Nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm

Tài liệu Nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm: LỜI NÓI ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài: Việt Nam cũng như ở các nước trên toàn thế giới, các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang ngày càng khẳng định vai trò của mình với nền kinh tế- xã hội. Theo thống kê, các DNNVV chiếm tới 96% tổng số doanh nghiệp trong cả nước, đóng góp hơn 28% GDP và thu hút được một lực lượng lao động đáng kể, tạo nhiều việc làm, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, khai thác những tiềm năng trong dân cư. Mặc dù vậy, các doanh nghiệp này vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn,... Ebook Nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm

doc77 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1293 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vướng mắc cần giải quyết, mà một vấn đề nổi cộm là nguồn vốn để các DNNVV phát triển. Khi các doanh nghiệp này cần vốn, họ thường huy động từ các nguồn như các cá nhân, doanh nghiệp khác, gia đình bạn bè và một nguồn vốn rất quan trọng là từ các NHTM. Các NHTM đóng vai trò quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp. Nhưng bên cạnh đó, việc ngân hàng cho các doanh nghiệp vay vốn ngày càng tăng cũng cần đòi hỏi nâng cao hiệu quả của hoạt động cho vay để hoạt động kinh doanh của ngân hàng phát triển bền vững. Nhận thức được vai trò quan trọng của hoạt động cho vay ngân hàng đối với các DNNVV cũng như qua khảo sát thực tế về tình hình cho vay tại chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm trong thời gian thực tập, em đã mạnh dạn chọn đề tài cho luận văn tốt nghiệp của mình là: “ Nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm”. 2. Mục đích nghiên cứu của luận văn - Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về hiệu quả cho vay DNNVV của ngân hàng thương mại. - Phân tích, đánh giá thực trạng hiệu quả cho vay DNNVV tại NHCT Hoàn Kiếm trong thời gian qua. - Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả cho vay DNNVV tại NHCT Hoàn Kiếm. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu hiệu quả cho vay DNNVV tại NHCT Hoàn Kiếm trong thời gian 3 năm từ năm 2005 đến năm 2007. 4. Đóng góp của luận văn - Hệ thống hoá những vấn đề lý luận về hiệu quả cho vay đối với DNNVV của ngân hàng thương mại, phân tich các nhân tố ảnh hưởng tời hiệu quả cho vay DNNVV. - Đánh giá thực trạng hiệu quả cho vay DNNVV tại NHCT Hoàn Kiếm, phân tích các nguyên nhân dẫn đến các hạn chế hiệu quả cho vay. - Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả cho vay DNNVV tai CN NHCT Hoàn Kiếm. 5. Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình thực hiện luận văn, các phương pháp thống kê, điều tra chọn mẫu, tổng hợp, so sánh được sử dụng để nghiên cứu. 6. Kết cấu của luận văn: Tên đề tài: “Nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm”. Ngoài lời nói đầu và kết luận, luận văn được kết cấu theo ba chương: Chương 1: DNNVV & Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả cho vay đối với DNNVV Chương 2: Thực trạng hiệu quả hoạt động cho vay đối với DNNVV tạo NHCT Hoàn Kiếm. Chương 3: Một số giảp pháp nâng cao hiệu quả cho vay tại CH NHCT Hoàn Kiếm. CHƯƠNG I: DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ & SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO HIỆU QUẢ CHO VAY ĐỐI VỚI DNVVN 1. Doanh nghiệp vừa và nhỏ 1.1.1 Khái niệm Hiện nay ở mỗi nước, tuỳ theo đặc điểm và mô hình phát triển kinh tế của nước mình mà đưa ra những định nghĩa và các tiêu chí khác nhau để xác định khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ.ở Việt Nam, khái niệm DNVVN lần đầu tiên được đưa ra theo công văn số 861/CP-KTN ban hành ngày 20/0601998. Theo đó, DNVVN được tạm thời quy định là “ Những doanh nghiệp có vốn điều lệ dưới 5 tỷ đồng và có số lao động trung bình hàng năm dưới 200 người”. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển chung của nền kinh tế đất nước, khái niệm này không còn phù hợp. Để đáp ứng đòi hỏi của thực tế, Ngày 23/11/2001, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 90/2001/NĐ_CP về trợ giúp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, theo định nghĩa: “Doanh nghiệp vừa và nhỏ là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng kí kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có số vốn đăng kí kinh doanh không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người”. Nghị định quy định đối tượng áp dụng bao gồm: - Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp. - Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp Nhà nước. - Các hợp tác xã thành lập và hoạt động theo Luật Hợp tác xã. - Các hộ kinh doanh cá thể đăng ký theo Nghị định số 02/2000/NĐ-CP ngày 03 tháng 02 năm 2000 của Chính phủ về đăng ký kinh doanh. Theo định nghĩa và cách đánh giá này thì ở nước ta hiện nay có tới 75% số doanh nghiệp Nhà nước và hầu hết ( trên 07%) số doanh nghiệp ngoài quốc doanh, bao gồm: hợp tác xã, doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, đều thuộc diện doanh nghiệp vừa và nhỏ.DNVVN đang dần trở thành bộ phận quan trọng đóng góp đáng kể vào nền kinh tế quốc dân. Trong thời gian vừa qua, chỉ tính riêng khu vực dân doanh( mà chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ) đã sử dụng gần 3triệu lao động, đóng góp hơn 40% GDP và 29% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, đóng góp khoảng 14,8% tổng thu Ngân sách Nhà nước. Phát triển DNVVN đang là vấn đề được Đảng và Nhà nước rất coi trọng, được coi là mottk trong những nhiệm vụ trọng tâm trong chiến lược phát triển kinh tế- xã hội của nước ta.Các DNVVN đang ngày càng có vai trò quan trọng và trở thành động lực tăng trưởng kinh tế của nền kinh tế. 1.1.2 Đặc điểm của DNVVN Đặc điểm đồng thời cũng là đặc trưng của loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ, nếu đem so sánh với những loại hình doanh nghiệp khác, mang những đặc điểm riêng biệt; Thứ nhất: Doanh nghiệp vừa và nhỏ được thành lập dễ dàng, nhanh chóng. Để thành lập một doanh nghiệp với quy mô vừa và nhỏ chỉ cần số vốn đầu tư ban đầu tương đối ít, mặt bằng sản xuất nhỏ hẹp, quy mô nhà xưởng không quá lớn. Chính vì thế mà số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ tăng rất nhanh và chiếm tỷ lệ cao trong tổng số các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Thứ hai: Với lợi thế quy mô vừa và nhỏ, bộ máy quản lý gọn nhẹ, cơ sở vật chất kỹ thuật không quá lớn, dễ dàng chuyển hướng trong kinh doanh, linh hoạt hơn trong việc cải tiến thay đổi và tạo ra sản phẩm mới, nhanh chóng đáp ứng nhu cầu thị trường. Và khi thị trường có những thay đổi bất lợi nó dễ dàng thu hẹp quy mô sản xuất để thích ứng mà không gây ra hậu quả lớn cho xã hội. Thứ ba: Các DNNVV hoạt động sản xuất kinh doanh với quy mô nhỏ lẻ và địa bàn hoạt động phân tán rộng khắp trên các vùng và miêb lãnh thổ của đất nước. Từ đó có thể tận dụng tối đa các lợi thế về nguồn nguyên liệu và nhân lực ở từng địa phương. Thứ tư: Đa dạng hoá về hình thức sở hữu, lĩnh vực kinh doanh.Nhưng do tính lịch sử của quá trình hình thành và phát triển các thành phần kinh tế ở nước ta, đại bộ phận các DNNVV theo quy định hiện hành đều thuộc khu vực ngoài quốc doanh. Thứ năm: Tính chủ động và trách nhiệm của chủ doanh nghiệp cao: hầu hết người điều hành doanh nghiệp đông thời là chủ sở hữu. Vì vậy , họ hoàn toàn có quyền chủ động trước mọi quyết định kinh doanh của doanh nghiệp, đảm bảo tính nhanh nhậy với thị trường. Thứ sáu: Các DNNVV có quy mô vốn nhỏ thường không đáp ứng đựoc điều kiện tham gia thị trường chứng khoán. Vì vậy, bên cạnh vốn chủ sở hữu, nguồn vốn cho hoạtt động sản xuất kinh doanh chủ yếu được huy động từ hai nguồn: nguồn thứ nhất và chiếm tỷ trọng lớn vẫn từ nguồn vốn vay ngân hàng, nguồn thứ hai là từ gia đình, bạn bè. Thứ bảy: Khả năng canh tranh của các doanh nghiệp này còn thấp do hạn chế về vốn, về trình độ, công nghệ, phương thức quản lý, khả năng tiếp cận thông tin và khả năng tiếp cận thị trường thấp. Thứ tám: DNNVV khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn ngân hàng vì bản thân nó thiếu tài sản thế chấp, không xây dựng được phương án sản xuất kinh doanh hiệu quả. Do đó doanh nghiệp thường huy động với hình thức vay với lãi suất cao, ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh. 1.1.3 Vai trò doanh nghiệp vừa và nhỏ đối với nền kinh tế. Một là: DNNVV có vai trò rất quan trọng đóng góp vào sự tăng trưởng của nền kinh tế, tạo thêm nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước. Kể từ khi ban hành Luật doanh nghiệp vào năm 2000 đã tạo điều kiện cho nhiều nhà doanh nghiệp thành lập công ty mới. Từ năm 2000 đến năm 2006, Việt Nam co 207.034 doanh nghiệp tư nhân( chủ yếu là các Doanh nghiệp vừa và nhỏ) đăng kí kinh doanh thành lập mới với tổng số vốn đăng kí kinh doanh đạt hơn 466 nghìn tỷ đồng. Từ khi ra đời, các DNNVV đã khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, từng bước khẳng định vị thế của mình trong nền kinh tế, đã góp phần không nhỏ váo sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế, tạo thêm nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước, từ đó tăng nguồn thu nhập cho người lao động và cải thiện đời sống dân cư thông qua các chính sách phúc lợi xã hội. Theo số liệu thống kê của Bộ kế hoạch và đầu tư, mỗi năm thành phần kinh tế này tạo ra khoảng 40% GDP và 29% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, và đóng góp khoảng 14.8% tổng thu ngân sách Nhà nước Hai là: DNNVV góp phần thu hút tối đa mọi nguồn nhân lực của đất nước, giải quyểt nạn thất nghiệp tạo ra sự phát triển cân đối trong nền kinh tế. Với lợi thế đa dạng về lĩnh vực kinh doanh và địa bàn hoạt động( từ thành thị đến nông thôn, từ đồng bằng đến miền núi, trong mọi thành phần kinh tế) DNNVV có thể sử dụng nguồn lao động dồi dào ở mọi nơi, ở mọi trình độ, vì vậy những người có chuyên môn không cao vẫn có thể tìm được việc làm thích hợp với khả năng của mình. Điều này đặc biệt có y nghĩa quan trọng trong nền kinh tế, bởi DNNVV không chỉ giải quyết việc làm cho các lao động có trình độ mà còn cả các lao động thủ công, có trình độ thấp và chưa được đào tạo hiện đang chiếm tỷ trọng lớn ở Việt Nam hiện nay. Ngoài ra, khi đổi mới sắp xếp lại DNNN ước đoán sẽ giảm số lượng lao động trong khu vực này trong tương lai. Do đó, khu vực tư nhân sẽ đóng góp đáng kể vào viếc tạo thêm việc làm cho bộ phận lao động này. Ba là: DNNVV góp phần thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành, khu vực và thành phần kinh tế, tạo một cơ cấu kinh tế hợp lý. Với tính chất đa ngành nghề, khu vực doanh nghiệp này khu vực doanh nghiệp này làm cho nền kinh tế trở nên đa dạng và phong phú hơn, các doanh nghiệp được phân bổ đều hơn giữa các vùng lãnh thổ từ nông thôn đến thành thị, từ miền núi đến đồng bằng.. làm thay đổi cơ cấu ngành kinh tế. Ngoài ra, xét trong khu vực kinh tế nông thôn, các doanh nghiệp này góp phần phát triển công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn, xoá dần tình trạng thuần nông và độc canh, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Bốn là: Đây là bộ phận có vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất, lưu thông hàng hoá, cung ứng dịch vụ, là các vệ tinh gắn kết, hỗ trợ và thúc đẩy sự phát triển của các DN lớn trong nền kinh tế. Có thể nói, Doanh nghiệp vừa và nhỏ ngày càng đóng vai trò quan trọng và trở thành động lực tăng trưởng kinh tế của nền kinh tế. Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ đang là vấn đề được Đảng và Nhà nước rất coi trọng, được coi là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội .Đặc biệt là trong điều kiện Việt Nam hội nhấp như hiện nay. Theo Nghị định số 90/2001/NĐ- CP ngày 23/11/2001 của Chính phủ về việc trợ giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ có xác định mục tiêu như sau: Phát triển DNNVV là một nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nưóc . Đảng và Nhà nước ta đang khuyến khích và tạo thuận lợi cho doanh nghiệp vừa và nhỏ phát huy tính chủ động sáng tạo, nâng cao năng lực quản lý, phát triển khoa học - công nghệ và nguồn nhân lực, mở rộng các mối liên kết với các loại hình doanh nghiệp khác, tăng hiệu quả kinh doanh và khả năng cạnh tranh trên thị trường, phát triển sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm và nâng cao đời sống cho người lao động. Điều này thể hiện qua các quy định, quy chế, nghị quyết mới được ban hành, sửa đổi đã phù hợp hơnm tạo ra nhiều cơ hội hơn cho các doanh nghiệp này phat triển cả về vốn và lao động nhằm khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư làm ăn lớn và khuyến khích việc thu hút thêm nhiều lao động đang thiếu việc làm. Theo định hướng của Chính phủ đến năm 2010, cả nước sẽ có 500.000 DNNVV, tạo việc làm cho khoảng 20 triệu người. 1.2 Hiệu quả hoạt động cho vay và sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả cho vay đối với DNNVV. 1.2.2 Khái niệm hoạt động cho vay và hiệu quả hoạt động cho vay. Theo quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng ban hành kèm theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN của Thống đốc NHNN: “Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để khách hàng sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. Sự hoàn trả là đặc trưng thuộc về bản chất của cho vay. Có thể nói đây là hoạt động lớn nhất, chủ yếu nhất của NHTM. Ngay từ khi mới hình thành các NHTM luôn tìm kiếm các cơ hội để thực hiện cho vay, coi đó như là một chức năng quan trọng nhất của mình. Thông thường ở các nước nghiệp vụ này mang lại 2/3 thu nhập cho các ngân hàng. Còn ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, thu nhập từ hoạt động tín dụng mang lại chiếm tới 90% tổng thu nhập của ngân hàng. Tuy nhiên theo những số liệu thống kê cho thấy đây là cũng là lĩnh vực tiềm ẩn nhiều rủi ro nhất trong hoạt động của hệ thống NHTM. Vậy làm thế nào để đánh giá được hoạt động cho vay của một ngân hàng là có hiệu quả hay không, để từ đó tìm ra biên pháp nâng cao hiệu quả cho vay. Trước hết phải hiểu thế nào là hiệu quả hoạt động cho vay: “Hiệu quả hoạt động cho vay là sự đáp ứng yêu cầu của khách hàng (ở đây nhà nước, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng, và đáp ứng đầy đủ kịp thời vốn cho nhu là các DNNVV) về vốn vay phù hợp với định hướng phát triển kinh tế của địa phương cũng như của cầu vay vốn hợp lý của doanh nghiệp cũng như tạo tâm lý thoải mái cho họ trong và sau khi giao dịch với ngân hàng. Một khoản cho vay được coi là có hiệu quả phải đáp ứng được rất nhiều các tiêu chí của các chủ thể tham gia hoạt động nay. Tham gia vao quan hệ tín dụng của NHTM cod ba chủ thể: bản thân NHTM, doanh nghiệp và nền kinh tế. + Đối với toàn bộ nền kinh tế: hoạt động cho vay có hiệu quả khi nó góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, tạo ra sự ổn định, lưu thông tiền tệ. Khoản vay hiệu quả còn phải xem xét thêm ở những yếu tố như: công ăn việc làm, lợi ích xã hội…. của chính khoản vay đó đem lại hoặc thực hiện các chính sách của Nhà nước như thay đổi cơ cấu ngành, vùng….. + Đối với khách hàng: một khoản vay có hiệu quả là khoản vay đáp ứng được đầy đủ nhu cầu về vốn, thời gian cho hoạt động sản xuất kinh doanh cảu khách hàng. Khoản vay đó được trả ngân hàng đầy đủ đúng hạn. + Đối với NHTM, một khoản vay có hiệu quả góp phần thực hiện mục tiêu trong từng thời kì của NHTM đó, có thể là thu lãi, tăng thị phần hoặc cơ cấu lại cấu trúc khoản tín dụng(cấu trúc thời hạn, cấu trúc ngành…) Tuy nhiên điều kiện tiên quyết là khảon vay trước mắt phải đảm bảo hoàn trả đủ gốc và lãi đúng hạn, có nghĩa là mức độ an toàn của khoản vay là rất quan trọng. Như ta đã biết , nguồn vốn của NHTM chủ yếu là nguồn vốn huy động từ dân cư và các tổ chức kinh tế. Nguồn vốn tự có chỉ chiếm một tỷ trọng rất nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng. Mức độ an toàn của các khoản vay thể hiện chất lượng khoản vay đó. Một khoản vay không trả được nợ hay chứa đựng nhiều nguy cơ không trả được nợ thì được coi là một khoản vay có chất lượng kém và đương nhiên là không có hiệu quả. Một NHTM có nhiều khoản vay kém chất lượng dẫn đến tình trạng ngân hàng đó bị mất vốn, lỗ, mất khả năng thanh toán thậm chí dẫn đến phá sản. 1.2.3 Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả cho vay đối với DNNVV. Hiệu quả của hoạt động cho vay ảnh hưởng tới sự phát triển của nền kinh tế xã hội, tới sự tồn tại và phát triển của ngân hàng, cũng như của khách hàng vay vốn. * Đối với nền kinh tế xã hội: Hoạt động cho vay có ý nghĩa quan trọng đối với nền kinh tế xã hội. Thông qua việc nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay, tổng sản phẩm của nền kinh tế sẽ gia tăng do hoạt động sản xuất kinh doanh được thúc đẩy, từ đó vấn đề công ăn việc làm của người lao động được giải quyết, đời sống xã hội của người dân được cải thiện. Hiệu quả cho vay tốt sẽ giúp ổn định và phát triển cân đối các ngành, các vùng, đặc biệt giúp phát triển các vùng xa xôi hẻo lánh, qua đó nâng cao hiệu quả xã hội. Ngoài ra việc đảm bảo chất lượng cho vay còn giúp ổn định hoạt động và nâng cao chất lượng của thị trường tài chính. * Đối với khách hàng: Doanh nghiệp nào trong quá trình sản xuất kinh doanh cũng cần phải có vốn. Vốn tự có của doanh nghiệp thường không đủ để tài trợ cho hoạt động kinh doanh, nên doanh nghiệp thường phải huy động thêm vốn từ các nguồn khác như là qua thị trường chứng khoán hoặc qua các trung gian tài chính. Thị trường chứng khoán nước ta vẫn còn non trẻ, có nhiều biến động bất thường nên không phải là kênh huy động an toàn cho doanh nghiệp. Bên cạnh đó, các trung gian tài chính như các công ty tài chính, công ty bảo hiểm... chưa phát triển tại nước ta nên kênh huy động vốn thường xuyên hiện nay của các doanh nghiệp là hệ thống NHTM. Nhờ có vốn vay từ NHTM mà các doanh nghiệp có thể đổi mới máy móc thiết bị, mở rộng quy mô sản xuất, giúp doanh nghiệp có thể tồn tại và cạnh tranh trên thị trường. Hoạt động sản xuất kinh doanh hiệu quả, việc trả nợ các khoản vay đến hạn được thực hiện nghiêm túc lại nâng cao hiệu quả cho vay của NHTM. * Đối với ngân hàng: Cho vay chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng tài sản có của ngân hàng (thường từ 60%-70%). Hoạt động cho vay cũng là hoạt động mang lại lợi nhuận lớn nhất cho ngân hàng. Có thể nói rằng, ngân hàng khó có thể tồn tại và phát triển nếu không có hoạt động cho vay. Chính vì lẽ đó, việc phải nâng cao hiệu quả cho vay là một tất yếu khách quan mà bất cứ ngân hàng nào cũng cần phải quan tâm để có thể cạnh tranh với các ngân hàng khác trên thị trường. Nâng cao hiệu quả cho vay với DNNVV đảm bảo đáp ứng đầy đủ, kịp thời vốn cho DNNVV, đồng thời với lãi suất và kỳ hạn hợp lý, thủ tục đơn giản thuận tiện sẽ thu hút được nhiều khách hàng DNNVV. Việc phát triển khách hàng DNNVV mang lại cho ngân hàng một số lợi ích sau: + Do số lượng khách hàng DNNVV lớn, quy mô từng khoản vay nhỏ, lại đa dạng hoá về lĩnh vực nghành nghề kinh doanh, đa dạng hoá về địa bàn hoạt động nên việc cho vay các đối tượng khách hàng này sẽ giúp ngân hàng đa dạng hoá các danh mục cho vay, phân tán rủi ro. + Do tổng số giao dịch là lớn nên thu từ dịch vụ của ngân hàng cũng tăng lên. Ngoài ra, DNNVV thường có xu hướng sử dụng các sản phẩm trọn gói, tạo cơ hội để ngân hàng nâng cao và thay đổi cơ cấu thu nhập. +Ngân hàng dễ dàng quản lý do DNNVV thường có quy mô nhỏ, địa bàn hoạt động hẹp. + Cho vay DNNVV giúp ngân hàng tối ưu hoá mạng lưới chi nhánh, địa bàn hoạt động rộng khắp. Ngoài ra việc mở rộng cho vay đối với DNVVN hiện nay là cơ hội đối với các NHTM nói chung và NHCT nói riêng ; phù hợp với xu thế phát triển của nền kinh tế, phù hợp với chủ trương đường lối của Đảng. Bởi trong thời gian vừa qua bộ phận DNNVV đã và đang khẳng định vai trò quan trọng của mình trong nền kinh tế. Phát triển DNNVV là một trong những nhiệm vụ quan trọng của Đảng Nhà nước ta. Nhưng một thực trạng hiện nay là đa phần các DNNVV có quy mô sản xuất kinh doanh nhỏ và luôn trong tình trạng thiếu vốn cho mở rộng sản xuất kinh doanh. Nguồn vốn chủ yếu nhất tài trợ cho các hoạt động này là từ nguồn vốn tín dụng ngân hàng, nhưng việc tiếp cận với nguồn vốn này cũng không dễ dàng đối với DNNVV. Theo Cục phát triển Doanh nghiệp nhỏ và vừa- Bộ Kế hoạch và Đầu tu chỉ có 32.28% cac DNNVV có khả năng tiếp cận với nguồn vốn ngân hàng. Mặt khác, việc nâng cao hiệu quả cho vay đòi hỏi các ngân hàng phải tự hoàn thiện mình như hiện đại hoá công nghệ, nâng cao trình độ cán bộ nghiệp vụ….. qua đó giúp ngân hàng nâng cao năng lực cạnh tranh của mình, góp phần làm cho hệ thống ngân hàng nói riêng và hệ thông tài chính tiền tệ nói chung ngày càng phát triển. 1.3 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả cho vay. Hiệu quả cho vay được phản ánh quá khả năng cho vay và thu hồi vốn vay của ngân hàng, tới hiệu quả sử dụng vốn và khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Ta có các chỉ tiêu sau. 1.3.1. Các chỉ tiêu định tính * Về phía ngân hàng: Thứ nhất, ngân hàng cần phải xây dựng một quy trình cho vay hợp lý và thực hiện đúng theo quy trình này không bỏ qua bất kỳ một bước nào. Các bước trong quy trình cho vay lần lượt là tiếp xúc khách hàng để thu thập và xử lý thông tin, lập hồ sơ xin vay, thẩm định hồ sơ, thực hiện quyết định cho vay, ký hợp đồng tín dụng, giải ngân, tổ chức giám sát khách hàng vay, và cuối cùng là thu nợ (gốc và lãi). Thứ hai, ngân hàng phải thực hiện phân tán rủi ro thông qua việc đa dạng hoá các khoản vay bằng cách phân ra làm nhiều loại như khoản vay ngắn hạn, trung hoặc dài hạn, khoản vay có TSĐB hoặc không có TSĐB..., đa dạng hóa các đối tượng khách hàng vay như cho vay các tổng công ty lớn, cho vay các DN vừa và nhỏ, cho các cá nhân vay...Như vậy vừa giúp cho ngân hàng giảm thiểu rủi ro, vừa giúp đa dạng hoá các ngành nghề trong nền kinh tế. Thứ ba, thủ tục cho vay, thái độ phục vụ khách hàng, trình độ của cán bộ ngân hàng, khả năng quản lý của cán bộ cấp cao cũng là những chỉ tiêu để đánh giá hiệu quả cho vay. Ngân hàng nào cũng hướng tới một thủ tục cho vay đơn giản với thái độ phục vụ khách hàng chu đáo, nhiệt tình của một đội ngũ cán bộ năng động, trẻ trung và kinh nghiệm. * Về phía khách hàng: Để một món vay có chất lượng cao ngoài sự cố gắng từ phía ngân hàng, còn cần tới sự hợp tác của khách hàng xin vay. Sự hợp tác này thể hiện ở chỗ, khách hàng cung cấp đầy đủ và chính xác những thông tin liên quan cho cán bộ ngân hàng phân tích như báo cáo tài chính, báo cáo tổng hợp, những thông tin về tình hình vay nợ trước đó..., hoặc sau khi nhận được khoản vay thì sử dụng nó đúng mục đích như đã thoả thuận. * Về phía nhà nước Các hợp đồng tín dụng muốn được thành lập nhanh chóng chỉ khi các giấy tờ, thủ tục của cơ quan có thẩm quyền, uỷ ban các cấp được giải quyết kip thời. Hiện nay ở nước ta, thủ tục giấy tờ còn rất rườm rà, mất thời gian làm ảnh hưởng đến tốc độ giải ngân, gây thiếu vốn, làm chậm quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp 1.3.2. Các chỉ tiêu định lượng 1.3.2.1. Doanh số cho vay, doanh số thu nợ, dư nợ Doanh số cho vay trong một thời kỳ nhất định (thường tính theo quý/năm) phản ánh khả năng và chất lượng hoạt động cho vay của ngân hàng. Với nguồn vốn huy động được, ngân hàng đã cho vay là bao nhiêu, có phù hợp với khả năng của mình hay không và có đạt được mục tiêu tối ưu hoá lợi nhuận. Các cá nhân đi vay luôn tìm hiểu xem ngân hàng mình định vay có phục vụ tốt, nhiệt tình, thủ tục vay có đơn giản hay không... từ đó mới quyết định vay. Nếu doanh số cho vay lớn có nghĩa là khách hàng tin tưởng vào chất lượng hoạt động cho vay của ngân hàng, ngược lại nếu doanh số ít tức là chất lượng cho vay của ngân hàng tồi. Doanh số thu nợ cho biết lượng vốn mà ngân hàng thu hồi được trong một thời kỳ nhất định (quý, năm), phản ánh tình hình thu nợ khách hàng, so sánh con số này với doanh số cho vay để xem xem hoạt động thu nợ của ngân hàng có hiệu quả không, từ đó cho thấy chất lượng của khoản vay giúp ta quan sát được diễn biến hoạt động của ngân hàng. Con số này mà tăng trưởng đều và ổn định Dư nợ phản ánh lượng vốn mà khách hàng sử dụng của ngân hàng tại một thời điểm cụ thể, là con số qua các năm chứng tỏ quy mô hoạt động cho vay tăng lên, điều đó đồng nghĩa với việc hiệu quả cho vay được nâng cao, tình hình hoạt động của ngân hàng tiến triển tốt. 1.3.2.2. Nợ quá hạn Nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và/hoặc lãi đã quá hạn. Tỷ lệ nợ quá hạn = Nợ quá hạn/Tổng dư nợ Tỷ lệ này đánh giá chất lượng của khoản vay, nếu tỷ lệ này thấp có nghĩa là chất lượng khoản vay là cao và ngược lại, nếu tỷ lệ này cao thì chất lượng của khoản vay là thấp. Ngân hàng nào cũng phải duy trì một tỷ lệ nợ quá hạn ở mức thấp. Chúng ta đều biết ngân hàng là một tổ chức đi vay để cho vay. Nếu ngân hàng cho vay mà không đòi được nợ thì sẽ không trả được nợ cho khách hàng gửi tiền cũng như cho những tổ chức, cá nhân khác mà ngân hàng đã vay tiền. Điều đó sẽ dẫn tới uy tín của ngân hàng bị giảm sút, việc làm ăn sẽ kém hiệu quả. Nếu tình trạng này kéo dài có thể sẽ dẫn đến việc ngân hàng bị phá sản. 1.3.2.3. Nợ xấu Nợ xấu (NPL), theo quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của thông đốc NHNN về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của TCTD, là các khoản nợ thuộc các nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn), nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) và nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn). Tỷ lệ nợ xấu = Đây là một tỷ lệ để đánh giá chất lượng cho vay. Cũng giống như Tỷ lệ nợ quá han, tỷ lệ này càng thấp thì chất lương cho vay của ngân hàng càng cao và ngược lại. Nợ xấu là những khoản nợ quá hạn từ 90 ngày trở lên, bên cạnh đó là những khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại. 1.3.2.4. Vòng quay vốn tín dụng Vòng quay vốn tín dụng = Tỷ lệ này cho ta biết, trong một thời gian nhất định, vốn tín dụng quay được bao nhiêu vòng. Tỷ lệ này càng lớn càng tốt vì ngân hàng luôn mong muốn tốc độ luân chuyển vốn nhanh vì nó chứng tỏ ngân hàng thu được nợ nhanh và ngân hàng lại có thể sự dụng khoản tiền này để cho doanh nghiệp khác vay, qua đó thu được nhiều tiền lãi, tức là làm gia tăng lợi nhuận. Mặt khác, doanh nghiệp trả được nợ trong khoảng thời gian ngắn có nghĩa là doanh nghiệp đã sử dụng vốn vay có hiệu quả, việc sản xuất kinh doanh tốt. 1.3.2.5. Hiệu suất sử dụng vốn Hiệu suất sử dụng vốn vay = Hệ số này cho hay NHTM đã sử dụng bao nhiêu % vốn huy động được để cho vay. Hiệu suất này cao chứng tỏ hoạt động cho vay của ngân hàng đang phát triển nhưng ngân hàng cần phải duy trì tỷ số này ở mức ổn định, không được quá cao vì như thế sẽ rất nguy hiểm do ngân hàng cần phải để phòng trường hợp mất khả năng thanh toán của khách hàng. Nếu quá thấp cũng sẽ ảnh hưởng đến việc kinh doanh của ngân hàng, lợi nhuận của ngân hàng bị giảm sút. 1.3.2.6. Một số chỉ tiêu khác Lãi cho vay/Tổng doanh thu Đây là chỉ tiêu đo lường khả năng sinh lời của ngân hàng do hoạt động cho vay mang lại. Nó cho thấy vai trò của cho vay trong hoạt động ngân hàng. Chi tiêu này lớn nghĩa là hoạt động cho vay chiếm phần lớn doanh thu của ngân hàng, hay chất lượng khoản vay cao. Lãi cho vay/Tổng dư nợ Chỉ tiêu này cũng phản ánh chất lượng cho vay. Chỉ tiêu này cao nghĩa là hoạt động cho vay có hiệu quả, ngân hàng thu được nhiều lợi nhuận, và ngược lại. 1.4 Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả cho vay. Hiệu quả hoạt động cho vay của ngân hàng không những bị ảnh hưởng bới chính bản thân ngân hàng mà còn bị ảnh hưởng bởi rất nhiều nhân tố bên ngoài khác như: sự phát triển của nền kinh tế, chế độ chính trị, văn hoá xã hội, môi trường pháp lý, các điều kiện tự nhiên, và đặc biệt là khách hàng đi vay. Sau đây ta sẽ đi vào từng nhân tố cụ thể: 1.4.1. Nhân tố chủ quan: Nhân tố chủ quan nằm trong nội tại ngân hàng. Đó là các chính sách tín dụng, cơ cấu tổ chức, cách thức quản lý, chất lượng cán bộ ngân hàng, quy trình cho vay, công nghệ và thiết bị ngân hàng...Tất cả đều ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động cho vay. 1.4.1.1. Chính sách tín dụng của NHTM Hoạt động cho vay là hoạt động chủ yếu của NHTM. Chính vì tầm quan trọng của nó, hoạt động này cần phải được thực hiện theo một chính sách rõ ràng, đó là chính sách tín dụng. “Chính sách tín dụng phản ánh cương lĩnh tài trợ của một ngân hàng, trở thành hướng dẫn chung cho cán bộ tín dụng và các nhân viên ngân hàng, tăng cường chuyên môn hoá trong phân tích tín dụng, tạo sự thống nhất chung trong hoạt động tín dụng nhằm hạn chế rủi ro và nâng cao khả năng sinh lời.” Mọi ngân hàng đều mong muốn có một chính sách tín dụng hoàn thiện và đúng đắn, qua đó nâng cao chất lượng tín dụng để có thể thu hút được nhiều khách hàng, và làm cho lợi nhuận của ngân hàng tăng. Khách hàng đi vay rất đa dạng, đó có thể là các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội, các cơ quan, đoàn thể, hoặc các cá nhân...Với mỗi một bộ phận khách hàng khác nhau, ngân hàng phải có những chính sách tín dụng riêng hợp lý. Có như vậy mới đảm bảo được chất lượng cho vay. 1.4.1.2. Cơ cấu tổ chức của NHTM Tổ chức bộ máy nhằm mục tiêu chủ yếu là tăng hiệu suất công việc, dẫn đến tăng thu nhập, giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng. Chính vì vậy ngân hàng cần phải tìm ra một bộ máy thích hợp để tránh sự trùng lặp nhiệm vụ giữa các phòng ban, làm giảm chi phí vận hành, chi phí quản lý và chi phí nhân công, tăng tính chuyên môn hóa..., từ đó nâng cao hiệu quả các hoạt động của ngân hàng, trong đó có hoạt động cho vay. Bên cạnh đó, môi trường kinh doanh thay đổi thường xuyên như sự ra đời của các tổ chức tài chính mới, sự xuất hiện của các sản phẩm mới, hay sự thay đổi công nghệ ngân hàng... cũng đòi hỏi ngân hàng phải không ngừng thay đổi tổ chức bộ máy cho phù hợp. 1.4.1.3. Cách thức quản lý của NHTM NHTM quản lý các khoản cho vay đều nhằm mục tiêu đảm bảo an toàn và tăng khả năng sinh lời cho ngân hàng. Để làm được điều đó ngân hàng cần phải nghiên cứu và tìm ra biện pháp quản lý các khoản cho vay sao cho có hiệu quả nhất. Chẳng hạn như ngân hàng phải thường xuyên phân loại rủi ro các khoản cho vay từ đó đánh giá khách hàng vay, thiết lập các rằng buộc pháp lý chặt chẽ giữa ngân hàng với khách hàng cũng như với cán bộ tín dụng ngân hàng, thiết lập các quỹ dự phòng thích hợp để có thể hạn chế tối thiểu rủi ro phát sinh. Từ đó ta thấy được tầm ảnh hưởng lớn của cách thức quản lý tới chất lượng cho vay của NHTM. 1.4.1.4. Chất lượng cán bộ NHTM Con người luôn là một yếu tố quan trọng trong quá trình phát triển của nền kinh tế và hoạt động ngân hàng không phải là ngoại lệ. Đặc biệt trong thời buổi hiện nay, khi hoạt động ngân hàng ngày càng đa dạng, phức tạp, phương tiện máy móc tiết bị ứng dụng trong lĩnh vực ngân hàng ngày càng hiện đại, nó đòi hỏi các cán bộ ngân hàng phải có trình độ chuyên môn giỏi, phải có khả năng ứng dụng khoa học kỹ thuật hiện đại một cách nhanh nhạy, không những thế cán bộ ngân hàng ngoài lĩnh vực ngân hàng còn phải am hiêu những lĩnh vực khác liên quan tới doanh nghiệp cho vay, từ công nghiệp, nông nghiệp tới dịch vụ. Có như vậy mới có khả năng đánh giá chính xác, đầy đủ về khách hàng xin vay, về phương án, dự án vay vốn cảu khách hàng, từ đó mới ra quyết định cho vay chính xác, tránh những sai phạm có thể xảy ra. Trình độ của cán bộ nhân viên ngân hàng ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng hoạt động cho vay. 1.4.1.5. Quy trình cho vay của NHTM Quy trình cho vay là tổng hợp các nguyên tắc quy định của ngân hàng trong việc cho vay. Việc xây dựng và thực hiện quy trình cho vay một cách chặt chẽ, hợp lý sẽ giúp cho ngân hàng ._.giảm bớt rủi ro đạo đức, quản lý khoản nợ một cách chặt chẽ, thu hồi được nợ đúng hạn, hạn chế rủi ro về khả năng mất vốn...Điều đó có nghĩa là chất lượng của khoản vay được nâng cao, và doanh lợi của ngân hàng cũng được nâng cao. 1.4.1.6. Thiết bị công nghệ NHTM sử dụng Nền kinh tế nói chung và ngành ngân hàng nói riêng liên tục ứng dụng những thiết bị công nghệ hiện đại tiên tiến để có thể cạnh tranh và tồn tại trong thị trường khốc liệt. Mọi ngân hàng đều đang cố gắng nỗ lực trong việc cải tiến công nghệ vì công nghệ tiên tiến sẽ giúp ngân hàng nắm bắt được tình hình thị trường cũng như là tình hình khách hàng một cách nhanh nhất để từ đó có thể đưa ra những chiến lược hợp lý, những chính sách phù hợp và kịp thời nhằm thoả mãn nhu cầu ngày càng cao của khách hàng. Đặc biệt, ngân hàng nào cũng chú trọng phát triển hệ thống thông tin khách hàng vì thông qua hệ thống này, ngân hàng có thể cập nhật liên tục thông tin liên quan đến khách hàng từ đó loại bỏ được những thông tin dư thừa, hạn chế được rủi ro tín dụng và nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng. 1.4.2. Nhân tố khách quan 1.4.2.1. Các nhân tố ảnh hưởng từ phía khách hàng * Thiện chí của khách hàng trong việc trả nợ cho ngân hàng: Đây là một nhân tố có ảnh hưởng lớn tới chất lượng của khoản vay. Khách hàng phải có thiện chí trả nợ thì lúc đó mới cung cấp đầy đủ và trung thực mọi thông tin về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mình, cũng như là sử dụng vốn vay đúng với mục đích như đã thoả thuận trong hợp đồng. Chỉ khi doanh nghiệp chịu hợp tác với ngân hàng thì ngân hàng mới đảm bảo chất lượng cho vay, nếu không, dù hợp đồng cho vay có chặt chẽ thế nào thì cũng không đảm bảo được an toàn cho khoản vay của ngân hàng. * Tình hình hoạt động kinh doanh của khách hàng là doanh nghiệp: Đây là yếu tố có ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng của khoản vay. Nếu như khách hàng làm ăn thuận lợi thì khả năng trả nợ được cho ngân hàng là rất lớn và ngược lại nếu khách hàng làm ăn thua lỗ, khả năng không trả nợ được cho ngân hàng là rất lớn, ngân hàng có thể phải gia hạn thêm nợ hoặc phải đưa vào nợ quá hạn, thậm chí là nợ khó đòi. Như vậy, ngân hàng luôn chú trọng xem xét tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định trước khi đưa ra quyết định cho vay. * Năng lực và trình độ quản lý của khách hàng: Nhà quản lý doanh nghiệp đóng vai trò quyết định trong hoạt động kinh doanh nghiệp, tới sự phát triển của doanh nghiệp. Nhà quản lý tài ba sẽ cho ra những quyết định chính xác nên quyết định đầu tư vào đâu, từ đó sẽ cho ra đời những phương án, dự án kinh doanh khả thi với chất lượng tốt. Nếu dùng vốn vay ngân hàng để đầu tư cho phương án thì tất nhiên chất lượng của khoản vay sẽ cao. Bên cạnh đó nhà quản lý phải là người có khả năng đưa ra quyết định nhanh chóng, kịp thời và linh hoạt mới giúp cho hoạt động của doanh nghiệp đạt hiệu quả cao, tức là doanh nghiệp có khả năng trả nợ ngân hàng đúng hạn. 1.4.2.2. Nhân tố kinh tế, chính trị, văn hoá - xã hội * Nhân tố kinh tế: Môi trường kinh tế có ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động của ngân hàng. Nếu nền kinh tế ổn định và phát triển nhanh, bền vững, hoạt động kinh doanh của ngân hàng sẽ gặp thuận lợi, ngân hàng có thể mở rộng các hoạt động một cách dễ dàng, đặc biệt là hoạt động cho vay do mọi thành phần kinh tế trong xã hội đều phát triển, nhu cầu đi vay sẽ lớn và cấp thiết hơn bao giờ hết. Ngược lại, nếu nền kinh tế gặp khủng hoảng hoặc kém phát triển như lạm phát cao, sự thay đổi thất thường, khó dự đoán của lãi suất, thì doanh nghiệp, cũng như các tổ chức kinh tế khác hoạt động không có hiệu quả, nhiều khi bị phá sản, nhu cầu đi vay vốn là không có, chính vì thế khả năng cho vay của ngân hàng bị hạn chế, các khoản đã cho vay đến hạn khó thu hồi lại được, thậm chí ngân hàng có thể bị mất vốn, dẫn đến chất lượng hoạt động cho vay bị ảnh hưởng. * Nhân tố chính trị: Cũng giống như nhân tố kinh tế, nền chính trị của một quốc gia ổn định, không có đàn áp, đảo chính sẽ tạo điều kiện cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp ổn định, việc làm ăn thuận lợi sẽ giúp doanh nghiệp trả được nợ ngân hàng, thông qua đó nâng cao chất lượng của hoạt động cho vay. * Nhân tố văn hóa – xã hội: Mỗi một nền văn hoá khách nhau sẽ có những ảnh hưởng khác nhau tới chất lượng của hoạt động cho vay. Chẳng hạn như văn hóa kinh doanh khác nhau sẽ khiến cho các ngân hàng có cơ cấu tổ chức khác nhau, dẫn tới hiệu quả hoạt động của các ngân hàng là khác nhau. Hay mỗi xã hội khác nhau thì lại có những chính sách phát triển khác nhau, như vậy sẽ ảnh hưởng tới phương hướng hoạt động của các tổ chức kinh tế trong xã hội... 1.4.2.3. Môi trường pháp lý Hoạt động của hệ thống ngân hàng nói chung và hoạt động cho vay của ngân hàng nói riêng đều nằm trong sự kiểm soát chặt chẽ của hệ thống pháp lý do nhà nước đặt ra. Hệ thống pháp lý là công cụ giúp nhà nước hạn chế những rủi ro có thể xảy ra đối với hệ thống ngân hàng như phá sản đồng loạt, dẫn tới toàn bộ nền kinh tế bị ảnh hưởng, cũng như những rủi ro có thế xảy ra đối với hoạt động cho vay của NHTM. Mỗi nhà nước đều đang cố gắng hoàn thiện những văn bản pháp quy, như hệ thống các văn bản luật, nghị định, quy định sao cho phù hợp với thực tiễn, qua đó có thể nâng cao được chất lượng hoạt động cho vay. Có thể nói, việc quản lý của nhà nước có tác động lớn đến hoạt động của các doanh nghiệp. Nếu nhà nước có những chính sách quản lý hợp lý và chặt chữ sẽ tạo cơ hội cho các doanh nghiệp phát triển lành mạnh, qua đó thúc đẩy hoạt động cho vay của NHTM. Ngược lại, nếu cơ chế chính sách lỏng lẻo sẽ dẫn tới kinh doanh không lành mạnh, ảnh hưởng tới chất lượng của khoản vay. 1.4.2.4. Các điều kiện tự nhiên: Bên cạnh những nhân tố ảnh hưởng do con người tạo ra thì những nhân tố bất khả kháng do thiên nhiên mang đến như thiên tai, hạn hán, mất mùa, động đất, dịch bệnh... cũng ảnh hưởng tới chất lượng cho vay của NHTM. Những nhân tố này mà xảy ra thì sẽ gây hậu quả nghiêm trọng cho cả khách hàng và ngân hàng do việc kinh doanh của khách hàng bị đình trệ, dẫn tới tổn thất nặng nề, hiệu quả kinh doanh bị giảm sút, các khoản nợ ngân hàng bị trì hoãn, thậm chí là không thể trả được. Ngân hàng không thu được nợ của khách hàng cũng sẽ ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CHO VAY DNNVV TẠI NHCT HOÀN KIẾM 2.1 khái quát về cn nhct hoàn kiếm. 2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm. Ngân hàng Công thương Việt Nam (Vietincombank) được thành lập từ năm 1988 sau khi tách ra khỏi Ngân hàng Nhà nước Việt Nam với tên ban đầu là Ngân hàng chuyên doanh Công thương Việt Nam. Sau đó, đến năm 1990, ngân hàng chính thức được đổi tên thành Ngân hàng Công thương Việt Nam. Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm là chi nhánh cấp 1 trực thuộc Ngân hàng Công thương Việt Nam có trụ sở chính tại 37 Hàng Bồ - quận Hoàn Kiếm - Hà Nội. Trước tháng 3/1988, NHCT Hoàn Kiếm thuộc về NHCT thành phố Hà Nội. Là một quỹ tiết kiệm nằm ở số 10 Lê Lai, lúc bấy giờ nhiệm vụ chính mà NHCT Hoàn Kiếm thực hiện là vừa kinh doanh tiền tệ, tín dụng và thanh toán vừa đảm bảo nhu cầu vốn cho các đơn vị ngoài quốc doanh và các tập thể trên địa bàn quận Hoàn Kiếm. Theo chỉ thị số 218/CT ban hành ngày 13/07/1987 của HDBT, thực hiện điều lệ của NHCT Việt Nam, ngày 26/03/1988, quỹ tiết kiệm ở sô 10 Lê Lai chính thức tách ra khỏi NHCT Hà Nội và trở thành NHCT Hoàn Kiếm cho đến nay. Cùng với sự thay đổi đó, ngân hàng đã chuyển về 37 Hàng Bồ, và nơi đây trở thành trụ sở chính của Ngân hàng. Chi nhánh Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ, tín dụng, dịch vụ ngân hàng theo luật các TCTD, Điều lệ NHCT VN, các quy định của Pháp luật và quy định của NHCT VN. NHCT Hoàn Kiếm hoạt động có con dấu, được mở tài khoản tại NHNN và các tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật, thực hiện chế độ hạch toán kinh tế nội bộ theo quy định của NHNN và NHCT VN, được phép thành lập một số đơn vị trực thuộc và các đơn vị này cũng được phép có con dấu để hoạt động kinh doanh theo quy định của NHCT VN. 2.1.2 Cơ cấu tổ chức của chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm. Theo các quyết định số 359/QĐ-HĐQT-NHCT1 ngày 23/11/2005 của chủ tịch hội đồng quản trị NH Công Thương Việt Nam về việc ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm Việt Nam; quyết định số 272/QĐ-HĐQT-NHCT1 ngày 11/07/2005 của Hội đồng quản trị NH Công Thương Việt Nam; quyết định số 704/QĐ-HĐQT-NHCT1 ngày 06/04/2006 của Tổng giám đốc NH Công Thương Việt Nam về chức năng, nhiệm vụ các phòng, ban của chi nhánh NH Công Thương Việt Nam; công văn số 1406/CV-NHCT1 ngày 06/04/2006 của Tổng giám đốc NH Công Thương Việt Nam; quyết định số 604/QĐ ngày 25/09/2006 của giám đốc NH Công Thương Việt Nam, CN Hoàn Kiếm thì Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm có mô hình tổ chức như sau. Đây là mô hình theo dự án hiện đại hóa ngân hàng. Giám đốc có nhiệm vụ điều hành và quản lý hoạt động của Sở giao dịch I theo quy đinh của NHCT, của NHNN. Các phó giám đốc có nhiệm vụ giúp đỡ giám đốc, chỉ đạo thực hiện một số nhiệm vụ do giám đốc giao phó. Phòng khách hàng 1 (doanh nghiệp lớn) là phòng trực tiếp giao dịch với khách hàng là doanh nghiệp lớn để khai thác vốn, cấp tín dụng cho khách hàng, theo dõi, quản lý các khoản tín dụng đã cấp... theo chế độ, thể lệ hiện hành và hướng dẫn của NHCT. Phòng khách hàng 2 (doanh nghiệp vừa và nhỏ) là phòng trực tiếp giao dịch với khách hàng là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Phòng khách hàng cá nhân là phòng trực tiếp giao dịch với khách hàng là những cá nhân. Phòng quản lý rủi ro có nhiệm vụ tham mưu cho giám đốc công tác quản lý rủi ro, đồng thời quản lý thực hiện danh mục cho vay, đầu tư, thẩm định và tái thẩm định khách hàng, dự án, phương án đề nghị cấp tín dụng... và thực hiện đánh giá, quản lý rủi ro trong toàn bộ hoạt động ngân hàng theo chỉ đạo của NHCT. Phòng kế toán giao dịch thực hiện các giao dịch trực tiếp với khách hàng như mở đóng tài khoản, mua bán ngoại tệ, thanh toán và chuyển tiền trong và ngoài nước..., thực hiện các công việc liên quan công tác quản lý tài chính, chi tiêu nội bộ, quản lý và chịu trách nhiệm với hệ thống giao dịch trên máy theo quy định của nhà nước và của NHCT. Phòng kế toán tài chính là phòng nghiệp vụ giúp giám đốc thực hiện quản lý tài chính như quản lý séc và các giấy tờ có giá, lập kế hoạch tài chính và báo cáo tài chính, tính và nộp thuế, bảo hiểm xã hội... theo quy định, thực hiện nhiệm vụ chi tiêu nội bộ theo đúng quy định của nhà nước và NHCT. Phòng thanh toán xuất nhập khẩu thực hiện nhiệm vụ thanh toán xuất nhập khẩu và kinh doanh ngoại tệ theo quy định của NHCT như phát hành, sửa đổi, thanh toán L/C nhập khẩu, phát hành, thông báo bảo lãnh trong nước và nước ngoài, xây dựng giá mua, bán hàng ngày, ký kết các hợp đồng mua bán ngoại tệ... Phòng tiền tệ kho quỹ là phòng có nhiệm vụ quản lý an toàn kho quỹ, quản lý quỹ tiền mặt theo quy định của NHNN và NHCT, thực hiện ứng tiền và thu tiền cho các quỹ tiết kiệm, các điểm giao dịch trong và ngoài quầy, thu chi tiềm mặt cho các doanh nghiệp có thu, chi tiền mặt lớn... Phòng tổ chức – hành chính là phòng nghiệp vụ thực hiện công tác tổ chức cán bộ và đào tạo tại chi nhánh theo chủ trương chính sách của nhà nước và quy định của NHCT, thực hiện công tác quản trị và văn phòng phục vụ hoạt động kinh doanh tại chi nhánh, thực hiện công tác bảo vệ an ninh, an toàn tại chi nhánh. Phòng thông tin điện toán thực hiện công tác quản lý, duy trì hệ thống thông tin điện toán tại chi nhánh như thực hiện mửo, đóng giao dịch chi nhánh hàng ngày..., bảo trì, bảo dưỡng hệ thống, thiết bị ngoại vị, mạng máy tính đảm bảo thông suốt hoạt động của hệ thống, phối hợp với các phòng nghiệp vụ đề xuất các sản phẩm mới và công nghệ mới... Phòng tổng hợp là phòng nghiệp vụ tham mưu cho giám đốc dự kiến kế hoạch kinh doanh, tổng hợp, phân tích, đánh giá tình hình hoạt động và kết quả kinh doanh, thực hiện báo cáo hoạt động hàng năm của Sở giao dịch I, là đầu mối nghiên cứu các đề án mở rộng mạng lưới kinh doanh..., thực hiện đầu tư, huy động vốn trên thị trường liên ngân hàng, thị trường vốn theo hạn mức cho phép. Phòng dịch vụ thẻ có nhiệm vụ tham mưu cho ban giám đốc nghiên cứu, phát triển dịch vụ thanh toán các loại thẻ do NHCT phát hành, trực tiếp tổ chức thực hiện các nghiệp vụ phát hành và thanh toán thẻ theo đúng quy định của NHCT, bảo đảm an toàn hiệu quả phục vụ khách hàng nhanh chóng, kịp thời. 2.1.3 Tình hình hoạt động kinh doanh của CN NHCT Hoàn Kiếm trong thời gian vừa qua. 2.1.3.1 Tình hình hoạt động huy động vốn của Ngân hàng. Biểu 1: Tình hình nguồn vốn huy động tại CN NHCT Hoàn Kiếm. Đơn vị: Tỷ đồng. Tiêu chí Năm 2005 Năm 2006 Năm2007 ST % ST % ST % I. Phân theo đối tượng 1. Tiền gửi doanh nghiệp 1826 66% 3593.1 79% 2278 70% 2. Tiền gửi dân cư 935 34% 953.7 21% 985 30% II. Phân theo kỳ hạn 1. Tiền gửi có kỳ hạn 2338 85% 3710.1 82% 2291 70% 2. Tiền gửi không kỳ hạn 423 15% 836.7 18% 972 30% III. Tổng nguồn vốn huy động 2761 4546.8 3263 ô Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động của CN NHCT Hoàn Kiếm 2006-2007 ( Số liệu tính đến ngày 31/12/2007) Qua số liệu ở biêu 1 ta thấy tổng nguồn vốn huy động của ngân hàng có nhiều biến động qua các năm. Năm 2006 tổng nguồn vốn huy động tăng 1785.8 tỷ đồng so với năm 2005, tốc độ tăng 65%. Sang năm 2007 nguồn vốn huy động lại giảm mạnh 28%, giảm 3263 tỷ đồng(từ 4546.8 tỷ xuống 3263 tỷ). Tỷ trọng các nguồn vốn huy động cũng có thay đổi khá lớn: Trong thời gian vừa qua, tiền gửi của dân cư liên tục tăng và ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu nguồn vốn huy động Xét về mặt kỳ hạn thì tiền gửi có kỳ hạn trong năm 2007 giảm khá nhiều, 1419.1 tỷ, giảm 38% so với năm 2006 nhưng loại tiền gửi này vẫn chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn huy động. Đây là ưu điểm của ngân hàng trong công tác huy động vốn, vì loại tiền gửi có kì hạn rất ổn định, là nguồn tài trợ chính cho nhu cầu vay vốn trung và dài hạn. Có thể nói, năm 2006 tổng nguồn vốn huy động của ngân hàng tăng mạnh la kết quả của việc quán triệt và triển khai các giải pháp thúc đẩy huy động vốn như; chính sách lãi suất nhạy bén, linh hoat theo sát diễn biến thị trường, đa dạng hóa các hình thức huy động…..Năm 2006 tông nguồn vốn huy động của ngân hàng tăng đột biến. Đến năm 2007, chỉ tiêu này có giảm nhưng cũng không thể đánh giá đây là sự yếu kém của ngân hàng. Vì trong năm 2007, đối với các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp lớn chuyển hướng tham gia đầu tư mạnh vào các định chế thuộc lĩnh vực tài chính, ngân hàng, thị trường chứng khoán; đối với dân cư do lạm phát đã chuyển sang đầu tư mạnh vào thị trường bất động sản, cộng với sự cạnh tranh lãi suất và mở rộng mạng lưới hoạt động của hệ thống các NHTM trên địa bàn, chi nhánh Hoàn Kiếm vẫn giữ ổn định nguồn vốn bình quân ở mức trên 3.500 tỷ đồng, thể hiện sự cố gắng rất lớn của Chi nhánh. Bên cạnh việc tập trung nghiên cứu đưa ra các sản phẩm tiền gửi đa dạng để thu hút và giữ vững nguồn vốn từ các tổ chức, chi nhánh cũng rất chú trọng đẩy mạnh huy động vốn trong dân cư. Biểu hiện là trong năm 2007 Chi nhánh đã thành lập thêm phòng phòng giao dịch Hồ Gươm; nâng cấp 03 Quỹ tiết kiệm thành Điểm giao dịch. 2.1.3.2 Tình hình sử dụng vốn của Ngân hàng. Biểu 2: dư nợ cho vay Đơn vị: Tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 ST % ST % So với 2005 ST % So với 2006 ST % ST % I. Phân theo thời hạn 1. Cho vay ngắn hạn 200 18% 220 21% 20 10% 410 37% 190 86% 2. Cho vay trung dài hạn 900 82% 850 79% -50 -6% 690 63% -160 -19% II. Phân theo tp kinh tế 1. Cho vay DNNN 880 80% 778 73% -102 -12% 800 73% 22 3% 2. Cho vay NQD 220 20% 292 27% 72 33% 300 27% 8 3% II. Tổng dư nợ cho vay 1100 1070 -30 2.7% 1100 30 2.8% Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động của NHCT Hoàn Kiếm năm 2006-2007 ( Số liệu tính đến ngày 31/12/2007) Trong giai đoạn 2005-2007, tình hình hoạt động cho vay của Chi nhánh khá ổn định. Tuy năm 2006 tổng dư nợ cho vay có giảm nhẹ so với 2005, giảm 30 tỷ, với tốc độ 2.7%. Nhưng đến năm 2007 tổng dư nợ cho vay lại tăng lên và duy trì ở mức 1100 tỷ đồng. Cơ cấu dư nợ đã được thay đổi theo hướng tích cực: Tỷ trọng cho vay ngắn hạn ngày càng tăng, năm 05 tỷ lệ này là 18%, nhưng đến năm 2007 tỷ trọng cho vay ngắn hạn của Chi Nhánh đã là 37%. Tỷ trọng cho vay khu vực DNNN cũng giảm từ 80% xuống 73%. * Chất lượng tín dụng: Nhờ làm tốt khâu thẩm định và kiểm tra giám sát chặt chẽ nên chất lượng tín dụng ngày càng được cải thiện, nợ quá hạn qua các năm giảm, đến năm 2007 thì dư nợ quá hạn chỉ còn 0,91%. Tuy nhiên, nợ tồn đọng khó được giải quyết do phát sinh từ nhiều năm trước, các đơn vị đã cam kết trả nợ nhưng không thực hiện. 2.1.3.3. Các hoạt động khác. Các hoạt động khác cũng được CN NHCT Hoàn Kiếm thực hiện tốt như là hoạt động thanh toán, hoạt động xuất nhập khẩu, hoạt động dịch vụ, hoạt động tiền tệ kho quỹ... - Hoạt động thanh toán với vai trò là đầu mối thanh toán cho một số chi nhánh trong cùng hệ thống NH Công Thương cũng như các ngân hàng khác hệ thống. Các dịch vụ thẻ, séc đều thực hiện tốt, tăng trưởng mạnh qua các năm. - Hoạt động xuất nhập khẩu diễn ra khá thuận lợi với doanh số tăng đều qua các năm. Duy chỉ có hoạt động kinh doanh ngoại tệ có doanh số không tăng so với những năm trước nên từ tháng 02/2006 NH Công Thương Việt Nam đã yêu cầu ngừng giao dịch mua bán ngoại tệ trên thị trường liên ngân hàng. Ngoài việc không ngừng nâng cao chất lượng các sản phẩm dịch vụ cũ, Chi nhánh luôn thúc đẩy nghiên cứu và triển khai các sản phẩm dịch vụ mới nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng, như dịch vụ Internet Banking, dịch vụ thuê két sắt, lắp đặt thêm nhiều máy ATM tại các điểm đông dân cư... - Hoạt động tiền tệ kho quỹ cũng được chú trọng nhằm đảm bảo an toàn cũng như nhằm tăng tối đa nguồn tiền gửi ở tài khoản thanh toán của khách hàng. Có thể nói, tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của Chi nhánh thời gian vừa qua không được tốt lắm. Lợi nhuận kinh doanh của chi nhánh năm 2006 so với 2005 giảm từ 68 tỷ xuống còn 61 tỷ. Nguyên nhân chính là do trong năm 2006 nguồn vốn huy động của chi nhánh tăng đột biến trong khi Dư nợ và doanh số cho vay lại giảm. Hiệu quả sử dụng đồng vốn huy động thấp. Thu nhập từ hoạt động cho vay không cao. Đây lai là nguồn thu nhập chính của ngân hàng.Do đó ảnh hưởng đến lợi nhuận toàn chi nhánh. Đến năm 2007,do có chính sách kinh doanh hợp lý, lợi nhuận đã dần tăng lên, đạt mức 65 tỷ động 2.2 thực trạng hiệu quả cho vay tại cn nhct hoàn kiếm. 2.2.1 Đa dạng hoá các sản phẩm tín dụng đối với DNNVV. Hiện tại Ngân hàng đang quản lý 7 chương trình tín dụng dành cho DNNVV và tuỳ thuộc vào quy định của mỗi chương trình, điều kiện vay vốn đối với DNNVV cũng ít nhiều thay đổi. Các chương trình này đều mang tính chất có sự hỗ trợ, tài trợ của Chính phủ hoặc của các tổ chức tài chính đối với DNNVV như ưu đãi về điều kiện vay vốn, lãi suất, thời hạn vay vốn…..Đây là sự khác biệt lớn nhất trong hoạt động cho vay của NHCT với các NHTM khác. Điển hình là các chương trình: - Chương trình tín dụng Việt Đức (DEG): Với vốn tín dụng ban đầu là 37,5 triệu DM (bao gồm 24 triệu DM vay của đối tác và 13,5 triệu DM vốn đối ứng của NHCT), thời hạn 40 năm, bắt đầu thực hiện từ năm 1993. Qua 14 năm thực hiện chương trình tín dụng Việt Đức, NHCTVN đã thực hiện cho vay được gần 7.000 dự án với hơn 1.000 tỷ đồng, đến 30/6/2007 dư nợ khoảng 325 tỷ đồng - Chương trình JBIC - Nhật Bản: với hạn mức cho vay 165 tỷ đồng, thời hạn 40 năm. Sau 4 năm thực hiện đến 30/6/2007 đã giải ngân được 161 dự án với tổng số tiền 487 tỷ đồng, dư nợ 260 tỷ đồng (trong đó 165 tỷ đồng là nguồn vốn JBIC số còn lại là nguồn vốn đối ứng của NHCT). Đây là chương trình tín dụng thiết kế dành riêng cho đối tượng cho vay DNNVV của NH. - Chương trình SMEDF - EU với tổng nguồn vốn tài trợ 130 tỷ đồng, bắt đầu thực hiện từ tháng 12/2005. Đến 30/6/2007 đã giải ngân được 63 tỷ đồng. Hiện tại NHCT đang phối hợp với Chương trình phát triển Liên hiệp quốc, Bộ khoa học công nghệ triển khai 2 sản phẩm tín dụng mới cho DNNVV: cho vay và bảo lãnh để thực hiện các Dự án tiết kiệm và hiệu quả năng lượng. Đối tượng là các DNVVN có vốn đăng ký kinh doanh không quá 30 tỷ đồng hoặc sử dụng bình quân không quá 500 lao động - Sản phẩm cho vay: NH giành 14.1 triệu USD từ nguồn vốn thương mại để cho vay các dự án đến hết ngày 31/12/2010 với lãi suất ưu đãi. Ngoài ra, khoá đào tạo miễn phí về nâng cao năng lực quản lý và thực hiện tiết kiệm năng lượng, dịch vụ tư vấn miễn phí về các giải pháp TK&HQNL cũng nằm trong chương trình của Dự án. - Sản phẩm bảo lãnh: sẽ giúp các DNNVV tiếp cận nguồn vốn dễ dàng hơn khi vay vốn không đủ tài sản bảo đảm. Nguồn vốn của chương trình là 1.950.000USD do quỹ môi trường toàn cầu tài trợ thông qua các đơn vị thực hiện là UNDP và Bộ KH&CN . Thời gian phát hành cam kết bảo lãnh trước ngày 31/12/2010. Với việc triển khai 2 chương trình tín dụng mới này sẽ giúp NHCT đa dạng hoá các sản phẩm tín dụng, khai thác các nguồn vốn quốc tế ưu đãi, thời hạn cho vay dài, từ đó mở rộng quy mô cho vay DNNVV, sử dụng hiệu quả đồng vốn huy động được, nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay. 2.2.2 áp dụng quy trình tín dụng mới. Độc lập giữa thẩm định tín dụng, thẩm định rủi ro tín dụng và quyết định tín dụng. Theo quyết định số 072/QĐ-HĐQT- NHCT 35 ngày 03/04/2006 của Hội đồng quản trị Ngân hàng công thương, văn bản hướng dẫn cho vay chính thức được ban hành và đi vào thực hiện. Trong văn bản hướng dẫn cho vay đối với các tổ chức kinh tế có quy định về quy trình cho vay mới : Theo đó sẽ có sự độc lập giữa thẩm định tín dụng, thẩm định rủi ro tín dụng và quyết định tín dụng. - Thẩm định tín dụng: Việc thẩm định tín dụng do cán bộ và lãnh đạo phòng kinh doanh dịch vụ, phòng khách hàng, phòng Giao dịch; điểm Giao dịch thực hiện. Trường hợp cần thiết hoặc pháp luật có quy định thì cơ quan có chức năng để thẩm định - Thẩm định rủi ro tín dụng : Việc thẩm định rủi ro tín dụng do cán bộ và lãnh đạo phòng Quản lý rủi ro tín dụng,đầu tư, phòng quản lý rủi ro thực hiện. - Quyết định tín dụng : do người có thẩm quyền quyết định cấp tín dụng thực hiện, trong phạm vi thẩm quyền được giao và chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Hội đồng tín dụng chịu trách nhiệm về quyết định cho vay theo quy chế Hội đồng tín dụng hiện hành. Người quyết định tín dụng không đồng thời là người tham gia thẩm định tín dụng và thẩm định rủi ro tín dụng. Sự tách bạch giữa 3 khâu: quan hệ với khách hàng, đánh gía rủi ro tín dụng và quyết định tín dụng này sẽ giúp các ngân hàng tránh các sai sót trong công tác thẩm định, hạn chế tính chủ quan của cán bộ tín dụng trong cho vay, phát hiện và xử lý kịp thời các khoản nợ có vấn đề, qua đó giúp ngân hàng có các khoản vay lành mạnh, giảm thiểu các khoản nợ xấu, nợ quá hạn, nâng cao chất lượng cho vay đối với DNNVV. 2.2.3 Hiệu quả hoạt động cho vay đối với các DNNVV tại CN NHCT Hoàn Kiếm. 2.2.3.1 Doanh số cho vay, doanh số thu nợ, dư nợ. Để đánh giá hiệu quả hoạt động cho vay ta đánh giá trên hai mặt: quy mô và chất lượng hoạt động cho vay. Nhắc đến quy mô cho vay là ta nói đến các chỉ tiêu doanh số cho vay, doanh sô thu nợ và dư nợ. Biểu 3: Tình hình DSCV, DSTN, Dư nợ đối với DNNVV tại Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm Đơn vị: tỷ đồng Chỉ tiêu 31/12/2005 31/12/2006 31/12/2007 Số tiền Số tiền Tăng(+) giảm(-) Số tiền Tăng(+) giảm(-) Số tuyệt đối % Số tuyệt đối % DS cho vay 200 180 -20 -10% 190 10 6% DS thu nợ 168 155 -13 -8% 160 5 3% Dư nợ 100 95 -5 -5% 110 15 16% Nguồn: Báo cáo tổng hợp dư nợ của NHCT Hoàn Kiếm năm 2005-2007 ( Số liệu tính đến ngày 31/12/2007) Qua bảng số liệu trên ta thấy: Doanh số cho vay trong giai đoạn này nhìn chung cũng không biến động nhiều. Năm 2005 doanh số cho vay đối với DNVVN là 180 tỷ, sang đến năm 2006 doanh số cho vay giảm 20 tỷ so với năm trước, tốc độ giảm 10% . Và sang đến năm 2007 tăng lên 10 tỷ , đạt 190 tỷ đồng, tốc độ tăng 10%. Doanh số thu nợ cũng có một số biến động. Cũng giống doanh số cho vay, năm 2006 doanh số thu nợ giảm từ 168 tỷ xuóng còn có 155 tỷ, tốc độ giảm 8%. Nhưng đến năm 2007, chỉ tiêu này lại tăng 5 tỷ, doanh số thu nợ của chi nhánh vào năm 2007 là 160 tỷ. Đối với dư nợ bình quân theo đó cũng không ổn định. Năm 2006, có sự giảm nhẹ trong dư nợ cho vay DNNVV với tốc độ 5% giảm dư nợ từ 100 tỷ đồng xuống còn 95 tỷ. Sang đến năm 2007, dư nợ tăng trưởng khá mạnh, tốc độ tăng trưởng 16%, dư nợ cho vay DNNVV năm 2007 là 110 tỷ. Có thể xem xét rõ hơn về tốc độ tăng trưởng dư nợ qua biếu 4: Nhìn chung, tuy có sự tương đồng về chiều hướng tăng trưởng, nhưng tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay DNNVV biến động mạnh hơn so với dư nợ cho vay nền kinh tế. Rõ rệt nhất là năm 2007. tổng dư nợ cho vay tăng chỉ có 3% trong tốc độ tăng trưởng dư cho vay DNNVV lên tới 16%. Năm 2006, tổng dư nợ cho vay giảm chỉ có 2.7% trong khi dư nợ cho vay của DNNVV tốc độ này chỉ là - 5%. Có thể nói, quy mô cho vay DNNVV của Chi nhánh trong vòng 3 năm qua không có thay đổi quá lớn và đang có chiều hướng phát triển lên. DSCV, DSTN, Dư nợ tuy trong năm 2006 các chỉ tiêu này đều giảm so với năm 2005, nhưng sang đến năm 2007 các chỉ tiêu này đều đã được cải thiện. Tuy trong thời gian vừa qua phải đối mặt với nhiều biến động và khó khăn, cạnh tranh gay gắt trên thị trường tiền tệ, lãi suất thị trường quốc tế và trong nước tăng cao, hoạt động thị trường chứng khoán sôi động….ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động cho vay của chi nhánh, năm 2006 doanh số cho vay, dư nợ đều giảm, quy mô cho vay bị thu hẹp so với năm 2005.Hoặc cũng có thể do ý chí chủ quan từ phía ngân hàng, áp dụng chính sách hạn chế tín dụng, chỉ thiết lập quan hệ tín dụng với những khách hàng tốt. Nhưng đến năm 2007, các chỉ tiêu này đều tăng. Đây là dấu hiệu cho thấy, kể từ năm 2006 cơ chế mới đi vào thực thi đã có những kết quả ban đầu. Tuy quy mô cho vay DNNVV đang có chiều hướng được mở rộng nhưng tỷ trọng cho vay của bộ phận khách hàng này còn quá nhỏ, chiếm khoảng 18% trong tổng dư nợ cho vay. Trong khi đó CN có tới 56% số lượng khách hàng là DNVVN. Nguyên nhân là do DNNVV thường có nhu cầu đầu tư thấp hơn so với các doanh nghiệp lớn, tốc độ luân chuyển vốn cũng nhanh hơn. 2.2.3.2 Cơ cấu dư nợ. Biểu 4: Cơ cấu cho vay DNNVV Đơn vị: tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 ST % ST % ST % I/ Theo thời hạn 1.Cho vay ngắn hạn 62 62.0% 80 84.2% 90 81.8% 2.Cho vay trung dài hạn 38 38.0% 15 15.8% 20 81.8% II/ Theo loại tiền 1. Cho vay VNĐ 94 94.0% 83.3 87.7% 90 81.8% 2. Cho vay ngoại tệ quy đổi 6 6.0% 6.7 7.1% 20 18.2% III/ Theo thành phần kinh tế 1. Cho vay DNNN 85.5 85.5% 76.285 80.3% 83.05 75.5% 2. Cho vay DN NQD 14.5 14.5% 18.715 19.7% 26.95 24.5% IV/ Theo ngánh kinh tế 1. Công nghiệp 35.6 35.6% 34.295 36.1% 40.7 37.0% 2. Tiêu dùng 12 12.0% 12.35 13.0% 15.07 13.7% 3. Thương nghiệp 18.3 18.3% 18.43 19.4% 22.33 20.3% 4. Dịch vụ 14 14.0% 11.4 12.0% 14.74 13.4% 5. Khác 20.1 20.1% 18.525 19.5% 17.16 15.6% Nguồn: Báo cáo tổng hợp dư nợ của NHCT Hoàn Kiếm năm 2005-2007 ( Số liệu tính đến ngày 31/12/2007) Phân loại theo thời hạn cho vay, dư nợ cho vay trung dài hạn đối với DNNVV chiếm tỷ lệ còn nhỏ và tỷ lệ nay còn giảm qua các năm. Cho tới năm 2005 dư nợ cho vay trung dài hạn đối với DNNVV là 38 tỷ đồng, chiếm 38% tổng dư nợ cho vay khu vực này. Sang năm 2006, chỉ tiêu này giảm mạnh xuống còn có phân nửa 15 tỷ đồng, làm tỷ trọng bộ phận này chỉ còn có 15%. Đến năm 2007 thì chỉ tiêu này có tăng nhưng không đáng kể. Năm 2007 dư nợ cho vay trung dài hạn chiếm tỷ trọng 18%. Nếu phân theo loại tiền thì năm 2005, mức dư nợ ngoại tệ là 6 tỷ và có tăng mạnh qua các năm. Năm 2007 dư nợ là 20 tỷ đồng, cho thấy nhu cầu vay ngoại tệ của khách hàng cao.Đây có thể là nhu cầu thiết yếu trong thời buổi hội nhập kinh tế như hiện nay.Tuy nhiên, so với mức huy động nội tệ và ngoại tệ thì chưa cân xứng, Theo thành phần kinh tế thì dư nợ đối với doanh nghiệp nhà nước lại chiếm tỷ trọng chủ yếu, và tỷ trọng này cũng tăng qua các năm. Năm 2007, tỷ trọng này là 75.5%. Tỷ lệ này chưa phù hợp với xu hướng phát triển của xã hội trong thời buổi hiện nay. Xu hướng hiện tại đang là giảm dần DNNN do kết quả của quá trình cổ phần hoá các DNNN, và nâng cao vai trò của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh để có thể dễ dàng hội nhập với nền kinh tế thế giới đang phát triểm không ngừng. Còn phân theo ngành sản xuất kinh doanh thì, dư nợ cho vay tập trung chủ yếu vào ngành công nghiệp và thương nghiệp, Đây là lĩnh vực mà đại đa số các DNNVV hình thành và phát triển và tài trợ cho các doanh nghiệp hoạt động ở lĩnh vực này cũng là lợi thế mạnh của NHCT. Tuy vậy, khi xét về cơ cấu nợ, thì các doanh nghiệp được ngân hàng cho vay lại chủ yếu lại là DNNN, do yếu tố cạnh tranh không lớn nên với việc kinh doanh không đạt hiệu quả cao như là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, điều đó phần nào ảnh hưởng tới chất lượng của khoản vay do yếu tố rủi ro lớn. 2.2.3.3. Nợ quá hạn, nợ xấu. *) Tình hình gia hạn nợ. Biểu 5: Nợ gia hạn trong cho vay đối với DNNVV. Đơn vị: Tỷ đồng Năm Cho vay nền kinh tế Cho vay DNVVN Nợ gia hạn DNVVN/ Tổng nợ gia hạn Tổng dư nợ Nợ gia hạn Tỷ lệ NGH Tổng dư nợ Nợ gia hạn Tỷ lệ NGH 2005 1100 17.8 1.62% 100 5.13 5.13% 28.8% 2006 1070 15 1.4% 95 6.2 6.53% 41.3% 2007 1100 18 1.64% 110 7 6.36% 38.9% Nguồn: Báo cáo nợ gia hạn, nợ quá hạn của NHCT Hoàn Kiếm năm 2005-2007 ( Số liệu tính đến ngày 31/12/2007) Nợ gia hạn của chi nhánh chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng dư nợ. Tỷ lệ này cao nhất trong năm 2007, mới chỉ là 1.64%. Trong khi đó, tỷ lệ nợ gia hạn trong cho vay DNNVV lại khá cao và đang có xu hướng tăng lên. Năm 2005, nợ gia hạn là 5.13 tỷ đồng, chiếm 5.13% trong tổng dư nợ. Đến năm 2007, tăng thêm 1.07 tỷ đồng, nợ gia hạn chiếm 6.53% tổng dư nợ, và năm 2007 tỷ lệ này tuy có giảm nhưng vẫn cao hơn so với năm 2005 là 6.36%, tương ứng với 7 tỷ đồng. Điều này cho thấy, các khoản nợ chưa được trả nợ đúng hạn như trong cam kết, được khách hàng làm đơn xin điều chỉnh lại kỳ hạn trả n._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc12873.doc
Tài liệu liên quan