Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư vào tại sản lưu động của Công ty Cổ phần thương mại dược phẩm Quốc tế

Tài liệu Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư vào tại sản lưu động của Công ty Cổ phần thương mại dược phẩm Quốc tế: ... Ebook Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư vào tại sản lưu động của Công ty Cổ phần thương mại dược phẩm Quốc tế

doc63 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1194 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư vào tại sản lưu động của Công ty Cổ phần thương mại dược phẩm Quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Trong giai đoạn hiện nay, nền kinh tế Việt Nam đang có những bước phát triển vượt bậc. Sự phát triển này được đánh dấu bằng sự kiện Việt Nam ra nhập tổ chức thương mại thế giới WTO năm 2007. Sự phát triển của nền kinh tế đã tạo ra lợi thể to lớn cho các Doanh nghiệp trong nước, nhưng cùng với những lợi thế đó thì những thách thức các Doanh nghiệp gặp phải là không nhỏ. Nền kinh tế mở cửa tạo điều kiện cho các Doanh nghiệp trong nước có cơ hội hợp tác thương mại với các Doanh nghiệp thuộc các quốc gia trên thế giới, sự cạnh tranh giữa các Doanh nghiệp trong nước và nước ngoài, giữa hàng sản xuất trong nước và hàng nhập ngoại ngày càng gay gắt. Môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt đòi hỏi các Doanh nghiệp phải không ngừng đổi mới và hoàn thiện về mọi mặt. Hoạt động có hiệu quả và tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh là điều kiện quyết định đến sự tồn tại và phát triển của Doanh nghiệp, để đảm bảo Doanh nghiệp không chỉ hoạt động có hiệu quả mà còn nâng cao đời sống cán bộ nhân viên và hoàn thành nghĩa vụ với nhà nước. Hiệu quả hoạt động là mục tiêu quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp. Một trong những nhân tố quan trọng tác động lớn đến kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp là “ Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư vào tài sản lưu động”. Vốn đầu tư vào tài sản lưu động đảm bảo cho hoạt động thường xuyên của Doanh nghiệp, bảo hiểm cho Doanh nghiệp. Trong một Doanh nghiệp vốn được tài trợ cho tài sản lưu động và tài sản cố định, tỷ lệ tài trợ phụ thuộc vào loại hình kinh doanh của Doanh nghiệp. Công ty cổ phần thương mại dược phẩm Quốc tế là một Doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực thương mại do đó vốn được tài trợ chủ yếu cho tài sản lưu động, nguồn tài trợ cho tài sản cố định chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ. Và do đó việc sủ dụng và quản lý tốt vốn đầu tư vào tài sản lưu động của các Doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại nói chung và cuả Công ty cổ phần thương mại dược phẩm Quốc tế nói riêng có vai trò hết sức quan trọng. Mặt khác, thuốc là một loại hàng hoá đặc thù, có chu kỳ tiêu thụ khác với các loại hàng hoá thông thường, thời gian thu hồi nợ từ khách hàng trung bình là ba tháng. Khi sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt như hiện nay thì kỳ thu tiền bình quân cần phải rút ngắn tối đa, bên cạnh đó một số chỉ tiêu như vòng quay của hàng tồn kho, hiệu suất sử dụng nguồn vốn đầu tư vào tài sản lưu động, vòng quay của tiền… cũng phải được rút ngắn nhằm làm tăng hiệu quả sử dụng vốn đầu tư vào tài sản lưu động. Qua thực tế tìm hiểu và nghiên cứu tại công ty Cổ phần thương mại dược phẩm Quốc tế, em đã chọn đề tài “Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư vào tài sản lưu động của công ty Cổ phần thương mại dược phẩm Quốc tế” Ngoài phần mở đầu và kết luận, chuyên đề thực tập tốt nghiệp gồm 3 chương. Chương 1: Lý luận chung về hiệu quả quản lý vốn đầu tư vào tài sản lưu động trong hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp. Chương 2: Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn đầu tư vào tài sản lưu động của Công ty cổ phần thương mại dược phẩm Quốc tế. Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư vào tài sản lưu động của Công ty cổ phần thương mại dược phẩm Quốc tế. CHƯƠNG 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN ĐẦU TƯ VÀO TÀI SẢN LƯU ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP 1.1 Vốn đầu tư vào tài sản lưu động của Doanh nghiệp 1.1.1 Khái niệm về Doanh nghiệp Theo luật Doanh nghiệp số 13/1999/QH10 ngày 12 tháng 6 năm 1999: “Doanh nghiệp” là một tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản ổn định, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của Pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh. Doanh nghiệp là một chủ thể độc lập, có tư cách pháp nhân, hoạt động kinh doanh trên thị trường làm tăng giá trị của chủ sở hữu. Doanh nghiệp là một cách thức tổ chức hoạt động kinh tế của nhiều cá nhân. Có nhiều hoạt động kinh tế chỉ có thể thực hiện được bởi các Doanh nghiệp chứ không phải các cá nhân. Kinh doanh là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lời. Theo quy định của Pháp luật, Doanh nghiệp được tự chủ đăng ký và thực hiện kinh doanh các ngành nghề được Pháp luật cho phép. Đối với Doanh nghiệp kinh doanh các ngành, nghề mà luật, pháp lệnh hoặc nghị định quy định phải có điều kiện thì Doanh nghiệp chỉ được kinh doanh các ngành nghề đó khi có đủ các điều kiện quy theo định. Đối với Doanh nghiệp kinh doanh các ngành, nghề mà luật, pháp lệnh hoặc nghị định đòi hỏi phải có vốn pháp định hoặc chứng chỉ hành nghề thì Doanh nghiệp chỉ được đăng ký kinh doanh khi có đủ vốn hoặc chứng chỉ hành nghề theo quy định của Pháp luật. Mỗi Doanh nghiệp đều có những quyền và phải thực hiện những nghĩa vụ theo quy định của Pháp luật. 1.1.2 Vốn của Doanh nghiệp Vốn là điều kiện không thể thiếu để một Doanh nghiệp được thành lập và tiến hành các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Trong mọi loại hình Doanh nghiệp vốn phản ánh nguồn lực chính để đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Để sản xuất, tiêu thụ một loại hàng hoá nào đó, Doanh nghiệp thuê nhà quản lý mua sắm các yếu tố vật chất cần thiết như máy móc, thiết bị, dự trữ, đất đai và lao động. Điều đó có nghĩa là Doanh nghiệp đã đầu tư vào các tài sản. Để đầu tư vào các tài sản Doanh nghiệp phải có vốn. Có thể hiểu vốn là lượng tiền ứng trước thoả mãn các yếu tố đầu vào của Doanh nghiệp. Trong mỗi Doanh nghiệp, vốn đều bao gồm hai bộ phận là vốn chủ sở hữu và vốn vay, mỗi bộ phận này được cấu thành bởi nhiều khoản mục khác nhau tuỳ theo tính chất của chúng. Vốn kinh doanh của Doanh nghiệp là toàn bộ nguồn vốn đầu tư vào tài sản của Doanh nghiệp, bao gồm nguồn vốn đầu tư vào tài sản cố định và tài sản lưu động. Với mỗi loại hình Doanh nghiệp khác nhau thì cơ cấu vốn đầu tư vào hai loại tài sản này là khác nhau. Đối với các Doanh nghiệp sản xuất thì vốn đầu tư vào tài sản cố định chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn, đối với các Doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực thương mại thì tỷ trọng vốn đầu tư vào tài sản lưu động lại lớn hơn. Cách thức huy động vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi Doanh nghiệp là hết sức đa dạng. Vốn của Doanh nghiệp được hình thành từ khi thành lập Doanh nghiệp và Doanh nghiệp sử dụng vốn để đầu tư và quá trình sản xuất kinh doanh của đơn vị mình nhằm tạo ra doanh thu. Số vốn này sẽ không ngừng được bổ sung trong quá trình Doanh nghiệp hoạt động. 1.1.3 Phân loại vốn của Doanh nghiệp Căn cứ theo những góc độ nghiên cứu khác nhau vốn được phân loại như sau. 1.1.3.1 Phân loại theo góc độ quản lý của Nhà nước Theo cách phân loại này vốn gồm vốn pháp định và vốn điều lệ. a. Vốn pháp định: là mức vốn tối thiểu phải có theo quy định của pháp luật để thành lập Doanh nghiệp và được quy định khác nhau đối với từng loại hình Doanh nghiệp. Để được thành lập Doanh nghiệp phải có đủ số vốn pháp định theo yêu quy định của pháp luật. b. Vốn điều lệ: của Doanh nghiệp là số vốn được ghi trong điều lệ của Doanh nghiệp, số vốn này do các chủ sở hữu góp. Vốn điều lệ không ít hơn vốn pháp định. 1.1.3.2 Phân loại theo nguồn gốc hình thành vốn Phân loại vốn theo nguồn gốc hình thành thì vốn gồm vốn chủ sở hữu và vốn vay. a. Vốn chủ sở hữu của Doanh nghiệp Đối với mọi loại hình Doanh nghiệp, vốn chủ sở hữu của Doanh nghiệp bao gồm ba bộ phận chủ yếu: Vốn góp ban đầu Lợi nhuận không chia Tăng vốn bằng phát hành cổ phiếu mới Vốn góp ban đầu: Khi Doanh nghiệp được thành lập bao giờ chủ Doanh nghiệp cũng phải có một số vốn ban đầu nhất định do các cổ đông - chủ sở hữu góp. Khi nói đến nguồn vốn chủ sở hữu của Doanh nghiệp bao giờ cũng phải xem xét hình thức sở hữu của Doanh nghiệp đó, vì hình thức sở hữu sẽ quyết định tính chất và hình thức tạo vốn của bản thân Doanh nghiệp. Đối với Doanh nghiệp Nhà nước, vốn góp ban đầu chính là vốn đầu tư của Nhà nước. Chủ sở hữu của các Doanh nghiêp Nhà nước là Nhà nước. Đối với công ty cổ phần, vốn do các cổ đông đóng góp là yếu tố quyết định để thành lập công ty. Mỗi cổ đông là một chủ sở hữu của công ty và chịu trách nhiêm hữu hạn trên giá trị cổ phần mà họ nắm giữ. Nguồn vốn từ lợi nhuận không chia Quy mô số vốn ban đầu của chủ Doanh nghiệp là một yếu tố quan trọng, tuy nhiên, thông thường, số vốn này cần được tăng theo quy mô phát triển của Doanh nghiệp. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, nếu Doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả thì Doanh nghiệp sẽ có những điều kiện thuận lợi để tăng trưởng nguồn vốn. Nguồn vốn tích luỹ từ lợi nhuận không chia là bộ phận lợi nhuận được sử dụng để tái đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp. Nguồn vốn tái đầu tư từ lợi nhuận để lại chỉ có thể thực hiện được nếu như Doanh nghiệp đã và đang hoạt động và có lợi nhuận, được phép tiếp tục đầu tư. Đối với các Doanh nghiệp Nhà nước thì việc tái đầu tư phụ thuộc không chỉ và khả năng sinh lời của bản thân Doanh nghiệp mà còn phụ thuộc vào chính sách khuyến khích tái đầu tư của Nhà nước. Phát hành cổ phiếu mới Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, Doanh nghiệp có thể tăng vốn chủ sở hữu bằng cách phát hành cổ phiếu mới. Một nguồn tài chính dài hạn rất quan trọng là phát hành cổ phiếu để huy động vốn cho Doanh nghiệp. Phát hành cổ phiếu được gọi là hoạt động tài trợ dài hạn của Doanh nghiệp. b. Nguồn vốn vay Để bổ sung vốn trong quá trình kinh doanh Doanh nghiệp có thể sử dụng nợ từ các nguồn: tín dụng Ngân hàng, tín dụng thương mại và vay thông qua phát hành trái phiếu. Nguồn vốn tín dụng Ngân hàng và tín dụng thương mại Có thể nói rằng vốn vay Ngân hàng là một trong những nguồn vốn quan trọng nhất, không chỉ đối với sự phát triển của bản thân Doanh nghiệp mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Sự hoạt động và phát triển của các Doanh nghiệp đều gắn liền với các dịch vụ tài chính do các Ngân hàng thương mại cung cấp, trong đó có việc cung ứng các nguồn vốn. Không một Doanh nghiệp nào không vay vốn Ngân hàng hoặc không sử dụng tín dụng thương mại nếu Doanh nghiệp đó muốn tồn tại vững chắc trên thương trường. Trong quá trình hoạt động các Doanh nghiệp thường vay Ngân hàng để đảm bảo nguồn tài chính cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc biệt là có đủ vốn cho các dự án mở rộng hoặc đầu tư chiều sâu của Doanh nghiệp. Các Doanh nghiệp cũng thường khai thác nguồn vốn tín dụng thương mại hay còn gọi là tín dụng của người cung cấp. Nguồn vốn này hình thành một cách tự nhiên trong quan hệ mua bán chịu, mua bán trả chậm hay trả góp. Nguồn vốn tín dụng thương mại có ảnh hưởng hết sức to lớn không chỉ đối với các Doanh nghiệp mà cả đối với toàn bộ nền kinh tế. Trong một sô Doanh nghiệp nguồn vốn tín dụng thương mại dưới dạng các khoản phải trả có thể chiếm tới 20% tổng nguồn vốn, thậm chí có thể chiếm tới 40% tổng nguồn vốn. Tài trợ bằng nguồn vốn tín dụng thương mại là một phương thức tài trợ rẻ, tiện dụng và linh hoạt trong kinh doanh; hơn nữa, nó còn tạo khả năng mở rộng các quan hệ hợp tác kinh doanh một cách lâu bền. Phát hành trái phiếu công ty Trái phiếu là tên chung của các giấy vay nợ dài hạn và trung hạn. Trước khi phát hành trái phiếu Doanh nghiệp cần xem xét loại trái phiếu nào phù hợp với nhất với điều kiện cụ thể của Doanh nghiệp và tình hình trên thị trường tài chính. Việc lựa chọn trái phiếu thích hợp là rất quan trọng vì có liên quan đến chi phí trả lãi, cách thức trả lãi, khả năng lưu hành và tính hấp dẫn của trái phiếu. 1.1.3.3 Phân loại theo tính chất luân chuyển vốn Hiện nay, theo cách phân loại này các Doanh nghiệp phân loại vốn chủ yếu làm hai loại là vốn đầu tư vào tài sản cố định và vốn đầu tư vào tài sản lưu động. a. Vốn đầu tư vào tài sản cố định của Doanh nghiệp “ Vốn đầu tư vào tài sản cố định ” là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản cố định trong Doanh nghiệp. Căn cứ vào tính chất và vai trò tham gia vào quá trình sản xuất, tư liệu sản xuất của Doanh nghiệp được chia thành hai bộ phận là tư liệu lao động và đối tượng lao động. Tài sản cố định là những tư liệu lao động chủ yếu mà nó có đặc điểm cơ bản là tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất, hình thái vật chất không thay đổi từ chu kỳ sản xuất đầu tiên đến khi bị sa thải ra khỏi quá trình sản xuất. Mọi tư liệu lao động là từng tài sản hữu hình có kết cấu độc lập, hoặc là một hệ thống gồm nhiều bộ phận tài sản riêng lẻ liên kết với nhau để cùng thực hiện một hay một số chức năng nhất định mà nếu thiếu bất kỳ một bộ phận nào trong đó thì cả hệ thống không thể hoạt động được. Những tư liệu được coi là tài sản cố định khi thoả mãn đồng thời hai tiêu chuẩn sau: Tiêu chuẩn về thời gian: có thời gian sử dụng từ 1 năm trở lên Tiêu chuẩn giá trị: Ở nước ta hiện nay tài sản có giá trị từ 10 triệu đồng trở lên. Trong điều kiện tiến bộ khoa học- kỹ thuật như hiện nay, khi mà khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp thì khái niệm về tài sản cố định cũng được mở rộng, nó bao gồm cả những tài sản cố định không có hình thái vật chất, gồm chi phí thành lập Doanh nghiệp, chi phí về bằng phát minh sáng chế, chi phí về lợi thế kinh doanh… Trong quá trình sử dụng tài sản cố định bị hao mòn dần, đó là sự giảm dần về giá trị của tài sản cố định. Do tài sản cố định bị hao mòn nên trong mỗi chu kỳ sản xuất người ta tính chuyển một phần giá trị tương đương với phần hao mòn vào giá trị thành phẩm, khi sản phẩm được tiêu thụ bộ phận tiền này được trích lại thành một quỹ nhằm để tái sản xuất tài sản cố định, còn gọi là khấu hao tài sản cố định. Trong Doanh nghiệp thương mại vốn đầu tư vào tài sản cố định thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn. b. Vốn đầu tư vào tài sản lưu động của Doanh nghiệp Khác với tư liệu lao động, đối tượng lao động chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuât, đến chu kỳ sản xuất sau phải sử dụng các đối tượng lao động khác. Tài sản lưu động là những tái sản ngắn hạn và thường xuyên luân chuyển trong quá trình kinh doanh. Vốn đầu tư vào tài sản lưu động được dùng để chỉ tài sản lưu động của Doanh nghiệp. 1.1.4 Vốn đầu tư vào tài sản lưu động của Doanh nghiệp 1.1.4.1 Khái niệm vốn đầu tư vào tài sản lưu động của Doanh nghiệp a Khái niệm Lượng tiền ứng trước thoả mãn nhu cầu về các đối tượng lao động gọi là vốn đầu tư vào tài sản lưu động của Doanh nghiệp. Khác với tư liệu lao động, đối tượng lao động chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất, đến chu kỳ sản xuất sau lại phải sử dụng các đối tượng lao động khác. Phần lớn các đối tượng lao động thông qua quá trình chế biến để hợp thành thực thể của sản phẩm. Vốn đầu tư vào tài sản lưu động được dùng để chỉ tài sản lưu động trong Doanh nghiệp. Tài sản lưu động là những tài sản ngắn hạn và thường xuyên luân chuyển trong quá trình kinh doanh. Vốn kinh doanh của Doanh nghiệp bao gồm vốn cố định và vốn lưu động, như vậy vốn lưu động là giá trị còn lại của vốn kinh doanh sau khi đã trừ đi vốn cố định. Trên bảng cân đối kế toán vốn đầu tư vào tài sản lưu động được thể hiện ở các bộ phận tiền mặt, các chứng khoán thanh khoản cao, phải thu và dự trữ tồn kho. Các khoản mục trong phần vốn đầu tư vào tài sản lưu động trên bảng cân đối kế toán: Tiền: bao gồm tiền mặt tại quỹ, tiền gửi ngân hàng, tiền đang chuyển. Đây là loại có tính thanh khoản cao nhất. Các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn: là các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn, góp vốn liên doanh, cho vay vốn… có thời hạn thu hồi không quá một năm. Khoản này có tính lưu động mạnh thứ hai sau tiền. Các khoản phải thu: là những khoản tiền mà khách hàng và những bên liên quan đang nợ Doanh nghiệp tại thời điểm lập bảng cân đối kế toán. Các khoản này sẽ được trả trong thời hạn ngắn. Khoản mục thuế giá trị gia tăng được khấu trừ cũng là tài sản lưu động của Doanh nghiệp vì chỉ tiêu này phản ánh số thuế giá trị gia tăng còn được khấu trừ và số thuế giá trị gia tăng được cơ quan có thẩm quyền chấp nhận hoàn lại nhưng chưa hoàn lại. Hàng tồn kho: bao gồm vật liệu, công cụ, dụng cụ, hàng hoá trong kho, hàng gửi bán, hàng đang đi đường, sản phẩm dở dang… Những tài sản này có thời gian luân chuyển ngắn, thường không quá một năm nên được xếp vào tài sản lưu động. Tài sản lưu động khác: bao gồm các khoản tạm ứng, chi phí trả trước, chi phí chờ kết chuyển, tài sản thiếu chờ xử lý, các khoản thế chấp, ký quỹ, ký cược ngắn hạn. Nguyên tắc cơ bản của quản lý tài chính là Doanh nghiệp phải dùng nguồn vốn dài hạn để hình thành tài sản cố định. Điều đó sẽ đảm bảo rằng các tài sản cố định sẽ được sử dụng trong thời gian dài hơn một năm trong Doanh nghiệp. Đầy cũng là điều kiện để thời gian sử dụng của tài sản cố định và nguồn hình thành phù hợp với nhau. Tương tự như vậy, tài sản lưu động của Doanh nghiệp phải được hình thành từ nguồn vốn ngắn hạn. Cách tài trợ này giúp cho Doanh nghiệp có được sự ổn định, an toàn về mặt tài chính. Trong thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh, các giao dịch tài chính không phải lúc nào cũng diễn ra theo nguyên tắc đó. Chính vì vậy có thể xuất hiện sự chênh lệch giữa các nguồn vốn và các tài sản có cùng tính chất thời gian sử dụng. Khoản chênh lệch đó chính là vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên. b Nguồn hình thành vốn đầu tư vào tài sản lưu động của Doanh nghiệp Vốn đầu tư vào tài sản lưu động có thể được hình thành từ các nguồn như vốn tự có, vốn vay dài hạn. Nguồn vốn chủ sở hữu có thể do Nhà nước cấp ( đối với Doanh nghiệp Nhà nước), vốn góp, vốn liên doanh, lợi nhuận để lại … Vốn vay dài hạn và ngắn hạn từ các tổ chức tín dụng, từ phát hành cổ phiếu, trái phiếu … c Phân loại vốn đầu tư vào tài sản lưu động của Doanh nghiệp - Vốn bằng tiền và các khoản phải thu bao gồm: tiền mặt tại quỹ, tiền đang chuyển, các chứng khoán thanh khoản cao có thể nhanh chóng chuyển thành tiền, các khoản phải thu gồm tiền phải thu từ khách hàng khi cung cấp hàng hoá, dịch vụ, các khoản ứng trước cho nhà cung cấp - Vốn bằng hiện vật ( hàng tồn kho) bao gồm tất cả nguyên liệu, vật liệu, nhiên liệu phục vụ cho quá trình sản xuất, hàng mua đang đi đường, thành phẩm trong kho… 1.1.4.2 Vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên Vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên là giá trị chênh lệch giữa vốn dài hạn và vốn đầu tư vào tài sản cố định hoặc giữa vốn đầu tư vào tài sản lưu động với nợ ngắn hạn. Vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên = vốn dài hạn- vốn đầu tư vào tài sản cố định Vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên = vốn đầu tư vào tài sản lưu động - nợ ngắn hạn Vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên có thể nhận các giá trị sau: Vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên > 0 Vốn dài hạn > vốn đầu tư vào tài sản cố định Vốn đầu tư vào tài sản lưu động > nợ ngắn hạn Trong trường hợp này việc tài trợ từ các nguồn vốn là tốt. Toàn bộ tài sản cố định được tài trợ từ nguồn vốn dài hạn, có nghĩa là một cách ổn định, Doanh nghiệp không những đủ vốn tài trợ cho các tài sản cố định của mình mà còn thừa để tài tài trợ cho các nhu cầu ngắn hạn. Đồng thời khi vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên dương cũng có nghĩa là tổng tài sản lưu động lớn hơn nợ ngắn hạn. Điều đó chứng tỏ Doanh nghiệp có khả năng thanh toán tốt, có thể trang trải được các khoản nợ ngắn hạn với tài sản quay vòng nhanh. Vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên < 0 Vốn dài hạn < vốn đầu tư vào tài sản cố định Vốn đầu tư vào tài sản lưu động < nợ ngắn hạn Trong trường hợp này, tài sản cố định lớn hơn nguồn vốn dài hạn. Điều này có nghĩa rằng Doanh nghiệp đã dùng nguồn vốn ngắn hạn để tài trợ cho đầu tư dài hạn. Điều này khá nguy hiểm bởi khi hết hạn vay thì phải tìm ra nguồn vốn khác để thay thế. Đây chỉ là một giải pháp tình thế. Nếu điều này xảy ra liên tục thì sự tồn tại của Doanh nghiệp bị đe doạ, Doanh nghiệp có thể bị đẩy tới giải pháp là bán tài sản cố định hay là thanh lý. Đồng thời khi vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên âm thì khả năng thanh toán của Doanh nghiệp là rất kém, bởi vì chỉ có tài sản lưu động mới có thể chuyển đổi thành tiền trong thời gian ngắn để trả nợ, trong khi đó tài sản lưu động lại nhỏ hơn nợ ngắn hạn. Các Doanh nghiệp đang phát triển mạnh là một tình huống đáng chú ý. Trong quá trình phát triển Doanh nghiệp đầu tư, tài sản cố định tăng mạnh. Trong một khoảng thời gian nào đó, tài sản cố định có thể tăng nhanh hơn nguồn vốn dài hạn. Vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên có thể âm. Nếu trong đà phát triển, Doanh nghiệp sinh ra lợi nhuận hoặc huy động được thêm vốn dài hạn, thì đây chỉ là một hiện tượng tức thời không đáng ngại. Vì vốn dài hạn sẽ dần dần tăng lên bằng mức tài sản cố định, và vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên trở thanh dương. Ta thấy rằng sự phát triển có thể mang tới sự bất ổn định tài chính, do đó, phải phân tích và theo dõi chặt chẽ để có những biện pháp điều chỉnh nếu cần. Vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên = 0 Vốn dài hạn = vốn đầu tư vào tài sản cố định Vốn đầu tư vào tài sản lưu đông = nợ ngắn hạn Tình hình tài chính như vậy là tương đối lành mạnh. Nguồn vốn dài hạn đủ để tài trợ cho tài sản cố định. Còn tài sản lưu động đủ để trang trải các khoản nợ ngắn hạn. Việc phân tích vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên có ý nghĩa rất quan trọng. Đó là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chính sách tài trợ của Doanh nghiệp đối với các hoạt động phát sinh trong kỳ. Vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên dương là một dấu hiệu an toàn và vững chắc đối với sự tài trợ của Doanh nghiêp. Khi phân tích chỉ tiêu này ta phân tích các biến động theo thời gian của vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên. Các nguyên nhân gây ra các biến động đó: Việc tăng vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên có thể là do tăng vốn tự có, điều này là rất tốt. Điều đó có nghĩa rằng Doanh nghiệp hoạt động thu được lợi nhuận hay huy động được thêm vốn từ bên ngoài. Vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên tăng do vay nợ gia tăng, điều này có thể là không tốt nếu khoản nợ lớn hơn vốn tự có và nhất là nếu Doanh nghiệp không có khả năng hoàn trả. Vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên cũng có thể tăng nếu tài sản cố định giảm hoặc Doanh nghiệp ngừng đầu tư dài hạn. Điều này không thể coi là tích cực. Bỏi vì giảm tài sản cố định có nghĩa là Doanh nghiệp buộc phải bán một phần cơ sở vật chất của mình để giảm quy mô kinh doanh. Tình trạng này chưa thể coi là tốt đựơc. Vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên là một chỉ tiêu cốt yếu trong phân tích và quản lý tài chính. Theo nguyên tắc, chỉ tiêu này phải dương, ít nhất là bằng 0. Như vậy là tài sản cố định được hình thành một cách ổn định từ các nguồn vốn dài hạn và tài sản lưu động lớn hơn hoặc ít nhất là bằng nợ ngắn hạn, bảo đảm khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn của Doanh nghiệp. 1.1.4.3 Nhu cầu vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên Nhu cầu vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên là lượng vốn ngắn hạn Doanh nghiệp cần để tài trợ cho bộ phận tài sản lưu động không phải là tiền, đó là hai khoản mục hàng tồn kho và các khoản phải thu. Vốn đàu tư vào tài sản lưu động = nhu cầu vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên + vốn bằng tiền Vốn bằng tiền = vốn đầu tư vào tài sản lưu động – nhu cầu vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên Vốn dài hạn > tài sản cố định => vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên > 0 Tài sản cố định > vốn dài hạn => vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên < 0 Tài sản lưu động > vốn ngắn hạn => nhu cầu vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên > 0 Tài sản lưu động nhu cầu vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên < 0 Để hình thành hàng tồn kho và các khoản phải thu, Doanh nghiệp cần vốn. Đây là các khoản sử dụng ngắn hạn ( trong một thời gian ngắn, các khoản này sẽ quay trở lại hình thức vốn bằng tiền khi khách hàng thanh toán). Phải có vốn để mua nguyên vật liệu, trong quá trình sản xuất phải trả lương nhân công, chi phí về năng lượng, bảo quản máy móc. Khi có thành phẩm phải chi tiêu cho việc lưu kho, lúc tiêu thụ sản phẩm nhiều khi phải cho khách nợ. Các nhà quản lý đều nhằm mục tiêu giảm tới mức tối thiểu nhu cầu vốn. Mục tiêu đạt được thông qua cách quản lý tồn kho, cách quản lý sản xuất, chính sách thương mại, và hành chính. Mục tiêu giảm nhu cầu vốn cũng đạt được thông qua cách quản lý tài chính của Doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải cố tìm được những nguồn vốn từ bên ngoài, vay các nhà cung cấp, nợ thuế Nhà nước, yêu cầu khách mua hàng ứng tiền trước. Các khoản nợ ngắn hạn này sẽ giúp giảm nhu cầu vốn của Doanh nghiệp. Nhu cầu vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên được biểu diễn trong sơ đồ sau: Chu kỳ sản xuất kinh doanh Nhu cầu vốn nguồn vốn phải thu tồn kho nợ ngắn hạn Nhu cầu vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên Sơ đồ nhu cầu vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên Nhu cầu vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên được tính như sau: Nhu cầu vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên = ( tồn kho + khoản phải thu) - nợ ngắn hạn Trong thực tế có thể xảy ra các trường hợp sau: Nhu cầu vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên < 0 Tức là khoản tồn kho và các khoản phải thu nhỏ hơn nợ ngắn hạn. Chính vì vậy các nguồn vốn ngắn hạn từ bên ngoài dư thừa và bù đắp đủ cho các sử dụng ngắn hạn của Doanh nghiệp. Doanh nghiệp không cần vốn để tài trợ cho chu kỳ sản xuất kinh doanh. Phải thu tồn kho 20 nợ ngắn hạn 40 Nhu cầu vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên - 20 Sơ đồ nhu cầu vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên âm Nhu cầu vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên âm có thể xảy ra đối với các Doanh nghiệp sản xuất sau khi khách hàng đặt hàng và đặt cọc trước. Các Doanh nghiệp này hoạt động với vốn khách hàng ứng ra trước. Nhu cầu vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên âm là một tình trạng rất tốt đối với Doanh nghiệp, với ý nghĩa là Doanh nghiệp được các chủ nợ ngắn hạn cung cấp vốn cần thiết cho chu kỳ sản xuất kinh doanh. Tình trạng này không phải ngành nào, Doanh nghiệp nào cũng đạt được. Yếu tố quyết định là các thói quen về thanh toán trong các ngành, nghề, tính chất của những mối quan hệ thương mại. Nhu cầu vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên > 0 Tức là tồn kho và các khoản phải thu lớn hơn nợ ngắn hạn. Phải thu Tồn kho 40 Nợ ngắn hạn 15 Nhu cầu vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên + 25 Nhu cầu vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên dương Trong trường hợp này các sử dụng ngắn hạn của Doanh nghiệp lớn hơn các nguồn vốn ngắn hạn mà Doanh nghiệp có từ bên ngoài. Vì vậy Doanh nghiệp phải dùng nguồn vốn dài hạn để tài trợ cho phần chênh lệch. Nhu cầu vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên dương của các Doanh nghiệp phụ thuộc vào ngành hoạt động và tình hình kinh tế chung của nền kinh tê. Để giảm nhu cầu vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên biện pháp tích cực nhất là giải phóng tồn kho và giảm các khoản phải thu. 1.1.4.4 Mối quan hệ giữa vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên và nhu cầu vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên. Việc so sánh giữa vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên và nhu cầu vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên có ý nghĩa rất quan trọng cho việc đánh giá tình hình tái chính của Doanh nghiệp. Nhu cầu vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên dương có nghĩa là Doanh nghiệp cần vốn để tài trợ chu kỳ sản xuất kinh doanh vì nợ ngắn hạn không đủ cho những sử dụng ngắn hạn. Vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên sẽ dùng để đáp ứng nhu cầu đó. Với giả định ban đầu là vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên dương, tài sản cố định được tài trợ bằng vốn dài hạn. Về phần tài sản cố định tình trạng tài chính lành mạnh, ổn định. Trường hợp 1 Vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên = 3 Tiền tồn kho 5 phải thu nợ ngắn hạn 3 Nhu cầu vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên vốn đầu tư vào tái sản lưu động thường xuyên 3 Tài sản cố định vốn dài hạn 6 Trong trương hợp này tồn kho và các khoản phải thu lớn hơn nợ ngắn hạn. Như vậy sử dụng ngắn hạn lớn hơn các nguồn vốn ngắn hạn mà Doanh nghiệp có thể huy động được, nhu cầu vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên là +2. Để tài trợ cho phần chênh lệch này Doanh nghiệp cần phải sử dụng vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên nghĩa là phần vốn dài hạn không dùng để tài trợ cho tài sản cố định. Trong trường hợp này vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên bằng 3 ( vốn dài hạn 6 – tài sản cố định 3 = 3), đủ để bù đắp cho nhu cầu trên. Còn lại (3-2=1) là phần nguồn vốn mà Doanh nghiệp không sử dụng tới, có hình thức vốn bằng tiền để trong ngân quỹ. Như vậy vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên của Doanh nghiệp không những đáp ứng đủ nhu cầu về vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên mà còn dư tiền trong quỹ. Đối với những Doanh nghiệp có nhu cầu vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên dương một cách thường trực thì vốn dài hạn không những phải tài trợ tài sản cố định mà còn phải tài trợ một phần các sử dụng ngắn hạn. Do đó vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên buộc phải dương thì tình trạng tài chính mới lành mạnh. Trường hợp 2 Vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên = 2 tiền 2 tồn kho 4 phải thu nhu cầu vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên -1 nợ ngắn hạn 5 vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên 2 Tài sản cố định 4 vốn dài hạn 6 Trong trường hợp này nợ ngắn hạn lớn hơn các khoản phải thu và toàn bộ tồn kho. Như vậy vay ngắn hạn từ bên ngoài thừa đủ để tài trợ cho các sử dụng ngắn hạn của Doanh nghiệp. Từ đó ta thấy nhu cầu vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên của Doanh nghiệp là âm ( -1). Vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên của Doanh nghiệp ( nguồn vốn dài hạn không dùng để tài trợ cho các tài sản cố định) dương (2). Và như vậy vốn bằng tiền là 3. Tại thời điểm này có thể thấy Doanh nghiệp có quá nhiều tiền nhàn rỗi không dùng đến. Nếu đây là một tình trạng tạm thời thì có thể chấp nhận được. Còn nếu đây là một tình trạng lâu dài của Doanh nghiệp thì có thể đánh giá Doanh nghiệp quá lãng phí trong việc sử dụng vốn. Vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên dương trong trường hợp này là không cần thiết. Trường hợp 3 tiền -2 tồn kho 5 phải thu nợ ngắn hạn 2 Nhu cầu vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên 3 vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên 1 Tài sản cố định 5 vốn dài hạn 6 Trong trường hợp này tồn kho và các khoản phải thu lớn hơn nợ ngắn hạn. Nghĩa là nhu cầu về vốn đầu tư vào tài sản lưu động của Doanh nghiệp là lớn hơn 0. Trường hợp này vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên chỉ bằng 2. Như vậy vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên không đáp ứng đủ nhu cầu vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên. Doanh nghiệp thiếu hụt vốn, tình trạng này thể hiện vốn bằng tiền âm. Doan._.h nghiệp đang thiếu vốn bằng tiên do tồn kho và các khoản phải thu quá lớn. Khả năng thanh toán của Doanh nghiệp bị đe doạ. Nếu tình trạng này trầm trọng và kéo dài, Doanh nghiệp không bán được hàng sẽ gặp khó khăn trong thanh toán và trang trải các khoản nợ. 1.1.5 Vai trò của vốn đầu tư vào tài sản lưu động đối với hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp Trong mỗi Doanh nghiệp vốn được đầu tư vào hai loại tài sản là tài sản cố định và tài sản lưu động. Vốn đầu tư vào tài sản lưu động có số vòng quay nhanh hơn vốn đầu tư vào tài sản cố định. Vốn đầu tư vào tài sản lưu động có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng tạo doanh thu của Doanh nghiệp, khả năng thanh toán trong ngắn hạn của Doanh nghiệp. Vốn đầu tư vào tài sản lưu động thường xuyên vận động và biến đổi qua nhiều hình thái khác nhau. Và đối với từng lĩnh vực kinh doanh khác nhau vốn đầu tư vào tài sản lưu động của mỗi Doanh nghiệp có sự biến đổi qua các giai đoạn khác nhau. Đối với Doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, vốn đầu tư vào tài sản lưu động có hình thái ban đầu là tiền được chuyển sang hình thái vật tư. Trong quá trình sản xuất, từ hình thái vật tư vốn chuyển sang hình thái bán thành phẩm rồi thành phẩm, trở thành hàng hoá khi được bán trên thị trường, khi quá trình tiêu thụ kết thúc thì trở lại hình thái ban đầu là tiền. Đối với một Doanh nghiệp thương mại thì chu kỳ vận động của vốn đầu tư vào tài sản lưu động nhanh hơn. Từ hình thái ban đầu là tiền sau chuyển sang hình thái hàng hoá và khi kết thúc quá trình bán hàng thì lại trở về hình thái tiền. Trong quá trình hoạt động của Doanh nghiệp vốn liên tục có sự biến đổi qua các hình thái. Sự hoạt động có chu kỳ của Doanh nghiệp tạo ra sự chu chuyển của vốn đầu tư vào tài sản lưu động. Tốc độ quay vòng của vốn đầu tư vào tài sản lưu động có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc tạo doanh thu của Doanh nghiệp. Trong điều kiện hiện nay khi tất cả các nguồn lực đều có hạn thì sự thu hồi vốn nhanh là một điều kiện tối quan trọng. Rút ngắn thời gian của vật tư dự trữ, nhanh chóng chuyển vật tư sự trữ thành thành phẩm, rút ngắn vòng quay của hàng tồn kho, kết thúc bán hàng để chuyển hàng tồn kho thành tiền và lại tiếp tục một chu kỳ sản xuất mới là mục tiêu hàng đầu của các Doanh nghiêp. Vốn đầu tư vào tài sản lưu động chuyển toàn bộ giá trị vào mỗi chu kỳ kinh doanh và thu hồi lại toàn bộ giá trị vào cuối chu kỳ. Vòng tuần hoàn của vốn đầu tư vào tài sản lưu đôngh nhanh hay chậm phụ thuộc và mỗi loại hình Doanh nghiệp và cụ thể từng Doanh nghiệp. Để có sử dụng tối đa nguồn vốn , một biện pháp các Doanh nghiệp sử dụng là tăng nhanh vòng quay của vốn đầu tư vào tài sản lưu động. Chu kỳ vận động của vốn đầu tư vào tài sản lưu động càng ngắn, hàng tồn kho quay vòng càng nhanh, tiền mặt quay vòng nhanh là vấn đề các Doanh nghiệp hướng tới để tăng doanh thu của đơn vị mình. Như vậy có thể thấy vốn đầu tư vào tài sản lưu động là lượng tiền ứng trước để thoả mãn nhu cầu về tài sản lưu động, đảm bảơ cho hoạt động của Doanh nghiệp được diễn ra thường xuyên, liên tục, và bảo hiểm cho Doanh nghiệp, đảm bảo khả năng thanh toán trong ngắn hạn. Vốn đầu tư vào tài sản lưu động có vai trò hết sức quan trọng đối với hoạt động của Doanh nghiệp. Quản lý sử dụng hợp lý vốn đầu tư vào tài sản lưu động có ảnh hưởng rất quan trọng đối với việc hoàn thành nhiệm vụ chung của Doanh nghiệp. Mặc dù hầu hết các vụ phá sản trong kinh doanh là hệ quả của nhiều yếu tố, chứ không phải chỉ do quản lý vốn đầu tư vào tài sản lưu động tồi. Nhưng cũng cần thấy rằng, sự bất lực của một số công ty trong việc hoạch định và kiểm soát một cách chặt chẽ các loại tài sản lưu động và nợ ngắn hạn hầu như là một nguyên nhân dẫn đến thất bại cuối cùng của họ. 1.2 Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư vào tài sản lưu động của Doanh nghiệp 1.2.1 Khái niệm hiệu quả sử dụng vốn đầu tư vào tài sản lưu động của Doanh nghiệp Đây là một chỉ tiêu nằm trong nhóm các chỉ tiêu về hiệu quả hoạt động của Doanh nghiệp. Vốn của Doanh nghiệp được dùng để đầu tư cho các loại tài sản khác nhau như tài sản lưu động, tài sản cố định. Chỉ tiêu doanh thu được sử dụng trong tính toán để xem xét khả năng hoạt động của Doanh nghiệp. Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư vào tài sản lưu động cho biết một đồng vốn đầu tư vào tài sản lưu động tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu trong một năm. Hiệu suất sử dụng vốn đầu tư vào tài sản lưu động = Doanh thu/ vốn đầu tư vào tài sản lưu động Nếu xét với cùng một lượng vốn đầu tư vào tài sản lưu động, hiệu quả sử dụng vốn đầu tư vào tài sản lưu động càng cao thì kết quả kinh doanh của Doanh nghiệp càng cao. Mục tiêu hàng đầu của các Doanh nghiệp là tốí đa hoá giá trị của chủ sở hữu. Các Doanh nghiệp pháp huy tối đa các nguồn lực hiện có, tăng khả năng sinh lời của các loại tài sản, của vốn chủ sở hữu, vốn đi vay… Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư vào tài sản lưu động gắn liền và có quan hệ trực tiếp tới hiệu quả hoạt động của Doanh nghiệp. Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư vào tài sản lưu động thể hiện vai trò quan trọng của nó trong tất cả các giai đoạn của quá trình sản xuất kinh doanh. Từ sử dụng vốn để mua hàng hoá, vật tư đến quá trình tiêu thụ sản phẩm, thu hổi vốn để đầu tư cho chu kỳ sản xuất tiếp theo. Vốn đối với mỗi Doanh nghiệp là một yếu tố quan trọng hàng đầu. Trong quá trình hoạt động của mình Doanh nghiệp phải đảm bảo cung cấp đầy đủ các yếu tố cho quá trình kinh doanh đồng thời đảm bảo tiết kiệm vốn và sử dụng vốn với hiệu quả cao nhất. Như vậy quản lý và sử dụng hợp lý nguồn vốn để đạt được kết quả cao nhất là mục tiêu hàng đầu của các Doanh nghiêp. Mỗi Doanh nghiệp có một phương thức huy động vốn khác nhau, vốn có thể được hình thành từ nguồn vốn góp, vốn vay… Không một Doanh nghiệp nào sử dụng hoàn toàn vốn chủ sở hữu trong quá trình hoạt động vì như vậy quá rủi ro. Như vậy có thể thấy trong mỗi chu kỳ kinh doanh Doanh nghiệp phải chi một lượng không nhỏ để trả lãi cho các khoản đi vay. Doanh nghiệp phải lựa chọn cơ cấu vốn hợp lý, sử dụng có hiệu quả nguồn vốn để đảm bảo không chỉ chi trả được các chi phí phát sinh trong kỳ kinh doanh mà còn có lãi. Có thể thấy việc quản lý và sử dụng tốt vốn đàu tư vào tài sản lưu động có ý nghĩa rất quan, góp phần rất lớn nâng cao hiệu quả hoạt động của Doanh nghiệp. Vốn đầu tư vào tài sản lưu động có vai trò rất quan trọng đối với hoạt động của một Doanh nghiệp. Và trong môi trường kinh tế như hiện nay thì việc quản lý và sử dụng vốn đầu tư vào tài sản lưu động có vai trò quyết định đến sự tồn tại và phát triển của Doanh nghiệp. 1.2.2 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn đầu tư vào tài sản lưu động của Doanh nghiệp Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn đầu tư vào tài sản lưu động có các nhóm chỉ tiêu sau: a Chỉ số về khả năng thanh toán ngắn hạn Nhằm đánh giá khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn a.1 Khả năng thanh toán tức thời: tiền/ nợ đến hạn Nợ đến hạn bao gồm các khoản nợ ngắn hạn, nợ trung và dài hạn đến hạn trả. Chỉ tiêu này thể hiện mối quan hệ giữa tài sản có khả năng thanh toán trực tiếp như tiền mặt, chứng khoán bán được ngay với các khoản nợ hiện hành. Chỉ tiêu này cho biết 1 đồng nợ ngắn hạn được đảm bảo bởi bao nhiêu đồng tiền và chứng khoán thanh khoản cao. Chỉ tiêu này là một tiêu chuẩn đánh giá khá khắt khe về khả năng trả nợ ngắn hạn. Khi sử dụng chỉ tiêu này, để đánh giá một cách chặt chẽ khả năng thanh toán nhanh của Doanh nghiệp, ta phải nghiên cứu kỹ lưỡng các khoản nợ ngắn hạn, sắp xếp các khoản nợ này theo kỳ hạn thanh toán của chúng rồi đối chiếu với số tiền mặt dự kiến sẽ có vào mỗi kỳ hạn. a.2 Khả năng thanh toán nhanh : (vốn bằng tiền + phảt thu)/ nợ ngắn hạn= tài sản lưu động – hàng tồn kho Tỷ số này cho biết 1 đồng nợ ngắn hạn được đảm bảo bởi bao nhiêu đồng tiền và nợ phải thu. Tỷ số này so tổng nợ ngắn hạn của Doanh nghiệp với tập hợp tiền cộng với các khoản phải thu. Tỷ lệ này ít khắt khe hơn tỷ lệ thanh toán tức thời vì bao gồm cả các khoản phải thu. Các khoản phải thu được sắp xếp theo kỳ hạn để đối chiếu với các khoản nợ. a.3 Khả năng thanh toán ngắn hạn : Tài sản lưu động / nợ ngắn hạn Tỷ số này so sánh toàn bộ tài sản lưu động với các khoản nợ đến hạn. Muốn đạt được sự an toàn thì tỷ số này phải trên 100%. Các chỉ tiêu về khả năng thanh toán rất quan trọng. Nó cho biết Doanh nghiệp có khả năng thanh toán tức thì các khoản nợ đến hạn hay không. b Tỷ số về khả năng hoạt động Phản ánh khả năng kết hợp các tài sản để tạo ra hiệu quả hoạt động của Doanh nghiệp. b.1 Vòng quay của vốn đầu tư vào tài sản lưu động Doanh thu/ giá trị tài sản lưu động bình quân Trung bình trong một chu kỳ kinh doanh vốn đầu tư vào tài sản lưu động của Doanh nghiệp quay được bao nhiêu vòng. Chỉ tiêu này càng lớn thì hiệu quả hoạt động của Doanh nghiệp càng cao. b.2 Vòng quay của hàng tồn kho Doanh thu/ hàng tồn kho bình quân Hàng tồn kho bình quân = (hàng tồn kho đầu kỳ+ hàng tồn kho cuối kỳ)/ 2 Số vòng quay của hàng tồn kho trong một chu kỳ kinh doanh. Chỉ số này càng lớn thì càng tốt. b.3 Số ngày thanh lý hàng tồn kho (Hàng tồn kho bình quân x 360)/ giá vốn hàng bán Chỉ số này cho biết thời gian Doanh nghiệp cần để thanh lý hàng tồn kho. b.4 Kỳ thu tiền bình quân Tổng khoản phải thu/ doanh thu bình quân một ngày Doanh thu bình quân một ngày = doanh thu / 360 Chỉ tiêu này cho biết số ngày trung bình Doanh nghiệp cần để thu hồi các khoản phải thu. b.5 Vòng quay của tiền Doanh thu / tiền bình quân tiền bình quân = (tiền đầu kỳ + tiền cuối kỳ)/2 Trong một chu kỳ kinh doanh trung bình tiền quay được bao nhiêu vòng. c Chỉ tiêu về lợi nhuận c.1 Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư vào tài sản lưu động trong kỳ Lợi nhuận sau thuế/ vốn đầu tư vào tài sản lưu động Chỉ tiêu này cho biết 1 đồng vốn đầu tư vào tài sản lưu động đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế cho Doanh nghiệp. c.2 Mức đảm nhiệm vốn đầu tư vào tài sản lưu động Vốn đầu tư vào tài sản lưu động/ Doanh thu thuần Chỉ tiêu này cho biết để đạt được 1 đồng doanh thu Doanh nghiệp phải sử dụng bao nhiêu đồng vốn đầu tư vào tài sản lưu động. Chỉ tiêu này càng nhỏ thì hiệu quả sử dụng vốn đầu tư vào tài sản lưu động của Doanh nghiệp càng cao. Trên đây là những chỉ tiêu quan trọng để đánh giá khả năng quản lý và sử dụng vốn lưu động trong hoạt động sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp. Để duy trì các chỉ tiêu này ở mức tốt đòi hỏi các Doanh nghiệp phải có những biện pháp quản lý và sử dụng hợp lý, đồng bộ, đảm bảo Doanh nghiệp kinh doanh có lãi và hiệu quả sử dụng vốn là cao nhất. 1.2.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn đầu tư vào tài sản lưu động của Doanh nghiệp Có thể chia các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động của Doanh nghiệp thành bốn nhóm. - Nhóm nhân tố về mặt sản xuất (kinh doanh) : lĩnh vực sản xuất ( kinh doanh), quy mô sản xuất (kinh doanh), tính phức tạp của chu kỳ sản xuất (kinh doanh), yêu cầu về thành phẩm, hàng hoá… - Nhóm nhân tố về nguồn cung cấp vật tư hàng hoá cho Doanh nghiệp, thị trường tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá. - Nhóm nhân tố về thanh toán: bao gồm những nhân tố về phương thức thanh toán, thủ tục thanh toán. - Nhóm nhân tố khác: là những nhân tố thuộc vể bản thân Doanh nghiệp như trình độ tổ chức quản lý, sự hiện đại của dây chuyền sản xuất, nhu cầu của thị trường về loại hàng hoá mà Doanh nghiệp đang sản xuất, kinh doanh; sự cạnh tranh của các Doanh nghiệp cùng nghành … Những nghiên cứu về các nhân tố tác động đến hiệu quả sử dụng vốn đầu tư vào tài sản lưu động của Doanh nghiệp là rất cần thiết. Việc làm này sẽ góp phần nâng cao chất lượng của công tác quản lý và sử dụng vốn đầu tư vào tài sản lưu động của mỗi Doanh nghiệp. CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG SỬ DỤNG NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ VÀO TÀI SẢN LƯU ĐỘNG CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN THƯƠNG MẠI DƯỢC PHẨM QUỐC TẾ 2.1 Công ty cổ phần thương mại dược phẩm Quốc tế 2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của Công ty cổ phần thương mại dược phẩm Quốc tế 2.1.1.1 Lịch sử hình thành Công ty cổ phần thương mại dược phẩm Quốc Tế hoạt động theo giấy phép kinh doanh số 0103004476 do Sở kế hoạch và đầu tư thành phố Hà Nội cấp ngày 28/5/2004. Tên giao dịch quốc tế của Công ty: Công ty cổ phần thương mại dược phẩm Quốc tế Tên tiếng anh : International Pharmaceutical Trading Joint stock company Tên giao dịch : Winsacom Địa chỉ  : 18/23/34 Nguyên Hồng- Đống Đa- Hà Nội Tel  : (04) 7735403 Fax : (04) 7736532 E- mail  : winsacom@gmail.com Mặt hàng kinh doanh hầu hết của Công ty là các mặt hàng thuốc chữa bệnh. Công ty là một doanh nghiệp thực hiện chế độ hạch toán độc lập, tự chủ về tài chính, có tư cách pháp nhân, có tài khoản riêng tại ngân hàng, được sử dụng con dấu riêng theo thể thức nhà nước quy định, hoạt động theo pháp luật của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Công ty thương mại cổ phần dược phẩm Quốc tế dù ra đời chưa lâu nhưng những thành quả công ty đã đạt được là rất đáng khích lệ. Công ty đã cung cấp một lượng thuốc chữa bệnh nhất định ra thị trường. Có hai nguồn cung cấp thuốc chủ yếu cho công ty là: thuốc nhập khẩu uỷ thác và thuốc sản xuất trong nước. Công ty cổ phần dược phẩm Hà Tây, công ty cổ phần dược phẩm Vidipha và công ty cổ phần dược phẩm Imexpharm là những đơn vị sản xuất thuốc chuyên cung cấp thuốc cho công ty. Về thuốc nhập khẩu, công ty nhập khẩu uỷ thác qua các công ty có uy tín như Công ty dược phẩm Codupha, Công ty dược phẩm Hapharco, Công ty dược phẩm Vĩnh Phúc, Công ty cổ phần dược phẩm Traphaco… từ các quốc gia Pháp, Đức, Ba Lan, Nga, Hàn Quốc, ấn Độ là chủ yếu. Mục tiêu của công ty là đem lại cho khách hàng những loại thuốc tốt nhất với giá thành hợp lý nhất và hiệu quả điều trị tốt nhất. Những loại thuốc công ty cung cấp trên thị trường là những loại thuốc đảm bảo đúng với yêu cầu chất lượng của Bộ y tế ban hành, được sản xuất tại những cơ sở có uy tín. Thuốc công ty cung cấp trên thị trường gồm 125 mặt hàng thuộc các chủng loại như thuốc kháng sinh, thuốc chuyên khoa, thuốc độc… Sau hai năm đi vào hoạt động công ty đã mở rộng thị trường phân phối thuốc ra cả nước. Ngày 8/6/2006 công ty thành lập chi nhánh đầu tiên - công ty cổ phần đầu tư và phát triển Gia Long, chi nhánh được đặt tại 30 Cửa Tả- phường Lam Sơn - thành phố Thanh Hoá. Ngày 20/1/2007 chi nhánh thứ hai của công ty được thành lập với tên gọi công ty cổ phần Đại An Phú được đặt tại 134/72 Đường Thành Thái, Phường 12, Quận 10, TP HCM. Công ty không ngừng lớn mạnh về cả quy mô, số lượng cán bộ nhân viên và chủng loại thuốc cung cấp trên thị trường. Từ 1000.000.000 VND vốn điều lệ tại thời điểm thành lập hiện nay số vốn này đã tăng lên con số 3000.000.000 VND. Số lượng cũng như chất lượng các loại thuốc công ty cung cấp trên thị trường ngày càng được nâng cao. Từ 125 chủng loại thuốc đến nay con số này đã lên đến hơn 250 chủng loại. Trong quá trình phát triển của mình công ty không ngừng nâng cao chất lượng và số lượng cán bộ nhân viên. Đến nay công ty đã hình thành được một mạng lưới trình dược viên bệnh viện và trình dược viên nhà thuốc tại thành phố Hà Nội và các tỉnh thành trong cả nước. Cũng như các công ty cổ phần hiện nay, công ty cổ phần thương mại dược phẩm Quốc tế đang không ngừng phát triển để khẳng định vị trí của mình. Đội ngũ cán bộ nhân viên của công ty ngày càng tăng cả về số lượng và chất lượng. Đội ngũ trình dược viên được đào tạo bài bản về kiến thức sản phẩm và kỹ năng bán hàng. Trong giai đoạn hiện nay, khi đât nước ta đã gia nhập tổ chức thương mại quốc tế WTO công ty cổ phần thương mại dược phẩm Quốc tế đang nỗ lực hết mình để thích ứng với sự phát triển của đất nước. 2.1.1.2 Đặc điểm tổ chức kinh doanh và tổ chức quản lý cuả công ty cổ phần thương mại dựơc phẩm Quốc tế Bộ máy quản lý của Công ty bao gồm nhiều bộ phận, giữa các bộ phận có quan hệ chặt chẽ với nhau và được phân thành các khâu, các cấp quản lý với những chức năng và quyền hạn nhất định nhằm thực hiện các mục tiêu. Bộ máy tổ chức của Công ty được thực hiện theo mô hình quản lý trực tiếp tập trung nên ban Giám đốc của Công ty có thể nắm được tình hình sản xuất kinh doanh một cách kịp thời tạo điều kiện giúp Giám đốc Công ty hiểu rõ được thực trạng của Công ty. Giữa các phòng ban có quan hệ mật thiết và chặt chẽ, phối hợp với nhau một cách hiệu quả và đồng bộ. Sơ đồ bộ máy tổ chức quản lý của công ty Giám Đốc Phòng Kế Toán PGĐ Kinh Doanh PGĐ phụ trách sản phẩm Phòng kinh doanh Phòng hành chính - Giám đốc công ty: đồng thời là chủ tịch hội đồng quản trị, là người chịu trách nhiệm toàn diện về quản lý và điều hành hoạt động kinh doanh của công ty. Phó giám đốc kinh doanh: là người thay mặt giám đốc điều hành toàn bộ hoạt động kinh doanh của Công ty về hàng nhập ngoại, hàng mua và hàng bán. Phó giám đốc phụ trách sản phẩm: chịu trách nhiệm chính về chất lượng sản phẩm nhập về kho của công ty. Phòng kế toán: đảm nhiệm chức năng hạch toán kế toán, trực tiếp quản lý vốn các loại, các nguồn vốn phục vụ sản xuất kinh doanh. Tham mưu cho Giám đốc về lĩnh vực tài chính của nhà nước quy định. Là đơn vị kinh doanh với số lao động là 70 người trong đó cán bộ chuyên môn là 25 người, dược sĩ đại học là 4 người, giữa các phòng ban trong công ty và giữa ban lãnh đạo với cán bộ nhân viên có mối quan hệ rất mật thiết. Sự phân chia hợp lý chức năng nhiệm vụ giữa các phòng đã góp phần nâng cao chất lượng hoạt động quản lý trong công ty. Công ty hình thành hai hệ thống trình dược viên là trình dược viên bệnh viện và trình dược viên nhà thuốc. Trình dược viên Bệnh viện là người thay mặt công ty giới thiệu, cung cấp thông tin về sản phẩm tạo ra nhu cầu cho các bác sĩ sử dụng thuốc điều trị cho bệnh nhân trong bệnh viện. Trình dược viên nhà thuốc có nhiệm vụ giới thiệu cho các nhà thuốc những sản phẩm thuốc bán không cần kê toa của bác sĩ. Tổ chức hệ thống chứng từ, sổ kế toán Căn cứ vào quy mô và điều kiện hoạt động của doanh nghiệp và căn cứ vào các hình thức tổ chức sổ kế toán, từng doanh nghiệp sẽ lựa chọn cho mình một hình thức tổ chức kế toán phù hợp. Theo quy định, các doanh nghiệp có thể lựa chọn áp dụng một trong các hình thức tổ chức sổ kế toán sau: Hình thức Nhật ký – Sổ cái; Hình thức Chứng từ ghi sổ; Hình thức Nhật ký - Chứng từ; Hình thức Nhật ký chung. Hiện nay công ty đang áp dụng chế độ kế toán cho doanh nghiệp vừa và nhỏ theo QĐ số 144/2001/QĐ- BTC Sơ đồ trình tự hệ thống hoá thông tin kế toán theo hình thức Nhật ký – Chứng từ Chứng từ gốc và các bảng phân bổ Thẻ và sổ kế toán chi tiết Bảng tổng hợp chi tiết Bảng kê Nhật ký chứng từ Sổ cái Báo cáo kế toán Ghi hàng ngày Đối chiếu Ghi cuối tháng Kế toán trưởng: Phụ trách công việc chung của cả phòng dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Giám đốc, có nhiệm vụ kiểm tra, phân tích số liệu vào cuối kỳ kinh doanh, đôn đốc mọi bộ phận kế toán chấp hành các quy định, chế độ kế toán do Bộ Tài Chính ban hành. Thủ quỹ: làm nhiệm vụ thu chi tiền khi có phiếu thu, phiếu chi. Ngoài ra còn phải ra ngân hàng để nộp tiền và rút tiền. 2.1.2 Kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty cổ phần thương mại dược phẩm Quốc tế trong năm 2005, 2006 và năm 2007 Trong nền kinh tế thị trường, để tồn tại và phát triển Công ty Cổ phần thương mại dược phẩm Quốc tế đã có sự định hướng đúng đắn và phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Sự linh hoạt nhạy bén trong công tác quản lý kinh tế thực sự trở thành đòn bẩy tích cực cho quá trình phát triển của Công ty. Tóm tắt các số liệu về tài chính Đơn vị: VND TT Khoản mục Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 1 Tổng tài sản 4.683.229.037 10.364.962.927 10.793.934.900 2 Tổng nợ phải trả 1.415.245.355 6.956.114.343 6.766.997.050 3 Vốn lưu động 4.200.202.274 9.988.441.353 10.523.918.514 4 Doanh thu 30.475.569.000 50.428.900.160 70.753.077.704 5 Lợi nhuận trước thuế 372.199.559 408.848.585 618.089.265 6 Lợi nhuận sau thuế 267.983.683 294.370.981 445.024.270 Những số liệu trong bảng tóm tắt các số liệu tài chính cho thấy khoản mục tổng tài sản, doanh thu và lợi nhuận của công ty tăng liên tục qua các năm. Năm 2005 giá trị tổng tài sản tăng gần 2,21 lần, đạt con số 10.364.962.927 VND. Chỉ số doanh thu tăng nhanh qua các năm, trung bình mỗi năm tăng hơn 2tỷ VND. Lợi nhuận sau thuế năm 2006 tăng xấp xỉ 1,7 lần so với năm 2004. Những con số trên cho thấy trong ba năm đi vào hoạt động công ty luôn kinh doanh có lãi, lợi nhuận sau thuế tăng ngày càng nhanh hơn. Để thấy rõ hơn tình hình tài chính của công ty tôi đi vào phân tích cụ thể báo cáo tài chính của công ty qua các năm 2005 và 2006. Phân tích báo cáo tài chính năm 2005, 2006 BẢNG CÂN ĐỐI KẾ TOÁN Ngày 31/12/2005 Tài sản Mã số Số cuối năm I Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn 100 6,500,213,108 1 Tiền mặt tại quỹ 110 15,408,857 2 Tiền gửi ngân hàng 111 655,653,496 3 Phải thu của khách hàng 114 4,006,552,029 4 Các khoản phải thu khác 115 9,810,677 5 Thuế GTGT được khấu trừ 117 12,266,431 6 Hàng tồn kho 118 1,800,882,618 II Tài sản cố định, đầu tư dài hạn 200 450,183,307 1 Tài sản cố định 210 416,506,398 Nguyên giá 211 521,190,000 Giá trị hao mòn luỹ kế 212 (104,683,602) 2 Chi phí trả trước dài hạn 216 33,676,909 Cộng tài sản 250 6,950,396,415 Nguồn vốn Mã số Số cuối năm I Nợ phải trả 300 5,173,581,319 1 Nợ ngắn hạn 310 5,173,581,319 Vay ngắn hạn 311 2,898,975,334 Phải trả cho người bán 312 2,274,605,985 Thuế và các khoản phải nộp NN 314 0 Các khoản phải trả ngắn hạn khác 315 0 II Nguồn vốn chủ sơ hữu 400 1,776,815,096 1 Nguồn vốn kinh doanh 410 1,500,000,000 Vốn góp 411 1,500,000,000 2 Lợi nhuận chưa phân phối 419 276,815,096 Cộng nguồn vốn 6,950,396,415 Phân tích tình hình tài chính của công ty cổ phần thương mại dược phẩm Quốc tế thông qua việc phân tích các chỉ số tài chính. Các tỷ số tài chính được chia thành bốn nhóm chính là nhóm tỷ số về khả năng thanh toán, nhóm tỷ số về khả năng cân đối vốn, nhóm tỷ số về khả năng hoạt động và nhóm tỷ số về khả năng sinh lãi. Nhóm tỷ số về khả năng thanh toán: Khả năng thanh toán hiện hành = tài sản lưu động / nợ ngắn hạn = 1,26 Khả năng thanh toán nhanh = (tiền + phải thu ngắn hạn)/ nợ ngắn hạn = 0,91 Nhóm tỷ số về khả năng cân đối vốn và thanh toán dài hạn Tỷ số nợ = tổng nợ/ tổng tài sản = 0,74 Tỷ số tổng nợ/ vốn chủ sở hữu = 3,4 Nhóm tỷ số về khả năng sinh lời Doanh lợi tổng tài sản = lợi nhuận sau thuế/ tổng tài sản = 0,04 Doanh lợi vốn chủ sở hữu = lợi nhuận sau thuế/ vốn chủ sở hữu = 0,2 Từ những chỉ số đã tính toán ta có thể đưa ra một số nhận xét về tình hình tài chính cuả công ty năm 2005 như sau: Khả năng thanh toán trong ngắn hạn của công ty ở mức an toàn. Tỷ số khả năng thanh toán ngăn hạn là 1,26 có nghĩa là 1đồng nợ ngắn hạn được đảm bảo bởi 1,26 đồng tài sản lưu động và tỷ số thanh toán nhanh là 0,91 cho biết 1 đồng nợ ngắn hạn đựơc đảm bảo bởi 0,91 đồng tiền và khoản phải thu ngắn hạn. Có thể thấy khả năng thanh toán của công ty ở mức an toàn là do công ty có một lượng tiền lớn trong khoản mục phải thu của khách hàng. Đây là đặc điểm chung của các công ty thương mại thuộc ngành dược, công ty cung cấp thuốc cho khách hàng nhưng không thể thu tiền ngay, thời gian trung bình để thu hồi hết nợ là 3 tháng. Một đặc điểm khác là tài sản của công ty phần lớn nằm tại khoản mục phải thu của khách hàng và hàng tồn kho. Tỷ số tổng nợ / tổng tài sản cho biết phần trăm tổng tài sản của doanh nghiệp được tài trợ bởi nợ. Tại công ty cổ phần thương mại dược phẩm Quốc tê 74% tổng tài sản của công ty được tài trợ bởi nợ. Là một công ty thương mại nên tài sản của công ty chủ yếu là tài sản lưu động và nguồn vốn công ty sử dụng là vốn quay vòng. Do chưa thu được tiền ngay khi bán hàng cho khách nên khoản phải trả cho người bán của công ty ở mức cao và công ty phải đi vay nợ ngắn hạn để trả tiền cho nhà cung cấp. Xem xét hai tỷ số về khả năng sinh lời ta thấy, trong một chu kỳ kinh doanh 1 đồng vốn đầu tư vào tài sản tạo ra 0,04 đồng lợi nhuận sau thuế và nếu đầu tư 1 đồng vốn chủ sở hữu tạo ra 0,2 đồng lợi nhuận sau thuế. Chỉ số doanh lợi vốn chủ sở hữu phản ánh thu nhập trực tiếp của cổ đông. Để thấy sự phát triển của công ty qua các năm ta đi và phân tích tình hình tài chính của công ty trong năm 2006 và so sánh với năm 2005 BẢNG CÂN ĐỐI KẾ TOÁN Ngày 31/12/2006 Tài sản Mã số Số cuối năm I Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn 100 9,653,266,528 1 Tiền mặt tại quỹ 110 38,565,872 2 Tiền gửi ngân hàng 111 290,458,317 3 Phải thu của khách hàng 114 6,453,977,249 4 Các khoản phải thu khác 115 5 Thuế GTGT được khấu trừ 117 3,871,063 6 Hàng tồn kho 118 2,866,394,027 II Tài sản cố định, đầu tư dài hạn 200 363,497,160 1 Tài sản cố định 210 327,493,074 Nguyên giá 211 521,190,000 Giá trị hao mòn luỹ kế 212 (193,696,926) 2 Chi phí trả trước dài hạn 216 36,004,086 Cộng tài sản 250 10,016,763,688 Nguồn vốn Mã số Số cuối năm I Nợ phải trả 300 7,365,120,921 1 Nợ ngắn hạn 310 7,365,120,921 Vay ngắn hạn 311 2,200,335,172 Phải trả cho người bán 312 5,120,374,472 Thuế và các khoản phảI nộp NN 314 32,411,277 Các khoản phải trả ngắn hạn khác 315 30,000,000 II Nguồn vốn chủ sơ hữu 400 2,651,642,767 1 Nguồn vốn kinh doanh 410 2,000,000,000 Vốn góp 411 2,000,000,000 2 Lợi nhuận chưa phân phối 419 651,642,767 Cộng nguồn vốn 430 10,061,763,688 Chỉ số về khả năng thanh toán Khả năng thanh toán ngắn hạn = tài sản lưu động/ nợ ngắn hạn = 1,26 Khả năng thanh toán nhanh = (tiền + phải thu)/ nợ ngắn hạn = 0,92 Chỉ số về cơ cấu vốn Tỷ số nợ = tổng nợ/ tổng tài sản = 0,74 Tỷ số tổng nợ/ vốn chủ sở hữu = 3,4 Chỉ số về khả năng sinh lời Khả năng sinh lời của tổng tài sản = 0,04 Khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu = 0,2 Sang năm 2006 các chỉ số phân tích tài chính về khả năng thanh toán trong ngắn hạn của công ty vẫn được duy trì ở mức tốt. Phần trăm tổng tài sản của công ty được tài trợ bởi nợ ở mức ổn định. Có thể nói những con số tương đối về các tỷ số phân tích công ty vân duy trì được ở mức tột. Xem xét con số tuyệt đối qua hai năm 2005 và 2006 ta thấy khoản mục tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn tăng 1,49 lần; năm 2005 giá trị tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn là 6,500,213,108 VND; giá trị này năm 2006 là 9,653,266,528 VND. Nguồn vốn chủ sở hữu tăng gấp 2 lần lên con số 2,000,000,000 VND năm 2006. Do công ty đang kinh doanh có lãi, các cổ đông tin tưởng vào sự phát triển mạnh của công ty trong tương lai nên lợi nhuận được giữ lại để đầu tư vào chu kỳ kinh doanh tiếp theo. Một số chỉ tiêu phân tích tài chính năm 2007 của Công ty cổ phần thương mại dược phẩm Quốc tế: Chỉ số về khả năng thanh toán: Khả năng thanh toán ngắn hạn = tài sản lưu động/ nợ ngắn hạn = 1,45 Khả năng thanh toán nhanh = (tiền + phải thu)/ nợ ngắn hạn = 0,8 Chỉ số về khả năng sinh lời: Khả năng sinh lời của tổng tài sản = 0,05 Khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu = 0,05 Chỉ tiêu về khả năng thanh toán của Công ty ở mức an toàn. Chỉ tiêu khả năng sinh lời của nguồn vốn giảm so với hai năm 2005 và 2006. Khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu được xác định theo công thức Lợi nhuận sau thuế/ vốn chủ sở hữu, chỉ tiêu này thấp cho thấy khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu giảm, điều này có nghĩa là phần lợi nhuận không chia mà các cổ đông tiếp tục đầu tư vào Công ty đã không đem lại lợi nhuận cho mỗi đồng vốn chủ sở hữu bỏ ra. Lợi nhuận tăng lên chưa tương xứng với số vốn bỏ ra. Có thể khẳng định công ty cổ phần thương mại dược phẩm Quốc tế là một doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả. Trong ba năm đi vào hoạt động Công ty đều có doanh thu ở mức tương đối cao. Lợi nhuận sau thuế của công ty trong năm 2004 là 267.983.683 VND, năm 2005 là 294.370.981 VND và năm 2006 là 445.024.270 VND. Chỉ tiêu tổng tài sản của công ty tăng nhanh qua các năm. Năm 2004 giá trị tổng tài sản của công ty là 4.683.229.037 VND, đến năm 2007 con số này là 10.793.934.900 VND. Những thành quả công ty đã làm được đã cho thấy phần nào sự lớn mạnh của công ty. Đời sống cán bộ nhân viên công ty ngày càng được cải thiện. Tổng quỹ lương năm 2006 là 2,046,000,000 VND, mức lương bình quân/tháng của cán bộ nhân viên công ty là 3,278,846 VND. Mức lương cao nhất trả cho ban lãnh đạo công ty là 5,000,000 VND, mức lương thấp nhất là 2,500,000 VND. Mức lương công ty trả cho cán bộ nhân viên ở mức tương đối cao, đảm bảo đời sống cho cán bộ nhân viên công ty. Số lượng và chủng loại thuốc công ty phân phối trên thị trường về ngày càng tăng. Công ty nhập thuốc từ các hãng có uy tín trên thế giới từ các quốc gia như Pháp, Nga, Hàn Quốc, Singapo… Đối với thị trường trong nước, công ty mua và đặt hàng tại các cơ sở sản xuất thuốc có uy tín như Công ty dược phẩm Trung ương I, Công ty dược phẩm TW II, Công ty dược phẩm Imexpharm, Công ty liên doanh dược phẩm Việt Trung … Việc công ty nhập thuốc từ những công ty dược phẩm có uy tín có ý nghĩa rất quan trọng trong việc tạo lập một vị trí vững chắc cho công ty trên thị trường. Mục tiêu hoạt động của công ty là cung cấp cho người tiêu dùng những sản phẩm tốt nhất với giá thành hợp lý nhất và hiệu quả chữa bệnh cao nhất. Và để công ty có thể phát triển mạnh thì uy tín phải được đặt lên hàng đầu. 2.1.2.3 Nguyên nhân Trong giai đoạn nền kinh tế đất nước đang có những biến chuyển mạnh mẽ, công cổ phần thương mại dược phẩm Quốc tế đã rất năng động, nhạy bén để hoà nhập vào nền kinh tế thị trường sôi động và cạnh tranh gay gắt. Sự nhạy bén trong công tác quản lý và điều hành công ty là đòn bẩy tích cực cho sự phát triển của công ty. Các nhà lãnh đạo công ty đã không ngừng có những thay đổi tích cực phù hợp với xu thế phát triển chung của đất nước cùng với việc nâng cao trình độ của các trình dược viên và lựa chọn những loại thuốc chất lượng đã tạo cho công ty một chỗ đứng vững chắc trên thị trường. Công ty ngày càng mở rộng thị trường phân phối thuốc bằng cách tăng cường mạng lưới trình dược viên bệnh viện và trình dược viên nhà thuốc. Thi trường tiêu thụ thuốc của công ty được mở rộng trên cơ sở bền uy tín và chất lượng. Mạng lưới trình dược viên được mở rộng đã nâng cao doanh số thuốc bán ra của công ty. Nguyên nhân chính dẫn tới sự phát triển của công ty là những chính sách bán hàng đúng đắn của công ty và hoạt động có h._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc7863.doc
Tài liệu liên quan