Nghiên cứu hoạt động của một số Tập đoàn tài chính trên thế giới và kinh nghiệm cho Việt Nam

Tài liệu Nghiên cứu hoạt động của một số Tập đoàn tài chính trên thế giới và kinh nghiệm cho Việt Nam: LỜI MỞ ĐẦU Từ cuối thế kỷ XIX, các Tập đoàn kinh tế (TĐKT) trên thế giới đã được hình thành và ngày càng phát triển mạnh về số lượng, tạo nên những cơ sở vật chất quan trọng cho việc nâng cao tiềm lực kinh tế và ảnh hưởng ngày càng lớn đến sự phát triển kinh tế của nhiều quốc gia và nền kinh tế thế giới. Đặc biệt, xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế, sự phát triển của khoa học công nghệ - thông tin và sự nới lỏng các quy định pháp lý về tài chính - ngân hàng đã thúc đẩy các Tập đoàn tài chính (TĐTC... Ebook Nghiên cứu hoạt động của một số Tập đoàn tài chính trên thế giới và kinh nghiệm cho Việt Nam

doc102 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1414 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nghiên cứu hoạt động của một số Tập đoàn tài chính trên thế giới và kinh nghiệm cho Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
) ra đời. Kể từ khi ra đời, các TĐTC đã đóng góp không nhỏ cho nền kinh tế thế giới, thúc đẩy sự phát triển kinh tế không chỉ quốc gia mẹ mà còn cả các quốc gia mà nó có chi nhánh hoạt động. Giờ đây, TĐTC không còn quá xa lạ với các nước phát triển trên thế giới như Mỹ, Nhật Bản, EU… Xây dựng và phát triển thành các TĐTC là mục tiêu mà các Tổng công ty, các Ngân hàng thương mại Việt Nam đang hướng tới. Làm thế nào để các TĐTC hiện tại và các Tập đoàn tài chính - Ngân hàng (TĐTC - NH) tương lai của Việt Nam có thể phát huy hiệu quả, phục vụ tốt hơn cho nền kinh tế đất nước trong giai đoạn hội nhập kinh tế thế giới? Đó chính là lý do khiến em lựa chọn đề tài “Nghiên cứu hoạt động của một số Tập đoàn tài chính trên thế giới và kinh nghiệm cho Việt Nam” với mong muốn làm sáng tỏ sự phát triển của một số TĐTC trên thế giới và rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam nhằm xây dựng các TĐTC của Việt Nam thành những tập đoàn hùng mạnh, có khả năng cạnh tranh cao trên trường quốc tế. Mục đích nghiên cứu của khoá luận: Nghiên cứu sự ra đời, vai trò và điều kiện hình thành TĐTC; Phân tích các TĐTC trên tất cả các mặt hoạt động; Nghiên cứu thực trạng hình thành và phát triển của các TĐTC Việt Nam đặc biệt trong lĩnh vực bảo hiểm và khả năng hinh thành TĐTC - NH; Đề xuất một số kiến nghị, giải pháp phát triển TĐTC ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, cụ thể là TĐTC Bảo Việt và các Ngân hàng thương mại Việt Nam đang có xu hướng phát triển thành TĐTC – Ngân hàng. Đối tượng nghiên cứu: Các lý thuyết chung về TĐKT và TĐTC; Hoạt động của một số TĐTC tiêu biểu trên thế giới: 2 TĐTC - NH (Citigroup, HSBC Holdings) và 2 TĐTC - Bảo hiểm (Prudential, AIG); Thực trạng hoạt động của TĐTC Việt Nam trong đó có tập đoàn Bảo Việt. Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp mô tả và khái quát đối tượng nghiên cứu; phương pháp phân tích - tổng hợp; Phương pháp so sánh và phương pháp tư duy logic. Kết cấu đề tài gồm 3 chương: Chương I: Cơ sở lý luận về TĐTC Chương II: Khả năng vận dụng kinh nghiệm của một số TĐTC trên thế giới vào xây dựng và phát triển TĐTC Việt Nam Chương III: Một số giải pháp xây dựng và phát triển các TĐTC ở Việt Nam Trong thời gian nghiên cứu, do hạn chế về mặt thời gian và kiến thức, cùng với đó là quá trình hình thành các TĐTC ở Việt Nam vẫn còn trong giai đoạn thử nghiệm, nên đề tài chắc chắn vẫn còn nhiều hạn chế và thiếu sót. Em mong nhận được sự chỉ bảo, góp ý của các thầy cô để đề tài được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn TS. Đỗ Hương Lan đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em hoàn thành khoá luận tốt nghiệp này. CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TẬP ĐOÀN TÀI CHÍNH I. Tập đoàn kinh tế 1. TĐKT và quá trình hình thành TĐKT 1.1 Các quan điểm về TĐKT Khái niệm TĐKT đã xuất hiện từ rất sớm cùng với quá trình tích tụ và tập trung tư bản từ nửa cuối thế kỷ 19 khi nền sản xuất hàng hoá thế giới phát triển mạnh mẽ nhờ sự tác động trực tiếp của cuộc cách mạng công nghiệp ở các nước Tây Âu và Bắc Mỹ. Nhiều công ty, doanh nghiệp trước sức ép cạnh tranh về vốn, năng lực sản xuất, năng suất lao động, thị phần đã bị chèn ép, thôn tính, hoặc tự nguyện tìm cách “chung sống hoà bình” với các công ty doanh nghiệp khác trên cơ sở những liên minh hay tổ hợp để “phân chia” thị trường và khai thác những tiềm năng riêng có của từng công ty, doanh nghiệp trong một vỏ bọc vững chắc hơn bởi một liên minh rộng. Thực tế cho thấy, các TĐKT là một trong những nhân tố thúc đẩy và góp phần phát triển nền kinh tế quốc dân ở nhiều nước. Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về TĐKT nhưng chưa có một định nghĩa nào được xem là chuẩn mực. TĐKT tại các nước khác nhau được gắn với những tên gọi khác nhau. Nhiều nước gọi là “Group” hay “Business Group”, Ấn Độ gọi là “Business houses”. Nhật Bản trước chiến tranh thế giới thứ hai gọi TĐKT là “Zaibatsu”, sau chiến tranh thế giới thứ hai gọi là “Keiretsu”. Hàn Quốc gọi TĐKT là “Chaebol”, còn nước láng giềng Trung Quốc gọi là Tập đoàn doanh nghiệp (Jituan Gongsi). Sự đa dạng về tên gọi hay thuật ngữ sử dụng nói lên tính đa dạng của cách thức liên kết được khái quát chung là TĐKT, do đó, quan niệm cũng như nhìn nhận chung về TĐKT cũng có sự khác nhau nhất định. Tại các nước phương Tây, “Tập đoàn kinh tế” được hiểu như là một tổ hợp các công ty hay chi nhánh góp cổ phần chịu sự kiểm soát của công ty mẹ hoặc “Tập đoàn kinh tế và tài chính” gồm một công ty mẹ và các công ty khác mà công ty mẹ kiểm soát hay tham gia góp vốn, mỗi công ty con cũng có thể kiểm soát các công ty khác hay tham gia các tổ hợp khác www.tapchibcvt.com.vn . Tại Nhật Bản, “Tập đoàn kinh tế” (Keiretsu) là một nhóm doanh nghiệp độc lập về mặt pháp lý nắm giữ cổ phần của nhau và thiết lập được mối quan hệ mật thiết về nguồn vốn, nguồn nhân lực, công nghệ, cung ứng nguyên vật liêu, tiêu thụ sản phẩm hay tập đoàn bao gồm các công ty có sự liên kết không chặt chẽ được tổ chức quanh một ngân hàng để phục vụ lợi ích của các bên www.tapchibcvt.com.vn . Tại Malaysia và Thái Lan, “Tập đoàn kinh tế” được xác định là tổ hợp kinh doanh với các mối quan hệ đầu tư, liên doanh, liên kết và hợp đồng. Nòng cốt của các tập đoàn là cơ cấu công ty mẹ - công ty con tạo thành một hệ thống liên kết chặt chẽ trong tổ chức và trong hoạt động. Các thành viên trong tập đoàn đều có tư cách pháp nhân độc lập và thường hoạt động trên cùng một mặt bằng pháp lý và là đầu mối liên kết giữa các doanh nghiệp thành viên với nhau là công ty mẹ, các doanh nghiệp thành viên tham gia liên kết tập đoàn phải có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của một phâp nhân độc lập. Bản thân tập đoàn không có tư cách pháp nhân. Ở Việt Nam vẫn còn nhiều tranh cãi về “Tập đoàn kinh tế”. Theo điều 149, Luật Doanh nghiệp Việt Nam 2005 thì “TĐKT là nhóm công ty có quy mô lớn. Chính phủ quy định hướng dẫn tiêu chí, tổ chức quản lý và hoạt động của TĐKT”. Và theo điều 146 của luật này cũng chỉ rõ: “Nhóm công ty là tập hợp các công ty có mối quan hệ gắn bó lâu dài với nhau về lợi ích kinh tế, công nghệ, thị trường và các dịch vụ kinh doanh khác. Nhóm công ty bao gồm các hình thức sau đây: Công ty mẹ - công ty con TĐKT Các hình thức khác”. Mặc dù còn có nhiều cách hiểu khác nhau, nhưng “TĐKT” có thể được hiểu: “là tổ hợp các doanh nghiệp hoạt động trong một hay nhiều lĩnh vực khác nhau, ở phạm vi một hay nhiều nước; trong đó có một doanh nghiệp (công ty mẹ) nắm quyền lãnh đạo, chi phối hoạt động của các doanh nghiệp khác (công ty con) về mặt tài chính và chiến lược phát triển. TĐKT là cơ cấu tổ chức vừa có chức năng kinh doanh, vừa có chức năng liên kết kinh tế nhằm tăng cường tích tụ, tập trung, nâng cao khả năng cạnh tranh và tối đa hoá lợi nhuận trong hoạt động sản xuất kinh doanh”. “TĐKT” không phải là một hình thức pháp lý cụ thể (không có tư cách pháp nhân) mà chỉ là tổ hợp các doanh nghiệp có tư cách pháp nhân. 1.2 Các hình thức liên kết TĐKT TĐKT có sự liên kết bằng quan hệ tài sản và quan hệ hợp tác giữa các doanh nghiệp thành viên. Đây là đặc trưng cơ bản, là tiền đề cần thiết để hình thành TĐKT thể hiện xu thế tất yếu trong việc nâng cao trình độ xã hội hoá và phát triển của lực lượng sản xuất. - Về phạm vi liên kết, có những kiểu liên kết sau: + Liên kết ngang: là liên kết các doanh nghiệp trong cùng một ngành nghề kinh doanh. Hình thức này hiện không còn phổ biến do các doanh nghiệp phải đáp ứng nhu cầu của thị trường ngày càng phong phú, đa dạng và biến đổi nhanh chóng. Nếu áp dụng hình thức này thì khó đem lại hiệu quả cao. Các chính phủ thường hạn chế hình thức này vì nó dễ tạo ra xu hướng độc quyền, đi ngược nguyên tắc cơ bản của kinh tế thị trường. + Liên kết dọc: là liên kết các doanh nghiệp trong cùng một dây chuyền công nghệ. Hình thức này hiện vẫn còn phổ biến trên thế giới vì chúng hoạt động có hiệu quả cao và có thể mở rộng hoạt động kinh doanh sang nhiều quốc gia khác. Tuy nhiên để phát triển theo hình thức này cần phải có một công ty có tiềm lực về tài chính, có uy tín để quản lý, kiểm soát và đảm bảo tín dụng cho cả tập đoàn. Không những thế, công ty đó cần có mối liên hệ nhiều mặt và vững chắc với Nhà nước, có thị trường chứng khoán phát triển mạnh mẽ, có hệ thống thông tin toàn cầu đủ khả năng xử lý và tổng hợp những thông tin về thị trường. Vì vậy, các nước đang phát triển chỉ mới có khả năng hình thành các tập đoàn chủ yếu ở lĩnh vực sản xuất và thương mại. + Liên kết hỗn hợp: là liên kết các doanh nghiệp trong nhiều ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh kể cả những ngành, lĩnh vực không có liên quan đến nhau. Hình thức này đang ngày được ưa chuộng trên thế giới và trở thành xu hướng phát triển các tập đoàn hiện nay. Cơ cấu tập đoàn bao gồm một ngân hàng hoặc một công ty tài chính lớn và nhiều doanh nghiệp sản xuất, thương mại, trong đó hoạt động tài chính, ngân hàng xuyên suốt, bao trùm mọi hoạt động kinh doanh của tập đoàn. - Về trình độ liên kết, có những kiểu sau: + Liên kết mềm xuất phát từ châu Âu, đặc biệt là ở Đức vào thế kỷ 19. Đây là hình thức tập đoàn của các doanh nghiệp độc lập, cùng sản xuất, kinh doanh một loại sản phẩm hoặc dịch vụ. Họ hợp tác sản xuất - kinh doanh với nhau thông qua một Hiệp định chung nhằm hạn chế cạnh tranh bằng việc thống nhất về giá cả, dịch vụ, hoặc thoả thuận về lượng sản phẩm tiêu thụ chung, giá nguyên liệu cung ứng. Nguyên nhân thúc đẩy sự liên kết và liên minh giữa các doanh nghiệp là do những thay đổi của nền kinh tế trong nước và trên thế giới, môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, các hoạt động kinh doanh không ngừng mở rộng, đòi hỏi quy mô vốn lớn và trình độ công nghệ cao hơn. Vì vậy, các doanh nghiệp liên kết lại để lợi dụng được ưu thế của quy mô tập đoàn. + Liên kết cứng: Trong tập đoàn loại này, các doanh nghiệp thành viên kết hợp trong tổ chức thống nhất và mất tính độc lập về tài chính, sản xuất và thương mại. Tập đoàn được cấu tạo dưới hình thức đa sở hữu theo kiểu công ty cổ phần với sự góp vốn của nhiều chủ sở hữu khác nhau. Các doanh nghiệp thành viên hoạt động trong cùng một ngành nghề hoặc có liên quan với nhau về chu kỳ công nghệ sản xuất, bổ sung cho nhau trong quá trình sản xuất, kinh doanh liên tục, thống nhất theo chiến lược chung của tập đoàn. Trong đó, công ty mẹ có lợi thế nắm giữ cổ phần chi phối các công ty để giữ quyền lãnh đạo, ra quyết định cho các doanh nghiệp khác. + Liên kết hỗn hợp: là sự liên kết của cả hai loại liên kết trên. Đây là hình thức phát triển cao nhất của TĐKT. Tập đoàn được hình thành trên cơ sở xác lập và kiểm soát thống nhất về tài chính. Các doanh nghiệp thành viên chịu sự chi phối về tài chính của một công ty gọi là công ty mẹ (Holding Company) thông qua quyền sở hữu cổ phiếu. Hoạt động của cả tập đoàn và các công ty con được mở rộng ra rất nhiều lĩnh vực từ tài chính đến hoạt động sản xuất, thương mại, dịch vụ khác nhau và giữa các công ty con trong tập đoàn không nhất thiết phải có mối liên hệ về sản phẩm, công nghệ hay kỹ thuật. Hình thức liên kết này đang trở nên phổ biến. - Về hình thức biểu hiện có các kiểu sau Trung tâm Thông tin và Dự báo Kinh tế - Xã hội Quốc gia thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư : + Cartel là một nhóm các nhà sản xuất độc lập về sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nhưng có chung mục đích là tăng lợi nhuận chung bằng cách thoả thuận thống nhất về giá cả, phân chia thị trường tiêu thụ, nguyên liệu và các hạn chế khác nhằm hạn chế sự cạnh tranh. Đây là hình thức liên kết theo chiều ngang. Cartel thường có mặt tại những thị trường bị chi phối mạnh bởi một số loại hàng hoá nhất định, nơi có ít người bán và thường đòi hỏi những sản phẩm có tính đồng nhất cao. Nhược điểm của hình thức này là dễ bị tan vỡ do sản xuất và tiêu thụ vẫn tiến hành độc lập nên một số thành viên có thể phá bỏ hợp đồng. + Syndicate là tổ chức liên minh giữa các nhà tư bản độc lập về pháp lý nhưng không độc lập về thương mại mà có một ban quản trị chung quản lý việc tiêu thụ sản phẩm. Đây là loại liên minh độc quyền cao hơn, ổn định hơn so với Cartel. + Trust có quy mô lớn hơn Cartel và Syndicate. Các thành viên tham gia hoàn toàn mất tính độc lập, họ chỉ là những công ty cổ phần. + Consortium là liên minh giữa các nhà tư bản độc quyền đa ngành. Các thành viên tham gia có mối liên hệ với nhau về mặt kinh tế, kỹ thuật. Công ty mẹ đầu tư vào các công ty khác thành công ty con nhằm tạo thế lực tài chính mạnh để kinh doanh. Hình thức này gồm cả liên kết dọc và liên kết ngang giữa các doanh nghiệp sản xuất cùng loại sản phẩm. + Conglomerate là tập đoàn kinh doanh đa ngành, các công ty thành viên có ít mối quan hệ hoặc không có mối quan hệ về công nghệ nhưng có quan hệ chặt chẽ về tài chính. Tập đoàn này thực chất là một tổ chức tài chính đầu tư vào các công ty kinh doanh để tạo ra một tổ hợp doanh nghiệp tài chính - công nghiệp để hỗ trợ vốn đầu tư cho các công ty thành viên hoạt động có hiệu quả. + Concern là một tổ chức TĐKT tồn tại dưới hình thức công ty mẹ đầu tư vào các công ty con và điều hành hoạt động của tập đoàn. Mục tiêu hình thành tập đoàn là tạo sức mạnh tài chính để phát triển kinh doanh, hạn chế rủi ro, hỗ trợ mạnh mẽ nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ mới, áp dụng phương pháp quản lý hiện đại. Các công ty con hoạt động trong nhiều lĩnh vực như sản xuất, thương mại, ngoại thương, dịch vụ có liên quan; chịu trách nhiệm hữu hạn trong phạm hoạt động nhằm thực hiện lợi ích chung của tập đoàn thông qua các hợp đồng kinh tế, các khoản vay tín dụng hoặc đầu tư. Mô hình này được áp dụng phổ biến hiện nay do nó có nhiều tác dụng tích cực trong việc thúc đẩy sự phát triển và liên kết giữa các thành viên. + Tập đoàn đa quốc gia (MNC) là sự liên kết giữa các đơn vị sản xuất khác nhau trên quy mô quốc tế, theo chiều dọc thay theo chiều ngang, dưới hình thức trực tiếp trong sản xuất hay gián tiếp qua lĩnh vực lưu thông. Đó là biểu hiện của quá trình phân công lao động và xã hội hoá nền sản xuất trên quy mô quốc tế. Về hình thức, chúng có một công tymẹ đặt trụ sở ở một quốc gia tư bản phát triển và thường mang quốc tịch của nước đó và có nhiều công ty chi nhánh phụ thuộc vào công ty mẹ ở nước ngoài. + Tập đoàn xuyên quốc gia (TNC): Trong những thập kỷ gần đây, việc hợp nhất hay liên kết các doanh nghiệp đã vượt ra khỏi biên giới một quốc gia dẫn đến việc hình thành tập đoàn xuyên quốc gia. Cơ cấu tổ chức của tập đoàn này gồm có công ty mẹ thuộc sở hữu của các nhà tư bản nước chủ nhà và hệ thống các công ty con ở nước ngoài và quan hệ phụ thuộc lẫn nhau chủ yếu về tài chính, công nghệ, kỹ thuật. Các công ty con ở nước ngoài có thể mang hình thức công ty 100% vốn nước ngoài, cũng có thể mang hình thức công ty hỗn hợp, công ty liên doanh với hình thức công ty cổ phần. Tuy nhiên, dù dưới hình thức nào thì các công ty con đó thực chất cũng là những bộ phận của một tổ hợp, quyền kiểm soát chủ yếu về đầu tư, sản xuất kinh doanh vẫn thuộc về những nhà tư bản nước mẹ. - Về kiểu liên kết và tổ chức: tổ chức liên kết trong hầu hết các TĐKT đều thông qua mối liên kết chính yếu là liên kết công ty mẹ - công ty con. Công ty mẹ đầu tư toàn bộ hoặc một phần vốn chi phối vào các công ty con. Công ty con có tư cách pháp nhân, hạch toán độc lập với công ty mẹ. Mối liên kết được duy trì hoặc chấm dứt qua việc công ty mẹ tiếp tục duy trì hay rút vốn đầu tư vào công ty con. Hầu hết các công ty mẹ thường nắm quyền lãnh đạo, chi phối hoạt động của các công ty con về mặt tài chính và chiến lược phát triển. Dù là liên minh như thế nào thì khi các doanh nghiệp liên kết lại với nhau đều mang lại lợi ích cơ bản như: tăng vốn đầu tư cho nghiên cứu và phát triển sản phẩm; giảm thời gian thâm nhập thị trường và chu kỳ sống của sản phẩm; khả năng đóng góp các kỹ năng và tài sản bổ sung mà không một công ty nào có thể dễ dàng tự mình phát triển; tiếp cận với kiến thức và kinh nghiệm từ bên ngoài; nhanh chóng đạt được quy mô, khối lượng và tạo đà phát triển; mở rộng kênh phân phối và thị trường quốc tế. 2. Nguyên tắc tạo lập TĐKT Việc phát triển TĐKT dựa trên nguyên tắc hiệu quả, tư nguyện và theo quy luật của thị trường. Các nguyên tắc đó là: Phù hợp với chính sách và chiến lược phát triển kinh tế của Nhà nước. Việc hình thành TĐKT phải có tác động tích cực tới điều chỉnh cơ cấu sản xuất và cơ cấu sản phẩm. Trước hết cần hình thành tập đoàn trọng điểm có khả năng thúc đẩy các ngành sản xuất khác phát triển, tác động tích cực tới việc nghiên cứu và triển khai sản xuất các mặt hàng chất lượng cao đáp ứng nhu cầu thị trường. Khuyến khích cạnh tranh, hạn chế độc quyền: đảm bảo cạnh tranh lành mạnh, nghiêm cấm các hoạt động lũng đoạn thị trường hoặc phong toả theo khu vực. Phân định rõ chức năng quản lý kinh doanh với các chức năng quản lý hành chính. Công ty mẹ của tập đoàn không thể thực hiện cả hai chức năng quản lý kinh doanh và quản lý hành chính. Tập đoàn cần xác định không phải là cơ quan quản lý nhà nước cũng không phải là hiệp hội ngành nghề mà là một tổ chức kinh tế. Mối quan hệ giữa công ty mẹ và các doanh nghiệp thành viên được thiết lập trên cơ sở giữ cổ phần hoặc quan hệ kỹ thuật sản xuất, không phải là quan hệ hành chính. Thực hiện nguyên tắc đầu tư tự nguyện. Việc hình thành TĐKT phải tuân theo các quy luật kinh tế, không thể lắp ghép bằng mệnh lệnh hành chính, phải tuân theo phương thức tự nguyện đóng góp cổ phần, tham gia cổ phần của người đầu tư, với sợi dây liên kết giữa các doanh nghiệp chủ yếu là vốn. Như vậy mới đảm bảo các mối quan hệ rõ ràng trong nội bộ tập đoàn và ổn định cơ cấu tổ chức của tập đoàn. Tóm lại, nguyên tắc hình thành TĐKT là cùng có lợi, tự do tham gia và rút khỏi tập đoàn, chống độc quyền trong hoạt động. 3. Một số mô hình TĐKT của các nước trên thế giới 3.1 Mô hình Keiretsu của Nhật Bản Trước Chiến tranh Thế giới thứ II, nền công nghiệp Nhật Bản bị kiểm soát bởi các tập đoàn lớn gọi là Zaibatsu. Đến những năm 40 của thế kỷ XX, các liên minh (Alliance) đã phá bỏ các Zaibatsu, nhưng các công ty được thành lập đã phá bỏ các Zaibatsu lại liên kết với nhau thông qua việc mua cổ phần để hình thành nên các liên minh liên kết theo chiều ngang giữa nhiều ngành nghề khác nhau. Từ đây Keiretsu ra đời. Do sở hữu cổ phần lẫn nhau và chịu ảnh hưởng của một ngân hàng và công ty thương mại chung, nên các doanh nghiệp trong Keiretsu thường có chiến lược kinh doanh giống nhau, phát huy khả năng hợp tác, tương trợ, đặc biệt là khi gặp khó khăn về tài chính. Bên cạnh đó, các công ty thành viên còn chia sẻ với nhau những bí quyết kinh doanh, kinh nghiệm quản lý và các cách thức tiếp thị, thâm nhập thị trường. Mỗi Keiretsu lớn thường lấy một ngân hàng làm trung tâm. Ngân hàng này cung cấp tín dụng cho các công ty thành viên của Keiretsu và nắm giữ vị thế về vốn trong các công ty. Mỗi một ngân hàng trung tâm có vai trò kiểm soát rất lớn đối với các công ty trong Keiretsu và hành động với tư cách là một tổ chức giám sát và hỗ trợ tài chính trong các trường hợp khẩn cấp. Một trong những tác động của cơ cấu này là giảm thiểu sự hiện diện của những người tiếp quản đối lập ở Nhật Bản, bởi vì không một thực thể kinh doanh nào muốn đối đầu với sức mạnh kinh tế của các ngân hàng. Trên thực tế có hai loại Keiretsu: Keiretsu liên kết dọc và Keiretsu liên kết ngang. Keiretsu liên kết dọc là điển hình của tổ chức và mối quan hệ như trong một công ty (từ khâu sản xuất, cung ứng nguyên vật liệu đến tiêu thụ sản phẩm trong một ngành nghề nhất định). Các doanh nghiệp cung cấp nguyên vật liệu hoạt động như là những vệ tinh xoay quanh các nhà máy sản xuất lớn trên cơ sở chia sẻ về công nghệ, thương hiệu và quy trình tổ chức kinh doanh. Mối liên kết giữa các doanh nghiệp này được thiết lập dựa trên lợi ích kinh tế, đồng thời là sự ràng buộc về niềm tin và sự trung thành nên rất bền chặt. Trong khi đó, Keiretsu liên kết ngang thể hiện mối quan hệ giữa các thực thể, thông thường xoay quanh một ngân hàng và một công ty thương mại (thường gồm nhiều doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nghề khác nhau). Sau chiến tranh, Nhật Bản có 6 Keiretsu liên kết ngang khổng lồ trong ngành công nghiệp gồm: Mitsubishi, Mitsu, Sumitomo, Dai – Ichi Kangyo, Fuyo và Sanwa. Thời kỳ suy thoái của Nhật Bản vào những năm 1990 đã có ảnh hưởng sâu sắc đến các Keiretsu. Nhiều ngân hàng lớn đã chịu sự tác động mạnh mẽ bởi các khoản nợ xấu và buộc phải sáp nhập hoặc đi đến phá sản. Từ đó mà có sự ra đời của Sumitomo Mitsui Banking Corporation vào năm 2001 là sự kết hợp của Ngân hàng Sumitomo và Ngân hàng Mitsui. Trong khi đó, Ngân hàng Sanwa (Ngân hàng thuộc Hankyu – Toho Group) trở thành một phần của Ngân hàng Tokyo – Mitsubishi UFJ. Các Keiretsu ở Nhật Bản rất chú ý đến việc lựa chọn đội ngũ các nhà quản trị. Các TĐKT thường thích bổ nhiệm các nhà quản trị là người ngay tại địa phương bởi nhà quản trị địa phương thông hiểu những điều kiện hoạt động và môi trường kinh doanh ở địa phương. Hơn nữa, người địa phương có thể tập trung vào các hoạt động nhằm phục vụ cho mục tiêu dài hạn của tập đoàn mình sao cho phù hợp với địa phương. Với cách thức này, các tập đoàn Nhật Bản chỉ cần điều động một số ít chuyên gia ra nước ngoài để truyền đạt những kỹ năng chuyên môn cần thiết và cách thức tiến hành các hoạt động kinh doanh chính yếu, đồng thời kiểm soát các hoạt động ở nước ngoài và phát triển năng lực cho nhà quản trị. 3.2 Mô hình Cheabol ở Hàn Quốc Vào những năm 80 của thế kỷ XX, nền kinh tế Hàn Quốc đã có bước phát triển vượt bậc. Một trong những nhân tố làm nên những kỳ tích về kinh tế của Hàn Quốc chính là các doanh nghiệp nói chung và các Cheabol nói riêng với những chiến lược kinh doanh táo bạo và đầy tham vọng. Các Cheabol bắt đầu phát triển mạnh từ những năm 1950 -1960 theo mô hình công ty mẹ là công ty sở hữu thương hiệu (Brand name) và thực hiện chức năng đầu tư tài chính. Các công ty con có mối quan hệ liên kết về tài chính, chiến lược kinh doanh và sự điều phối chung trong hoạt động với công ty mẹ, ví dụ như Samsung, Daewoo hay LG. Đặc trưng của Cheabol là toàn bộ các công ty thành viên thường do một hoặc một số ít gia đình sáng lập và nắm giữ cổ phần chi phối. Vì vậy việc quản lý điều hành trong các Cheabol mang đậm màu sắc gia tộc. Đó cũng là điều khác biệt cơ bản của tập đoàn Hàn Quốc với các nước công nghiệp phát triển khác. Chủ tịch hội đồng quản trị là người có quyền lãnh đạo tối cao và thường là cổ đông lớn nhất của tập đoàn. Mỗi tập đoàn đều có câu lạc bộ chủ tịch (Presidents Club) bao gồm các chủ tịch là đại diện công ty mà chủ tịch đó nắm vốn. Về mặt pháp lý, Cheabol không phải là một pháp nhân và không phải là một thực thể hữu hình. Các hoạt động kinh doanh đều thực hiện thông qua các công ty thành viên. Tuy nhiên cái bóng vô hình của Cheabol bao trùm lên mọi hoạt động giao dịch kinh doanh của công ty thành viên chính là sự thống nhất về chiến lược kinh doanh, sự tập trung và phân bổ các nguồn lực một cách linh hoạt, phù hợp với từng trường hợp cụ thể. Các tập đoàn ở Hàn Quốc và Nhật Bản đều xuất phát điểm từ lĩnh vực sản xuất công nghiệp và mở rộng dần ra các lĩnh vực khác. Từ sản xuất điện tử, ôtô đến các sản phẩm công nghiệp nặng như khai thác mỏ, tàu biển, hoạt động thương mại, dịch vụ, các sản phẩm tiêu dùng và cuối cùng là lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm. 3.3 Mô hình Jituan Gongsi ở Trung Quốc Trung Quốc có kế hoạch chuẩn bị thành lập TĐKT từ những năm 80 của thế kỷ XX với hai đợt thí điểm thành lập 120 tập đoàn doanh nghiệp vào các năm 1991 và 1997. Nhà nước Trung Quốc đã tạo ra khung pháp lý cho tập đoàn doanh nghiệp ra đời và phát triển. Quá trình này bắt đầu bằng việc sáp nhập các doanh nghiệp nhà nước thành những tổng công ty lớn. Cho đến khi đạt đến một quy mô nhất định nào đó, Tổng công ty sẽ phân quyền kinh doanh cho các doanh nghiệp thành viên nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, điều hành. Tiếp theo là giai đoạn đa dạng hóa sở hữu và hình thức nắm giữ cổ phần đan chéo giữa các doanh nghiệp thành viên thông qua việc cổ phần hoá và giảm tỷ lệ cổ phần của Nhà nước. Và cuối cùng là thực hiện các biện pháp thu hút đầu tư vốn và chuyển giao công nghệ từ các đối tác nước ngoài nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh. Các TĐKT của Trung Quốc tồn tại chủ yếu trên cơ sở các hình thức sau: Hình thức thứ nhất là TĐKT tổng hợp nhiều cấp. Đây là loại tập đoàn doanh nghiệp nắm trong tay nhiều lĩnh vực như khoa học công nghệ, thương mại, tài chính, dịch vụ và lấy vốn làm nút liên kết chủ yếu. Chúng được tổ chức thành bốn cấp, thực hiện nhất thể hoá kinh doanh bằng cách thôn tính, sáp nhập, xoá bỏ tư cách pháp nhân của các doanh nghiệp cũ lập ra Tập đoàn doanh nghiệp trong đó công ty có tư cách pháp nhân làm nòng cốt (công ty mẹ) bằng cách nắm giữ cổ phần khống chế, thầu khoán, thuê các doanh nghiệp có liên quan. Doanh nghiệp nòng cốt sẽ nắm quyền lãnh đạo đối với các doanh nghiệp này trong việc đưa ra các quyết sách về nhân lực, vật lực, sản xuất, cung ứng, tiêu thụ… biến chúng thành những doanh nghiệp cấp dưới trực tiếp (tức là công con) của tập đoàn. Các doanh nghiệp này vẫn bảo lưu tư cách pháp nhân của chúng, tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh một cách độc lập tương đối. Tóm lại, tập đoàn doanh nghiệp này phần nhiều là các tổ chức liên hiệp giữa các pháp nhân doanh nghiệp. Nó giúp điều chỉnh kết cấu tổ chức doanh nghiệp, bổ sung lợi thế cho nhau, sử dụng hiệu quả, hợp lý các yếu tố sản xuất, kinh doanh đa dạng, cùng có lợi. Hình thức thứ hai là Tập đoàn theo mô hình liên kết dây chuyền. Loại này chủ yếu là tổ chức liên hiệp lỏng lẻo, lấy sản xuất làm nút liên kết. Chúng thường lấy một doanh nghiệp lớn làm nòng cốt của Tập đoàn, lấy sản phẩm nổi tiếng độc đáo của Tập đoàn này làm đặc trưng, áp dụng hình thức chuyên môn hoá, hiệp tác sản xuất, kinh doanh thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Hình thức thứ ba là Tập đoàn phối hợp đồng bộ. Loại tập đoàn này lấy hợp đồng nhận thầu công trình làm nút liên kết. Chúng hình thành chủ yếu dựa vào một số doanh nghiệp công nghiệp lớn, đơn vị nghiên cứu, thiết kế, lấy việc liên doanh nhận thầu đồng bộ hạng mục công trình lớn làm hình thức chủ yếu. Dưới sự lãnh đạo của hội đồng giám đốc, doanh nghiệp đầu đàn loại lớn tổ chức thành công ty liên doanh thống nhất, mạnh, lập ra các đơn vị thành viên có tư cách pháp nhân nhằm đạt được mục tiêu và lợi ích chung. Hình thức thứ tư là Tập đoàn hoà nhập nghiên cứu khoa học với sản xuất kinh doanh, lấy liên kết phát triển kỹ thuật làm nút liên kết. Loại tập đoàn này lấy những đơn vị nghiên cứu khoa học trong cùng ngành hoặc xí nghiệp công nghiệp lớn làm chủ thể, bổ sung cho nhau lợi thế khoa học - kỹ thuật và vốn nhằm phát triển sản phẩm kỹ thuật cao từ đó chế tạo sản phẩm có giá trị cao, nâng cao năng lực cạnh tranh. Hình thức thứ năm là Tập đoàn liên kết mạng lưới cùng ngành: Đây là hình thức biến tướng của những liên hiệp xí nghiệp đặc biệt lớn có cùng ngành nghề. Hình thức thứ sáu là Tập đoàn theo mô hình cổ phần: Loại tập đoàn này lấy công ty của Nhà nước có thực lực rất mạnh nắm giữ cổ phần khống chế làm doanh nghiệp nòng cốt. Toàn bộ tập đoàn lấy tài sản dưới hình thức cổ phần làm nút liên kết, hình thành thể liên hợp các pháp nhân, triển khai hoạt động sản xuất kinh doanh theo hình thức cổ phần. Chiến lược hoạt động tác nghiệp của các Tập đoàn doanh nghiệp Trung Quốc là đa dạng hoá, sản xuất kinh doanh theo chiều sâu và tiến tới quốc tế hoá. Các Tập đoàn doanh nghiệp không chỉ là những Tập đoàn xuyên vùng, xuyên ngành gồm nhiều hình thức sở hữu mà còn nhiều hình thức, nhiều chức năng sản xuất, thương mại, nghiên cứu khoa học, vận tải, tài chính, dịch vụ…Những năm gần đây, với ảnh hưởng mạnh mẽ của xu hướng mở cửa, hội nhập, các Tập đoàn doanh nghiệp Trung Quốc nhanh chóng vươn ra thị trường thế giới. Ví dụ: Công ty Gang thép Bắc Kinh đã mua 70% cổ phần của Công ty công trình Mácta (Mỹ) – một xí nghiệp luyện kim nổi tiếng thế giới, tạo nên một ưu thế mới trong cạnh tranh quốc tế; Công ty đầu tư tín dụng quốc tế của Trung Quốc hợp tác với ba công ty của Nhật Bản lập ra Công ty thương mại tại Tokyo; Ngân hàng Trung Quốc bắt tay với Ngân hàng nước ngoài lập ra Doanh nghiệp tài chính ở Hồng Kông. Cùng với chính sách mở cửa, cải cách rất thông thoáng như hiện nay, đồng thời với việc Trung Quốc ra nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), chắc chắn các Tập đoàn doanh nghiệp Trung Quốc sẽ còn tiến nhanh, tiến mạnh và vững chắc trên con đường hội nhập quốc tế của mình. II. Tập đoàn tài chính và sự hình thành Tập đoàn tài chính 1. Tập đoàn tài chính và xu thế hình thành, phát triển Tập đoàn tài chính Cũng như TĐKT, TĐTC hiện chưa được đĩnh nghĩa một cách chính thống. Tuy nhiên, qua thực tế và qua những nghiên cứu, chúng ta có thể hiểu: TĐTC là một thực thể kinh tế gồm một số doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực tài chính (ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm và các hoạt động khác có liên quan đến hoạt động tài chính); mỗi thành viên tập đoàn là những pháp nhân độc lập, trong đó có một doanh nghiệp làm nòng cốt. Các tập đoàn đều được thành lập một cách tự nguyện trên cơ sở các liên kết về vốn và hoạt động kinh doanh nhằm cung cấp trọn gói các sản phẩm, dịch vụ tài chính cho khách hàng và tăng cường khả năng cạnh tranh trước xu thế toàn cầu hoá. Xu thế hội nhập và sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin và sự nới lỏng các quy định pháp lý về tài chính - ngân hàng là nguyên nhân chính thúc đẩy quá trình hình thành và phát triển của các TĐTC. Khi phát triển đến mức độ nhất định và do nhu cầu của nền kinh tế, các ngân hàng, công ty bảo hiểm, công ty chứng khoán hay các thể chế tài chính đều vươn ra hoạt động đa năng và hướng ra toàn cầu thông qua những hình thức khác nhau như liên kết, hợp nhất, sáp nhập, thành lập các công ty trực thuộc. Mục tiêu của việc hình thành TĐTC là mở rộng quy mô hoạt động và đổi mới công nghệ, giảm chi phí để có thể tồn tại trong cạnh tranh, từ đó đem lại lợi nhuận tối đa cho tập đoàn. Tại Mỹ, đạo luật Gramm - Leach - Bliley được Quốc hội Hoa Kỳ thông qua năm 1999 là kết quả của một quá trình hợp nhất các quy định pháp lý đối với thị trường dịch vụ tài chính trong nhiều thập kỷ. Với việc dỡ bỏ sự phân đoạn do Đạo luật Glass - Steagall quy định từ năm 1993, trong đó hạn chế sự sáp nhập giữa các ngân hàng và các công ty chứng khoán; và sự phân đoạn do Đạo luật Bank Holding Company ban hành năm 1956, trong đó hạn chế sự sáp nhập giữa c._.ác ngân hàng và các công ty bảo hiểm, Đạo luật Gramm - Leach - Bliley đã tạo điều kiện cho các ngân hàng đăng ký thành lập các TĐTC đa năng tại Hoa Kỳ thông qua việc mở thêm hoạt động môi giới bảo hiểm. Mặt khác, các công ty chứng khoán và các công ty bảo hiểm cũng có thể chuyển đổi thành các TĐTC nếu họ mua lại các ngân hàng trong trường hợp họ thoả mãn các điều kiện nhất định. Các TĐTC ở Hoa Kỳ thường được xây dựng theo mô hình một công ty mẹ nắm giữ vốn cổ phần của các công ty con hoạt động trong các lĩnh vực ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm. Hoạt động kinh doanh của các đơn vị thành viên trực thuộc TĐTC được giám sát và điều chỉnh bởi các cấp có thẩm quyền riêng biệt. Hoạt động của các Ngân hàng chịu sự giám sát điều chỉnh của Cơ quan Giám sát tiền tệ (OCC), Cục Dự trữ Liên bang (Fed) và Công ty Bảo hiểm tiền gửi liên bang (FDIC); hoạt động của các công ty chứng khoán chịu sự giám sát và điều chỉnh của Uỷ ban Chứng khoán và Hối đoái (SEC); hoạt động của các công ty bảo hiểm do Uỷ ban Bảo hiểm Quốc gia (SIC) giám sát và điều chỉnh. Một TĐTC phải đảm bảo các yêu cầu sau: Các yêu cầu về vốn và khả năng quản lý, yêu cầu về việc tài trợ vốn cho cộng đồng và những yêu cầu trong quản lý TĐTC. Ở Đài Loan (Trung Quốc), cũng giống như ở Mỹ, Đài Loan đã ban hành Đạo luật về TĐTC (Financial Holding Company Act) vào năm 2001 để hỗ trợ việc tập trung vốn trong khu vực dịch vụ tài chính - ngân hàng, đa dạng hoá các dịch vụ tài chính và tăng cường sức cạnh tranh khi Đài Loan gia nhập WTO. Đạo luật nói trên cho phép một tập đoàn có thể đầu tư và sở hữu 100% các đơn vị thành viên, bao gồm ngân hàng, công ty chứng khoán, bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ. Năm 2005, Đài Loan cũng đã công bố quy định về đảm bảo an toàn vốn cho các TĐTC dựa trên nguyên tắc đánh giá tách bạch từng chi nhánh của ngân hàng. Đạo luật về TĐTC và các quy định pháp lý về tập đoàn đã tạo điều kiện cho thị trường tài chính Đài Loan củng cố, hợp nhất và hình thành các TĐTC có quy mô tài sản lớn và mức độ đa dạng dịch vụ rất cao thông qua sáp nhập, thôn tính hoặc liên kết chiến lược. Đến cuối năm 2005, Đài Loan đã có 14 TĐTC - NH lớn hoạt động đa năng trên các lĩnh vực ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm. Trung Quốc: Trước đây, Luật ngân hàng thương mại quy định các ngân hàng thương mại Trung Quốc không được phép thực hiện các giao dịch chứng khoán và bảo chứng, không được đầu tư vào những doanh nghiệp phi ngân hàng. Nhưng trước sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế Trung Quốc trong hai thập kỷ qua, Trung Quốc đang phải sửa đổi Luật Ngân hàng thương mại theo hướng cho phép các Ngân hàng thương mại (công ty mẹ) sở hữu các công ty tài chính (công ty con) theo mô hình TĐTC khi thiết lập đầy đủ những cơ chế pháp lý thận trọng cần thiết. Bên cạnh đó, Luật Chứng khoán và Luật Bảo hiểm cũng đã điều chỉnh theo hướng cho phép một cách có điều kiện sự kết hợp cung cấp các sản phẩm tại các Ngân hàng thương mại thay vì cô lập các lĩnh vực này như trước kia. Tóm lại, mô hình TĐTC với sự phát triển độc lập của hệ thống các ngân hàng thương mại, công ty chứng khoán, công ty bảo hiểm đang được áp dụng rộng rãi trên thế giới. 2. Đặc điểm cơ bản của TĐTC Hiện nay, trên thế giới đã có rất nhiều TĐTC nổi tiếng: Citigroup, Deutsche Bank AG, ING - Hà Lan, HSBC Holdings, May Bank… Mặc dù, các tập đoàn này có mô hình kinh doanh phức tạp, có chiến lược kinh doanh khác nhau nhưng nhìn chung các TĐTC đều có những nét đặc trưng sau: 2.1 TĐTC có phạm vi hoạt động rộng lớn Tập đoàn không chỉ hoạt động trong lãnh thổ một quốc gia mà còn mở rộng sang nhiều quốc gia khác. Để chiếm lĩnh thị trường, giảm áp lực cạnh tranh, TĐTC bành trướng thị trường bằng cách tăng cường hợp tác, liên doanh, liên kết, thực hiện phân công quốc tế, do đó phạm vi hoạt động của tập đoàn ngày càng được mở rộng. Năm 2006, HSBC Holdings sở hữu 9,500 văn phòng, 260,000 nhân viên tại 76 quốc gia và vùng lãnh thổ; tập đoàn Deutsche Bank AG phục vụ khách hàng tại 74 quốc gia trên toàn thế giới. Tập đoàn Citi có 200 triệu tài khoản khách hàng tại hơn 100 nước. Tại các thị trường các Tập đoàn đã thực hiện phân công lao động một cách hợp lý trong nội bộ tập đoàn, xây dựng mạng lưới tiêu thụ sản phẩm và kênh bán hàng rộng rãi. 2.2 TĐTC có quy mô lớn về vốn, nhân lực và doanh số hoạt động Về vốn: Do TĐTC vừa có sự tích tụ của bản thân doanh nghiệp, lại vừa có sự tập trung giữa các doanh nghiệp nên tiềm lực tài chính và quy mô về vốn của tập đoàn là rất mạnh. Trong tập đoàn, vốn được tập trung từ nhiều nguồn khác nhau, được bảo toàn và phát triển, đẩy nhanh quá trình tích tụ, tập trung vốn cho tập đoàn. Điều này tạo ra năng lực cạnh tranh mạnh hơn từng doanh nghiệp đơn lẻ, nâng cao được trình độ xã hội hoá sản xuất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Vào năm 2006 trị giá vốn cổ phiếu của Citigroup (Mỹ) là 112,537 tỷ USD, tập đoàn JPMorgan Chase (Mỹ) là 107,211 tỷ USD, Bank of America (Mỹ) là 101,224 tỷ USD, tập đoàn HSBC Holdings (Anh) là 98,226 tỷ USD Nguồn: Wikipedia . Về lao động: do quá trình tập trung của các doanh nghiệp thành viên, hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau và phạm vi hoạt động lớn nên tập đoàn có một khối lượng lao động rất lớn, được tuyển chọn và đào tạo một cách nghiêm ngặt nên chất lượng lao động cao. Tính đến tháng 7/2007, Citigroup có 332.000 nhân viên. Năm 2006, Bank of America có 203.425 nhân viên, tập đoàn HSBC Holdings có khoảng 284.000 nhân viên. Về doanh thu: Do có vốn lớn, phạm vi hoạt động rộng, tập đoàn có khả năng nhanh chóng mở rộng quy mô sản xuất, đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, củng cố và mở rộng chiếm lĩnh thị trường mới nên đạt được doanh thu rất lớn. Năm 2006, doanh thu của Citigroup là 146,56 tỷ USD, HSBC là 121,51 tỷ USD và Bank of America là 116,57 tỷ USD. Bảng 1: Kết quả hoạt động kinh doanh của một số Tập đoàn tài chính lớn nhất thế giới năm 2006 Đơn vị: Tỷ USD STT Tên Quốc gia Doanh thu Lợi nhuận Tài sản 1. Citi Mỹ 146,56 21,54 1.884,32 2. Bank of America Mỹ 116,57 21,13 1.459,74 3. HSBC Anh 121,51 16,63 1.860,76 4. JP Morgan Chase Mỹ 99,3 14,44 1.351,52 5. AIG Mỹ 113,19 14,01 979,41 6. UBS Thuỵ Sĩ 105,59 9,78 1.776,89 7. ING Hà Lan 153,44 9,65 1.615,05 (Nguồn: Theo Forbes) 2.3 TĐTC có hình thức sở hữu hỗn hợp Các công ty thành viên trong TĐTC nắm giữ cổ phiếu đan chéo nhau và đây là những mối quan hệ rất phức tạp. Có thể xem đây là một quá trình liên kết vốn dưới nhiều hình thức và cấp độ khác nhau. Như vậy, sở hữu vốn của tập đoàn là sở hữu hỗn hợp (nhiều chủ), nhưng có một chủ sở hữu lớn, đó là công ty mẹ đóng vai trò khống chế, chi phối về mặt tài chính. Tuỳ theo quy định pháp luật của từng nước, các ngân hàng có thể tham gia vào các TĐTC dưới nhiều hình thức như: cổ đông, chủ nợ, cơ quan phát hành chứng khoán cho TĐTC và thậm chí có thể là con nợ. Đây cũng là lý do giải thích tại sao ngân hàng (cùng với công ty thương mại) thường được xem là hạt nhân của TĐTC. 2.4 TĐTC có cơ cấu tổ chức phức tạp Cơ cấu tổ chức của TĐKT rất đa dạng: có loại tập đoàn trong đó các công ty con độc lập về tính pháp lý, việc huy động vốn và các hoạt động kinh tế trong tập đoàn được duy trì bằng các hợp đồng kinh tế; có loại tập đoàn các công ty con mất quyền độc lập về tính thương mại và sản xuất, các chủ sở hữu trở thành cổ đông của công ty mẹ. Tuy nhiên, nhìn chung, cơ cấu của TĐTC thường bao gồm có bộ phận kinh doanh và bộ phận hỗ trợ. Bộ phận kinh doanh được phân tán làm 4 mảng chuyên môn chính: (1) Ngân hàng bán lẻ phục vụ khách hàng cá nhân đại trà; (2) Ngân hàng bán buôn bao gồm các doanh nghiệp vừa và nhỏ và các công ty lớn; (3) Ngân hàng phục vụ khách hàng giàu có; (4) Ngân hàng đầu tư kinh doanh trên thị trường tài chính. Bộ phận hỗ trợ gồm có quản lý rủi ro; tài chính; tác nghiệp và IT. 2.5 TĐTC hoạt động kinh doanh đa ngành, đa lĩnh vực Hầu hết các TĐTC trên thế giới hiện nay đều hoạt động kinh doanh đa ngành, đa lĩnh vực, có chiến lược sản phẩm và định hướng đầu tư luôn thay đổi phù hợp với yêu cầu của thị trường, môi trường kinh doanh và sự phát triển của nền kinh tế. Tuy nhiên, mỗi tập đoàn đều có ngành và lĩnh vực chủ đạo với những sản phẩm có thương hiệu của tập đoàn. Sản phẩm cung ứng bao gồm tất cả các loại hình sản phẩm tài chính: cấp tín dụng, tư vấn, dịch vụ, bảo hiểm, quản lý tài sản, quản lý tài chính, dịch vụ ngân hàng điện tử (e-banking)… Hoạt động đa ngành, đa lĩnh vực giúp cho tập đoàn phân tán được rủi ro cho nhiều ngành, lĩnh vực khác nhau, khai thác triệt để thị trường và khách hàng, bảo đảm cho hoạt động của tập đoàn luôn được an toàn và hiệu quả, đồng thời tận dụng cơ sở vật chất và khả năng lao động phong phú của tập đoàn. 2.6 TĐTC có khả năng tập trung, điều hoà vốn, khắc phục sự hạn chế và thiếu vốn của từng đơn vị riêng lẻ Nguồn vốn của tập đoàn được huy động từ các công ty thành viên và theo các hình thức được phấp luật cho phép sẽ được tập trung đầu tư vào những lĩnh vực, những dự án có hiệu quả nhất, tránh tình trạng vốn bị phân tán trong những đơn vị nhỏ hoặc đầu tư không có hiệu quả. Như vậy, vốn của các đơn vị thành viên nhỏ cũng được sử dụng vào những lĩnh vực, dự án hiệu quả nhất, tạo ra sức mạnh quyết định cho sự phát triển của tập đoàn. Đồng thời, do có việc huy động vốn giữa các đơn vị thành viên với nhau, vốn của đơn vị thành viên với nhau, vốn của đơn vị này được huy động đầu tư vào đơn vị khác và ngược lại đã giúp cho các đơn vị liên kết với nhau chặt chẽ hơn, từ đó mà phát huy được hiệu quả nguồn vốn của từng đơn vị thành viên và của cả tập đoàn. 2.7 Về quản lý điều hành TĐTC Tất cả các bộ phận được quản trị thống nhất và tập trung theo ngành dọc. Đã là một tập đoàn thì nhất thiết phải có một số thiết chế quản trị chung của tập đoàn như hội đồng chiến lược, ban kiểm soát, hội đồng quản trị, uỷ ban bầu cử. Các thành viên trong hội đồng hay uỷ ban hoạt động theo tôn chỉ và mục đích chung đã được các bên thống nhất từ trước và đa số theo cơ chế kiêm nhiệm. Trong đó, chủ tịch tập đoàn thường là người có ảnh hưởng và uy tín lớn nhất thuộc công ty xuất phát hay công ty chính của tập đoàn. Sau chủ tích tập đoàn sẽ có các giám đốc phụ trách từng mảng hoạt động, ví dụ: Giám đốc phụ trách rủi ro, Giám đốc phụ trách tài chính, Giám đốc phụ trách khách hàng,… 3. Vai trò của TĐTC đối với sự phát triển nền kinh tế các nước trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế Xu hướng hình thành TĐTC là xu thế tất yếu của quá trình đa năng hoá trong phát triển nền kinh tế thị trường và hội nhập. Đồng thời, nó là kết quả tất yếu của quá trình tích tụ, tập trung tư bản và tạo ra thị trường tài chính hoàn hảo hơn, cạnh tranh hơn. Vì vậy, TĐTC có vai trò hết sức to lớn đối với nền kinh tế các quốc gia trong quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế. Vai trò được thể hiện ở một số điểm sau: Thành lập TĐTC cho phép các doanh nghiệp huy động nguồn lực vật chất, lao động và vốn trong xã hội vào quá trình kinh doanh. Việc hình thành các TĐTC đã hạn chế tối đa sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp thành viên. Mô hình tập đoàn cũng có lợi cho việc huy động tài sản, thu hút ngày càng đông khách hàng thông qua việc đa dạng hoá nhiều lĩnh vực kinh doanh vơi chi phí thấp hơn. Với phạm vi và quy mô tổ chức sản xuất - kinh doanh rất lớn, TĐTC có khả năng tập trung được nguồn vốn đầu tư vào những lĩnh vực đòi hỏi đầu tư lớn, nhất là những ngành công nghệ hiện đại. Với tiềm lực kinh tế mạnh, có sự phân công, phối hợp của các doanh nghiệp thành viên hoạt động trong nhiều lĩnh vực và phạm vi rộng lớn, tập đoàn có khả năng liên tục chiếm lĩnh, củng cố thị trường; nâng cao khả năng cạnh tranh của tập đoàn; đồng thời giảm bớt và phân tán rủi ro. Thông qua vai trò điều hoà vốn của tập đoàn, vốn của các doanh nghiệp thành viên được sử dụng vào những dự án tốt nhất, tránh tình trạng vốn bị phân tán đầu tư tràn lan, trùng lặp, hiệu quả không cao. Với tiềm lực mạnh, tập đoàn có khả năng tổ chức nghiên cứu các đề tài khoa học - công nghệ đòi hỏi vốn đầu tư lớn và cần sự phối hợp của nhiều nhà khoa học, phòng thí nghiệm, thiết bị nghiên cứu mà từng doanh nghiệp đơn lẻ không thể thực hiện được. Mặt khác, qui mô và phạm vi hoạt động rộng lớn của tập đoàn sẽ làm cho việc triển khai ứng dụng các kết quả nghiên cứu khoa học vào kinh doanh có hiệu quả cao hơn với chi phí giảm. Tập đoàn có tác dụng lớn trong việc cung cấp, trao đổi thông tin và những kinh nghiệm tốt trong các hoạt động kinh doanh, nghiên cứu, triển khai kết quả nghiên cứu vào thực tiễn giữa các doanh nghiệp thành viên. Bảng 2: Quy mô TĐTC so với các TĐKT khác trong 10 tập đoàn lớn nhất thế giới năm 2006 Tập đoàn Số lượng Doanh thu Lợi nhuận Tài sản SL Tỷ lệ (%) SL (Tỷ USD) Tỷ lệ (%) SL (Tỷ USD) Tỷ lệ (%) SL (Tỷ USD) Tỷ lệ (%) TĐTC 7 70 856,16 51,2 107,18 55,5 10927,69 90,5 TĐKT 3 30 817,33 48,8 85,77 44,5 1153,5 9,5 Tổng 10 100 1673,49 100 192,95 100 12081.19 100 (Nguồn: Tổng hợp và tính toán từ Forbes) Với các nước phát triển, sự thống nhất trong tập đoàn sẽ góp phần thúc đẩy chuyển giao công nghệ ra nước ngoài một cách có hiệu quả nhất. Với các nước đang phát triển, các TĐTC mạnh là cầu nối để tiếp thu nhanh chóng các thành tựu khoa học công nghệ trên thế giới, làm thu hẹp khoảng cách về trình độ với các nước phát triển, thúc đẩy công nghiệp hoá - hiện đại hoá nền kinh tế. Đồng thời, TĐTC là công cụ hữu hiệu để chống sự thâm nhập một cách ồ ạt của các công ty khổng lồ trên thế giới, giúp cho sản xuất trong nước có thể đứng vững và từng bước vươn ra thị trường các nước. Hiệu quả hoạt động từ các TĐTC góp phần thay đổi cơ cấu kinh tế - xã hội của đất nước Việc hình thành các TĐTC làm thay đổi bộ mặt xã hội cho từng địa phương hay trong một quốc gia, giải quyết việc làm cho một phần dân cư tại các khu vực, làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế và chuyên môn hoá các ngành nghề. Hoạt động sôi động của các TĐTC góp phần làm cho cơ cấu sản xuất có sự chuyển dịch từ hàng hoá sử dụng sức lao động sang hàng hoá cần nhiều vốn và công nghệ, tập trung vào những sản phẩm có giá trị bổ sung cao. Cơ cấu ngành cũng có sự thay đổi, chuyển từ nông nghiệp sang các ngành công nghiệp chế tạo – dịch vụ. Khu vực dịch vụ ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế. Như vậy, đối với thị trường thế giới, các tập đoàn có vai trò chi phối ngày càng lớn không chỉ đối với quốc gia mà còn đối với cả nền kinh tế quốc tế. 4. Điều kiện hình thành TĐTC 4.1 Điều kiện khách quan Môi trường pháp lý có thể cản trở hoặc thúc đẩy sự hình thành và phát triển các TĐTC nhất là những quy định pháp lý điều chỉnh hoạt động tài chính, ngân hàng, chứng khoán. Nói cách khác, quá trình hình thành và phát triển TĐTC diễn ra theo quy luật khách quan, nhưng các chính phủ cũng đóng vai trò quan trọng trong việc đưa ra các quy định và chính sách phát triển dịch vụ tài chính. Trình độ phát triển của thị trường dịch vụ tài chính tác động đến khả năng mở rộng quy mô hoạt động của TĐTC như thông qua các công ty con hay công ty trực thuộc. Trên thực tế, sự hình thành các TĐTC thường bắt nguồn từ việc mở rộng các loại hình kinh doanh trong lĩnh vực dịch vụ của ngân hàng mẹ, từ chỗ chỉ kinh doanh dịch vụ ngân hàng, mở rộng sang dịch vụ bảo hiểm, chứng khoán, v.v. Mặt khác, thị trường tài chính càng phát triển, khách hàng càng đòi hỏi cao hơn về chất lượng và tiện ích của dịch vụ tài chính - ngân hàng. Sự phát triển bùng nổ của công nghệ thông tin cũng là yếu tố và điều kiện để một tổ chức tài chính phát triển thành TĐTC. Các tập đoàn này phải kịp thời nắm bắt thông tin, nhất là công nghệ mới có liên quan đến hoạt động tài chính để có thể khai thác và ứng dụng các thành tựu công nghệ mới vào hoạt động kinh doanh, mang lại nhiều lợi nhuận cho tập đoàn và tiện ích cho khách hàng. 4.2 Điều kiện về vốn Tiềm lực tài chính đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì hoạt động và khả năng phát triển lâu dài của tập đoàn. Trong đó, nguồn vốn có tác dụng hỗ trợ cho tập đoàn đổi mới công nghệ, mở rộng lĩnh vực kinh doanh, phát triển dịch vụ mới, tăng cường năng lực cạnh tranh và mở rộng thị phần. Các ngân hàng tiên tiến và TĐTC mạnh thường cung cấp dịch vụ đa dạng và đạt chất lượng cao với nhiều đối tượng khách hàng khác nhau. 4.3 Điều kiện về con người Hiệu quả hoạt động của TĐTC phụ thuộc rất lớn vào trình độ, năng lực của đội ngũ nhân viên, nhất là đội ngũ lãnh đạo. TĐTC có quy mô lớn và độ phức tạp càng cao càng đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ quản lý, điều hành thực sự có năng lực, trình độ cao, phong cách lãnh đạo và phẩm chất đạo đức tốt để quản lý điều hành bộ máy của tập đoàn hoạt động có hiệu quả. Không chỉ đội ngũ cán bộ lãnh đạo, đội ngũ nhân viên không ngừng được trau dồi nghiệp vụ, có điều kiện phát huy năng lực cá nhân và nếu được tạo mọi điều kiện tốt nhất thì đây là lực lượng lớn đóng góp vào thành công của tập đoàn. 4.4 Về quản trị doanh nghiệp Để kiểm soát khối tài sản và vốn chủ sở hữu khá lớn, chiếm tỷ trọng lớn trong GDP, các TĐTC trên thế giới đều chú trọng đến vấn đề quản trị doanh nghiệp, coi quản trị doanh nghiệp tốt là vấn đề sống còn của tập đoàn. Hầu hết các TĐTC hàng đầu đều xây dựng một cơ cấu tổ chức phức tạp, bao gồm bộ phận kinh doanh và bộ phận hỗ trợ. Bộ phận kinh doanh được chia thành các mảng chuyên môn chính phù hợp với việc cung cấp các sản phẩm tài chính, ngân hàng, bảo hiểm đa dạng như cấp tín dụng, tư vấn, dịch vụ, bảo hiểm, quản lý tài sản, quản lý tài chính, dịch vụ ngân hàng điện tử… ra thị trường. Bộ phận hỗ trợ gồm có quản trị rủi ro, tài chính, tác nghiệp và công nghệ thông tin. Trong đó, tất cả các bộ phận được quản trị thống nhất, tập trung theo ngành dọc, đứng đầu là chủ tịch tập đoàn, sau đó là các giám đốc phụ trách khối. Cách thức quản lý này cho phép TĐTC, dù có quy mô lớn và cơ cấu phức tạp đến đâu và dù có bất cứ sự thay đổi nào cũng vẫn duy trì hoạt động ổn định, giảm thiểu rủi ro. 5. Cơ chế quản lý Tập đoàn tài chính Đặc điểm của TĐTC thường là lấy ngân hàng cỡ lớn làm hạt nhân của tập đoàn để liên kết và khống chế các doanh nghiệp xung quanh bằng mối quan hệ nắm giữ cổ phần, cho vay vốn và sắp xếp nhân sự. Mô hình phổ biến nhất của TĐTC là tổ chức theo kiểu công ty mẹ - công ty con. Trong đó, công ty mẹ và công ty con đều có tư cách pháp nhân độc lập, có tài sản và bộ máy quản lý riêng. Giao dịch giữa công ty mẹ và công ty con hay giữa các công ty con trong cùng một tập đoàn là giao dịch bên ngoài, giao dịch thị trường. Đặc điểm của mô hình này là công ty mẹ (Holding company) sở hữu toàn bộ hoặc một tỷ lệ nhất định vốn cổ phần trong các công ty con, đề ra chiến lược và định hướng phát triển tổng thể của tập đoàn, đồng thời phân bổ nguồn lực của tập đoàn thông qua các hoạt động tài chính như phát hành, mua bán chứng khoán, cơ cấu lại tài sản của công ty con. Ngoài ra, công ty mẹ còn sử dụng vốn của mình để đầu tư, góp vốn cổ phần, liên doanh, liên kết dể hình thành các công ty con hoặc công ty liên kết. Công ty con là công ty mà một số cổ phần của nó ở trên mức tỷ lệ nhất định thuộc về một công ty khác hoặc bị một công ty khác khống chế, đó là công ty mẹ. Tuy thế nhưng công ty con vẫn là những pháp nhân độc lập, hoạt động tự chủ và tự chịu trách nhiệm. Hình thức pháp lý của công ty con khá đa dạng, có thể là công ty cổ phần do công ty mẹ nắm giữ cổ phần chi phối; công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) 2 thành viên trở lên, trong đó công ty mẹ giữ tỷ lệ vốn góp chi phối; công ty liên doanh với nước ngoài do công ty mẹ nắm giữ tỷ lệ vốn góp chi phối; công ty TNHH một thành viên do công ty mẹ là chủ sở hữu. Căn cứ vào tính chất phạm vi hoạt động, TĐTC kinh doanh theo mô hình công ty mẹ - công ty con có hai loại: Mô hình công ty mẹ nắm vốn thuần tuý và mô hình công ty mẹ vừa nắm vốn vừa trực tiếp kinh doanh. Trên thực tế, không có sự tách bạch rõ ràng, nhiều tập đoàn kinh doanh theo mô hình công ty mẹ - công ty con là hỗn hợp của hai loại hình trên, tức là công ty mẹ vừa nắm vốn vừa trực tiếp kinh doanh một số công ty con, đồng thời chỉ nắm vốn thuần tuý một số công ty con khác. Hội đồng quản trị Ban điều hành Các biện pháp quản lý - Lợi ích chủ đầu tư - Lợi ích người lao động Đối nội Các giám đốc Đối ngoại Các giám đốc Các biện pháp quản lý - Lợi ích của 1 phía chủ đầu tư - Có thể bổ sung lợi ích người lao động HĐQTT Mục tiêu CHLB Đức Mỹ Mục tiêu Bảng 3: Mô hình tổ chức quản lý của tập đoàn ở một số nước Ban giám đốc Ban giám sát Các biện pháp quản lý Các biện pháp quản lý Mục tiêu Mục tiêu - Lợi ích gia đình - Lợi ích quốc gia - Lợi ích quốc gia - Lợi ích chủ đầu tư - Lợi ích người lao động Hội đồng quản trị Uỷ quyền đại diện Uỷ quyền đại diện Trung Quốc BGĐ Nhật Bản CHƯƠNG II: KHẢ NĂNG VẬN DỤNG KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ TẬP ĐOÀN TÀI CHÍNH TRÊN THẾ GIỚI VÀO XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN TẬP ĐOÀN TÀI CHÍNH VIỆT NAM I. Tổng quan về Tập đoàn tài chính ở Việt Nam 1. Tổng quan sự ra đời Tập đoàn kinh tế ở Việt Nam 1.1 Hoạt động của các Tổng công ty 90, 91 Trên cơ sơ tổng kết tình hình hoạt động của hơn 250 Tổng công ty, liên hiệp xí nghiệp được thành lập năm 1991, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 90/TTg và Quyết định 91/TTg ngày 7/3/1994. Quyết định số 90/TTg là quyết định về việc tiến hành sắp xếp, thành lập và đăng ký lại các liên hiệp xí nghiệp, Tổng công ty (Tổng công ty 90). Bên cạnh đó, nhà nước cũng muốn tạo điều kiện thúc đẩy tích tụ và tập trung, nâng cao khả năng cạnh tranh, đồng thời thực hiện chủ trương xoá bỏ dần chế độ chủ quản, cấp hành chính chủ quản và sự phân biệt doanh nghiệp trung ương, doanh nghiệp địa phương và tăng cường vai trò quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, nâng cao hiệu quả của nền kinh tế, ngày 7/3/1994, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 91/TTg về thí điểm thành lập tập đoàn kinh doanh (Tổng công ty 91). Theo các quyết định này đã có một loạt các Tổng công ty và tập đoàn kinh doanh nhà nước đã ra đời như: Tổng công ty Bưu chính viễn thông, Dầu khí, Dệt may, Hoá chất, Điện lực, Than, Thép, Xi măng,… Năm 1995, mô hình và cơ chế hoạt động của Tổng công ty chính thức được đưa vào Luật Doanh nghiệp nhà nước.Đến cuối tháng 2/2000, Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định thành lập 17 Tổng công ty 91 và uỷ quyền cho các bộ, uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành lập Tổng công ty 90. Mục tiêu của mô hình Tổng công ty nhà nước là nhằm xoá bỏ cơ chế chủ quản hành chính, tách hẳn quản lý sản xuất kinh doanh ra khỏi quản lý nhà nước, từ đó nhằm tăng cường tính cạnh tranh của các doanh nghiệp thông qua việc tạo ra sự hiệp lực cùng có lợi và đạt được lợi thế kinh tế nhờ quy mô bằng việc tập trung nguồn lực cho các lĩnh vực tài chính, công nghệ, tiếp thị và chiến lược phát triển. Ban đầu, các Tổng công ty được thành lập từ việc sắp xếp các liên hiệp xí nghiệp mang tính chất cơ học, không xáo trộn, bảo đảm điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt động bình thường. Trong quá trình hoạt động các Tổng công ty đã từng bước thiết lập các mối liên kết về vốn hoặc đầu tư vốn giữa các doanh nghiệp có quan hệ gắn bó với nhau về lợi ích kinh tế, công nghệ, cung ứng, tiêu thụ, dịch vụ, thông tin, đào tạo, nghiên cứu, tiếp thị, hoạt động trong một hoặc một số chuyên ngành kinh tế - kỹ thuật chính, nhằm tăng cường khả năng kinh doanh của các đơn vị thành viên và thực hiện các nhiệm vụ của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ và chỉ rõ cơ chế hoạt động của các loại thành viên của Tổng công ty. Các Tổng công ty nhà nước có vai trò quan trọng đối với sự tăng trưởng kinh tế, tạo đà phát triển và góp phần không nhỏ tạo nên những khởi sắc của nên kinh tế Việt Nam trong thời gian qua. Các Tổng công ty này đã và đang tiếp tục chi phối nhiều ngành, nhiều lĩnh vực then chốt của nền kinh tế (như Tổng công ty Dầu khí, Tổng công ty Bưu chính Viễn thông, Tổng công ty Hàng không…); là đầu mối xuất khẩu ở hầu hết những ngành có kim ngạch xuất cao (như Tổng công ty Dệt may, Tổng công ty Thủy sản…); đồng thời góp phần không nhỏ trong việc bình ổn giá cả một số mặt hàng nhạy cảm, trọng yếu, có ảnh hưởng lớn đến đời sống kinh tế xã hội của đất nước (như Tổng công ty Lương thực, Tổng công ty Xăng dầu, Tổng công ty Xi măng, Tổng công ty Thép…). Nhiều Tổng công ty đã trở thành tổng thầu các công trình công nghiệp lớn và có những mặt hàng chất lượng cao có khả năng cạnh tranh với sản phẩm cùng loại trong khu vực. Trong giai đoạn vừa qua, mặc dù gặp nhiều khó khăn do những biến động của thị trường thế giới và một số điều kiện không thuận lợi, nhưng nhìn chung, các Tổng công ty nhà nước vẫn đạt kết quả kinh doanh khá. Chỉ tính riêng trong năm 2003, doanh thu các Tổng công ty 91 đạt 202.652 tỷ đồng chiếm 43,66% tổng doanh thu của khối các doanh nghiệp nhà nước - bộ phận doanh nghiệp chủ đạo trong nền kinh tế. Lợi nhuận các Tổng công ty này tạo ra là 14.592,2 tỷ đồng bằng 71% tổng lợi nhuận của các doanh nghiệp nhà nước và đóng góp vào ngân sách nhà nước 36.916,5 tỷ đồng, chiếm 42,55% tổng doanh thu ngân sách từ khối doanh nghiệp nhà nước. Những con số trên đã thể hiện phần nào những đóng góp đáng kể và vai trò quan trọng các các Tổng công ty nhà nước trong nền kinh tế Việt Nam. Quá trình hình thành và phát triển của các Tổng công ty đã có tác dụng tích cực như: Thúc đẩy việc tích tụ và tập trung vốn, đổi mới công nghệ mở rộng sản xuất, tăng khả năng cạnh tranh; Tập trung nguồn lực phát triển theo chiến lược định hướng chung; Tăng cường sức mạnh trong việc tham gia đấu thầu, mở rộng thị trường; Bảo lãnh vay tín dụng, điều hoà vốn nhàn rỗi giữa các doanh nghiệp thành viên; Hỗ trợ các doanh nghiệp thành viên còn có khó khăn thông qua việc điều động cán bộ, chuyển giao công nghệ… Các Tổng công ty 90, 91 từ phương thức quản lý theo kiểu hành chính (cấp trên - cấp dưới) và cơ chế giao vốn đã chuyển sang mối quan hệ bình đẳng, tự nguyện và cơ chế đầu tư vốn. 1.2 Sự chuyển đổi từ các Tổng công ty 90, 91 sang TĐKT theo mô hình Công ty mẹ – Công ty con Sau nhiều năm hoạt động, mặc dù các Tổng công ty đã phát huy tích cực, nhưng có một thực tế hiện nay là các Tổng công ty nhà nước hoạt động chưa thực sự hiệu quả, chưa phát huy hết tiềm năng của mình và bộc lộ nhiều hạn chế, cụ thể như sau: Cơ chế quản lý trong các Tổng công ty chưa rõ ràng, Hội đồng quản trị chưa thực sự trở thành đại diện chủ sở hữu trực tiếp tại Tổng công ty. Phương thức vốn thành lập và bổ sung vốn trong các Tổng công ty cơ bản vẫn theo phương thức hành chính, hiệu quả còn thấp. Nhiều Tổng công ty chưa có năng lực tài chính thực sự và không phát huy được vai trò trợ giúp của mình đối với các đơn vị thành viên. Mối quan hệ giữa Tổng công ty và đơn vị thành viên chưa được gắn kết bằng các quan hệ kinh tế, lợi ích mà thường theo quan hệ hành chính trên - dưới; đồng thời chưa tạo được điều kiện cho các đơn vị thành viên có khả năng tự chủ và linh hoạt trong điều hành sản xuất kinh doanh do cơ chế còn cứng nhắc mang tính thủ tục hành chính. Vì vậy mà quá trình tổ chức chưa thực sự tạo ra gắn kết về tài chính, công nghệ, thị trường… Một số Tổng công ty vẫn còn được uỷ quyền thực hiện một số chức năng quản lý nhà nước nên chức năng quản lý nhà nước và quản lý kinh doanh còn chưa phân định rõ ràng. Không ít Tổng công ty còn trông chờ vào sự hỗ trợ của nhà nước, chưa chủ động vươn lên tháo gỡ khó khăn, không chủ động giảm chi phí sản xuất kinh doanh và chưa sẵn sàng cho hội nhập kinh tế quốc tế. Một số cơ chế, chính sách đối với các Tổng công ty nhà nước không còn phù hợp, đặc biệt là cơ chế tài chính và hạch toán kinh tế. Doanh nghiệp thành viên Tổng công ty hạch toán phụ thuộc thì bị hạn chế vai trò chủ động, sáng tạo còn doanh nghiệp thành viên hạch toán độc lập thì có xu hướng chăm lo lợi ích riêng của doanh nghiệp mình như những doanh nghiệp độc lập ngoài Tổng công ty, thiếu chất gắn kết các đơn vị thành viên trong việc thực hiện chiến lược phát triển toàn Tổng công ty. Thiếu cán bộ có năng lực quản lý và khả năng kinh doanh là hiện tượng phổ biến ở nhiều Tổng công ty. Mặt khác, việc đào tạo, hướng dẫn nghiệp vụ quản lý Tổng công ty theo hướng đổi mới chậm được triển khai nên cung cách quản lý vẫn mang nặng tính chất hành chính trung gian của mô hình liên hiệp xí nghiệp của thời kỳ quản lý kinh tế tập trung. Để khắc phục những hạn chế hiện nay của các Tổng công ty nhà nước, tạo điều kiện cho các đơn vị này có tiềm lực kinh tế mạnh, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường và chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, cũng như thực hiện tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX, Nghị quyết số 01/2004/NQ-CP về đẩy mạnh sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả các doanh nghiệp nhà nước trong đó có các Tổng công ty nhà nước, Chính phủ đã chỉ rõ một trong những giải pháp được thực hiện sẽ là “thí điểm chuyển Tổng công ty nhà nước sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con và hình thành một số TĐKT ”. Đồng thời, Chính phủ cũng đã chỉ đạo xây dựng Đề án thí điểm hình thành tập đoàn Bưu chính Viễn thông, Dầu khí, Điện lực, Xi măng, mà trước hết sẽ thực hiện thí điểm thành lập Tập đoàn Bưu chính Viễn thông từ Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam. Như vậy việc sắp xếp các Tổng công ty Nhà nước lần này nhằm tập trung hơn nữa nguồn lực để chi phối được những ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế; làm lực lượng chủ lực trong việc bảo đảm các cân đối lớn và ổn định kinh tế vĩ mô; cung ứng những sản phẩm trọng yếu cho nền kinh tế quốc dân và xuất khẩu, đóng góp cho ngân sách; làm nòng cốt thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả. Như vậy là TĐKT - một mô hình kinh tế khá phổ biến và là mô hình kinh tế hoạt động hiệu quả ở các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới đã được Việt Nam nghiên cứu áp dụng và triển khai thí điểm cho một số Tổng công ty nhà nước. Điều này có nghĩa là Tổng công ty nhà nước sẽ là cơ sở và bộ phận nòng cốt để hình thành nên các TĐKT mang thương hiệu Việt Nam. Có thể nói, đây là bước đột phá mạnh mẽ trong đổi mới và nâng cao hiệu quản các Tổng công ty nhà nước. Kinh nghiệm hình thành và phát triển của các quốc gia đi trước cho thấy mô hình TĐKT không những khắc phục được những hạn chế trong._.cho người tiêu dùng. Bởi vì các sản phẩm của các công ty bảo hiểm quốc tế thường đa dạng và có những chính sách ưu đãi khá hấp dẫn cho khách hàng. Ưu thế của các tập đoàn bảo hiểm quốc tế là họ có tiềm lực vốn mạnh, có bề dày kinh nghiệm chinh chiến nhiều thị trường thế giới và có đội ngũ nhân viên năng động, sáng tạo, tài giỏi đến từ nhiều quốc gia trên thế giới. Chính vì vậy, mỗi bước sơ hở trên thị trường là các tập đoàn này có thể chiếm lĩnh được. Tập đoàn Bảo Việt tuy tiềm lực chưa mạnh bằng các Tập đoàn bảo hiểm lớn trên thế giới nhưng họ có lợi thế là sân nhà, hiểu được nhu cầu và tâm lý của người dân Việt Nam. 2.2.4 Công tác quản lý Đối với công tác quản lý, Bảo Việt cần đẩy mạnh việc giáo dục tư tưởng, ý thức chính trị và phẩm chất đạo đức cho toàn thể cán bộ công nhân viên, cũng như đội ngũ cán bộ lãnh đạo kế cận; tiếp tục chỉ đạo các đơn vị, Công ty bảo hiểm thuộc hệ thống Bảo Việt thực hiện công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí theo đúng các văn bản hướng dẫn, chỉ đạo của Đảng và Nhà nước. Mô hình phân cấp quản lý giữa các đơn vị thành viên cần tiếp tục được hoàn thiện cho hợp lý, dễ quản lý và mang lại hiệu quả kinh doanh. Bên cạnh đó, vấn đề xây dựng văn hoá doanh nghiệp cũng cần chú trọng. Hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam còn ít quan tâm đến vấn đề này, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Bảo Việt hiện là một tập đoàn có quy mô lớn, do vậy văn hoá doanh nghiệp là nền tảng để Bảo Việt phát triển đi lên có định hướng. Nó sẽ tạo nên một nét đặc trưng riêng của Bảo Việt là ưu thế khi Bảo Việt mở rộng thị trường sang các nước khác trên thế giới. 2.2.5 Hoạt động đầu tư tài chính Hoạt động đầu tư là một lĩnh vực hoạt động có tầm quan trọng sống còn đối với việc duy trì và phát triển của một doanh nghiệp nói chung và của Tập đoàn Bảo Việt nói riêng. Hoạt động đầu tư không những giúp Bảo Việt có được khoản lợi nhuận thường xuyên trong khi vẫn đảm bảo khả năng thanh toán các hợp đồng bảo hiểm mà còn giúp quảng bá rộng rãi hình ảnh của Tập đoàn Bảo Việt trên thị trường tài chính - bảo hiểm. Đồng thời, trong điều kiện cạnh tranh gay gắt, đầu tư chính là một loại vũ khí lợi hại giúp Bảo Việt đứng vững và tiếp tục phát triển. Bảo Việt cần chuyên nghiệp hoá hoạt động đầu tư tài chính, đa dạng hoá danh mục đầu tư (đầu tư vào thị trường tiền tệ, bất động sản, chứng khoán, đầu tư vào cho các tổ chức là khách hàng của Bảo Việt nhằm mục đích hỗ trợ khai thác bảo hiểm…); tăng cường kiểm soát rủi ro trước và sau khi đưa ra quyết định đầu tư để đảm bảo an toàn cho nguồn vốn đầu tư; cân đối dòng tiền tạo ra từ hoạt động đầu tư tài chính với nhu cầu chi trả bảo hiểm để quản lý rủi ro mất cân đối giữa tài sản và trách nhiệm. 2.2.6 Quan hệ cộng đồng Bảo Việt cần tiếp tục đưa ra các chương trình hay các hoạt động xã hội cho cộng đồng. Điều này sẽ là sợi dây tình cảm gắn kết Bảo Việt với người dân. Các chương trình mà Bảo Việt có thể xây dựng như: tặng học bổng cho học sinh, sinh viên có thành tích xuất sắc trong học tập, các chương trình từ thiện cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, tài trợ tài chính đối với công tác xã hội,... Bên cạnh đó cần đẩy mạnh công tác truyền thông kể cả truyền thông động và tĩnh. Việc mở rộng quan hệ cộng đồng sẽ giúp nâng cao uy tín và thương hiệu của Bảo Việt. II. Giải pháp xây dựng Tập đoàn tài chính – Ngân hàng ở Việt Nam 1. Những thuận lợi và khó khăn trong việc xây dựng Tập đoàn tài chính – Ngân hàng ở Việt Nam 1.1 Khó khăn Xây dựng và phát triển thành TĐTC - NH trong điều kiện hiện tại của nền kinh tế nước ta là một thử thách khó khăn đối với các NHTM Việt Nam. Thứ nhất, TĐTC - NH ở thời điểm hiện tại chưa hội tụ đầy đủ các yếu tố, điều kiện cấu thành cho sự ra đời và phát triển của TĐTC - NH, trong đó, quan trọng nhất là cơ chế quản lý lĩnh vực ngân hàng chưa chuyển hẳn sang cơ chế kinh tế thị trường mà còn nặng tính mệnh lệnh, hành chính và bao cấp. Tiềm lực tài chính của các NHTM chưa mạnh: sản phẩm dịch vụ còn đơn điệu, nghèo nàn và chưa có thương hiệu; loại hình sở hữu ngân hàng mới bước đầu được đa dạng hoá và chưa phát triển theo chiều sâu. Môi trường, thể chế phục vụ các hoạt động của TĐKT chưa hoàn thiện, chất lượng thấp, không phù hợp với thông lệ quốc tế… Hơn thế, việc thành lập ồ ạt, mang tính phong trào và mệnh lệnh hành chính các Tổng công ty 90, 91 thời gian qua đã và đang lộ dần những bất cập về phương thức quản trị và điều hành TĐKT, nhất là quản trị và điều hành mối quan hệ giữa công ty mẹ và công ty con; hiệu quả kinh tế chưa đạt được mục tiêu như mong đợi. Thứ hai, những bất cập trong nội tại ngành ngân hàng là rào cản lớn nhất trong xây dựng TĐTC - NH mạnh ở Việt Nam. Quá trình đổi mới cơ cấu và cổ phần hoá các NHTM diễn ra quá chậm chạp. Điều đó đã hạn chế chủ trương thực hiện đa sở hữu ngành, đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ ngân hàng. Về thực chất, các NHTM nhà nước vẫn chi phối hầu hết các dịch vụ trên thị trường tiền tệ. Bởi vậy, tính cạnh tranh trên thị trường tín dụng chưa cao, hạn chế hiệu quả kinh tế. Hệ thống ngân hàng, nhất là NHTM nhà nước hoạt động trong tình trạng kém phát triển, thể hiện rõ ở một số điểm sau: Tiềm lực tài chính của toàn hệ thống ngân hàng không mạnh. Tổng vốn NHTM nhà nước chỉ khoảng 15.500 tỷ đồng, tương đương với 1 tỷ USD, bình quân 3.100 tỷ đồng/ngân hàng. Tổng tài sản của hệ thống ngân hàng trên GDP chỉ khoảng 70%, thấp thua xa so với Thái Lan (145,8%), Malaixia (193,5%) và chỉ bằng 1/3 của Trung Quốc (211,1%). Tổng số vốn tự có của hệ thống ngân hàng chỉ trên 1 tỷ USD. Trong đó, Agribank có số vốn tự có lớn nhất cũng chỉ khoảng 290 triệu USD. So với các ngân hàng khác trên thế giới thì hệ thống ngân hàng Việt Nam quá nhỏ bé (HSBC có tổng vốn tự có là 25,78 tỷ USD, Citibank Châu Á là 21 tỷ USD). Hiệu quả kinh doanh của hệ thống ngân hàng chưa cao. Khả năng sinh lời thấp: tỷ lệ lãi ròng sau thuế trên tổng tài sản (ROA) bình quân chỉ đạt 0,65%. Trong khi đó, tỷ lệ ROA của các nước Châu Á - Thái Bình Dương là 0,94%; của các nước Đông Nam Á là 0,77%. Nếu so sánh ROA trung bình của Việt Nam với ROA thế giới, ở Việt Nam chỉ đạt 88%. Tỷ lệ sinh lời bình quân trên vốn tự có (ROE) của các NHTM Việt Nam chỉ đạt 6,54% so với chuẩn quốc tế (trung bình từ 12 - 15%). Rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng còn lớn. Tỷ lệ nợ xấu (nợ quá hạn thông thường, nợ khó đòi trong hoặc đã quá hạn, nợ chờ xử lý, nợ kinh doanh do được phép của Chính phủ) chiếm tỷ trọng còn cao. Bên cạnh đó, hầu hết các NHTM, nhất là NHTM nhà nước đã dùng vốn ngắn hạn với tỷ trọng lớn (40 - 50%) để cho vay tín dụng trung và dài hạn, vượt quá giới hạn an toàn cho phép từ 10 - 20%, càng làm tăng mức độ rủi ro ngân hàng. Mức độ an toàn vốn chưa cao. Theo chuẩn mực quốc tế, hệ số này ở mức tối thiểu là 8%. Trong khi đó, hệ số an toàn vốn của hệ thống NHTM Việt Nam chỉ đạt 4,5%. Nguồn: Nghiên cứu Kinh tế số 342/2006 Năng lực quản lý, trình độ khoa học - công nghệ, đội ngũ cán bộ phục vụ hoạt động kinh doanh của hệ thống ngân hàng còn nhiều hạn chế. Chất lượng của các văn bản luật chưa cao, mang đậm dấu ấn của cơ chế mệnh lệnh hành chính và xin cho. Cung tiền của Ngân hàng Trung ương chưa đảm bảo tính chủ động hoàn toàn theo yêu cầu phát triển tất yếu của nền kinh tế thị trường. Bên cạnh đó, nhiều ngân hàng chưa công khai, minh bạch hoá các thông tin tài chính, tuân thủ các quy định của báo cáo tài chính, kiểm toán độc lập theo tiêu chuẩn quốc tế. Mặc dù, công nghệ đã được đổi mới so với thời kỳ bao cấp nhưng chỉ số công nghệ của hệ thống ngân hàng Việt Nam chỉ đạt 0,47, thấp hơn các nước trong khu vực như: Trung Quốc: 0,35; Thái Lan: 0,07; Singapore: 1,95. Năng lực công nghệ thấp dẫn đến khả năng liên kết, hợp tác, phát triển để nâng cao hiệu quả kinh doanh còn yếu; chưa hỗ trợ tốt, phản ứng nhanh, nhạy với các mối quan hệ kinh tế đang dần đi vào chiều sâu của quá trình hội nhập trong lĩnh vực ngân hàng. Các cán bộ công chức được tuyển dụng vào làm việc thường chỉ có một chuyên môn sâu, chủ yếu là chuyên ngành tài chính - tiền tệ. Trong khi đó, nền kinh tế càng tiến sâu vào hội nhập lại càng đòi hỏi có một đội ngũ cán bộ, công chức có kiến thức liên ngành tốt như: Luật kinh tế, Kinh tế học, Kinh tế công cộng, Tài chính công, Ngoại ngữ… mới đáp ứng được yêu cầu cao của công việc. Những bất cập nội tại chủ yếu trên đây của ngành ngân hàng đã tác động tiêu cực tới sự hình thành, phát triển TĐTC - NH trong thời gian tới. Thứ ba, nền tảng để xây dựng cho sự hình thành TĐTC - NH còn yếu kém. Cơ chế điều hành của TĐKT (đang thử nghiệm) theo mô hình công ty mẹ - công ty con nói chung, Tập đoàn tài chính - Bảo hiểm Bảo Việt nói riêng mang đậm dấu ấn của thời bao cấp mệnh lệnh, hành chính mà chưa chuyển hẳn sang có chế kinh tế thị trường, có sự quản lý của nhà nước pháp quyền. Công ty mẹ can thiệp quá sâu vào công ty con, còn công ty con thì ỷ lại, trông chờ vào sự hỗ trợ của công ty mẹ, thiếu quyết đoán và độc lập trong hoạt động kinh doanh của mình. Ngoài ra, việc chậm trễ ban hành những văn bản hướng dẫn thực hiện cơ chế quản trị - điều hành TĐKT có tác động tiêu cực tới việc xây dựng của TĐTC - NH. Thứ tư, hiệu quả kinh tế sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhà nước kém hiệu quả, có ảnh hưởng tiêu cực tới sự hình thành TĐTC - NH. Hiện trạng kinh doanh kém hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước là mầm mống dẫn đến rủi ro, không trả được nợ ngân hàng, làm tăng nhanh tỷ lệ nợ xấu ở các NHTM nhà nước, ảnh hưởng tiêu cực tới tính bền vững trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng cũng như trong việc hình thành TĐTC - NH ở Việt Nam. Thứ năm, chưa hình thành được mối quan hệ gắn kết chặt chẽ giữa Chính phủ, ngành ngân hàng với các bộ, ngành có liên quan trong việc thực hiện chủ trương xây dựng TĐKT nói chung, TĐTC - NH mạnh nói riêng. Hình thành các TĐTC là một quá trình lâu dài, đòi hỏi phải hội đủ các yếu tố cần thiết. Chặng đường mà các NHTM Việt Nam còn phải trải qua theo mô hình phát triển thành TĐTC - NH phía trước còn rất nhiều chông gai. 1.2 Thuận lợi TĐTC không còn quá xa lạ với những nước công nghiệp phát triển trên thế giới như Mỹ, Nhật Bản, các nước EU… Đây cũng là sự hướng đến của các NHTM Việt Nam - đang đứng trước một xu thế tất yếu của hội nhập và cạnh tranh. Hiện nay, bên cạnh những khó khăn, việc hình thành TĐTC - NH ở Việt Nam lại có những thuận lợi sau: Thứ nhất là sự đổi mới sâu sắc trong tư duy kinh tế của Đảng, Nhà nước thúc đẩy việc xây dựng và phát triển TĐTC - NH ở Việt Nam. Từ khi tiến hành sự nghiệp đổi mới (1986), Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương đổi mới toàn diện, sâu rộng nền kinh tế quốc dân, trong đó có các NHTM. Song, phải đến thập kỷ 90 (thế kỷ XX) ở Việt Nam mới manh nha xuất hiện chủ trương xây dựng TĐKT. Bằng các quyết định: Quyết định 90/TTg-CP và Quyết định 91/TTg-CP của Thủ tướng Chính phủ, việc thí điểm TĐKT đã được thực thi. Đó chính là bước khởi đầu cho sự ra đời, phát triển TĐKT nói chung, TĐTC nói riêng. Trước xu hướng toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta chỉ đạo tiến một bước trong chủ trương xây dựng TĐKT: “Thúc đẩy việc hình thành một số TĐKT và Tổng công ty nhà nước mạnh, hoạt động đa ngành, đa lĩnh vực”, trong đó có ngành chính, có nhiều chủ sở hữu, sở hữu nhà nước giữ vai trò chi phối. Trong lĩnh vực tài chính: “Tạo lập môi trường tài chính lành mạnh, thông thoáng nhằm giải phóng và phát triển các nguồn lực tài chính, tiềm năng sản xuất của các doanh nghiệp, tầng lớp dân cư”. Đối với lĩnh vực ngân hàng: “Cơ cấu lại hệ thống ngân hàng. Phân biệt chức năng của Ngân hàng Nhà nước và NHTM Nhà nước, chức năng cho vay của ngân hàng với chức năng kinh doanh tiền tệ của NHTM”. Thứ hai, thực tiễn vận động, phát triển của các Tổng công ty theo mô hình công ty mẹ - công ty con cũng như việc thí điểm hình thành TĐTC - Bảo hiểm thời gian qua đã đem lại nhận thức rất quan trọng, có ý nghĩa thiết thực đối với việc hình thành, phát triển TĐTC - NH ở Việt Nam. Thứ ba, sự trưởng thành từng bước của ngành ngân hàng là nhân tố bên trong thúc đẩy mạnh mẽ sự hình thành, phát triển TĐTC - NH. Thời gian qua, ngành ngân hàng dã thực hiện đổi mới, cấu trúc lại hệ thống theo hướng tinh gọn về tổ chức; tăng cường về tiềm lực tài chính, khoa học - công nghệ, phát triển nguồn nhân lực; hoàn thiện cơ chế, chính sách quản trị và điều hành các dịch vụ ngân hàng. Sự đổi mới đó đã đem lại những kết quả quan trọng, nổi bật là: Mạng lưới tổ chức tín dụng lớn mạnh không ngừng. Toàn hệ thống ngân hàng ở Việt Nam có 5 NHTM nhà nước; 1 ngân hàng chính sách xã hộ; 31 NHTM cổ phần đô thị; 4 NHTM cổ phần nông thôn; 37 chi nhánh ngân hàng nước ngoài; 4 ngân hàng liên doanh; 46 văn phòng đại diện tài chính, tín dụng nước ngoài ở Việt Nam; ngoài ra, còn có các công ty trực thuộc ngân hàng như Công ty chứng khoán, công ty cho thuê tài chính, công ty quản lý nợ và khai thác tài sản Nguồn: www.tuoitre.com.vn, ngày 19/10/2007 . Với mạng lưới rộng lớn, ngân hàng đã góp mặt ở 100% số huyện, thị trong cả nước. Như vậy, phát triển thị phần, thị trường trong nước là một điểm mạnh nổi trội của ngành ngân hàng. Các loại hình sở hữu ngân hàng từng bước đa dạng hoá. Hiện nay, trong hệ thống ngân hàng Việt Nam, không chỉ có loại hình NHTM nhà nước, mà xuất hiện khá nhiều loại hình sở hữu khác, như NHTM cổ phần đô thị, NHTM nông thôn, ngân hàng liên doanh… Đặc biệt, sự xuất hiện của chi nhánh ngân hàng nước ngoài; các văn phòng đại diện tài chính, tín dụng nước ngoài tại Việt Nam, chứng tỏ chủ trương đa dạng hoá loại hình sở hữu ngân hàng của Đảng, Nhà nước ta đã và đang được thực thi và đó cũng là một minh chứng thể hiện sự cam kết của Chính phủ trong quá trình tự do hoá dịch vụ ngân hàng. Đây là điều kiện cần để xây dựng TĐTC – Ngân hàng ở Việt Nam. Việc thực hiện tách bạch hoạt động tín dụng cho vay theo chính sách với hoạt động kinh doanh tín dụng thương mại là bước tiến trong cải cách ngân hàng của Việt Nam. Thứ tư, toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế tạo ra những yếu tố thuận lợi về phát triển thị trường; di chuyển rộng rãi các luồng vốn, công nghệ, lao động chất lượng cao… 2. Giải pháp phát triển Tập đoàn tài chính – Ngân hàng ở Việt Nam 2.1 Giải pháp vĩ mô 2.1.1 Một số vấn đề pháp lý về mô hình TĐTC - NH ở Việt Nam Kể từ khi Việt Nam gia nhập WTO thì việc xây dựng các TĐTC - NH là yêu cầu cấp thiết để các tổ chức tín dụng có tiềm lực tài chính đủ mạnh, đủ sức cạnh tranh với các tổ chức tín dụng nước ngoài. Tuy nhiên, để có thể xây dựng mô hình và thành lập được các TĐTC - NH lớn mạnh, thì các cơ quan nhà nước hữu quan cần giải quyết một số vấn đề pháp lý sau: Chính phủ cần xây dựng và ban hành Nghị định về tiêu chí phân loại tập đoàn, mô hình tổ chức quản lý và hoạt động của tập đoàn, đặc biệt là mối quan hệ giữa tập đoàn với các đơn vị thành viên làm cơ sở pháp lý gốc cho việc thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của các TĐKT nói chung và TĐTC - NH nói riêng. Một điểm quan trọng là văn bản này phải làm rõ sự khác biệt giữa nhóm công ty tổ chức theo mô hình công ty mẹ - công ty con và nhóm công ty tổ chức theo mô hình tập đoàn. Luật các tổ chức tín dụng sửa đổi cần có quy định về loại hình tổ chức tín dụng theo mô hình TĐTC - NH. Về chính sách phát triển các tổ chức tín dụng, bên cạnh việc cổ phần hoá các NHTM Nhà nước, Nhà nước cần có định hướng cho phép một số NHTM Nhà nước và NHTM cổ phần lớn xây dựng, hình thành các TĐTC - NH với phạm vi kinh doanh đa năng bao trùm hầu hết các dịch vụ ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, cho thuê tài chính, phát hành thẻ, quản lý tài sản… Việc hình thành các TĐTC - NH lớn là xu hướng chung ở nhiều nước trên thế giới và mô hình tập đoàn cũng là mô hình tổ chức quản lý của nhà cung cấp dịch vụ tài chính hàng đầu thế giới - những đối thủ cạnh tranh tiềm năng của các NHTM trong khi Việt Nam gia nhập WTO. Mặt khác, việc cho phép một số NHTM Nhà nước chuyển đổi thành mô hình tập đoàn để đa dạng hoá hình thức tổ chức quản lý của các NHTM và đáp ứng nhu cầu phát triển tự thân của một số NHTM Nhà nước. Để mô hình TĐTC - NH có tính khả thi cao, với tư cách là cơ quan giám sát hoạt động ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước cần nghiên cứu xây dựng và ban hành các quy chế dưới luật định về cơ cấu tổ chức, quản trị, điều hành của tập đoàn ngân hàng theo thông lệ quốc tế để đảm bảo có thể giám sát hoạt động của TĐTC - NH và sự an toàn cho cả hệ thống ngân hàng, cũng như đảm bảo môi trường kinh doanh cạnh tranh lành mạnh và minh bạch trong lĩnh vực ngân hàng. Cuối cùng, việc lựa chọn mô hình tổ chức quản lý và hoạt động kinh doanh của các NHTM chỉ là điều kiện cần. Để có thể xây dựng được các ngân hàng có tiềm lực tài chính lớn, có khả năng cạnh tranh cao, hoạt động đa năng thì không những đòi hỏi bản thân mỗi ngân hàng phải lựa chọn được chiến lược phát triển phù hợp, khai thác được thế mạnh của mình, mà còn cần sự hỗ trợ mạnh mẽ của các cơ quan hữu quan trong việc xây dựng và thực thi có hiệu quả các chính sách, pháp luật liên quan đến tổ chức và hoạt động ngân hàng. 2.1.2 Môi trường kinh tế vĩ mô Thời gian qua, môi trường kinh tế vĩ mô của Việt Nam chưa thực sự ổn định, nền kinh tế thị trường phát triển ở trình độ thấp, khung thể chế đảm bảo cho hoạt động của các thành phần kinh tế chưa đồng bộ. Do đó, chúng ta phải hoàn thiện việc cổ phần hoá các doanh nghiệp đồng bộ với việc xây dựng các TĐKT, trong đó có lĩnh vực ngân hàng. Song song với nó là tăng cường quản lý nhà nước trong lĩnh vực kinh tế nói chung và lĩnh vực tài chính - ngân hàng nói riêng để giảm thiểu rủi ro, tránh những thất bại đáng tiếc do sự cạnh tranh của những doanh nghiệp nước ngoài đối với các TĐTC - NH Việt Nam. 2.2 Giải pháp vi mô Một TĐTC khác với một NHTM thông thường ở chỗ tính đa năng và phạm vi hoạt động rộng khắp ở các quốc gia. Vì vậy, để xây dựng một TĐTC vững mạnh ở Việt Nam cần lưu ý một số điểm sau: 2.2.1 Thực hiện các biện pháp tăng quy mô vốn điều lệ và vốn tự có Hiện nay, tiềm lực về vốn của các NHTM Việt Nam chưa đủ để có thể xây dựng thành công một TĐTC đa năng, vì một trong những yêu cầu đầu tiên của việc hình thành những TĐTC là phải xây dựng một “tấm đệm” đủ dày về vốn. Trước mắt, chúng ta chỉ tập trung những giải pháp xây dựng thành công mô hình TĐTC ở các NHTM nhà nước; xúc tiến có hiệu quả việc cổ phần hoá các NHTM nhà nước để tăng vốn chủ sở hữu. Tăng vốn tự có của các NHTM từ nguồn lợi nhuận để lại; phát hành cổ phiếu, trái phiếu; sáp nhập, hợp nhất, mua lại. Xử lý các NHTM cổ phần yếu kém và có khả năng gây rủi ro lớn cho hệ thống ngân hàng, bao gồm cả các biện pháp giải thể, phá sản. Bảo đảm duy trì mức vốn tự có của các NHTM phù hợp với quy mô tài sản có trên cơ sở thực hiện tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 8% trong trung hạn và 10% trong dài hạn. 2.2.2 Hoàn thành việc cổ phần hoá đối với các NHTM nhà nước Các NHTM hiện nay đang trong quá trình cổ phần hoá, tuy nhiên quá trình này cần được đẩy nhanh hơn nữa theo nguyên tắc thận trọng, bảo đảm ổn định kinh tế - xã hội và an toàn hệ thống ngân hàng. Khi thực hiện cổ phần hoá, các NHTM cần thuê các công ty có uy tín của nước ngoài đánh giá đúng tài sản có của mình, đặc biệt là tài sản cố định theo giá thị trường và các chuẩn mực quốc tế để tăng vốn tài sản có và vốn tự có của các NHTM nhà nước. Việc sáp nhập và hợp nhất những ngân hàng với nhau hay giữa ngân hàng và bảo hiểm cần có sự cân nhắc về việc chọn đối tượng sáp nhập. Có thể nói, đây là một phương pháp hữu hiệu, thiết thực trong nền kinh tế thị trường, nó mang lại nhiều lợi ích cho hệ thống ngân hàng như: Làm tăng quy mô vốn nhanh chóng, làm tăng khả năng thực hiện đa dạng dịch vụ và thực hiện một cách chuyên nghiệp các dịch vụ tài chính khác nhau, các định chế tài chính có thể tự cứu lấy nhau trước khi cần sự can thiệp của nhà nước. 2.2.3 Nâng cao hiệu quả kinh doanh của ngân hàng Một là, xây dựng những chiến lược kinh doanh lâu dài đối với các NHTM; đa dạng hoá danh mục sản phẩm, bằng cách thay thế những sản phẩm ngân hàng truyền thống bằng những sản phẩm ngân hàng hiện đại, từ đó tạo dựng thương hiệu cho các sản phẩm và thương hiệu của các TĐTC - NH. Hai là, các NHTM cần chú ý phát triển mạng lưới, tập trung xây dựng các chi nhánh lớn trong nước, xây dựng hệ thống công ty con và chi nhánh, xây dựng các đại lý và công ty con ở nước ngoài. Mở rộng mạng lưới thông qua việc hình thành các công ty hoạt động trong các lĩnh vực có liên quan và có khả năng hỗ trợ cho hoạt động của NHTM như công ty bảo hiểm nhân thọ, Công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, Công ty tài chính và dịch vụ chuyển tiền… Các công ty là các kênh phân phối sản phẩm, góp phần tận dụng lợi thế sẵn có của ngân hàng trong việc nắm bắt các cơ hội mở ra từ quá trình mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế. 2.2.4 Chú trọng nâng cao trình độ công nghệ Chúng ta cần xây dựng, tổ chức, tăng cường nguồn nhân lực; phát triển sản phẩm hiện đại phù hợp cho từng ngân hàng đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. Bên cạnh đó, các ngân hàng cần tăng cường quản trị hệ thống thông tin về khách hàng, của đối thủ cạnh tranh, thông tin bảo mật… Ngoài ra, cần có một hệ thống thanh toán hiện đại liên ngân hàng để thực hiện việc thanh toán các khách hàng khác hệ thống được nhanh gọn hơn. 2.2.5 Xây dựng mô hình phát triển các TĐTC – Ngân hàng Hiện nay, mô hình quản trị điều hành tại các NHTM Nhà nước về thực chất là mô hình của doanh nghiệp Nhà nước (Tổng công ty nhà nước). Mô hình này đã bộc lộ không ít khuyết điểm, do vậy, việc chuyển sang mô hình NHTM cổ phần đều được tổ chức thành 2 cấp: trụ sở chính và chi nhánh. Tại hội sở chính, mô hình kết cấu chung bao gồm: Hội đồng quản trị, ban giám đốc điều hành, các phòng ban chức năng. Tuy nhiên, hội đồng quản trị chưa thực sự đóng vai trò là cơ quan quản lý cao nhất của NHTM, chưa tập trung được thông tin về hoạt động của ngân hàng. Chức năng, quyền hạn của hội đồng quản trị chưa được xác định rõ ràng, thiếu sự gắn kết thường xuyên giữa hội đồng quản trị và ban giám đốc điều hành. Xuất phát từ tình hình thực tế hiện nay, việc sớm xác định và lựa chọn mô hình TĐTC - NH từ các NHTM nhà nước cần được xác định dựa trên những nguyên tắc sau: Kế thừa và phát huy những ưu điểm của mô hình tổ chức hiện hành Không dập khuôn máy móc mô hình của ngân hàng nước ngoài Không gây xáo trộn lớn đến hoạt động kinh doanh Tập trung chức năng quản lý cần thiết và chủ yếu tại ngân hàng gốc của tập đoàn Bộ máy gọn nhẹ, không trùng lắp, chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ Phù hợp với luật pháp Việt Nam và thông lệ quốc tế Xây dựng phương án xử lý nợ xấu cho các NHTM nhà nước nhằm xử lý dứt điểm nợ xấu, đồng thời coi đây là một trong những nội dung chủ yếu để tăng cường năng lực tài chính cho các ngân hàng Có giải pháp bổ sung nguồn vốn điều lệ cho các NHTM nhà nước trước khi tiến hành cổ phần hoá Theo nguyên tắc trên, TĐTC - NH hình thành từ NHTM nhà nước theo mô hình hỗn hợp giữa cấu trúc Holding với cấu trúc nhất thể (tập trung quyền lực), hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con, vừa tập trung vừa phân quyền, nhưng hướng tới hiệu quả tổng thể của tập đoàn. Cụ thể là: - TĐTC - NH là tổ hợp ngân hàng mẹ và các công ty con; - Ngân hàng mẹ có tư cách pháp nhân, kế thừa quyền và nghĩa vụ hợp pháp của NHTM nhà nước trước khi chuyển đổi. Bộ máy quản lý của ngân hàng mẹ chính là bộ máy của tập đoàn. Tập đoàn sử dụng bộ máy điều phối của ngân hàng mẹ làm cơ quan giúp việc quản lý điều hành và tư vấn chuyên môn. Cấu trúc của ngân hàng mẹ gồm: Hội đồng quản trị thực hiện chức năng quản lý tập đoàn; tổng giám đốc thực hiện chức năng điều hành tập đoàn; ban kiểm soát thức hiện chức năng kiểm tra, giám sát hoạt động của tập đoàn; văn phòng tập đoàn và các ban chức năng là bộ phận tham mưu giúp việc cho ban lãnh đạo tập đoàn; - Các công ty con độc lập trực tiếp kinh doanh dịch vụ tài chính phi ngân hàng. 2.2.6 Phát triển dịch vụ ngân hàng Một là, phát triển các dịch vụ trên thị trường tài chính, chủ yếu trên thị trường chứng khoán. Các ngân hàng có thể phối hợp với các công ty chứng khoán thực hiện dịch vụ cho vay cầm cố cổ phiếu, cầm cố chứng khoán để đầu tư chứng khoán. Bên cạnh đó, các ngân hàng cần tiếp tục triển khai nghiệp vụ lưu ký chứng khoán, thanh toán bù trù chứng khoán và ngân hàng giám sát. Hai là, phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ tiện ích và hiện đại. Theo đó, dịch vụ ngân hàng bán buôn là dành cho công ty, tập đoàn kinh doanh,... còn dịch vụ ngân hàng bán lẻ là dành cho khách hàng cá nhân. Các ngân hàng cần thực hiện kế hoạch tăng tiện ích của tài khoản cá nhân (như thanh toán hoá đơn tiền điện, điện thoại, tiền lương hưu,... Ba là, mở rộng các dịch vụ ngân hàng quốc tế để nâng cao chất lượng dịch vụ: kinh doanh vàng trên tài khoản nước ngoài, dịch vụ Option về kinh doanh cà phê kỳ hạn trên thị trường nước ngoài, bao thanh toán (Factoring), quyền chọn tiền tệ, hoán đổi lãi suất, quản lý vốn trên tài khoản của khách hàng, dịch vụ chuyển tiền kiều hối,... 2.2.7 Về nhân lực Cần quan tâm đến vấn đề đào tạo đội ngũ cán bộ chủ chốt để có thể vận hành tập đoàn. Nhân lực lãnh đạo là vấn đề quan trọng và tiên quyết để đảm bảo các tập đoàn được quản trị một cách phù hợp với thông lệ, tránh được những rủi ro về kinh tế và pháp lý trong điều kiện nước ta hội nhập sâu rộng vào kinh tế thế giới. Tóm lại, phát triển thành một TĐTC đa năng là một mục tiêu chiến lược của các NHTM Việt Nam. Vì vậy, các NHTM cần phải nghiên cứu kỹ lưỡng để chọn hướng đi cho phù hợp, để trong tương lai, các NHTM chủ chốt Việt Nam sẽ trở thành những TĐTC vững mạnh trong khu vực và thế giới. KẾT LUẬN Vai trò của các TĐTC trong xu thế toàn cầu hóa là hết sức quan trọng. Với đặc thù là một tổ hợp kinh tế theo mô hình công ty mẹ - con có quy mô lớn về vốn và tài sản, hoạt động kinh doanh đa ngành và nhiều chức năng, các tập đoàn có những ưu thế nhất định trong kinh doanh, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng, nâng cao năng lực tài chính, năng lực kinh doanh và cạnh tranh trong điều kiện hội nhập kinh tế. Từ nghiên cứu các TĐTC trên thế giới đã rút ra những kinh nghiệm trong quá trình hình thành và phát triển TĐTC ở Việt Nam để các tập đoàn hoạt động có hiệu quả và làm nòng cốt trong việc thúc đẩy kinh tế xã hội. Trước những đòi hỏi cấp bách và những thách thức lớn của quá trình hội nhập, cụ thể là việc thực hiện những cam kết song phương và đa phương về lĩnh vực tài chính - ngân hàng, các NHTM Việt Nam đang đứng trước những sự lựa chọn mang tính cốt tử trong việc xác định chiến lược kinh doanh và cách thức đổi mới mô hình hoạt động. Việc các NHTM có lựa chọn, xây dựng ngân hàng trở thành một TĐTC - NH đa năng hay không là phụ thuộc vào chiến lược riêng biệt của từng NHTM. Tuy nhiên, để trở thành các TĐTC mạnh, có thể đứng vững, phát triển và hội nhập với nền tài chính - ngân hàng khu vực và thế giới đòi hỏi một quá trình lao động sáng tạo và bền bỉ của các cấp quản lý vĩ mô và của bản thân từng ngân hàng. Với Bảo Việt, hy vọng kinh nghiệm về tổ chức và điều hành của các TĐTC lớn là bài học hữu ích để vận dụng vào quá trình phát triển Bảo Việt thành TĐTC đa năng theo đúng mục tiêu và kế hoạch mà tập đoàn đặt ra. TÀI LIỆU THAM KHẢO Quốc hội (2005), Luật Doanh nghiệp, hiệu lực từ ngày 10/07/2006. Trần Văn Hiền (Số 5/2006), Tài chính Doanh nghiệp, 7-8. TS. Ngô Minh Châu (9/2006), Tạp chí Ngân hàng, 1-2. TS. Nguyễn Đình Nguộc (8/2006), Tạp chí Ngân hàng, 3-5. TS. Đỗ Thị Hồng Hạnh và Vũ Thị Hồng Nhung (10/2006), Tạp chí Ngân hàng, 28-31. ThS. Hoàng Thị Tuyết (Số 4, 4/2005), Chứng khoán Việt Nam, 32-35. Vũ Xuân Thanh (Số 24, 12/2006), Tạp chí Ngân hàng, 15-18. ThS. Lê Thị Huyền Diệu (Số 6/2006), Tạp chí Ngân hàng, 17-19. GS.TSKH. Vũ Huy Từ (Số 1/2007), Tổ chức Nhà nước, 18-19. TS. Hoàng Huy Hà (12/2006), Tài chính, 20-23. ThS. Đoàn Thái Sơn (Số 22, 11/2006), Tạp chí Ngân hàng, 5-7. Phạm Thị Khanh (Số 342, 11/2006), Nghiên cứu Kinh tế, 18-29. Doãn Hữu Tuệ (Số 349, 6/2007), Nghiên cứu Kinh tế, 62-71. www.citigroup.com www.prudential.com.vn www.prudential.com www.hsbc.com www.wikipeida.org/wiki/HSBC www.mizuho-fg.co.jp/english (14/10/2002). www.wikipedia.org/wiki/citigroup www.vnn.vn/cntt/doanhnghiep (2/6/2004). www.vnn.vn/kinhte/taichinh (1/3/2006). www.vnn.vn/kinhte/taichinhnganhang (8/4/2003). www.vnmedia.vn/newsdetail.asp?NewsId=94302&CatId=26 (22/06/2006). www.baoviet.com.vn (2/1/2003). www.inpro.vn/content/view/110/2/ (22/06/2007). (15/09/2005). www.vnmedia.vn/newsdetail.asp?NewsId=85521&CatId=26 (30/3/2007) www.vnn.vn/kinhte/2005/02/371796/ (1/2/2005). www.vnmedia.vn/newsdetail.asp?NewsID=44438&CatId=25 (10/11/2006). www.dddn.com.vn/Desktop.aspx/TinTuc/The-gioi/Tu_30-3_thuong_hieu_Citigroup_doi_thanh_Citi/?SearchTerms=citigroup (1/4/2007). www.kiemtoan.com.vn/modules.php?name=News&file=article&sid=252 (28/04/2006) www.taichinhvietnam.com/taichinhvietnam/modules.php?name=News&file=article&sid=9767 (11/07/2007). www.lantabrand.com/search.html?slgroup=all&page=1&id=1&news=1644&txt_search=HSBC (13/08/2005). www.vneconomy.vn/?home=detail&page=category&cat_name=06&id=077644b234d79c (25/01/2007). www.moi.gov.vn/News/detail.asp?Sub=4&id=32233 (31/07/2007) www.dddn.com.vn/Desktop.aspx/Tin-DN/Thi-Truong/Ky_vong_cua_HSBC/ (23/05/2007). www.mof.gov.vn/Default.aspx?tabid=612&ItemID=882 (14/5/2003). (17/8/2007). DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TĐKT: Tập đoàn kinh tế TĐTC: Tập đoàn tài chính TĐTC - NH: Tập đoàn tài chính - Ngân hàng SL: Số lượng TNHH: Trách nhiệm hữu hạn CHLB Đức: Cộng hoà Liên bang Đức HĐQT: Hội đồng quản trị BGĐ: Ban giám đốc BHNT: Bảo hiểm nhân thọ BHPNT: Bảo hiểm phi nhân thọ NHTM: Ngân hàng thương mại DANH MỤC BẢNG BIỂU Tên Nội dung Trang Bảng 1 Kết quả hoạt động kinh doanh của một số TĐTC lớn nhất thế giới năm 2006 20 Bảng 2 Quy mô TĐTC so với các TĐKT khác trong 10 tập đoàn lớn nhất thế giới năm 2006 24 Bảng 3 Mô hình tổ chức quản lý của tập đoàn ở một số nước 29 Bảng 4 Kết quả hoạt động kinh doanh bảo hiểm của Bảo trong thị trường bảo hiểm Việt Nam giai đoạn 2004 - 6/2007 40 Bảng 5 Kết quả kinh doanh của Citigroup từ năm 2002 -2006 47 Biểu đồ Lợi nhuận của từng lĩnh vực kinh doanh năm 2006 của Citigroup 48 Sơ đồ Mô hình tiêu biểu của một Tập đoàn tài chính - bảo hiểm 68 MỤC LỤC ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVNH015.doc
Tài liệu liên quan