Nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp công nghiệp chế biến thuỷ hải sản

Lời nói đầu Nền kinh tế Việt Nam qua 15 đổi mới, mở cửa đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Tuy nhiên, thách thức phải đối đầu với cạnh tranh, hội nhập quốc tế và khu vực ngày càng gay gắt. Việt Nam đã trở thành thành viên của ASEAN, APEC và không bao lâu nữa ra nhập AFTA (2006), WTO. Thực hiện lộ trình cắt giảm thuế 4230 nhóm mặt hàng. Xu thế hội nhập, mở cửa đã thành tất yếu. Tuy nhiên, theo ý kiến của nhiều chuyên gia, các doanh nghiệp Việt Nam đến nay phần lớn vẫn chưa chuẩn bị sẵn s

doc36 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1247 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp công nghiệp chế biến thuỷ hải sản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
àng cho hội nhập, vẫn quen với “vòng tay bảo hộ ” của nhà nước Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam đã là thách thức lớn nhất đối với quá trình hội nhập. Vấn đề đặt ra là phải làm gì và làm như thế nào để có thể phát huy được lợi thế cạnh tranh của từng doanh nghiệp và của cả đất nước, tận dụng có hiệu quả cơ hội, giảm thiểu những thách thức do hội nhập mang lại Mỗi doanh nghiệp, ngành đều có những đặc điểm thuận lợi cũng như những khó khăn riêng vấn đề là phải xác định được đặc điểm, yêu cầu và căn cứ cụ thể để xây dựng chiến lược kinh doanh cho từng doanh nghiệp, ngành. ở đây em không có tham vọng đi sâu vào nghiên cứu tất cả hoặc phần lớn các doanh nghiệp công nghiệp thuộc các ngành của nền kinh tế quốc dân mà chỉ đi và nghiên cứu các doanh nghiệp công nghiệp chế biến thuỷ hải sản với đề tài : "Nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp công nghiệp chế biến thuỷ hải sản “. Đề án bao gồm các nội dung sau: Mở đầu ýnghĩa thực tiễn của đề tài Mục đích của đề tài Đối tượng, phạm vi Giới thiệu nội dung I. Cơ sở lí luận 1.Cạnh tranh, hiệu quả kinh tế và sự can thiệp của nhà nước 2.Khả năng cạnh tranh và các yếu tố tác động tới khả cạnh tranh của doanh nghiệp 3. Những nội dung và yêu cầu chủ yếu của hoạt động trong doanh nghiệp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh II. Thực trạng và những giải pháp 1.Đặc điểm của ngành công nghiệp chế biến thuỷ sản 2.Thực trạng khả năng cạnh tranh và hoạt động nâng cao khả năng cạnh tranh 3.Những tồn tại và giải pháp mà các doanh nghiệp chế biến thuỷ sản đã và đang nghiên cứu Kết luận 1.Nội dung của đề án nhằm đạt được gì 2.Những thiếu sót mang tính chủ quan và khách quan của đề án Do còn nhiều hạn chế về lí luận cũng như kiến thức thực tiễn và đề án còn mang tính chủ quan của em do đó không thể tránh khỏi thiếu sót. Mong được thầy cô và các bạn giúp đỡ để đề án này của em được hoàn thành một cách tốt hơn. Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo hướng dẫn : ths-TRƯƠNG Đức lực Người viết ĐặNG MINH CảNH I. cơ sở lí luận về cạnh tranh và nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường 1. Cạnh tranh , hiệu quả kinh tế và sự can thiệp của nhà nứơc 1.1. Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường : 1.1.1 Khái niệm về cạnh tranh : Khái niệm về cạnh tranh được nhiều tác giả đề cập dưới nhiều khác nhau trong các giai đoạn phát triển khác nhau của nền kinh tế xã hội. Dưới thời kỳ chủ nghĩa tư bản phát triển vượt bậc Mác đã quan niệm rằng : “Cạnh tranh tư bản chủ nghĩa là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất va tiêu thụ hàng hoá để thu được lợi nhuận siêu ngạch”. Chủ nghĩa tư bản phát triển đến đỉnh điểm chuyển sang chư nghĩa đế quốc rồi suy vong và cho đến ngày nay nền kinh tế thế giới đã dần đi vào quĩ đạo của sự ổn định với xu hướng chủ đạo là hội nhập, hoà đồng giữa các nền kinh tế, cơ chế hoạt động là cơ chế thị trường có sự quản lí điều tiết của nhà nước thì khái niệm cạnh trạnh đã mất hẳn tính giai cấp và tính chính trị nhưng về bản chất thì không thay đổi : cạnh tranh vẫn là sự đấu tranh gay gắt, sự ganh đua giữa các tổ chức, các doanh nghiệp, nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi cho sản xuất và kinh doanh để đạt được những mục tiêu của tổ chức, doanh nghiệp đó. Nghiên cứu sâu về nền sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa và cạnh tranh tư bản chủ nghĩa, Mác đã phát hiện ra qui luật cạnh tranh cơ bản : qui luật điều chỉnh tỉ suất lợi nhuận bình quân giữa các ngành; nếu ngành nào, lĩnh vực nào có tỉ suất lợi nhuận cao sẽ có nhiều người để ý và tham gia. Ngược lại những ngành, lĩnh vực nào mà tỉ suất lợi nhuận thấp thì sẽ có sự thu hẹp về qui mô ngành hoặc là sự rút lui của các nhà đầu tư. Tuy nhiên sự tham gia hay rút lui của các nhà đầu tư không dễ dàng một sớm một chiều là có thể thực hiện được mà là cả một chiến lược lâu dài, đòi hỏi phải có sự tính toán kỹ lưỡng. Trong nền kinh tế thị trường ngày nay cạnh tranh là một điều kiện và yếu tố kích thích kinh doanh; là môi trường và động lực thúc đẩy sản xuất phát triển, tăng năng suất lao động, tạo sự phát triển của xã hội nói chung. Cạnh tranh là quy luật khách quan của nền sản xuất hàng hoá, là nội dung cơ chế vận động của thị trường. Sản xuất hàng hoá càng phát triển, hàng hoá bán ra càng nhiều, số lượng người cung ứng càng đông thì cạnh tranh càng gay gắt. Kết quả cạnh tranh sẽ tự loại bỏ được những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả và giữ lại những doanh nghiệp làm ăn tốt. Đó là sự sàng lọc, là qui luật của sự phát triển, là tiền đề cho sự thành công của mỗi quốc gia trên con đường phát triển. 1.1.2 Vai trò của cạnh tranh: Trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh, cạnh tranh diễn ra liên tục và được ví như cuộc đua “maratông” về kinh tế không có đích cuối cùng. Ai cảm nhận được đích sẽ trở thành nhịp cầu cho các đối thủ cạnh tranh vươn lên phía trước. Trong cuộc đua này người chạy trước sẽ là đích để người chạy sau vươn tới do đó khó có thể đoán trước điều gì sẽ xảy ra ở những chặng khác nhau. Mỗi doanh nghiệp không thể né tránh được cạnh tranh, vì như vậy là cầm chắc sự phá sản, phải chấp nhận cạnh tranh, đón trước cạnh tranh và sẵn sàng linh hoạt sử dụng các công cụ cạnh tranh hữu hiệu của mình. Điều này dễ nhận thấy nhất ở vai trò của cạnh tranh : Thứ nhất, cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải : Tối ưu hoá các yếu tố đầu vào của sản xuất kinh doanh. Không ngừng áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất kinh doanh Nhanh chóng tiếp cận với cơ hội kinh doanh mới Không ngừng phục vụ tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng cuối cùng Thứ hai, cạnh tranh là cái nôi nuôi dưỡng và đào tạo các nhà kinh doanh giỏi, chân chính Thứ ba, cạnh tranh làm cho giá cả hàng hoá và dịch vụ giảm nhưng chất lượng lại không ngừng được nâng cao kích thích sức mua, làm tăng tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. 1.1.3 Các loại cạnh tranh: * Căn cứ vào chủ thể tham gia thị trường, có ba loại cạnh tranh: - Cạnh tranh giữa những người bán và người mua : là cuộc cạnh tranh diễn ra theo luật “mua rẻ, bán đắt”. Những người bán muốn bán sản phẩm của mình với giá cao nhất, ngược lại, những người mua lại có tham vọng mua được hàng hoá với giá rẻ. Hai lực lượng này hình thành nên hai phía cung cầu trên thị trường. Giá cả cuối cùng (giá cả cân bằng) là giá thống nhất giữa người mua và người bán sau một quá trình mặc cả, mà theo đó hoạt động mua bán được thực hiện. Cạnh tranh giữa những người mua với nhau : là cuộc cạnh tranh dựa trên sự tranh đua trên cơ sở của luật cung cầu. Khi lượng cung một loại hàng hoá, dịch vụ nào đó mà quá thấp so với nhu cầu tiêu dùng thì cuộc cạnh tranh giữa những người mua sẽ trở nên quyết liệt. Lúc đó giá cả hàng hoá, dịch vụ sẽ tăng vọt, nhưng do hàng hoá khan hiếm nên người mua vẫn sẵn sàng chấp nhận giá cao để mua được thứ mà mình cần. Kết quả là người bán thu được lợi nhuận cao, còn người mua lại phải mất thêm một số tiền. Đây là cuộc cạnh tranh mà theo đó những người mua sẽ bị thiệt còn người bán thì được lợi. Cạnh tranh giữa những người bán với nhau : Đây là cuộc cạnh tranh chính trên thị trường, mang tính gay go khốc liệt nhất và có ý nghĩa sống còn đối với doanh nghiệp. Có các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau, thủ tiêu nhau để giành khách hàng và thị trường, làm cho giá cả hàng hoá không ngừng giảm xuống và người mua sẽ được lợi. Kết quả đánh giá doanh nghiệp nào chiến thắng trong cuộc cạnh tranh này là việc tăng doanh số tiêu thụ, tăng tỉ lệ thị phần cùng với nó là tăng lợi nhuận, đầu tư chiều sâu mở rộng sản xuất. * Căn cứ vào mức độ, tính chất cạnh tranh trên thị trường, có : Cạnh tranh hoàn hảo là hình thức cạnh tranh mà trên thị trường có rất nhiều người bán và không có người nào có ưu thế để cung ứng một số lượng hàng hoá, dịch vụ đủ quan trọng để ánh hưởng tới giá cả trên thị trường. Điều đó có ý nghĩa là họ sản xuất và bán sản phẩm hàng hoá của mình tại mức giá hiện hành trên thị trường. Vì vậy, một hãng cạnh tranh trên thị trường cạnh tranh hoàn hảo không có lí do gì để bán với mức giá rẻ hơn mức giá trên thị trường , hơn nữa nó cũng không thể tăng giá của mình lên cao hơn mức giá thị trường vì nếu thế doanh nghiệp sẽ chẳng bán được gì vá người tiêu dùng sẽ đi mua hàng hoá với mức giá rẻ hơn từ phía các đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp chỉ còn cách thích ứng với giá trên thị trường và tìm mọi biện pháp giảm chi phí, sản xuất ra một số lượng sản phẩm ở mức giới hạn mà ở đó chi phí bằng doanh thu cận biên để tối đa hoá lợi nhuận của mình. Đối với thị trường cạnh tranh hoàn hảo sẽ không có những hiện tượng cung cầu giả tạo, không bị hạn chế bởi các biện pháp hành chính của doanh nghiệp. Vì vậy trong thị trường này, giá thị trường sẽ dần tới chi phí sản xuất. - Cạnh tranh không hoàn hảo: nếu cạnh tranh hoàn hảo là cạnh tranh trên thị trường mà các sản phẩm trên từng loại thị trường được xem là đồng nhất với nhau thì cạnh tranh không hoàn hảo là cạnh tranh trên thị trường mà phần lớn các sản phẩm là không đồng nhất với nhau. Mỗi loại sản phẩm có thể có nhiều loại nhãn hiệu khác nhau mạc dù sự khác biệt giữa các sản phẩm là không đáng kể; mỗi loại nhãn hiệu lại có uy tín, nhãn hiệu khác nhau. Các điều kiện mua bán rất khác nhau. Người bán có thể có uy tín, sự độc đáo khác nhau đối với người mua do nhiều lí do khác nhau. Đối với người mua có nhiều lí do khác nhau như : khách hàng quen, gây được lòng tin từ trước, sản phẩm có tên tuổi lâu đời trên thị trường. Trong thị trường này, người bán lôi kéo khác hàng về phía mình bằng nhiều cách như: quảng cáo, khuyến mại, phương thức thanh toán, phương thức bán hàng. Cạnh tranh độc quyền: là cạnh tranh trên thị trường mà ở đó có một số người bán một số sản phẩm thuần nhất hoặc nhiều người bán một loại sản phẩm không thuần nhất. Họ có thể kiểm soát gần như toàn bộ số lượng sản phẩm hay hàng hoá bán ra trên thị trường; thị trường này có sự pha trộn giữa độc quyền và cạnh tranh nên được gọi là thị trường cạnh tranh độc quyền . ở đây xảy ra cạnh tranh giữa các nhà độc quyền điều kiện ra nhập hoặc rút lui ra khỏi thị trường này có nhiều trở ngại do vốn dầu tư lớn hoặc do độc quyền về bí quyết công nghệ. Thị trường cạnh tranh độc quyền không có cạnh tranh về giá cả mà một số người bán toàn quyền quyết định giá cả. Họ có thể định giá cao hơn hay thấp hơn giá của thị trường tuỳ thuộc vào đặc điểm tác dụng của từng loại sản phẩm, cốt sao cuối cùng họ thu được lợi nhuận tối đa. Những nhà doanh nghiệp nhỏ tham gia thị trường này phải chấp nhận bán hàng theo giá của các nhà độc quyền. Trong thực tế có thể có tình trạng độc quyền xảy ra nếu không có sản phẩm nào thay thế sản phẩm độc quyền hoặc các nhà độc quyền liên kết với nhau. Độc quyền gây trở ngại cho việc phát triển sản xuất và làm phương hại đến người tiêu dùng. Vì vậy mà ở một số nước có luật chống độc quyền nhắm chống lại sự liên minh giữa các nhà kinh doanh. * Căn cứ vào phạm vi ngành, có: - Cạnh tranh trong nội bộ ngành: là sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong cùng ngành, cùng sản xuất ra một loại hàng hoá nhằm mục đích tiêu thụ hàng hoá có lợi hơn để thu được lợi nhuận siêu nghạch. Biện pháp cạnh tranh: các doanh nghiệp thường xuyên cải tiến kỹ thuật giảm chi phí sản xuất, nâng cao năng suất lao động nhằm làm cho giá trị cá biệt của hàng hoá doanh nghiệp sản xuất ra thấp hơn giá trị xã hội để thu được lợi nhuận siêu ngạch. Kết quả kinh doanh nội bộ ngành là hình thành nên giá trị xã hội(giá trị thị trường) của từng loại hàng hoá. Điều kiện sản xuất trung bình trong một ngành thay đổi, kỹ thuật sản xuất phát triển, tỷ suất lợi nhuận giảm xuống. - Cạnh tranh giữa các ngành: là sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp kinh doanh trong các ngành sản xuất khác nhau, nhằm mục đích tìm cơ hội đầu tư có lợi hơn Biện pháp cạnh tranh :tự do di chuyển vốn kinh doanh từ ngành này sang ngành khác, tức là tự phát phân phối vốn kinh doanh vào các ngành sản xuất khác nhau Kết quả của cuộc cạnh tranh này là hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân, và giá trị hàng hoá chuyển thành giá trị sản xuất 1.2 Hiệu quả kinh tế và sự can thiệp của nhà nước: Cạnh tranh là một đặc tính cơ bản nhất của thị trường: sẽ không có kinh tế thị trường nếu không có cạnh tranh. ý tưởng của Adam Smith về vai trò của “bàn tay vô hình” thị trường được thể hiện rõ nét nhất qua mô hình cạnh tranh hoàn hảo, theo đó: - Không có người bán và người mua khống chế được giá cả và do vậy giá cả là một biến số doanh nghiệp phải chấp nhận (ví dụ: Khi thị trường có rất nhiều doanh nghiệp cung ứng cùng một loại sản phẩm); - Sự nhập cuộc hay rút lui khỏi thị trường là tự do; - Người mua và người bán có thể tiếp cận dầy đủ thông tin thích hợp cho các quyết định sản xuất kinh doanh và tiêu dùng của mình. Người ta chứng minh được rằng trong môi trường cạnh tranh hoàn hảo mục tiêu của doanh nghiệp, người tiêu dùng là tối đa hoá lợi nhuận, sự tiện ích của mình, thị trường sẽ phân bổ tối ưu các nguồn lực khan hiếm vốn có theo nghĩa rằng không thể có cách phân bổ khác có lợi hơn cho ai đó trong xã hội mà không làm hại gì đến người nào khác (hiệu quả Pareto). Hơn nữa, nếu mục đích phân phối lại được đặt ra, thì hiệu quả Pareto có thể đạt, duy trì được bằng cách phân phối lại các nguồn của cải cơ bản ban đầu rồi cho phép thị trường tự vận hành mà không có sự can thiệp nào. ẩn ý đằng sau ở đây chính là nguyên lý trao đổi tự nguyện: nếu quan hệ giữa các bên là tự nguyện, thì giao dịch trao đổi sẽ diễn ra khi họ tin rằng họ đều có lợi. Và một hệ quả quan trọng của mô hình cạnh tranh hoàn hảo là có rất ít lý do hợp lý cho sự can thiệp của nhà nước. (Song nếu coi Adam Smith loại bỏ hẳn vai trò của nhà nước là không đúng. Ông thừa nhận một số ngoại lệ cho nhà nước như việc cung cấp hàng hoá công cộng: đướng xá, quốc phòng....Ngăn ngừa tích tụ độc quyền và tạo thể chế cho quyền sở hữu tư nhân, an toàn cá nhân và các hợp đồng giao dịch để thị trường vận hành được “trôi chảy”). Đồng thời, lập luận lý giải cho sự sự can thiệp của nhà nước cũng không kém rõ ràng. Trước hết đó là sự thất bại của thị trường đối với việc đạt hiệu quả Pareto. Bốn nguyên nhân chủ yếu thường được dẫn ra ở đây là : Cấu trúc và hành vi thị trường không đảm bảo cạnh tranh hoàn hảo (chẳng hạn do độc quyền, rào cản nhập cuộc, các hành vi hạn chế cạnh tranh …); Thông tin không thích hợp và đầy đủ (tính bất đối xứng của thông tin cho các bên tham gia thị trường hoặc sự méo mó thông tin làm cho giá cả không ở mức phản ánh đúng các giao dịch tối ưu); Sự cần thiết phải có hàng hoá công cộng (tức là hàng hoá mà khi có người tiêu dùng, người khác vẫn có thể tiêu dùng, và không thể hoặc với phí tổn cực ký cao để có thể loại trừ ai đó không được tiêu dùng), mà thị trường tư nhân không muốn cung cấp; - Tác động ngoại ứng không được phản ánh qua giao dịch thị trường. Nếu thiếu sự điều tiết, các hoạt động thị trường có thể có tác động ngoại ứng tiêu cực sẽ bùng phát quá đáng, còn các hoạt động có tác động ngoại ứng tích cực sẽ bị giảm thiểu ít nhiều. Thứ nữa là sự thất bại của nhà nước về thể chế, chính sách điều tiết và khu vực kinh tế nhà nước vốn làm sai lệch việc phân bố các nguồn lực và làm giảm hiệu quả kinh tế. Kết quả là nhà nước buộc phải “tái can thiệp”, chủ yếu thông qua việc giải điều tiết, minh bạch hoá chính sách và có khi phải thực thi những cải cách kinh tế sâu rộng. Ngoài mục tiêu hiệu quả, các nhà nước còn phải duy trì ổn định kinh tế vĩ mô và thực hiện công bằng xã hội. Tuy nhiên, trong khi việc đảm bảo hiệu quả kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô có mối liên hệ thuận khá rõ, như tăng trưởng xét về dài hạn, thì giữa hiệu quả và công bằng xã hội thường có sự đánh đổi và mâu thuẫn. Vấn đề là do tính phức tạp và sự khác biệt nhất định trong lý giải công bằng xã hội. Quan niệm này phụ thuộc nhiều vào tư tưởng chính thống, các tiêu chí về giá trị, phúc lợi xã hội, văn hóa, đạo đức… và cả cách nhìn nhận của các tầng lớp, nhóm xã hội khác nhau. Lý thuyết kinh tế cũng khẵng định rằng không thể có một cơ chế lựa chọn xã hội hoàn toàn thoả đáng; do vậy vấn đề là so sánh kết cục có thể của các cơ chế có phần không hoàn hảo. Hơn nữa, ngay khi mục tiêu công bằng đã được thừa nhận (như hạn chế chênh lệch giàu – nghèo quá đáng) thì phạm vi, liều lượng của các biện pháp hỗ trợ đưa ra (như thuế thu nhập) vẫn có thể hạn chế, làm méo những kích thích lợi ích – một điểm mấu chốt đảm bảo hiệu quả trong kinh tế thị trường. Và về dài hạn, nếu không co tăng trưởng bền vững, tức không có việc năng cao vững chắc mức thu nhập bình quân tính theo đầu người, thì khó có thể nói đến việc thực hiện công bằng xã hội toàn diện và tốt đẹp. Chính vì vậy, trong khi đánh giá cao ý nghĩa quan trọng của sự công bằng xã hội, các nhà kinh tế học thường quan tâm đến hiệu quả kinh tế. Đây không nên hiểu là phản ứng tự nhiên của các nhà kinh tế trước tính phức hợp của vấn đề công bằng xã hội, mà thực sự có những lý do khá hợp lý cho sự lựa chọn đó. Một là, hiệu quả Pareto chỉ có thể đạt được khi các hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả (chi phí ít nhất, lợi nhuận cao nhất với một mức sản lượng đặt ra). Do đưa đến những ý tưởng mới, công nghệ mới, sản phẩm mới, hình thức tổ chức, dịch vụ và tiếp thị mới nên cạnh tranh đảm bảo tính năng động của doanh nghiệp và cả nền kinh tế. Đây chính là điều kiện cần cho sự tăng trưởng bền vững và từ đó nhà nước có thể thực hiện tốt hơn vai trò đảm bảo công bằng xã hội của mình nhất là xét về dài hạn. Hai là, dẫu công bằng xã hội và tính hiệu quả kinh tế có mâu thuẫn, thường vẫn có cách cải thiện chính sách để nâng cao hiệu quả kinh tế mà ít ra không làm giảm mức độ công bằng xã hội vốn có, nếu không nói là cải thiện được cả hai mục tiêu. Trên thực tế các cải thiện tốt thường được suy tính dựa trên những kích thích thị trường. Lưu ý rằng đây là điều rất quan trọng kể cả khi xây dựng các chính sách liên quan đến kinh tế, giáo dục, các chương trình trợ cấp thất nghiệp, cung cấp nhà ở và phúc lợi xã hội. Ba là, các bài học về sự phát triển trên thế giới cũng cho thấy tham vọng quá cao vào các vấn đề công bằng xã hội bất chấp hiệu quả kinh tế đều phải trả giá đắt không chỉ cho quá khứ mà còn cho cả những khó khăn cải cách sau này. 2. Khả năng cạnh tranh và các yếu tố tác động tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp công nghiệp : 2.1 Quan niệm về khả năng cạnh tranh và nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp công nghiệp : Cho đến nay, đã có nhiều tác giả đưa ra các cách hiểu khác nhau về khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp, một nền công nghiệp cũng như của một quốc gia. Có thể nêu ra đây một số thí dụ : Fafchamps cho rằng khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp là khả năng doanh nghiệp đó có thể sản xuất sản phẩm với chi phí biến đổi trung bình thấp hơn giá của nó trên thị trường. Theo cách hiểu này, doanh nghiệp nào có khả năng sản xuất ra sản phẩm có chất lượng tương tự sản xuất của doanh nghiệp khác nhưng với chi phí thấp hơn thì được coi là có khả năng cạnh tranh cao hơn. - Randall lại cho rằng, khả năng cạnh tranh là khả năng dành được và duy trì thị phần trên thị trường với lợi nhuận nhất định. - Dunning lập luận rằng khả năng cạnh tranh là khă năng cung sản phẩm của chính doanh nghiệp trên các thị trường khác nhau mà không phân biệt nơi bố trí sản xuất của doanh nghiệp đó. - Một quan niệm khác cho rằng khả năng cạnh tranh là trình độ của công nghiệp có thể sản xuất sản phẩm theo đúng yêu cầu của thị trường, đồng thời duy trì được mức thu nhập thực tế của mình. Có thể thấy rằng, các quan niệm nêu trên xuất phát từ các góc độ khác nhau nhưng đều có liên quan đến hai khía cạnh : chiếm lĩnh thị trường và có lợi nhuận. Vì vậy khả năng cạnh tranh có thể hiểu là năng lực nắm giữ thị phần nhất định với mức độ hiệu quả chấp nhận được, do đó khi thị phần tăng lên cho thấy khả năng cạnh tranh được nâng cao. Quan niệm này có thể áp dụng đối với từng doanh nghiệp, một nền công nghiệp cũng như đối với một quốc gia trong cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới hay khu vực. 2.2 Tính tất yếu khách quan của việc nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp : Thực chất của việc nâng cao nâng cao khả năng cạnh tranh là tạo ra ngày càng nhiều hơn các ưu thế về tất cả các mặt: giá cả, giá trị sử dụng của sản phẩm, uy tín, tiêu thụ. Trong cơ chế thị trường, cạnh tranh là một tất yếu khách quan, các doanh nghiệp khi tham gia vào thị trường thì phải chấp nhận cạnh tranh, tuân theo các quy luật cạnh tranh. Các điều kiện cạnh tranh ngày càng khó khăn hơn buộc các doanh nghiệp phải không ngừng phấn đấu giảm chi phí để giảm giá thành, giá bán sản phẩm, hoàn thiện giá trị sử dụng của sản phẩm, tổ chức tốt hệ thống tiêu thụ để tồn tại và phát triển trong cạnh tranh thị trường Trong ngày nay, do tiến bộ của khoa học kỹ thuật nên nhu cầu của con người ngày được nâng cao, để đáp ứng kịp thời các nhu cầu, các doanh nghiệp phải không ngừng đầu tư nghiên cứu thị trường, tìm hiểu các nhu cầu để đi đến đáp ứng một cách tốt nhất các yêu cầu đó. ở nước ta trong thời kì bao cấp do được bao cấp, từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ đều được thực hiện theo chỉ tiêu của nhà nước đề ra do đó khả năng cạnh tranh hầu như không có. Hiện nay khi chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước để doanh nghiệp có thể tồn tại được trước các đối thủ cạnh tranh trong nước cũng như nước ngoài buộc các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp nhà nước nói riêng phải nâng cao khả năng cạnh tranh là điều tất yếu cần thiết cho sự tồn tại của doanh nghiệp vừa tăng tính cạnh tranh thúc đẩy nền kinh tế phát triển. 2.3 Các chỉ tiêu đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Quy mô tiêu thụ là kết quả tổng hợp đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, phần thị trường mà doanh nghiệp chiếm lĩnh được được coi là chỉ tiêu tổng hợp đánh giá chất lượng cạnh tranh của doanh nghiệp. Qua chỉ tiêu này có thể đánh giá được thành tích của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh hoặc so sánh thắng lợi giữa các đối thủ cạnh tranh của nhau. Có một số chỉ tiêu đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp như : a, Thị phần của doanh nghiệp / toàn bộ thị phần Đây là chỉ tiêu thường được dùng để đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Khi xem xét chỉ tiêu này người ta thường xem xét các thị phần sau: Thị phần của doanh nghiệp so với toàn bộ thị trường: Đó là tỉ lệ phần trăm giữa doanh số của công ty so với doanh số của toàn thị trường. Thị phần của doanh nghiệp so với phần khúc mà nó phục vụ : là tỉ lệ phần trăm giữa doanh số của doanh nghiệp với doanh số của toàn phần khúc. Thị phần tương đối: là tỉ lệ so sánh về doanh số của doanh nghiệp với đối thủ cạnh tranh mạnh nhất. Nó cho biết vị thế của doanh nghiệp trong thị trường như thế nào. Thông qua sự biến động của các chỉ tiêu này mà doanh nghiệp biết mình đang ở vị trí nào, và cần vạch ra chiến lược hành động như thế nào. Ưu điểm: Chỉ tiêu này đơn giản, dễ tính. Nhược điểm: Khó đảm bảo tính chính xác do khó thu thập được doanh số chính xác của các doanh nghiệp. b, Tỉ suất lợi nhuận : Chỉ tiêu này được tính = (giá bán – giá thành) / giá bán. Đây là một chỉ tiêu tổng hợp, nó không chỉ phản ánh tiềm năng cạnh tranh của doanh nghiệp mà còn thể hiện tính hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ấy. Nếu chỉ tiêu này thấp chứng tỏ thị trường cạnh tranh rất gay gắt và doanh nghiệp cũng phải chịu sự cạnh tranh gay gắt đó và do vậy một phần nào chứng tỏ nó cùng có khả năng cạnh tranh không kém gì các đối thủ cạnh tranh của mình. Ngược lại, nếu chỉ tiêu này cao thì điều đó có nghĩa là doanh nghiệp đang kinh doanh thuận lợi. c, Tỉ lệ chi phí maketing / tổng doanh thu: Thông qua chỉ tiêu này mà doanh nghiệp thấy được hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Nếu chỉ tiêu này cao chứng tỏ chi phí cho quảng cáo quá cao nhưng không đem lại hiệu quả. Điều này buộc doanh nghiệp phải xem xét lại cơ cấu chi tiêu của mình. Có thể thay vì quảng cáo doanh nghiệp tích cực đầu tư chiều sâu để tăng lợi ích lâu dài. 2.4 Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp : 2.4.1 Các yếu tố về môi trường vĩ mô : a, Các yếu tố về mặt kinh tế : Các yếu tố này bao gồm : Tốc độ tăng trưởng GDP, tỉ lệ lãi suất, tỉ giá hối đoái … Đây là các yếu tố thuộc về môi trường kinh tế vĩ mô của nhà nước, nó có tác động làm tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp như : - Nếu tốc độ tăng trưởng GDP mà cao điều đó có nghĩa là thu nhập của người dân được nâng cao, sức mua tăng lên và doanh nghiệp nào nắm bắt được điều này mà tăng khả năng cung ứng của mình lên (Số lượng, chất lượng, mẫu mã) sẽ có thể thu được một khoản lợi nhuận lớn. - Tỉ lệ lãi suất mà thấp điều này sẽ khuyến khích các doanh nghiệp vay vốn để đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh làm tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp. - Tỉ giá hối đoái : Nếu tỉ giá hối đoái mà cao điều này có nghĩa là giá trị của đồng Việt Nam tăng lên điều này ảnh hưởng rất lớn đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước vì giá cả hàng hoá tăng lên dẫn tới xuất khẩu giảm. Ngược lại, nếu tỉ giá hối đoái mà thấp dẫn tới giá cả hàng hoá trong nước rẻ hơn làm cho xuất khẩu tăng lên sẽ có lợi hơn so với đối thủ cạnh tranh kinh doanh hàng hoá do nước khác sản xuất. b, Các yếu tố về chính trị, luật pháp: Các yếu tố này bao gồm các qui định về chống độc quyền, các luật thuế xuất nhập khẩu… Yếu tố chính trị ổn định, luật pháp rõ ràng có tính chất quyết định đến khả năng tiến hành đầu tư dài hạn cũng như ngắn hạn, bình đẳng cho các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh có hiệu quả. c, Các yếu tố về văn hoá xã hội : Tất cả các quan điểm sống, phong cách sống, tính tích cực tiêu dùng, tỉ lệ tăng dân số, tỉ lệ sinh đẻ… đều là các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu của thị trường và do đó ảnh hưởng đến điều kiện sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Những khu vực khác nhau mà ở đó thị hiếu tiêu dùng và nhu cầu khác nhau đòi hỏi doanh nghiệp phải có chính sách sản phẩm và chính sách tiêu thụ khác nhau. d, Các yếu tố về khoa học công nghệ : Sự phát triển về khoa học công nghệ ngày càng đóng vai trò quan trọng và có ý nghĩa quyết định đến môi trường cạnh tranh, tác động đến hai yếu tố cơ bản tạo nên khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường đó là chất lượng và giá cả, tiến bộ khoa học công nghệ làm giảm chi phí cá biệt của doanh nghiệp qua đó tạo nên khả năng cạnh tranh của sản phẩm nói riêng và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp nói chung. e, Các nhân tố tự nhiên: Các yếu tố tự nhiên như vị trí địa lí, khí hậu, tài nguyên thiên nhiên… Đây là những yếu tố đem lại lợi thế so sánh trước tiên của các doanh nghiệp trong nước, điều kiện vị trí địa lý thuận lợi sẽ giảm được chi phí vận chuyển hàng hoá dịch vụ của doanh nghiệp đồng thời có điều kiện khuếch trương được sản phẩm hàng hoá của mình với nhiều quốc gia khác trên thế giới. Tài nguyên thiên nhiên phong phú tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động cung ứng nguyên vật liệu tốt, đây là điều kiện tiên quyết ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Ngược lại, điều kiện tự nhiên không thuận lợi sẽ tạo khó khăn ban đầu cho doanh nghiệp và khả năng cạnh tranh của nó sẽ bị thuyên giảm. 2.4.2 Nhóm nhân tố thuộc môi trường ngành: a, Các đối thủ tiềm năng : Việc gia nhập thị trường của các doanh nghiệp mới trực tiếp làm giảm tính chất qui mô cạnh tranh do tăng năng lực sản xuất và khối lượng trong ngành. Sự xuất hiện của các đối thủ mới có khả năng gây ra những cú sốc mạnh cho các doanh nghiệp hiện tại vì thông thường những người đi sau thường có nhiều căn cứ cho việc ra quyết định hơn và những chiêu bài của họ thường có tính bất ngờ. Để chống lại các đối thủ tiềm ẩn, các doanh nghiệp thường thực hiện các chiến lược như phân biệt sản phẩm, nâng cao chất lượng, bổ xung các đặc điểm mới cho sản phẩm, không ngừng cải tiến, hoàn thiện sản phẩm nhằm làm cho sản phẩm của mình có những đặc điểm khác biệt hoặc nổi bật trên thị trường, hoặc phấn đấu giảm chi phí sản xuất, tiêu thụ. b, Với sức ép của người cung ứng ; Với vai trò của người cung ứng các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất, quyền lực của nhà cung ứng được khẳng định thông qua sức ép về giá nguyên vật liệu. Nếu trên thị trường có nhiều nhà cung ứng thì doanh nghiệp có thể được lựa chọn nhà cung ứng , điều này tạo ra sự cạnh tranh trên thị trường nguyên vật liệu , nó có tác dụng làm giảm chi phí đầu vào cho các nhà sản xuất. Nếu trên thị trường chỉ có duy nhất một nhà cung ứng sẽ tạo ra độc quyền tronng cung ứng nguyên vật liệu điều này làm giảm khả năng cạnh tranh bằng giá của doanh nghiệp Nếu nhà cung ứng đồng thời là một đơn vị sản xuất kinh doanh trong cùng một tổ chức với nhà sản xuất thì tính liên kết nội bộ được phát huy tạo cho các nhà sản xuất có điều kiện cạnh tranh bằng giá Để giảm bớt ảnh hưởng xấu từ phía nhà cung ứng các doanh nghiệp cần có mối quan hệ tốt với họ, hoặc mua của nhiều người trong đó chọn ra nhà cung cấp chính , đồng thời tích cực nghiên cứu tìm nguyên vật liệu thay thế, dự trữ nguyên vật liệu hợp lí . c. Sức ép của người mua người mua luôn có xu hướng tối đa hoá lợi nhuận của mình với chi phí thấp nhất do đó họ luôn luôn bằng mọi cách ép doanh nghiệp giảm giá hàng hoá xuống, mặc cả để có chất lượng tốt hơn và được phục vụ nhiều hơn đồng thời còn làm các đối thủ cạnh tranh chống lại nhau Để chống lại những điều này thì việc lựa chọn các nhóm khách hàng của doanh nghiệp phải được xem xét như là một quyết định tối quan trọng d. Sự xuất hiện của sản phẩm thay thế Sự ra đời của sản phẩm thay thế là một tất yếu nhằm thoả mãn nhu cầu ngày càng cao của khách hàng đồng thời sự ra đời của sản phẩm thay thế đã làm giảm khả năng cạnh tranh của sản phẩm bị thay thế, mặc dù dù vấp phải sự chống trả quyết liệt của sản phẩm bị thay thế nhưmg do sản phẩm thay thế được sản xuất ra trên dây truyền sản xuất tiên tiến hơn nhờ áp dụng các thành quả của khoa học kỹ thuật, do đó sản phẩm thay thế sẽ dần dần chiếm lĩnh được thị trường của sản phẩm bị thay thế nếu doanh nghiệp không tiến hành đầu tư nghiên cứu đổi mới khoa học công nghệ để hướng tới sản xuất các sản phẩm mới hay hướng khách hàng tìm kiếm độ thỏa dụng mới. e. Sức ép của đối thủ cạnh tranh hiện tại trong ngành Trong một ngành nào đó mà ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVV197.doc