Nền Kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam lí luận & thực tiễn sau 20 năm đổi mới

Lời nói đầu Một trong những nội dung lớn của sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng là xây dựng nhà nước pháp quyền kiểu mới. Đảng ta đã xác định , chính sách kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên CNXH , có tác dụng to lớn trong việc động viên nhân dân xây dựng kinh tế, phát triển lực lượng sản xuất. Hiện nay, trong các thành phần kinh tế thì kinh tế nhà nước đóng góp vào GDP vẫn luôn chiếm tỉ trọng chủ yếu. Song t

doc20 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1114 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nền Kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam lí luận & thực tiễn sau 20 năm đổi mới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rên thực tế, kinh tế nhà nước chưa thực sự phát huy tối đa hiệu quả trong việc điều tiết nền kinh tế thị trường. Các chính sách cải cách kinh tế gần đây ở Việt Nam đã ảnh hưởng tích cực tới cấu trúc và sự tăng trưởng kinh tế. Các biện pháp kinh tế như kiểm soát lạm phát, giảm dần thiếu hụt ngân sách, thực thi chính sách tiền tệ thắt chặt, ... kết hợp với các biện pháp tự do hoá như giảm bớt sự can thiệp của chính phủ đối với các hoạt động kinh tế đã tạo nên những chuyển biến đáng mừng về tốc độ tăng trưởng và ổn định nền kinh tế vĩ mô. Cùng với các chính sách tiến bộ trên, chính sách của nhà nước Việt Nam đối với nền kinh tế đã tạo nên những chuyển biến đáng kể. Việc chuyển nền kinh tế nước ta vận hành theo kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước là phù hợp với tính tất yếu khách quan của nền kinh tế, phù hợp với xu hướng quốc tế hoá nền kinh tế. Tuy nhiên vì chưa có tiền lệ nào trong lịch sử về quá độ từ nền kinh tế kế hoặch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường nên công cuộc đổi mới đang đòi hỏi phải giải quyết nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn Nghiên cứu kinh nghiệm thành công và thất bại của các nước cùng với việc xây dựng sáng tạo chính sách kinh tế phù hợp với điều kiện, trình độ phát triển, mục tiêu kinh tế xã hội và nền văn hoá đất nước là những việc làm mang tính cần thiết và chiến lược. Triển vọng phát triển kinh tế - xã hội trong những năm tới của Việt Nam có lẽ sẽ phụ thuộc rất nhiều vào việc giải quyết các vấn đề cơ bản mà nội dung của chúng có liên quan đến chính sự tiếp tục quá trình cơ cấu lại nền kinh tế. Vấn đề nổi bật nhất và là mục tiêu số một là xác định vai trò quản lý của nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Quá trình chuyển từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường đòi hỏi Việt Nam phải xây dựng một mô hình kinh tế sử dụng được cả hai yếu tố thị trường và sự can thiệp của nhà nước về hai mặt: tăng trưởng kinh tế và bảo đảm công bằng xã hội. Trên cơ sở nghiên cứu những học thuyết về vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường những năm gần đây cùng với sự hướng dẫn của giáo viên bộ môn, em đã chọn đề tài "Nền Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam lí luận và thực tiễn sau 20 năm đổi mới". Đồng thời đề tài cũng giúp em hiểu và thấy được những chính sách, giải pháp và hướng đi đúng đắn của Đảng và nhà nước trong quá trình đổi mới nền kinh tế Việt Nam. Với những hiểu biết và kinh nghiệm thực tế còn hạn chế, những sai sót mắc phải trong khi thực hiện sẽ là điều không thể tránh khỏi, em rất mong nhận được những lời phê bình và góp ý quý báu của cô giáo. Em xin chân thành cảm ơn. Chuơng I: lý luận chung về kinh tế thị trường và kinh tế thị trường định hướng XHCN ở việt nam. 1.Lý luận chung về kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế mà sản phẩm sản xuất ra để trao đổi,để bán trên thị trường, trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hoá trong đó toàn bộ yếu tố đầu vào và đầu ra của quá trình sản xuất đều thông qua thị trường lấy tiền tệ làm môi giới : các yếu tố của sản xuất như đất đai và tài nguyên, vốn bằng tiền và vốn vật chất, sức lao động, công nghệ và quản lý; các sản phẩm và dịch vụ tạo ra; chất xám đều là đối tượng mua bán, là hàng hoá Kinh tế thị trường được coi như một hệ thống các quan hệ kinh tế. khi các quan hệ kinh tế giữa các chủ thể đều biểu hiện qua mua bán hàng hoá dịch vụ trên thị trường (người bán cần tiền, người mua cần hàng và họ phải gặp nhau trên thị trường) thì nền kinh tế đó là nền kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường là cách tổ chức nền kinh tế - xã hội, trong đó, các quan hệ kinh tế của các cá nhân, các doanh nghiệp đều biểu hiện qua mua bán hàng hoá, dịch vụ trên thị trường và thái độ cư xử của từng thành viên chủ thể kinh tế là hướng vào việc tìm kiếm lợi ích của chính mình theo sự dẫn dắt của giá cả thị trường. Chúng ta đã biết hai điều kiện ra đời và tồn tại của kinh tế hàng hoá là phân công lao động xã hội và sự tách biệt về mặt sở hữu tư liệu sản xuất.Kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hoá nên nó tồn tại hai điều kiện đó nhưng ở trình độ cao hơn.Đối với nước ta:phân công lao động xã hội trong từng khu vực, địa phương,từng ngành đang ngày càng phát triểnvà phân công ngày càng chi tiết.Sự phát triển phân công lao động xã hội thể hiện tính phong phú đa dạng và chất lượng ngày càng cao của sản phẩm đem ra trao đổi trên thị trường.Trong thời kì quá độ lên CNXH, do lực lương sản xuất phát triển không đồng đều nên tất yếu tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất,tồn tại nhiều thành phần kinh tế,nhiều chủ thể kinh tế độc lập.Nên quan hệ kinh tế giữa họ chỉ được thực hiện bằng quan hệ hàng hoá tiền tệ.Và kinh tế thị trường là một tồn tại khách quan không thể xoá bỏ 2.Kinh tế thị trường định hướng XHCN Chuyển nền kinh tế từ hoạt động theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung - hành chính - quan liêu - bao cấp sang phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN là nội dung, bản chất và đặc điểm khái quát nhất đối với nền kinh tế nước ta hiện tại và tương lai. Đặc biệt, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII thông qua vào năm 1991, cũng đã nêu lên sáu đặc trưng bản chất của xã hội XHCN và những quan điểm phương hướng tổng quát về phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng XHCN ở nước ta. Như vậy kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có những đặc trưng bản chất dưới đây: Thứ nhất đó là nền kinh tế hiện đại gắn với tính chất XHCN. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN mà nước ta xây dựng là nền kinh tế thị trường hiện đại với tính chất xã hội hiện đại (xã hội XHCN). Mặc dù nền kinh tế nước ta đang nằm trong tình trạng lạc hậu và kém phát triển nhưng khi nước ta chuyển sang phát triển kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường, thì thế giới đã chuyển sang giai đoạn kinh tế thị trường hiện đại (do những khiếm khuyết của kinh tế thị trường tự do). Bởi vậy, chúng ta không thể và không nhất thiết phải trải qua giai đoạn kinh tế hàng hoá giản đơn và kinh tế thị trường tự do, mà đi thẳng vào phát triển kinh tế thị trường hiện đại. Đây là nội dung và yêu cầu của sự phát triển rút ngắn. Mặt khác, thế giới vẫn đang nằm trong thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH, cho nên, sự phát triển kinh tế - xã hội nước ta phải theo định hưóng XHCN là cần thiết, khách quan và cũng là nội dung, yêu cầu của sự phát triển rút ngắn. Sự nghiệp "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ và văn minh" vừa là mục tiêu, vừa là nội dung, nhiệm vụ của việc phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. Đảng và Nhà nước khuyến khích mọi người dân trong xã hội làm giàu một cách hợp pháp. Dân có giàu thì nước mới mạnh, nhưng dân giàu phải làm cho nước mạnh bảo đảm độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia. Thứ hai đó là nền kinh tế hỗn hợp nhiều thành phần với vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Nền kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường phải là một nền kinh tế đa thành phần, đa hình thức sở hữu. Thế nhưng, nền kinh tế thị trường mà chúng ta xây dựng là nền kinh tế thị trường hiện đại, cho nên cần có sự tham gia bởi "bàn tay hữu hình" của nhà nước trong việc điều tiết, quản lý nền kinh tế đó. Đồng thời, chính nó sẽ bảo đảm sự định hướng phát triển của nền kinh tế thị trường. Sự quản lý, điều tiết, định hướng phát triển nền kinh tế thị trường của nhà nước là thông qua các công cụ chính sách kinh tế vĩ mô và vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế nhà nước. Kinh tế nhà nước phải nắm giữ vai trò chủ đạo ở một số lĩnh vực then chốt, có ý nghĩa là "đài chỉ huy", là "mạch máu" của nền kinh tế. Cùng với việc nhấn mạnh vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, cần coi trọng vai trò của khu vực kinh tế tư nhân và kinh tế hỗn hợp, đặt chúng trong mối quan hệ gắn bó, hữu cơ, thống nhất, không tách rời, biệt lập. Thứ ba là nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở nước ta là Nhà nước pháp quyền XHCN, là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Thành tố quan trọng mang tính quyết định trong nền kinh tế thị trường hiện đại là nhà nước tham gia vào các quá trình kinh tế. Nhưng khác với nhà nước của nhiều nền kinh tế thị trường trên thế giới. Nhà nước ta là Nhà nước "của dân, do dân và vì dân", Nhà nước của đại đa số nhân dân lao động, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nó có đủ bản lĩnh, khả năng và đang tự đổi mới để bảo đảm giữ vững định hướng XHCN Trong việc phát triển nền kinh tế thị trường hiện đại ở nước ta. Sự khác biệt về bản chất là một nội dung và là một điều kiện, một tiền đề cho sự khác biệt về bản chất của mô hình kinh tế thị trường ở nước ta so với nhiều mô hình kinh tế thị trường khác hiện có trên thế giới. Thứ tư là cơ chế vận hành của nền kinh tế được thực hiện thông qua cơ chế thị trường với sự tham gia quản lý, điều tiết của Nhà nước. Mọi hoạt động sản xuất - kinh doanh trong nền kinh tế được thực hiện thông qua thị trường. Các quy luật của kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường (quy luật giá trị, quy luật cung - cầu, quy luật cạnh tranh - hợp tác...) sẽ chi phối các hoạt động kinh tế. Quy luật giá trị quy định mục đích theo đuổi trong hoạt động kinh tế và lợi nhuận (là giá trị không ngừng tăng lên), quy định sự phân bố các nguồn lực vào các lĩnh vực sản xuất - kinh doanh khác nhau, đồng thời đặt các chủ thể kinh tế trong một cuộc cạnh tranh quyết liệt. Thông qua các công cụ, chính sách kinh tế vĩ mô, cùng với việc sử dụng cáclực lượng kinh tế của mình (kinh tế nhà nước). Nhà nước tác động lên mối quan hệ tổng cung - tổng cầu thực hiện sự điều tiết nền kinh tế thị trường. Như vậy, cơ chế hoạt động của nền kinh tế là thị trường điều tiết nền kinh tế, Nhà nước điều tiết thị trường và mối quan hệ Nhà nước - thị trường - các chủ thể kinh tế là mối quan hệ hữu cơ, thống nhất Thứ năm là mở cửa hội nhập kinh tế thế giới, trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia. Quá trình phát triển của kinh tế thị trường đi liền với xã hội hoá nền sản xuất xã hội. Tiến trình xã hội hoá trên cơ sở phát triển của kinh tế thị trường là không có biên giới quốc gia về phương diện kinh tế. Một trong những đặc trưng quan trọng của kinh tế thị trường hiện đại là việc mở rộng giao lưu kinh tế với nước ngoài. Xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế với những khu vực hoá và toàn cầu hoá đang ngày càng phát triển và trở thành xu thế tất yếu trong thời đại của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện nay. Tất cả các nước trên thế giới, dù muốn hay không muốn, ít nhiều đều bị lôi cuốn, thu hút vào các quan hệ kinh tế quốc tế. Tranh thủ thuận lợi và cơ hội, tránh nguy cơ tụt hậu xa hơn và vượt qua thách thức là yêu cầu nhất thiết phải thực hiện. Để phát triển trong điều kiện của kinh tế thị trường hiện đại, Việt Nam không thể đóng cửa, khép kín nền kinh tế trong trạng thái tự cung, tự cấp, mà phải mở cửa, hội nhập với nền kinh tế thế giới. Sự mở cửa, hội nhập được thực hiện trên ba nội dung chính là: thương mại; đầu tư và chuyển giao khoa học - công nghệ. Tuy nhiên, sự mở cửa, hội nhập không có nghĩa là sự hoà tan, đánh mất mình, mà phải trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh và không ngừng nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, giữ vững độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia. Thứ sáu là tăng trưởng kinh tế gắn liền với công bằng xã hội. Phát triển trong công bằng và phát triển bền vững là những thuật ngữ phổ biến và là xu thế của thời đại hiện nay. Phát triển trong công bằng được hiểu là những chính sách phát triển phải bảo đảm sự công bằng xã hội, là tạo cho mọi tầng lớp nhân dân đều có cơ hội tham gia vào quá trình phát triển và được hưởng những thành quả tương xứng với sức lực, khả năng và trí tuệ của họ bỏ ra, là giảm khoảng cách chênh lệch giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư và giữa các vùng. Khác với nhiều nước, chúng ta phát triển kinh tế thị trường nhưng chủ trương bảo đảm công bằng xã hội, thực hiện sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội trong tất cả các giai đoạn phát triển kinh tế ở nước ta. Tuy nhiên, cũng cần nhấn mạnh rằng, sự bảo đảm công bằng trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hoàn toàn xa lạ và khác hẳn về chất với chủ nghĩa bình quân, cào bằng thu nhập và "chia đều sự đói nghèo" cho mọi người. Mức độ bảo đảm sự công bẵng xã hội phụ thuộc rất lớn vào sự phát triển, khả năng và sức mạnh kinh tế của quốc gia. Vì vậy, nếu quá nhấn mạnh tới sự công bằng xã hội trong điều kiện nền kinh tế còn kém phát triển, ngân sách còn eo hẹp, thì chắc chắn sẽ làm triệt tiêu động lực phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Thứ bảy là giải quyết mối quan hệ lao động và tư bản thông qua phân phối thu nhập trong kinh tế thị trường định hướng XHCN. Việc giải quyết mối quan hệ trên được thực hiện theo kết quả lao động là chủ yếu, kết hợp với một phần theo vốn và tài sản. Đây là điểm khác biệt giữa nền kinh tế thị trường trong CNTB với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. Trong mối quan hệ giữa lao động và tư bản (vốn), giữa lao động sống và lao động quá khứ (lao động đã được vật hoá), CNTB coi trọng nhân tố tư bản, nhân tố lao động quá khứ được tích luỹ. Bởi vậy, trong phân phối thu nhập, phân phối thành quả lao động, CNTB nhấn mạnh đến nhân tố tư bản (vốn) hơn là nhân tố lao động (lao động sống), nhấn mạnh đến yếu tố tích luỹ - đầu tư hơn là yếu tố tiền lương - thu nhập của người lao động. Ngược lại CNXH đặt con người ở vị trí trung tâm của sự phát triển. Cho nên, trong phân phối thu nhập và thành quả lao động của xã hội, CNXH nhấn mạnh đến nhân tố lao động (lao động sống) và yếu tố tiền lương - thu nhập của người lao động. Tuy nhiên, trong khi nhấn mạnh đến yếu tố lao động, đến nâng cao thu nhập và tiêu dùng của người lao động, chúng ta không thể không coi trọng đến vai trò của yếu tố vốn, đến tăng cường tích luỹ và đầu tư (cả nhà nước và tư nhân) và đến mối quan hệ biện chứng giữa tư bản ( vốn) và lao động. Vì vậy, thu nhập theo vốn và tài sản kinh doanh giờ đây đã trở thành điều bình thường. Chỉ có trên cơ sở đó mới gia tăng số người giàu có trong xã hội. Tăng số người có thu nhập cao đồng thời giảm số người có thu nhập thấp trong xã hội và thu hẹp dần khoảng cách chênh lệch giàu - nghèo vừa là mục tiêu, vừa là nội dung quan trọng của chính sách thu nhập và chính sách điều tiết thu nhập của Nhà nước trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. Tóm lại, quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta phải là "quá trình thực hiện dân giàu, nước mạnh, tiến lên hiện đại trong một xã hội nhân dân làm chủ, nhân ái, có văn hoá, có kỷ cương, xoá bỏ áp bức, bất công, tạo điều kiện cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc". 3. Sự cần thiết khách quan phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam. Đại hội VII của Đảng đã xác định, đổi mới cơ chế kinh tế ở nước ta là một tất yếu khách quan. Đổi mới để nâng cao chất lượng cuộc sống, để phát triển kinh tế phù hợp với xu hướng phát triển chung của kinh tế thế giới. Vì với cơ chế kinh tế cũ, với việc bao cấp tràn lan, quản lý kinh tế kém hiệu quả thì việc sản xuất không đủ sản phẩm để tiêu dùng dẫn đến không thể tích luỹ để mở rộng sản xuất dẫn đến thiếu hụt ngân sách, làm cho nền kinh tế đình trệ. Đặc trưng của kinh tế chỉ huy là rất cứng nhắc nó chỉ có tác dụng thúc đẩy phát triển kinh tế trong giai đoạn ngắn hạn và chỉ có tác dụng phát triển nền kinh tế theo chiều rộng. Nền kinh tế chỉ huy ở nước ta tồn tại quá dài nên nó không những không còn tác dụng đáng kể trong việc thúc đẩy sản xuất phát triển mà nó còn sinh ra nhiều hiện tượng tiêu cực làm giảm năng suất chất lượng và hiệu quả sản xuất. Bên cạnh đó, thị trường ở nước ta phát triển chưa đồng bộ, còn thiếu hẳn thị trường các yếu tố sản xuất như thị trường lao động thị trường vốn và thị trường đất đai và về cơ bản vẫn là thị trường tự do, mức độ can thiệp của nhà nước còn rất thấp. Xét về mối quan hệ kinh tế đối ngoại, nền kinh tế nước ta đang hoà nhập so với nền kinh tế thị trường thế giới, giao lưu về hàng hoá dịch vụ và đầu tư trực tiếp của nước ngoài làm cho sự vận động của nền kinh tế gần gũi hơn với thị trường kinh tế thị trường thế giới. Tương quan giá cả của các loại hàng hoá trong nước gần gũi hơn với tương quan giá cả hàng hoá quốc tế.Việc chuyển đổi nền kinh tế theo cơ chế thị trường thúc sản xuất và cạnh tranh hàng hoá không chỉ trong nước mà vượt qua cả ranh rới trong nước cạnh tranh với nước ngoài về các loại sản phẩm như: hàng tiêu dùng, thuỷ sản.... làm tăng kim ngạch xuất khẩu, tích luỹ vốn để mở rộng và tái sản xuất. Điều này phù hợp với xu hướng phát triển kinh tế của thế giới: đó là sự phát triển kinh tế của mỗi nước không thể tách rời sự phát triển và hoà nhập quốc tế. Mỗi quốc gia đều phải tích cực áp dụng các phương pháp khoa học kỹ thuật mới để cạnh tranh với nhau, đó là động lực để thúc đẩy kinh tế. Sự cạnh tranh lành mạnh trong nước, giữa các nước với nhau sẽ nâng cao năng suất lao động, tạo ra nhiều của cải vật chất cho mỗi quốc gia, nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân loại. Đổi mới cơ chế kinh tế không chỉ có ý nghĩa về lĩnh vực kinh tế mà còn có tác dụng về mặt chính trị xã hội. Chuyển sang cơ chế thị trường định hướng XHCN, nước ta đã có điều kiện mở rộng các mối quan hệ kinh tế, chính trị và trong các mối quan hệ có tính chất xã hội như: bảo vệ môi trường, chống chiến tranh hạt nhân, xoá đói giảm nghèo.... trong sự liên hệ giữa các quốc gia. Như vậy: Sự chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước và theo định hướng XHCN là cần thiết và là một tất yếu khách quan. Thực chất của quá trình chuyển nền kinh tế nước ta sang kinh tế thị trường theo định hướng XHCN là quá trình kết hợp giữa chuyển nền kinh tế còn mang nặng tính chất tự cung tự cấp sang nền kinh tế hàng hoá tiến tới nền kinh tế thị trường và quá trình chuyển cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Lịch sử đã chứng minh rằng không thể chuyển nền sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn nếu “ đòn bẩy” là kinh tế hàng hoá. Chính C.Mác đã coi sự phát triển của kinh tế hàng hoá là xuất phát điển và điều kiện quan trọng nhất không thể thiếu được đối sự ra đời và xản xuất của nền sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa. Nội chiến kết thúc, Lênin cũng chủ trương thi hành chính sách kinh tế mới (NEP). Về thực chất, đó sự phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần nhằm khơi dậy sự sống động của nền kinh tế, mở rộng giao lưu hàng hoá giữa thành thị và nông thôn, thực hiện các quan hệ kinh tế bằng hình thức quan hệ hàng hoá tiền tệ, thị trường. Quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở nước ta có đặc điểm khác với Đông Âu và Liên Xô ( cũ ). Những nước này đã có nền kinh tế phát triển. Nền kinh tế đã được cơ khí hoá, không có tính tự nhiên tự cấp tự túc như nền kinh tế nước ta, quá trình hình thành nền kinh tế thị trường ở nước ta trước hết là quá trình trình chuyển nền kinh tế kém phát triển mang tính tự cấp tự túc sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Mặt khác, ở nước ta cũng đã tồn tại mô hình kinh tế chỉ huy với cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Nó gần như đối lập với thi trường, kinh tế thị trường vận động theo cơ chế thị trường. Thị trường đước coi là trung tâm của sản xuất và toàn bộ quá trình tái sản xuất xã hội. Vì vậy quá trình chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường còn là quá trình xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành đồng bộ cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Quá trình chuyển nền kinh tế nước ta sang kinh tế thị trường đồng thời cũng là quá trình quá trình thực hiện nền kinh tế mở, nhằm hoà nhập thị trường trong nước với thị trường thế giới. Kinh tế “đóng” “khép” thường gắn với nền kinh tế phong kiến, gắn với sản xuất nhỏ mang nặng tính cục bộ địa phương chủ nghĩa và với tình trạng “bế quan toả cảng”. Chính sự xuất hiện và phát triển của sản xuất hàng hoá đã phá vỡ các quan hệ truyền thống của kinh tế khép kín. Sự phát triển của tư bản chủ nghĩa đã khẳng định: kinh tế hàng hoá làn cho thị trường dân tộc gắn bó và hoà nhập với thị trường thế giới. Chính giao lưu hàng hoá đã làn cho các quan hệ kinh tế được mở rông ra khỏi phạm vi quốc gia, đã thúc đẩy nền kinh té phát triển nhanh chóng. Kinh tế mở là đặc điểm và là xu thế của thời đại ngày nay mà bất kỳ một quốc gia nào cũng phải coi trọng. Trong quan hệ kinh tế quốc tế, chúng ta đã có nhiều đổi mới quan trọng, chúng ta đã chuyển quan hệ kinh tế quốc tế từ đơn phương sang đa phương, quan hệ với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị, theo nguyên tắc đôi bên cùng có lợi không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Trong những năm gần đây, thực hiện quan điểm về kinh tế đối ngoại nói trên hoạt động kinh tế đối ngoại nước ta có những tiến bộ lớn. Xuất khẩu hàng hoá tăng nhanh với nhịp độ trên dưới 20% hàng năm ( 1986-1992 ) đảm bảo nhập khẩu các loại vật tư và công nghệ chủ yếu,cải thiện dần cán cân thanh toán quốc tế. Chúng ta đã nhanh chóng điều chỉnh và khắc phục được những hẫng hụt về thị trường và nguồn vốn từ các nước SNG và Đông Âu. Nguồn vốn nước ngoài đầu tư vào Việt Nam cũng tăng nhanh. Trong những năm tiếp theo, nước ta cần phải biết phát huy lợi thế so sánh: nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, nguồn nhân lực dồi dào với tiền công thấp, vị trí địa lý lãnh thổ thuận lợi. Tiếp tục phát huy và coi trọng các giá trị truyền thống, nhanh chóng thâm nhập vào các thị trường mới, mở rộng thị trường khu vực, cải tiến xuất khẩu theo xu hướng tăng tỷ trọng các mặt hàng chế biến, giảm tỷ trọng xuất khẩu nhiên liệu, tạo ra các sản phẩm chủ lực như dầu mỏ, nông-lâm-thuỷ sản.... Đồng thời nhà nước có chính sách đầu tư hấp dẫn tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài. Chương ii: Thực trạng và giải pháp để xây dựng phát triển kinh tế thị trường ở Việt nam hiên nay. 1.Thực trạng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam Trình độ phát triển kinh tế thị trường ở nước ta còn ở giai đoạn sơ khai.Đó là do các nguyên nhân: - Cơ sơ vật chất-kỹ thuật còn ở trình độ thấp,bên cạnh một số lĩnh vực ,một số cơ sơ kinh tế đã được trang bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại,trong nhiều ngành kinh tế,máy móc cũ kỹ,công nghệ lạc hậu.Theo UNDP, Việt Nam đang ở trình độ công nghệ lạc hậu 2/7 của thế giới,thiết bị máy móc lạc hậu 2-3 thế hệ(có lĩnh vực 4-5 thế hệ).Lao động thủ công vẫn chiếm tỉ trọng lớn trong tổng số lao động xã hội.Do đó,năng suất ,chất lượng,hiệu quả sản xuất của nước ta còn rất thấp so với khu vực và thế giới(năng suất lao động của nước ta chỉ bằng 30% mức trung bình thế giới) - Kết cấu hạ tầng như hệ thống đường giao thông,bến cảng, hệ thống thông tin liên lạc….còn lạc hậu,kém phát triển(mật độ đường giao thông/km bằng 1% với mức trung bình của thế giới;tốc độ truyền thông trung bình cả nước chậm hơn thế giới 30 lần).Hệ thống giao thông kém phát triển làm cho các địa phương, các vùng bị chia cắt, tách biệt nhau, do đó làm cho nhiều tiềm năng của các địa phơng không thể được khai thác, các địa phương không thể chuyên môn hoá sản xuất để phát huy thế mạnh. - Do cơ sở vật chất- kĩ thuật còn ở trình độ thấp làm cho phân công lao động kém phát triển,sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm. Nền kinh tế nước ta chưa thoát khỏi nền kinh tế nông nghiệp sản xuất nhỏ.Nông nghiệp vẫn sử dụng khoảng 70% lực lượng lao động,nhưng chỉ sản xuất khoảng 26% GDP, các ngành kinh tế công nghệ cao chiếm tỉ trọng thấp. - Khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường trong nước , cũng như nước ngoài còn rất yếu. Do cơ sở vật chất - kỹ thuật và công nghệ lạc hậu, nên năng suất lao động thấp, do đó khối lượng hàng hoá còn nghèo nàn, chất lượng hàng hoá thấp, giá cả cao vì thế khả năng cạnh tranh còn yếu. Thị trường dân tộc thống nhất đang trong quá trình hình thành nhưng chưa đồng bộ Do giao thông vận tải kém phát triển nên chưa lôi cuốn được tất cả các vùng trong nước vào một mạng lưới lưu thông hàng hoá thống nhất. Thị trường hàng hoá- dịch vụ đã hình thành nhưng còn hạn hẹp và còn nhiều hiện tượng tiêu cực (hàng giả, hàng nhập lậu, hàng nhái nhãn hiệu vẫn làm rối loạn thị trường). Thị trường hàng hoá sức lao động mới manh nha, một số trung tâm giới thiệu việc làm vá xuất khẩu lao động mới xuất hiện nhưng đã nảy sinh hiện tuợng khủng hoảng. Nét nổi bật của thị trường này là sức cung về lao động lành nghề nhỏ hơn cầu rất nhiều, trong khi đó cung về sức lao động giản đơn lại vượt quá xa cầu, nhiều người có sức lao động lại không tìm được việc làm. Thị trường tiền tệ, thị trường vốn đã có nhiều tiến bộ nhưng vẫn còn nhiều trắc trở,như nhiều doanh nghiệp , nhất là doanh nghiệp tư nhân rất thiếu vốn nhưng không vay được vì vướng mắc thủ tục, trong khi đó nhiều ngân hàng thương mại huy động dược tiền gửi mà không thể cho vayđể ứ đọng trong két dư nợ quá hạn trong nhiều ngân hàng thương mại đã đến mức báo động. Thị trường chứng khoán ra đời nhưng cũng chưa có nhiều ''hàng hoá'' để mua- bán và mới có rất ít doanh nghiệp đủ điều kiện tham gia thị trường này. Nhiều thành phần kinh tế tham gia thị trường Do vậy nền kinh tế ở nước ta có nhiều loại hình sản xuất hàng hoá cùng tồn tại , đan xen nhau, trong đó sản xuất hàng hoá nhỏ phân tán còn phổ biến. Sự hình thành thị trường trong nước gắn với mở rộng kinh tế đối ngoại, hội nhập vào thị trường khu vực và thế giới, trong hoàn cảnh trình dộ phát triển kinh tế- kỹ thuật của nước ta thấp xa so với hầu hết các nước khác. Toàn cầu hàng hoá và khu vực hoá về kinh tế đang đặt ra cho các nước cũng như nước ta nói riêng những thách thức hết sức gay gắt.Nhưng nó là xu thế tất yếu khách quan, nên không đặt vấn đề tham gia hay không tham gia mà chỉ có thể đặt vấn đề: tìm cách xử sự với xu hướng đó như thế nào? Phải chủ động hội nhập, chuẩn bị tốt để chủ động tham gia vào khu vực hoá và toàn cầu hoá, tìm ra ''cái mạnh tương đối'' của nước ta, thực hiện đa phương hóa, đa dạng hoá kinh tế đối ngoại để phát huy nội lực, nhằm thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân, định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội. Quản lý nhà nước về kinh tế- xã hội còn yếu Một số cơ chế, chính sách còn thiếu, chưa nhất quán, chưa sát với cuộc sống, thiếu tính khả thi. 2. Các giải pháp cơ bản để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam Bối cảnh quốc tế hiện nay đang đứng trước những diễn biến mới. Xu thế thương mại hoá toàn cầu cùng với xu thế hoà bình, ổn định, cải cách và chuyển dịch cơ cấu để phát triển... đanglà sự lựa chọn của các quốc gia để tồn tại và phát triển. Để có cơ sở đề ra các chính sách đúng và chỉ đạo có hiệu quả cần tiếp tục cụ thể hoá mô hình phát triển kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm thực hiện mục đích tăng cường cao và bền vững trên một số lĩnh vực sau đây: Một là, quan hệ giữa các định hướng phát triển dựa vào việc xuất khẩu tài nguyên thô hoặc sơ chế, dựa vào các nguồn lực bên trong, tự lực cánh sinh và thay thế nhập khẩu... với yếu tố bên ngoài. Hai là, quan hệ giữa tập trung vào những ngành và vùng trọng điểm đồngthời phát triển các vùng trong cả nước, trong giai đoạn trước mắt cần ưu tiên ngành và vùng trọng điểm nhằm đạt hiệu quả đầu tư cao và thu hồi vốn nhanh. Ba là, quan hệ giữa xây dựng các công trình quy mô lớn, quy mô vừa và nhỏ trong điều kiện tổng số vốn có hạn. Bốn là, quan hệ giữa phát triển công nghệ tiên tiến và công nghệ trung gian, xử lý thoả đáng những vấn đề sở hữu trí tuệ, vai trò của thông tin quản lý và chất xám trong nền kinh tế hiện đại. Năm là, Trong chiến lược phát triển ngành cần tập trung chú ý đến nông nghiệp trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Sáu là, đi đôi với việc xác định chiến lược lâu dài Nhà nước phải xây dựng các chương trình, kế hoạch cho từng thời kỳ. Tăng trưởng kinh tế và điều kiện đảm bảo tăng trưởng cao, bền vững. Hiện nay ở nước ta, GDP bình quân đầu người so với các nước trong khu vực và trên thế giới rất thấp. Yêu cầu chống tụt hậu đang đặt ra cho Việt Nam phải giải quyết vấn đề khó khăn phức tạp này. Phải có một chiến lược tăng trưởng đúng đắn, đảm bảo tăng trưởng cao và ổn định trong một thời gian dài. Vấn đề có ý nghĩa quyết định để có thể tăng trưởng kinh tế cao và ổn định là phải đảm bảo các điều kiênj về giải quyết các mối liên hệ trong quá trình tăng trưởng. Những điều kiện và các mối quan hệ này là: a. Về vốn: Muốn có tốc độ tăng trưởng cao trong điều kiện nước ta đòi hỏi phải có một nguồn vốn lớn. để có vốn đầu tư trong nước cần phải: - Có chính sách tiết kiệm trong cả nước, coi tiết kiệm là quốc sách thực hiện tiết kiệm trong cả sản xuất và tiêu dùng. Khuyến khích tiêu dùng phù hợp với khả năng của nền kinh tế. - Đối với vốn đi vay của nước ngoài để khuyến khích đầu tư vào Việt Nam- cần kết hợp chặn chẽ các hình thức đầu tư trực tiếp và gián tiếp khi xây dựng các dự án để thu hút vốn nớc ngoài. Tăng cường xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội. b. Về công nghệ: - Phải đảm bảo nâng cao hiệu quả kinh tế, nâng cao trình độ kỹ thuật và công ghệ của đất nước. Phải gắn chặt quá trình chuyển giao công nghệ, quá trình phát triển khoa học kỹ thuật với sản xuất kinh doanh. - Thực hiện chuyển giao công nghệ đối với mọi thành phần kinh tế, đảm bảo có được những công nghệ vừa tiên tiến lại phù hợp với yêu cầu trình độ phát triển của các doanh nghiệp trong nền kinh tế quốc dân. - Chuyển giao công nghệ phải gắn với bảo vệ môi trường. c. Về lao động. - Đảm bảo cho mọi người lao động có việc làm. - Tăng cường đầu tư cho giáo dục, đào tạo. - Nâng cao kỷ luật lao động trong công nhân. d. Giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng và lạm phát. e. Giải quyết quan hệ tăng trưởng và phân phối thu nhập. f. Giải quyết quan hệ tăng trưởng và vấn đề môi trường g. Giải quyết quan hệ tăng trưởng và vấn đề dân số. h. Giải quyết quan hệ tăng trưởng và thị trường. Đổi mới cơ chế quản lý và sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước. Để đạt được tốc độ tăng trưởng cao và lâu, bền trong điều kiện kinh tế tư nhân ở nước ta còn rất nhỏ bé, biện pháp quan trọng của Nhà nước là phải đổi mới mạnh mẽ cơ chế quả._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docU0255.doc
Tài liệu liên quan