Nghiên cứu những thách thức và giải pháp chủ yếu phát triển bền vững vùng sinh thái ngập mặn ven biển huyện Giao Thuỷ - Tỉnh Nam Định

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI ----------eêf---------- NGUYỄN THỊ THU HÀ NGHIÊN CỨU NHỮNG MÂU THUẪN VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VÙNG SINH THÁI NGẬP MẶN VEN BIỂN HUYỆN GIAO THUỶ - TỈNH NAM ĐỊNH LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ Chuyên ngành: KINH TẾ NÔNG NGHIỆP Mã số: 60.31.10 Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. LÊ HỮU ẢNH HÀ NỘI - 2009 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các nội dung nghiên cứu và kết quả nêu trong lu

doc129 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1507 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nghiên cứu những thách thức và giải pháp chủ yếu phát triển bền vững vùng sinh thái ngập mặn ven biển huyện Giao Thuỷ - Tỉnh Nam Định, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ận văn là trung thực và chưa từng được công bố cho việc bảo vệ một học vị nào. Tôi xin cam đoan rằng những mục trích dẫn trong luận văn đều được trích dẫn rõ nguồn gốc, mọi sự giúp đỡ đều được cảm ơn. Hà Nội, ngày tháng năm 2009 LỜI CẢM ƠN Trước hết tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến các Thầy, Cô Khoa Kế toán quản trị, Khoa Kinh tế và Phát triển nông thôn, Viện Đào tạo Sau Đại học, đặc biệt là các Thầy, Cô trong Bộ môn Tài chính Đại học Nông nghiệp Hà Nội, đã góp ý, chỉ bảo và quan tâm đến từng bước trong tiến trình thực hiện luận văn của bản thân. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến PGS.TS Lê Hữu Ảnh đã dành nhiều thời gian tâm huyết, tận tình hướng dẫn, chỉ bảo cho tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn này. Tôi xin cảm ơn lãnh đạo UBND huyện Giao Thủy, Công an huyện Giao Thủy, UBND các xã vùng đệm, Vườn Quốc gia Xuân Thủy đã tạo điều kiện cho tôi thu thập số liệu một cách hệ thống trong suốt thời gian thực hiện luận văn. Tôi xin gửi lời cảm ơn gia đình và bè bạn đã động viên, khích lệ tôi trong suốt quá trình học tập cũng như trong suốt thời gian tôi tiến hành viết luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn và ghi nhận công lao trên./. Hà Nội, ngày tháng năm 2009 NGƯỜI CẢM ƠN NGUYỄN THỊ THU HÀ MỤC LỤC TỪ NGỮ VIÊT TẮT PTBV : Phát triển bền vững NTHS : Nuôi trồng hải sản HSTN : Hải sản tự nhiên VQG : Vườn Quốc gia GTSX : Giá trị sản xuất TNHH : Thu nhập hỗn hợp UBND : Ủy ban nhân dân RNM : Rừng ngập mặn LH1 : Loại hình 1 LH2 : Loại hình 2 BQ : Bình quân : : : : : : : : DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 3.1: Tình hình đất đai và sử dụng đất đai huyện Giao Thuỷ qua 3 năm 2006-2008 40 Bảng 3.2: Tình hình dân số và lao động của huyện Giao Thuỷ qua 3 năm 2006-2008 43 Bảng 3.3: Giao thông đường bộ 45 Bảng 3.4: Kết quả sản xuất kinh doanh huyện Giao Thuỷ qua 3 năm 2006-2008 48 Bảng 4.5: Tình hình nuôi tôm các xã vùng đệm năm 2008 57 Bảng 4.6: Tình hình nuôi vạng các xã vùng đệm năm 2008 58 Bảng 4.7: Tình hình khai thác HSTN ở các xã vùng đệm năm 2008 58 Bảng 4.8: Số lượng khách quốc tế đến VQG Xuân Thủy từ năm 2003 đến 6 tháng đầu năm 2008 59 Bảng 4.9: Số lượng khách du lịch nội địa đến VQG Xuân Thủy từ năm 2003 – 6 tháng đầu năm 2008 60 Bảng 4.10: Hiệu quả kinh tế trong nghề nuôi ong lấy mật (trong 1 năm) 61 Bảng 4.11: Phân tích lợi nhuận của mua bán hải sản tự nhiên của người thu gom 63 Bảng 4.12: Hiệu quả kinh tế trên 1 ha nuôi trồng tôm năm 2008 65 Bảng 4.13: So sánh hiệu quả kinh tế giữa nuôi tôm và nuôi vạng 69 (tính trên 1ha/năm) 69 Bảng 4.14: So sánh thu nhập giữa nhóm hộ NTHS và nhóm hộ đánh bắt HSTN 71 Bảng 4.15: Các bên tác động trực tiếp đến vùng sinh thái ngập mặn ven biển 77 Bảng 4.16 : Nông dân đã được tham gia vào tập huấn NTHS trong các xã vùng đệm 85 Bảng 4.17 : Dự kiến về diện tích các khu vực sử dụng trong vùng sinh thái ngập mặn ven biển 98 DANH MỤC BIỂU ĐỒ Biểu 3.1: Tình hình đất đai của huyện qua 3 năm (2006-2008) 42 Biểu đồ 4.2: Sự biến động về chi phí và lợi nhuận trên 1 ha NTHS 66 Biểu đồ 4.3: Thông tin về địa điểm đánh bắt của các hộ đánh bắt HSTN 72 Biểu đồ 4.4: Mối quan hệ tỷ lệ nghịch giữa số lượng người khai thác và sản lượng thu được (cho điểm) 74 Biểu đồ 4.5: Nguồn cung cấp vạng giống 87 Biểu đồ 4.6: Nguồn cung cấp tôm giống 87 Biểu đồ 4.7 : ý kiến của người dân về chính sách phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường 94 DANH MỤC CÁC HÌNH Hình 2.1. Mô hình PTBV của WCED-1987 [16] 7 Hình 2.2. Mô hình PTBV của Villen, 1990 [16] 7 Hình 2.3. Tương tác giữa 3 hệ thống tự nhiên- kinh tế- xã hội và PTBV [16] 8 Hình 2.4. Sơ đồ quan hệ thời gian của hệ kinh tế- xã hội – môi trường [16] 8 1. MỞ ĐẦU 1.1. Tính cấp thiết của đề tài Việt Nam là một nước ven biển có đường bờ biển dài trong khu vực Đông Nam Á, với hơn 3200km bờ biển. Đây là khu dân cư tập trung rất đông chiếm hơn 60% dân số cả nước [27]. Dân ở đây chủ yếu sống dựa vào các nguồn tài nguyên biển và ven biển. Tăng dân số nhanh đã và đang là sức ép rất lớn lên các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Ngược lại sự suy thoái về tài nguyên thiên nhiên cũng gây ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống vùng ven biển. Tại các vùng ven biển đang phát triển hoạt động nuôi trồng thuỷ sản đặc biệt là nuôi tôm. Phần lớn là các trại nuôi tôm quảng canh cải tiến đang bắt đầu có những vấn đề nghiêm trọng như ô nhiễm, dịch bệnh, làm giảm thu nhập hoặc thậm chí là thua lỗ. Sự lan rộng nuôi trồng thuỷ sản đã dẫn đến sự xáo trộn lớn cơ cấu xã hội. Vụ thu hoạch không đạt mức lợi nhuận dự tính đã làm tăng công nợ, tình trạng ngày một phụ thuộc hơn vào nguồn lực khác - điều này làm nuôi trồng thuỷ sản kém bền vững. Đồng thời phát triển nuôi trồng thủy sản cũng làm hạn chế tiếp cận các nguồn lực ven biển, loại những hộ gia đình ra khỏi nơi mưu sinh trước đây. Áp lực về cuộc sống đẩy đến hệ quả các hộ dân khai thác bừa bãi làm suy giảm nguồn lợi đáng kể. Vậy làm thế nào để đảm bảo hài hoà lợi ích giữa các nhóm khai thác nguồn lợi? Từ sự mâu thuẫn về kinh tế dẫn đến mâu thuẫn về xã hội giữa những nhóm người khai thác nguồn lợi ven biển. Ngoài các nguồn tài nguyên thiên nhiên có thể sinh lời ở vùng ven biển bị suy giảm nghiêm trọng tại toàn bộ miền duyên hải Việt Nam: 22 trong số 29 tỉnh ven biển cho biết số lượng loại sinh vật biển ở địa phương giảm rõ rệt [27]. Những dữ liệu từ Ấn Độ và Indonesia cho thấy 20% trại nuôi tôm ở những địa điểm vốn là rừng đước trước đây tại Vịnh Thái Lan đã bị phế bỏ chỉ sau 2 đến 4 năm và việc nuôi tôm cũng đang chuyển dịch sang cây trồng khác [27], các trang trại đang dịch quá về phía Nam để lại những vùng đất hoang phế không sử dụng được. Một tình hình tương tự tiềm tàng ở Việt Nam nếu không có những thay đổi về biện pháp sản xuất. Làm thế nào để đảm bảo về mặt kinh tế mà không làm tổn hại đến nguồn tài nguyên thiên nhiên? Giao Thuỷ là một huyện ven biển tỉnh Nam Định – đây là một vùng đặc biệt vừa tiếp giáp trực tiếp với biển, vừa tiếp giáp gián tiếp với biển thông qua vùng đất ngập mặn ven biển đồng thời là khu vùng đệm Vườn quốc gia Xuân Thuỷ. Chính vì vậy nơi đây vừa chịu áp lực trong phát triển bền vững như các khu ven biển khác vừa chịu áp lực từ vấn đề bảo tồn đa dạng sinh học hệ sinh thái rừng ngập mặn tại Vườn Quốc gia. Những áp lực trên đã tạo ra thách thức nổi cộm vùng ven biển đòi hỏi phải nghiên cứu trong quá trình phát triển. Và vấn đề đặt ra ở đây là nên phát triển về mặt kinh tế hay bảo tồn tài nguyên thiên nhiên? Hướng mở cho vấn đề này chỉ có thể là phát triển bền vững. Tuy nhiên, hiện nay phát triển bền vững mới chỉ đề cập tại từng ngành, từng lĩnh vực hay trong từng chương trình mà chưa có nghiên cứu tổng thể về vùng. Xuất phát từ tình hình trên, chúng tôi tiến hành đề tài: “Nghiên cứu những thách thức và giải pháp chủ yếu phát triển bền vững vùng sinh thái ngập mặn ven biển huyện Giao Thuỷ - Tỉnh Nam Định”. 1.2. Mục tiêu nghiên cứu 1.2.1. Mục tiêu chung Đề tài nghiên cứu nhằm phát hiện những thách thức trong phát triển bền vững vùng ven biển từ đó dự kiến một số giải pháp đề phát triển bền vững. 1.2.2. Mục tiêu cụ thể - Hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển bền vững nói chung và phát triển bền vững ở vùng ven biển nói riêng. - Đánh giá được những thách thức tiềm ẩn trong các mặt kinh tế-xã hội-môi trường. - Góp phần đề xuất một số giải pháp chủ yếu để đảm bảo cho phát triển bền vững vùng ven biển. 1.3. Đối tượng nghiên cứu 1.3.1. Đối tượng nghiên cứu - Các hoạt động kinh tế chủ yếu của cộng đồng dân cư tại vùng ven biển - nơi phát sinh những áp lực và thách thức trong phát triển bền vững. - Chương trình, chính sách, thể chế các bên tham gia trong phát triển bền vững. 1.3.2. Phạm vi nghiên cứu * Phạm vi về không gian Đề tài tập trung nghiên cứu 5 xã vùng đệm huyện Giao Thuỷ - Tỉnh Nam Định. * Phạm vi về thời gian - Số liệu thứ cấp thu được từ 2006 – 2008 - Số liệu sơ cấp thu được thông qua điều tra năm 2008. 2. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI 2.1. Một số vấn đề về phát triển bền vững 2.1.1. Khái niệm về phát triển bền vững Khái niệm về phát triển Thuật ngữ “phát triển” tuy ban đầu được các nhà kinh tế học định nghĩa là “tăng trưởng kinh tế” nhưng nội hàm của nó từ lâu đã vượt qua khỏi phạm vi này, được nâng cấp sâu sắc hơn và chính xác hơn. Theo từ điển Bách khoa Việt Nam thì “phát triển” là phạm trù triết học chỉ ra tính chất của những biến đổi đang diễn ra trong thế giới. Phát triển là một thuộc tính của vật chất. Mọi sự vật và hiện tượng của hiện thực không tồn tại trong trạng thái khác nhau từ khi xuất hiện đến lúc tiêu vong. Nguồn gốc của phát triển là sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập. Cho đến nay các nhà khoa học, các nhà kinh tế trên thế giới đã đưa ra khá nhiều định nghĩa, khái niệm khác nhau về phát triển. Tuy nhiên các định nghĩa và khái niệm đưa ra về cơ bản khá giống nhau trên một số quan điểm. Trong đó đáng chú ý có định nghĩa: “Phát triển là quá trình qua đó một xã hội người cùng nhau phấn đấu đạt tới thỏa mãn được các nhu cầu mà xã hội đó coi là cơ bản và hiện đại” [16]. Trong quan niệm sau đây, các yếu tố sau cần được lưu tâm - Phát triển là một quá trình. - Từng quốc gia, từng dân tộc theo phương thức dân chủ, tự định ra nhu cầu của mình mà coi đó là cơ bản và hiện đại. - Các nhu cầu cơ bản và hiện đại của xã hội và của con người luôn mang tính toàn diện bao quát toàn bộ các mặt của cuộc sống, chứ không chỉ là nhu cầu về kinh tế mặc dù nhu cầu về kinh tế là rất cơ bản. - Từng quốc gia, từng dân tộc phát huy sức mạnh vật chất, tinh thần và trí tuệ của mọi thành viên, đoàn kết cùng nhau phấn đấu đạt được sự thỏa mãn các nhu cầu mà mình coi là cơ bản và hiện đại. Khái niệm về phát triển bền vững Thuật ngữ PTBV lần đầu tiên được sử dụng trong bản “Chiến lược bảo tồn thế giới” do IUCN đề xuất (1980). Mục tiêu tổng thể của chiến lược này là “đạt được sự PTBV bằng cách bảo vệ các tài nguyên sinh vật” và thuật ngữ PTBN ở đây được đề cập tới với một nội dung hẹp, nhấn mạnh tính bền vững của sự phát triển về mặt sinh thái nhằm kêu gọi việc bảo tồn các tài nguyên sinh vật. Năm 1987, trong báo cáo “Tương lai chung của chúng ta”, Ủy ban Quốc tế về Môi trường và Phát triển (WCED) lần đầu tiên đã đưa ra một định nghĩa tương đối đầy đủ về PTBV là “sự phát triển đáp ứng được nhu cầu của hiện tại mà không làm tổn thương khả năng của các thế hệ tương lai trong việc thỏa mãn các nhu cầu của chính họ”[19]. Báo cáo đã khẳng định mối liên quan chặt chẽ giữa sự phát triển và môi trường. “Môi trường là nơi chúng ta sinh sống, phát triển, là những gì chúng ta làm để cố gắng cải thiện tất cả mọi thứ ở bên trong nơi chúng ra đang sống, và do vậy, hai vế này không thể tách rời nhau” (Gro Harlem Brundtland- Chủ tịch WCED) [19]. Báo cáo cũng đã nhấn mạnh 8 nội dung của PTBV: 1. Quan niệm lại khái niệm về tăng trưởng. 2. Thay đổi chất lượng của sự tăng trưởng. 3. Đáp ứng các nhu cầu cốt yếu về việc làm, lương thực, năng lượng. nước sạch và vệ sinh; 4. Đảm bảo sự bền vững về dân số 5. Bảo tồn và phát triển về tài nguyên. 6. Định hướng công nghệ và quản lý rủi ro. 7. Tích hợp công tác bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế trong quá trình ra quyết định. 8. Định hướng quan hệ quốc tế trong phát triển kinh tế. Định nghĩa của WCED về PTBV được sử dụng rộng rãi nhất hiện nay. Một định nghĩa khác cũng được nhiều người nhắc tới là trong cuốn sách “Hãy cứu lấy Trái Đất” (IUCN, UNDP, WWF, 1991) trong đó có định nghĩa: PTBV là “sự nâng cao chất lượng đời sống con người trong lúc đang tồn tại, trong khuôn khổ đảm bảo của các hệ sinh thái”, còn tính bền vững là “một đặc điểm đặc trưng của một quá trình hoặc một trạng thái có thể duy trì mãi mãi” [19]. Nội hàm về PTBV được tái khẳng định ở Hội nghị Rio-92 và được bổ sung hoàn chỉnh tại Hội nghị Johannesburg - 2002: “PTBV là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa ba mặt của sự phát triển. Đó là: phát triển kinh tế, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường” Mặc dù hiện này, thuật ngữ PTBV được sử dụng một cách rộng rãi nhất không chỉ ở phạm vi quốc tế, mà ngày càng được sử dụng rộng rãi hơn ở các cấp quốc gia và địa phương, nhưng còn rất nhiều người hoặc là hiểu sai khái niệm này hoặc là chưa yên tâm về nó (Tryzyra năm 1995) do họ chưa có quan điểm đầy đủ về vấn đề này. Ở đây bền vững không phải là một mục tiêu chính xác mà là một tiêu chuẩn đối với quan điểm hành động, đó là “một quá trình tiếp diễn, có tính lặp đi, lặp lại, thông qua đó kinh nghiệm trong việc quản lý các hệ thống phức hợp, được tính kỹ lại, được đánh giá và được vận dụng” [19]. Theo Stephen Viederman “Bền vững không phải là một vấn đề kỹ thuật cần giải quyết mà là một tầm nhìn vào tương lai, đảm bảo cho chúng ta có một lộ trình và giúp tập trung chú ý vào một tập hợp có giá trị và những nguyên tắc mang tính lý luận về đạo đức để hướng dẫn hành động của chúng ta” [16]. 2.1.2. Mô hình, nội dung phát triển bền vững Nói một cách khái quát, PTBV là sự phát triển hài hòa về cả ba mặt: kinh tế, xã hội, môi trường nhằm không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của con người không những cho thế hệ hiện tại mà còn cho thế hệ mai sau. Có một số mô hình/ sơ đồ PTBV với những sai khác nhất định về sự hài hòa giữa các lĩnh vực khác nhau của hoạt động kinh tế xã hội, chính trị và môi trường. Một số mô hình PTBV ◘ Mô hình PTBV của WCED, 1987: Mô hình PTBV này tập trung trình bày quan niệm về PTBV trong các lĩnh vực cụ thể như hình sau: Hình 2.1. Mô hình PTBV của WCED-1987 [16] ◘ Mô hình PTBV của Villen, 1990: Hình 2.2. Mô hình PTBV của Villen, 1990 [16] ◘ Mô hình PTBV trong mối quan hệ với 3 hệ thống tự nhiên- kinh tế - xã hội (Jacobs và sadler) Theo Jacobs và sadler, PTBV là kết quả các tương tác qua lại và phụ thuộc lẫn nhau của 3 hệ thống [16]: Hệ thống tự nhiên (bao gồm hệ sinh thái tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên, các thành phần môi trường của trái đất); hệ thống kinh tế (hệ sản xuất và phân phối sản phẩm); hệ thống xã hội (quan hệ của con người trong xã hội). Quan hệ giữa PTBV với 3 hệ thống trên được thực hiện ở sơ đồ sau. Hình 2.3. Tương tác giữa 3 hệ thống tự nhiên- kinh tế- xã hội và PTBV [16] Hình 2.4. Sơ đồ quan hệ thời gian của hệ kinh tế- xã hội – môi trường [16] Trong mô hình trên sự PTBV không cho phép ưu tiên phát triển hệ này gây ra sự suy thoái và tàn phá đối với 1 hệ khác hay PTBV là sự dung hòa các tương tác và thỏa hiệp giữa 3 hệ thống chủ yếu trên. Sự tương tác và thỏa hiệp của 3 hệ thống trên dẫn đến các mục tiêu PTBV trong lĩnh vực hẹp. - Sự tham gia của công dân vào quá trình quyết định ở lĩnh vực chính trị. - Khả năng tạo ra các thặng dư kinh tế, tăng trưởng kinh tê nhưng không làm suy thoái tài nguyên thiên nhiên bằng cách sử dụng kỹ thuật 1 cách khôn khéo. Nội dung phát triển bền vững PTBV là sự phát triển cân đối, hài hòa cả ba mặt: kinh tế, xã hội và môi trường. PTBV về kinh tế: là sự tiến bộ về mọi mặt của nền kinh tế thể hiện ở quá trình tăng trưởng kinh tế cao, ổn định và sự thay đổi về chất của nền kinh tế, gắn với quá trình tăng năng suất lao động, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế xã hội và bảo vệ môi trường theo hướng tiến bộ. Mục tiêu của PTBV về kinh tế là đạt được sự tăng trưởng ổn định, với cơ cấu hợp lý, đáp ứng được yêu cầu nâng cao đời sống của người dân, tránh được sự suy thoái hoặc đình trệ trong tương lai, tránh để lại gánh nặng nợ nần cho các thế hệ mai sau. Để đạt được sự PTBV về kinh tế, điều kiện tiên quyết là phải có: - Tăng trưởng kinh tế cao và ổn định. Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thực tế về quy mô giá trị tổng sản phẩm hàng hóa và dịch vụ của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định (thường là 1 năm). Mức tăng trưởng của nền kinh tế là mức tăng về giá trị tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và giá trị tổng thu nhập quốc dân (GNI), được tính trên phạm vi toàn nền kinh tế quốc dân hay tính bình quân theo đầu người khi so sánh giữa hai thời kỳ trước và sau đó. - Tăng trưởng kinh tế phải dựa trên cơ sở chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ, nghĩa là cơ cấu kinh tế hướng tới sự phát huy những lợi thế của đất nước và xu thế của thời đại. Đối với các quốc gia đang phát triển tăng trưởng cần giảm tỷ trọng giá trị sản phẩm của ngành nông nghiệp, tăng tỷ trọng giá trị sản phẩm công nghiệp, dịch vụ, có hàm lượng “chất xám” cao. - Tăng trưởng kinh tế phải dựa vào năng lực nội sinh là chủ yếu và phải làm tăng năng lực nội sinh. Năng lực nội sinh thể hiện ở các tiêu chí. Chất lượng nguồn nhân lực, năng lực sáng tạo công nghệ, mức độ tích lũy, mức độ hoàn thiện và hiện đại của cơ sở hạ tầng, mức tham gia của người dân vào sự tăng trưởng kinh tế. PTBV về xã hội: Là quá trình phát triển đạt được kết quả ngày càng cao trong việc thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, đảm bảo chế độ dinh dưỡng và chăm sóc sức khỏe cho người dân, mọi người đều có cơ hội trong giáo dục, có việc làm, giảm tình trạng đói nghèo, nâng cao trình độ văn minh về đời sống vật chất và tinh thần cho mọi thành viên của xã hội. Để PTBV về xã hội cần chú ý những nội dung sau: - Tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với giải quyết việc làm cho lao động. Gắn mục tiêu tăng trưởng kinh tế với mục tiêu tạo việc làm cho người dân, chống thất nghiệp. - Tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với xóa đói giảm nghèo, đó là mục tiêu vừa trước mắt vừa lâu dài, tạo động lực phát triển kinh tế, tạo mặt bằng phát triển đồng đều trong xã hội. - Tăng trưởng kinh tế phải đảm bảo ổn định xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống người dân. Ổn định xã hội được biểu hiện bằng việc không có xung đột sắc tộc, giai tầng, các bộ phận dân cư, đó là điều kiện để tăng trưởng kinh tế. Chất lượng cuộc sống được biểu hiện ở các chỉ tiêu thu nhập bình quân đầu người, chỉ số hưởng thụ về giáo dục và chỉ số về chăm sóc y tế: (người lớn biết chữ, tuổi thọ bình quân…). PTBV về môi trường: Là khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý và kiểm soát có hiệu quả ô nhiễm môi trường. PTBV về môi trường chú ý các khía cạnh như sau: - Tăng trưởng kinh tế không làm ô nhiễm, suy thoái và hủy hoại môi trường. Trong thực tế khi thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhiều quốc gia đã không quan tâm đúng mức đến vấn đề môi trường. Họ không chỉ khai thác làm cạn kiệt tài nguyên mà còn tạo chất thải làm ô nhiễm môi trường, đe dọa trực tiếp đến đời sống loài người hiện tại và tương lai. - Tăng trưởng kinh tế phải dựa trên cơ sở khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên. Cần cân nhắc kỹ khi có quyết định khai thác tài nguyên, chú ý tới hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường. Phải sử dụng công nghệ tiên tiến để sử dụng tiết kiệm tài nguyên và hạn chế ô nhiễm môi trường. Trong PTBV người ta còn đề cập tới khía cạnh đạp đức của vấn đề: Đó là mọi người đều có các quyền bình đẳng như quyền được sống, được tự do, quyền được hưởng tài nguyên và môi trường của trái đất. Các thế hệ đều có quyền như nhau trong việc thỏa mãn các nhu cầu phát triển của mình. Các loài sinh vật tạo nên sinh quyển nằm trong khối thống nhất của các hệ tự nhiên của Trái đất phải được bảo tồn cho dù nó có ý nghĩa như thế nào đối với con người. mọi người đều có quyền lợi và nghĩa vụ như nhau trong việc bảo vệ tài nguyên và môi trường Trái đất, việc bảo vệ con người vượt lên trên mọi ranh giới địa lý, xã hội, tư tưởng, văn hóa. 2.1.3. Điều kiện để phát triển bền vững * Quyết định của Nhà nước cần phải gắn vấn đề phát triển kinh tế - xã hội với vấn đề môi trường Vai trò của Nhà nước ở tầm vĩ mô có ảnh hưởng quan trọng đặc biệt, thông qua các đường lối, chủ trương chính sách phát triển kinh tế - xã hội tác động đến môi trường sống. Do vậy khi đề ra một chủ trương, đường lối, chính sách nào đó cần phải có sự tính toán, cân nhắc về khía cạnh đảm bảo môi trường được ổn định và cải thiện. * Xây dựng một lối sống và lối sản xuất thích hợp Xây dựng một lối sống thích hợp với phát triển bền vững: lối sống tiết kiệm lành mạnh biết chăm lo cho môi trường sống… Xây dựng một lối sản xuất thích hợp, tiết kiệm gắn liền với việc không ngừng nâng cao trình độ kỹ thuật, công nghệ và đổi mới tổ chức quản lý kinh tế - cải tiến các hoạt động. Phải kết hợp hợp lý, thống nhất cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. * Phải xây dựng bộ máy Nhà nước đủ mạnh, đủ năng lực Một quốc gia có nền chính trị ổn định, có phương hướng phát triển đúng đắn, hợp quy luật, thì thường có bộ máy điều hành mọi hoạt động của Nhà nước mạnh, có năng lực giải quyết mọi vấn đề do đời sống kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường đặt ra một cách thoả đáng và có hiệu quả. * Quá trình phát triển cần được kế hoạch hoá và quản lý một cách tổng hợp Mỗi thành tựu của sự phát triển đều phải là sự thừa kế của quá khứ một cách có chọn lọc và là sự định hướng cho tương lai phát triển sau này. Phát triển bền vững chỉ có thể đạt được khi mọi hoạt động kinh tế - xã hội đều phải được quản lý chặt chẽ, toàn diện, được lập kế hoạch thống nhất và khoa học, đảm bảo kết hợp tốt nhất giữa môi trường và phát triển. * Phải đưa hao tổn tài nguyên và môi trường vào hệ thống hạch toán quốc gia Nguồn tài nguyên được sử dụng và sinh lợi cho ai thì người đó phải có trách nhiệm góp phần bù đắp lại sự thiếu hụt và suy giảm trữ lượng và chất lượng nguồn tài nguyên, môi trường đã khai thác. Nhà nước phải xây dựng và hoàn thiện hệ thống hạch toán để xác định đầy đủ mọi chi phí trong các hoạt động phát triển, trong đó có các chi phí về khai thác, sử dụng các tài nguyên và thành phần môi trường. 2.2. Phát triển bền vững trên thế giới 2.2.1. Vài nét về lịch sử phát triển bền vững trên thế giới Với những thành tựu trong phát triển KTXH của loài người những năm trước và trong thập niên 70 theo hướng công nghiệp hóa, con người đã tác động mạnh vào sự hình thành theo quy luật của tự nhiên các nguồn tài nguyên thiên nhiên và hệ môi trờng sinh thái sự tác động ấy đã xảy ra những can thiệp một cách thô bạo vào hệ sinh thái tự nhiên, từ đó đã tạo ra những ảnh hưởng ngược chiều vào chính mục tiêu phát triển của xã hội loài người. Nói cách khác thực tiễn đã và đang xuất hiện một quá trình mâu thuẫn, đó là mâu thuẫn giữa tăng trưởng kinh tế với sự cân bằng của tự nhiên. Bên cạnh đó sự bùng nổ về dân số, phân hóa về thu nhập giữa các quốc gia, giữa các dân tộc diễn ra nhanh chóng đã làm cho mâu thuẫn ngày càng phát triển theo hướng gay gắt trong mối quan hệ của con người nói chung với các nguồn tài nguyên tự nhiên. Chính từ đó, khái niệm về PTBV đã hình thành và xuất hiện trong phong trào bảo vệ môi trường trên quy mô toàn cầu từ những năm đầu của thập niên 70 của thế kỷ 20. Hội nghị Stockholm (Thụy Điển) năm 1972 có thể coi là dấu ấn đầu tiên cho sự ra đời chính thức của phạm trù “ Phát triển bền vững”. Lúc đầu nó xuất phát từ quan điểm bảo vệ môi trường bền vững, nhưng càng về sau con người càng nhận thức ra rằng PTBV không chỉ đơn thuần là bảo vệ môi trường, mà nó còn bao hàm nội dung sâu rộng hơn cả về kinh tế, xã hội. Đúng 20 năm sau, tại hội nghị Thượng đỉnh về Môi trường và Phát triển, được tổ chức năm 1992 ở Rio de Janeiro (Braxin) với 179 nước tham gia [32]. Tại đây, các nhà hoạt động kinh tế, xã hội, môi trường cùng với các nhà chính trị đã thống nhất về quan điểm PTBV, coi đó là trách nhiệm chung của các quốc gia, của toàn nhân loại và đồng thuận thông qua tuyên bố Rio gồm 27 nguyên tác cơ bản về PTBV và CTNS 21 [32], xác định các nguyên tắc cơ bản cho hành động vì sự PTBV của toàn thế giới trong thế kỷ 21. Sau nội dung PTBV được “xốc lại” tại hội nghị thượng đỉnh năm 2002 về PTBV ở Johannesburg. Sau hội nghị này, nhiều quốc gia đã xây dựng Chương trình nghị sự riêng cho nước mình. Đến nay đã có 113 nước trên thế giới xây dựng và thực hiện CTNS21 về PTBV cấp quốc gia [32]. Các nước trong khu vực như Trung Quốc, Thái Lan, Singapore, Malaysia… đều đã xây dựng và thực hiện CTNS21 về PTBV. 2.2.2. Kinh nghiệm PTBV trên thế giới Cuộc chiến chống lại ô nhiễm môi trường ở Nhật Bản Từ cuối những năm 60 của thế kỷ trước, trước cuộc đấu tranh mạnh mẽ của các tầng lớp xã hội chống lại vấn nạn ô nhiễm môi trường, Nhật Bản lần đầu tiên có “Luật chống ô nhiễm môi trường” (1967). Đạo luật này đặt ra một nguyên tắc căn bản là: Người gây ra ô nhiễm phải chịu bồi thường những tổn thất cho người bị thiệt hại. Tiếp đó, vào năm 1970, Nghị viện Nhật Bản thông qua 14 dự luật quy định các tiêu chuẩn về chất thải đối với từng loại ô nhiễm [32], theo đó chất thải phải được kiểm soát ngay tại các nhà máy. Năm 1971, Nhật Bản thành lập một cơ quan chuyên trách về môi trường, đó là Cục môi trường [32]. Tại các địa phương, các cơ quan bảo vệ môi trường cũng được thành lập dưới chỉ đạo của Cục Môi trường với phương châm: Sử dụng tiềm lực kinh tế ngày càng to lớn do đạt tốc độ tăng trưởng cao để ngăn chặn nạn ô nhiễm và cải thiện điều kiện môi trường. Để khẳng định phương châm này, năm 1973 “Luật đền bù cho sự thiệt hại về sức khỏe do ô nhiễm” được ban hành. Theo đó, người gây ô nhiễm phải chịu trách nhiệm trước pháp luật, các cơ sở sản xuất phải thực hiện nghiêm túc các biện pháp cải tiến kỹ thuật để ngăn chặn ô nhiễm. Trong trường hợp ô nhiễm xảy ra, dù là vô tình hay sự cố kỹ thuật, cơ sở sản xuất vẫn phải chịu trách nhiệm bồi thường. Điều này buộc các cơ sở sản xuất phải rất thận trọng trong quá trình sản xuất, trong xử lý chất thải và thường xuyên phải bảo dưỡng thiết bị. Trên thực tế, cũng có những trường hợp các biện pháp phòng ngừa được thực hiện khá toàn diện nhưng sự cố vẫn xảy ra nhưng do chính quyền động viên nhân dân tích cực tham gia vào các hoạt động phòng chống ô nhiễm và sớm đưa ra công luận thực trạng ô nhiễm nên nhìn chung các biện pháp chống ô nhiễm rất hiệu quả. Cùng với các quy định và đạo luật nêu trên, năm 1988 Nhật Bản ban hành đạo luật quy định việc chế tạo và sử dụng chất CFC, một trong những tác nhân chủ yếu phá hoại tầng ôzôn. Năm 1991, “Luật tái chế các nguyên liệu thải loại” ra đời. Từ đầu năm 1994, “Luật cơ bản về môi trường” có hiệu lực. Cùng với những đạo luật trên, 47 tỉnh ở Nhật Bản cũng đề ra các quy định, quy chế bổ sung cho phù hợp với việc bảo vệ môi trường ở địa phương [32]. Bên cạnh đó, Chính phủ còn khuyến khích nghiên cứu, phát triển công nghệ tái chế và tìm kiếm các nguồn năng lượng mới. Trong thời gian 1978 -1985, Chính phủ đã tài trợ 61,1 tỷ yên cho chương trình nghiên cứu năng lượng mang tên “Dự án ánh sáng mới” [31]. Theo kế hoạch của Bộ Công thương, một khoản tiền 1,55 ngàn tỷ yên đang tài trợ cho dự án kéo dài 28 năm triển khai công nghệ chống ô nhiễm môi trường và khuyến khích gia tăng hiệu suất sử dụng các nguồn năng lượng thay thế [32]. Từ những kinh nghiệm và bài học đắt giá của quá khứ, Nhật Bản đã và đang thực hiện một chiến lược PTBV với tầm trí tuệ cao hơn, giàu tính nhân bản hơn để tạo nên một sự hòa hợp sâu sắc giữa con người và thế giới tự nhiên. Thông tin, áp lực cộng đồng và lựa chọn công nghệ sạch ở Ciudad Juarez, Mêhico Theo góc độ môi trường, có lý do xác đáng để tin rằng các nhà máy nhỏ là trường hợp tồi tệ nhất trong các ngành công nghiệp gây ô nhiễm. Nhiều doanh nghiệp nhỏ không được cấp phép, hoạt động với lao động giản đơn trong các thị trường nhiều cạnh tranh nên họ dường như không sẵn sàng và không có khả năng kiểm soát môi trường hữu hiệu. Lấy 20.000 lò gạch truyền thống ở Mêhicô làm ví dụ [32]. Với nhiên liệu là các năng lượng rẻ, gây ô nhiễm nặng như lốp cũ, đầu ô tô đã sử dụng, rác, củi vụn nên các lò gạch này là nguồn gây ô nhiễm không khí hàng đầu ở nhiều thành phố và nguồn gây tổn hại sức khỏe đặc biệt nghiêm trọng cho những ai tình cờ sống gần các kẻ thực dân làm gạch này. Nhưng điều tiết họ bằng các biện pháp truyền thống xem ra không thể thực hiện được. Đầu những năm 1990, một liên minh đứng đầu là một tổ chức tư nhân, Liên đoàn các hội tư nhân Mêhicô (FEMAP) đã bắt đầu giới thiệu phương pháp nung gạch bằng propan cho những người làm gạch ở Ciudad Juarez. Đó là một công nghệ lớn chứ không chỉ đơn giản là chuyển đổi chất đốt, bởi vì nó liên quan đến chi phí cố định lớn: Chi phí giao dịch, học tập, chi phí mua lò propan và chi phí sửa lò để chịu được nhiệt độ cao hơn. Các vật cản khác bao gồm giới hạn tài chính của người làm gạch, sự thiếu am hiểu về tác hại sức khỏe do đốt gạch vụn gây ra, sự hấp dẫn về mặt kinh tế do chất đốt rẻ nhưng bẩn và thiếu áp lực điều tiết chính thức. Tuy nhiên, đến cuối 1993, có từ 40 đến 70% trong số khoảng 300 người làm gạch ở Ciudad Juarez đã dùng propan để làm chất đốt chủ yếu [32]. FEMAP đã chống lại tập quán như thế nào? Thứ nhất, nó cung cấp thông tin phù hợp: các trường đại học địa phương lập các chương trình đào tạo cho những người điều khiển lò gạch và giáo dục họ cùng những cộng đồng xung quanh về hiểm họa đối với sức khỏe. Thứ hai, công ty propan khuyến khích những người điều hành lò gạch chuyển đổi chất đốt bằng cách cung cấp miễn phí cho họ tất cả các thiết bị đốt cần thiết, trừ lò. Thứ ba, những người tổ chức dự án làm việc với những nhà lãnh đạo các tổ chức cộng đồng và mậu dịch địa phương để gây áp lực buộc những người làm gạch phải lựa chọn propan. Kinh nghiệm của Ciudad juarez cho thấy cả hứa hẹn lẫn giới hạn của điều tiết phi chính thức. Vào đầu những năm 1990, với việc giá propan chỉ bằng nửa giá gạch vụn, sáng kiến của FEMAP đã khuyến khích những người gây ô nhiễm áp dụng công nghệ sạch hơn. Mặc dù vậy, gần đây chính phủ Mêhicô đã bãi bỏ trợ cấp chất đốt, dẫn tới giá propan tăng lên rất cao so với giá gạch vụn. Do vậy hầu hết những người điều hành lò đã trở lại với chất đốt cũ, việc điều tiết không chính thức đã không vượt qua được những quy luật kinh tế… Phong trào “người tiêu dùng xanh” ở nước Đức Chính phủ Đức đã đưa ra một đề án quốc gia để nghiên cứu và sản xuất những thứ phù hợp với việc bảo vệ môi trường và đề án này hiện đã được mở rộng khắp Châu Âu. Tuy nhiên, trước khi đề án đi vào cuộc sống, Chính phủ Đức đã phát động phong trào “người tiêu thụ xanh”. Là “người tiêu thụ xanh”, mỗi cá nhân có thể làm một điều gì đó tích cực, chẳng hạn dùng sức mua của mình để thúc đẩy thị trường tiêu thụ nhưng hàng hóa ít gây tổn hại cho môi trường bằng cách thay thế loại hàng hóa đang sử dụng bằng một loại hàng hóa ._.khác hoặc thôi không mua một sản phẩm đặc biệt nào đó. Mục tiêu của phong trào là làm thay đổi cách thức sử dụng tài nguyên thông qua kết quả tích cực của hàng triệu người. Lời khuyên đối với các cá nhân ở đây là: ▪ Trở thành người tiêu thụ có hiểu biết về các sản phẩm và công dụng của chúng; ▪ Đòi hỏi các sản phẩm phù hợp vói môi trường; ▪ Báo cho các nhà sản xuất và người bán hàng biết vì sao chọn mua hàng hóa này và không mua hàng hóa kia; ▪ Viết thư, bài cho các cơ quan truyền thông ở địa phương và nhà nước, các công ty dịch vụ và các nhà làm luật; ▪ Tham gia các chiến dịch và các tổ chức vận động; ▪ Động viên những người xung quanh cũng làm như mình. Phối hợp các nỗ lực để giảm nghèo Vì người nghèo gặp quá nhiều các vấn đề liên quan đến nhau, nên chỉ các chương trình cung cấp thông tín dụng là không đủ. Các chương trình đó có thể tạo ra thu nhập nhưng không giúp người nghèo đánh giá được các cơ hội đầu tư và không đáp ứng được nhu cầu đào tạo. Tuy nhiên, một tổ chức thúc đẩy tín dụng như vậy có thể làm việc vì nhiều mục tiêu bổ sung với các tổ chức phi chính phủ cũng đang cố gắng làm điều đó. ▪ Chương trình P4K của Inđônêxia (viết tắt theo tiếng Inđônêxia là “hướng dẫn tăng thu nhập cho các nông dân nhỏ”) được xây dựng dựa trên sự cộng tác giữa Bộ Nông nghiệp, ngân hàng Bank Rakyat Indonesia (BRI) và các chính quyền địa phương để xóa đói giảm nghèo cho 350.000 gia đình [32]. Cơ quan giáo dục và đào tạo thuộc Bộ nông nghiệp quản lý P4K ở 10 tỉnh, với giám đốc và nhân viên cấp tỉnh đóng ở các Trung tâm thông tin nông nghiệp. Bí quyết thành công của chương trình này là sự phối hợp giữa nhiều thiết chế khác nhau để có thể bổ sung cho nhau các quyền, địa phương giúp tiến hành điều tra kinh tế - xã hội để xác định làng nghèo sau đó, họ tìm cách làm lợi trực tiếp cho những người có thu nhập bình quân hàng năm quy ra gạo bình quân thấp hơn 320kg (khoảng 80USD) [32]. BRI cấp tín dụng cho các hoạt động tạo thu nhập thông qua 40.000 nhóm tự giúp đỡ [32]. Các nhóm này khai thác các nguồn lực và phương tiện do chính phủ và tư nhân giúp đỡ. Kết quả là: thu nhập hộ tăng khoảng 41-45% và nợ quá hạn tín dụng chỉ có 2% trên tổng số [32]. ▪ Chương trình IDT được triển khai vào năm 1994 nhằm vào các làng bị sự phát triển của nước bỏ lại đằng sau. Chương trình này phân phối trợ cấp tổng số 200 triệu USD giữa 20.000 làng và số tiền này sẽ được sử dụng làm vốn cho các hoạt động tạo thu nhập; đồng thời nó được kết hợp với những chương trình những công trình công cộng [32]. Giữa những năm 1970 và 1990, tỷ lệ người dân sống dưới mức nghèo khổ ở Inđônêxia chính thức giảm từ 56% xuống 15% [32]. Bài học rút ra từ việc nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế trong xây dựng và thực hiện chiến lược PTBV - Huy động sức mạnh trí tuệ toàn dân tộc để xây dựng chiến lược PTBV. PTBV hàm chứa nội dung rộng hơn bao trùm tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội loài người. Do đó, huy động sức mạnh trí tuệ toàn dân tộc để xây dựng chiến lược PTBV là hết sức cần thiết. - Xác định rõ mục tiêu, nguyên tắc, nội dung PTBV; - Thành lập tổ chức hay hợp đồng quản lý và chỉ đạo thực hiện chiến lước PTBV; - Xác lập hệ thống chỉ tiêu phục vụ công tác đánh giá kết quả thực hiện chiến lược PTBV; - Xây dựng năng lực đảm bảo thực hiện đảm bảo chiến lược PTBV, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đảm bảo cho việc thực hiện chiến lược PTBV; - Huy động các nguồn lực đảm bảo thực hiện chiến lược PTBV; - Đẩy mạnh nghiên cứu triển khai phục vụ chiến lược PTBV; - Xây dựng mô hình và nhân điển hình về PTBV; - Tăng cường giáo dục nâng cao nhận thức cho toàn dân, biến nhận thức thành hành động cụ thể, thực hiện chiến lược PTBV; - Đẩy mạnh hợp tác quốc tế để thực hiện chiến lược PTBV. 2.3. Phát triển bền vững ở Việt Nam 2.3.1. Tiến trình thể chế hóa cơ chế chính sách về PTBV ở Việt Nam PTBV là nhu cầu cấp bách và xu thế tất yếu trong tiến trình phát triển của xã hội loài người, vì vậy đã được hầu hết các quốc gia trên thế giới dễ dàng đồng thuận xây dựng thành Chương trình nghị sự cho từng thời kỳ phát triển của lịch sử loài người và mỗi quốc gia. Tuy nhiên, nhận thức về PTBV ở nhiều quốc gia trên thế giới cũng như ở Việt Nam đã trải qua nhiều thời kỳ khác nhau và ngày càng rõ nét. Tư tưởng PTBV đã được Đảng và Nhà nước ta quan tâm từ khá sớm và là vấn đề nhất quán trong các chủ trương, chính sách của Đảng, Chính phủ và Quốc hội, đã được thể hiện trong các văn kiện, các chương trình, kế hoạch phát triển đất nước phù hợp với từng thời kỳ khác nhau. - Có thể nói tư tưởng và mong muốn về PTBV ở Việt Nam đã được hình thành ngay từ năm 1945, khi thành lập nước Việt Nam mới - nước Việt Nam dân chủ cộng hòa – mong muốn ấy được thể hiện ngay trong bản quốc ca hùng tráng của nước ta, “ xây dựng nước non Việt Nam ta vững bền”. Với lời lẽ trong sáng đầy ý nguyện tốt lành ấy chính là điều mong ước cho một tương lai đất nước phát triển trường tồn. - Ngày 12/06/1991, quan điểm PTBV đã được khẳng định trong Quyết định số 187- CT của Chính phủ, Nhà nước ta đã chính thức công bố “Kế hoạch hành động Quốc gia về môi trường và PTBV giai đoạn 1991-2000”. - Năm 1992, Việt Nam chính thức ký Bản tuyên ngôn về môi trường và PTBV tại Hội nghị về môi trường và PTBV của Hội nghị các nguyên thủ của 179 Quốc gia trên Thế giới họp tại Rio de janeiro, Braxin. - Năm 1993, Luật Bảo vệ môi trường đã được Quốc hội nước ta thông qua và có hiệu lực từ ngày 10/01/1994. Luật này cụ thể hóa điều 29 của Hiến pháp năm 1992 trong công tác quản lý Nhà nước về môi trường: giao trách nhiệm cho chính quyền các cấp, các cơ quan và mọi công dân trong việc bảo vệ môi trường, tuân thủ các nguyên tắc bảo vệ môi trường, là cơ sở pháp lý để điều chỉnh các hoạt động, các hành vi của mỗi cá nhân, mỗi tổ chức và toàn xã hội. Luật bảo vệ môi trường được ban hành để nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân đảm bảo quyền con người được sống trong môi trường lành mạnh, phục vụ sự nghiệp phát triển lâu bền của đất nước, góp phần bảo vệ môi trường khu vực toàn cầu [21]. - Năm 1998, Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam đã ra chỉ thị số 36 CT/TW, trong đó quan điểm về PTBV đã được khẳng định. Nội dung của chỉ thị 36 CT/TW nhấn mạnh: “Bảo vệ môi trường là nội dung cơ bản không thể tách rời trong đường lối, chủ trương và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tất cả các cấp, các ngành là cơ sở quan trọng bảo đảm PTBV” [7]. - Năm 2001, tại Đại hội lần thứ IX của Đảng lần đầu tiên Đảng ta đã thông qua chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2001-2010) trong đó đã khẳng định quan điểm phát triển đất nước là “phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường” và “Phát triển kinh tế - xã hội gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường, đảm bảo sự hài hòa giữa môi trường nhân tạo với môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học”[32]. - Năm 2002, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược toàn diện về tăng cường xóa đói giảm nghèo và định hướng PTBV ở Việt Nam [8]. - Năm 2003, Chính phủ Việt Nam chính thức phê duyệt chiến lược bảo vệ môi trường Quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, trong đó quan điểm về PTBV được tái khẳng định “Bảo vệ môi trường mang tính Quốc gia, khu vực và toàn cầu cho nên phải kết hợp giữa phát huy nội lực với tăng cường hợp tác quốc tế trong bảo vệ môi trường và PTBV [9]. - Năm 2004, Bộ chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết 41-NQ/TW về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiên đại hóa đất nước, trong đó nêu rõ các quan điểm là “Bảo vệ môi trường vừa là mục tiêu, vừa là một trong những nội dung cơ bản của PTBV, phải được thể hiện trong các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, dự án phát triển kinh tế - xã hội của từng ngành, từng địa phương. Khắc phục tư tưởng chỉ chú trọng phát triển kinh tế xã hội mà coi nhẹ bảo vệ môi trường. Đầu tư cho bảo vệ môi trường là đầu tư cho PTBV” [10]. - Năm 2005, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, tại kỳ họp thứ VIII đã thông qua Luật Bảo vệ môi trường sửa đổi. Luật Bảo vệ môi trường sửa đổi năm 2005 đã thể hiện các quan điểm và nguyên tắc sau đây: Quán triệt, thể chế hóa quan điểm Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng về việc cần thiết phải “Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”; đặc biệt là các quan điểm, chủ trương, nhiệm vụ đã nêu trong Nghị quyết số 41- NQ/TW ngày 15 tháng 11 năm 2004 của Bộ Chính trị về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước [22]. Năm 2006, quan điểm PTBV càng được khẳng định đậm nét hơn và đã trở thành khẩu hiệu hành động của Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ X, đó là: “Đại hội của trí tuệ, đổi mới, đoàn kết và PTBV”. Quan điểm đó đã được xác định trong văn kiện Đại hội Đảng X và được cụ thể hóa trong các chương trình hành động của Chính phủ. Có thể khẳng định chắc chắn rằng tư tưởng, quan điểm PTBV ở nước ta đã trở thành quan điểm chỉ đạo nhất quản của Đảng, hành động cụ thể của Chính phủ, ý chí của toàn dân, nó xuyên suốt mọi chủ trương chính sách của Đảng và Chính phủ và được cụ thể hóa thành mục tiêu PTBV ở nước ta, được thể chế hóa bằng những văn kiện của Đảng, chương trình hành động của Chính phủ và chỉ tiêu kế hoạch của Nhà nước. 2.3.2. Thực trạng PTBV ở Việt Nam Những thành tựu chủ yếu * Về kinh tế: Nền kinh tế Việt Nam đã từng bước chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường, tăng trưởng với tốc độ cao và tương đối ổn định. Trong những năm của thập kỷ 90 (thế kỷ XX), tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng bình quân 7,5%/năm, GDP năm 2000 đã gấp 2 lần so với năm 1990 [16]. Năm 2006, 2007 nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng cao lần lượt là 8,23% và 8,48% [13]. Năm 2008, tốc độ tăng trưởng kinh tế có giảm xuống mức 2,63% nhưng xét chung cả giai đoạn, kinh tế Việt Nam đã tăng trưởng bình quân 7,64%/năm [15]. Đây là tốc độ tăng trưởng cao và là thành tựu hết sức to lớn nếu xét trong điều kiện rất khó khăn (thiên tai, dịch bệnh, biến động kinh tế vĩ mô trong nước, sự biến động giá cả thế giới và khủng hoảng kinh tế toàn cầu…). Cơ cấu kinh tế có bước chuyển dịch mạnh theo hướng CNH, HĐH. Tỷ trọng ngành công nghiệp – xây dựng đã tăng từ 40,09% năm 2004 lên 41,6% năm 2007 ước thực hiện 39,91% năm 2008 [13], tỷ trọng nông, lâm, ngư nghiệp giảm từ 21,76% năm 2004 xuống còn 20,3% năm 2007 ước thực hiện 21,99% năm 2008 [13]. Trong ngành nông nghiệp, sản xuất lương thực từ mức trên 37 triệu tấn năm 2003 đến gần 40 triệu tấn năm 2007 [16]; lương thực có hạt bình quân đầu người tăng từ 303 kg năm 1990 lên 462kg năm 2003 [16], không những đảm bảo an ninh lương thực vững chắc cho đất nước mà còn đưa Việt Nam vào danh sách những nước xuất khẩu gạo hàng đầu của thế giới. Nhờ bảo đảm an ninh lương thực, các cây nông nghiệp hàng hóa và chăn nuôi có điều kiện phát triển. Gạo, cà phê, cao su, hạt điều, chè, lạc, rau quả, thịt lợn, thủy hải sản đã trở thành những mặt hàng nông sản xuất khẩu quan trọng của Việt Nam. Công nghiệp đã được cơ cấu lại và dần dần tăng trưởng ổn định. Tốc độ tăng bình quân hàng năm trong mười năm qua đạt mức 13,6% [16]; trong đó khu vực quốc doanh tăng 11,4%, khu vực ngoài quốc doanh tăng 11,4% và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 22,5% [16]. Tính theo giá trị sản xuất, quy mô sản xuất công nghiệp năm 2000 đã gấp 3,6 lần năm 1990. Trong 3 năm 2001-2003 công nghiệp tiếp tục phát triển khá, giá trị sản xuất tăng 15%, trong đó công nghiệp quốc doanh tăng 12,1%/năm, công nghiệp ngoài quốc doanh tăng 19,8%/năm và công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 15,6%. Giá trị sản xuất công nghiệp năm 2007 tăng 17,1% so với năm 2006 [16]. Các ngành dịch vụ đã được mở rộng và chất lượng phục vụ đã được nâng lên, đáp ứng nhu cầu tăng trưởng kinh tế và phục vụ đời sống dân cư. Giá trị sản xuất các ngành dịch vụ bình quân 10 năm (1990-2000) tăng 8,2%, bình quân 3 năm (2001-2003) tăng trên 7%, giá trị sản xuất năm 2007 tăng 23,3% so với năm 2006 [16]. Thị trường trong nước đã thông thoáng hơn với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế. Giá trị hàng hóa bán ra trên thị trường trong nước năm 2000 đạt gấp 12,3 lần so với năm 1990. Trong 3 năm (2001-2003) thị trường trong nước càng trở nên sôi động, tổng mức lưu chuyển hàng hóa trên thị trường tăng bình quân hàng năm trên 12% [16]. * Về xã hội Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng về phát triển xã hội. Đầu tư của Nhà nước cho các lĩnh vực xã hội ngày càng tăng, chiếm trên 25% vốn ngân sách nhà nước, trong đó đặc biệt ưu tiên đầu tư cho xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, giáo dục- đào tạo, dậy nghề, y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân, phòng chống các tệ nạn xã hội, khoa học – công nghệ, bảo vệ môi trường cũng như các dịch vụ xã hội cơ bản khác. Nhiều chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển xã hội đang được triển khai thực hiện và đạt hiệu quả xã hội cao. Đời sống nhân dân ở cả thành thị và nông thôn đã được cải thiện rõ rệt. Công cuộc xóa đói giảm nghèo đạt được những thành tựu tích cực được dư luận trong nước và thế giới đánh giá ao. Tỷ lệ hộ nghèo đói trong cả nước tính theo chuẩn nghèo quốc gia giảm từ 58% năm 1993 xuống còn 29% năm 2002. Từ năm 1991 đến năm 2000, số người có việc làm tăng từ 30,9 triệu lên 40,6 triệu người, bình quân mỗi năm tăng thêm khoảng 2,9%. Mỗi năm có khoảng 1,2 triệu chỗ làm việc mới được tạo ra [16]. Đến năm 2000, cả nước đạt tiêu chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học, trên 90% dân cư được tiếp cận với dịch vụ y tế, 60% số hộ gia đình có nước sạch, sóng truyền hình đã phủ 85%, sóng phát thanh phủ 95% diện tích cả nước. Các chỉ tiêu xã hội được cải thiện hơn trước rất nhiều. Xếp hạng chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam năm 1992 xếp thứ 120/175 nước; năm 1999 xếp thứ 110/174 nước năm 2003 xếp thứ 109/175 nước. So với một số nước có tổng sản phẩm trong nước GDP trên đầu người tương đương, thì HDI của Việt Nam cao hơn đáng kể. Về chỉ số phát triển giới (GDI), năm 2000 Việt Nam được xếp thứ 140/ 174 nước, năm 2003 là 89/144 nước và 2004 là 87/144 nước [16]. * Về môi trường Việt Nam đã có nhiều nỗ lực nhằm khắc phục những hậu quả môi trường do chiến tranh để lại. Nhiều chính sách quan trọng về quản lý, sử dụng tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường đã được xây dựng và thực hiện trong những năm gần đây. Hệ thống quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường, giáo dục ý thức và trách nhiệm bảo vệ môi trường cho mọi tổ chức, cá nhân ngày càng được mở rộng và nâng cao chất lượng. Công tác giáo dục và truyền thông về môi trường đang được đẩy mạnh. Nội dung bảo vệ môi trường đã được đưa vào giảng dậy ở tất cả các cấp học trong hệ thống giáo dục quốc dân. Tỷ lệ thu gom rác thải đô thị tăng lên, số người được sử dụng nước sạch nhiều hơn. Năm 2007 đã có 69% dân số nông thôn được sử dụng nước sạch, tỷ lệ xử lý các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng đạt 49% [13]. Việc thực hiện những chính sách trên đã góp phần tăng cường quản lý, khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên; phòng ngừa, ngăn chặn ô nhiễm, suy thoái và sự cố môi trường; phục hồi và cải thiện một cách rõ rệt chất lượng môi trường sinh thái ở một số vùng. Những tồn tại chủ yếu * Về nhận thức: Quan điểm PTBV chưa được thể hiện một cách rõ rệt và nhất quán qua hệ thống chính sách và các công cụ điều tiết của Nhà nước. Các chính sách kinh tế - xã hội còn thiên về tăng trưởng nhanh kinh tế và ổn định xã hội, mà chưa quan tâm đầy đủ, đúng mức đến tính bền vững khi khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi tường. Mặt khác, các chính sách bảo vệ môi tường chú trọng việc giải quyết các sự cố môi trường, phục hồi suy thoái và cải thiện chất lượng môi trường, mà chưa định hướng phát triển lâu dài nhằm đáp ứng những nhu càu tương lai của xã hội. Quá trình lập quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng chính sách bảo vệ môi trường còn chưa được kết hợp chặt chẽ, chưa lồng ghép hợp lý với nhau. Cơ chế quản lý và giám sát sự PTBV chưa được thiết lập rõ ràng và có hiệu lực. * Về kinh tế: Nguồn lực phát triển còn thấp nên những yêu cầu về PTBV ít có đủ điều kiện vật chất để thực hiện. Đầu tư được tập trung chủ yếu cho những công trình mang lại lợi ích trực tiếp, còn rất ít đầu tư cho tái tạo các nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường. Cơ cấu kinh tế tuy có bước chuyển dịch tích cực, song chưa vững chắc, tỷ trọng các ngành dịch vụ thời gian qua có xu hướng giảm. Mô hình sản xuất và tiêu dùng đang diễn biến theo chiều hướng tiêu tốn nhiều nguyên vật liệu, năng lượng và thải ra nhiều chất thải và chất độc hại. Mô hình này đã, đang và sẽ tiếp tục làm cho môi trường tự nhiên bị quá tải bởi lượng chất thải và sự khai thác quá mức. Số nợ hiện nay của Việt Nam so với các nước khác chưa thuộc loại cao và chưa tới giới hạn nguy hiểm, song nó đang tăng lên nhanh chóng và sẽ có nguy cơ đe dọa tính bền vững của sự phát triển trong tương lai, nhất là khi vốn vay chưa được sử dụng có hiệu quả. Mức độ chế biến nguyên vật liệu trong nền kinh tế Việt Nam còn rất thấp và mức độ chi phí nguyên, nhiên, vật liệu cho một đơn vị giá trị sản phẩm còn cao; sản phẩm xuất khẩu phần lớn là sản phẩm thô; sự tăng trưởng kinh tế chủ yếu là theo chiều rộng…., trong khi đó những nguồn tài nguyên thiên nhiên chỉ có hạn và đã bị khai thác đến mức giới hạn. * Về xã hội: Sức ép về dân số tiếp tục gia tăng, tình trạng thiếu việc làm ngày một bức xúc, tỷ lệ hộ nghèo còn cao vẫn là những trở ngại lớn đối với sự PTBV. Chất lượng nguồn nhân lực còn thấp. Số lượng và chất lượng lao động kỹ thuật (về cơ cấu ngành nghề, kỹ năng, trình độ) chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động. Khoảng cách giàu nghèo và phân tầng xã hội có xu hướng tăng nhanh trong nền kinh tế thị trường. Tỷ lệ chỉ tiêu của các nhóm nghèo trong xã hội liên tục giảm còn nhóm giàu nhất không ngừng tăng lên. Tỷ lệ chi tiêu của nhóm 20% dân cư giàu nhất so với nhóm nghèo nhất đã tăng từ 4,97 lần năm 1993 lên 5,49 lần năm 1998 và 6,03 lần năm 2003 [16]. Đây là khoảng cách về chi tiêu, còn khoảng cách về thu nhập chắc chắn còn lớn hơn mà chúng ta chưa có điều kiện thống kê.. Một số tệ nạn xã hội như nghiện hút, mại dâm, căn bệnh thế kỷ HIV/AIDS tham nhũng… còn chưa được ngăn chặn có hiệu quả, gây thất thoát và tốn kém các nguồn của cải, tạo ra nguy cơ mất ổn định xã hội và phá hoại sự cân đối sinh thái. * Về môi trường: Do chú trọng vào phát triển kinh tế, nhất là tăng trưởng GDP, còn ít chú ý tới hệ thống thiên nhiên, nên hiện tượng khai thác bừa bãi và sử dụng lãng phí tài nguyên thiên nhiên, gây nên suy thoái môi trường và làm mất cân đối các hệ sinh thái đang diễn ra phổ biến. Quá trình đô thị hóa tăng lên nhanh chóng kéo theo sự khai thác quá mức nguồn nước ngầm, ô nhiễm nguồn nước mặt, không khí và ứ đọng chất thải rắn. Đặc biệt, các khu vực giàu đa dạng sinh học, rừng, môi trường biển và ven biển chưa được chú trọng bảo vệ, đang bị khai thác quá mức. Tuy các hoạt động bảo vệ môi trường đã có những bước tiến bộ đáng kể, nhưng mức độ ô nhiễm, sự suy thoái và suy giảm chất lượng môi trường vẫn tiếp tục gia tăng. Điều này chứng tỏ năng lực và hiệu quả hoạt động của bộ máy làm công tác bảo vệ môi trường chưa đáp ứng được yêu cầu của PTBV. Công tác bảo vệ môi trường có tính liên ngành, liên vùng, liên quốc gia và toàn cầu, cần phải được tiến hành từ cấp cơ sở phường xã, quận, huyện. Chúng ta còn thiếu phương thức quản lý tổng hợp môi trường ở cấp vùng, liên vùng và liên ngành, trong khi đó lại có sự chồng chéo chức năng, nhiệm vụ giữa các cấp, các ngành trong công tác bảo vệ môi trường. Quản lý nhà nước về môi trường mới được thực hiện ở cấp Trung ương, ngành, tỉnh, chưa hoặc có rất ít ở cấp quận huyện và chưa có ở cấp phường xã. Một số quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội vùng đã được xây dựng, song chưa có cơ chế bắt buộc các địa phương và các ngành tham gia khi xây dựng và thực hiện quy hoạch này. 2.3.3. Mục tiêu, nguyên tắc PTBV ở Việt Nam và những khu vực hoạt động cần ưu tiên Mục tiêu PTBV Mục tiêu tổng quát của PTBV ở Việt Nam là đạt được sự đầy đủ về vật chất, sự giàu có về tinh thần và văn hóa, sự bình đẳng của các công dân và sự đồng thuận của xã hội, sự hài hòa giữa con người và tự nhiên; phát triển phải kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa được ba mặt kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường. + Mục tiêu PTBV về kinh tế là đạt được sự tăng trưởng ổn định với cơ cấu kinh tế hợp lý, đáp ứng được yêu cầu nâng cao đời sống của nhân dân, tránh được sự suy thoái hoặc đình trệ trong tương lai, tránh để lại gánh nặng nợ nần lớn cho các thế hệ mai sau. + Mục tiêu PTBV về xã hội là đạt được kết quả cao trong việc thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm chế độ dinh dưỡng và chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân ngày càng được nâng cao, mọi người đều có cơ hội được học hành và có việc làm, giảm tình trạng đói nghèo và hạn chế khoảng cách giàu nghèo giưac các tầng lớp và nhóm xã hội, giảm các tệ nạn xã hội, nâng cao mức độ công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ giữa các thành viên và giữa các thế hệ trong một xã hội, duy trì và phát huy được tính đa dạng và bản sắc văn hóa dân tộc, không ngừng nâng cao trình độ văn minh về đời sống vật chất và tinh thần. + Mục tiêu PTBV về môi trường là khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên; phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý và kiểm soát có hiệu quả ô nhiễm môi trường, bảo vệ tốt môi trường sống; bảo vệ được các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, khu dự trữ sinh quyển và bảo tồn sự đa dạng sinh học; khắc phục suy thoái và cải thiện chất lượng môi trường. Những nguyên tắc PTBV ở Việt Nam Để đạt được mục tiêu nêu trên, trong quá trình phát triển chúng ta cần thực hiện những nguyên tắc sau đây: Nguyên tắc thứ nhất: Con người là trung tâm của PTBV. PTBV phải đáp ứng ngày càng đầy đủ hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của mọi tầng lớp nhân dân, xây dựng đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh là nguyên tắc quán triệt nhất quán trong giai đoạn phát triển. Nguyên tắc thứ hai: Coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, bảo đảm an ninh lương thực, năng lượng, bảo đảm vệ sinh và an toàn thực phẩm cho nhân dân; kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa với phát triển xã hội; khai thác hợp lý sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên thiên nhiên trong giới hạn cho phép về mặt sinh thái và bảo vệ môi trường lâu bền. Từng bước thực hiện nguyên tắc “mọi mặt: kinh tế, xã hội và môi trường đều cùng có lợi”. Nguyên tắc thứ ba: Bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường phải được coi là một yếu tố không thể tách rời của quá trình phát triển. Phải áp dụng đồng bộ các công cụ pháp lý về kinh tế, kết hợp với tuyên truyền vận động. Tích cực và chủ động phòng ngừa, ngăn chặn những tác động xấu đối với môi trường do hoạt động của con người gây ra; áp dụng rộng rãi nguyên tắc “người gây thiệt hại đối với tài nguyên và môi trường thì phải bồi hoàn”; xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ và có hiệu lực về công tác bảo vệ môi trường; chủ động gắn kết và có chế tài bắt buộc lồng ghép yêu cầu bảo vệ môi trường trong việc lập quy hoạch, kế hoạch, chương trình và dự án phát triển kinh tế -xã hội. Nguyên tắc thứ tư: Quá trình phát triển phải đảm bảo đáp ứng một cách công bằng nhu cầu của thế hệ hiện tại và không gây trở ngại tới cuộc sống của các thế hệ tương lai. Tạo lập điều kiện để mọi người và mọi cộng đồng trong xã hội có cơ hội bình đẳng để phát triển, được tiếp cận tới những nguồn lực chung và được phân phối công bằng những lợi ích công cộng, tạo ra những nền tảng vật chất, tri thức và văn hóa tốt đẹp cho những thế hệ mai sau, sử dụng tiết kiệm những tài nguyên không thể tái tạo lại được, gìn giữ và cải môi trường sống, phát triển hệ thống sản xuất sạch và thân thiện với môi trường; xây dựng lối sống lành manh, hài hòa, gần gũi và yêu quý thiên nhiên. Nguyên tắc thứ năm: Khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thúc đẩy phát triển nhanh, mạnh và bền vững đất nước. Công nghệ hiện đại, sạch và thân thiện với môi trường cần được ưu tiên sử dụng rộng rãi trong các ngành sản xuất, trước mắt cần được đẩy mạnh sử dụng ở những ngành và lĩnh vực sản xuất có tác dụng lan truyền mạnh, có khả năng thúc đẩy sự phát triển của nhiều ngành và lĩnh vực sản xuất khác. Nguyên tắc thứ sáu: PTBV là sự nghiệp của toàn Đảng, các cấp chính quyền, cán bộ, ngành và địa phương; của các cơ quan, doanh nghiệp, đoàn thể xã hội, các cộng đồng dân cư và mọi người dân. Phải huy động tối đa sự tham gia của mọi người có liên quan trong việc lựa chọn các quyết định về phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường ở địa phương và trên quy mô cả nước. Bảo đảm cho nhân dân có khả năng tiếp cận thông tin và nâng cao vai trò của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt của phụ nữ, thanh niên, đồng bào các dân tộc ít người trong việc đóng góp vào quá trình ra quyết định về các dự án đầu tư phát triển lớn, lâu dài của đất nước. Nguyên tắc thứ bảy: Gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Phát triển các quan hệ song phương và đa phương, thực hiện các cam kết quốc tế và khu vực; tiếp thu có chọn lọc những tiến bộ khoa học công nghệ, tăng cường hợp tác quốc tế để PTBV. Chú trọng phát huy lợi thế, nâng cao chất lượng, hiệu quả, năng lực cạnh tranh. Chủ động phòng ngừa, ngăn chặn những tác động xấu đối với môi trường do quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế gây ra. Nguyên tắc thứ tám: Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường với bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội. Những lĩnh vực cần ưu tiên PTBV ở Việt Nam * Về lĩnh vực kinh tế: Duy trì tăng trưởng kinh tế nhanh và ổn định trên cơ sở nâng cao không ngừng tính hiệu quả, hàm lượng khoa học – công nghệ và sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên và cải thiện môi trường. Thay đổi mô hình và công nghệ sản xuất, mô hình tiêu dùng theo hướng sạch hơn và thân thiện với môi trường, dựa trên cơ sở sử dụng tiết kiệm các nguồn tài nguyên không tái tạo lại được, giảm tối đa chất thải độc hại và khó phân hủy, duy trì lối sống của cá nhân và xã hội hài hòa và gần gũi với thiên nhiên. Thực hiện quá trình “công nghiệp hóa sạch”, nghĩa là ngay từ ban đầu phải quy hoạch sự phát triển công nghiệp với cơ cấu ngành nghề, công nghệ, thiết bị bảo đảm nguyên tắc thân thiện với môi trường; tích cực ngăn ngừa và xử lý ô nhiễm công nghiệp, xây dựng nền “công nghiệp xanh”. Phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững. Trong khi phát triển sản xuất ngày càng nhiều hàng hóa theo yêu cầu của thị trường, phải đảm bảo vệ sinh, an toàn thực phẩm, bảo tồn và phát triển được các nguồn tài nguyên: đất, nước, không khí, rừng và đa dạng sinh học. * Về lĩnh vực xã hội: Tập trung nỗ lực để xóa đói, giảm nghèo, tạo thêm việc làm; tạo lập cơ hội bình đẳng để mọi người được tham gia các hoạt động xã hội, văn hóa, chính trị, phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường. Tiếp tục hạ thấp tỷ lệ gia tăng dân số, giảm bớt sức ép của sự gia tăng dân số đối với các lĩnh vực tạo việc làm, y tế và chăm sóc sức khỏe nhân dân, giáo dục và đào tạo nghề nghiệp, bảo vệ môi trường sinh thái. Định hướng quá trình đô thị hóa và di dân nhằm PTBV các đô thị; phân bố hợp lý dân cư và lực lượng lao động theo vùng, bảo đảm sự phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường bền vững ở các địa phương. Nâng cao chất lượng giáo dục để nâng cao dân trí, trình độ nghề nghiệp thích hợp với yêu cầu của sự nghiệp phát triển đất nước. Phát triển về số lượng và nâng cao chất lượng các dịch vụ y tế và chăm sóc sức khỏe nhân dân, cải thiện các điều kiện lao động và vệ sinh môi trường sống. * Về lĩnh vực tài nguyên – môi trường: Chống thoái hóa, sử dụng hiệu quả và bền vững tài nguyên đất. Bảo vệ môi trường nước và sử dụng bền vững tài nguyên nước. Khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm, bền vững tài nguyên khoáng sản. Bảo vệ môi trường biển, ven biển, hải đảo và phát triển tài nguyên biển. Bảo vệ và phát triển rừng. Giảm ô nhiễm không khí ở các đô thị và khu công nghiệp. Quản lý có hiệu quả chất thải rắn và chất thải nguy hại. Bảo tồn đa dạng sinh học. Giảm nhẹ biến đổi khí hậu và hạn chế những ảnh hưởng có hại của biến đổi khí hậu góp phần phòng, chống thiên tai. 2.4. Thách thức phát triển bền vững vùng ngập mặn ven biển 2.4.1. Đánh giá chung về giá trị của vùng sinh thái ngập mặn ven biển Vùng sinh thái ngập mặn ven biển có rất nhiều loại hình, trong đó sinh cảnh rừng ngập mặn là một trong những đặc trưng cho vùng sinh thái ngập mặn. Sự giao nhau giữa rừng và biển tạo nên một loại hình sinh thái đa dạng và phong phú, nó bao gồm tài nguyên rừng và tài nguyên đất ngập mặn. Vùng sinh thái ngập mặn (có cây rừng ngập mặn) cung cấp cho con người những ngư trường lớn trong đất liền ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và sông Hồng. Mối quan hệ tương tác diễn ra giữa quy mô rừng ngập mặn và hải sản, ước tính một hecta RNM có thể đánh bắt được 450 kg hải sản ở đồng bằng Sông Cửu Long [27]. Cây ngập mặn gắn bó mật thiết với các điều kiện của các rặng san hô và thảm thực vật đáy biển, gần hai phần ba tổng số cá thu được hàng năm lệ thuộc vào tình trạng các vùng đất ẩm ướt, lầy lội trong những giai đoạn phát triển của chúng. Nghề nuôi ong lấy mật ở nhiều tỉnh ven biển miền Bắc lại phát triển. Như khu RNM huyện Giao Thủy, Nam Định người ta đã di chuyển đàn ong đến lấy mật hoa của từng trang và sú trên diện tích 7.200 ha từ tháng 4 đến tháng 7 trong năm và mỗi năm thu được từ 20 đến 50 tấn mật ong [11]. Hiện nay, giá trị trực tiếp của RNM đối với nền kinh tế của Việt Nam chủ yếu là: than, củi, gỗ. Ngoài những giá trị trực tiếp trên, vùng ngập mặn ven biển còn có những giá trị gián tiếp quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân như: ảnh hưởng đến sản lượng hải sản ven biển, giảm thiệt hại do gió bão, bảo tồn đa dạng sinh học, phát triển ngành du lịch sinh thái. Mỗi năm tính trung bình Việt Nam phải chịu từ năm đến bảy cơn bão. Bảo vệ các khu vực ven biển vốn dễ bị tổn thương chống lại tác đ._.ất một số giải pháp trong phát triển bền vững vùng ven biển 4.3.1. Quan điểm/phương hướng phát triển bền vững vùng ven biển Có rất nhiều ý kiến và mong muốn khác nhau về chính sách phát triển kinh tế kết hợp với bảo vệ môi trường, nổi bật nhất là mong muốn được vay thêm vốn (chiếm 26,67%). Phần đông những người được phỏng vấn nói rằng họ thiếu vốn để đầu tư phát triển chăn nuôi hoặc nuôi trồng hải sản. Nhất là đối với bà con nghèo, việc vay vốn sản xuất rất khó khăn. Vấn đề lớn thứ hai mà người dân quan tâm là việc quy hoạch hợp lý đất đai ven biển. Có ý kiến nên chia đều đất cho dân làm kinh tế và giao rừng cho hộ gia đình quản lý, có người lại muốn Nhà nước quy hoạch vùng cho dân nghèo thu nhặt hải sản... Biểu đồ 4.7 : ý kiến của người dân về chính sách phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường Tất cả những ý kiến tuy khác nhau nhưng cùng chung nguyện vọng được gắn quyền lợi của họ với tài nguyên ven biển và mong muốn đó tựu trung lại là đều muốn có sự công bằng hơn trong xã hội. Việc tồn tại, phát triển của tài nguyên thiên nhiên không phải chỉ phụ thuộc vào tự nhiên hay trình độ khoa học kỹ thuật trồng rừng, nuôi trồng và đánh bắt hải sản...mà còn phụ thuộc rất nhiều vào người dân địa phương. Họ là những đối tượng trực tiếp gắn liền với tài nguyên. Vấn đề này đặc biệt có ý nghĩa ở những vùng ven biển, nơi mà điều kiện tự nhiên và hoạt động con người vô cùng năng động. Cần phải nâng cao hơn nhận thức của mọi thành phần dân cư. Mặt khác, từ nhận thức đến hành động và trách nhiệm như thế nào còn phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, sự gắn bó lợi ích và việc các chính sách quy định của Nhà nước, của địa phương có phù hợp và công bằng hay không. Vì vậy, cần có quy hoạch hợp lý hơn và tăng cường các chính sách về quyền sử dụng đất cho người nghèo, về giá cả... sao cho đáp ứng được nguyện vọng của người dân địa phương, đặc biệt là dân nghèo và đảm bảo tính công bằng. Thực hiện nghiêm chỉnh các chính sách và quy định của Nhà nước về vấn đề quản lý bảo vệ rừng và nguồn lợi hải sản, xử lý nghiêm minh hơn nữa các vi phạm cũng là vấn đề cần thiết đối với vùng sinh thái ngập mặn ven biển này. Hiện nay, nhu cầu hải sản tăng mạnh để thay thế thịt, cá, các sản phẩm gia cầm. Việc tiêu thụ hải sản đã dẫn đến dự báo một hậu quả nghiêm trọng có thể xay ra đối với nguồn tài nguyên vốn đã bị khai thác quá mức, cũng như với sinh thái ngập mặn ven biển. Tình hình khai thác dẫn đến sự mâu thuẫn giữa nguồn tài nguyên ngày càng cạn kiệt dần với nhu cầu khai thác ngày càng tăng. Bên cạnh đó, nâng cao thu nhập cho hộ dân cũng là công việc quan trọng trong bảo tồn vùng sinh thái ngập mặn ven biển. Muốn thế phải phát huy tiềm năng tại chỗ, giải quyết được nhu cầu cuộc sống hàng ngày kết hợp với chiến lược khai thác nguồn lợi tự nhiên từ vùng sinh thái ngập mặn ven biển Giao Thủy. Phải đi từ kinh tế hộ mà trước hết là lấy sản xuất nông nghiệp làm nền tảng để có thu nhập trước mắt kết hợp với khai thác nguồn lợi từ vùng sinh thái ngập mặn ven biển. Mục tiêu nhằm đảm bảo cân bằng sự cân bằng giữa khai thác nguồn lợi với bảo vệ vùng sinh thái ngập mặn ven biển. Đây là mục tiêu lâu dài mà Chính phủ, địa phương quan tâm. Tuy nhiên để đạt được mục tiêu này cần làm tốt khâu lập kế hoạch và tầm nhìn dài hạn, cân bằng kinh tế với bảo vệ sinh thái chứ không phải tối đa hóa lợi ích kinh tế ngắn hạn gây tác động tiêu cực cho vùng sinh thái ngập mặn ven biển Giao Thủy. Bởi vậy, cần phải giải quyết vấn đề theo hướng: - Tạo cơ chế chính sách sử dụng khôn khéo và bền vững tài nguyên vùng sinh thái ngập mặn ven biển cho một bộ phận dân địa phương ở ngay trong phân khu phục hồi sinh thái. - Tạo thu nhập thay thế cho cộng đồng để họ có được cuộc sống đảm bảo ở ngay nội vi vùng đệm. Từng bước phấn đấu giảm sức ép về khai thác tài nguyên – môi trường của cộng đồng địa phương từ vùng đệm lên vùng sinh thái ngập mặn ven biển. - Nhận thức của người dân địa phương thậm chí cả cán bộ quản lý chưa cao hoặc vì lợi ích trước mắt của một số cá nhân chưa chú trọng đến lợi ích cộng đồng làm vùng sinh thái ngập mặn ven biển bị suy giảm. Trước tình hình đó, việc tuyên truyền bảo vệ vùng sinh thái ngập mặn ven biển là việc làm cấp bách và cần được mở rộng vì “tuyên truyền không trực tiếp tạo ra sự tăng trưởng kinh tế nhưng nó lại tác động trực tiếp vào con người và xã hội, thông qua hành vi của con người mà tạo nên tăng trưởng bền vững” [29]. 4.3.2. Một số giải pháp trong phát triển bền vững vùng ven biển 4.3.2.1. Giải pháp về nâng cao nhận thức của cộng đồng Để nâng cao nhận thức cho các hộ thì công việc trước tiên là tuyên truyền đến đông đảo các hộ dân trong các xã vùng đệm đặc biệt là các hộ có hoạt động khai thác nguồn lợi từ vùng sinh thái ngập mặn ven biển. Các giải pháp có thể thực hiện là: - Xây dựng các chương trình tuyên truyền giáo dục môi trường cho cộng đồng phù hợp với từng lứa tuổi, từng đối tượng đặc biệt là mọi đối tượng dân cư có liên quan đến việc khai thác sử dụng tài nguyên ven biển. - Đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền theo cả chiều sâu và bề rộng trên các kênh giáo dục: giáo dục chính thống, không chính thống, giáo dục đại chúng. - Đẩy mạnh xu thế giáo dục môi trường, chuyển dần từ truyền bá sâu thông tin sang giáo dục, từ nâng cao nhận thức đến giáo dục ý thức cho cộng đồng để có có thể thu nhận tốt các tri thức, thái độ và kỹ năng cần thiết để nhằm tìm ra các giải pháp cho vấn đề môi trường hiện tại và phòng ngừa những vấn đề có thể xuất hiện trong tương lai. - Khuyến cáo các hậu quả nghiêm trọng gây ra do các hoạt động khai thác hủy diệt. - Trong khi hậu quả của việc biến đổi khí hậu toàn cầu đang diễn ra từng ngày ở Việt Nam và khắp nơi trên thế giới, tác động đến cuộc sống của người dân thì nên mở ra các buổi thảo luận tuyên truyền. Chỉ có như vậy người dân mới nhận tức sâu sắc hơn quan trọng của vùng sinh thái ngập mặn ven biển. 4.3.2.2. Quy hoạch tổng thể và chi tiết vùng sinh thái ngập mặn ven biển Để phát huy hết vai trò của vùng sinh thái ngập mặn ven biển, trong quy hoạch tổng thể phải đảm bảo toàn diện trên cơ sở phát triển bền vững vùng sinh thái ngập mặn và phát triển kinh tế xã hội vùng đệm. Do đó trong vùng sinh thái ngập mặn ven biển cần phân thành các khu vực sau: - Khu bảo vệ nghiêm ngặt: là khu vực thuộc sinh cảnh rừng ngập mặn đa dạng bao gồm toàn bộ diện tích rừng ngập mặn gần như nguyên sinh (400ha) và 21ha rừng phi lao ở khu vực Cồn Lu. Khu vực này có chức năng bảo tồn các quần xã thực vật đồng thời tạo nơi cư trú thích hợp cho các loài thủy sản cung cấp nguồn giống tự nhiên cho khu vực đồng thời nghiêm cấm các hoạt động khai thác diễn ra dưới bất kỳ hình thức nào. - Khu phục hồi: là khu vực đang có những tác động về nuôi trồng, khai thác thủy sản của cộng đồng. Khu vực này sẽ được chọn làm nơi tổ chức các hoạt động canh tác tổng hợp nhằm sử dụng khôn khéo và bền vững tài nguyên đồng thời áp dụng các biện pháp quản lý và giải pháp phù hợp đối với các hộ tham gia khai thác tại đây. - Khu hành chính dịch vụ (khu vực này chỉ cần diện tích nhỏ 10ha): tại nơi đây xây dựng các điểm nhà nghỉ du lịch, trạm thu mua hải sản cũng như các dịch vụ khác kèm teo. Khu vực này sẽ sát phía đê Trung ương và rời xa khu bảo vệ nghiêm ngặt một cách an toàn để đảm bảo hạn chế áp lực lên vùng sinh thái ngập mặn ven biển. Khu vực này sẽ lấy đất chưa sử dụng từ khu kinh tế mới phía ngoài đê và cố định diện tích trong 5 năm đầu. Kế hoạch về phát triển diện tích rừng và NTHS có thể theo các con số dự kiến sau: Bảng 4.17 : Dự kiến về diện tích các khu vực sử dụng trong vùng sinh thái ngập mặn ven biển Diễn giải Năm 2008 Năm 2010 So sánh Diện tích (ha) Cơ cấu (%) Diện tích (ha) Cơ cấu (%) I. Rừng 1631,0 97,83 1706,000 97,93 75 1. Khu bảo vệ nghiêm ngặt 421,0 25,81 446,000 26,14 25 2. Khu phục hồi 1210,0 74,19 1260,000 73,86 50 II. Khu đất bồi 36,1 2,17 36,106 2,07 0,006 Tổng cộng 1667,1 100,00 1742,106 100,00 4.3.2.3. Giải pháp về khai thác sử dụng bền vững Đây là giải pháp về phía các hộ nhằm có thể khai thác nguồn lợi từ vùng sinh thái ngập mặn ven biển một cách bền vững nhất: - Thực hiện nghiêm chỉnh các chính sách và quy định của nhà nước và Vườn Quốc gia Xuân Thủy về vấn đề quản lý bảo vệ rừng và nguồn lợi hải sản. Xử lý nghiêm hơn nữa các vi phạm, có thực hiện hiện công bằng các quy định này thì mới tạo sự gắn bó lợi ích. - Nâng cao hiệu quả của công tác kiểm soát để chấm dứt các hình thức khai thác có tính hủy diệt. - Tổ chức các lớp tập huấn về kỹ thuật cách thức nuôi tôm và đánh bắt trong vùng rừng ngập mặn cho người dân ven biển để có sự kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế mũi nhọn và phát triển rừng ngập mặn vì lợi ích chung và lâu dài. Cụ thể: * Đối với những hộ đánh bắt HSTN Cần tuyên truyền và hướng dẫn cho họ hành vi, cách thức đánh bắt theo tiêu chí “sử dụng khôn khéo và bền vững tài nguyên đất ngập mặn – là vùng sinh thái có khả năng tự phục hồi rất sinh động”, tạo sự khai thác “thân thiện” với vùng sinh thái này. Bên cạnh đó, Vườn Quốc gia tiến hành khẩn trương quy hoạch một vùng đánh bắt HSTN cho các hộ đồng thời lập kế hoạch khai thác cho phù hợp với từng loại đánh bắt để duy trì nguồn lợi phong phú. * Đối với hộ NTHS Tập huấn cho các hộ về kỹ thuật nuôi, phòng ngừa dịch bệnh và vệ sinh an toàn thực phẩm. Quy hoạch và trồng lại rừng ngập mặn, tạo thành vành đai cây xanh hợp lý cho vùng triều, góp phần bảo vệ đầm và ổn định môi trường sinh thái. Hỗ trợ vốn cho các đầm để trồng cây rừng ngập mặn thay đổi sinh cảnh của đầm tôm hình thành nên mô hình nuôi tôm sinh thái. Quy hoạch cải tạo các đầm lớn hiện có thành những đầm nhỏ để phát triển mô hình nuôi tôm hòa hợp với rừng ngập mặn. Xây dựng hệ thống thoát nước và kế hoạch đề phòng dịch bệnh đồng loạt giữa các hộ để tránh tình trạng lan tràn khi dịch bệnh bùng phát. Hợp tác với Vườn quốc gia Xuân Thủy và chính quyền các xã vùng đệm cùng thực hiện quy chế khai thác sử dụng, quy hoạch lại đất bãi ven biển sao cho phù hợp hơn với lợi ích người nghèo. Hỗ trợ kỹ thuật và tài chính để tạo thu nhập thay thế thích hợp giúp cho cộng đồng địa phương ổn định đời sống từng bước đạt hiệu quả giảm sức ép khai thác tài nguyên môi trường. Đặc biệt là hỗ trợ cho việc đánh bắt xa bờ để nâng cao hiệu suất đánh bắt trong bối cảnh nguồn lợi ven bờ đang bị khai thác kiệt quệ. 4.3.2.4. Phát triển tổng hợp các ngành nâng cao thu nhập cho các hộ nông dân/đa dạng hóa ngành nghề/chuyền dịch cơ cấu * Đối với vùng sản xuất nông nghiệp - Mở rộng diện tích đất canh tác nông nghiệp bằng cách đưa thêm diện tích đất chưa sử dụng vào chuyển đổi cơ cấu đất đai. Đồng thời đổi mới cơ cấu mùa vụ, cơ cấu cây trồng, cơ cấu giống, sử dụng chuyên canh giống lúa đặc sản. - Tiếp tục quá trình cải tạo vườn tạp, tăng cường đa dạng hóa các loại cây ăn quả. Thực hiện mô hình VAC, thực hiện tăng trưởng kinh tế và giữa gìn vệ sinh môi trường. * Đối với các nguồn thu khác - Đa dạng hóa ngành nghề phụ trong nông thôn, đặc biệt là một số nghề phụ đã bị mất đi như: mây tre đan xuất khẩu, nghề làm mộc... - Xây dựng và phát triển cơ sở chế biến thủy hải sản cũng như các dịch vụ trong NTHS. * Đối với các hoạt động khai thác nguồn lợi từ vùng sinh thái ngập mặn ven biển - Khuyến khích động viên các hộ dân tham gia phát triển nghề nuôi ong lấy mật, phát triển du lịch sinh thái. - Thay thế sinh kế chăn nuôi trâu bò trong khu vực rừng ngập mặn bằng sinh kế nuôi nấm, làm VAC, phát triển du lịch sinh thái. 4.3.2.5 Giải pháp về chính sách và thể chế * Về thể chế Cho đến nay, Việt Nam chưa có một cơ quan riêng biệt chịu trách nhiệm điều phối toàn bộ các khâu quản lý, sử dụng và bảo vệ vùng ngập mặn ven biển trên phạm vi toàn quốc và địa phương. Vùng sinh thái ngập mặn ven biển có chức năng và thuộc tính khác biệt. Thế nhưng, mỗi người, tổ chức lại có mục đích sử dụng riêng của mình và thường chỉ quan tâm đến việc tối đa hóa lợi ích của mình. Chính vì thế việc sử dụng vùng sinh thái ngập mặn ven biển đã gây nhiều lãng phí và làm hủy hoại tài nguyên quý giá này. Do đó, cần phải có một cơ quan thích hợp để tiến hành điều phối có hiệu quả trong các khâu quản lý, sử dụng và bảo vệ vùng ngập mặn ven biển. Cơ quan này có chức năng và nhiệm vụ: - Tham mưu cho nhà nước để ban hành các chính sách, quy định nhằm quản lý, sử dụng bền vững và bảo vệ vùng ngập mặn ven biển - Tiến hành đánh giá hiện trạng, sử dụng và quản lý cùng với các mối đe dọa đối với toàn bộ dải ngập mặn ven biển trên cả nước - Phối hợp các ngành các Bộ có liên quan đến kiểm tra toàn bộ quỹ đất ngập mặn ven biển - Thẩm định các chương trình dự án về sử dụng, bảo vệ vùng sinh thái ngập mặn ven biển - Ban hành các quy trình, quy chế về sử dụng, bảo vệ vùng sinh thái ngập mặn ven biển - Đẩy mạnh công tác thông tin và tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức về vùng sinh thái ngập mặn ven biển và đào tạo cán bộ chuyên trách về quản lý vùng sinh thái ngập mặn ven biển. * Về chính sách Việt Nam chưa có một chính sách thống nhất từ trung ương tới địa phương để quản lý, bảo vệ sử dụng hợp lý vùng sinh thái ngập mặn ven biển vốn rất đa dạng và phong phú, trong khi đó, những chính sách phát triển ngành khác nhau liên quan đến vùng sinh thái ngập mặn ven biển lại có những mâu thuẫn làm cho nguồn tài nguyên bị tổn thương. Do đó, cần phải xem lại các chính sách mà Nhà nước đã ban hành từ trước tới nay, cái nào mâu thuẫn với mục tiêu phát triển bền vững, không phục vụ lợi ích lâu dài của quốc gia thì phải loại bỏ, đồng thời phải có những chính sách mới phù hợp. Các chính sách này sau khi áp dụng nếu có phần nào không có hiệu quả cần kiểm tra, tham khảo ý kiến của các nhà khoa học, quản lý và nhân dân địa phương để sửa đổi, hoàn chỉnh dần. Để sử dụng bền vững tài nguyên vùng ngập mặn ven biển, cần có chính sách quy định: - Việc sử dụng đất đai ở các bãi bồi ven biển phù hợp với đặc điểm sinh thái. - Luật pháp về bảo vệ vùng sinh thái ngập mặn ven biển phải bao gồm cả hình thức xử lý vi phạm pháp luật. Đánh thuế đối với những đối tượng làm ô nhiễm vùng ngập mặn ven biển. - Tất cả những hoạt động có thể gây ảnh hưởng xấu đến vùng sinh thái ngập mặn ven biển đều phải thông qua đánh giá tác động môi trường và phân tích lợi ích, chi phí, nếu nghiêm trọng phải bồi thường thiệt hại. - Sử dụng theo cách truyền thống của người dân vùng ngập mặn ven biển, tôn trọng hoạt động khai thác truyền thống và cho phép nếu không gây tổn hại đến sự cân bằng sinh thái và gây ô nhiễm môi trường. Để thực hiện tốt cần giúp đỡ họ về kỹ thuật và kiến thức môi trường. 5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 5.1. Kết luận Trong quá trình nghiên cứu đề tài, chúng tôi rút ra một số kết luận sau: 1. Đề tài đã nghiên cứu và hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn trong PTBV, đặc biệt là những thách thức trong PTBV vùng ven biển.Vùng sinh thái ngập mặn ven biển có vai trò quan trọng về giá trị kinh tế và bảo vệ cuộc sống con người. Tuy nhiên, chính sự đa dạng, phong phú của hệ sinh thái nhạy cảm này cũng chưa đựng nhiều thách thức trong phát triển bền vũng vùng ngập mặn ven biển. Từ đó, giúp các nhà hoạch định chính sách có kế hoạch dài hơn, tầm nhìn xa hơn. 2. Giao Thủy có đặc điểm tự nhiên và xã hội thuận lợi tạo điều kiện cho sản xuất nông nghiệp cũng như các hoạt động khai thác nguồn lợi từ vùng sinh thái ngâp mặn ven biển như: đánh bắt hải sản tự nhiên, nuôi trồng hải sản, nuôi ong, thu gom hải sản tự nhiên. Phương pháp nghiên cứu cụ thể sử dụng trong đề tài là phương pháp điều tra nông thôn (RRA, PRA), chọn điểm và hộ nghiên cứu mang nét đặc trưng riêng cho vấn đề nghiên cứu. Bên cạnh đó sử dụng phương pháp thống kê mô tả và thống kê so sánh để phân tích các số liệu. 3. Giữa các khía cạnh trong phát triển bền vững đều nảy sinh những mâu thuẫn với nhau, trong từng khía cạnh một cũng nảy sinh các vấn đề tồn tại. Đó cũng chính là các thách thức trong phát triển bền vững vùng ngập mặn ven biển. - Mâu thuẫn kinh tế - kinh tế: mâu thuẫn giữa các nhóm hộ nuôi tôm – nuôi tôm, các nhóm hộ nuôi tôm – nuôi vạng; nhóm hộ đánh bắt HSTN và nhóm hộ NTHS: + Nhóm hộ nuôi tôm – nuôi tôm: có hiệu quả kinh tế giảm dần cho thấy sự suy thoái trong NTHS. + Nhóm hộ nuôi tôm – nuôi vạng: nuôi vạng mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn, tạo ra thu nhập gấp 2,6 lần nuôi tôm, có sự cạnh tranh nhau về diện tích nuôi, ô nhiễm nguồn nước + Nhóm hộ NTHS và nhóm hộ đánh bắt HSTN: chênh lệch về thu nhập giữa các nhóm hộ (thu nhập nhóm NTHS tạo ra 38,567 trđ trong khi nhóm đánh bắt HSTN chỉ tạo ra 6,288 trđ); mâu thuẫn về diện tích khai thác sử dụng nguồn lợi từ vùng sinh thái ngập mặn - Mâu thuẫn kinh tế - xã hội: sự chênh lệch về thu nhập giữa các nhóm hộ đã tạo ra sự phân hóa xã hội - Mâu thuẫn kinh tế - môi trường: khối lượng khai thác đang giảm đi nhanh chóng bởi sự khai thác thiếu quy hoạch và “ khai thác kiệt”. Từ sự mâu thuẫn giữa các khía cạnh của PTBV, tồn tại một số thách thức nội sinh. Điển hình là thách thức về thể chế và chính sách do chính quyền địa phương bị động trong giải quyết các vấn đề tranh chấp, có những hiện tượng móc nối từ cán bộ huyện tham gia “bảo kê” cho hoạt động khai thác trái phép và việc cố tình không thực thi chính sách sai. Ngoài các thách thức nội sinh, trong phát triển bền vững còn có những thách thức ngoại sinh cần phải khắc phục như biến đổi khí hậu toàn cầu, chính sách và thể chế của nhà nước. 4. Từ những mâu thuẫn nảy sinh, mong muốn của người dân, chúng tôi mạnh dạn đề xuất một số giải pháp về quản lý, sử dụng bền vững, nâng cao nhận thức của cộng đồng, phát triển tổng hợp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế; quy hoạch khu vực khai thác tài nguyên; chính sách về thể chế. 5.2. Kiến nghị Quan kết quả nghiên cứu về những thách thức trong phát triển bền vững vùng sinh thái ngập mặn ven biển huyện Giao Thủy, chúng tôi có một số kiến nghị sau: * Đối với Nhà nước Đầu tư phát triển kinh tế - xã hội các xã vùng đệm từ đó góp phần giảm tải áp lực lên tài nguyên vùng sinh thái ngập mặn ven biển. Chính phủ có thể kiểm soát giá cả, có hệ thống thu mua sản phẩm và xây dựng các xưởng chế biến hải sản nhằm mục đích tạo khả năng tiếp cận thị trường của các hộ, tạo thị trường ổn định cho những loài hải sản. Cần cải tiến quy hoạch phát triển nuôi trồng thủy sản ven biển bền vững. Đặc biệt là ban hành các chính sách, quy định của pháp luật thống nhất, tránh tình trạng thực hiện quản lý chồng chéo ảnh hưởng đến bảo tồn tài nguyên vùng sinh thái ngập mặn ven biển. * Về phía tỉnh Nam Định kết hợp với huyện Giao Thủy Tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật trong sản xuất và có kế hoạch khoanh nuôi đầm rõ ràng, giảm bớt sự chồng chéo về phân cấp quản lý đầm. Tổ chức đào tạo cho người dân đi học nghề truyền thống. Đa dạng hóa ngành nghề, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu và phát triển nghề truyền thống ven biển. Phát triển kinh tế nông nghiệp ổn định từ đó phát triển nền kinh tế biển trở thành mũi nhọn trong kinh tế địa phương. Đa dạng hóa cây trồng đặc biệt là cây ăn quả để có thể phát triển nghề nuôi ong lấy mật, phát triển mô hình VAC, trồng nấm, phát triển du lịch sinh thái... để tạo ra sinh kế thay thế, giảm tải áp lực cuộc sống lên tài nguyên vùng sinh thái ngập mặn ven biển. Mở các lớp tập huấn, hướng dẫn kỹ thuật khai thác hải sản không khéo và nuôi trồng hải sản bền vững. * Đối với các hộ Tích cực tìm hiểu học hỏi các kinh nghiệm sản xuất, nâng cao kiến thức và trình độ chuyên môn của mình thông qua các buổi tập huấn kỹ thuật và tham khảo các mô hình nuôi trồng hải sản, khai thác hải sản tự nhiên. Mạnh dạn đầu tư vào một số ngành lĩnh vực ngoài kinh tế biển mới có khả năng nâng cao thu nhập. Đồng thời các hộ cần tự ý thức được tầm quan trọng của vùng sinh thái ngập mặn ven biển và có ý thức bảo vệ nguồn tài nguyên này. Nghiên cứu trên đây mới chỉ là nghiên cứu bước đầu nhằm tìm hiểu những thách thức cơ bản trong phát triển bền vững vùng sinh thái ngập mặn ven biển. Đề tài cần tập trung nghiên cứu sâu hơn, tập trung vào các chỉ tiêu để xác định mức độ bền vững của vùng sinh thái này. Ngoài các vấn đề phát triển bền vững về kinh tế, xã hội, môi trường, chính sách và thể chế, đề tài cần tập trung nghiên cứu sâu thêm về văn hóa để có cái nhìn toàn diện hơn về phát triển bền vững. TÀI LIỆU THAM KHẢO Báo cáo kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 2010 huyện Giao Thủy, Giao Thủy, tháng 7/2009. Báo cáo kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 2009 huyện Giao Thủy, Giao Thủy – 2008. Báo cáo kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 2008 huyện Giao Thủy, Giao Thủy – 2007. Báo cáo tình hình vùng đất bãi bồi ven biển huyện Giao Thủy, Công an huyện Giao Thủy, Giao Thủy - 2006. Báo cáo tình hình thực thi Luật Đê điều, Công an huyện Giao Thủy, Giao Thủy - 2006. Báo cáo hiện trạng Vườn Quốc gia Xuân Thủy, Vườn Quốc gia Xuân Thủy - 2006. Chỉ thị 36/CT-TW của Bộ Chính trị - 1998. Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo, Hà Nội - 2002 Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến 2010 và định hướng đến 2010. Chương trình Nghị sự 21 Việt Nam - 2004 Nguyễn Viết Cách, Báo cáo “Những ghi nhận bước đầu về phát triển kinh tế xã hội từ dự án phục hồi rừng ngập mặn ở khu Ramsar Xuân Thuỷ, Vườn Quốc gia Xuân Thuỷ - 2005. Nguyễn Viết Cách, Báo cáo “Đánh giá hiện trạng và định hướng phát triển du lịch sinh thái tại Vườn quốc gia Xuân Thủy, Nam Định - 2009. Các số liệu được Tổng Cục thống kê đăng trên http:// www.gso.vn Dự án đầu tư vùng đệm Vườn Quốc gia Xuân Thủy huyện Giao Thủy – tỉnh Nam Định, Bộ NN&PTNT, Viện điều tra quy hoạch rừng, Hà Nội, tháng 8/2005. Đặc san chuyên đề phục vụ Lãnh đạo số 50, “Nhìn lại chặng đường 3 năm (2006-2008) thực hiện Nghị quyết đại hội X của Đảng về kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế xã hội 2006-2007, Trung tâm Thông tin và dự báo kinh tế-xã hội quốc gia, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Hà Nội – tháng 01/2009 Đại cương về phát triển bền vững, Trường Đại học sư phạm Hà Nội - Viện nghiên cứu sư phạm Hà Nội, Hà Nội - 2006. Nguyễn Thị Thu Hà, Luận văn tốt nghiệp “Nghiên cứu ảnh hưởng của hệ sinh thái rừng ngập mặn đến thu nhập của hộ nông dân xã Giao An năm 2005”, Hà Nội, 2006 Trần Thị Minh Hiền, Nguyễn Thị Đào, Magret Davis, Cộng đồng ven biển và những vấn đề quản lý nguồn tài nguyên ven biển, Hà Nội -2002. Trương Quang Học, “Phát triển bền vững – Lý thuyết và khái niệm”, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội - 2006. Phan Nguyên Hồng, Báo cáo “Vai trò rừng ngập mặn trong bảo vệ các vùng ven biển, Trung tâm nghiên cứu tài nguyên và môi trường, Hà Nội – 2005. Luật Bảo vệ môi trường, 1993 có hiệu lực từ 10/01/1994 Luật Bảo vệ môi trường sửa đổi 29/11/2005 có hiệu lực từ 01/7/2006. Lượng giá đất ngập nước Xuân Thủy, Dự án thí điểm Quản lý tổng hợp tài nguyên vùng ven biển tỉnh Nam Định, Nam Định, 2006. Võ Quý, “Biến đổi khí hậu toàn cầu và phát triển bền vững”, Kỷ yếu Hội nghị khoa học về môi trường và phát triển bền vững, Trung tâm Nghiên cứu tài nguyên và môi trường – Đại học Quốc gia, NXB Khoa học & kỹ thuật, Hà Nội, 2005. Nguyễn Văn Song, “Kinh tế tài nguyên”, Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội, Hà Nội, 2006. Tô Dũng Tiến, “Phương pháp nghiên cứu kinh tế”, Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội, Hà Nội - 2003. Nguyễn Văn Thanh (dịch), Một nghề còn lắm bất trắc – Ngành nuôi tôm Việt Nam tác động & cải thiện, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội – 2003. Nguyễn Việt Thắng, Phát triển bền vững ngành thuỷ sản Việt Nam: các vấn đề và cách tiếp cận, kỷ yếu hội thảo quốc gia, Viện Kinh tế & Quy hoạch thuỷ sản Việt Nam - Tổ chức bảo tồn thiên nhiên quốc tế tại Việt Nam, Hà Nội – 2006. Nguyễn Hữu Thọ, Nguyễn Hoàng Lân, Báo cáo “Sự tham gia của cộng đồng trong việc khôi phục, bảo tồn và quản lý rừng ngập mặn vùng ven biển đồng bằng Sông Hồng, Hà Nội, 2001. Nguyễn Hữu Thọ, Trần Minh Phượng, Báo cáo “Đánh giá hiệu quả kinh tế nuôi trồng thuỷ sản trong vùng rừng ngập mặn ở huyện Giao Thuỷ - Tỉnh Nam Định”, Trung tâm nghiên cứu tài nguyên và môi trường, Hà Nội – 2002. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX, Hà Nội - 2001. Bùi Thế Vĩnh, Võ Kim Sơn, Lê Thị Vân Hạnh, Bài giảng Phát triển bền vững, Học viện Hành chính Quốc gia, Hà Nội – 2006. PHỤ LỤC I Bảng 1 : Thu nhập từ hải sản từ nhóm hộ đánh bắt HSTN ĐVT: 1000đ/tháng Chỉ tiêu Số lượng (con, kg/tháng) Thành tiền (1000đ/tháng) Tỷ lệ (%) 1. Nhóm cua (con) 78,85 262,14 27,78 2. Nhóm 2 mảnh vỏ 7,28 27,94 2,96 3. Nhóm ốc 14,71 169,17 17,92 4. Nhóm tôm 26,71 237,84 25,2 5. Nhóm cá 41,44 246,7 26,14 Tổng cộng 943,79 100,00 (Nguồn: Tổng hợp từ phiếu điều tra) Bảng 2 : Hiệu quả kinh tế trong đánh bắt HSNT ĐVT: đ/hộ/năm Chỉ tiêu Giá trị I. Tổng chi phí 1.564.852 - Khấu hao hàng năm 121.490 - Lệ phí 1.058.582 - Khác 384.780 II. Tổng thu 7.833.125 III. Thu nhập hỗn hợp 6.268.273 IV. Chỉ tiêu HQKT Tổng thu/tổng chi 5,0 TNHH/tổng chi 4,0 (Nguồn: Tổng hợp từ phiếu điều tra) Bảng 3 : Một sô thông tin chung từ các hộ đánh bắt HSTN Chỉ tiêu Số lao động/hộ (lao động) 1,81 Thời gian đánh bắt TB/ngày/người (giờ) 7,32 Số ngày đánh bắt trong tháng/người (ngày) 16,13 Số tháng đánh bắt TB/năm (tháng) 8,30 Số người thường xuyên đi/hộ (người) 1,22 (Nguồn: Tổng hợp từ phiếu điều tra) Bảng 4: Một số thông tin chung từ các hộ NTHS Chỉ tiêu ĐVT Tổng số đầm điều tra Đầm 25 Tổng diện tích các đầm điều tra ha 166 Tổng số hộ tham gia NTHS Hộ 80 Số hộ cùng làm chung/đầm Hộ 3,2 Diện tích trung bình/đầm ha 6,64 Diện tích trung bình/hộ ha 2,06 (Nguồn: Tổng hợp từ phiếu điều tra) Bảng 5 : Phân tích sinh kế tại các xã vùng đệm Khai thác nguồn lợi từ vùng sinh thái ngập mặn ven biển đã mang lại sự khởi sắc về kinh tế cho các hộ dân tại các xã vùng đệm. Tuy nhiên đối với các hộ khai thác nguồn lợi từ vùng sinh thái ngập mặn ven biển lại có những khó khăn và mong muốn của riêng mình. Tên sinh kế Điểm mạnh Điểm yếu Cơ hội Thách thức 1. Sản xuất nông nghiệp (trồng lúa) - Là phương thức sản xuất lâu đời nên có nhiều kinh nghiệm tích lũy - Những người làm nông là những người có kỹ năng lao động và yêu lao động - Có sự gắn bó trực tiếp với cây lúa - Là nguồn cung cấp lao động chính, đảm bảo lương thực hàng ngày - Điều kiện tự nhiên của địa phương thuận lợi phù hợp với trồng lúa - Kỹ thuật giống tốt - Công cụ tốt - Thị trường tốt - Tạo ra được đặc sản - Thu hút nhiều lao động ở địa phương - Chưa phải là thu nhập quyết định nâng cao chất lượng cuộc sống - Vật tư nông nghiệp chất lượng chưa cao - Điều tiết giống chưa hợp lý - Thiếu vốn đầu tư - Phương thức sản xuất còn ở mức quy mô nhỏ, thậm chí manh mún và phân tán, chưa đáp ứng nhu cầu phát triển - Các dịch vụ còn yếu kém - Thời vụ không diễn ra liên tục - Lao động dư thừa khi thời vụ hết, nông nhàn - Nhà nước có chính sách đưa giống mới và khoa học kỹ thuật nhằm nâng cao năng suất, mức sống tạm ổn định. - Nghề trồng lúa có thể phát triển đại trà - Trồng lúa có tác động đến chăn nuôi - Có cơ hội để xuất khẩu sản phẩm - Có cơ hội tìm hiểu, trao đổi kinh nghiệm - Có khả năng thu hút được nhiều lao động và tạo nhiều việc làm hơn nếu chuyển đổi cơ cấu cây trồng tăng vụ một cách hợp lý - Giá thóc còn thấp - Giá vật tư nông nghiệp còn cao - Nguồn nước bị ô nhiễm, mặn hóa - Không điều hòa lưu thông được nguồn nước - Thiếu việc làm (đặc biệt khi nông nhàn) nên có hiện tượng thanh niên lên thành phố tìm việc làm - Tệ nạn xã hội tăng 2. Đầm nuôi tôm, cua - Thúc đẩy ngành dịch vụ có liên quan - Sản lượng nuôi đạt năng suất cao - Giá thành sản phẩm cao, người nuôi có thu nhập, lãi cao - Thiên nhiên ưu đãi về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiện - Tận dụng được những hải sản phụ làm thức ăn cho tôm, cua - Có kinh nghiệm và kỹ thuật - Thời gian nuôi ngắn - Cần ít công tác chăm sóc - Thu hút nhiều lao động địa phương - Cần vốn đầu tư lớn - Việc khai thác giống trong tự nhiên không khả thi - Đầu tư cho cải tạo đầm chiếm lỷ lệ lớn trong tổng vốn đầu tư - Trình độ kỹ thuật thấp - Chất lượng giống kém - Các dịch vụ chữa bệnh còn yếu kém - Thời vụ chỉ diễn ra ngắt quãng, không liên tục trong 1 năm - Nhà nước có sự khuyến khích và hỗ trợ về chính sách - Thúc đẩy phát triển hệ thống giao thông và các dịch vụ khác - Tận dụng được nguồn lao động dư thừa của địa phương đặc biệt là tỏng những ngày nông nhàn - Quan hệ rừng ngập mặn – đầm thúc đẩy cùng nhau phát triển - Nhu cầu về sản phẩm cao - Có trhị trường xuất khẩu - Giá cả không ổn định phụ thuộc nhiều vào thị trường - Nguồn nước mặn và ngọt không ổn định - Cần có kỹ thuật cao - Rủi ro cao - Diện tích canh tác thiếu, không ổn định - Môi trường không ổn định - Dịch bệnh hàng năm - Thời tiết co năm không thuận lợi cho nuôi tôm 3. Nuôi vạng - Năng suất cao - Không cần cho ăn - Không cần nhiều công tác chăm sóc - Thu nhập cao - Dễ bị nhiễm bệnh - Các dịch vụ chữa bệnh còn yếu kém - Thời gian nuôi không diễn ra liên tục, chỉ một số tháng nhất định trong năm - Thị trường tiêu thụ lớn - Được nhà nước quan tâm, hỗ trợ về chính sách - Môi trường không trong sạch - Các hoạt động khai thác hải sản bằng xung điện và hoát chất làm hủy diệt sinh vật, tác động môi trường - Đầu tư vốn cao - Chưa có kỹ thuật 4. Đánh bắt HSTN - Cần ít vốn - Dễ làm, không phức tạp và đỏi hỏi các kỹ thuật như các nghề khác - Những người tham gia là những người cần cù chịu khó, có sức khỏe - Tận dụng được thời gian và lao động khi nông nhàn - Nghề truyền thông - Địa điểm khai thác xa bờ, đi lại khó khăn - Cần có sức khỏe - Cần có kinh nghiệm - Phụ thuộc thời tiết - Phụ thuộc nguồn lợi tự nhiên - Phụ thuộc nước mặn và ngọt - Thu nhập không cao và thất thường - Gây mâu thuẫn và cạnh tranh về khu vực và nguồn lợi Rừng ngập mặn được bảo vệ - Khu vực khai thác ngày càng bị thu hẹp dần - Nguồn lợi bị cạn kiệt dần làm giảm sút về chất lượng và sản lượng của các loài khai thác - Nhà nước không có chính sách khuyến khích ủng hộ - Bị ảnh howngr bới các hoạt động khai thác mang tính hủy diệt khác (như chã, xẻo, điện, lưới mắt dầy) PHỤ LỤC II Một số hình ảnh về sinh cảnh, hoạt động khai thác nguồn lợi từ vùng ngập mặn ven biển huyện Giao Thủy Hình 1: Sinh cảnh VQG Xuân Thủy Hình 2: Hoạt động NTHS tại các xã vùng đệm Hình 3: Hoạt động khai thác HSTN PHỤ LỤC III. PHIẾU ĐIỀU TRA HỘ NÔNG DÂN ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCHKT09061.doc
Tài liệu liên quan