tâm phát triển kinh tế xã hội vùng trung du, miền núi, đủ cơ sở hạ tầng thiết yếu như: điện, đường, trường, trạm y tế. + Giải quyết tốt các vấn đề xã hội, phát triển văn hoá giáo dục, xây dựng nền tảng vững chắc cho sự phát triển bền vững; nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo nghề, chuẩn bị nguồn nhân lực có chất lượng cao cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của tỉnh, giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo, quan tâm chăm sóc chu đáo đối với gia đình chính sách có công. Mặt khác, Đảng bộ, chính quyền tỉnh Quảng Nam cũng phải rà soát lại các chủ trương, các đề án, chương trình phát triển kinh tế văn hoá, xã hội của mình, một mặt, để điều chỉnh đảm bảo đúng pháp luật, mặt khác phải xuất phát từ điều kiện thực tế của địa phương có những chính sách mạnh mẽ, ưu đãi hơn nữa để nâng cao đời sống người có công, nhất là người có công ở vùng căn cứ cách mạng, vùng núi, người có công là người dân tộc thiểu số, những người có công đã lớn tuổi, thương binh, bệnh binh... trên các lĩnh vực cải thiện nhà ở, việc làm, chăm sóc y tế... đảm bảo cho người có công không những được đãi ngộ về vật chất, mà còn được hưởng thụ văn hoá, tinh thần, góp phần nâng cao đời sống người có công. Kết luận Nâng cao đời sống kinh tế người có công là một trong những nội dung cơ bản, là mục tiêu chủ yếu của việc thực hiện chính sách ưu đãi của Đảng, Nhà nước, nhằm thể hiện sự ghi nhận công lao, sự hy sinh cống hiến của người có công đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ và xây dựng đất nước; thể hiện sự tri ân, đáp nghĩa của cộng đồng xã hội đối với họ. Đây không những là vấn đề trách nhiệm, nghĩa vụ mà còn là vấn đề công bằng xã hội. Người có công cách mạng là những người đã hy sinh tuổi thanh xuân, sức lực, một phần thân thể và cả tính mạng của họ vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ nền độc lập tự do của đất nước, để đất nước độc lập nở hoa thơm, kết trái ngọt, cho thế hệ hôm nay và mai sau. Ngày nay họ trở thành những người gặp khó khăn trên mọi lĩnh vực từ hoạt động đời sống vật chất đến hưởng thụ văn hoá tinh thần. Vì vậy, Đảng và Nhà nước, nhân dân và toàn xã hội phải có trách nhiệm tạo những điều kiện tốt nhất để người có công nâng cao đời sống, đó là thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Máu đào của các liệt sỹ đã chuẩn bị cho đát nước ta nở hoa độc lập, kết quả tự do”, “Tổ quốc và đồng bào phải biết ơn, phải giúp đỡ những người con anh dũng ấy...” [1, tr.18]. Thực hiện tốt các chính sách đối với người có công qua đó cải thiện đời sống vật chất và tinh thần đối với họ không chỉ đơn thuần là vấn đề mang ý nghĩa kinh tế mà còn là vấn đề chính trị sâu sắc ảnh hướng to lớn đến anh ninh chính trị của đất nước, góp phần giáo dục truyền thống đấu tranh cách mạng của các thế hệ cha anh đi trước đối với thế hệ hôm nay và mai sau, phát huy lòng tự hào dân tộc, tinh thần tự tôn dân tộc, ra sức rèn luyện trau dồi trí tuệ, tỏ rõ bản chất con người Việt Nam trong sự nghiệp xoá đói giảm nghèo, thu hẹp khoảng cách tụt hậu xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh công bằng dân chủ, văn minh. Tuy nhiên, đây không chỉ đơn thuần là vấn đề kinh tế, muốn nâng cao đời sống người có công phải thực hiện tổng hợp nhiều giải pháp mang tính đồng bộ, kết hợp tăng trưởng kinh tế với nâng cao chất lượng hoạt động, hưởng thụ văn hóa và giải quyết tốt nhiều vấn đề xã hội và phải được xã hội hoá sâu rộng. Đối với tỉnh Quảng Nam là một tỉnh có truyền thống cách mạng, đối tượng người có công nhiều nhất nước, là một tỉnh tuy bước đầu có những chuyển biến sau 10 năm trở thành đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương, nhưng còn là một tỉnh nghèo, kinh tế kém phát triển. Để nâng cao đời sống người có công, Đảng bộ và chính quyền tỉnh Quảng Nam, trước hết, phải tập trung phát triển kinh tế- xã hội, tạo điều kiện nâng cao mức sống nhân dân nói chung, người có công nói riêng, chỉ khi kinh tế phát triển thì mới có điều kiện chăm lo tốt hơn đời sống người có công. Cùng với thực hiện các chính sách ưu đãi của nhà nước, tỉnh cần nghiên cứu ban hành các cơ chế chính sách hỗ trợ để người có công có cơ hội tham gia sản xuất, có thu nhập, ổn định cuộc sống trong thời gian trước mắt và trong thời gian tới. Đó là thể hiện “Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ người trồng cây”, truyền thống tốt đẹp ngàn đời của dân tộc Việt Nam ./. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Bộ Lao động- Thương binh & Xã hội (2002), 55 năm Sự nghiệp Hiếu nghĩa- Bác ái, Nxb Lao động-Xã hội, Hà Nội. 2. Chính phủ (2005) Nghị định số 147/2005/NĐ-CP, ngày 30/11/2005, quy định về mức trợ cấp, phụ cấp ưu đãi đối với người có công cách mạng. 3. Chính phủ (2006), Nghị định số 54/2006/NĐ-CP, ngày 28/6/2006 hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh ưu đãi người có công. 4. Chính phủ (2006), Nghị định số 45/2006/NĐ-CP ngày 28/4/2006, ban hành điều lệ quản lý và sử dụng Quỹ Đền ơn đáp nghĩa. 5. Đảng bộ tỉnh Quảng Nam (2005), Văn kiện Đại hội tỉnh Đảng bộ Quảng Nam lần thứ XIX. 6. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 7. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII (lưu hành nội bộ), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 8. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 11. V.I Lênin (1976), Toàn tập, Tập 33, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 12. C.Mác - Ph.Ăngghen (1961), Toàn tập, Tp 8, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 13. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 19, Nxb Sự thật, Hà Nội. 14. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 20, Nxb Sự thật, Hà Nội. 15. Hồ Chí Minh (1995) Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 16. Hồ Chí Minh (1960), Tuyển tập, Nxb Sự thật, Hà Nội 17. Nguyên Ngọc (chủ biên) (2004), Tìm hiểu con người Quảng Nam. 18. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Pháp lệnh Ưu đãi người có công cách mạng số 26/2005/PL- UBTVQH1, ngày 29/6/2005. 19. Sở Lao động- Thương binh và Xã hội Quảng Nam (2006), Báo cáo kết quả điều tra hộ nghèo tỉnh Quảng Nam 2005-2006. 20. Sở Lao động- Thương binh và Xã hội Quảng Nam (2006), Báo cáo tổng kết 10 năm vận động quỹ đền ơn đáp nghĩa tỉnh Quảng Nam 1997-2006. 21. Sở Lao động- Thương binh và Xã hội Quảng Nam (2006), Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Pháp lệnh Ưu đãi người có công cách mạng ở tỉnh Quảng Nam 1997-2006. 22. Sở Lao động- Thương binh & Xã hội tỉnh Quảng Nam (2006), Báo cáo tổng kết công tác xác nhận người có công (đến 30/6/2006). 23. Sở Lao động-Thương binh & Xã hội tỉnh Quảng Nam (2006), Điều tra lao động- việc làm tỉnh Quảng Nam 2005-2006. 24. Sở Lao động- Thương binh & Xã hội Quảng Nam (2006), Thông tin Lao động- Thương binh & Xã hội tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2001-2005. 25. Lê Hữu Tầng (1993), "Tư tưởng của Các Mác về Công bằng và bình đẳng trong Chủ nghĩa xã hội", Tạp chí triết học, (2) tr.27, 31. 26. Lê Hữu Tầng (1997), “Về động lực của sự phát triển kinh tế xã hội”, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 27. Bùi Đình Thanh (1996), “Công bằng xã hội và sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá”, Tạp chí Cộng sản, (18) tr.8, 12. 28. Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân Uỷ ban mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Quảng Nam (2003), Quảng Nam anh hùng thời đại Hồ Chí Minh, (Kỷ yếu). 29. Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Nam (2005), Chương trình Quốc gia giải quyết việc làm- Xoá đói giảm nghèo tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2005- 2010. 30. Viện Khoa học xã hội và các vấn đề xã hội (1995), Điều tra lao động xã hội vùng Bắc- trung Bộ. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLA2586.doc
Tài liệu liên quan