Nâng cao hiệu quả thẩm định dự án đầu tư tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam

Lời mở đầu Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là một trong những mục tiêu quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam mà Đảng và Nhà nước ta đã đặt ra. Để thực hiện mục tiêu này Nhà nước ta đã có những chính sách, chiến lược nhằm khuyến khích các tổ chức, đơn vị, dân cư hoạt động đóng góp vào nền kinh tế có hiệu quả hơn. Là một tổ chức tín dụng, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (NHNTVN) cũng không nằm ngoài quỹ đạo này. Với bản chất đi vay để cho vay NHNTVN trong những

doc83 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1215 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao hiệu quả thẩm định dự án đầu tư tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
năm qua đã có những đóng góp đáng kể vào công cuộc phát triển nền kinh tế đất nước. Trên cơ sở cho vay vốn đối với các tổ chức, doanh nghiệp NHNTVN đã tạo tiền đề về vốn cho các tổ chức, doanh nghiệp này để có thể đầu tư vào các dây chuyền công nghệ, vốn lưu động, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, trong hoạt động tín dụng ngân hàng rủi ro là yếu tố luôn tiềm ẩn và là một trong những lo ngại mà các ngân hàng cần có biện pháp giải quyết. Với các biện pháp như tín chấp, thế chấp các ngân hàng phần nào giảm bớt được rủi ro về nguy cơ bị mất vốn. Để thực hiện tốt hơn nữa các giải pháp nâng cao hiệu quả cho vay vốn và đảm bảo được việc quản lý vốn, trước khi cho vay vốn các ngân hàng thường thẩm định các dự án đầu tư được vay vốn. Trong thời gian thực tập tại NHNTVN, tôi thấy rằng công tác thẩm định dự án đầu tư là rất quan trọng trong việc góp phần vào thành công của NHNTVN. Do đó, tôi đã nghiên cứu và lựa chọn đề tài: "Giải pháp nâng cao hiệu quả thẩm định dự án đầu tư tại NHNTVN". Đề tài này được trình bày qua các phần sau: Chương I: Những vấn đề chung về dự án đầu tư và thẩm định dự án đầu tư. Chương II: Đánh giá tình hình thẩm định các dự án cho vay vốn của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Chương III: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thẩm định dự án đầu tư tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Để hoàn thành chuyên đề này, tôi gửi lời cảm ơn sâu sắc tới thầy Vũ Cương- giáo viên hướng cùng cô Lê Thị Kim Dung- trưởng phòng tổ chức và các anh chị tại phòng Dự án và phòng Thẩm định và đầu tư chứng khoán- NHNTVN. Do thời gian nghiên cứu có hạn và kiến thức chuyên môn chưa được sâu sắc nên không tránh khỏi những khiếm khuyết. Vì vậy, tôi mong được sự đóng góp của các thầy cô và các bạn. Sinh viên Hoàng Nguyên Bình Mục lục Chương i Những đề chung về dự án đầu tư và thẩm định dự án đầu tư I. dự án đầu tư và thẩm định dự án đầu tư. 1. Dự án đầu tư. 1.1. Khái niệm về dự án đầu tư. a. Khái niệm. Hoạt động đầu tư là một hoạt động cần lượng vốn lớn, thời gian tiến hành đầu tư cũng như vận hành kết quả đầu tư kéo dài và mang tính rủi ro cao. Mặt khác, hoạt động đầu tư vừa phải mang lại lợi ích kinh tế cho nhà đầu tư vừa phải phù hộp với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Do đó, để tiến hành một công cuộc đầu tư phải có sự chuẩn bị hết sức nghiêm túc. Sự chuẩn bị đó biểu hiện bằng việc nghiên cứu, soạn thảo các giải pháp kinh tế, kỹ thuật nhằm tiến hành hoạt động đầu tư. Kết quả của việc nghiên cứu và soạn thảo đó được thể hiện qua dự án. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc mọi công cuộc đầu tư đều phải tiến hành theo dự án. Dự án đầu tư được xem xét trên nhiều góc độ khác nhau: * Trên góc độ quản lý: Dự án đầu tư là một công cụ quản lý việc sử dụng vốn, vật tư lao động để tạo ra các kết quả kinh tế, tài chính trong một thời gian dài. * Về mặt hình thức: Dự án đầu tư là một tập hồ sơ tài liệu trình bày một cách chi tiết và có hệ thống các hoạt động và chi phí theo một kế hoạch của một công cuộc đầu tư phát triển kinh tế xã hội hoặc phát triển sản xuất kinh doanh nhằm đạt được những kết quả và thực hiện được những mục tiêu nhất định trong tương lai lâu dài. * Trên góc độ kế hoạch hoá: Dự án đầu tư là một công cụ thể hiện kế hoạch chi tiết của mỗi công cuộc đầu tư sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế xã hội, làm tiền đề cho các quyết định đầu tư và tài trợ. Dự án đầu tư là một hoạt động kinh tế riêng biệt nhỏ nhất, là khâu đầu tiên trong công tác kế hoạch hoá nền kinh tế nói chung. * Về mặt nội dung: Dự án đầu tư là một tập hợp các hoạt động có liên quan với nhau được kế hoạch nhằm đạt được các mục tiêu đã định trong việc tạo ra các kết quả cụ thể trong một thời gian nhất định, thông qua việc sử dụng các nguồn lực xác định. Mặc dù dự án đầu tư được xem xét trên nhiều góc độ khác nhau song chúng ta có thể khái quát bản chất và hình thức một dự án đầu tư. Về bản chất, dự án đầu tư là tập hợp những đề xuất về việc bỏ vốn để tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo những đối tượng nhất định nhằm đạt được sự tăng trưởng về số lượng, cải tiến hoặc nâng cao chất lượng của sản phẩm hay dịch vụ nào đó trong một khoảng thời gian xác định. Về hình thức trình bày, dự án đầu tư là tài liệu do chủ đầu chịu trách nhiệm lập, trong đó có thể hiên một cách đầy đủ, khoa học và toàn diện và toàn bộ nội dung các vấn đề có liên quan đến công trình đầu tư. Nhằm giúp cho việc ra quyết định đầu tư được đúng đắn và bảo đảm hiệu quả của vốn đầu tư. Tóm lại, dự án đầu tư bao gồm 4 phần chính: -Mục tiêu của dư án; -Các kết quả; -Các hoạt động; -Các nhuồn lực. Trong 4 thành phần trên thì kết quả chính là thành phần đánh dấu tiến độ của dự án. Kết quả có thể được biểu hiện dưới dạng kết quả tài chính, kết quả kinh tế và kết quả xã hội. Kết quả tài chính là các lợi ích về tài chính thu được từ dự án biểu hiện bằng giá trị, tính theo giá thị trường. Kết quả kinh tế là các lợi ích về kinh tế biểu hiện bằng giá trị, tính theo giá kinh tế. Giá kinh tế là giá trị chi phí các nguồn lực hoặc các khoản thu nhập từ dự án xét trên góc độ chung của quốc gia. Kết quả xã hội là kết quả được biểu hiện dưới dạng các lợi ích xã hội (trình độ dân trí, khả năng phòng chống bệnh tật, bảo đảm môi trường...) kết quả này biểu hiện rất phong phú và thường không thể đo lường một cách chính xác. b.Vai trò của dự án đầu tư. Dự án đầu tư có vai trò hết sức quan trọng không chỉ đối với chủ đầu tư mà còn đối với Nhà nước và các bên liên quan. Cụ thể là: * Dự án là căn cứ quan trọng để quyết định việc bỏ vốn đầu tư. * Dự án là cơ sở để xây dựng kế hoạch đầu tư, theo dõi, đôn đốc và kiểm tra qua trình thực hiện đầu tư. * Dự án là cơ sở quan trọng để thuyết phục các tổ chức tài chính, tín dụng cho vay vốn để tiến hành đầu tư. * Dự án là căn cứ quan trọng để đánh giá và có những điều chỉnh kịp thời những tồn tại và những vướng mắc trong quá trình thực hiện và khai thác công trình. * Dự án là một trong những cơ sở pháp lý để xem xét, xử lý khi có tranh chấp giữa các bên tham gia liên doanh đầu tư. Riêng đối với chủ đầu tư, dự án còn là cơ sở để: xin phép được đầu tư, xin phép nhập khẩu vật tư máy móc, xin hưởng các ưu đãi về đầu tư, xin gia nhập khu chế xuất-khu công nghiệp... c. Yêu cầu cơ bản của dự án. Với vai trò quan trọng của mình, dự án đầu tư khi được soạn thảo phải đảm bảo những tính chất sau: * Tính khoa học, được thể hiện: -Thông tin, số liệu phải đảm bảo trung thực; - Hình thức phải đảm bảo rõ ràng sạch đẹp; - Phương pháp lý giải phải đảm bảo tính logic và chặt chẽ giữa các nội dung đã nêu trong dự án; - Phương pháp tính toán phải đảm bảo sự chính xác. * Tính thực tiễn: Các nội dung của dự án phải được nghiên cứu và xác định trên cơ sở xem xét, phân tích, đánh giá đúng mức các điều kiện và hoàn cảnh cụ thể liên quan trực tiếp và gián tiếp đến hoạt động đầu tư (về thời gian và không gian). * Tính thống nhất: Được thể hiện từ những bước tiến hành đến nội dung, hình thức, cách trình bày của dự án cần tuân thủ những qui định chung mang tính quốc tế. 2.2. Nội dung của dự án đầu tư Một dự án đầu tư thông thường bao gồm những nội dung chính sau đây: * Một là: Các căn cứ lập dự án, sự cần thiết phải đầu tư xây dựng dự án. Cần nêu căn cứ pháp lý và căn cứ thực tiễn của toàn bộ quá trình hình thành và thực hiện toàn bộ dự án. * Hai là: Nghiên cứu về thị trường của dự án. Cần đề cập đến các vấn đề: - Giới thiệu sản phẩm, dịch vụ được lựa chọn đưa vào sản xuất kinh doanh theo dự án - Các luận cứ về thị trườngđối với sản phẩm được lựa chọn. - Dự báo nhu cầu hiện tại, tương lai của sản phẩm, dịch vụ đó. - Xác định nguồn và các kênh đáp ứng nhu cầu đó. - Xem xét, xây dựng mạng lưới để tổ chức tiêu thụ sản phẩm của dự án. * Ba là: Nghiên cứu về phương diện kỹ thuật - công nghệ của dự án theo các nội dung chủ yếu sau. - Xác định địa điểm xây dựng dự án. - Xác định qui mô chương trình sản xuất. - Xác định nhu cầu các yếu tố đầu vào cho sản xuất, nguồn và phương thức cung cấp - Lựa chọn công nghệ và thiết bị. *Bốn là: Nghiên cứuvề tổ chức quản trị dự án. Tuỳ theo từng dự án cụ thể để xác định mô hình tổ chức bộ máy cho thích hợp, từ đó làm cơ sở cho việc tính toán nhu cầu nhân lực. *Năm là: Nghiên cứu về phương diện tài chính của dự án. Cần giải quyết các nội dung chủ yếu sau: - Xác định tổng vốn đầu tư, cơ cấu các loại vốn và nguồn tài trợ. - Đánh giá khả năng sinh lời của dự án. - Xác định khả năng hoàn vốn của dự án - Đánh giá mức độ rủi ro của dự án *Sáu là: Nghiên cứu mặt kinh tế - xã hội của dự án. Cần đánh giá so sánh giữa lợi ích do các dự án tạo ra mà cái giá mà xã hội phải trả cho việc sử dụng các nguồn lực trên các mặt chủ yếu sau: - Khả năng tạo ra nguồn thu cho ngân sách - Tạo công ăn việc làm - Nâng cao mức sống của nhân dân - Tăng thu và tiết kiệm ngoại tệ *Bảy là: Kết luận và kiến nghị. Thông qua các nội dung nghiên cứu trên cần kết luận tổng quát về khả năng thực hiện của dự án, những khó nhăn và những thuận lợi trong quá trình chuẩn bị và thực hiện dự án, đồng thời đề xuất những kiến nghị đối với các tổ chức có liên quan đến dự án. 2.3. Các giai đoạn hình thành và thực hiện một dự án đầu tư. Để hình thành và vận hành một dự án đầu tư phải trải qua nhiều bước, nhiều giai đoạn kế tiếp nhau được gọi là chu trình của dự án. Có nhiều cách phân chia, xem xét liên quan đến quá trình hình thành và quản lý dự án. Để phù hợp với yêu cầu của công tác chuẩn bị đầu tư và các hoạt động chủ yếu trong quá trình hình thành và quản lý vận hành dự án, có thể phân chia chu trình dự án thành các giai đoạn được mô tả theo sơ đồ sau đây: Nghiên cứu cơ hội đầu tư Nghiên cứu tiền khả thi Nghiên cứu khả thi Thực hiện dự án Vận hành khai thác Đánh giá sau dự án Kết thúc dự án a. Nghiên cứu cơ hội đầu tư. Giai đoạn này có nhiều ý tưởng ban đầu về dựa án được hình thành dựa trên cơ sở cảm tính trực quan hoặc là dựa trên cơ sở quy hoạch định hướng phát triển của vùng, khu vực hay của quốc gia. Kết thúc giai đoạn này có kết quả là một kế hoạch mang tính chỉ đạo về phương hướng đầu tư và hình thành tổ chức nghiên cứu. b. Nghiên cứu tiền khả thi. Là giai đoạn nghiên cứu sơ bộ về các yếu tố cơ bản của dự án đầu tư như vị trí, quy mô, thiết bị, công nghệ, nhu cầu về vốn cũng như tổ chức thực hiện dự án. Trong giai đoạn này, người ta cũng xác định chỉ tiêu cơ bản để đánh giá hiệu quả cơ bản của dự án để làm cơ sở cho việc xem xét lựa chọn dự án. Kết quả của giai đoạn này làm cơ sở cho việc quyết định tiếp tục hoặc chấm dứt việc nghiên cứu dự án ở các bước tiếp theo. c. Nghiên cứu khả thi. Qua công tác nghiên cứu, phân tích, đánh giá các kết quả nghiên cứu tiền khả thi nếu thấy dự án có những dấu hiệu khả quan theo các chỉ tiêu phân tích thì có thể nghiên cứu khả thi. Trong giai đoạn này cần phải nghiên cứu toàn diện và chi tiết các yếu tố của dự án. Ngoài ra trong giai đoạn này cần thực hiện một số nghiên cứu riêng như nghiên cứu địa chất, thuỷ văn, thị trường và các điều kiện pháp lý, chính sách. . .trong trường hợp các nghiên cứu này có tính chất quyết định đối với sự thành công của dự án hoặc điều kiện tiên quyết để thực hiện dự án. Nghiên cứu khả thi được thực hiện trên cơ sở các thông tin chi tiết có độ chính xác cao hơn giai đoạn nghiên cứu tiền khả thi. Đây là cơ sở quyết định đầu tư và làm căn cứ để triển khai thực hiện dự án trên thực tế. d. Thực hiện dự án đầu tư. Giai đoạn này là giai đoạn biến các dự định đầu tư thành hiện thực nhằm đưa dự án và hoạt động trong thực tế của đời sống kinh tế-xã hội. Giai đoạn này bao gồm một các loạt quá trình kế tiếp hoặc xen kẽ nhau từ khi thiết kế đến khi đưa dự án vào vận hành khai thác. Nó bao gồm các công đoạn chính sau: - Thiết kế: Bao gồm tất cả các khâu khảo sát, tính toán, thiết kế và thực hiện các nội dung thiết kế trong hồ sơ trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt. Một số khâu thiết kế có thể thực hiện trong quá trình xây dựng. - Xây dựng: Gồm các khâu chuẩn bị mặt bằng (giải phóng mặt bằng), tổ chức đấu thầu, xây dựng, mua sắm và lắp đặt kết cấu, trang thiết bị đến khâu vận hành thử trước khi đưa vào vận hành chínhh thức. Đây là giai đoạn hết sức quan trọng có liên quan chặt chẽ với việc đảm bảo chất lượng, ảnh hưởng đến quản lý chi phí và tiến độ thực hiện của dự án và cả hiệu quả đầu tư. Vận hành dự án đầu tư. Giai đoạn này kể từ khi đưa dự án đầu tư vào hoạt động, khai thác cho đến khi kết thúc dự án. Giai đoạn này bao gồm các hoạt động theo chức năng của dự án và quản lý dự án theo các kế hoạch đã tính trước. Tuy nhiên, có một số dự án có thể vận hành và khai thác ngày cả trong thời đoạn thực hiện ( sử dụng từng phần, từng công đoạn). Một số dự án được chia thành các giai đoạn phát triển nên quá trình khai thác và sử dụng có thể tiến hành xen kẽ nhau. Đánh giá sau dự án. Thực chất của giai đoạn này là việc phân tích, đánh giá các chỉ tiêu kinh tế-kỹ thuật của dự án trong giai đoạn vận hành và khai thác. Đánh giá trong giai đoạn này nhằm: - Hiệu chỉnh các thông số kinh tế-kỹ thuật để đảm bảo mức đã dự kiến trong nghiên cứu khả thi trên cơ sở phát hiện và tìm các biện pháp cần thiết để đảm bảo các thông số vận hành của dự án. - Tìm kiếm cơ hội phát triển, mở rộng dự án hoặc điều chỉnh các yếu tố của dự án cho phù hợp với tình hình thực tế để đảm bảo hiệu quả của dự án. Dựa vào kết quả đánh giá, phân tích tình hình vận hành khai thác dự án để có quyết định đúng đắn về sự cần thiết kéo dài hoặc chấm dứt thời hạn hoạt động của dự án. Kết thúc dự án. Tiến hành các công việc cần thiết để chấm dứt hoạt động của dự án như thanh toán công nợ, thành lý tài sản và hoàn thành các thủ tục pháp lý khác. Trong công tác nghiên cứu soạn thảo một dự án đầu tư, các giai đoạn được nghiên cứu rất kỹ lưỡng, tỷ mỷ nhưng không tránh được khỏi những sai xót. Do đó, chúng ta cần có một quy trình thẩm định các dự án đầu tư nhằm phát hiện và sửa chữa những sai xót đó đồng thời bổ sung thêm các biện pháp để đảm bảo tính khả thi cao cho việc thực hiện dự án 2. Khái niệm và sự cần thiết phải thẩm định dự án đầu tư. 2.1. Khái niệm. Thẩm định dự án đầu tư là việc tổ chức xem xét một cách khách quan có khoa học và toàn diện các nội dung cơ bản ảnh hưởng trực tiếp tới tính khả thi của một dự án. Từ đó ra quyết định đầu tư và cho phép đầu tư. Thẩm định dự án đầu tư nhằm phân tích và làm sáng tỏ về một loạt vấn đề có liên quan tới tính khả thi trong quá trình thực hiện dự án: thị trường, công nghệ, kỹ thuật, khả năng tài chính của dự án để đứng vững trong thời gian hoạt động, về quản lý dự án, góp phần đóng góp kinh tế của dự án vào sự tăng trưởng của nền kinh tế. . .với các thông tin về bối cảnh các giả thiết sử dụng trong dự án này. Đồng thời đánh giá để xác định xem dự án có giúp cho đất nước những lợi ích về mặt kinh tế-xã hội hay không, nếu có thì bằng cách nào và liệu có đạt được mục tiêu về hiệu quả tài chính hay không để có thể mang lại lợi ích cho chủ đầu tư và các đơn vị và các tổ chức có liên quan khác. Thông thường, công tác thẩm định các dự án và chương trình đầu tư thường xem xét ảnh hưởng của dự án về mặt tài chính (ngân sách) kinh tế và phân phối thu nhập như là ba kết quả độc lập. Tuy nhiên, khía cạnh này của dự án đầu tư thường liên quan chặt chẽ với nhau và xem xét như ba phần trong một thể thống nhất. Một điều kiện cần thiết trước khi một dự án có thể cho tác dụng phân phối lại thu nhập là tính khả thi về tài chính của dự án hoặc là dự án tự hạch toán được hoặc là dự án có cơ chế phân bổ nguồn ngân sách cho dự án sao cho nó có khả năng vận hành một cách có hiệu quả nhất. Việc phân tích tài chính, kinh tế và xã hội của một dự còn phải được liên kết mật thiết với nhau, bởi vì cơ sở thông tin thu được sau mỗi giai đoạn thẩm định có thể rất cần thiết để hoàn tất việc thẩm định một khía cạnh khác của dự án. Thực chất của việc thẩm định dự án là việc phân tích, đánh giá tính khả thi của dự án trên tất cả các phương diện: công nghệ, tài chính, kinh tế-xã hội. . . trên cơ sở các tiêu chuẩn, định mức, quy định của các cơ quan quản lý Nhà nước, tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế. Đây là một quá trình kiểm tra, đánh giá các nội dung của dự án một cách độc lập tách biệt với quá trình soạn thảo dự án. Thẩm định dự án đã tạo ra cơ sở vững chắc cho hoạt động đầu tư có hiệu quả. Các kết luận rút ra từ quá trình thẩm định là cơ sở để các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước ra quyết định đầu tư và cho phép đầu tư. 2.2. Sự cần thiết phải thẩm định dự án đầu tư Thẩm định dự án đầu tư là cần thiết bắt nguồn từ vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với hoạt động đầu tư. Một Nhà nước luôn có trách nhiệm đảm bảo cho việc đầu tư do mình tiến hành hoặc được mình cho phép tiến hành đóng góp vào lợi ích chung. Nhà nước với chức năng công quyền của mình sẽ can thiệp vào quá trình lựa chọn các dự án đầu tư. Tất cả các dự án đầu tư thuộc mọi nguồn vốn, mọi thành phần kinh tế đều phải đóng góp vào lợi ích chung của đất nước. Bởi vậy, trước khi ra quyết định đầu tư hay cho phép đầu tư các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước cần phải biết xem các dự án đó có góp phần đạt được mục tiêu của quốc gia hay không ? Nếu có thì bằng cách nào và đến mức độ nào ? Một dự án đầu tư dù được tiến hành soạn thảo kỹ lưỡng đến đâu cũng mang tính chủ quan của người soạn thảo, vẫn có thể có những sai xót trong việc xác định mục tiêu, phạm vi hoạt động hay lựa chọn các giải pháp kinh tế kỹ thuật, phân tích lợi ích và chi phí vốn còn mang tính chủ quan. Người soạn thảo thường đứng trên góc độ hẹp để nhìn nhận các vấn đề của dự án. Các nhà thẩm định thường có cái nhìn rộng hơn trong việc đánh giá dự án nhằm làm rõ phải chuẩn xác đánh giá tính đúng đắn hợp lý của dự án trên cơ sở phân tích về một loạt các vấn đề có liên quan đến tính khả thi trong quá trình thực hiện dự án: thị trường, công nghệ, kỹ thuật, khả năng tài chính của dự án để đứng vững trong vòng đời hoạt động, về quản lý thực hiện dự án. Họ xuất phát từ lợi ích chung của toàn xã hội, của cả cộng đồng để xem xét phần đóng góp kinh tế của dự án vào sự tăng trưởng kinh tế và các lợi ích xã hội mà dự án đem lại. Mặt khác, khi soạn thảo dự án có thể có những sai xót, các ý kiến có thể mâu thuẫn, không logic, thậm trí có những từ ngữ sơ hở gây ra những tranh chấp giữa các đối tác tham gia vào quá trình hoạt động đầu tư. Thẩm định dự án đầu tư sẽ phát hiện ra những sai xót đó và sửa chữa. Qua đó chúng ra thấy rằng, thẩm định dự án đầu tư là cần thiết và là một bộ phận quan trọng trong hoạt động đầu tư nhằm đem lại hiêụ quả cao cho dự án và tránh được những thiệt hại đáng tiếc xảy ra. 2.3. Mục đích, ý nghĩa, yêu cầu của thẩm định dự án đầu tư. a. Mục đích của thẩm định dự án đầu tư. Công tác thẩm định dự án đầu tư được tiến hành nhằm mang lại hiệu quả kinh tế-xã hội, lợi ích vật chất cho chủ đầu tư và các tổ chức khác có liên quan. Trên cơ sở thì mục đích của thẩm định dự án đầu tư được thể hiện như sau: * Đánh giá tính hợp lý của dự án: Tính hợp lý của dự án được biểu hiện một cách tổng hợp (biểu hiện trong tính hiệu quả và tính khả thi) và được biểu hiện ở từng nội dung và cách thức tính toán của dự án. * Đánh giá tính hiệu quả của dự án: Hiệu quả của dự án được xem xét trên hai phương diện, hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế-xã hội của dự án. * Đánh giá tính khả thi của dự án: Đây là mục đích hết sức quan trọng trong thẩm định dự án. Một dự án hợp lý và hiệu quả cần phải có tính khả thi. Tất nhiên hợp lý và hiệu quả là hai điều kiện quan trọng để dự án có tính khả thi. Nhưng tính khả thi còn phải xem xét với nội dung và phạm vi rộng hơn của dự án như xem xét các kế hoạch tổ chức thực hiện, môi trường pháp lý của dự án. . . Ba mục đích trên cũng đồng thời là yêu cầu chung đối với mọi dự án đầu tư. Một dự án muốn được đầu tư hoặc tài trợ vốn thì dự án phải đảm bảo được những yêu cầu trên. Tuy nhiên, mục đích cuối cùng của việc thẩm định dự án còn tuỳ thuộc vào chủ thể thẩm định dự án. Có các chủ thể thẩm định dự án khác nhau tuỳ thuộc vào mỗi chức năng riêng mà các chủ thể thẩm định thực hiện công tác thẩm định của mình để đạt được mục đích mà minh muốn đạt được: - Các chủ đầu tư trong và ngoài nước thẩm định dự án khả thi để đưa ra các quyết định đầu tư. - Các định chế tài chính (Ngân hàng, Tổng cục Đầu tư phát triển. . .) thẩm định dự án để ra quyết định tài trợ hoặc cho vay vốn. - Các cơ quan quản lý vĩ mô của Nhà nước (Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các Bộ và các Cơ quan ngang Bộ, UBND tỉnh, thành phố. . .) thẩm định dự án khả thi để ra quyết định cho phép hoặc cấp giấy phép đầu tư. b. ý nghĩa của thẩm định dự án đầu tư Thẩm định dự án đầu tư giúp cho các dự án đầu tư khỏi bị bác bỏ, ngăn chặn những dự án mang lại những hậu quả tiêu cực cho nền kinh tế và chủ đầu tư cũng như các chủ thể có liên quan khác. Góp phần đảm bảo cho việc sử dụng vốn đầu tư có hiệu quả. ý nghĩa của thẩm định dự án đầu tư được thể hiện như sau: * Thẩm định dự án đầu tư giúp cho chủ đầu tư có lựa chọn được phương án đầu tư tốt nhất. * Thẩm định dự án đầu tư giúp cho các cơ quan quản lý vĩ mô của Nhà nước đánh giá được tính phù hợp của dự án với quy hoạch phát triển chung của ngành, vùng lãnh thổ và cả nước trên các mặt: mục tiêu, quy mô, quy hoạch và hiệu quả. * Thẩm định dự án đầu tư giúp cho việc xác định những cái lợi, cái hại của dự án trên các mặt khi đi vào hoạt động. Từ đó có biện pháp khai thác các khía cạnh có lợi và hạn chế được các mặt hạn chế. * Giúp cho các định chế tài chính ra quyết định chính xác cho vay hoặc tài trợ cho dự án đầu tư. Qua thẩm định giúp cho việc xác định rõ tư cách pháp nhân của các bên tham gia đầu tư. c. Yêu cầu của việc thẩm định dự án. Thẩm định dự án được tiến hành đối với tất cả các dự án thuộc thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước như: Ngân sách, vốn tín dụng ưu đãi. . .và các dự án đầu tư không sử dụng vốn Nhà nước. Tuy nhiên, yêu cầu của công tác thẩm định đối với các dự án này cũng khác nhau. Theo Nghị định 42 CP ngày 16/7/1997 của thủ tướng Chính phủ thì tất cả các dự án đầu tư có xây dựng thuộc mọi thành phần kinh tế đều phải thẩm định về quy hoạch xây dựng, các phương án kiến trúc, công nghệ, sử dụng đất đai, tài nguyên, bảo vệ môi trường sinh thái, phòng chống cháy nổ và các khía cạnh khác của dự án. Đối với các dự án đầu tư sử dụng vốn Nhà nước còn phải thẩm định về phương diện tài chính và hiệu quả kinh tế của dự án. Đối với các dự án có sử dụng vốn ODA phải phù hợp với các quy định của Nhà nước và thông lệ quốc tế. Các quan điểm đánh giá quyết định đầu tư trong quá trình thẩm định dự án. Một dự án đầu tư có thể xem xét trên nhiều phương diện khác nhau. Phân tích tài chính dự án. * Theo quan điểm Ngân hàng: phân tích tài chính nhằm đánh giá hiệu quả chung của dự án để thấy mức độ an toàn của số vốn mà ngân hàng đã cho vay (hoặc tài trợ) cho dự án. Ngân hàng quan tâm trước tiên đến các dự án có nhu cầu thu hút nguồn tài chính và có khả năng tạo ra lợi ích tài chính trên cơ sở phân tích dòng tiền. * Theo quan điểm của chủ đầu tư: chủ đầu tư xem xét mức gia tăng thu nhập ròng của dự án so vơi lợi ích tài chính mà họ có thể nhận được trong trường hợp không có dự án. Vì vậy, họ xem những gì họ phải bỏ ra trong quá trình thực hiện dự án là chi phí. * Đối với cơ quan quản lý ngân sách: người ta quan tâm đến các khoản mà ngân sách phải chi dưới dạng trợ cấp hay trợ giá cũng như các nguồn thu từ dự án về phí hay thuế có thể thu được. Phân tích kinh tế. Phân tích kinh tế là công cụ đánh giá dự án từ quan điểm quốc gia. Khi sử dụng phân tích kinh tế để tính toán mức sinh lợi cũng như chi phí phải sử dụng giá cả kinh tế và thực hiện các điều chỉnh khác. Theo quan điểm này chi phí kinh tế cho dự án bao gồm toàn bộ các khoản chi phí phải hy sinh để thực hiện dự án, do đó, khoản vốn vay không được coi như một khoản chi phí. c. Phân tích phân phối thu nhập. Phân tích này được xem xét trên tất cả các quan điểm, bởi vì mọi đối tượng hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp đều có quan hệ với dự án về mặt lợi ích. Phân tích được xây dựng trên cơ sở lợi ích tài chính hoặc lợi ích kinh tế từ dự án. Qua phân tích trên chúng ta thấy rằng có thể một dự án là khả thi khi đứng trên quan điểm này nhưng lại không khả thi khi xét trên quan điểm khác. Vì vậy, đánh giá dự án từ nhiều quan điểm khác nhau để có cái nhìn một cách toàn diện và có được quyết định đúng đắn khi tham gia thực hiện dự án. 2.5. Cơ sở và phương pháp thẩm định dự án đầu tư a. Cơ sở thẩm định Dự án đầu tư được các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định khi hồ sơ của dự án được xem là đầy đủ và đúng thủ tục như sau: * Đơn xin đầu tư * ý kiến của cấp trực tiếp quản lý chủ đầu tư * Bản dự án nghiên cứu tiền khả thi hoặc nghiên cứu khả thi hoặc các báo cáo đầu tư đối với từng loại dự án được quy định theo quy chế thẩm định của Nhà nước. * ý kiến của Bộ quản lý ngành, UBND tỉnh, thành phố quản lý lãnh thổ và các ngành có liên quan * Các căn cứ có giá trị pháp lý về khả năng huy động các nguồn lực * Các căn cứ pháp lý khác Các phương pháp thẩm định dự án đầu tư. Một dự án đầu tư sẽ được thẩm định đầy đủ và chính xác khi có phương pháp thẩm định khoa học kết hợp với kinh nghiệm quản lý thực tiễn và các nguồn thông tin đáng tin cậy. Việc thẩm định dự án có thể tiến hành theo nhiều phương pháp khác nhau tuỳ thuộc vào nội dung của dự án được xem xét. Những phương pháp được sử dụng đó là các phương pháp so sánh các chỉ tiêu, phương pháp phân tích độ nhạy của dự án, phương pháp thẩm định theo trình tự. *Phương pháp so sánh các chỉ tiêu. Đây là một phương pháp phổ biến, đơn giản, các chỉ tiêu kinh tế-kỹ thuật chủ yếu của dự án được so sánh với các dự án đã và đang được xây dựng hoặc đang hoạt động. Sử dụng phương pháp này giúp cho việc đánh giá tính hợp lý và xác định các chỉ tiêu của dự án. Từ đó có thể rút ra các kết luận đúng đắn về dự án để ra quyết định đầu tư được chính xác. Phương pháp so sánh được tiến hành theo một số chỉ tiêu sau đây: + Trình do Nhà nước quy định hoặc điều kiện về tài chính mà dự án có thể chấp nhận được. + Tiêu chuẩn về công nghệ, thiết bị trong quan hệ trong chiến lược đầu tư công nghệ quốc gia, quốc tế. + Tiêu chuẩn đối với loại sản phẩm mà thị trường đòi hỏi. + Các chỉ tiêu tổng hợp như cơ cấu vốn đầu tư, suất đầu tư. + Các định mức về sản xuất, tiêu hao năng lượng, nguyên liệu, nhân công, tiền lương, chi phí quản lý . . . của ngành theo các định mưc kinh tế-kỹ thuật chính thức hoặc các chỉ tiêu kế hoạch và thực tế. + Các chỉ tiêu về hiệu quả đầu tư. + Các điều lệ tài chính doanh nghiệp theo thông lệ phù hợp với hướng dẫn, chỉ đạo của Nhà nước, của ngành đối với doanh nghiệp cùng loại. + Các chỉ tiêu trong trường hợp có dự án và chưa có dự án. Trong việc sử dụng phương pháp so sánh cần lưu ý các chỉ tiêu dùng để tiến hành so sánh và phải biết vận dụng trong điều kiện, đặc điểm phù hợp với dự án và tránh khuynh hướng so sánh cứng nhắc, máy móc. * Phương pháp thẩm định theo trình tự. Việc thẩm định dự án được tiến hành theo một trình tự biện chứng, từ tổng quát đến chi tiết, từ kết luận trước làm tiền đề cho kết luận sau: + Thẩm định tổng quát. Là việc xem xét các nội dung của dự án từ đó phát hiện ra các vấn đề hợp lý hay chưa hợp lý cân đi sâu xem xét. Thẩm định tổng quát cho phép hình dung khái quát dự án, hiểu rõ quy mô và tầm quan trọng của dự án. Vì xem xét các nội dung tổng quát của dự án, do đó ở giai đoạn này khó có thể phát hiện ra những vấn đề cần bác bỏ của dự án hoặc những hạn chế của dự án cần được bổ sung hoặc sửa đổi. Chỉ khi tiến hành thẩm định chi tiết những vấn đề sai xót của dự án mới được phát hiện. + Thẩm định chi tiết. Đây là bước được tiến hành sau thẩm định tổng quát. Việc thẩm định này được tiến hành với từng nội dung của dự án, từ việc thẩm định các điều kiện pháp lý đến phân tích hiệu quả tài chính và kinh tế-xã hội của dự án. Mỗi nội dung xem xét đều đưa ra những ý kiến cần phải sửa đổi hay thêm bớt, hoặc có thể là đồng ý hoặc là không thể chấp nhận được. Tuy nhiên ở mức độ tập trung cho những nội dung cơ bản có thể khác nhau tuỳ theo đặc điểm và tình hình cụ thể của dự án. Trong bước thẩm định chi tiết, kết luận rút ra từ nội dung trước có thể là điều kiện để nghiên cứu tiếp theo. Nếu một số nội dung cơ bản của dự án bị bác bỏ thì có thể không chấp nhận dự án mà không cần đi vào thẩm định các chỉ tiêu tiếp theo. Ví dụ như khi phân tích một dự án mà mục tiêu của dự án không hợp lý hoặc nội dung phân tích kỹ thuật, tài chính không khả thi thì dự án không thể thực hiện. * Phương pháp thẩm định dự án dựa trên việc phân tích độ nhạy của dự án. Phương pháp này thường dùng để kiểm tra tính vững chắc về hiệu quả tài chính của dự án. Cơ sở của phương pháp này là dự kiến một số tình huống bất trắc có thể xảy ra trong tương lai đối với dự án như vượt chi phí đầu tư, sản lượng thấp, giá cả chi phí đầu vào tăng và giá tiêu thụ sản phẩm giảm, có thay đổi về chính sách thuế theo hướng bất lợi. . .khảo sát những tác động của những yếu tố đó đến hiệu quả của đầu tư và khả năng hoà vốn của dự án. Mức độ rủi ro của các bất trắc dự kiến thường được chọn từ 10 đến 20% và nên chọn các yếu tố tiêu biểu dễ gây ra tác động xấu đến hiệu quả của dự án để xem xét. Nếu dự án vẫn tỏ ra có hiệu quả kể cả trong trường hợp có nhiều bất trắc phát sinh đồng thời thì đó là những dự án có tính vững chắc, độ an toàn cao. Trong trường hợp ngược lại, cần phải xem xét khả năng hạn chế có thể xảy ra để đề xuất kiến nghị các biện pháp hữu hiệu để khắc phục hay giảm bớt các bất trắc có thể xảy ra. Nói chung, biện pháp này nên được áp dụng đối với các dự án có hiệu quả cao hơn mức bình thường nhưng cơ sở nhiều yếu tố thay đổi do khách quan. II. Quy trình thẩm định dự án đầu tư 1. Thẩm định sự cần thiết phải đầu tư. Việc thẩm định này cần phải được xem xét trên các khía cạnh: * Dự án có vị trí ưu tiên như thế nào trong quy hoạch phát triển chung. * Dự án được đầu tư sẽ đóng góp như thế nào cho các mục tiêu: gia tăng thu nhập cho nền kinh tế và doanh nghiệp, sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyênvà cơ sở vật chất đã có, tạo công ăn việc làm, tăng thu ngoại tệ. . . Từ sự xem xét trên cần nắm được động lực thúc đẩy sự hình thành dự án, thấy được vai trò và phù hợp đối với chiến lược phát triển kinh tế xã._. hội của quốc gia. 2. Thẩm định về phương diện thị trường 2.1. Kiểm tra cân đối cung cầu sản phẩm của dự án. Tuỳ theo phạm vi sản phẩm của dự án (trong vùng, toàn quốc hay xuất khẩu) cần lập bảng cân đối về nhu cầu sản phẩm hiện tại và khả năng đáp ứng các nguồn cung cấp hiện có, xu hướng phát triển của các nguồn cung cấp đó. Từ đó đánh giá mức độ tham gia thị trường mà dự án có thể đạt được. 2.2. Xem xét khả năng cạnh tranh của dự án về sản phẩm. Sản phẩm của dự án được đánh giá trên các mặt: Chất lượng, giá thành, quy cách, điều kiện lưu thông và tiêu thụ, kinh nghiệm và uy tín của doanh nghiệp trong quan hệ thị trường về sản phẩm, kết quả thực tế về tiêu thụ sản phẩm. Đối với các sản phẩm để xuất khẩu hoặc thay thế nhập khẩu, ngoài nội dung tương tự trên phương pháp kiểm tra hiệu quả nhất là kiểm tra khả năng tiêu thụ thực tế của sản phẩm phải căn cứ vào: Kinh nghiệm, uy tín sẵn có của doanh nghiệp hoặc các mặt hàng cùng loại, các hợp đồng bao tiêu hoặc tiêu thụ đã ký kết; Tương quan giữa hàng xuất khẩu và hàng ngoại về chất lượng, hình thức bao bì, mẫu mã; Khả năng giao hàng ổn định, đúng tiến độ, phương thức thanh toán thuận tiện. 3. Thẩm định dự án về phương diện kỹ thuật. 3.1. Xem xét việc lựa chọn địa điểm và mặt bằng xây dựng. Vị trí được chọn phải tối ưu về: Tuân thủ các quy định về quy hoạch xây dựng và kiến trúc, thuận lợi về giao thông, gần nguồn cung cấp nguyên vật liệu chủ yếu, tận dụng được cơ sở hạ tầng kỹ thuật sẵn có trong vùng. Việc xây dựng ở địa điểm mới cần phải xem xét đến khả năng đền bù giải phóng mặt bằng để có thể ước lượng đúng chi phí và tiến độ thực hiện dự án. 3.2. Xem xét việc lựa chọn hình thức đầu tư và công suất của dự án. Nghiên cứu kỹ năng lực và điều kiện sản xuất hiện tại của doanh nghiệp để kiến nghị với chủ dự án về hình thức đầu tư thích hợp. Về công suất của dự án, từ nhu cầu thị trường về sản phẩm, tính năng của thiết bị, khả năng tài chính của chủ đầu tư để kiến nghị sử dụng loại công suất thiết bị phù hợp. 3.3. Xem xét dây chuyền công nghệ và lựa chọn thiết bị. Việc thẩm định phải xem xét rõ ưu nhược điểm của công nghệ lựa chọn để tìm ra công nghệ thích hợp. Trước tiên, xem xét đến công nghệ đã được kiểm chứng thực hành ở quy mô sản xuất đại trà, nếu là công nghệ lần đầu tiên áp dụng cần có ý kiến kết luận của cơ quan giám định công nghệ. Với máy móc thiết bị cần kiểm tra tính đồng bộ với công suất của các thiết bị, các công đoạn sản xuất, mức độ tiêu hao nguyên vật liệu và các dịch vụ liên quan như bảo dưỡng, sửa chữa máy móc, cung cấp phụ tùng. Cần chú ý kiểm tra kỹ đối với các thiết bị nhập khẩu về tính pháp lý và trách nhiệm của các bên. . . 3.4. Xem xét việc đảm bảo cung cấp nguyên vật liệu, nhiên liệu năng lượng, bán thành phẩm và các yếu tố đầu vào. Kiểm tra các yếu tố đầu vào cho việc xây dựng dự án và cho dự án khi đi vào hoạt động. 3.5. Kiểm tra về giải pháp xây dựng. Căn cứ vào yêu cầu công nghệ, các định mức, tiêu chuẩn xây dựng của các loại dự án, nhu cầu xây dựng của các hạng mục công trình chính, phụ trợ, hạ tầng kỹ thuật được xác định. 3.6. Đánh giá về chương trình tiến độ thực hiện dự án. Xem xét tiến độ thi công công trình và chương trình sản xuất của dự án để có kiến nghị giúp dự án hoàn thành đúng kế hoạch. 4. Thẩm định về tổ chức điều hành dự án. Dự án thành công hay thất bại ngoài công tác chuẩn bị và thực hiện còn chịu rất nhiều của yếu tố tổ chức, quản lý dự án. Vì vậy cần phải xem xét năng lực thực tế của chủ dự án, của đơn vị thiết kế thi công, đơn vị cung ứng thiết bị công nghệ về tư cách pháp nhân, năng lực hành nghề và tổ chức nhân sự. 5. Thẩm định về tài chính. 5.1. Thẩm định khả năng tự chủ về mặt tài chính. Xem xét hệ số phản ánh khả năng tự chủ về mặt tài chính: Hệ số: Vốn tự có ³ 1 Vốn vay Tỷ trọng: Vốn tự có ´ 100% ³ 50% Tổng vốn đầu tư Tỷ trọng này thể hiện khả năng trả nợ của doanh nghiệp, còn đối với các dự án có triển vọng thì tỷ trọng này có thể là 40%. Ngoài các chỉ tiêu trên thì người ta còn có thể dựa vào một số tỷ lệ khác nữa như: Tỷ lệ: Tài sản lưu động = 2 (Hoặc 4 ) Tài sản lưu động nợ 1 1 Tổng doanh thu ³ 1 Nợ ngắn hạn Nếu doanh nghiệp đạt được 4 chỉ tiêu này thì hoàn toàn thuận lợi trong việc thực hiện dự án và đảm bảo khả năng thanh toán các nghĩa vụ tài chính. Đây có thể nói là điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp cũng như tổ chức cho vay vốn và các dự án có thẩm quyền quyết định cấp giấy phép thực hiện dự án. 5.2. Thẩm định về mặt tài chính của dự án. a. Thẩm tra việc tính toán xác định tổng vốn đầu tư và tiến độ bỏ vốn. Vốn đầu tư xây lắp: xác định nhu cầu xây dựng hợp lý của dự án và mức độ hợp lý của đơn giá được áp dụng. Vốn đầu tư thiết bị: Kiểm tra giá mua và chi phí vận chuyển, bảo quản theo quy định của Nhà nước. Đối với loại thiết bị có kèm theo chuyển giao công nghệ mới thì vốn đầu tư thiết bị bao gồm cả chi phí chuyển giao. Chi phí khác: Các khoản chi phí này được xác định theo định mức, nó cần phải kiểm tra theo quy định của Nhà nước. Thẩm tra việc tính toán giá thành chi phí sản xuất. Tính đầy đủ các yếu tố giá thành sản phẩm; Kiểm tra chi phí nhân công, kiểm tra việc tính toán, phân bổ chi phí về lãi vay ngân hàng và giá thành sản phẩm; Đối với các loại thuế của Nhà nước được phân bổ vào giá bán sản phẩm tuỳ loại hình sản xuất. c. Thẩm tra về vốn và cơ cấu nguồn vốn. Cơ cấu vốn thường được coi là hợp lý nếu tỷ lệ đầu tư cho thiết bị cao hơn xây lắp. Đối với dự án đầu tư theo chiều sâu hay mở rộng, tỷ lệ này cần đạt 60% tuy nhiên cần phải linh hoạt tuỳ theo tính chất hay điều kiện cụ thể của dự án. Cơ cấu vốn nội tệ hay ngoại tệ: Cần xác định đủ cơ cấu vốn đầu tư và chi phí sản xuất bằng ngoại tệ của dự án để có cơ sở quy đổi tính toán hiệu quả của dự án. Mặt khác, việc phân định rõ các loại chi phí bằng ngoại tệ để xác định nguồn ngoại tệ thích hợp đáp ứng nhu cầu của dự án. d. Thẩm tra và xác định doanh lợi của dự án Doanh lợi của dự án được xác định trên sở chi phí sản xuất giá bán sản phẩm-dịch vụ của dự án, cần phân biệt các chỉ tiêu sau: * Tổng sản lượng: là giá trị của toàn bộ sản phẩm và dịch vụ dự kiến trong năm mà dự án có thể sản xuất hoặc cung cấp được. * Tổng doanh thu: là giá trị sản phẩm và dịch vụ tiêu thụ trong năm dự kiến. * Lợi nhuận trước thuế: là chênh lệch giữa doanh thu và chi phí sản xuất của các sản phẩm và dịch vụ tiêu thụ. * Lợi nhuận sau thuế: là lợi nhuận trước thuế đóng góp lợi tức quy định. * Lợi nhuận để giành trả nợ: là phần lợi nhuận sau thuế được tính để trả nợ. Điểm cần lưu ý là: việc kiểm tra mức doanh lợi của dự án cần xác định được công suất hoạt động thực tế hợp lý trong chương trình sản xuất dự kiến. Đa số các dự án trong những năm đầu hoạt động thường 60-80% mức sản xuất/năm của dự án đi vào sản xuất ổn định, đạt công suất tối đa của dự án. Do đó, mức doanh lợi của dự án trong thời gian này cần được điều chỉnh tương ứng. Nếu dự án đầu tư là một công đoạn bổ sung cho quy trình sản xuất chung của doanh nghiệp đang hoạt động sản xuất của dự án chỉ là sản phẩm trung gian, không phải là phải sản phẩm cuối cùng thì mức doanh lợi của dự án được thể hiện bằng số chênh lệch về doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp trước và sau khi có dự án.Vì thế cần xem xét các yếu tố mà dự án tác động như: tiết kiệm chi phí sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, năng suất lao động, giảm giá thành sản phẩm, tận dụng được thiết bị sẵn có. . .từ đó đánh giá đúng mức doanh lợi tăng thêm được tạo ra bởi dự án. 5.3. Hệ thống chỉ tiêu thẩm định tài chính của dự án. a. Chỉ tiêu lợi nhuận thuần (W). Lợi nhuận thuần = Tổng doanh thu - Tổng chi phí W = SOi - SCi - ST Lợi nhuận thuần có thể tính cho từng năm hoặc cả đời dự án. Wi = Oi - Ci - Ti Nếu lợi nhuận thuần lớn hơn 0 thì dự án có sinh lợi, nhỏ hơn 0 dự án bị lỗ. Chỉ tiêu này càng lớn càng tốt. Để so sánh các dự án khác nhau về quy mô, người ta dùng chỉ tiêu lợi nhuận thuần bình quân. Tỷ suất lợi nhuận giản đơn được xác định bằng tỷ số giữa tổng lợi nhuận của một năm tiêu biểu với tổng chi phí của dự án. Tỷ suất này càng cao thì dự án càng hiệu quả. Nhược điểm của tỷ suất này là không tính tuổi thọ dự án, khó xác định năm có lợi nhuận điển hình, không tính đến giá trị của tiền. b. Chỉ tiêu thu nhập thuần (NPV). Chỉ tiêu này cho biết giá trị hiện thuần của cả đời dự án, là hiệu số giữa tổng giá trị hiện tại các khoản thu được trong tương lai và tổng số vốn đầu tư ban đầu. NPV >0 dự án có lợi nên đầu tư. NPV <0 dự án không có hiệu quả, không nên đầu tư. NPV=0 dự án hoà vốn, nếu dự án có hiệu quả về mặt xã hội thì có thể do Nhà nước đầu tư. Dự án cần được xem xét lại. Ưu điểm của chỉ tiêu này là cho biết chính xác số lợi nhuận ròng mà dự án mang lại. Nhược điểm là không so sánh được giữa các dự án có quy mô và tuổi thọ khác nhau. Tỷ suất hoàn vốn nội bộ IRR Dự án được coi là khả thi khi IRR>IRRđm (IRR định mức). IRR là một chỉ tiêu được dùng phổ biến nhất hiện nay. Đó là một mức lãi suất nếu dùng nó làm hệ số chiết khấu để tính chuyển các khoản thu chi của dự án về mặt bằng thời gian ở hiện tại thì tổng thu sẽ bằng tổng chi. Ta có cách tính IRR như sau: IRR = r1 + NPV1 (r2 - r1) NPV1 - NPV2 Trong đó: r2>r1 r2 - r1 ~5% NPV1: Giá trị dương gần 0 NPV2: Giá trị âm gần 0 Điểm hoà vốn. Là giá trị của một chỉ tiêu đặc trưng cho khả năng khai thác dự án mà với giá trị ấy thì tổng mức thu nhập bằng tổng mức chi phí. Điểm hoà vốn cho thấy giới hạn an toàn để thu hồi vốn từ việc khai thác dự án. Nếu vượt quá giới hạn đó thì dự án sẽ có nhiều khó khăn. Thông thường điểm hoà vốn được biểu thị bằng tổng số sản phẩm sản xuất hay doanh thu do bán số sản phẩm được sản xuất tính từ đầu dự án đến thời điểm đó. x: Số sản phẩm cần sản xuất để hoà vốn f: Tổng định phí cả đời dự án p: Giá của một đơn vị sản phẩm v: Chi phí một đơn vị sản phẩm Công thức tính điểm hoà vốn: x = f p - v Tại điểm hoà vốn tổng doanh thu bán hàng từ đầu đời dự án bằng chi phí khả biến từ đầu đời dự án đến thời điểm đó. e.Chỉ tiêu hoàn vốn, khả năng trả nợ. Chỉ tiêu thời hạn thu hồi vốn đầu tư là chỉ tiêu đánh giá thời gian mà dự án cần hoạt động để có thể thu hồi vốn đã bỏ ra. Trình tự xác định như sau: *Tính vốn huy động và lãi sử dụng tính đến thời điểm dự án đi vào hoạt động *Tính lợi nhuận trước và sau thuế hàng năm. *Tính tổng luỹ tiến các giá trị quy đổi (vê thời điểm dự án đi vào hoạt động)của các khoản thu nhập. *Xác định thời gian thu hồi vốn ban đầu từ kết quả cân đối giữa vốn đầu tư và lãi suất sử dụngvốn với tổng luỹ tiến thu nhập quy đổi. Tính thời gian thu hồi vốn từ lợi nhuận thuần và khấu hao: Theo từng năm: Theo tình hình hoạt động bình quân: Theo phương pháp cộng dồn: Theo phương pháp trừ dần: Khả năng trả nợ được đánh giá bằng chỉ tiêu tỷ lệ đảm bảo trả nợ đến hạn, được xác định theo công thức: Rtrả nợ = Nguồn tiền để trả nợ hàng năm Số nợ phải trả hàng năm Tỷ lệ đảm bảo đảm trả nợ thường được xác định theo từng năm trong thời gian trả nợ bởi vì trong nhiều trường hợp xét nguồn trả nợ trong cả thời gian thì bảo đảm nhưng trong từng năm riêng biệt thì có thể thiếu tiền trả nợ. Đánh giá khả năng trả nợ cho thấy mức độ tin cậy của dự án về mặt tài chính. Mặt khác, cũng là điều kiện để ngân hàng và các tổ chức tài chính xem xét tài trợ cho dự án. ưu điểm của phương pháp này là xác định chính xác thời hạn thu hồi vốn đầu tư của dự án, cách tính dễ dàng và với độ tin cậy cao. Tuy nhiên, nhược điểm là không cho thấy được mức lãi của dự án sau khi hoàn vốn. 6. Thẩm định mặt kinh tế xã hội của dự án. Thông qua các chỉ tiêu so sánh các lợi ích mà nền kinh tế xã hội thu được với các đóng góp mà nền kinh tế xã hội phải bỏ ra để tháy được các tác động của dự án đối với nền kinh tế và xã hội. Từ đó có phương án sử dụng các nguồn lực sẵn có của quốc gia một cách tốt nhất. Những so sánh này có thể xem xét mang tính chất định tính như đáp ứng các mục tiêu phát triển kinh tế, phục vụ việc thực hiện các chủ trương chính sáchcủa nhà nước, góp phần chống ô nhiễm môi trường, cải tạo môi sinh,...hoặc đo lường bằng tính toán định lượng như mức tăng thu nhập cho ngân sách, mức gia tăng người có việc làm, mức tăng thu ngoại tệ. III. hoạt động tín dụng ngân hàng với quá trình thu hút và sử dụng vốn đầu tư. Hoạt động tín dụng là hoạt động cơ bản nhất, đặc trưng nhất của ngân hàng thương mại. Đây là hoạt động huy động vốn và sử dụng vốn huy động được để đầu tư, để cho những người có nhu cầu sử dụng vốn vay và thu về một khoản lãi nhất định. Tất cả các hoạt động đi vay và cho vay này phải tuân theo một nguyên tắc vay vốn, vốn vay phải được hoàn trả đủ lượng ban đầu cùng với một lượng lãi nhất định , bảo đảm cho nhân hàng trang trải hết các chi phí và có lợi nhuận. 1. Hoạt động huy động vốn. Ngoài nguồn vốn ban đầu của mình, ngân hàng huy động vốn bằng các hình thức: phát hành séc, mở tài khoản tiết kiệm, tài khoản tiền gửi của dân cư và các tổ chức kinh tế, phát hành kỳ phiếu; trái phiếu; giấy chứng nhận tiền gửi,. . . Bên cạnh đó, khi nhu cầu vốn vay tăng, ngân hàng thương mại có thể vay của Ngân hàng Nhà nước hoặc của các ngân hàng thương mại khác hay của các tổ chức tài chính trên thị trường quốc tế. 2. Hoạt động cho vay và đầu tư. Ngân hàng thương mại sử dụng vốn tự có và vốn huy động được để đem cho vay hoặc đầu tư. Các khoản vay gồm có vay ngắn hạn, vay trung hạn và dài hạn. Các khoản đầu tư của ngân hàng có thể vào trái phiếu chính phủ, tín phiếu kho bạc, công trái, thị trường bất động sản. Các hoạt động cho vay và đầu tư phải đem lại thu nhập lớn hơn chi phí bỏ ra khi huy động vốn để đảm bảo trang trải hết các chi phí và có lợi cho ngân hàng. 3. Vai trò của hoạt động tín dụng. Ngay từ khi thành lập, hoạt động tín dụng ngân hàng của ngân hàng thương mại đã có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển chung của nền kinh tế quốc dân. Vai trò đó được thể hiện qua các điểm sau: * Thúc đẩy tích tụ tập trung vốn cho quá trình sản xuất. Ngân hàng đã huy động tập trung được nhiều nguồn vốn nhàn rỗi để cho vay, gián tiếp nâng cao, đổi mới, mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của nhiều doanh nghiệp mà bản thân họ không thể đáp ứng nhu cầu về vốn của mình. * Là công cụ tài trợ đắc lực nhất cho nền kinh tế, là đòn bẩy kinh tế thúc đẩy các ngành kinh tế mũi nhọn phát triển cũng như mở rộng thương nghiệp, dịch vụ ở nông thôn. Trong điều kiện thị trường vốn chưa phát triển, nguồn vốn Ngân sách cho đầu tư phát triển còn hạn hẹp, hệ thống ngân hàng thương mại giữ vai trò quan trọng trong việc huy động và phân phối nguồn lực tài chính cho các hoạt động kinh tế xã hội, thúc đẩy sự tăng trưởng. * Là công cụ góp phần hạch toán kinh doanh tại các đơn vị kinh tế. Tín dụng ngân hàng đòi hỏi các doanh nghiệp vay vốn phải hoạt động có hiệu quả, cơ chế quản lý phải rõ ràng mới đảm bảo thực hiện hợp đồng vay vốn ttức là trả gốc và lãi đúng thời hạn. Việc kiểm soát hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vay vốn không chỉ là yêu cầu để cấp tín dụng mà còn là điều kiện để đảm bảo sử dụng vốn có hiệu quả, duy trì tính trạng tài chính lành mạnh và an toàn trong hoạt động của ngân hàng. * Tín dụng ngân hàng góp phần tạo lập nền kinh tế mở. Thông qua tín dụng ngân hàng có thể mở rộng hoạt động vay vốn của nước ngoài, các tổ chức tài chính quốc tế, các tổ chức phi chính phủ để thu hút vốn đầu tư phát triển kinh tế, mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế. Tóm lại, đứng trên góc độ đầu tư, hoạt động tín dụng của hệ thống ngân hàng thương mại trung gian chuyển đổi tiền thành vốn. Chương II Đánh giá tình hình thẩm định các dự án cho vay vốn của ngân hàng ngoại thương việt nam I. Khái quát về Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. 1. Lịch sử hình thành và phát triển của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (tên giao dịch quốc tế là Vietcombank) được chính thức thành lập ngày 1/4/1963 theo Nghị định 115-CP ngày 30/12/1962 của hội đồng Chính phủ và được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ký kết hiệp định số 286-QĐ/NH ngày 21/9/1997 thành lập lại theo mô hình Tổng công ty Nhà nước quy định tại quyết định số 90-TTg ngày 7/3/1995 theo uỷ quyền của Thủ tướng Chính phủ, nhằm tăng cường tích tụ tập trung chuyên môn hoá và hợp tác kinh doanh để thực hiện nhiệm vụ Nhà nước giao, nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh của đơn vị thành viên và toàn ngành ngân hàng, đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế. Ngân hàng Ngoại thương trước đây là cục ngoại hối của NHNN. Tính đến này NHNT đã có 38 năm xây dựng và phát triển. Ngay từ khi mới ra đời, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã phải đối mặt với thử thách to lớn của công cuộc xây dựng miền Bắc XHCN và cuộc đấu tranh chống đế quốc Mỹ của đồng bào miền Nam, thống nhất đất nước. (Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam là một ngân hàng chuyên kinh doanh đối ngoại duy nhất thời kỳ đó ở Việt Nam ). Trước năm 1991, NHNT là ngân hàng của Chính phủ thực hiện các chính sách tiền tệ, quản lý ngoại hối kinh doanh đối ngoại của NHNN và cung ứng tín dụng cho các ngành kinh tế chủ chốt của đất nức theo quy định của NHNN. Từ năm 1991, thực hiện cải tổ hệ thống ngân hàng theo pháp lệnh ngân hàng, NHNT mới thực sự trở thành một ngân hàng kinh doanh với số vốn NSNN ban đầu là 200 tỷ đồng. NHNT đã từng bước thay đổi thích ứng dần với cơ chế thị trường và có những đóng góp tích cực cho phát triển nền kinh tế thông qua việc phát động một nguồn vốn lớn trong xã hội để phục vụ mục tiều tăng trưởng kinh tế và thực thi chính sách tiền tệ theo định hướng của Nhà nước. Trong chặng đường 38 năm qua, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã tạo dựng được nền tảng vững chắc, đã mở rộng mạng lưới chi nhánh một cách hợp lý, phù hợp với yêu cầu khai thác của của tiềm năng xuất khẩu hợp tác đầu tư, mở rộng dịch vụ đối ngoại. Khi mới thành lập, NHNT chỉ có khoảng 110 cán bộ và đầu năm đổi mới chỉ có 9 chi nhánh, đến nay đã có một mạng lưới chi nhánh được hình thành ở các khu vực kinh tế phát triển năng động gồm sở giao dịch ở Hà Nội và 26 chi nhánh trên phạm vi cả nước. Với số lượng cán bộ công nhân viên được đào tạo nghiệp vụ khá tốt. Số lượng cán bộ công nhân viên gần 3000 người với tỷ lệ đại học chiếm tới 70%, đội ngũ là những người có kinh nghiệm, có lòng nhiệt tình với nghề nghiệp. NHNT được quản lý bởi HĐQT và được điều hành bởi Tổng giám đốc. HĐQT thực hiện chức năng quản lý của NHNT, chịu trách nhiệm về sự phát triển của NHNT theo nhiệm vụ Nhà nước giao. HĐQT làm việc theo chế độ tập thể họp thường kỳ mỗi tháng một lần để xem xét và quyết định những vấn đề thuộc thẩm quyền và trách nhiệm của mình. HĐQT có từ 5 đến 7 thành viên do thống đốc NHNN quyết định bổ nhiệm. 2. Tình hình hoạt động của NHNT Việt Nam trong những năm qua. 2.1. Tổng quan về nguồn vốn. Tổng nguồn vốn tăng trưởng mạnh và liên tục. Đến cuối tháng 12-2001 tổng nguồn vốn của ngân hàng Ngoại thương đạt 66618 tỷ qui VNĐ, tăng 43,5% so với năm 2000. Nếu loại trừ yếu tố gia tăng về tỷ giá thì tổng nguồn vốn vẫn gia tăng 41,7% - vượt chỉ tiêu so với kế hoạch đặt ra là 25%. Nguồn vốn ngoại tệ phát triển mạnh đạt 3395 triệu USD tăng 43,7% chiếm tỷ trọng tới 74,9% trong tổng nguồn vốn. Trong môi trường kinh doanh hiện nay, nguồn vốn ngoại tệ lớn đang tạo lợi thế cho Ngân hàng Ngoại thương, tuy nhiên về lâu dài Ngân hàng Ngoại thương cần có sách lược nâng cao tỷ trọng nguồn vốn tỷ đồng để đảm bảo phát triển bền vững. Trong cơ cấu tổng nguồn vốn của Ngân hàng Ngoại thương vốn điều lệ và các quỹ hiện đang ở mức 1839 tỷ VNĐ, chiếm 2,8% tổng tài sản. 2.2. Vốn huy động. Nguồn vốn huy động của Ngân hàng Ngoại thương ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn, năm 2001 chiếm đến 85,6% so với 82,7% của năm 2000. Trong đó vốn từ thị trường I vẫn chiếm vai trò chủ đạo, chiếm tới 71% trong tổng nguồn vốn. Nguồn vốn có kỳ hạn của hai thị trường tăng mạnh- tăng 84,2% chiếm tới 58,5% vốn huy động. Nguồn vốn huy động phân theo thị trường. * Nguồn vốn huy động từ thị trường I: Nguồn vốn huy động từ thị trường I đạt 47,316 tỷ quy VNĐ tăng 41,0% trong đó nguồn vốn ngoại tệ đạt 2395 triệu USD tăng 38,1% nguồn vốn tiền đồng đạt 12584 tỷ VNĐ tăng 36,0%. Đặc biệt nguồn vốn có kỳ hạn tăng mạnh (72,6%). Vốn huy động từ các tổ chức và dân cư đều tăng trưởng khá, tuy nhiên phân theo cơ cấu ngoại tệ và nội tệ thì hai nguồn này có xu thế phát triển khác nhau: Vốn huy động từ các tổ chức tăng 19,75% về ngoại tệ từ các tổ chức song tăng 45,2% về tiền đồng; Tiền gửi tiết kiệm và huy động kỳ phiếu từ dân cư tăng 58,7% về ngoại tệ song chỉ tăng 5,5% về tiền đồng. Việc tăng trưởng mạnh mẽ nguồn vốn huy động trên thị trường I của Ngân hàng Ngoại thương trong năm 2001 là do một số nhân tố sau: Ngân hàng Ngoại thương đã chủ động cải thiện việc huy động vốn bằng biện pháp đa dạng hoá các hình thức huy động, bổ sung các kỳ hạn lãi suất khác nhau, linh hoạt điều chỉnh lãi suất, áp dụng chính sách ưu đãi đối với các khách hàng có số dư lớn. Lãi suất USD trên thị trường quốc tế tăng cao kéo theo việc tăng lãi suất USD ở thị trường trong nước đã khuyến khích dân cư gửi USD trong khi đó Ngân hàng Ngoại thương lại có thế mạnh trong việc huy động nguồn vốn này. Nguồn kiều hối trong năm tăng mạnh nhất là vào các tháng cuối năm. * Nguồn vốn huy động từ thị trường II: Nguồn vốn huy động trên thị liên ngân hàng đạt 9719 tỷ quy VNĐ tăng gấp 2 lần so với cùng kỳ năm ngoái và chiếm tới 14,6% tổng nguồn vốn. Vốn ngoại tệ đạt mức 584 triệu USD tương đương với 8470 tỷ VNĐ chiếm 87,2% nguồn vốn huy động trên thị trường II. Vốn tiền đồng là 1244 tỷ trong đó vay Ngân hàng Nhà nước 1239 tỷ bao gồm vay tái cấp vốn 530 tỷ, vốn vay đặc biệt 589 tỷ. Bảng 1: Vốn huy động của Ngân hàng Ngoại thương từ hai thị trường Tỷ giá: 14501 (12/2001), 14016 (12/2000) Đơn vị: tỷ VNĐ, triệu USD Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 So với năm 2000 (%) VNĐ Ngoại tệ Quy USD VNĐ Ngoại tệ Quy USD VNĐ Ngoại tệ Quy USD Vốn HĐ từ TT I - Từ các t/c - Từ TK và KP 9251 7111 2141 1734 917 817 33560 19977 13593 12584 10325 2259 2395 1099 1296 47316 26259 21058 36 45,2 5,5 38,1 19,8 58,7 41 31,5 54,9 Vốn HĐ từ TT II -Tiềngửi -Tiềnvay 146 57 89 302 302 0 4379 4285 94 1244 10 1234 584 584 0 9719 8480 1239 75,21 -82,3 1283 93,5 93,6 1,7 122 97,9 1220 Nguồn: Cân đối kế toán 31/12/2001 và 31/12/2000. Vốn huy động phân theo kỳ hạn. Tổng nguồn vốn có kỳ hạn huy động được từ hai thị trường đến cuối năm 2001 đạt 33356 tỷ VNĐ, tăng 84,2% chiếm 58,5% so với tổng vốn huy động được từ hai thị trường cao hơn so với mức 47,7% cuối năm 2000. Trong đó 84,8% vốn có kỳ hạn huy động trên thị trường I và 16,2% huy động trên thị trường II. Bảng 2: Vốn huy động vốn phân theo kỳ hạn. Đơn vị: tỷ VNĐ Chỉ tiêu 12/2000 12/2001 Tăng/ giảm (%) Quy VNĐ Tỷ trọng(%) Quy VNĐ Tỷ trọng(%) Vốn huy động trên hai thị trường - Kỳ hạn Vốn kỳ hạn từ thị trường I. - Của tổ chức - Của tiết kiệm 2. Vốn kỳ hạn của thị trường II. - Tiền gửi - Tiền vay 37939 18111 16389 3170 13218 1722 7221 94 100 47,7 43,2 8,4 34,8 4,5 19,0 0,2 57035 33356 28290 7675 21085 5066 827 1239 100 58,5 49,6 13,5 36,9 8,9 6,7 2,2 50,3 84,2 72,6 142,1 59,8 194,2 -47 1218 Nguồn vốn có kỳ hạn huy động từ thị trường I đạt 28290 tỷ quy VNĐ. Tiền gửi có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên đạt 12788 tỷ qui VNĐ tăng 77,1% so với năm 2000 và chiếm 45,2% vốn kỳ hạn của thị trường II đây là yếu tố thuận lợi cho Ngân hàng Ngoại thương mở rộng đầu tư trung và dài hạn. * Tình hình huy động vốn trên thị trường I của các chi nhánh. Thực hiện phương châm phát huy nội lực, việc khai thác nguồn vốn tại chỗ đã được nhiều chi nhánh chú ý. Trong năm 2001, hầu hết các chi nhánh của Ngân hàng Ngoại thương đều huy động vốn tăng mạnh so với năm 2000. Tiêu biểu là các chi nhánh: Quảng Ngãi (tăng 2511 tỷ - 134,0%), Quảng Ninh (tăng 203 tỷ - 54,0%), Đồng Nai (tăng 165 tỷ- 52,8%), Thái Bình (tăng 102 tỷ - 101,1%). Các chi nhánh duy trì được tỷ trọng huy động vốn cao trong toàn hệ thống là sở giao dịch đạt 19.161 tỷ -chiếm 40,4%. TP. Hồ Chí Minhđạt 10.216 tỷ - chiếm 21,3%, Vũng tàu đạt 5.250 tỷ - chiếm 10,9%, Hà Nội đạt 2732 tỷ - chiếm 5,7%. Tuy nhiên , cơ cấu huy động vốn tiền đồng và ngoại tệ của các chi nhánh còn mất cân đối, phần lớn là vốn huy động bằng ngoại tệ, vốn huy động bằng nội tệ chiếm tỷ trọng thấp nên xuất hiện ở một số chi nhánh tình trạng thiếu vốn tiền đồng để mở rộng tín dụng 2.3. Sử dụng vốn. Nguồn vốn tăng trưởng với tốc độ nhanh (45,3%) tạo điều kiện thuận lợi cho việc sử dụng và khai thác hiệu quả các nguồn vốn. Các chỉ tiêu chủ yếuvề sử dụng vốn đều tăng cả về số tuyệt đối lẫn số tương đối. Tuy nhiên, xét trên tổng thể thì cơ cấu sử dụng vốn không có những biến động đáng kể. Sử dụng vốn trên thị trường I (vốn đầu tư trực tiếp cho nền kinh tế) đạt 15634 tỷ qui VNĐ, chiếm tỷ trọng tương đối thấp là 23,5% trong tổng sử dụngvốn (giảm so với 25,1% của năm trước) chưa tương xứng với nguồn vốn của Ngân hàng Ngoại thương. Sử dụng vốn tiền đồng đạt 9184 tỷ, chiếm 58,7 sử dụng vốn trên thị trường này. Sử dụng vốn trên trị trường II vẫn chiếm tỷ trọng chủ yếu là 65,2% tổng sử dụng vốn ( tăng so với 62,7% cuối năm ngoái) đật 43463 tỷ qui VNĐ. Trong đó chủ yếu là sử dụng vốn dưới hình thức tiền gửi tại ngân hàng nước ngoài, đạt số dư 2538 triệu USD ( tương đương với 36801 tỷ qui VNĐ ), tăng 55,3% so với năm trước và chiếm 84,7% sử dụng vốn trên thị trường II 2.4. Các hoạt động khác. a. Hoạt động bảo lãnh. Hiện nay, nghiệp vụ bảo lãnh trong nước của Ngân hàng Ngoại thương là tương đối an toàn và hiệu quả. Nghiệp vụ này được thực hiện ở hầu hết các chi nhánh trong toàn hệ thống. Dư nợ bảo lãnh nước ngoài giảm 21% so với năm 1999. Nợ quá hạn giảm 12,7 triệu USD tương ứng với 31% so với năm trước. Dư nợ bảo lãnh trong năm 2000 giảm nhiều do Ngân hàng Ngoại thương thực hiện một số biện pháp sau: * Tiếp tục thực hiện việc hạn chế bảo lãnh nhập hàng trả chậm theo chủ trương của NHNN để giảm thiểu rủi ro. * Kiểm soát chặt chẽ những khoản bảo lãnh mới. Hầu hết các trường hợp Ngân hàng Ngoại thương đều yêu cầu ký quỹ 100%, trừ việc mở thư tín dụng hàng gia công. *Tích cực tìm biện pháp giải quyết nợ tồn đọng nên đã xử lý được 2 món nợ lớn trị giá 12 triệu USD. b. Hoạt động thanh toán. Do có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại cùng với hệ thống ngân hàng đại lý tộng khắp, Ngân hàng Ngoại thương đã được các bạn hàng tín nhiệm thông qua việc mở tài khoản tiền gửi, thanh toán và sử dụng dịch vụ ngân hàng. Về thanh toán ngoại tệ, ngân hàng vẫn được coi như một trung tâm thanh toán bù trừ của các tổ chức tín dụng tại Việt Nam. Vai trò này đã khẳng định trong nhiều năm qua. Mặc dù đang có sự cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các tổ chức tín dụng, doanh số thanh toán quốc tế vẫn tăng qua các năm. Hoạt động thanh toán, đặc biệt là thanh toán xuất nhập khẩu là thế mạnh của Ngân hàng Ngoại thương. Đến cuối năm 2000 tổng kim ngạch thanh toán xuất nhập khẩu qua Ngân hàng Ngoại thương ước đạt 6577 triệu USD, chiếm 28% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước. c. Phát hành và thanh toán thẻ tín dụng quốc tế. Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam được các tổ chức thẻ quốc tế Mastercard, Visa, Amex và JCB chọn làm đại lý thanh toán từ năm 1991, mạng lưới thanh toán thẻ của ngân hàng ngày cang được mở rộng và doanh thu từ hoạt động thanh toán thẻ ngày một tăng. Cho đến nay tổng số thẻ Ngân hàng Ngoại thương đã phát hành là 3138 thẻ với số tiền sử dụng là 38 tỷ đồng. Trong bối cảnh hoạt động kinh tế khó khăn và môi trường cạnh tranh gay gắt, tình hình phát hành và thanh toán thẻ trong năm 2000 của Ngân hàng Ngoại thương cung bị ảnh hưởng song không đáng kể. Tổng số thẻ phát hành là 1301 thẻ, trong đó có 698 Visa card và 603 Mastercard, doanh số phát hành thẻ là 71 triệu USD. d. Kinh doanh ngoại tệ. Nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ có tầm quan trọng lớn đối với Ngân hàng Ngoại thương. Trong thời gian qua, hoạt động kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng bị ảnh hưởng mạnh do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ khu vực. Doanh số mua bán ngoại tệ tăng so với năm trước, lượng ngoại tệ bán trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng lớn gấp 10 lần so với năm 1999, đạt 787 triệu USD. Hoạt động kinh doanh ngoại tệ đã phục vụ đắc lực cho nhu cầu cung ứng ngoại tệ cho thị trường, đáp ứng nhu cầu thanh toán đối ngoại, góp phần cùng NHNN bình ổn thị trường ngoại tệ và tăng Quỹ ngoại tệ quốc gia. e. Công tác ngân quỹ. Mặc dù khối lượng ngoại tệ công việc tăng nhưng công tác ngân quỹ của Ngân hàng Ngoại thương vẫn đảm bảo an toàn tuyệt đối. Trong năm 2000, không xảy ra trường hợp mất quỹ nào, cán bộ kiểm ngân liêm khiết đã trả lại tiền thừa cho khách hàng 829 món với tổng số tiền là 1519 triệu VNĐ và 162100 USD. Nhờ nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn, năm 2000 toàn hệ thống đã phát hiện được 152 triệu VNĐ và 5900 USD giả. Ngân hàng đã mở c khoá đào tạo bồi dưỡng kiến thức nghiệp vụ cho cán bộ là công tác ngân quỹ để nắm bắt kịp thời những cái mới, phục vụ tốt hơn cho công việc. 2.5. Kết quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Ngoại thương Năm 2001, Ngân hàng Ngoại thương hoàn thành xuất sắc các chỉ tiêu tài chính, cụ thể như sau: * Tổng thu nhập của Ngân hàng Ngoại thương đạt 3363 tỷ đồng, tăng 30,5% so với năm 2000. Thu lãi tiền gửi chiếm tỷ trọng 60,4% tổng thu nhập tăng mạnh so với năm 2000 (37,7%) do lượng ngoại tệ gửi nước ngoài ra tăng (từ 1313,8 triệu quy USD bình quân năm 2000 lên 2133,1 triệu USD) và lãi suất trên thị trường quốc tế cũng tăng lên đáng kể trong năm 2001. * Tổng chi phí của Ngân hàng Ngoại thương trong năm 2001 là 3150 tỷ đồng, tăng 31,8% so với năm 2000. Nguyên nhân chủ yếu làm tăng chi phí là chi phí dự phòng tăng mạnh (tăng 28,3%) đạt 385 tỷ đồng. Bên cạnh đó, Ngân hàng Ngoại thương cũng được phép ghi vào chi phí để xoá nợ cho IMEXCO theo quyết định của Chính phủ với số tiền 9,6 triệu USD ( 135 tỷ đồng). Như vậy tổng số chi phí dự phòng và xoá nợ là 520 tỷ đồng, tăng 220 tỷ so với năm 2000. Nguồn vốn huy động tăng mạnh cũng là chi trả tiền lãi gửi tăng 29,5%, lên tới 2079,6 tỷ đồng. Chi về nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ cũng tăng do từ thãng 8 đến thãng 11/2001 tỷ giá tăng mạnh. * Lợi nhuận._.toàn diện hơn, đồng bộ với các nghiệp vụ khác, tạo thành một tổng thể gắn bó trong các hoạt động ngân hàng. Do vậy, để nâng cao được chất lượng của công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của hoạt động cho vay của ngân hàng và của nền kinh tế thì trước hết phải có một nhận thức và định hướng đúng đắn trong vấn đề này. I. Những định hướng trong hoạt động cho vay và công tác thẩm định. Trong thời gian qua, hoạt động của ngân hàng nói chung, công tác tín dụng nói riêng là gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực, nguồn vốn đầu tư bị giảm sút, thị trường xuất khẩu và một số yếu tố khác gặp nhiều khó khăn. Do vây, hoạt động của NHTNVN không tránh khỏi những khó khăn và thách thức. Nhưng do bám sát tình hình thực tế cùng với sự chỉ đạo đúng đắn của NHNN, NHNT đã có những biện pháp khắc phục những tồn tại, thiếu sót kịp thời. Trên cơ sở khắc phục được những khó khăn đó thì NHNT cũng đặt ra những mục tiêu chiến lược trong thời gian tới về hoạt động cho vay và đặc biệt là công tác thẩm định dự án đầu tư để đảm bảo về hiệu quả hoạt động của mình. 1.Định hướng trong công tác cho vay Tích cực tìm kiếm các dự án khả thi để đẩy mạnh công tác cho vay nhằm phục vụ tốt hơn sự nghiệp kinh tế của đất nước, đạt mức tăng trưởng tín dụng 15%. Để phục hồi mức tăng trưởng tín dụng của những năm trước Ngân hàng cần chủ động tìm kiếm những khách hàng có triển vọng, không phân biệt loại hình sở hữu. Nghiên cứu áp dụng vào thực tiễn những phương pháp tiên tiến về phân tích tài chính, thẩm định đầu tư, phân tích vốn vay. . . để nâng cao năng lực và hiệu quả cho vay. Với phương châm "an toàn- hiệu quả- phát triển", Ngân hàng tận dụng thời cơ để mở rộng đầu tư, tín dụng, bảo lãnh đạt mức tăng trưởng đạt 25%, nâng dần tỷ trọng đầu tư trung dài hạn lên 355 tổng dư nợ, nâng cao chất lượng tín dụng, phấn đấu giảm tỷ lệ nợ quá hạn xuống dưới 4%, tích cực xử lý khai thác có hiệu quả tài sản xiết nợ, tài sản thế chấp để giải phóng vốn kinh doanh. Bám sát các định hướng của Nhà nước về chiến lược phát triển kinh tế, sớm tiếp cận với các dự án, chương trình kinh tế trọng điểm để chủ động bố trí vốn, tham gia trực tiếp đồng tài trợ với các ngân hàng thương mại khác để phát huy sức mạnh về vốn, hạn chế rủi ro. Tiếp tục mở rộng đối tượng cho vay nhằm khai thác mọi tiềm năng trong nền kinh tế, có cơ chế thoả đáng trong chính sách đầu tư, tín dụng cho mục tiêu xã hội. Tuy nhiên, Ngân hàng Ngoại thương sẽ tập trung một tỷ trọng vốn thích đáng để đầu tư vào các dự án lớn của các doanh nghiệp quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Tạo điều kiện cho người đi vay với chính sách lãi suất hợp lý, phí dịch vụ thấp để có thể cạnh tranh với các ngân hàng khác. Đổi mới phong cách phục vụ, luôn coi trọng lợi ích của khách hàng. Xây dựng cơ chế lãi suất ưu đãi đối với các khoản vay lớn và an toàn. Tăng cường cơ chế thông tin, nắm chắc tình hình biến động và tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có vay vốn Ngân hàng, cũng như tình hình biến động thị trường. Dự đoán kịp thời, chính xác những nhân tố tác động đến sản xuất kinh doanh, tình hình thị trường tài chính trong nước và nước ngoài để chủ động tư vấn cho doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn, sử dụng vốn vay có hiệu quả hơn. 2. Định hướng trong công tác thẩm định Từ những chức năng, vai trò và thực tiễn thì Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cần có những định hướng cụ thể và sát thực đáp ứng hiệu quả của công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư. Những định hướng đó được thể hiện như sau: a.Công tác thẩm định phải đứng trên giác độ của người cho vay, người bỏ vốn để xem xét. Với tư cách là một tổ chức đi vay để cho vay Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cần phai thẩm định những dự án vay vốn của mình, xem xét dự án vay vốn đó có mang lại hiệu quả không ? và có khả năng thu hồi được vốn và lãi suất không ? b. Công tác thẩm định dự án đầu tư của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam phải xuất phát từ tình hình thực tiễn trong ngành và nhằm mục đích phục vụ hoạt động cho vay của ngân hàng trong từng giai đoạn. c. Công tác thẩm định dự án đầu tư phải được phổ cập hoá trong toàn hệ thống, tới tất cả các cán bộ làm nhiệm vụ ở các bộ phận khác nhau. Trong đó, phải có bộ phận làm chủ lực, nòng cốt tại các chi nhanh cũng như TW, nghĩa là phải toàn diện, vừa phải có trọng tâm. d. Công tác thẩm định phải phát huy được vai trò tham mưu có hiệu quả cho lãnh đạo từ cơ sở đến TW trong việc quyết định các khoản cho vay. e. Công tác thẩm định dự án đầu tư phải được xây dựng theo hướng đặc thù phù hợp với hoạt động cho vay của ngân hàng, phải được duy trì và phát triển thành một thế mạnh trong kinh doanh và cạnh tranh. Do đó, phải thường xuyên tổng kết thực tiễn rút ra những kinh nghiệm để hoàn thiện và phát triển. f. Công tác thẩm định đòi hỏi tính chủ động, năng lực sáng tạo, khả năng tổng hợp phân tích và tổng hợp thực tiễn. II. Một số giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hoá ngày càng phát triển và đồng nghĩa với nó là hoạt động đâù tư ngày càng được mở rộng với quy mô lớn. Do đó, vai trò của công tác thẩm định ngày càng trở nên quan trọng, có ảnh hưởng lớn tới hiệu quả trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng. Qua nghiên cứu hoạt động thẩm định dự án đầu tư tại Ngân hàng Ngoại thương trong những năm qua, chúng ta thấy rằng cần nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động của công tác này. Qua thời gian thực tập tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam và có nghiên cứu về tình hình thẩm định tôi thấy rằng bên cạnh những kết quả đạt được còn có những hạn chế trong công tác này cần khắc phục. Và theo đánh giá chung về những hạn chế này là do những nguyên nhân khác nhau vì vậy ta nên có những giải pháp sau: Giải pháp về phương pháp thẩm định. Giải pháp về thông tin. Giải pháp về nhân tố con người. Giải pháp về tổ chức điều hành. Giải pháp về trang thiết bị. 1. Giải pháp về phương pháp thẩm định + áp dụng các phương pháp thẩm định hiện đại: Ngân hàng cần phổ cập và tăng cường áp dụng những phương pháp, chỉ tiêu thẩm định dự án đầu tư hiện đại trên cơ sở tham khảo, học hỏi các ngân hàng trên thế giới và áp dụng một cách sáng tạo vào tình hình thực tế nước ta và hệ thống ngân hàng. Đây là vấn đề có ý nghĩa thiết thực trong việc nâng cao chất lượng thẩm định tài chính. Các phương pháp thẩm định hiện đại được trình bày phổ biến trong nhiều tài liệu khác nhau nhưng vấn đề là lựa chọn chỉ tiêu, phương pháp nào để áp dụng cho phù hợp với thực tiễn từng dự án. + Đánh giá hiệu quả tài chính: Khi đánh giá hiệu quả tài chính của dự án, Ngân hàng cần áp dụng nhiều hơn nữa nhiều chỉ tiêu: giá trị hiện tại ròng NPV, tỷ suất sinh lời nội bộ IRR, chỉ số doanh lợi PI. Sử dụng các chỉ tiêu này làm tiêu chuẩn trong đánh giá, lựa chọn dự án đầu tư. Ba chỉ tiêu này rất quan trọng, phản ánh chính xác hiệu quả tài chính của dự án đầu tư cần phải được áp dụng đồng thời để bổ sung hỗ trợ lẫn nhau. Ngân hàng nên xây dựng một quy trình tác nghiệp cụ thể để làm căn cứ cho việc thực hiện. Trong khi tính chỉ tiêu NPV, để đảm bảo an toàn khả năng đúng hạn của dự án chúng ta nên tính thêm NPV với thời gian bằng thời gian vay vốn của Ngân hàng, vì thời gian cho vay của các ngân hàng là có hạn và thường ngắn hơn nhiều so với tuổi đời của dự án hoặc giấy phép đầu tư. Trường hợp NPV âm thì dự án không có khả năng trả nợ đúng hạn, do vậy chủ đầu tư phải giải trình dùng các nguồn khác để bù đắp trả nợ. + Vấn đề giá trị thời gian của tiền: Đây là vấn đề mấu chốt của thẩm định tài chính dự án đầu tư nhưng chưa được Ngân hàng quan tâm đúng mức. Một trong những đặc trưng cơ bản của hoạt động đầu tư là các lợi ích và chi phí phát sinh ở các giai đoạn khác nhau nhưng giá trị đồng tiền ở các thời điểm khác nhau không giống nhau. Vì vậy, cần phải có một phương pháp quy đổi giá trị của dòng tiền xuất hiện ở các thời điểm khác nhau về cùng một thời điểm để xem xét, phân tích mà còn tạo điều kiện để so sánh lựa chọn các dự án. + Tính lãi suất chiết khấu: Đối với các dự án đầu tư chủ yếu bằng nguồn vốn vay ngân hàng, ta chọn lãi suất chiết khấu đúng bằng lãi suất vay ngân hàng. Trường hợp vay bằng nhiều nguồn có lãi suất khác nhau, ta tính lãi suất bình quân gia quyền. Thông thường các dòng tiền của dự án trong suốt thời kỳ phân tích được chiết khấu với tỷ lệ không đổi. Tuy nhiên, Ngân hàng có thể sử dụng các tỷ lệ chiết khấu thay đổi để phản ánh các tác động của môi trường kinh tế tới dự án, chẳng hạn như tác động của lạm phát, mức độ rủi ro. . .Trong những năm mà nguồn vốn khan hiếm, Ngân hàng có thể tính tỷ lệ chiết khấu cao do chi phí vốn tăng và ngược lại, tỷ lệ chiết khấu thấp hơn cả trong những năm nguồn vốn dồi dào. + Tính dòng tiền: Phần lớn các dự án đều có giá trị thu hồi tài sản cố định. Các máy móc thiết bị, nhà xưởng khi kết thúc dự án còn có một giá trị thị trường nhất định. Khi được bán sẽ xuất hiện một luồng tiền thu cuối dự án. Một điều lưu ý là dòng tiền này phải chịu thuế thu nhập doanh nghiệp vì nó là luồng tiền hoạt động trước thuế. Ngân hàng cũng cần phải tính tới khoản thu hồi vốn lưu động ròng, khoản thu hồi này sẽ được cộng vào dòng tiền ở năm cuối cùng của dự án. Đặc biệt, Ngân hàng cần phải tính toán dòng tiền cho cả đời dự án chứ không nên dừng lại ở năm dự án trả hết nợ. Khi xác định lợi nhuận ròng để trả nợ, Ngân hàng nên chú ý tính tới phần sử dụng vốn Ngân sách Nhà nước mà doanh nghiệp phải nộp (nếu có). Đối với những dự án đầu tư đã được thẩm định có hiệu quả, trong một số năm đầu dự án có dòng tiền âm, Ngân hàng có thể xem xét thu nợ vào những năm sau, chứ không nhất thiết phải yêu cầu miễn thuế hoặc hỗ trợ. + Tính khấu hao: Khi tính đến khấu hao, Ngân hàng cần chú ý tới cơ cấu của chi phí đầu tư cho dự án để áp dụng tỷ lệ khấu hao phù hợp. Đối với phần chi phí trước vận hành, Ngân hàng cần tách ra để tính thu hồi trong một số năm đầu khi dự án đi vào hoạt động chứ không nên tính gộp với chi phí xây lắp. + Các bảng tính: Ngoài các bảng tính hiệu quả kinh tế và khả năng trả nợ của dự án, Ngân hàng nên lập thêm bảng phân tích dòng tiền để thấy rõ các dòng tiền vào, ra của dự án và thuận lợi cho việc tính toán các chỉ tiêu NPV, IRR. 2. Giải pháp về thông tin Thông tin có một vai trò vô cùng quan trọng trong hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động thẩm định tài chính dự án nói riêng. Có thể khẳng định thông tin là nguồn lực, là cơ sở để có được kết quả thẩm định tốt, có thể tránh được những rủi ro đáng tiếc xảy ra do thiếu thông tin. Do đó, Ngân hàng cần phải tăng cường các nguồn thông tin, đồng thời nâng cao chất lượng thông tin bằng cách hoàn thiện hệ thống thu thập và xử lý thông tin để phục vụ cho hoạt động thẩm định một cách hiệu quả hơn. + Tăng cường hệ thống thông tin nội bộ: Để đảm bảo xây dựng một hệ thống thông tin có hiệu quả, trước hết Ngân hàng cần ban hành thu thập một quy chế thông tin định kỳ cho các trung tâm, bộ phận thông tin ở các chi nhánh cũng như Trung ương. Những thông tin cần thiết liên quan đến dự án phải được cung cấp một cách nhanh chóng, đầy đủ và nhất là thông suốt trong toàn hệ thống. Một lợi thế rất lớn của NHNT là ở cả chi nhánh cũng như Trung ương đều được trang bị hệ thống máy tính khá hiện đại. Nếu Ngân hàng biết khai thác có hiệu quả mạng máy tính này thì đây sẽ là chìa khoá giải quyết vấn đề thông tin một cách nhanh chóng và thu hồi được lợi ích lớn. Các chi nhánh sẽ thu thập và lưu trữ thông tin cụ thể về tình hình ở khu vực, địa bàn hoạt động của mình. Hàng tuần hay một hai lần, chi nhánh sẽ gửi các báo cáo thông tin thu thập được về phòng Dự án và phòng Thẩm định ở Trung ương để lưu trữ và tổng hợp trên phạm vi toàn quốc. Việc trao đổi thông tin giữa các phòng và chi nhánh được thực hiện qua hệ thống máy tính nội bộ. Một mặt, thông tin được phân loại và tổng hợp theo ngành, lĩnh vực, khu vực khác nhau và nếu có khả năng, Ngân hàng nên tổng hợp thông tin của một số Tổng công ty lớn mà Ngân hàng có quan hệ thường xuyên, lâu dài. Mặc khác, thông tin cũng được tổng hợp theo hướng bao gồm ba nội dung chủ yếu: Thông tin về kinh tế xã hội nói chung: các thông tin về chủ trương, chính sách phát triển của Đảng và Nhà nước về tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài hay đầu tư trong nước cho các ngành công nghiệp, năng lượng, điện lực. . .tình hình xuất nhập khẩu, thuế suất. . . Thông tin về tài chính ngân hàng: các Nghị định của Chính phủ, thông tư, quyết định, quy chế của Bộ tài chính, Ngân hàng Nhà nước, các thông tư liên bộ. Thông tin về thị trường giá cả: bao gồm cả nguyên liệu sản xuất, máy móc thiết bị và hàng tiêu dùng. Để nâng cao được tính khả thi của giải pháp trên đòi hỏi Ngân hàng phải xây dựng được một phần mềm tin học chuyên dụng. Ngân hàng có thể giao cho phòng Tin học phụ trách lập trình phần mềm này hoặc đặt mua của các công ty tin học nổi tiếng. + Thông tin thu thập từ bên ngoài: Tiếp tục phát huy lợi thế về cơ sở vật chất sẵn có, Ngân hàng nên phát triển hệ thống thu thập thông tin từ bên ngoài thông qua việc kết nối mạng lưới máy tính của Ngân hàng Nhà nước, của các ngân hàng thương mại khác, của các trung tâm thông tin trong nước và quốc tế. Mạng thông tin toàn cầu Interrnet sẽ là kho dữ liệu vô tận mà Ngân hàng có thể khai thác. Bên cạnh đó, Ngân hàng nên tham khảo ý kiến của các chuyên gia tư vấn kỹ thuật để trợ giúp trong việc thẩm định khía cạnh của dự án. Ngoài ra, Ngân hàng có thể đa dạng hoá nguồn thông tin từ các bạn hàng của doanh nghiệp để nắm được tình hình quan hệ thanh toán, khả năng đảm bảo của việc cung cấp đầu vào và tiêu thụ đầu ra của dự án, thuê những công ty kiểm toán xác định tính chính xác và trung thực của các báo cáo tài chính. Lưu trữ thông tin cũng là vấn đề đáng quan tâm, Ngân hàng nên chuyển toàn bộ các thông tin lưu trữ cần thiết ở hình thức văn bản giấy tờ vào máy tính để quản lý có hiệu quả hơn. với sự trợ giúp của công nghệ tin học, Ngân hàng sẽ xây dựng được những phương pháp thu thập, phân tích, xử lý và lưu trữ thông tin có hiệu quả và góp phần nâng cao số lượng, chất lượng thông tin thu thập được. Nhưng để thực hiện được điều này Ngân hàng phải nâng cấp hệ thống máy tính, hoàn thiện trình độ cán bộ công nhân viên trong việc xử lý thông tin trên mạng máy tính của Ngân hàng. 3. Giải pháp về nhân tố con người Con người là nhân tố trung tâm chi phối, ảnh hưởng quyết định đến hoạt động thẩm định dự án đầu tư. Vì vậy, để nâng cao chất lượng công tác thẩm định thì trước hết phải nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ thẩm định. Mỗi cán bộ thẩm định đòi hỏi phải hội tụ đầy đủ các điều kiện như: trình độ học vấn, năng lực, kinh nghiệm và đạo đức nghề nghiệp. Cán bộ thẩm định phải có trình độ chuyên môn từ đại học trở lên, có kiến thức cơ bản về kinh tế thị trường, kiến thức chuyên môn về ngân hàng tài chính cũng như kiến thức về phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp, ngoài ra còn phải biết về tin học để có thể sử dụng thành thạo các chương trình ứng dụng phục vụ cho công tác thẩm định. Không chỉ có vậy, cán bộ thẩm định cần phải có đầu óc tổng hợp nhạy bén với những thay đổi bất bình thường của thị trường, có khả năng phán đoán những rủi ro tiềm ẩn và có tính quyết đoán, linh hoạt để không bỏ lỡ thời cơ. Cán bộ thẩm định phải là người có kinh nghiệm thực tiễn, phải có thời gian đi tìm hiều thực tế tại các doanh nghiệp, trực tiếp tham gia giám sát và theo dõi tình hình tài chính của doanh nghiệp, trực tiếp theo dõi quản lý một số dự án của ngân hàng, phải có một số kinh nghiệm chuyên sâu về một số lĩnh vực nhất định. Cuối cùng, phẩm chất đạo đức nghề nghiệp cũng không thể thiếu được ở một số cán bộ thẩm định. Một cán bộ tốt trước hết là phải trung thực, có tinh thần trách nhiệm, tính kỷ luật cao, nếu không hậu quả xảy ra sẽ khó lường trước được. Để đáp ứng yêu cầu này, Ngân hàng Ngoại thương cần tập trung vào một số giải pháp sau: + Vấn đề tuyển dụng cán bộ: Ngân hàng cần có chính sách tuyển dụng cán bộ hợp lý để có thể thu hút được những người có năng lực và trình độ, đặc biệt là những sinh viên xuất sắc, có khả năng về chuyên ngành tài chính ngân hàng hoặc về thẩm định dự án đầu tư ở các trường đại học uy tín. Ngân hàng nên có chính sách đặc biệt để thu hút đội ngũ cán bộ chuyên viên giỏi về làm việc tại Ngân hàng Ngoại thương hoặc làm cộng tác viên, cố vấn cho công tác thẩm định. + Vấn đề bối dưỡng cán bộ: Trước mắt Ngân hàng cần thực hiện đào tạo và đào tạo lại để nâng cao trình độ, năng lực của tất cả các cán bộ thẩm định. Những sinh viên hay người mới được tuyển dụng nên được đào tạo tiếp ở những khoá học nâng cao trong và ngoài nước về thẩm định dự án đầu tư. Thời gian đào tạo có thể một hoặc hai năm tuỳ theo các khoá học được tổ chức. Cán bộ thẩm định cũng phải thường xuyên bồi dưỡng kiến thức về chuyên môn, nghiệp vụ. Hàng năm, Ngân hàng nên tổ chức các lớp tập huấn, đào tạo ngắn hạn cho các cán bộ thẩm định với sự tham gia giảng dạy của các chuyên gia hoặc các cán bộ có trình độ, năng lực của chính Ngân hàng. Bên cạnh đó, Ngân hàng nên cử những cán bộ chủ chốt, có năng lực theo các khoá học đào tạo chuyên ngành về dự án và thẩm định dự án đầu tư ở trong và ngoài nước. Ngân hàng cần thường xuyên hướng dẫn các văn bản luật, chế độ, chính sách mới của Chính phủ và các bộ, ngành quản lý Nhà nước cho hệ thống các cán bộ nghiệp vụ thẩm định tại chi nhánh cũng như Trung ương. Tăng cướng kiểm tra hướng dẫn nghiệp vụ thẩm định dự án đối với các chi nhánh. Tổ chức các buổi trao đổi nghiệp vụ chuyên môn trong phòng hoặc giữa các phòng thẩm định của các chi nhánh lớn, đồng thời tạo điều kiện cho anh chị em được dự các khoá đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ trong và ngoài ngành nhằm nâng cao trình độ, năng lực của tất cả các cán bộ trong phòng. + Vấn đề đãi ngộ: Ngân hàng nên có chính sách ưu đãi cho cán bộ thẩm định để khuyến khích trách nhiệm, ý thức, tinh thần trách nhiệm vươn lên hoàn thiện của mỗi cán bộ. Ngoài chế độ hàng năm cho cán bộ đi nghỉ mát, điều dưỡng, Ngân hàng cần có các chính sách khuyến khích các cán bộ tự đào tạo như bố trí thời gian, trợ cấp học phí, hỗ trợ tiền mua tài liệu, sách tham khảo về thẩm định dự án của nước ngoài, áp dụng khung lương thưởng hợp lý đối với những cán bộ đã bảo vệ thành công luận án thạc sỹ, tiến sỹ. Điều quan trọng là các cán bộ cần phải có phẩm chất đạo đức nghề nghiệp và luôn có ý thức vươn lên để hoàn thành tốt công việc được giao. Chính vì vậy, Ngân hàng phải có chính sách khen thưởng đối với những cán bộ, chuyên gia làm việc giỏi để tránh hiện tượng “chảy máu chất xám”. Tuy nhiên, cũng cần có những biện pháp xử lý đối với những cán bộ làm việc không nghiêm túc gây thất thoát tài sản của Ngân hàng. Ngoài ra, Ngân hàng phải thường xuyên kiểm tra đội ngũ cán bộ thẩm định, xem xét và thuyên chuyển những cán bộ thẩm định không đáp ứng được yêu cầu công việc sang làm công việc khác. Bố trí các cán bộ có trình độ, bản lĩnh, tinh thần trách nhiệm cao vào những vị trí quan trọng chủ chốt để phát huy hơn nữa thế mạnh về con người. 4. Giải pháp về tổ chức điều hành Việc tổ chức, quản lý điều hành công tác thẩm định cần được chú trọng chặt chẽ vì đầy là khâu quan trọng, ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng cũng như ảnh hưởng trực tiếp đến công tác thẩm định của Ngân hàng. Các dự án đưa đến Ngân hàng Ngoại thương có quy mô, lĩnh vực khác nhau. Việc bổ nhiệm, phân công cán bộ cần phải dựa vào khả năng thực lực của mỗi người, đông thời phải có sự kết hợp chặt chẽ, cùng hợp tác giúp đỡ lẫn nhau để phát huy hơn nữa trình độ, kinh nghiệm và thế mạnh của mỗi cán bộ nhằm đạt được hiệu quả trong công tác thẩm định. Ngân hàng nên bố trí những dự án có quy mô lớn, tính chất phức tạp cho các cán bộ chủ chốt có trình độ, kinh nghiệm, còn những dự án đơn giản hơn có thể giao cho các cán bộ trẻ mới vào nghề. Phân công công tác phải gắn chặt với trách nhiệm của mỗi cán bộ thẩm định và kết quả của mỗi dự án mà người đó đảm nhiệm vì như thế trách nhiệm của cán bộ thẩm định mới ngày được nâng cao. Ngân hàng nên quy định chi tiết, cụ thể hơn về trách nhiệm cũng như quyền lợi của các cán bộ đối với kết quả thẩm định dự án đầu tư. Ngân hàng cũng nên rà soát lại độ ngũ cán bộ thẩm định, chuyên sang làm các nhiệm vụ khác đối với những cán bộ không đáp ứng được yêu cầu công việc, bổ sung thêm cán bộ thẩm định cho những chi nhánh còn thiếu. Bên cạnh đó, cần hoàn thiện tổ chức thẩm định trong toàn hệ thống sao cho phối hợp chặt chẽ với các hoạt động kinh doanh khác của Ngân hàng, phối hợp các phòng Dự án, phòng Thẩm định và các phòng khác, phòng Khách hàng của Ngân hàng Ngoại thương được thành lập từ năm 1994 có trách nhiệm theo dõi công tác khách hàng của toàn hệ thống, tình hình cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại trên lãnh thổ Việt Nam, theo dõi các khách hàng chọn lọc là các Tổng công ty 90, 91 và phần quảng cáo. Nguồn thông tin mà phòng Khách hàng thu nhận được là rất lớn và tổng hợp. Tuy nhiên, phòng Khách hàng chủ yếu là báo cáo trực tiếp lên lãnh đạo mà hầu như chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa phòng Khách hàng với phòng Dự án, phòng Thẩm định trong việc trao đổi thông tin về hoạt động nghiệp vụ, về khách hàng. Ngân hàng nên thiết lập một cơ chế liên hệ giữa các phòng này để sử dụng kết quả mà phòng Khách hàng có được. Cần có sự kết hợp giưa Ngân hàng Trung ương và các chi nhánh. Ngân hàng Ngoại thương Trung ương sẽ là nơi chỉ đạo toàn bộ hoạt động về nghiệp vụ thẩm định, ra các văn bản pháp lý trong hệ thống ngân hàng và trực tiếp tham mưu cho lãnh đạo trong việc phát triển nghiệp vụ ngân hàng cũng như nghiệp vụ thẩm định nói chung. ở các chinh nhánh thì nên thành lập tổ thẩm định trực thuộc phòng tín dụng hoặc tách thành một phòng, ban riêng. Bên cạnh đó, Ngân hàng cần hình thành một mối quan hệ về thẩm định với Ngân hàng Nhà nước, Tổng cục đầu tư, bộ phận thẩm định ở các ngân hàng thương mại quốc doanh lớn như Ngân hàng Đầu tư và Phát triển, Ngân hàng Công thương, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để trao đổi học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau trong hoạt động thẩm định dự án. Ngân hàng nên phát động phong trào nghiên cứu khoa học, qua đó tập hợp các đề xuất, ý kiến, đề án nghiên cứu có giá trị để phổ cập và áp dụng trong toàn hệ thống. Hàng năm, trên cơ sở kết hoạch chung, Ngân hàng cần xây dựng một chương trình, kế hoạch, nhiệm vụ cho công tác thẩm định và có tổ chức tổng kết, đánh giá để rút kinh nghiệm. 5. Giải pháp về trang thiết bị Công nghệ ngân hàng đóng một vai trò quan trọng trong hoạt động của ngân hàng và hiện nay công nghệ ngân hàng trên thế giới đã phát triển đến một trình độ cao phục vụ đắc lực cho hoạt động, dịch vụ của ngân hàng. Để Ngân hàng có thể cạnh tranh được trong điều kiện nền kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt cũng như đáp ứng được xu hướng hội nhập nền kinh tế khu vực thì Ngân hàng Ngoại thương cần phải phát triển hệ thống trang thiết bị, công nghệ phục vụ cho toàn bộ hoạt động của ngân hàng cũng như công tác thẩm định dự án đầu tư. Đối với ngân hàng hiện nay thì để nâng cao chất lượng thẩm định và hỗ trợ cho các nghiệp vụ khác trong hoạt động của ngân hàng thì là phải có công nghệ thẩm định hiện đại, áp dụng những kỹ thuật phân tích, tính toán hiện đại để có thể truy cập, xử lý được khối lượng thông tin khổng lồ, ứng dụng các phương pháp thẩm định dự án đầu tư hiện đại để giải quyết các dự án phức tạp. Mỗi cán bộ thẩm định kể cả ở chi nhánh phải được trang bị ít nhất một máy tính cá nhân, một trang thiết bị truyền thông hiện đại để phục vụ tốt hơn cho công việc của mình. Thẩm đinh là công việc đòi hỏi nhiều thông tin tổng hợp và tư duy trong công việc, do vậy cần nghiên cứu lắp đặt một hệ thống nối mạng nội bộ giữa bộ phận thẩm định và các bộ phận khác để có thể truyền tin, báo cáo hay khai thác thông tin. Một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư Thẩm định dự án đầu tư có một phạm vi xem xét rất rộng, liên quan đến nhiều đối tượng khác nhau. Để đảm bảo nâng cao chất lượng công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư tại các ngân hàng, cần có sự phối hợp đồng bộ của các ngành, các cấp. Chỉ trên cơ sở có một kế hoạch tổng thể, toàn diện thì những giải pháp đề ra mới có tính khả thi, đáp ứng được yêu cầu của hoạt động cho vay. Xuất phát từ yêu cầu phát triển của hệ thống ngân hàng nói chung, của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam nói riêng, tôi xin đề xuất một số ý kiến sau: 1. Về phía Nhà nước và các Bộ, ngành Đề nghị Ngân hàng Nhà nước phối hợp với các Bộ tài chính, Bộ KH & ĐT, Bộ xây dựng, Tổng cục thống kê. . . xây dựng đề án xác định hệ thống chỉ tiêu thẩm định mang tính chuẩn mực cùng các ngưỡng đánh giá cho từng ngành công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng cơ bản. . .làm cơ sở để so sánh, đánh giá dự án. Đề nghị các bộ, ngành cần phối hợp chặt chẽ trong việc thẩm định và phê duyệt các dự án đầu tư, nâng cao trình độ, chất lượng thẩm định dự án nhất là về các mặt kỹ thuật, công nghệ, thị trường, kinh tế xã hội, đánh giá tác động môi trường để làm căn cứ cho ngân hàng thẩm định tài chính. Các bộ chủ quản cần hệ thống hoá thông tin liên quan đến lĩnh vực mà ngành mình đảm nhiệm. Hàng năm những thông tin này sẽ được công bố, công khai qua các tài liệu chuyên ngành hoặc tập hợp lại ở các trung tâm thông tin của ngành để giúp chủ đầu tư cũng như ngân hàng thương mại thuận lợi hơn trong việc thu thập thông tin phục vụ cho việc thẩm định dự án. Nhà nước cần quy định rõ hơn nữa trách nhiệm của chủ đầu tư và người có thẩm quyền quyết định đầu tư, trách nhiệm của các bên đối với các kết quả thẩm định trong nội dung dự án đầu tư. Đã là chủ đầu tư thì thoát ly khỏi chức năng quản lý Nhà nước để tập trung vào công tác quản lý xây dựng, tổ chức hạch toán, sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư. Nhà nước chỉ đạo các doanh nghiệp nghiêm túc thực hiện chế độ kế toán, thống kê và thông tin báo cáo theo đúng quy định. Ngoài ra Chính phủ ban hành theo đúng quy chế bắt buộc và công khai kiểm toán của các doanh nghiệp, tạo điều kiện giúp ngân hàng trong việc phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp, tài chính dự án. 2. Đối với Ngân hàng Nhà nước: Ngân hàng Nhà nước cần hệ thống hoá những kiến thức cơ bản về định dự án, hỗ trợ cho các ngân hàng thương mại và nâng cao nghiệp vụ thẩm định, phát triển đội ngũ nhân viên. Ngân hàng Nhà nước mở rộng phạm vi, nội dung và tăng tính cập nhật của trung tâm phòng ngừa rủi ro tín dụng. Hàng năm, Ngân hàng Nhà nước cần tổ chức các hội nghị kinh nghiệm toàn ngành để tăng cường sự hiểu biết và hợp tác giữa các ngân hàng thương mại trong công tác thẩm định. Đề nghị bộ phận thẩm định các ngân hàng thương mại quốc doanh như Ngân hàng đầu tư và phát triển, Ngân hàng Công thương, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn phối hợp với bộ phận thẩm định của ngân hàng thương mại trao đổi kinh nghiệm và thông tin. Đặc biệt xu hướng hiện nay là các ngân hàng cho vay đồng tài trợ những dự án quy mộ lớn, việc hợp tác sẽ tận dụng được thế mạnh của mỗi ngân hàng trong việc thẩm định. 3. Đối với chủ đầu tư: Đề nghị các chủ đầu tư nâng cao năng lực lập và thẩm định các dự án đầu tư, chấp hành nghiêm chỉnh việc xây dựng và lập dự án theo đúng nội dung quy định trong thông tư số 09/BKH/VPTĐ của Bộ kKH & ĐT về xây dựng và thẩm định dự án. Các chủ đầu tư cần phải nhận thức đúng vai trò, vị trí của công tác thẩm định dự án trước khí quyết định đầu tư để có những dự án thực sự có hiệu quả. Các doanh nghiệp cần tiến hành nghiên cứu kỹ lưỡng, chi tiết trên các khía cạnh thị trường, kỹ thuật, tài chính của dự án đầu tư và đảm bảo thực hiện đầu tư theo đúng nội dung luận chứng kinh tế kỹ thuật được phê duyệt. Các dự án phải được xác định đầu tư đúng tổng số vốn theo thời điểm xây dựng, khắc phục tình trạng làm với khối lượng nhiều nhưng tính toán ít để dễ được phê duyệt, khiến trong quá trình xây dựng xảy thiếu vốn phải bổ sung, ảnh hưởng đến kế hoạch đầu tư và tiến độ xây dựng Kết luận Trong thời gian qua thực tập tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam tôi thấy rằng hoạt động của ngân hàng nói chung và hoạt động của NHNTVN nói riêng là rất cần thiết và quan trọng đối với nền kinh tế của nước ta. Với hoạt động đi vay để cho vay các ngân hàng đã huy động được nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư, các tổ chức, đơn vị hoạt động kinh doanh để cho các đơn vị, tổ chức cần vốn vay để tiến hành các hoạt động của mình. Tuy nhiên, hoạt động trong ngành ngân hàng là có rất nhiều rủi ro tiềm ẩn vậy cần có những biện pháp tốt hơn để giải quyết những rủi ro đó. Một trong các biện pháp đó là công tác thẩm định dự án đầu tư đã được trình bày trong bài viết. Thông qua bài viết của mình tôi thiết nghĩ rằng Nhà nước, các ngân hàng cần có những sách lược tốt hơn để giải quyết những vấn đề khó khăn trong hoạt động kinh doanh và đặc biệt nâng cao hơn nữa hiệu quả của công tác thẩm định để có thể đảm bảo hạn chế đến mức thấp các rủi ro có thể xảy ra. Chuyên đề này được trình bày hoạt động của Ngân hàng Ngoại thương với các nội dung chủ yếu sau: Thứ nhất, là tình hình hoạt động của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam trong những năm qua. Thứ hai, thực tiễn của công tác thẩm định của NHNTVN. Thứ ba, những vấn đề tồn tại cần giải quyết trong công tác hoạt động kinh doanh, đặc biệt là công tác thẩm định dự án đầu tư. Cuối cùng là một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả của công tác thẩm định dự án đầu tư. Kết thúc bài viết tôi xin một lần nữa gửi lời cảm ơn đến thầy giáo Vũ Cương, các cán bộ phòng Dự án, phòng Thẩm định và đầu tư chứng khoán- Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã giúp đỡ tôi hoàn thành đề tài này. Tài liệu tham khảo Giáo trình chương trình dự án- Trường đại học kinh tế quốc dân Hà Nội. Giáo trình Kinh tế phát triển- Trường đại học kinh tế quốc dân Hà Nội. Giáo trình Tài chính doanh nghiệp- Trường đại học kinh tế quốc dân Hà Nội. Nghiệp vụ ngân hàng thương mại. Báo cáo hoạt động kinh doanh năm 2001 và phương hướng nhiệm vụ năm 2005 Báo cáo tổng kết hoạt động Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam năm 1998, 1999, 2000, 2001. Bản hướng dẫ lập Báo cáo thẩm định dự án đầu tư trung và dài hạn. Hồ sơ thẩm định tại Phòng Thẩm định và đầu tư chứng khoán- Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0309.doc
Tài liệu liên quan