Nâng cao hiệu quả hoạt động bảo đảm tiền vay tại Sở Giao dịch 1 - Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) Việt Nam

Lời mở đầu Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất trong nền kinh tế hoạt động trên lĩnh vực kinh doanh tiền tệ dưới hình thức huy động vốn, cho vay, đầu tư và cung cấp các dịch vụ khác. Ngân hàng thương mại có vị trí, vai trò quan trọng như bà đỡ và huyết mạch của nền kinh tế, là nơi cung cấp nguồn vốn cho đầu tư, sản xuất cho mọi thành phần kinh tế. Tuy nhiên, hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại luôn phải đối mặt với nhiều rủi ro, đặc biệt là rủi ro tín dụng vì

doc65 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1315 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả hoạt động bảo đảm tiền vay tại Sở Giao dịch 1 - Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hoạt động tín dụng của ngân hàng là hoạt động quan trọng nhất, nó mang lại lợi nhuận lớn nhất cho ngân hàng song cũng hàm chứa rủi ro cao nhất. Do đó, để hạn chế rủi ro tín dụng có thể xảy ra và nâng cao chất lượng của hoạt động tín dụng thì các ngân hàng thương mại rất coi trọng vấn đề về bảo đảm tiền vay. Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động bảo đảm tiền vay nên trong những năm qua đã có khá nhiều quy chế về bảo đảm an toàn trong cho vay của ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, do những biến đổi về kinh tế và chưa có sự đồng bộ về mặt pháp lý nên đã có những tác động lớn đến tình hình an toàn trong cho vay. Có nhiều khoản nợ khó đòi không thu hồi được đã tác động tiêu cực đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Vì vậy để các ngân hàng thu được lợi nhuận và bảo đảm an toàn trong cho vay thì ngân hàng cần phải có các giải pháp để nâng cao hiệu quả của hoạt động bảo đảm tiền vay. Từ những kiến thức thu thập được trong thời gian học tập và nghiên cứu tại trường đại học cũng như những trải nghiệm thực tế bước đầu trong thời gian thực tập tại Sở giao dịch I Ngân hàng Công thương Việt Nam, em nhận thấy bảo đảm tiền vay là một trong các biện pháp nhằm bảo đảm an toàn trong cho vay. Với tầm quan trọng như vậy nhưng trên thực tế thì hoạt động bảo đảm tiền vay tại Sở giao dịch I vẫn chưa thực sự đạt được hiệu quả như mong muốn. Vì thế em đã chọn đề tài: “Nâng cao hiệu quả của hoạt động bảo đảm tiền vay tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Công thương Việt Nam” làm chuyên đề tốt nghiệp của mình. Kết cấu của chuyên đề gồm những nội dung chính sau: Chương 1: Những vấn đề cơ bản về hiệu quả hoạt động bảo đảm tiền vay của ngân hàng thương mại. Chương 2: Thực trạng hiệu quả hoạt động bảo đảm tiền vay tại Sở giao dịch I Ngân hàng Công thương Việt Nam. Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động bảo đảm tiền vay. Em xin chân thành cảm ơn cô giáo hướng dẫn TS Phan Thị Thu Hà và các cán bộ tín dụng của phòng khách hàng số 2 Sở giao dịch I đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này. Chương 1: Những vấn đề cơ bản về hiệu quả hoạt động bảo đảm tiền vay của Ngân hàng thương mại. 1. Hoạt động bảo đảm tiền vay của ngân hàng thương mại 1.1. Khái niệm về bảo đảm tiền vay Bảo đảm tiền vay là việc ngân hàng áp dụng các biện pháp nhằm phòng ngừa rủi ro, tạo cơ sở kinh tế và pháp lý để thu hồi các khoản nợ đã cho khách hàng vay. Bảo đảm tiền vay là biện pháp phòng ngừa rủi ro, tạo cơ sở pháp lý cho tổ chức tín dụng xử lý tài sản bảo đảm thu hồi nợ. Tài sản bảo đảm tiền vay là tài sản của khách hàng vay, tài sản hình thành từ vốn vay và tài sản của bên bảo lãnh dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với ngân hàng cho vay. 1.2. Sự cần thiết của hoạt động bảo đảm tiền vay Ngân hàng thương mại, cũng như nhiều tổ chức kinh doanh khác, có mục tiêu kinh doanh là tối đa hoá lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu. Phần lớn nhân viên ngân hàng trực tiếp làm việc với tiền. Với tổng tài sản lên đến hàng trăm tỷ đô la Mỹ (các ngân hàng lớn trên thế giới) hàng chục nghìn tỷ VNĐ (các ngân hàng lớn Việt Nam), ngân hàng được xếp vào loại hình doanh nghiệp có tổng tài sản lớn. Trong khi đó vốn chủ sở hữu thường rất nhỏ trong tổng tài sản, điều này phản ánh bản chất hoạt động của ngân hàng là sử dụng tiền huy động của doanh nghiệp và dân cư. Nhiều khoản cho vay thời hạn hàng chục năm, có thể vượt cả quãng thời gian họ làm việc cho ngân hàng. Điều này cũng góp phần khuyến khích họ chấp nhận mạo hiểm. Như vậy, xu hướng mạo hiểm là rất mạnh trong hoạt động của ngân hàng. Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại luôn đứng trước rất nhiều nguy cơ mất an toàn và rất nhiều các loại rủi ro. Mất an toàn cho vay xảy ra thường là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến rủi ro mất khả năng thanh toán của ngân hàng, đây cũng chính là nguyên nhân dẫn đến phá sản của ngân hàng. Ngân hàng là một ngành kinh tế nhạy cảm, hoạt động của ngân hàng với bản chất của nó, chịu ảnh hưởng của rất nhiều rủi ro có thể dẫn đến mất vốn. Như vậy, rủi ro tín dụng là không thể tránh khỏi, là khách quan. Khi rủi ro tín dụng xảy ra ngân hàng sẽ đứng trước nguy cơ mất khả năng thanh toán với việc hàng loạt người gửi tiền đến rút tiền ra khỏi ngân hàng, buộc ngân hàng phải đóng cửa hay tuyên bố phá sản. Hậu quả từ sự đổ vỡ của ngân hàng đến nền kinh tế là rất nặng nề nên an toàn trong cho vay là vấn đề được ngân hàng thương mại rất quan tâm và coi trọng. Vì vậy, để đảm bảo an toàn trong cho vay, các ngân hàng cho vay thường yêu cầu khách hàng của mình thực hiện các biện pháp bảo đảm tiền vay. Mục đích của việc thực hiện các biện pháp đó là nhằm nâng cao trách nhiệm thực hiện cam kết trả nợ của bên vay; phòng ngừa rủi ro khi phương án trả nợ dự kiến của bên vay không thực hiện được, hoặc xảy ra các rủi ro không lường trước; phòng ngừa gian lận. Với tầm quan trọng của vấn đề an toàn trong ngân hàng như vậy thì đảm bảo an toàn trong cho vay không chỉ là trách nhiệm riêng của Ngân hàng thương mại mà còn là trách nhiệm của Ngân hàng Trung ương và nhiều cơ quan quản lý khác. Để thực hiện tốt công tác an toàn trong ngân hàng thì các ngân hàng cần phải thiết lập công tác bảo đảm tiền vay vì bảo đảm tiền vay là một trong những biện pháp để phòng ngừa rủi ro của các tổ chức tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng đưa ra các hình thức bảo đảm thích hợp áp dụng cho từng đối tượng khách hàng và biện pháp xử lý các bảo đảm đó nhằm hạn chế tổn thất khi rủi ro tín dụng xảy ra. 1.3. Nguyên tắc bảo đảm tiền vay Khi cho vay tất cả các ngân hàng phải thực hiện các quy tắc sau về bảo đảm tiền vay và đây là những nguyên tắc chung nhất về bảo đảm tiền vay: - Ngân hàng cho vay có quyền lựa chọn, quyết định việc cho vay có bảo đảm bằng tài sản, cho vay không có bảo đảm bằng tài sản và chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Trường hợp ngân hàng cho vay cho vay không có bảo đảm bằng tài sản theo chỉ định của Chính phủ, thì tổn thất do nguyên nhân khách quan của các khoản cho vay này được Chính phủ xử lý. - Khách hàng vay được ngân hàng cho vay lựa chọn cho vay không có bảo đảm bằng tài sản, nếu trong quá trình sử dụng vốn vay, ngân hàng cho vay phát hiện khách hàng vay vi phạm cam kết trong hợp đồng tín dụng, thì ngân hàng cho vay có quyền áp dụng các biện pháp bảo đảm bằng tài sản hoặc thu hồi nợ trước hạn. - Trường hợp khách hàng vay hoặc bên bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ đã cam kết, ngân hàng có quyền xử lý tài sản bảo đảm tiền vay để thu hồi nợ. - Sau khi xử lý tài sản bảo đảm tiền vay, nếu khách hàng vay hoặc bên bảo lãnh vẫn chưa thực hiện đúng hoặc thực hiện chưa đủ nghĩa vụ trả nợ, khách hàng vay hoặc bên bảo lãnh có trách nhiệm tiếp tục thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ đã cam kết. - Phần chênh lệch thừa sau xử lý vẫn phải được giữ để bảo đảm cho nghĩa vụ tín dụng khác còn đang tồn tại ở ngân hàng cho vay. 1.4. Hình thức bảo đảm tiền vay 1.4.1. Bảo đảm tiền vay bằng uy tín của khách hàng vay 1.4.1.1. Tổ chức tín dụng chủ động lựa chọn khách hàng vay để cho vay không có bảo đảm bằng tài sản. Ngân hàng cho vay được lựa chọn khách hàng vay để cho vay không có tài sản bảo đảm khi cho vay vốn ngắn hạn, trung hạn, dài hạn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển hoặc phương án sản xuất kinh doanh, dịch vụ và đời sống đối với khách hàng vay theo quy định. Điều kiện đối với khách hàng vay có bảo đảm bằng uy tín Khách hàng vay phải có đủ các điều kiện: Phải có tín nhiệm với ngân hàng cho vay trong việc sử dụng vốn vay và có nghĩa vụ trả nợ đầy đủ, đúng hạn cả gốc và lãi; dự án mà khách hàng định đầu tư sản xuất kinh doanh phải có khả năng hoàn trả, có tính khả thi phù hợp với đời sống xã hội, với quy định của pháp luật. Trong trường hợp vay để phục vụ nhu cầu thiết yếu của đời sống thì khách hàng vay phải có phương án trả nợ khả thi; Khách hàng phải có khả năng tài chính và các nguồn thu hợp pháp có khả năng thu được trong thời hạn vay vốn để thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho tổ chức tín dụng; Khách hàng vay phải cam kết thực hiện đúng các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản theo yêu cầu của ngân hàng cho vay. Trong trường hợp khách hàng vay là doanh nghiệp, ngoài các điều kiện đã quy định như trên thì còn cần phải có kết quả sản xuất kinh doanh có lãi trong 2 năm liền kề với thời điểm xem xét cho vay. Trường hợp khách hàng vay đã có đủ điều kiện để vay không có bảo đảm bằng tài sản, ngân hàng cho vay và khách hàng vay có thể thoả thuận bảo đảm bằng tài sản cầm cố, thế chấp của khách hàng vay, bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba hoặc bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay đối với một phần khoản vay đó. 1.4.1.2. Tổ chức tín dụng cho vay theo đảm bảo bằng chỉ thị của Chính phủ Tổ chức tín dụng cho vay theo hình thức đảm bảo bằng chỉ thị của Chính phủ đối với khách hàng vay để thực hiện các dự án đầu tư thuộc các chương trình kinh tế trọng điểm, đặc biệt của Nhà nước, các chương trình kinh tế - xã hội và đối với một số khách hàng thuộc đối tượng được hưởng các chính sách tín dụng ưu đãi về điều kiện vay vốn theo quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ. Trách nhiệm của khách hàng vay theo hình thức bảo đảm bằng chỉ định của Chính phủ là: phải thực hiện đúng cam kết trong hợp đồng tín dụng, thực hiện đúng các quy định của Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ khi sử dụng vốn vay đối với những khoản vay theo chỉ định; phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những tổn thất trong việc sử dụng vốn vay do các nguyên nhân chủ quan do mình gây ra. Trách nhiệm của các tổ chức tín dụng được cho vay theo hình thức bảo đảm bằng chỉ định của Chính phủ là: thực hiện đúng các quy định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đối với khoản cho vay được chỉ định và tuân thủ các quy định của pháp luật trong quá trình xem xét cho vay, kiểm tra sử dụng vốn vay và thu hồi nợ; Phải tổ chức theo dõi riêng các khoản cho vay theo chỉ định và báo cáo tình hình sử dụng vốn vay, khả năng thu hồi nợ, kiến nghị xử lý những tổn thất trong các trường hợp không thu hồi được nợ. 1.4.1.3. Tổ chức tín dụng cho cá nhân, hộ gia đình nghèo vay vốn có bảo lãnh bằng tín chấp của tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội. Tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội tại cơ sở của: Hội Nông dân Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Cựu chiến binh Việt Nam được thực hiện bảo lãnh bằng uy tín của mình cho cá nhân, hộ gia đình nghèo vay vốn tại các tổ chức tín dụng. Người được bảo lãnh là các cá nhân, hộ gia đình nghèo là thành viên của một trong các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội như ở trên khi họ vay một khoản tiền nhỏ tại tổ chức tín dụng để sản xuất kinh doanh, làm dịch vụ. Mức vay tối đa của mỗi cá nhân, hộ gia đình nghèo được tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội bảo lãnh bằng uy tín của mình do Chủ tịch Hội đồng quản trị tổ chức tín dụng cho vay quy định trong từng thời kỳ. 1.4.2. Đảm bảo bằng thế chấp tài sản của khách hàng vay Đảm bảo bằng thế chấp tài sản của khách hàng vay là biện pháp bảo đảm tiền vay của ngân hàng mà theo đó khách hàng vay phải chuyển các giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu (hoặc quyền sử dụng) các tài sản đảm bảo sang ngân hàng nắm giữ trong thời gian cam kết. Đảm bảo bằng thế chấp rất phổ biến, đặc biệt đối với doanh nghiệp và người tiêu dùng. Do giá trị của tài sản loại này thường lớn, vì vậy doanh nghiệp có thể vay ngân hàng với quy mô lớn. Đảm bảo bằng tài sản thế chấp cho phép người vay vốn sử dụng tài sản đảm bảo phục vụ cho hoạt động kinh doanh. Đây chính là ưu điểm của hình thức bảo đảm bằng thế chấp. Tuy nhiên, quá trình sử dụng sẽ là biến dạng tài sản. Mặt khác, do khả năng kiểm soát tài sản đảm bảo của ngân hàng bị hạn chế nên khách hàng có thể lợi dụng phân tán, làm giảm giá trị của tài sản, gây thiệt hại cho ngân hàng. 1.4.3. Đảm bảo bằng cầm cố tài sản của khách hàng vay Đảm bảo bằng cầm cố tài sản của khách hàng vay là hình thức mà theo đó khách hàng vay vốn phải chuyển quyền kiểm soát tài sản bảo đảm sang cho ngân hàng trong thời gian thực hiện hợp đồng. Cầm cố thích hợp với những loại tài sản mà ngân hàng có thể kiểm soát và bảo quản tương đối chắc chắn. Đồng thời cũng thoả mãn việc ngân hàng nắm giữ tài sản không ảnh hưởng đến quá trình hoạt động của khách hàng vay. Ngân hàng thường có yêu cầu cầm cố khi xét thấy việc khách hàng vay nắm giữ tài sản đảm bảo là không an toàn cho ngân hàng. Các tài sản mà ngân hàng cầm cố thường là các tài sản gọn nhẹ, dễ quản lý, không chịu ảnh hưởng của các yếu tố môi trường tự nhiên. Đồng thời nó cũng là những tài sản dễ bán, dễ chuyển nhượng và khó kiểm soát được việc bán, chuyển nhượng hay không. Vì vậy ngân hàng thường yêu cầu khách hàng vay cầm cố tài sản khi ngân hàng có sự không chắc chắn về việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ của khách hàng cho ngân hàng. Các tài sản có thể cầm cố được thường phong phú hơn hơn các tài sản đem thế chấp và thường an toàn hơn vì ngân hàng được nắm giữ tài sản của khách hàng và những tài sản đó lại có khả năng chuyển đổi thành tiền cao. 1.4.4. Đảm bảo bằng bảo lãnh của bên thứ ba Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba (gọi là bên bảo lãnh) là việc bên bảo lãnh cam kết với ngân hàng cho vay về việc sử dụng tài sản thuộc quyền sở hữu của mình để thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho khách hàng vay, nếu đến hạn trả nợ mà khách hàng vay không thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ. Bên nhận bảo lãnh là người chủ nợ, người hưởng thụ bảo lãnh. Trong quan hệ tín dụng đó là các ngân hàng cho vay. Bên được bảo lãnh là khách hàng vay (con nợ), người có nghĩa vụ phải thanh toán nợ cho ngân hàng cho vay. Biện pháp bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba thường được các ngân hàng áp dụng nhằm mục tiêu an toàn ngân hàng để hạn chế rủi ro, tổn thất xảy ra đối với hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, không phải ngân hàng áp dụng hình thức này cho hầu hết các khách hàng vay mà tuỳ theo năng lực của bản thân khách hàng đó để sử dụng hình thức bảo đảm phù hợp. Ngân hàng có thể sử dụng hình thức cho vay không có bảo đảm bằng tài sản hay thực ra là có bảo đảm nhưng bằng chính bản thân khách hàng, hình thức này còn gọi là bảo đảm đối nhân. Ngân hàng không phải lúc nào cũng yêu cầu khách hàng vay phải có tài sản bảo đảm nhất là đối với những khách hàng có uy tín, khách hàng truyền thống. Trong nhiều trường hợp ngân hàng vẫn cho khách hàng vay dựa trên chính uy tín của khách hàng. 1.5. Định giá giá tài sản bảo đảm Việc định giá tài sản bảo đảm là do tổ thẩm định của ngân hàng cho vay hoặc thuê cơ quan chức năng chuyên môn thực hiện. Ngân hàng Công thương Việt Nam có những quy định cụ thể về vấn đề này. Tài sản bảo đảm tiền vay phải được xác định giá trị tại thời điểm ký kết hợp đồng bảo đảm, ký kết văn bản thoả thuận tu chỉnh/bổ sung hợp đồng bảo đảm (trong trường hợp thoả thuận thay đổi nghĩa vụ được bảo đảm); việc xác định giá trị tài sản tại thời điểm này chỉ để làm cơ sở xác định mức vay và không áp dụng khi xử lý tài sản để thu hồi nợ. Việc định giá phải căn cứ vào các cơ sở pháp lý hoặc cơ sở thực tế, đảm bảo tính khách quan, minh bạch. Cán bộ thẩm định không được định giá tài sản bảo đảm trái với quy định của pháp luật và của Ngân hàng Công thương Việt Nam. Giá trị tài sản bảo đảm được xác định bao gồm cả hoa lợi, lợi tức và các quyền phát sinh từ tài sản đó. Trong trường hợp tài sản thế chấp là toàn bộ bất động sản có vật phụ thì giá trị của vật phụ cũng thuộc giá trị tài sản thế chấp; nếu chỉ thế chấp một phần bất động sản có vật phụ thì giá trị vật phụ chỉ thuộc giá trị tài sản thế chấp khi các bên có thoả thuận. Trong trường hợp có thoả thuận với khách hàng về việc thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất thì giá trị tài sản bảo đảm bao gồm giá trị quyền sử dụng đất cộng giá trị tài sản gắn liền với đất. Khi định giá tài sản bảo đảm, cán bộ thẩm định phải lập biên bản định giá tài sản bảo đảm có chữ ký của tất cả các thành viên. 1.6. Quản lý tài sản bảo đảm Quản lý tài sản bảo đảm là quá trình theo dõi, kiểm tra, đánh giá nhằm bảo đảm tài sản vẫn đang trong tình trạng bình thường hoặc kịp thời phát hiện các sự cố liên quan làm giảm giá trị của tài sản bảo đảm so với dự kiến đã nêu trong hợp đồng bảo đảm. Tuỳ theo tính chất và đặc điểm của tài sản bảo đảm mà cán bộ tín dụng cần chủ động đề xuất và thực hiện kiểm tra tài sản bảo đảm ít nhất 6 tháng/lần theo các nội dung: - Đánh giá tình trạng tài sản hiện tại; Những thay đổi về số lượng và chất lượng so với hiện trạng khi nhận tài sản bảo đảm. - Tình hình sử dụng và bảo quản tài sản bảo đảm. - Các trường hợp vi phạm cam kết của khách hàng vay theo quy định tại hợp đồng bảo đảm. 1.7. Xử lý tài sản bảo đảm Trong trường hợp bên bảo đảm không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ thì tài sản dùng để bảo đảm nghĩa vụ trả nợ tại ngân hàng được xử lý để thu hồi nợ. Tài sản bảo đảm tiền vay được xử lý theo phương thức đã thoả thuận trong hợp đồng bảo đảm tiền vay giữa ngân hàng và bên bảo đảm. Các ngân hàng cho vay có quyền chuyển giao quyền thu hồi nợ hoặc uỷ quyền cho bên thứ ba xử lý tài sản bảo đảm tiền vay. Bên thứ ba phải là tổ chức có tư cách pháp nhân và được quyền thu hồi nợ hoặc xử lý tài sản bảo đảm theo quy định của pháp luật. Việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay phải tuân thủ nguyên tắc công khai, thủ tục đơn giản, thuận tiện, nhanh chóng, bảo đảm quyền, lợi ích của ngân hàng cho vay và khách hàng đồng thời tiết kiệm được chi phí. Các phương thức xử lý tài sản bảo đảm tiền vay để thu hồi nợ: - Bán tài sản bảo đảm tiền vay. - Trực tiếp nhận các khoản tiền, tài sản từ bên thứ ba trong trường hợp bên thứ ba có nghĩa vụ trả tiền hoặc tài sản cho khách hàng vay, bên bảo lãnh. - Nhận chính tài sản bảo đảm tiền vay để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm. 2. Hiệu quả hoạt động bảo đảm tiền vay. 2.1. Quan niệm về hiệu quả bảo đảm tiền vay. Khi thực hiện bất kỳ một hoạt động sản xuất kinh doanh nào thì các doanh nghiệp cũng như cá nhân đều mong muốn đạt được hiệu quả tốt nhất nhằm thù hồi được vốn một cách nhanh nhất và có lãi. Là người kinh doanh ai cũng mong muốn đạt được hiệu quả kinh tế bởi vì ai cũng muốn đồng tiền của mình bỏ ra phải sinh lợi. Từ đó ta có thể hiểu rằng hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ và khả năng thực hiện có kết quả cao những nhiệm vụ kinh tế xã hội nhất định với chi phí nhỏ nhất nhằm thu được kết quả cao nhất. Ngân hàng thương mại cũng như các doanh nghiệp kinh doanh khác nên cũng rất mong muốn có được hiệu quả trong các hoạt động của mình, đặc biệt là trong hoạt động tín dụng. Hoạt động tín dụng là hoạt động có khả năng sinh lợi nhiều nhất cho hầu hết các ngân hàng nhưng nó cũng lại chịu rủi ro cao nhất. Do đó, để hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng, các ngân hàng đã áp dụng hình thức bảo đảm tiền vay. Đây là một trong những biện pháp mà ngân hàng thường áp dụng để ngăn ngừa được các rủi ro có thể xảy ra. Việc thực hiện các biện pháp bảo đảm tiền vay là một trong những khâu mà ngân hàng mong muốn đạt hiệu quả cao nhất vì nếu công tác bảo đảm tiền vay mà đạt được hiệu quả tốt thì sẽ giúp ngân hàng tránh được tổn thất lớn khi rủi ro tín dụng xảy ra. Bên cạnh đó, sử dụng hình thức bảo đảm tiền vay cũng làm cho khách hàng có trách nhiệm hơn đối với khoản vay, có ý chí trả nợ cao hơn, hoàn trả gốc và lãi đầy đủ, đúng hạn cho ngân hàng. Như vậy, hiệu quả bảo đảm tiền vay được hiểu là hiệu quả của việc thực hiện các biện pháp bảo đảm tiền vay để bảo đảm rằng các khoản cho vay của ngân hàng sẽ được trả đúng hạn và có lãi. Trong trường hợp khách hàng vay gặp khó khăn trong việc hoàn trả nợ thì ngân hàng chỉ có thể thu hồi được vốn thông qua việc xử lý các tài sản đảm bảo. Do đó có thể nói bảo đảm tiền vay là một yếu tố không những đảm bảo khả năng hoàn trả vốn vay mà còn mang lại lợi nhuận cho ngân hàng vì giúp ngân hàng hạn chế được các rủi ro có thể xảy ra. Hiệu quả của hoạt động bảo đảm tiền vay có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng nên nếu thực hiện không tốt rất có thể sẽ có nguy cơ tiềm ẩn rủi ro xảy ra cho ngân hàng trong việc thu hồi nợ vay, dẫn đến khả năng mất vốn và có thể ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của ngân hàng đối với khách hàng. Từ lý do này có thể dẫn đến giảm uy tín của ngân hàng, tác động đến tâm lý của khách hàng gây ra tình trạng rút tiền hàng loạt dẫn ngân hàng đến chỗ phá sản. Hoạt động của ngân hàng mang tính xã hội hoá cao, nó ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế. Do đó đòi hỏi ngân hàng khi thực hiện vấn để bảo đảm tiền vay phải chú trọng đến vấn đề đạt được hiệu quả vì việc đạt được hiệu quả hoạt động bảo đảm tiền vay là điều kiện sống còn cho bản thân mỗi ngân hàng. Tuy nhiên, để đạt được hiệu quả về vấn đề bảo đảm tiền vay thì đòi hỏi ngân hàng cũng cần phải thực hiện tốt các công tác khác như kiểm tra giám sát khách hàng sử dụng khoản vay, thẩm định khách hàng vay vốn, xếp hạng tín dụng khách hàng một cách chuẩn xác…tránh trường hợp xảy ra tổn thất. 2.2. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả bảo đảm tiền vay. 2.2.1. Các chỉ tiêu định tính Khả năng nâng cao hiệu quả của hoạt động bảo đảm tiền vay phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó uy tín của ngân hàng cũng là một điều hết sức quan trọng. Nếu ngân hàng có lượng khách hàng đông đảo và là những doanh nghiệp làm ăn có uy tín thì đó là một trong những điều kiện để áp dụng biện pháp bảo đảm tiền vay. Bên cạnh đó hiệu quả của hoạt động bảo đảm tiền vay cũng phụ thuộc vào khả năng thu nợ của ngân hàng khi có rủi ro xảy ra. Để có thể nâng cao hiệu quả bảo đảm tiền vay thì cần phải có những chỉ tiêu đánh giá hợp lý để từ đó có cách nhìn bao quát và đúng đắn. Hiệu quả của bảo đảm tiền vay thể hiện ở việc ngân hàng sau khi cho vay đã thu hồi được khoản nợ bao gồm cả gốc và lãi, hay có thể là khách hàng không trả được nợ thì ngân hàng sẽ tiến hành xử lý các tài sản đảm bảo cho khoản vay đó. Tuỳ theo quan điểm của mỗi ngân hàng thì họ sẽ tiến hành phân loại các khoản cho vay theo các mức độ rủi ro khác nhau như là: khoản cho vay đạt tiêu chuẩn; cận chuẩn; có vấn đề; không thu hồi được. ứng với mỗi hình thức khác nhau thì ngân hàng sẽ có các biện pháp để đề phòng các rủi ro có thể xảy ra. Đối với những khoản cho vay đạt tiêu chuẩn tức là những khoản cho vay có chất lượng, có các hình thức bảo đảm và không có nợ quá hạn thì ngân hàng hoàn toàn yên tâm trong việc thù hồi nợ. Nếu những khoản cho vay được xếp vào mức độ cận chuẩn tức là khoản cho vay có bảo đảm nhưng có một số điểm yếu về tín dụng như nguồn vốn của người vay có biểu hiện không đủ để đáp ứng được cam kết trả nợ, khả năng tiêu thụ tài sản hay tình hình phát mại tài sản gặp khó khăn… Khoản cho vay xếp vào mức độ có vấn đề tức là những khoản cho vay chưa đến hạn và chưa được coi là nợ quá hạn song trong quá trình theo dõi ngân hàng thấy nghi ngờ trong việc thu hồi nợ vì căn cứ vào giá trị thực tế cho thấy việc thu đủ nợ là không chắc chắn và đáng ngờ, nhiều khoản tài trợ đang có dấu hiệu kém lành mạnh, có nguy cơ trở thành nợ quá hạn. Khoản cho vay xếp vào mức độ không thu hồi được là những khoản vay không thể thu hồi được hay cơ hội để thu hồi được là rất ít. Nguyên nhân xảy ra có thể do việc thanh lý tài sản gặp rủi ro như không bán được tài sản trên thị trường vì thị trường tiêu thụ kém hoặc bị kiện tụng về pháp lý. Ngoài những chỉ tiêu trên chúng ta có thể sử dụng một số chỉ tiêu khác để đánh giá hiệu quả công tác bảo đảm tiền vay của ngân hàng. Ngân hàng nếu có sự lựa chọn tài sản bảo đảm phù hợp, sử dụng phương thức đảm bảo tốt thì sẽ tạo ra uy tín cho ngân hàng, tạo nên an toàn xã hội và chi phí bỏ ra thấp. Tài sản bảo đảm là yếu tố để ngân hàng quyết định mức cho vay. Do đó việc định giá chính xác tài sản bảo đảm là hết sức quan trọng. Nó giúp ngân hàng đảm bảo được quyền lợi cho chính bản thân mình và cho cả khách hàng. Ngân hàng kiểm soát, quản lý tài sản bảo đảm một cách đầy đủ chặt chẽ giúp ngân hàng theo dõi, kiểm tra, đánh giá nhằm đảm bảo tài sản vẫn đang trong tình trạng bình thường hoặc kịp thời phát hiện ra các sự cố có liên quan làm giảm giá trị của tài sản đảm bảo. Việc xử lý tài sản bảo đảm với thủ tục nhanh chóng, chi phí thấp, bảo đảm được quyền lợi cho ngân hàng và khách hàng cũng là một chi tiêu để nói lên hiệu quả bảo đảm tiền vay của ngân hàng. Trên đây là các chỉ tiêu định tính nhưng nó chỉ là những căn cứ để đánh giá hiệu quả của hoạt động bảo đảm tiền vay một cách khái quát. Để có những kết luận chính xác hơn cần dựa vào một hệ thống các chỉ tiêu định lượng cụ thể. 2.2.2. Các chỉ tiêu định lượng Để đánh giá hiệu quả của hoạt động bảo đảm tiền vay chúng ta có thể kết hợp phân tích số tương đối và số tuyệt đối, theo dõi tình hình biến động của các chỉ tiêu phân tích qua các năm. a) Chỉ tiêu về nợ quá hạn Nợ quá hạn là khoản nợ mà khách hàng sau khi vay đã đến thời hạn trả nợ theo thoả thuận trên hợp đồng tín dụng nhưng không hoàn trả được cho ngân hàng. Các chỉ tiêu về nợ quá hạn phản ánh mức độ an toàn của hoạt động tín dụng ngân hàng. Chỉ tiêu về nợ quá hạn là tỷ lệ phần trăm (%) giữa nợ quá hạn và tổng dư nợ của ngân hàng thương mại ở một thời điểm nhất định thường là cuối tháng hay cuối năm. Tổng dư nợ quá hạn Tỷ lệ nợ quá hạn = Tổng dư nợ cho vay Đối với trường hợp cho vay có bảo đảm bằng tài sản thì: Nợ quá hạn đối với cho vay có bảo đảm bằng tài sản Tỷ lệ nợ quá hạn = Tổng nợ quá hạn Đối với trường hợp cho vay không có bảo đảm bằng tài sản Nợ quá hạn đối với cho vay không có bảo đảm bằng tài sản Tỷ lệ nợ quá hạn = Tổng nợ quá hạn Tỷ lệ nợ quá hạn cao biểu hiện độ an toàn trong hoạt động cho vay của ngân hàng là thấp và ngược lại. Trong nền kinh tế thị trường, rủi ro trong hoạt động kinh doanh là khách quan, do đó nợ quá hạn là yếu tố tất yếu, không thể tránh khỏi được. Song nếu một ngân hàng có nhiều khoản nợ quá hạn sẽ gặp nhiều rủi ro trong kinh doanh vì có nguy cơ mất vốn dẫn đến giảm thu nhập và mất khả năng thanh toán. Phần lớn các khoản nợ quá hạn là các khoản nợ có vấn đề, ngân hàng có thể bị mất toàn bộ vốn cho vay hoặc mất một phần. Đây là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá độ an toàn trong hoạt động cho vay của ngân hàng và cũng đánh giá hiệu quả của hoạt động cho vay nói chung, hiệu quả của hoạt động bảo đảm tiền vay nói riêng. Tỷ lệ nợ quá hạn ngầm chỉ ra rủi ro đối với các khoản cho vay và hậu quả có thể xảy ra đối với các khoản nợ quá hạn. Tuy nhiên, tỷ lệ nợ quá hạn chỉ xem xét đến việc hoàn trả khi đã quá hạn chứ không xét đến tổng dư nợ có nguy cơ quá hạn. Trong nhiều trường hợp việc sử dụng tỷ lệ nợ quá hạn có thể phản ánh rủi ro tín dụng không chính xác vì khi ngân hàng có các khoản cho vay tăng nhanh thì số dư nợ cho vay của ngân hàng tăng trong khi đó số nợ đến hạn chỉ tăng khi các khoản nợ đến kỳ hạn trả. Do đó một tốc độ tăng nhanh các khoản cho vay có thể che dấu đi vần đề nợ quá hạn. Vì vậy các ngân hàng thương mại cần phải thận trọng trong việc xác định kỳ hạn như thế nào được coi là quá hạn. b) Chỉ tiêu về thu nhập từ hoạt động tín dụng Thu nhập từ hoạt động tín dụng là một nguồn thu nhập quan trọng nhất đóng vai trò trong việc duy trì khả năng sinh lời của ngân hàng. Mà hiệu quả của hoạt động bảo đảm tiền vay được đánh giá qua việc sử dụng tốt các hình thức bảo đảm tiền vay để thu hồi được cả gốc và lãi đầy đủ, đúng hạn. Vì vậy, có thể đánh giá hiệu quả của công tác bảo đảm tiền vay qua những chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của một khoản vay. Tỷ lệ thu nhập từ hoạt động tín dụng là tỷ số giữa thu nhập từ hoạt động tín dụng với tổng thu nhập của ngân hàng. Chỉ tiêu sử dụng để tính toán phải cùng là thu nhập trước thuế hoặc cùng là thu nhập sau thuế. Thu nhập từ hoạt động cho vay Thu nhập từ hoạt động tín dụng = Tổng thu nhập Vấn đề nâng cao hiệu quả của hoạt động bảo đảm tiền vay chỉ thực sự có ý nghĩa khi nó góp phần vào việc tăng khả năng sinh lời của ngân hàng. Một ngân hàng có tỷ trọng thu nhập từ hoạt động tín dụng trên tổng thu nhập của ngân hàng mà cao tức là hiệu quả của hoạt động tín dụng cao và ngược lại. c) Chỉ tiêu về mức sinh lời vốn tín dụng Thu nhập sau thuế từ hoạt động tín dụng Chỉ tiêu này được tính = Tổng dư nợ bình quân Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của khoản cho vay. Mục tiêu cuối cùng của bất cứ ngân hàng nào cũng là tăng lợi nhuận. Ngân hàng có tỷ lệ thu nhập sau thuế từ hoạt động cho vay trên dư nợ bình quân càng lớn thì khả năng sinh lời của hoạt động tín dụng càng cao và nó cũng phản ánh hiệu quả tín dụng nói chung và hiệu quả của hoạt động bảo đảm tiền vay nói riêng. d) Chỉ tiêu về thu nhập ròng Ngân hàng thực hiện hoạt động cho vay theo hình thức đảm bảo bằng uy tín của khách hàng hay đảm bảo bằng tài sản thì đều mang lại nhiều rủi ro cho ngân hàng. Mặc dù vậy, các ngân hàng đều không ngừng phát triển hoạt động cho vay của mình vì đây là hoạt động mang lại nhiều lợi nhuận nhất cho ngân hàng. Thu nhập của ngân hàng được đánh giá qua công thức: Thu nhập Thu lãi - Quỹ dự phòng rủi ro - Chi phí khác = Cho vay Cho vay Trong trường hợp ngân hàng cho vay có bảo đảm thì chi phí khác tăng lên và quỹ dự phòng rủi ro thì giảm đi. Do đó đã giảm tổn thất cho ngân hàng và tăng thu nhập ròng của ngân hàng lên. 2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả bảo đảm tiền vay. 2.3.1. Các nhân tố thuộc về ngân hàng. a) Chất lượng của cán bộ tín dụng ngân hàng Con người luôn là nhân tố trung tâm trong mọi hoạt động, là yếu tố quyết định sự thành bại trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại cũng như hiệu quả của công tác bảo đảm tiền vay. Nhân tố con người trong ngân hàng chính là các cán bộ ngân hàng mà tiêu biểu là cán bộ tín dụng, là những người trực tiếp tiếp xúc với khách hàng vay vốn, là người thay mặt ngân hàng thẩm định đánh giá khách hàng để đưa ra các biện pháp bảo đảm tiền vay phù hợp với từng đối tượng khách hàng sau khi đã có sự điều tra, thẩm định về khách hàng. Trình độ của cán bộ tín dụng là rất quan trọng, nó có ảnh hưởng rất lớn đến việc cho vay có đạt hiệu quả hay không. Một ngân hàng mà có đội ngũ cán bộ tín dụng giỏi chuyên môn, có kiến thức và kinh nghiệm, am hiểu pháp luật thì sẽ có khả năng phân tích khách hàng một cách chính xác hơn. Trong trường hợp cho vay có bảo đảm bằng tài sản, việc đánh giá chính xác được g._.iá trị tài sản bảo đảm, xác định được tài sản là có thực hay không, khách hàng vay có gian lận trong tài sản bảo đảm hay không là một vấn đề hết sức khó khăn đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ tín dụng chuyên môn giỏi. Còn đối với trường hợp cho vay dựa trên uy tín của khách hàng vay thì việc đánh giá chính xác được khách hàng vay cũng cần có các cán bộ tín dụng có kinh nghiệm và kiến thức thì mới có thể xác định được chính xác vấn đề. Tuy nhiên một đội ngũ cán bộ giỏi chuyên môn, giàu kinh nghiệm chưa phải là đủ mà bên cạnh đó còn cần phải có đạo đức nghề nghiệp. Như Bác Hồ đã nói “Có tài mà không có đức là người vô dụng”. Trong hoạt động ngân hàng cũng vậy, tất cả mọi việc đều do con người quyết định, nếu như những người làm tín dụng không có đạo đức nghề nghiệp thì rất dễ dẫn đến việc ra quyết định sai trái với những gì đã điều tra. Đối tượng kinh doanh của ngân hàng là tiền nên rất dễ làm những người thường xuyên trực tiếp làm việc với nó có những động cơ xấu, họ có thể móc nối với khách hàng để lừa đảo rút tiền ngân hàng. Trong thực tế đã xảy ra nhiều trường hợp như vậy. Các cán bộ tín dụng cố tình đánh giá sai giá trị tài sản bảo đảm để đưa ra mức cho vay cao hơn giá trị thật của nó, do đó gây ảnh hưởng rất lớn đên việc xử lý tài sản đảm bảo sau này khi mà khách hàng vay không có khả năng trả nợ. Vì vậy, các ngân hàng cần phải đào tạo một đội ngũ cán bộ đặc biệt là cán bộ tín dụng, những người trực tiếp ra quyết định vay không những có chuyên môn mà còn phải có cả đạo đức nghề nghiệp để có thể đưa ra những quyết định mang lại hiệu quả kinh tế cao đối với ngân hàng. b) Chất lượng công tác thẩm định tài sản bảo đảm và thẩm định khách hàng. Việc đánh giá khách hàng được thực hiện thông qua công tác thẩm định tín dụng. Mục đích của công tác thẩm định nhằm giúp ngân hàng biết được tính khả thi, hiệu quả kinh tế, khả năng trả nợ và những rủi ro có thể xảy ra để đưa ra quyết định cho vay phù hợp. Chất lượng của công tác thẩm định quyết định hiệu quả của công tác đảm bảo tiền vay. Nếu chất lượng của công tác thẩm định tốt, ngân hàng sẽ tiến hành phân tích đánh giá chính xác hoạt động của khách hàng vay để từ đó có quyết định đúng đắn đảm bảo khả năng thu hồi được vốn và lãi. Chất lượng của công tác thẩm định tài sản bảo đảm và thẩm định khách hàng phụ thuộc vào các nhân tố: - Trình độ chuyên môn của cán bộ thẩm định: để thẩm định tốt tài sản bảo đảm và khách hàng vay đòi hỏi cán bộ thẩm định phải có trình độ chuyên môn vững vàng không chỉ trong lĩnh vực tài chính, tín dụng ngân hàng mà còn trong các lĩnh vực khác: kỹ thuật, công nghệ, xây dựng… - Quy trình thẩm định: quy trình thẩm định là rất quan trọng, nó giúp ngân hàng thấy được điểm mạnh, điểm yếu của khách hàng để từ đó giúp ngân hàng có được quyết định đầu tư đúng đắn. Ngân hàng khi quyết định cho vay đều phải xem xét tình hình thẩm định như thế nào mà đưa ra hình thức cho vay có bảo đảm bằng tài sản hay không. Đối với những khoản vay cần có tài sản bảo đảm thì quy trình thẩm định tài sản cũng đòi hỏi ngân hàng phải có những đánh giá đúng về giá thị trường của tài sản bảo đảm. Tuy nhiên, để đạt được hiệu quả của hoạt động bảo đảm tiền vay thì cần phải có những thông tin về khách hàng một cách đầy đủ, khách quan và chính xác. Nếu những thông tin thu thập được về khách hàng có độ tin cậy và chính xác cao thì việc ngân hàng ra quyết định cho vay là an toàn hơn. Do vậy, thu thập thông tin và xử lý thông tin về khách hàng là một yếu tố rất cần thiết đối với ngân hàng. Trên thực tế có rất nhiều loại tài sản bảo đảm mà có những loại cán bộ thẩm định của ngân hàng chưa chắc đã am hiểu. Do đó, việc thu thập thông tin về tài sản có thể sẽ gặp khó khăn, ngân hàng sẽ không có thông tin chính xác về tài sản bảo đảm, về giá trị thị trường của tài sản bảo đảm. Vì vậy, khi thẩm định tài sản thuộc lĩnh vực chuyên môn nào thì ngân hàng nên thuê các chuyên gia về vấn đề đó để có thể đánh giá được giá trị đích thực của tài sản bảo đảm nhằm đạt được hiệu quả cao nhất, giúp cho ngân hàng có quyết định cho vay hợp lý. c) Chiến lược kinh doanh, mục tiêu của ngân hàng trong từng thời kỳ. Trong từng thời kỳ, giai đoạn khác nhau thì mỗi ngân hàng thương mại sẽ có những chiến lược và mục tiêu phát triển cụ thể để tránh tình trạng rơi vào thế bị động trong hoạt động kinh doanh của mình. Đây cũng là một nhân tố ảnh hưởng đến việc ra quyết định cho vay của ngân hàng. Các đối tượng khách hàng vay vốn là rất lớn và bao gồm nhiều thành phần khác nhau nên ngân hàng phải có những chính sách, chiến lược cho vay của mình để xem nó phù hợp với đối tượng nào hơn và có biện pháp bảo đảm tiền vay thích hợp trong thời kỳ đó. 2.3.2. Các nhân tố bên ngoài ngân hàng a) Các nhân tố thuộc về khách hàng - Năng lực tài chính, trình độ quản lý của khách hàng vay: Năng lực tài chính của khách hàng vay vốn là rất quan trọng, nó ảnh hưởng đến chất lượng của công tác bảo đảm tiền vay. Ngân hàng thường chỉ cho vay trong trường hợp khách hàng vay có hoạt động kinh doanh đạt hiệu quả, có tài sản bảo đảm đáp ứng được các yêu cầu của ngân hàng. Trình độ quản lý của khách hàng nếu bị yếu, chưa đủ sức mạnh để cạnh tranh trên thị trường có thể dẫn đến tình trạng khách hàng không đủ khả năng trả nợ cho ngân hàng khiến hiệu quả của hoạt động bảo đảm tiền vay bị giảm sút. - Tính trung thực, chính xác của những thông tin mà khách hàng cung cấp cho ngân hàng. Tính trung thực, tư cách đạo đức của khách hàng vay cũng có tác động đến hiệu quả của bảo đảm tiền vay. Trong nhiều trường hợp khách hàng vay vốn đã có sự thiếu trung thực trong các báo cáo tài chính, báo cáo kết quả kinh doanh, các chứng từ và tài liệu liên quan đến mục đích vay vốn và sử dụng vốn như thế nào. Điều này gây khó khăn cho ngân hàng trong việc nắm bắt tình hình sản xuất kinh doanh cũng như việc theo dõi, giám sát, quản lý vốn vay của khách hàng để từ đó có thể đưa ra những quyết định đầu tư đúng đắn, những biện pháp tình thế kịp thời, điều này làm hiệu quả của hoạt động bảo đảm tiền vay bị giảm sút. Những thông tin về khách hàng đều chủ yếu dựa trên sự cung cấp của khách hàng. Do đó, nếu các khách hàng cố tình lừa đảo, cung cấp các thông tin không đúng sự thật thì khả năng ngân hàng gặp phải rủi ro là rất cao và làm cho vấn đề bảo đảm tiền vay trở nên không còn ý nghĩa. Vì vậy để đạt được hiệu quả của công tác bảo đảm tiền vay thì ngân hàng phải lựa chọn để tìm được những khách hàng có tư cách đạo đức, có đủ năng lực tài chính, có uy tín, có hoạt động sản xuất kinh doanh đạt kết quả cao. - Tính đúng mục đích của việc sử dụng vốn: Một trong những yêu cầu cơ bản của ngân hàng đối với khách hàng khi cho vay là khách hàng phải sử dụng vốn đúng mục đích và ngân hàng nào cũng có những biện pháp để giám sát mục đích sử dụng vốn của khách hàng. Tuy nhiên, vẫn có nhiều trường hợp sử dụng vốn sai mục đích ảnh hưởng đến hiệu quả của hoạt động bảo đảm tiền vay của ngân hàng. Chẳng hạn, các khách hàng sử dụng vốn ngân hàng không đúng với phương án, mục đích khi xin vay, không đúng đối tượng kinh doanh…Đây có thể là một trong những nguyên nhân của việc khách hàng không trả được nợ đúng hạn cho ngân hàng. b) Các nhân tố khác - Môi trường pháp lý Mỗi quốc gia đều có các văn bản pháp luật do Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước và các Bộ ngành có liên quan ban hành ra nhằm hỗ trợ cho các ngân hàng thương mại trong việc thực hiện hoạt động bảo đảm tiền vay. Các hình thức bảo đảm tiền vay áp dụng cho mỗi nước tuỳ thuộc vào tình hình phát triển kinh tế xã hội của mỗi nước mà các văn bản quy định được ban hành ra là nới lỏng hay thắt chặt. Các hệ thống văn bản pháp luật về bảo đảm tiền vay có sự thống nhất, hoàn thiện và chặt chẽ sẽ là hành lang pháp lý giúp các ngân hàng thương mại thực hiện vấn đề an toàn trong cho vay của ngân hàng. Tuy nhiên, trong thực tế thì quá trình thực hiện hoạt động bảo đảm tiền vay thì ngân hàng đã gặp phải những vướng mắc do các văn bản quy định đang có sự chồng chéo nhau, không phù hợp với thực tế. Do đó đã có những trường hợp khách hàng lợi dụng các kẽ hở pháp luật để lừa đảo ngân hàng. Vì vậy, để giúp ngân hàng dễ dàng hơn trong việc ra quyết định cho vay, giảm bớt thời gian thẩm định thì Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước và các Bộ ngành có liên quan cần phải có chính sách, chủ trương chỉnh sửa các văn bản theo hướng ngày càng hoàn thiện, giảm bớt các áp lực cho ngân hàng khi thực hiện vấn đề bảo đảm tiền vay. - Môi trường kinh tế Môi trường kinh tế cũng có những tác động nhất định đến hoạt động của ngân hàng nên nó cũng tác động đến công tác bảo đảm tiền vay. Một nền kinh tế có mức tăng trưởng ổn định sẽ làm giá cả ở mức ổn định, tình trạng lạm phát ở mức thấp tạo điều kiện cho ngân hàng thương mại mở rộng quy mô hoạt động của mình. Trong thời kỳ kinh tế phát triển hưng thịnh sẽ có nhiều cơ hội làm ăn cho các nhà đầu tư, mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Do đó nhu cầu vay vốn và khả năng trả nợ của khách hàng sẽ tăng lên, tạo điều kiện cho ngân hàng mở rộng cho vay và hiệu quả của hoạt động bảo đảm tiền vay được nâng lên. Ngược lại, trong thời kỳ kinh tế bị suy thoái, quy mô sản xuất bị thu hẹp, sản xuất kinh doanh bị đình trệ, thua lỗ kéo dài dẫn đến các khách hàng khó khăn trong việc trả nợ, hiệu quả của hoạt động bảo đảm tiền vay bị giảm sút. - Môi trường chính trị xã hội Một đất nước có vấn đề chính trị ổn định sẽ tạo tâm lý tốt cho người dân, từ đó tạo sự mạnh dạn trong đầu tư và ngân hàng cũng mạnh dạn hơn trong hoạt động cho vay. Môi trường chính trị ổn định, không có chiến tranh là môi trường thuận lợi và yên tâm cho các nhà đầu tư trong nước cũng như các nhà đầu tư nước ngoài. Xã hội có nhiều truyền thống tốt đẹp, ít tệ nạn xã hội như lừa đảo, làm ăn phi pháp cũng góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động bảo đảm tiền vay. - Mức độ an toàn của tài sản bảo đảm Mức độ an toàn của tài sản bảo đảm cũng tác động đến hiệu quả của hoạt động bảo đảm tiền vay. Đối với những tài sản có mức độ an toàn cao hơn sẽ được các ngân hàng ưa chuộng vì nó sẽ có độ rủi ro thấp hơn, hiệu quả của bảo đảm tiền vay sẽ cao hơn. Những tài sản có độ an toàn cao là những tài sản dễ dàng xác định được quyền sở hữu, có thị trường tiêu thụ rộng rãi… và là những tài sản dễ bán với chi phí thấp nên ngân hàng sẽ dễ thu hồi được vốn nhanh và dễ dàng hơn. - Những nhân tố bất khả kháng Những nhân tố như thiên tai, chiến tranh, hoả hoạn, dịch bệnh là những nhân tố bất khả kháng mà khách hàng nào cũng phải đối mặt, nó có thể tạo thuận lợi hay gây khó khăn cho khách hàng. Các nhân tố này được gọi là bất khả kháng vì chúng thường vượt quá tầm kiểm soát của cả ngân hàng và khách hàng. Vì vậy, sự tác động của những nhân tố này tới người vay thường là rất nặng nề, họ thường bị tổn thất lớn, khả năng trả nợ của ngân hàng bị suy giảm, thậm chí không còn khả năng trả nợ. Chương 2: Thực trạng hiệu quả hoạt động bảo đảm tiền vay tại Sở giao dịch i Ngân hàng Công thương việt nam 1. Khái quát về Sở giao dịch I - Ngân hàng công thương việt nam 1.1. Vài nét về lịch sử hình thành và phát triển của Sở giao dịch I - NHCTVN Ngày 30/12/1988 Chủ tịch Hội đồng quản trị Ngân hàng Công thương Việt Nam ký quyết định số 134 QĐ/HĐQT Ngân hàng Công thương sắp xếp tổ chức hoạt động Sở giao dịch I Ngân hàng Công thương Việt Nam theo điều lệ tổ chức và hoạt động của Ngân hàng Công thương Việt Nam. Ngày 20/10/2003 Chủ tịch hội đồng quản trị Ngân hàng Công thương Việt Nam đã ban hành quyết định số 153/QĐ/HĐQT về mô hình tổ chức mới của Sở giao dịch I theo dự án hiện đại hoá ngân hàng và công nghệ thanh toán do Ngân hàng thế giới tài trợ. Quá trình hình thành và phát triển của Sở giao dịch I gắn liền với sự đổi mới của hệ thống ngân hàng Việt Nam và những thành công của công cuộc phát triển kinh tế của thủ đô và đất nước. Sở giao dịch I Ngân hàng Công thương nằm ở trung tâm thủ đô Hà Nội, có trụ sở chính tại số 10 phố Lê Lai, là đơn vị thành viên lớn với nguồn vốn chiếm tỷ trọng 15%, dư nợ chiếm 4% toàn hệ thống Ngân hàng Công thương Việt Nam. Nhiều năm liền Sở giao dịch I luôn dẫn đầu là đơn vị xuất sắc của Ngân hàng Công thương Việt Nam. Tính đến 31/7/2005 tổng dư nợ cho vay nền kinh tế của Sở giao dịch I đạt gần 3000 tỷ đồng, với tốc độ tăng trưởng dư nợ bình quân hàng năm là 15 - 20%, đã đáp ứng nhu cầu vốn các doanh nghiệp trung ương và địa phương đóng trên địa bàn, phục vụ phát triển kinh tế thủ đô. Tên tuổi của Sở giao dịch I Ngân hàng Công thương Việt Nam hiện nay đã trở nên quen thuộc với bạn hàng trong nước và quốc tế. 1.2. Sơ đồ bộ máy tổ chức của đơn vị và nhiệm vụ của phòng tín dụng ở Sở giao dịch I - NHCTVN Ban giám đốc gồm 1 giám đốc và 4 phó giám đốc. Có 12 phòng nghiệp vụ, 2 phòng giao dịch và 8 quỹ tiết kiệm trực thuộc phòng khách hàng cá nhân. Nhiệm vụ của phòng tín dụng Phòng tín dụng của Sở giao dịch I Ngân hàng Công thương gồm có 3 phòng là: - Phòng khách hàng số 1 là phòng quản lý doanh nghiệp có quy mô lớn, các đơn vị lớn. Chức năng của phòng là giao dịch với khách hàng lớn, cho vay, khai thác vốn, xử lý các vấn đề cho vay. - Phòng khách hàng số 2 là phòng quản lý các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các khách hàng vừa và nhỏ phân theo quy mô hoạt động, số lượng hoạt động. - Phòng khách hàng cá nhân là phòng quản lý các khách hàng đơn lẻ, cá nhân. Nhiệm vụ của phòng tín dụng là khai thác nguồn vốn bằng VNĐ và ngoại tệ; Tiếp thị hỗ trợ khách hàng phối hợp với phòng tổng hợp tiếp thị làm công tác chăm sóc khách hàng, phát triển các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng đến khách hàng; Thẩm định và xác định hạn mức tín dụng gồm có cho vay, tài trợ thương mại, bảo lãnh, thấu chi cho một khách hàng trong phạm vi uỷ quyền của chi nhánh trình cấp có thẩm quyền phê duyệt quản lý các hạn mức đã đưa ra theo từng khách hàng; Thực hiện nghiệp vụ cho vay, bảo lãnh và xử lý giao dịch bao gồm: nhận và xử lý đề nghị vay vốn bảo lãnh, thẩm định khách hàng, dự án, phương án vay vốn bảo lãnh theo quy định, đưa ra các quyết định chấp thuận, từ chối đề nghị vay vốn bảo lãnh trên cơ sở các hồ sơ và quyền thẩm định, kiểm tra giám sát các khoản trong và sau khi cho vay phối hợp với các phòng liên quan thực hiện thu nợ, thu lãi, thu phí đầy đủ đúng hạn, đúng hợp đồng đã ký, theo dõi quản lý các khoản cho vay bắt buộc, theo dõi quản lý các khoản nợ có vấn đề, các khoản nợ quá hạn, thực hiện các biện pháp và tiến hành xử lý tài sản đảm bảo để thu hồi các khoản nợ này; Cập nhật, phân tích toàn diện về thông tin khách hàng theo quy định; Quản lý các khoản cho vay, bảo lãnh, quản lý tài sản đảm bảo; Theo dõi việc trích lập dự phòng rủi ro theo quy định. 2. Thực trạng hiệu quả hoạt động bảo đảm tiền vay tại Sở giao dịch I - NHCTVN Trong hoạt động cho vay của mình thì Sở giao dịch I luôn đặt tiêu chí an toàn lên hàng đầu. Để đạt được mục tiêu đó thì hiện nay ngân hàng đã áp dụng đầy đủ các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản theo quy định của Nghị định 178/1999/NĐ-CP là thế chấp, cầm cố bằng tài sản của khách hàng vay; bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba; bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay. Sau đây chúng ta xem xét bảng số liệu về tỷ trọng dư nợ cho vay có phân theo tính chất bảo đảm để có thể thấy rõ được thực trạng của hoạt động bảo đảm tiền vay tại Sở giao dịch I trong những năm 2003-2005. Từ đó, phân tích xu hướng phát triển của Sở trong những năm tới. Bảng 1: Tỷ trọng dư nợ cho vay phân theo tính chất bảo đảm Đơn vị: Tỷ đồng Hình thức cho vay Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Dư nợ Tỷ trọng (%) Dư nợ Tỷ trọng (%) Dư nợ Tỷ trọng (%) Đảm bảo bằng TS 596 39,8 1016 42,1 1113 39,9 Đảm bảo bằng uy tín của khách hàng vay 901 60,2 1398 57,9 1675 60,1 Tổng dư nợ 1.479 100 2.414 100 2.788 100 (Nguồn: Báo cáo hoạt động bảo đảm tiền vay tại Sở giao dịch I) Ta có thể thấy dư nợ cho vay có bảo đảm bằng tài sản tăng lên, năm 2004 tăng 420 tỷ đồng so với năm 2003 tương ứng với 70,47%, năm 2005 tăng 97 tỷ đồng so với năm 2003 tương ứng với 9,55%. Điều này chứng tỏ rằng Sở giao dịch I đã có sự chuyển dịch cơ cấu cho vay sang các đối tượng nên đòi hỏi phải có hoạt động bảo đảm tiền vay bằng tài sản. Do đó, ở Sở vấn đề bảo đảm tiền vay bằng tài sản đang dần tăng lên để đáp ứng được với nhu cầu an toàn trong cho vay của ngân hàng, đồng thời cũng mở rộng quy mô hoạt động tín dụng. Hiện nay, Sở giao dịch I đã thu hút được nhiều khách hàng tham gia vay vốn có sử dụng các hình thức bảo đảm tiền vay. Bên cạnh đó ta cũng thấy rằng vấn đề cho vay dựa trên sự đảm bảo bằng uy tín chiếm tỷ trọng lớn hơn so với cho vay có bảo đảm bằng tài sản. Điều này là do Sở giao dịch I cho vay dựa trên đảm bảo bằng uy tín chủ yếu là các khách hàng lớn quen thuộc với ngân hàng, các doanh nghiệp Nhà nước lớn theo sự chỉ định của Chính phủ. Tuy nhiên, trên thực tế thì trong ba hình thức bảo đảm tiền vay bằng tài sản như: thế chấp, cầm cố bằng tài sản của khách hàng vay; bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba; bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay thì ngân hàng chủ yếu sử dụng hình thức cầm cố, thế chấp tài sản của khách hàng vay. 2.1. Bảo đảm bằng cầm cố, thế chấp tài sản của khách hàng vay Cho vay có bảo đảm bằng hình thức cầm cố, thế chấp tài sản của khách hàng vay là một hình thức phổ biến mà các ngân hàng thường áp dụng để bảo đảm cho các món cho vay của mình. Đây là hình thức bảo đảm phù hợp với nhiều loại hình doanh nghiệp, các cá nhân, hộ gia đình. ở Sở giao dịch I, việc áp dụng các hình thức cho vay có bảo đảm bằng cầm cố, thế chấp được áp dúng theo các quy định mà Ngân hàng Công thương ban hành. Khách hàng của Sở giao dịch I chủ yếu cầm cố các tài sản là: sổ tiết kiệm, máy móc thiết bị, hàng tiêu dùng, các giấy tờ có giá như cổ phiếu, trái phiếu…để bảo đảm cho các khoản vay ngắn hạn, thời gian thu hồi nhanh. Còn đối với các loại tài sản được dùng để thế chấp như: nhà ở, quyền sử dụng đất, máy móc, dây chuyền công nghệ, phương tiện vận tải như ô tô… Sở giao dịch I chủ yếu cho vay dựa trên các hình thức cầm cố, thế chấp. Hình thức này chiếm khoảng 62% trong tổng cho vay có bảo đảm bằng tài sản. Bảng 2: Dư nợ cho vay theo hình thức cầm cố, thế chấp tài sản của khách hàng vay tại Sở giao dịch I năm 2005 Đơn vị: tỷ đồng Loại tài sản Dư nợ Tỷ trọng (%) Máy móc, dây chuyền công nghệ 302,94 43,9 Nhà ở, quyền sử dụng đất 372,63 54 Giấy tờ có giá và tài sản bảo đảm khác 14,49 2,1 Tổng 690,06 100 (Nguồn: Báo cáo hoạt động bảo đảm tiền vay năm 2005 tại Sở giao dịch I) Như vậy, ta thấy khi ngân hàng thực hiện nghiệp vụ cho vay có bảo đảm bằng cầm cố thế chấp tài sản của khách hàng vay thì ngân hàng sử dụng nhà đất để thế chấp là chiếm tỷ trọng lớn nhất, khoảng 54%. Hình thức này chiếm tỷ trọng cao là do đây là loại tài sản có giá trị cao nên khi khách hàng đem thế chấp sẽ được ngân hàng cho vay một số tiền lớn tương đương với tỷ lệ % cho vay theo quy định, đáp ứng được nhu cầu vay vốn của khách hàng. Bên cạnh đó, thế chấp tài sản thì sẽ không ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh, đời sống của khách hàng vay nên đây là hình thức được ưa chuộng nhất. ở Sở giao dịch I, dư nợ cho vay đối với loại tài sản dùng để cầm cố là giấy tờ có giá và cầm cố, thế chấp bằng các tài sản bảo đảm khác chiếm tỷ trọng rất nhỏ, khoảng 2,1%. Giấy tờ có giá mà Sở sử dụng là sổ tiết kiệm, cổ phiếu, trái phiếu… nhưng trong đó sổ tiết kiệm là tài sản được sử dụng nhiều nhất, chiếm khoảng 90% trong tổng số dư nợ cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá. Việc cầm cố đối với cổ phiếu chiếm tỷ lệ thấp vì do thị trường chứng khoán Việt Nam chưa thực sự phát triển nên số lượng cổ phiếu trên thị trường chưa nhiều, chất lượng cũng chưa cao. Do đó đã không kích thích được khách hàng tham gia nhiều vào thị trường này nên ngân hàng cũng hạn chế cho vay. Các tài sản bảo đảm khác như ô tô, thiết bị thường dùng để thế chấp nhưng hình thức chiếm tỷ trọng rất nhỏ vì các ngân hàng thường rất thận trọng khi quyết định cho vay theo hình thức này. Nguyên nhân là do những tài sản thế chấp này theo quy định thì vẫn có thể được để lại để khách hàng vay sử dụng nên sẽ có sự hao mòn vô hình theo thời gian, và điều đó sẽ làm giảm giá trị của tài sản thế chấp. Ngoài ra, với sự phát triển của khoa học kỹ thuật thì việc tạo ra những sản phẩm mới tốt hơn, mẫu mã đẹp hơn sẽ dần đào thải các sản phẩm cũ. Điều này cũng gây ảnh hưởng đến giá cả của sản phẩm trên thị trường. Do đó, khi sử dụng hình thức này đòi hỏi ngân hàng phải có các chuyên gia có kinh nghiệm về thẩm định tài sản. 2.2. Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba Bảng 3: Tình hình dư nợ cho vay có bảo đảm bằng tài sản của bên thứ ba tại Sở giao dịch I từ 2003-2005 Đơn vị: tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Dư nợ cho vay có bảo đảm bằng tài sản của bên thứ ba (1) 157,94 290,58 345,03 Dư nợ cho vay có bảo đảm bằng tài sản (2) 596 1016 1113 Tỷ trọng (1/2) 26,5% 28,6% 31% (Nguồn: Báo cáo hoạt động bảo đảm tiền vay tại Sở giao dịch I) Ta thấy dư nợ cho vay theo hình thức bảo đảm bằng tài sản của bên thứ ba chiếm tỷ trọng khá cao so với dư nợ cho vay có bảo đảm bằng tài sản. Trong khoảng thời gian từ năm 2003-2005 tỷ trọng của dư nợ cho vay có bảo đảm bằng tài sản của bên thứ ba có xu hướng tăng lên. Năm 2003, dư nợ cho vay có bảo đảm bằng tài sản của bên thứ ba chiếm 26,5% so với tổng dư nợ cho vay có bảo đảm bằng tài sản, đến năm 2004 tỷ trọng đó tăng 28,6% và đến năm 2005 thì đạt khoảng 31%. Đây là hình thức bảo đảm tiền vay tương đối an toàn. Để được áp dụng hình thức này thì bên bảo lãnh phải thoả mãn một số điều kiện quy định và phải chịu trách nhiệm về khoản vay của khách hàng đối với ngân hàng thì mới được đứng ra bảo lãnh. Vì vậy, để bảo đảm quyền lợi cho mình thì bên bảo lãnh phải hiểu rõ tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của bên được bảo lãnh để tránh rủi ro phải thanh toán hộ cho khách hàng vay vốn. ở Sở giao dịch I, tỷ trọng này chiếm tỷ trọng khá lớn là do khách hàng của Sở khá nhiều là các công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, các doanh nghiệp tư nhân. Đây là hình thức bảo đảm mà các khách hàng này thường áp dụng khi vay vốn. 2.3. Bảo đảm tiền vay bằng uy tín của khách hàng vay Biểu 1: Dư nợ cho vay đảm bảo bằng uy tín Đơn vị: tỷ đồng Dư nợ cho vay có bảo đảm bằng uy tín của khách hàng vay ở Sở giao dịch I chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng dư nợ cho vay của Sở. Từ năm 2003-2005, dư nợ cho vay có bảo đảm bằng uy tín luôn chiếm tỷ trọng trên 50% tổng dư nợ, năm 2005 đạt 60,1%. Cho vay có bảo đảm bằng uy tín là hình thức cho vay có độ rủi ro lớn song ở Sở giao dịch I thì nó lại chiếm tỷ trọng cao nhất. Bởi vì do khách hàng của Sở chủ yếu là các tổng công ty nhà nước, các khách hàng truyền thống có uy tín cao đối với ngân hàng, có năng lực tài chính tốt. Ngoài ra Sở còn có một tỷ lệ cho vay theo sự chỉ định của Chính phủ vì Sở giao dịch I nằm trong hệ thống Ngân hàng Công thương Việt Nam. Để có thể thực hiện tốt hoạt động cho vay theo hình thức này thì Sở phải có một chính sách thẩm định khách hàng tốt, phải lựa chọn được những khách hàng có đủ tiêu chuẩn, thoả mãn các điều kiện theo quy định pháp luật. Bên cạnh đó, Sở cũng đã xây dựng bảng chấm điểm khách hàng theo tiêu chuẩn do Ngân hàng Công thương Việt Nam đặt ra để lựa chọn được những khách hàng tiềm năng trên mọi lĩnh vực, ở mọi thành phần kinh tế. Như vậy, khi ngân hàng quyết định cho vay dựa trên năng lực, uy tín của khách hàng vay thì ngân hàng đã giảm thiểu được các thủ tục về tài sản trong trường hợp cho vay có bảo đảm bằng tài sản. ở Sở giao dịch I, tỷ lệ nợ quá hạn của hình thức cho vay có bảo đảm bằng uy tín này là 0% trong cả khoảng thời gian 2003-2005. Điều đó chứng tỏ, khách hàng của Sở là có uy tín cao, đồng thời công tác thẩm định khách hàng của Sở cũng đã đạt được những kết quả tốt. 2.4. Tình hình quản lý tài sản đảm bảo ở Sở giao dịch I vấn đề quản lý tài sản đảm bảo được phân thành 2 trường hợp, với mỗi loại tài sản bảo đảm sẽ có cách quản lý tài sản bảo đảm riêng và phù hợp. - Trường hợp tài sản bảo đảm do khách hàng vay hay bên thứ ba quản lý hoặc sử dụng thì Sở thực hiện quản lý như sau: Trường hợp tài sản bảo đảm có số lượng lớn, tính chất kỹ thuật phức tạp hoặc việc kiểm tra đòi hỏi phải mất nhiều thời gian và sức lao động thì cán bộ tín dụng cần chủ động đề xuất bổ sung cán bộ cùng kiểm tra kể cả việc đề xuất trưởng/phó phòng cùng tham gia kiểm tra tài sản bảo đảm. Cán bộ tín dụng cần thu thập và lưu giữ hồ sơ, các loại giấy tờ khác liên quan đến tài sản bảo đảm, chứng minh tình trạng hiện tại của tài sản một cách đầy đủ. Trong trường hợp ngân hàng phát hiện được các vi phạm cam kết của khách hàng vay hay bên thứ ba gây tác động xấu đến tài sản bảo đảm thì các cán bộ tín dụng phải thực hiện các bước sau: + Lập biên bản nêu rõ tính chất nghiêm trọng của sự việc, nghĩa vụ và trách nhiệm cụ thể mà bên vi phạm phải gánh chịu, các biện pháp ngân hàng sẽ áp dụng nhằm sớm chấm dứt tình trạng vi phạm và phải có chữ ký đầy đủ của khách hàng vay hay bên thứ ba. + Sau khi lập biên bản đầy đủ thì báo cáo ngay sự việc cho lãnh đạo phòng hay Giám đốc Sở biết để đề xuất biện pháp xử lý thích hợp. + Tiếp đó gửi công văn đến khách hàng vay hay bên thứ ba để thông báo các biện pháp mà ngân hàng áp dụng nhằm chấm dứt ngay tình trạng vi phạm. + Cán bộ tín dụng cần chú ý mỗi lần kiểm tra tài sản bảo đảm thì cần lập Biên bản kiểm tra có chữ ký của các bên liên quan và lưu giữ hồ sơ đầy đủ. - Trường hợp tài sản bảo đảm do chính ngân hàng quản lý Ngân hàng quản lý tài sản bảo đảm là giấy tờ có giá thì thủ tục quản lý tài sản được thực hiện như sau: Ngay sau khi nhận bàn giao tài sản là giấy tờ có giá từ khách hàng vay hay bên bảo lãnh thì cán bộ tín dụng chịu trách nhiệm tiến hành thủ tục bàn giao và bảo quản tài sản là giấy tờ có giá tại phòng ngân quỹ của chi nhánh. Việc bàn giao phải được xác nhận bằng biên bản bàn giao. Biên bản bàn giao bao gồm các nội dung sau: + Ngày giờ địa điểm cụ thể bàn giao + Tên bên giao, bên nhận tài sản + Liệt kê các loại giấy tờ bàn giao, nêu rõ loại giấy tờ đó là bản sao hay bản chính + Trách nhiệm và nghĩa vụ mỗi bên Để tiện cho quá trình làm việc, tránh tình trạng cán bộ tín dụng phải nhiều lần lấy lại hay xem lại giấy tờ có giá thì cán bộ tín dụng nên giữ bản sao toàn bộ các loại giấy tờ có giá gửi lưu giữ tại phòng ngân quỹ. Đối với tài sản bảo đảm khác thì trong nhiều trường hợp ngân hàng buộc phải trực tiếp quản lý và bảo quản tài sản bảo đảm không phải là giấy tờ có giá như nhà cửa, ô tô, hàng hoá…Đối với trường hợp như thế này thì ngân hàng nên thuê một bên thứ ba đứng ra bảo quản hộ. Trên đây là các biện pháp mà ngân hàng đã sử dụng để thực hiện việc quản lý tài sản bảo đảm. Trong thời gian qua, Sở đã thực hiện theo đúng những quy định đó nên tình trạng quản lý tài sản bảo đảm của Sở đạt hiệu quả tốt. Do đó hiệu quả của công tác bảo đảm tiền vay tại Sở được nâng cao. ở Sở giao dịch I tình hình cầm cố thế chấp tài sản chủ yếu là nhà ở, chiếm 67,4% giá trị tài sản được dùng để cầm cố thế chấp. Những tài sản này chủ yếu là do khách hàng vay giữ nên ngân hàng phải tiến hành kiểm tra sổ đỏ, giấy tờ đất liên quan đến tài sản được dùng để thế chấp. 2.5. Định giá tài sản đảm bảo Sở giao dịch I tiến hành định giá tài sản đảm bảo theo các nội dung sau: - Trong trường hợp giá trị tài sản là quyền sử dụng đất thì được định giá theo thoả thuận nhưng không vượt quá khung giá do UBND tỉnh, thành phố, các cấp có thẩm quyền của Nhà nước ban hành để xác định giá trị của tài sản bảo đảm, bảo gồm các loại sau: + Đất mà hộ gia đình, cá nhân chuyển nhượng quyền sử dụng đất hợp pháp + Đất do Nhà nước giao có thu tiền đối với tổ chức kinh tế + Đất mà tổ chức kinh tế nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất hợp pháp - Trong trường hợp năng lực và kinh nghiệm ngân hàng không đủ để xác định giá trị tài sản bảo đảm một cách chính xác, ngân hàng phải thuê một tổ chức chuyên môn có chức năng định giá độc lập để xác định giá trị tài sản bảo đảm. 2.6. Tình hình xử lý, phát mại tài sản bảo đảm Khách hàng vay khi đến hạn trả nợ mà không thực hiện được nghĩa vụ thì ngân hàng sẽ tiến hành thông báo cho khách hàng biết số tiền mà khách hàng đã vay sẽ bị chuyển sang nợ quá hạn và yêu cầu khách hàng có những biện pháp để thực hiện nghĩa vụ trả nợ trên một cách sớm nhất. Sở giao dịch I tiến hành xử lý, phát mại tài sản bảo đảm để thu hồi nợ trong trường hợp: - Sau thời hạn 60 ngày kể từ khi đến hạn trả nợ mà tài sản bảo đảm tiền vay chưa được xử lý theo thoả thuận thì ngân hàng sẽ tiến hành phát mại tài sản đó. - Khách hàng vay là tổ chức kinh tế bị giải thể trước khi đến hạn trả nợ thì nghĩa vụ trả nợ tuy chưa đến hạn cũng được coi là đến hạn, nhưng trong trường hợp này thì khách hàng vay lại không thực hiện nghĩa vụ trả nợ và cũng không xử lý tài sản bảo đảm tiền vay để trả nợ. - Khách hàng có nhiệm vụ phải thực hiện trả nợ trước hạn theo quy định của pháp luật nhưng khách hàng vay không trả nợ và cũng không xử lý tài sản bảo đảm tiền vay để trả nợ. - Khách hàng không thực hiện theo quy định của pháp luật các biện pháp với tài sản bảo đảm khi chia, tách, hợp nhất, sát nhập, chuyển đổi và cổ phần hoá. Việc xử lý tài sản bảo đảm ở Sở được tiến hành theo các bước như đã trình bày ở chương 1 trong phần “xử lý tài sản bảo đảm”. Năm 2003 tổng dư nợ quá hạn của Sở là ở mức khá cao, khoảng 58 tỷ đồng. Trong đó 2 tỷ đồng phải xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ. Đến năm 2004, 2005 thì tổng dư nợ quá hạn của Sở đã có sự sụt giảm mạnh. Ngân hàng với việc thực hiện tốt công tác bảo đảm tiền vay mặc dù vẫn có nợ quá hạn nhưng tỷ lệ nợ quá hạn đó vẫn nằm trong giới hạn an toàn nên không có trường hợp nào phải xử lý tài sản bảo đảm. 3. Đánh giá hiệu quả hoạt động bảo đảm tiền vay tại Sở giao dịch I - NHCTVN 3.1. Những chuẩn mực để đánh giá hiệu quả của hoạt động bảo đảm tiền vay ở chương 1 chúng ta đã đưa ra được những chỉ tiêu để đánh giá hiệu quả của hoạt động bảo đảm tiền vay tại các ngân hàng thương mại. Sau đây, chúng ta sẽ sử dụng những chỉ tiêu đó để đánh giá hiệu quả hoạt động bảo đảm tiền vay tại Sở giao dịch I trong những năm gần đây từ 2003 - 2005. 3.1.1. Các chỉ tiêu về nợ quá hạn Tỷ lệ nợ quá hạn cao hay thấp sẽ cho biết quá trình cho vay có được sự tăng trưởng lành mạnh hay không. Bở._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36304.doc
Tài liệu liên quan