Định hướng và các giải pháp chủ yếu giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp sau khi bàn giao đất cho khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Hải Dương

Tài liệu Định hướng và các giải pháp chủ yếu giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp sau khi bàn giao đất cho khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Hải Dương: ... Ebook Định hướng và các giải pháp chủ yếu giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp sau khi bàn giao đất cho khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Hải Dương

doc127 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1368 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Định hướng và các giải pháp chủ yếu giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp sau khi bàn giao đất cho khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Hải Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP I NGUYỄN THỊ THU HƯƠNG ĐỊNH HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG NÔNG NGHIỆP SAU KHI BÀN GIAO ĐẤT CHO KHU CÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HẢI DƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ Chuyên ngành: KINH TẾ NÔNG NGHIỆP Mã số: 5.02.01 Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN TUẤN SƠN HÀ NỘI – 2007 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và hình ảnh trong luận văn hoàn toàn trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào khác. Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cám ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc. Tác giả Nguyễn Thị Thu Hương LỜI CẢM ƠN Tôi xin trân trọng bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với thầy giáo hướng dẫn TS. Nguyễn Tuấn Sơn- người đã định hướng, chỉ bảo, dìu dắt tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu đề tài. Tôi xin trân trọng cảm ơn đối với tất cả các thày cô giáo Khoa Sau đại học, Khoa kinh tế và Phát triển nông thôn, Bộ môn Phân tích định lượng cùng tất cả các thầy cô giáo trường Đại học Nông nghiệp I đã giúp đỡ tôi trong quá trình học tập cũng như hoàn thành luận văn này. Tôi xin trân trọng cảm ơn Sở Lao động Thương binh và xã hội tỉnh Hải Dương, Sở Tài nguyên môi trường, Ban quản lý dự án các Khu công nghiệp, uỷ ban nhân dân huyện Cẩm Giàng, Nam Sách, Kim Thành, Thành phố Hải Dương, các doanh nghiệp và các hộ nông dân trong huyện đã cung cấp số liệu khách quan, tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài. Cuối cùng với lònh biết ơn sâu sắc nhất xin danh cho gia đình, bạn bè đã giúp đỡ rất nhiều về vật chất và tinh thần để bản thân hoàn thành chương trình học tập cũng như đề tài nghiên cứu. Tác giả Môc lôc Lời cam đoan i Lời cảm ơn ii Mục lục iii Danh mục chữ viết tắt v Danh mục bảng vi Danh mục hình vii Danh môc b¶ng STT Tªn b¶ng Trang 1. Diện tích, cơ cấu các loại đất của tỉnh giai đoạn 2000 – 2005 31 2. Tăng trưởng GDP giai đoạn 1996-2004 và 2005 của tỉnh Hải Dương 33 3. Tốc độ tăng trưởng GTSX công nghiệp - xây dựng 34 4. Tình hình việc làm của người lao động trước khi bàn giao đất 50 5. Phân bổ sử dụng lao động trước khi bàn giao đất 52 6. Thời gian làm việc của người lao động trước khi bàn giao đất 54 7. Thu nhập của các hộ điều tra trước khi bị thu hồi đất 56 8. Khung giá đền bù các loại đất áp dụng tại tỉnh Hải Dương 60 9. Tình hình thu hồi đất nông nghiệp của các huyện điều tra 61 10. Tình hình đất đai của các nhóm hộ điều tra 62 11. Tình hình sử dụng tiền đền bù của Nhà nước trong các hộ gia đình có đất bàn giao 64 12. Tình hình dân số, lao động của các nhóm hộ điều tra 66 13. Trình độ văn hoá của nhóm hộ điều tra trong độ tuổi lao động 68 14. Thời gian làm việc của người lao động trước và sau khi bàn giao đất 71 15. Sự thay đổi ngành nghề của người lao động trước và sau khi bàn giao đất 73 16. Thu nhập của các hộ điều tra trước và sau bàn giao đất 76 17. Các nghề cơ bản hiện đang được đào tạo trên địa bàn Hải Dương 79 18. Trình độ giáo viên của các trường dạy nghề trên địa bàn tỉnh 82 19. Số lao động đang sử dụng và nhu cầu tuyển dụng của doanh nghiệp 87 20. Nhu cầu tuyển dụng lao động của 4 khu công nghiệp trong thời gian tới 88 Phần 1 ĐẶT VẤN ĐỀ 1.1 Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Thất nghiệp, tăng trưởng kinh tế, lạm phát là ba vấn đề quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Ba chỉ số này phản ánh một cách khái quát nhất, toàn diện nhất thực trạng nền kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Hiện nay thất nghiệp, thiếu việc làm đã và đang là mối quan tâm lớn của Chính phủ các nước, các tổ chức xã hội, tổ chức quốc tế, tổ chức kinh tế và mọi người lao động trên thế giới. Định hướng và giải quyết việc làm cho người lao động đang trở thành vấn đề toàn cầu, là một trong những thách thức lớn của các Quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Ở Việt Nam thất nghiệp, thiếu việc làm đang và sẽ là bài toán khó trong quá trình vận động và phát triển nền kinh tế trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều vấn đề, nổi bật là giải quyết việc làm. Hàng năm, số người bước vào độ tuổi lao động tăng với tốc độ cao, bên cạnh đó hàng vạn lao động dôi ra từ khu vực kinh tế quốc doanh, khu vực hành chính sự nghiệp, hàng triệu học sinh, sinh viên tốt nghiệp ra trường chờ việc, bộ đội xuất ngũ, lao động từ nước ngoài trở về và sự dư thừa lao động trong nông nghiệp cũng như trong lĩnh vực công nghiệp, làm cho nhu cầu việc làm ở nước ta vốn đã căng thẳng lại càng căng thẳng hơn. Những năm qua, vấn đề việc làm và giải quyết việc làm cho người lao động đã được Đảng và Nhà nước quan tâm đúng mức. Các chương trình hỗ trợ trực tiếp cho người lao động đã góp phần quan trọng trong việc giải quyết việc làm cho xã hội. Số lao động có việc làm trong toàn quốc tăng từ 40,6 triệu người năm 2000 lên 45 triệu người năm 2006. Tỷ lệ thất nghiệp đã giảm từ 6,01% năm 2002 xuống còn 5,78% năm 2003 và 5,6% năm 2004. Cơ cấu lao động theo ngành nghề kinh tế quốc dân và chất lượng lao động đã có những chuyển biến tích cực. Bên cạnh những kết quả đạt được, vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động vẫn còn nhiều bất cập, chúng ta chưa khai thác hết tiềm năng xã hội để giải quyết việc làm. Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở khu vực nông thôn vẫn còn cao. Việc chuyển dịch cơ cấu lao động và chất lượng lao động còn chậm. Mỗi địa phương, mỗi vùng có đặc điểm kinh tế- xã hội khác nhau. Do vậy phải căn cứ và tình hình cụ thể của địa phương để có những định hướng và giải pháp tích cực và hiệu quả nhằm khai thác tiềm năng sẵn có tạo việc làm cho người lao động, sử dụng hợp lý nguồn nhân lực vào phát triển kinh tế-xã hội của địa phương góp phần cho sự phát triển đất nước. Quá trình chuyển dịch mục đích sử dụng đất dẫn đến chuyển dịch lao động cũng diễn ra mạnh mẽ cả tự phát và trong quy hoạch. “Đất xây dựng kết cấu hạ tầng phát triển công nghiệp, dịch vụ và xây dựng đô thị tăng tương đối nhanh” điều này đã dẫn đến một bộ phận không nhỏ lao động nông nghiệp rơi vào tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm. Tỉnh Hải Dương trong những năm gần đây tốc độ phát triển các khu công nghiệp diễn ra khá nhanh. Mặc dù trong những năm qua, Tỉnh ủy, Uỷ ban nhân dân tỉnh, các đơn vị kinh tế và người lao động đã triển khai nhiều hoạt động quan trọng để giải quyết việc làm, thu hút nhiều lao động cho nhân dân các khu vực đã bàn giao mặt bằng cho các khu công nghiệp. Tuy nhiên, thất nghiệp ở những nơi này vẫn còn ở mức độ cao. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên, được sự đồng ý của Trường Đại học nông nghiệp I Hà Nội và Uỷ ban nhân dân tỉnh Hải Dương chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Định hướng và các giải pháp chủ yếu giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp sau khi bàn giao đất cho khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Hải Dương” 1.2 Mục tiêu nghiên cứu 1.2.1 Mục tiêu chung Trên cơ sở phân tích thực trạng giải quyết việc làm cho người lao động nông nghiệp ở các địa phương đã thực hiện bàn giao đất cho khu công nghiệp những năm qua ở tỉnh Hải Dương, đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết việc làm tạo điều kiện ổn định cuộc sống, nâng cao thu nhập cho người lao động nông nghiệp ở các địa phương trên địa bàn tỉnh thời gian tới. 1.2.2 Mục tiêu cụ thể 1. Góp phần hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn về việc làm và giải quyết việc làm cho người lao động nông nghiệp ở những nơi đã bàn giao đất cho các khu công nghiệp. 2. Đánh giá thực trạng lao động, việc làm và giải quyết việc làm cho người lao động nông nghiệp ở các địa phương thuộc tỉnh Hải Dương sau khi đã bàn giao đất cho khu công nghiệp. 3. Phân tích các nguyên nhân đã ảnh hưởng đến vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động nông nghiệp ở khu vực đã bàn giao đất phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Hải Dương. 4. Đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động nông nghiệp ở các địa phương đã thực hiện bàn giao đất cho khu công nghiệp ở Hải Dương trong thời gian tới. 1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 1.3.1 Đối tượng nghiên cứu Các hộ nông dân sau khi bàn giao đất cho khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Hải Dương. 1.3.2 Phạm vi nghiên cứu 1.3.2.1 Nội dung nghiên cứu Nghiên cứu thực trạng lao động, việc làm của các hộ nông dân sau khi bàn giao đất cho khu công nghiệp. Phương hướng giải quyết việc làm để ổn định và nâng cao mức sống của người dân ở các địa phương đã bàn giao đất cho xây dựng khu công nghiệp. 1.3.2.2 Phạm vi về không gian - Các địa phương đã bàn giao đất xây dựng khu công nghiệp ở tỉnh Hải Dương giai đoạn - Một số cơ sở dạy nghề trong tỉnh để đánh giá năng lực đào tạo nghề của các cơ sở này. 1.3.2.3 Phạm vi về thời gian - Đề tài được tiến hành từ tháng 10- 2006 đến tháng 10- 2007. - Số liệu nghiên cứu được thu thập trong giai đoạn 2001- 2006. Phần 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 2.1 Cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề lao động và giải quyết việc làm ở nước ta hiện nay 2.1.1 Cơ sở lý luận về lao động và việc làm cho người lao động 2.1.1.1 Vai trò của lao động trong sản xuất nói chung, sản xuất nông nghiệp nói riêng * Vai trò của lao động Lao động là yếu tố quyết định của mọi quá trình sản xuất, được xem xét trong những khoảng thời gian nhất định và được biểu hiện về số lượng và chất lượng của lao động. Từ khái niệm chung về lao động có thể hiểu: Lao động trong sản xuất nói chung, sản xuất nông nghiệp nói riêng là sức lao động tham gia vào hoạt động sản xuất. Bao gồm những người trong độ tuổi có khả năng tham gia lao động (ở Việt Nam qui định nam từ 16 đến 60, nữ từ 16 đến 55 tuổi) và cả những người trên và dưới độ tuổi thực tế có tham gia vào các hoạt động kinh tế - xã hội. Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với việc đảm bảo bốn nhân tố cơ bản là nguồn lao động, tài nguyên thiên nhiên, vốn và khoa học công nghệ trong đó nguồn lao động là nhân tố quyết định việc tái tạo, sử dụng phát triển các nguồn lực còn lại. Sức lao động là một bộ phận của yếu tố “đầu vào” của quá trình kinh tế. Chi phí lao động, mức tiền công, số người có việc làm thể hiện sự cấu thành của nguồn lực lao động trong hàng hoá, dịch vụ, nó trở thành nhân tố phản ánh sự tăng trưởng kinh tế. Lao động cũng là một bộ phận tiêu dùng các sản phẩm dịch vụ xã hội, nó trở thành nhân tố tạo cầu của nền kinh tế. Vì vậy, tạo việc làm để sử dụng đầy đủ và hợp lý lao động xã hội cũng như lao động nông nghiệp có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Mặt khác, trình độ phát triển kinh tế có ảnh hưởng lớn tới lao động. Kinh tế phát triển sẽ tạo điều kiện về vật chất, tiền của để nâng cao đời sống vật chất, phát triển văn hoá giáo dục, nâng cao chất lượng y tế... từ đó nâng cao chất lượng lao động. Kinh tế phát triển cũng tạo nhiều ngành nghề mới, tạo nhiều việc làm nhưng cũng đòi hỏi cao hơn chất lượng lao động như về sức khoẻ, trình độ chuyên môn, tay nghề, trình độ quản lý và các kỹ năng khác. Lao động nông nghiệp chịu ảnh hưởng bởi đặc điển của sản xuất nông nghiệp, chịu sự chi phối của tự nhiên, của các quy luật tự nhiên nên có những đặc điểm khác biệt với lao động trong sản xuất các ngành khác. - Lao động nông nghiệp có tính thời vụ Trong nông nghiệp có những thời kỳ không cần hoặc cần rất ít sự tác động của con người, những cũng có giai đoạn lại rất cần nhiều lao động. Điều này làm cho nhu cầu về lao động trong nông nghiệp cũng rất khác nhau trong từng giai đoạn của sản xuất, làm cho giá tiền công trong nông thôn biến động nhiều. Ở những nước nông nghiệp như Việt Nam, nhiều nơi nông dân thiếu việc làm. Trong những tháng nông nhàn, nhiều lao động đã phải chấp nhận giá tiền công rẻ hơn nhiều so với lúc thời vụ căng thẳng. Tính thời vụ của lao động nông nghiệp nông thôn (đặc biệt với lao động trong ngành trồng trọt) có ảnh hưởng lớn đến đời sống sản xuất và thu nhập của người lao động nông nghiệp, đặc biệt đối với hộ nông dân SXNN thuần tuý, không có nghề phụ. Vì trong cả quá trình sản xuất, từ làm đất, gieo trồng đến khi thu hoạch có những thời điểm lao động nông nghiệp rất bận rộn với khối lượng lớn công việc như thời kỳ thu hoạch. Nhưng lại có những thời gian nhàn rỗi như thời gian mà cây trồng có thể tự sinh trưởng, phát triển nhờ nguồn dinh dưỡng được tạo ra từ ban đầu cũng như các quy luật sinh học của nó. Do tính chất của công việc trong SXNN như vậy mà hình thành nên tâm lý hay thói quen làm việc một cách không liên tục, không sáng tạo của người lao động nông nghiệp nông thôn. Việc nâng cao năng suất cây trồng, vật nuôi dựa vào tiến bộ khoa học công nghệ nhiều hơn là dựa vào năng lực của người lao động. Một biểu hiện rõ nét của tính thời vụ của lao động nông nghiệp là số lao động dư thừa trong trong nông nghiệp. Tuy nhiên, sự dư thừa này do nhiều nguyên nhân khác nhưng lao động dư thừa trong những thời gian nhàn rỗi của sản xuất nông nghiệp là một thực tế. - Lao động nông nghiệp nông thôn có kết cấu phức tạp, không đồng nhất Điều này do tính chất của nghề nông, do lịch sử phát triển, do tập quán sản xuất của từng khu vực nông thôn. Lao động nông nghiệp có trình độ rất khác nhau giữa các vùng nông thôn. Hoạt động SXNN được tham gia bởi nhiều người ở nhiều độ tuổi trong đó có có cả những người ở ngoài độ tuổi lao động. Lao động nông nghiệp ở các vùng khác nhau có những cách thức tổ chức sản xuất riêng biệt, đặc trưng cho từng vùng và hình thành nên tư duy khác nhau trong sản xuất. SXNN chủ yếu là sản xuất bởi từng hộ gia đình nên lao động nông nghiệp nông thôn còn bị chi phối bởi quan hệ huyết thống. Các thành viên trong gia đình thường làm theo sự chỉ dẫn của người chủ gia đình, lao động nông nghiệp nông thôn chịu ảnh hưởng bởi điều kiện tự nhiên của sản xuất nông nghiệp (đất đai, thời tiết, khí hậu....) nên nhận thức của lao động nông nghiệp nông thôn về các quy luật tự nhiên, quy luật sinh trưởng phát triển ở các vùng khác nhau là khác nhau. - Trình độ lao động nông nghiệp thấp Hoạt động sản xuất nông nghiệp gồm những người thuộc nhiều lứa tuổi có trình độ rất chênh lệnh và khả năng tổ chức sản xuất kém, thực tế ngay cả những người trong độ tuổi lao động thì trình độ vẫn thấp hơn so với lao động trong các nghành kinh tế khác. Do trình độ thấp nên việc tổ chức quản lý sản xuất kém hơn và năng suất lao động trong nông nghiệp thấp hơn so với năng suất lao động trong các ngành kinh tế khác. Trình độ lao động nông nghiệp thấp hơn một phần là do ưu đãi của tự nhiên với những quy luật quy luật sinh học gán cho sản xuất nông nghiệp, người sản xuất nông nghiệp có thể không cần chăm sóc hoặc ít quan tâm đến cây trồng, vật nuôi mà vẫn có sản phẩm thu hoạch. Từ đó tạo ra trạng thái trì trệ không chịu vận động, không sáng tạo của lao động nông nghiệp nông thôn. Nếu so sánh với lao động trong công nghiệp thì có sự khác nhau rõ nét về tính chất công việc và trình độ cần có của lao động. Đối với sản xuất công nghiệp, lao động phải hoạt động một cách liên tục mới có được sản phẩm cuối cùng hoàn chỉnh mà sản phẩm công nghiệp lại luôn biến đổi về mẫu mã và chất lượng nên lao động trong công nghiệp phải luôn vận động, sáng tạo trong công việc để có những sản phẩm mới, chất lượng cao hơn. Tóm lại, phương thức sản xuất nông nghiệp quyết định trình độ của lao động nông nghiệp là thấp hơn trình độ lao động thuộc các khu vực kinh tế khác, trong quá trình phát triển của xã hội, nền kinh tế nói chung và nền nông nghiệp nói riêng, trình độ lao động nông nghiệp ngày càng được nâng cao do nhu cầu của con người về sản phẩm nông nghiệp, do tiến bộ trong khoa học, công nghệ có tác động mạnh mẽ đến sản xuất nông nghiệp và do sự phát triển của các ngành, các lĩnh vực kinh tế khác có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của sản xuất nông nghiệp, nó đòi hỏi trrình độ lao động nông nghiệp nông thôn phải nâng cao hơn để thích ứng. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường hiện nay sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá với quy mô lớn. Sản phẩm nông nghiệp sản xuất ra phải được trao đổi, mua bán trên thị trường thì trình độ của lao động trong nông nghiệp phải đạt ở một mức độ nhất định mới có thể tổ chức sản xuất một cách có hiệu quả, nến không sẽ bị loại khỏi khu vực sản xuất và trở thành lao động dư thừa trong khu vực nông nghiệp, nông thôn. Tuy nhiên lao động dư thừa còn do nhiều yếu tố khác tác động như: tính thời vụ trong sản xuất nông nghiệp... Nói chung, lao động dư thừa trong nông nghiệp có trình độ thấp và thấp hơn mặt bằng chung của lao động nông nghiệp nên rất hạn chế về khả năng tổ chức sản xuất. - Thu nhập của người lao động trong nông nghiệp thấp Thực tế thu nhập của người lao động nông nghiệp thấp hơn rất nhiều so với thu nhập của người lao động làm việc trong công nghiệp và dịch vụ. Điều này do nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chính là năng suất lao động của khu vực sản xuất nông nghiệp thấp. Năng suất lao động nông nghiệp chịu tác động của nhiều yếu tố như: Điều kiện khí hậu, địa hình, đất đai là các yếu tố tác động hàng ngày và trực tiếp đến sản xuất nông nghiệp. Các quy luật sinh học cây trồng vật nuôi quyết định đến chu kỳ sản xuất của hoạt động sản xuất kinh doanh nông nghiệp, chu kỳ thường kéo dài làm tăng thời gian quay vòng vốn tăng chi phí đầu vào .... dẫn đến giảm năng suất lao động nông nghiệp. Trình độ, công cụ máy móc, thiết bị nông nghiệp thấp. Sản xuất nông nghiệp chủ yếu dựa vào các công cụ lao động thô sơ của từng hộ sản xuất. Trình độ người lao động trong nông nghiệp thấp nên khó thu được hiệu quả cao trong tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh nông nghiệp. Một số nơi tập quán sản xuất còn rất lạc hậu nên kìm hãm sự phát triển của sản xuất nông nghiệp. Ở những nơi này, sản xuất nông nghiệp có năng suất lao động rất thấp. Ngoài ra còn có các nguyên nhân khác ảnh hưởng đến thu nhập của người lao động nông nghiệp như: Tính thời vụ của sản xuất nông nghiệp làm cho thu nhập của người lao động nông nghiệp không ổn định tại những thời điểm khác nhau. Tình hình biến động giá cả của sản phẩm nông nghiệp bất lợi cho kinh doanh nông nghiệp. Giá nông sản của nông dân thường thấp hơn so với giá thị trường do bị thương nhân ép giá. Tình trạng gia tăng dân số ở nông thôn làm giảm đi một cách tương đối về diện tích dất canh tác và thu nhập bình quân giảm. Tình trạng thu hẹp diện tích đất sản xuất nông nghiệp do quá trình đô thị hoá gây khó khăn cho sản xuất nông nghiệp trong điều kiện trình độ thâm canh cao. Trong những năm gần đây, thu nhập của lao động nông nghiệp đã tăng đáng kể, đời sống nông dân được cải thiện, năng suất lao động cao hơn trước. Tiến bộ khoa học công nghệ đuợc áp dụng vào sản xuất nông nghiệp đặc biệt là công nghệ sinh học. Với các loại giống cây trồng, vật nuôi cho năng suất cao. Trình độ thâm canh cao hơn, với nhiều loại phân hoá học, phân vi sinh đuợc sử dụng phổ biến. Sản xuất nông nghiệp chuyển từ tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hoá nên thu nhập của lao động nông nghiệp cao hơn trước và ổn định hơn, trong đó cần kể đến thu nhập của lao động nông nghiệp trong các trang trại, các nghề phụ càng ngày càng được phát huy và là nguồn thu nhập thêm của người lao động nông nghiệp. Tuy đời sống nông dân đã được cải thiện nhưng thực tế hiện nay thì mức thu nhập, mức sống của người lao động nông nghiệp còn quá thấp so với mức bình quân của thế giới cũng như so với lao động trong các ngành, các lĩnh vực kinh tế khác. Số người thất nghiệp là vấn đề nóng bỏng của xã hội hiện nay, lao động dư thừa trong nông nghiệp thường bị rơi vào cảnh nghèo đói [7]. 2.1.1.2 Vai trò của đất đai trong sản xuất nông nghiệp Trước hết để tìm hiểu được vai trò của đất đối với đời sống nhân dân thì ta phải hiểu được hai khái niệm cơ bản: Thế nào là đất đai và thế nào là đất nông nghiệp. - Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần quan trọng của môi trường sống, là địa bàn phân bổ các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng. - Đất nông nghiệp là đất được xác định chủ yếu để sử dụng sản xuất nông nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản hoặc thí nghiệm về đất nông nghiệp (Luật đất đai 14/07/1993). Từ hai khái niệm trên ta có thể nhận thấy, nếu như trong công nghiệp đất đai chỉ là nơi làm nhà xưởng thì trong nông nghiệp đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu, đặc biệt không thể thay thế. Thường thì không thể có sản xuất nông nghiệp nếu không có đất đai. Đất đai còn được gọi là tư liệu sản xuất đặc biệt vì đất đai vừa là đối tượng lao động vừa tư liệu lao động. Đất đai là đối tượng lao động vì đất đai chịu tác động của con người như cày, xới để có môi trường tốt cho sinh vật phát triển. Đất đai là tư liệu lao động vì nó phát huy tác dụng như một công cụ lao động. Đất đai không chỉ có tác dụng trong sản xuất mà đối với đời sống, đất đai cũng đóng góp một phần rất quan trọng. Thử hỏi nếu như trên hành tinh này không có đất đai thì liệu có con người không? Câu trả lời chắc chắn là không vì con người và hầu hết các loài vật muốn tồn tại và phát triển thì điều kiện tiên quyết phải có đất đai. Vậy đất đai là một phần quan trọng của sản xuất và đời sống [7]. 2.1.1.3 Đất đai với lao động nông nghiệp Các tư liệu sản xuất khác khi được sử dụng chúng có thể được di chuyển từ vị trí không thuận lợi sang vị trí thuận lợi hơn nhưng với đất đai chúng ta không thể di chuyển được theo ý muốn mà chỉ có thể canh tác trên đất đai ở những nơi có đất mà thôi. Vị trí cố định đã quy định tính chất vật lý, hoá học, sinh thái của đất đai và cũng góp phần hình thành nên những lợi thế so sánh nhất định về sản xuất nông nghiệp. Vì vậy, cần phải bố trí hợp lý cho từng vùng đất phù hợp với lợi thế so sánh của mỗi vùng, thực hiện phân bố cơ sở hạ tầng là hệ thống thuỷ lợi, giao thông cho từng vùng để tạo điều kiện sử dụng đất tốt hơn. 2.1.1.4 Ảnh hưởng của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hoá và đô thị hoá đến sản xuất và đời sống của các hộ nông dân CNH-HĐH là quá trình tất yếu diễn ra không chỉ đối với nước ta mà còn đối với tất cả các nước trên thế giới, nhất là đối với các nước châu Á. Nền kinh tế càng phát triển thì quá trình CNH-HĐH diễn ra ngày càng nhanh. CNH-HĐH góp phần đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội của khu vực, nâng cao đời sống nhân dân. Tuy nhiên bên cạnh những mặt tích cực, quá trình CNH-HĐH cũng phát sinh nhiều vấn đề cần giải quyết như vấn đề việc làm cho nông dân bị thu hồi đất, phương thức đền bù giải phóng mặt bằng, cách thức di dân, giãn dân… Nếu không có một chiến lược và giải pháp cụ thể, chúng ta sẽ gặp nhiều vướng mắc và lúng túng trong quá trình giải quyết, đôi khi làm nảy sinh những vấn đề ngày càng phức tạp. a) Ảnh hưởng CNH - HĐH đến sản xuất * Ảnh hưởng tích cực Trên thực tế hiện nay cho thấy quá trình giảm dần quỹ đất canh tác do CNH-HĐH đã kéo theo một bộ phận lao động nông nghiệp chuyển sang hoạt động phi nông nghiệp, qua đó số lao động công nghiệp và lao động trong các ngành thương mại, dịch vụ tăng lên. Đây là một xu hướng tốt rất phù hợp với đường lối của Đảng và Nhà nước ta. Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã xác định “Đưa GDP năm 2010 lên ít nhất gấp đôi năm 2000. Trong đó tỷ trọng GDP của nông nghiệp chiếm 16 - 17%, công nghiệp chiếm 40 - 41%. Tỷ lệ lao động nông nghiệp còn khoảng 50%” (Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ IX trang 1959 - 1960). Như vậy quá trình CNH-HĐH đã có tác động tích cực đến sản xuất hộ nông dân. * Ảnh hưởng tiêu cực Quá trình CNH-HĐH đã lấy đi một phần đất nông nghiệp để xây dựng cơ sở hạ tầng nhằm mục đích phát triển kinh tế, đem lại hiệu quả kinh tế cao cho xã hội. Đó là lợi ích chung mà cả xã hội được hưởng. Tuy nhiên, khi cả xã hội được hưởng lợi ích do qua trình chuyển đổi đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp, thì một bộ phận nông dân lại bị thiệt thòi do quá trình đó gây ra. Đó là những người nông dân trực tiếp bị thu hồi đất nông nghiệp cho việc xây dựng các khu công nghiệp và đô thị. Những người này sẽ phải thay đổi cuộc sống một cách thụ động. Vì vậy họ sẽ gặp không ít khó khăn. Chính sách của Nhà nước phải bù đắp cho họ đỡ bị thiệt thòi. Những năm qua, công tác đền bù và giải phóng mặt bằng tuy vẫn đảm bảo thực hiện, song nó vẫn luôn là vấn đề nóng bỏng ở tất cả các địa phương. b) Ảnh hưởng của CNH-HĐH đến đời sống của hộ nông dân * Ảnh hưởng đến việc làm và thu nhập - Ảnh hưởng tích cực CNH-HĐH sẽ tạo điều kiện cho người lao động chuyển đổi cơ cấu việc làm, từ thuần nông thu nhập thấp sang việc làm mới ổn định và có thu nhập cao. Mặt khác khi CNH-HĐH được xây dựng sẽ giải quyết một lượng lao động vào làm việc tại khu công nghiệp với mức thu nhập cao và ổn định. Ngoài ra khi thực hiện giải phóng mặt bằng phục vụ CNH-HĐH các hộ nông dân sẽ có một khoản tiền lớn từ việc đền bù đất đai. Đây sẽ là một khoản thu nhập rất lớn đối với những hộ nông dân. Số tiền này sẽ lại càng trở nên ý nghĩa hơn với những hộ biết sử dụng đồng vốn một cách có hiệu quả. - Ảnh hưởng tiêu cực Tuy nhiên, việc chuyển đất nông nghiệp sang xây dựng các khu công nghiệp cũng gây ra không ít khó khăn cho những hộ trực tiếp bị thu hồi đất sản xuất. Cuộc sống từ bao đời nay của họ vẫn gắn liền với công việc đồng áng. Nay bắt họ rời xa nó, chuyển sang một lĩnh vực hoạt động sản xuất khác quả thực là một thách thức đối với những hộ thuần nông. Như ở trên đã nói, khi có khu công nghiệp hay đô thị mới thì sẽ có một số lao động được tuyển vào làm việc trong các nhà máy, công ty nhưng để được vào làm việc ở đó người lao động phải qua đào tạo, phải có trình độ chuyên môn kỹ thuật thích ứng với những công việc mới. Nếu chỉ là lao động phổ thông đơn thuần thì thu nhập thấp, thậm chí không đủ đảm bảo cuộc sống. * Ảnh hưởng đến cơ sở vật chất kỹ thuật và môi trường sống - Ảnh hưởng tích cực Quá trình CNH-HĐH đã tạo điều kiện cho phát triển kinh tế và hệ thống hạ tầng kỹ thuật vùng nông thôn. Nhìn chung khi địa phương nào có khu công nghiệp và khu chế xuất hay những đô thị mới thì ở đó sẽ có một hệ thống đường giao thông rất tốt. Và đặc biệt là đối với mạng lưới điện, từ các xã có thể chưa có mạng lưới điện đến nay có thể 100% số hộ nông dân dùng điện. Ở Hải Dương môi trường rất được quan tâm, hàng loạt các đường ống thoát nước được xây dựng và lắp đặt. Có nhiều hộ còn được lắp đặt hệ thống cung cấp nước sạch. Tóm lại CNH-HĐH đem lại vô số lợi ích và những mặt tích cực. Tuy nhiên không phải nó không có những tác động xấu tới cơ sở vật chất kỹ thuật và môi trường sống. - Ảnh hưởng tiêu cực Tuy một số hạng mục công trình đã được đầu tư, song đã xuống cấp nhanh chóng. Đặc biệt là các công trình thuỷ lợi, công trình điện. Nguyên nhân là do sau khi đầu tư xong lại không có sự bảo dưỡng thường xuyên, không có kế hoạch khai thác tiết kiệm và triệt để. Ngoài ra khi tiến hành xây dựng cơ sở hạ tầng mới đã ảnh hưởng xấu tới những công trình cũ thậm chí còn phá hỏng các công trình cũ. Về mặt môi trường, khu công nghiệp đã gây ra những hậu quả rất đáng lo ngại cho môi trường đặc biệt là môi trường nước và không khí. Trước hết là ô nhiễm nước thải gồm nước thải công nghiệp, nước thải bệnh viện, nước thải sinh hoạt… đây là những chất thải rất có hại cho sức khỏe con người. Nếu không được xử lý tốt đây sẽ là nguồn gây bệnh rất đáng lo ngại. Ô nhiễm môi trường không khí chủ yếu do các khí CO2, SO2, …gây ra. 2.1.1.5 Tác động về xã hội * Tác động tích cực Quá trình CNH-HĐH đã tạo nên nhiều tác động tích cực không những về mặt kinh tế mà còn cả về mặt xã hội, làm thay đổi cuộc sống người dân ở các khu công nghiệp và khu đô thị như: - Thay đổi bộ mặt văn hoá của địa phương. - Phát triển cộng đồng tổ chức. - Thay đổi nếp sống của công đồng theo hướng tốt lên. - Do kinh tế phát triển nên các hộ nông dân ở đây có điều kiên tiếp xúc với phương tiên thông tin đại chung nhiều hơn, có cơ hội hưởng thụ văn hoá nhiều hơn. * Tác động tiêu cực - Tệ nạn xã hội nhiều hơn trước khi có các khu công nghiệp do nhiều thành phần trong xã hội đến đây mưu sinh kiếm sống. - Làm mất đi những phong tục tập quán tốt của địa phương do lối sống đô thị thâm nhập vào. - Do không có kế hoạch chi tiêu tiền đền bù nên một số người đã sử dụng tiền sai mục đích do đó đã vô tình đẩy họ vào các tệ nạn xã hội như rượu chè cờ bạc, lô đề. 2.2 Cơ sở thực tiễn 2.2.1 Kinh nghiệm các nước trên thế giới Để giải quyết vấn đề lao động dư thừa trong quá trình đô thị hoá ở một số nước trên thế giới, các quốc gia đã có nhiều giải pháp khác nhau tuỳ thuộc vào điều kiện thực tế. Kết quả đạt được của mỗi quốc gia là bài học quý báu đối với vấn đề giải quyết dư thừa lao động trong quá trình đô thị hoá ở Việt Nam. - Kinh nghiệm của Cộng hòa Liên bang Đức [5]: Công tác khuyến khích phát triển kinh tế đô thị là một trọng tâm được ưu tiên ở tất cả các đô thị của nước Đức. Công tác lãnh đạo và quản lý các khu công nghiệp đều chú ý tập trung khai thác các tiềm năng kinh tế địa phương tạo điều kiện thuận lợi để nó phát triển. Việc này liên quan đến hàng loạt các nhân tố như tác động vào hoạt động của các doanh nghiệp thông qua chính sách tài chính thuế, duy trì khuyến khích các doanh nghiệp mới, chuẩn bị mặt bằng và cơ sở hạ tầng, marketing đô thị, khuyến khích đổi mới công nghệ, xây dựng chính sách việc làm cho địa phương. Nước Đức hiện nay đang ở trong thời kỳ “phi công nghiệp hoá” nên đã giải thể các nhà máy xuất hiện từ đầu thế kỷ 20 để chuyển sang các dây chuyền sản xuất hiện đại có công nghệ cao và sạch, tạo năng suất lao động cao và chống lại ô nhiễm môi trường. Các dự án phát triển kinh tế ở các khu công nghiệp chuẩn bị một cách nghiêm túc, dân chủ và hướng vào phục vụ lợi ích của cộng đồng. Thành phố Nordhorn và Lingen là những thành phố để lại bài học bổ ích về chuyển đổi cộng nghệ tạo việc làm mới, khuyển khích các công ty vào hỗ trợ các công ty mới. Doanh nghiệp dệt đã phát triển sớm cách đây hơn 100 năm. Thời kỳ hoàng kim là năm 1960 đã có 11.000 công nhân, đến những năm gần đây chỉ còn 1.000 chỗ làm. Từ khi công nghiệp dệt đi xuống thành phố đã tạo được 10.000 chỗ làm mới. Từ ngành dệt độc tôn này đã chuyển sang đa ngành, bắt buộc phải có sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế mạnh mẽ. Quá trình cải tạo công nghiệp dệt cũng là quá trình CNH-HĐH. Thành phố còn tập trung đầu tư vào phát triển hệ thống giao thông để phát triển kinh tế, kết quả đạt được là tạo 18.000 chỗ làm mới. Nước Đức còn giải quyết việc làm cho lao động bằng cách lập ra qũy bổ sung do nhà nước tài trợ, mục đích tạo thêm việc làm, trợ cấp thất nghiệp và phân tích cơ cấu thất nghiệp, để xây dựng các chương trình bồi dưỡng nâng cao tay nghề, tạo việc làm thay thế đáp ứng nhu cầu chuyển đổi cơ cấu kinh tế, hạn chế tình trạng thất nghiệp. Đây là kinh ngh._.iệm có ý nghĩa đối với các doanh nghiệp nhà nước đang chuyển đổi cơ cấu kinh tế và CNH-HĐH ở các vùng ngoại vi thành phố, đòi hỏi chuẩn bị nguồn nhân lực từ con em nông dân để họ bước vào làm việc ở các khu liên doanh và các khu công nghiệp mới. - Kinh nghiệm của Trung Quốc [1]: Trung Quốc là quốc gia đông dân nhất thế giới. Tốc độ đô CNH-HĐH cũng đang diễn ra rất nhanh chóng. Diện tích đất canh tác hạn chế trong khi dân số đang làm cho tỷ lệ thất nghiệp ở các vùng nông thôn ngày càng tăng. Hiện nay, ước tính Trung Quốc có từ 100-120 triệu lao động nông thôn không có việc làm, hàng năm lại tăng thêm 6-7 triệu lao động. Với lực lượng lao động nông thôn dư thừa này, hàng năm có hàng triệu người nhập cư vào các vùng thành thị. Thực trạng này đã gây ra rất nhiều khó khăn cho công tác quản lý đô thị về các mặt như: quản lý dân cư, lao động việc làm, an ninh, sức khoẻ và nhiều vấn đề khác. Vấn đề dư thừa lao động tại các khu công nghiệp, nhất là các khu dân cư lớn trong quá trình CNH-HĐH luôn là vấn đề nhức nhối cần phải giải quyết của các nhà quản lý. Trong những năm qua, mặc dù vẫn còn tình trạng di cư đến các đô thị lớn nhưng với các biên pháp hữu hiệu Trung Quốc đã đạt được những thành công trong việc hạn chế sức ép về việc làm. Giải pháp chủ yếu mà Trung Quốc áp dụng để giải quyết việc làm cho các khu công nghiệp là: - Phát triển các xí nghiệp địa phương để thu hút việc làm. Các giai đoạn phát triển của xí nghiệp địa phương ở Trung Quốc bao gồm: Giai đoạn đầu tiên là từ khi tiến hành đổi mới đến năm 1984. Trong giai đoạn này, nhờ vào chủ trương đổi mới của Trung Quốc về nông thôn, đặc biệt là hệ thống hợp đồng trách nhiệm với các hộ gia đình đã tạo điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế nông thôn, các nhân tố cho sản xuất đã bắt đầu xuất hiện và những người nông dân bắt đầu tham gia vào các hoạt động kinh tế phi nông nghiệp. Các đội sản xuất được đổi tên thành các xí nghiệp địa phương. Giai đoạn thứ hai từ năm 1985 đến năm 1988 khi sản xuất nông nghiệp có những biến động lớn và có sự giảm sút thì các xí nghiệp địa phương lại rất phát triển giúp cho kinh tế nông thôn phát triển một cách mạnh mẽ và toàn diện. Nhờ vào các chính sách khuyến khích phát triển của nhà nước đối với xí nghiệp địa phương. Năm 1988 tổng giá trị sản lượng của các xí nghiệp địa phương này đạt tới 645,9 tỷ nhân dân tệ; tăng gấp hơn 6 lần so với năm 1983. Các xí nghiệp này hàng năm đã thu hút được lực lượng lao động dư thừa lên đến 10 triệu người và đến năm 1988 số lao động làm trong các xí nghiệp này lên tới 95,45 triệu người, xấp xỉ với số lao động làm việc trong các doanh nghiệp nhà nước [1]. Giai đoạn thứ ba từ năm 1989 đến năm 1991: Đây là giai đoạn có nhiều biến đổi trong sự phát triển của các xí nghiệp địa phương. Nhờ vào các chính sách mở cửa của Trung Quốc, do đặc điểm của địa lý gần với Hồng Kông, Ma Cao và có sự góp mặt của nhiều Hoa Kiều thông qua đầu tư nước ngoài làm cho các xí nghiệp địa phương phát triển mạnh mẽ ở các khu vực duyên hải. Các hoạt động đầu tư về vốn, kỹ thuật trong các ngành chế biến, các ngành đặc trưng có thế mạnh khác rất phát triển. Năm 1991, tổng giá trị sản lượng của các xí nghiệp địa phương đạt 11000 tỷ nhân dân tệ, trong đó tổng giá trị sản lượng công nghiệp đạt 850 tỷ nhân dân tệ, chiếm 1/3 tổng giá trị công nghiệp quốc gia, thu hút hàng trăm triệu lao động [1]. Giai đoạn thứ tư bắt đầu từ năm 1992: Trong giai đoạn này các chính sách cải cách và mở cửa ra bên ngoài được thúc đẩy tạo ra một nền kinh tế hướng ngoại trên toàn quốc. Giá trị xuất khẩu của các xí nghiệp này đạt 190 tỷ nhân dân tệ vào năm 1993. Năm 1994, số lượng các xí nghiệp địa phương có vốn đầu tư nước ngoài mới thành lập đã tăng gấp hai lần và có sự mở cửa rộng từ vùng duyên hải vào trong đất liền và biên giới của các tỉnh. Các công ty nước ngoài đến từ Hồng Kông, Ma Cao, Đài Loan, Châu Âu, Bắc Mỹ và các nước Đông Nam Á với sự tăng trưởng cả quy mô lẫn số dự án. Các doanh nghiệp địa phương đã trở thành một động lực mới cho nền kinh tế và góp phần quan trọng vào giải quyết công ăn việc làm, giảm sức ép lao động cho các đô thị lớn. - Thúc đẩy phát triển các doanh nghiệp địa phương tạo điều kiện thu hút lao động dư thừa. Cho đến nay, các doanh nghiệp địa phương đóng vai trò chính trong việc thu hút lực lượng lao động dôi dư. Các chính sách khuyến khích đầu tư của nhà nước đã thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp địa phương. Trong những năm đầu tiên có tới 20% tổng số thu nhập của người dân nông thôn là từ các doanh nghiệp địa phương. Ở những vùng phát triển hơn tỷ lệ này lên tới 50%. Năm 1992, tổng giá trị sản lượng công nghiệp nông thôn lần đầu tiên chiếm trên 50% tổng giá trị xã hội, số lượng lao động làm việc trong khu vực này cũng tăng lên đáng kể. Từ những năm 1990, khoảng cách chênh lệch giữa tốc độ tăng trưởng của công nghiệp địa phương và công nghiệp đô thị ngày một rộng ra. Trong 2 năm 1991 và 1992, tốc độ tăng trưởng công nghiệp khu thành thị tương ứng là 12,98% và 21,2%, trong khi đó của doanh nghiệp địa phương là 25% và 52,2%. Giá trị sản lượng công nghiệp của doanh nghiệp địa phương chiếm 9,1% tổng giá trị sản lượng quốc gia năm 1978, 30,9% năm 1991 và 36,8% năm 1992 [1]. Tốc độ tăng trưởng cao của các doanh nghiệp địa phương đã tạo ra rất nhiều cơ hội việc làm cho lực lượng lao động dôi dư ở khu vực nông thôn. Trung Quốc đã xuất hiện hai mô hình công nghiệp hoá nông thôn là mô hình cá nhân ở phía nam tỉnh Giang Tô và mô hình tập thể ở thành phố Giang Châu. Khuyến khích xây dựng các doanh nghiệp địa phương là một trong những giải pháp quan trọng của Trung Quốc nhằm giải quyết vấn đề việc làm nông thôn. - Xây dựng các đô thị quy mô vừa và nhỏ để giảm bớt lao động nhập cư ở các thành phố lớn; Sự phát triển các đô thị nhỏ ở các vùng nông thôn cùng với công nghiệp hoá nông thôn sẽ là một giải pháp để thu hút lao động dư thừa, góp phần tối đa hoá việc phân bổ các nguồn lực ở các khu vực và thu hẹp khoảng cách giữa các thành phố và vùng nông thôn. Những người nông dân có kỹ năng sẽ có cơ hội tham gia vào các ngành công nghiệp và dịch vụ mà không phải tham gia sản xuất nông nghiệp. Như vậy, qua bài học kinh nghiệm của Trung Quốc về giải quyết vần đề dư thừa lao động nông thôn trong quá trính CNH-HĐH trong từng giai đoạn phát triển là một bài học bổ ích cho nước ta, nhất là đối với giai đoạn đô thị hoá mạnh đang diễn ra hiện nay. - Kinh nghiệm ở Nhật Bản: Những năm 40 và 50 của thế kỷ XX, đời sống của nông dân Nhật Bản gặp rất nhiều khó khăn, ruộng đất tập trung vào tay địa chủ, nông dân thiếu việc việc trầm trọng. Để giải quyết tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm ở nông thôn chính phủ Nhật Bản đã tiến hành : - Cải cách ruộng đất và thực hiện đa dạng hoá sản phẩm nông nghiệp. Cải cách ruộng đất đã khuyến khích người nông dân đầu tư thêm nhiều lao động vào ruộng đất chính họ sở hữu. Để tăng sản lượng, số ngày làm việc bình quân một vụ trên diện tích gieo trồng được tăng lên. Bên cạnh đó, thâm canh tăng vụ, hợp lý hoá cơ cấu cây trồng đã hạn chế được tình trạng thiếu việc làm theo thời vụ. - Các chính sách và chương trình hỗ trợ nông thôn khác nhau như: Chương trình tưới tiêu, cung cấp tín dụng và trợ giá nông nghiệp, đưa giáo dục nông học vào trường phổ thông, hình thành các trung tâm nghiên cứu và trạm ứng dụng thử nghiệm phục vụ nông dân. Những chương trình này đã tạo thêm việc làm và thu nhập cho nông dân. Sức mua ở các khu vực nông thôn tăng lên, tạo điều kiện để phát triển kinh tế phi nông nghiệp, từ đó thu nhập của các hộ nông dân đã không ngừng tăng lên. Một nguyên nhân thành công của Nhật Bản trong việc duy trì tỷ lệ thất nghiệp là mở rộng các dịch vụ ngành nông nghiệp, bán lẻ và phân phối các lĩnh vực, nền kinh tế thoát khỏi áp lực của di dân và cạnh tranh quốc tế. 2.2.2 Tình hình thu hồi đất nông nghiệp phục vụ CNH-HĐH ở Việt Nam Hiện nay, nước ta có tổng diện tích đất tự nhiên khoảng 32,9 triệu ha, trong đó đất nông nghiệp là 9,3 triệu ha; đất chuyên dùng khoảng 1,5 triệu; đất nhà ở 433 nghìn ha; đất chưa sử dụng, sông suối, núi đá khoảng 10 triệu ha. Trong những năm qua, chúng ta đã thực hiện tốt công tác quy hoạch, sử dụng đất đai để quản lý vận dụng. Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản về quản lý đất đai trong nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, doanh nghiệp ở nông thôn theo quy định của pháp luật. Đất nông nghiệp bình quân theo đầu người chỉ có 1.224m2; bình quân cho nhân khẩu nông nghiệp cũng chỉ được 1.600m2, nhưng giữa các vùng lại rất khác nhau. Trong những năm qua, đất đai của nước ta đã sử dụng hiệu quả cao hơn. Tuy bình quân diện tích đât nông nghiệp thấp nhưng do đầu tư các yếu tố kỹ thuật và giống cây trồng tốt nên nông dân không những đã sản xuất đủ lương thực, thực phẩm cung cấp đủ cho nhu cầu trong nước, mà tỷ trọng xuất khẩu từ nông nghiệp ngày càng tăng. Do tốc độ công nghiệp hoá và đô thị hoá nhanh, cộng với nhiều nơi không có quỹ đất dự phòng, số nhân khẩu nông nghiệp tăng nhanh sự chuyển dịch lao động nông nghiệp sang ngành nghề khác chậm... dẫn tới một bộ phận nông dân thiếu đất hoặc không có đất để sản xuất. Mức độ phát triển công nghiệp và đô thị hoá ở các vùng, các tỉnh, thành cũng khác nhau, do đó số nông dân không còn đất để sản xuất cũng khác nhau. Ở các thành phố lớn, các tỉnh có tốc độ đô thị hoá nhanh, số hộ nông dân không còn đất sản xuất chiếm tỷ lệ lớn nhất cả nước như ở Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng, Vĩnh Phúc, Hưng Yên.... Theo thống kê, bình quân hàng năm Nhà nước thu hồi hàng ngàn ha đất nông nghiệp để xây dựng khu công nghiệp, khu đô thị mới. Theo báo cáo chưa đầy đủ của 64 hội nông dân các tỉnh, thành phố, có hơn 30 vạn hộ nông dân không còn đất sản xuất hoặc có nhưng sản xuất không ổn định: An Giang có 17% số hộ nông nghiệp không có đất, Long An là 7,8%, Sóc Trăng là 5,6%, Bến Tre là 6,2% .... Thực hiện chủ trương của Đảng, thi hành Luật đất đai và các quyết định của Chính phủ, trong những năm qua, các cấp, các ngành đã chú trọng quản lý, sử dụng đất đai có hiệu quả; thực hiện nhiều chính sách đối với hộ nông dân được thu hồi đất. Ở các tỉnh Tây Nguyên, hàng vạn hộ đã được giải quyết đất để sản xuất. Hệ thống kết cấu hạ tầng ở nông thôn được xây dựng khá hơn, việc xác lập và xác định các khu tái định cư cũng như các chính sách đền bù tương đối thoả đáng. Những yếu tố đã góp phần thúc đẩy sản xuất và ổn định chính trị, kinh tế, xã hội ở nông thôn. Tuy nhiên, ở một số nơi chưa thực hiện tốt chủ trương của Đảng cũng như việc thi hành Luật đất đai và các quyết định của Chính phủ, cộng với quá trình công nghiệp hoá và đô thị hóa diễn ra với tốc độ nhanh, đã làm cho số hội nông dân không còn đất sản xuất tăng nhanh. Tình trạng lao động không có việc làm đối với những hộ bị thu hồi đất và lao động dư thừa trong nông thôn ngày một tăng. Ở một số nơi, do việc buông lỏng quản lý đất đai của chính quyền cơ sở, nên đã nảy sinh tình trạng tranh chấp đất đai trong nội bộ nhân dân. Một bộ phận nông dân, do chưa hiểu rõ chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước nên không giao đất cho Nhà nước, khiếu kiện đông người, vượt cấp đã diễn ra, có nơi trở thành “điểm nóng” gây nên những vấn đề phức tạp về an ninh, trật tự ở nông thôn. Vấn đề việc làm và thu nhập của người dân ở Việt Nam Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển kinh tế xã hội và hiệu quả của các chính sách đổi mới trong lĩnh vực lao động - việc làm thì số người được đào tạo nghề và giải quyết việc làm trong các năm tăng nhanh. Trung bình mỗi năm tạo việc làm cho khoảng từ 1,4 đến 1,6 triệu lao động, tỷ lệ thất nghiệp giảm từ 6,01% năm 2002 xuống 5,78% năm 2003 và 5,6% năm 2004; tỷ lệ hộ nghèo đói trên cả nước giảm xuống dưới 10%. Bằng nhiều giải pháp tạo việc làm, trong đó giải pháp cơ bản là thực hiện chương trình phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương, của từng vùng và của cả nước, phát huy nội lực gắn liền với hấp dẫn đầu tư nước ngoài, hình thành các khu công nghiệp và khu chế xuất tạo điều kiện thu hút lao động và giải quyết việc làm cho mọi người trong xã hội. Trong tổng số hơn 42 triệu lao động có việc làm trong cả nước có 57,9% lao động làm việc chính ở khu vục 1 (nông - lâm nghiệp và thủy sản); 17,4% lao động làm việc ở khu vực 2 (công nghiệp và xây dựng) và 24,7% lao động làm ở khu vực 3 (dịch vụ, thương mại). Trong lực lượng lao động từ 16 tuổi trở lên ở thành thị có 94,6% lao động có việc làm và 5,4% thất nghiệp; khu vực nông thôn 98,9% có việc làm và 1,1% thất nghiệp. Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động ở khu vực thành thị năm 2004 đã giảm 5,6% (giảm 0,18% so với năm 2003); khu vực nông thôn còn 1,1. Bộ Lao động Thương binh và Xã hội đẩy mạnh đổi mới cơ chế hoạt động, nâng cao năng lực và hiện đại hoá các trung tâm dịch vụ việc làm ở các tỉnh, thành phố và các cơ sở vệ tinh để cung cấp các dịch vụ tư vấn, giới thiệu và là cầu nối việc làm cho những người có nhu cầu. Hỗ trợ kinh phí cho 39 địa phương tổ chức hội chợ việc làm, tác động tốt đến sự hình thành và phát triển thị trường lao động tại các địa phương cả nước [21]. Nhiều tỉnh thành phố trong cả nước tham gia chương trình liên thông, liên kết trong giới thiệu, tuyển chọn, đào tạo lao động đi làm việc ở nước ngoài lên hơn 400 nghìn người năm 2004, góp phần giảm bớt sức ép việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp trong khu vực đô thị. Nhiều mô hình tạo việc làm có hiệu quả đã xuất hiện ở nhiều lĩnh vực sản xuất và dịch vụ, ở các thành thị và nông thôn, ổn định ở những ngành nghề và mặt hàng truyền thống, đồng thời phát triển và mở rộng các nghề và mặt hàng mới, tạo sự cân bằng và ổn định trong lao động và việc làm. Trong những năm gần đây, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo ở các tỉnh, địa phương tăng nhanh. Đặc biệt, vùng đồng bằng sông Hồng và Đông Nam Bộ có tỷ lệ lao động qua đào tạo cao nhất, chiếm 32% tổng lao động trong vùng năm 2004. Tuy nhiên lao động đã được qua đào tạo vẫn còn nhiều bất cập so với yêu cầu của các thị trường lao động, chủ yếu về cơ cấu ngành nghề. 2.2.3 Chủ trương của Đảng và Nhà nước về giải quyết đền bù và việc làm cho nông dân bị thu hồi đất phục vụ sự nghiệp CNH-HĐH đất nước Là một nước có gần 80% dân số sống bằng nông nghiệp và sống ở nông thôn, do vậy các chính sách về đất đai của Đảng và Nhà nước có ảnh hưởng trực tiếp đến thái độ, tâm trạng, tích cực hoạt động của nông dân. Về vấn đề đất đai, giải pháp đối với hộ nông dân không còn đất sản xuất cần thực hiện một số chính sách và biện pháp cụ thể sau đây: 1. Trước tình trạng nông dân thiếu đất sản xuất ngày càng có xu hướng tăng, việc giao đất không chỉ dừng lại ở việc ưu tiên cho người hộ khẩu trong vùng, khu vực, địa phương, mà có thể mở rộng cho các đối tượng nghèo không có ruộng trong cả nước với những biện pháp quản lý chặt chẽ về mặt pháp lý. Đối với vùng đất rừng, đồi núi, tiện đường giao thông, có kết cấu hạ tầng tương đối tốt, nên giao cho hộ nông dân chưa có ruộng đất. Hộ nông dân các cấp tiếp cận vận động hội viên, nông dân nâng cao nhận thức và thi hành luật pháp nói chung và luật đất đai nói riêng. Hội chủ động phối hợp với chính quyền và các đoàn thể hoà giải, giải quyết các vấn đề mâu thuẫn phát sinh trong nông thôn, nhất là những vấn đề về đất đai. 2. Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt, không sinh sôi nảy nở thêm. Vì vậy, phải có quy hoạch sử dụng đất có hiệu quả, nâng cao độ phì của đất, bồi bổ đất, để đất ngày càng có hiệu quả kinh tế cao. Phải sử dụng đất tiết kiệm, hạn chế sử dụng đất 2 vụ lúa vào xây dựng khu công nghiệp. Quy hoạch khu công nghiệp vào đất bồi, đất bãi đầm lầy (đất có địa tô chênh lệch thấp) nơi xa đô thị, xa trung tâm thì mở đường giao thông và chuyển các dịch vụ về gần với nông thôn hơn. Trong trường hợp thật cần thiết mới sử dụng đến đất tốt, đất trồng cây lương thực. Quy hoạch sử dụng đất để xây dựng các khu công nghiệp mới cần thông báo sớm, thông báo một cách công khai để cho nhân dân được biết. Các cấp uỷ, chính quyền, các đơn vị nhận đất cần phối hợp với các đoàn thể nhân dân, trong đó Hội nông dân các cấp là nòng cốt để tiến hành các thủ tục cần thiết và tuyên truyền các chủ trương của Đảng, Nhà nước về đất đai, nhằm hạn chế việc khiếu kiện trong nhân dân. Việc thu hồi đất nên theo nguyên tắc nhu cầu đất đến đâu thì thu hồi đất đến đó. Đền bù, giải phóng mặt bằng theo giá của Nhà nước quy định và tính đến yếu tố giá cả thị trường trong từng thời điểm nhất định, theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho nông dân, cho người có đất được thu hồi. 3. Tổ chức tốt việc tái định cư cho hộ nông dân sau khi thu hồi đất đến ở các vùng xen kẽ với các hộ nông dân trong làng, xã (nếu còn quỹ đất sản xuất), tạo cơ hội cho họ có đất đồi trống rừng hoặc một phần đất sản xuất của nông dân khác nhường lại, giúp họ yên tâm sản xuất. Các khu tái định cư cũng nên gần làng quê, dòng họ của các hộ nông dân đã sống, gắn bó nhiều đời. 4. Đối với hộ nông dân không còn đất sản xuất, hoặc còn ít đất không đủ để sản xuất ra các sản phẩm đảm bảo cho cuộc sống gia đình, cấp uỷ, chính quyền các cấp, các đoàn thể nhân dân cần quan tâm, chăm lo, tạo điều kiện cho họ có việc làm tại các nhà máy, xí nghiệp ngay trên mảnh đất họ đã giao cho Nhà nước hoặc lân cận trong vùng với phương châm “Ly nông bất ly hương”. Nhà nước giao cho Hội nông dân chủ trì phối hợp với các ngành để tạo nghề mới miễn phí cho nông dân, để họ có thể chuyển sang lao động trong lĩnh vực khác. Cải cách chính sách cho vay vốn ưu đãi để họ chuyển nghề ưu tiên con cái họ về học tập, công ăn, việc làm sau khi ra trường. Hội nông dân cần phối hợp với chính quyền, các doanh nghiệp được giao đất vận động hộ nông dân dùng tiền đền bù đất tham gia đóng góp cổ phần xí nghiệp, nhà máy trên vùng đất của họ trước đây hoặc trợ giúp, hỗ trợ họ sử dụng vốn hiệu quả, đầu tư sản xuất vào nghề mới. Các hộ nông dân có nhu cầu tới các vùng quê khác, cần có chính sách hỗ trợ trong việc di dân, định canh, định cư. Hội nông dân Việt Nam, đại diện lợi ích thiết thực của giai cấp nông dân cần tham gia tích cực để vận động, tư vấn, giúp đỡ hội viên, nông dân nói chung và hộ nông dân thiếu đất hoặc không còn đất nói riêng, nhằm tạo cơ hội tốt cho nông dân tham gia tiến trình CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn. Cơ chế thu hồi đất Chúng ta biết rằng, đất đai là tài sản quý giá, là tư liệu sản xuất chủ yếu của nông dân quyết định cuộc sống của họ và gia đình họ. Thu hồi đất để phát triển khu công nghiệp, đáp ứng nhu cầu công cộng và lợi ích quốc gia là vấn đề kinh tế - xã hội lớn của đất nước, nhưng lại phải tính đến lợi ích cơ bản của hàng triệu người dân bị thu hồi đất. Hiểu tầm quan trọng của vấn đề này, Nhà nước ta đã ban hành Luật đất đai (11/2003) và hàng loạt chính sách vĩ mô hướng vào giải quyết cơ bản vấn đề lao động, việc làm khu vực nông thôn. Đặc biệt, hội nghị BCH TW 5 (khoá IX) ra 2 Nghị quyết quan trọng về nông nghiệp và nông thôn ngày 18/3/2002 có ý nghĩa cực kỳ quan trong không chỉ đối với phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn mà còn đối với vấn đề việc làm cho nông dân. Đó là Nghị quyết 13-NQ/TW về tiếp tục đối mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể và Nghị quyết 14-NQ/TW về đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001 - 2010. Thủ tướng Chính phủ ra quyết định số 032/2000/QĐ-TTg ngày 24/11/2000 về một số chính sách khuyến khích phát triển ngành nghề nông thôn; Quyết định số 126/1998/QĐ-TTg ngày 11/7/1998 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm đến năm 2000, tiếp đó là quyết định số 143 /2001/QĐ-TTg ngày 27/9/2001 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Chương trình mục tiêu xoá đói, giảm nghèo và việc làm giai đoạn 2001-2005, mới đây là Quyết định số 81/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ dạy nghề ngắn hạn cho lao động nông thôn. Nội dung cơ bản của các chủ trương chính sách trên là: Hướng vào tiếp tục giải phóng tiềm năng lao động, đất đai khu vực nông nghiệp, nông thôn tạo động lực mới cho nông dân phát triển kinh tế hộ gia đinh, trang trại, làng nghề, doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nông thôn Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu lao động nông nghiệp, nông thôn đáp ứng yêu cầu cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, sức cạnh tranh của lao động nông thôn, nông dân; tạo việc làm đầy đủ cho lao động nông thôn, nông dân, nhất là vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất, nâng cao giá trị việc làm cho nông thôn, nông dân. Các chính sách vĩ mô này góp phần quan trọng, tạo thế chủ động, tích cực để giải quyết vấn đề thu nhập, đời sống việc làm cho người lao động nông thôn nói chung, cho lao động nông nghiệp khi bị thu hồi đất nói riêng. Ngoài các chính sách trên Nhà nước đã ban hành một số chính sách hỗ trợ người lao động như Nghị định 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ quy định việc hỗ trợ nông dân khi thu hồi đất; Nghị định 197/2004/NĐ-CP của Chính phủ về bồi thường hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất (thay thế Nghị định 22/1998/NĐ-CP). Hải Dương đã thực hiện tốt các chính sách này, bổ sung thêm các chính sách và đầu tư ngân sách cho đào tạo nghề, hỗ trợ phát triển ngành nghề, mở rộng sản xuất, dịch vụ gắn với khu công nghiệp, khu kinh tế để ổn định cuộc sống cho họ. Tuy vậy, việc thực hiện các chủ trương chính sách của Nhà nước trên đang đối mặt với nhiều thách thức. Vướng mắc lớn nhất trong giải quyết việc làm, thu nhập và đời sống cho người dân có đất bị thu hồi hiện nay là chưa có một khung chính sách đồng bộ để đảm bảo lợi ích cho người dân có đất bị thu hồi. Chính vì thế, việc xây dựng một khung chính sách đồng bộ đang là một vấn đề gây bức xúc. Theo chúng tôi, khung chính sách này bao gồm chính sách đền bù, bồi thường thiệt hại; chính sách tạo việc làm; chính sách tái định cư; chính sách về trách nhiệm và nghĩa vụ của các đơn vị được nhận đất thu hồi sử dụng vào các mục đích phát triển khu công nghiệp, khu đô thị; các chính sách xã hội có liên quan. Phần 3 ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1 Đặc điểm địa bàn nghiên cứu 3.1.1 Vị trí địa lý Tỉnh Hải Dương thuộc vùng đồng bằng Bắc Bộ, tiếp giáp với 6 tỉnh là Bắc Ninh, Bắc Giang, Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái Bình và Hưng Yên. Hải Dương có hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt, đường sông phân bổ hợp lý, trên địa bàn tỉnh có nhiều trục giao thông quốc gia quan trọng chạy qua như đường 15, đường 18 và đường 183. Hệ thống đường tỉnh, huyện đã được nâng cấp cải tạo rất thuận lợi cho việc giao lưu, trao đổi với bên ngoài. Thành phố Hải Dương trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá khoa học kỹ thuật của tỉnh nằm trên trục đường quốc lộ 5 cách Hải Phòng 45km về phía đông, cách Hà Nội 57km về phía tây và cách Thành phố Hạ Long 80km. Phía Bắc tỉnh có hơn 20 km quốc lộ 18 chạy qua nối sân bay quốc tế Nội Bài ra cảng Cái Lân tỉnh Quảng Ninh. Đường sắt Hà Nội – Hải Phòng qua Hải Dương là cầu nối giữa Thủ đô và các tỉnh phía Bắc ra các cảng biển. Là tỉnh nằm giữa vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc là Hà Nội-Hải Phòng-Quảng Ninh nên Hải Dương có nhiều cơ hội tham gia vào phân công lao động trên phạm vi toàn vùng và xuất khẩu sang các nước khác. 3.1.2 Điều kiện tự nhiên, thời tiết, khí hậu Hải Dương nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, chia làm 4 mùa rõ rệt (xuân, hạ, thu, đông). Lượng mưa trung bình hàng năm 1300mm-1700mm. Nhiệt độ trung bình 23,3oC; số giờ năng trong năm là 1.524 giờ; độ ẩm tương đối trung bình 85-87%. Khí hậu thời tiết thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp, bao gồm cây lương thực, thực phẩm và cây ăn quả đặc biệt là sản xuất cây rau màu vụ đông. Hải Dương có diện tích đất tự nhiên 1.662 km2 chia ra 2 vùng là vùng đồi núi và vùng đồng bằng. Vùng đồi núi ở phía Bắc của tỉnh chiếm 11% diện tích đất tự nhiên gồm 13 xã thuộc huyện Chí Linh và 18 xã thuộc huyện Kinh Môn; là vùng đồi núi thấp phù hợp với việc trồng cây ăn quả, cây lấy gỗ và cây công nghiệp ngắn ngày. Vùng đồng bằng còn lại chiếm 89% diện tích tự nhiên do phù sa sông Thái Bình bồi đắp, đất màu mỡ thích hợp với nhiều loại cây trồng, sản xuất được nhiều vụ trong năm. Diện tích đất nông nghiệp của tỉnh chiếm 63,1% diện tích đất tự nhiên, năm 2000 diện tích đất nông nghiệp là 114.816 ha đến năm 2005 còn lại 109.316 ha. Đất canh tác phần lớn là đất phù sa sông Thái Bình, tầng canh tác dày, thành phần cơ giới thịt nhẹ đến thịt trung bình, độ pH từ 5,0- 6,5; tưới tiêu chủ động, thuận lợi cho thâm canh tăng vụ, ngoài sản xuất lúa còn trồng rau màu, cây công nghiệp ngắn ngày. Một số diện tích đất canh tác ở phía bắc tỉnh tầng đất mỏng, chua, nghèo dinh dưỡng, tưới tiêu tự chảy bằng hồ đập, thích hợp với cây lạc, đậu tương... 3.1.3 Điều kiện kinh tế-xã hội 3.1.3.1 Tình tình dân số và lao động Năm 2005 Hải Dương có 1.608.970 người với mật độ dân số là 1.022 người/km2, trong đó dân nông thôn chiếm 85%. Dự kiến đến năm 2010 Hải Dương có 1,830 triệu người, với 1,1 triệu lao động; dân số nông thôn chiếm 60-65%. Nguồn lao động của tỉnh dồi dào, lực lượng trong độ tuổi lao động năm 2005 là 1.063.812 người, chiếm 58,5% dân số trong tỉnh; lao động làm nông nghiệp chiếm 81%; lao động trong độ tuổi từ 18- 30 chiếm 40% tổng số lao động. Tỷ lệ lao động qua đào tạo chiếm 20%, lao động phổ thông có trình độ văn hoá hết cấp 3 chiếm 60-65%; người lao động cần cù năng động, tiếp thu nắm bắt kỹ thuật nhanh. Bảng 1. Diện tích, cơ cấu các loại đất của tỉnh giai đoạn 2000 – 2005 Năm 2000 Diện tích năm 2005 So sánh tăng (+) giảm (-) Diện tích (ha) Cơ cấu (%) Diện tích (ha) Cơ cấu (%) TỔNG DIỆN TÍCH TỰ NHIÊN 164.837,37 100 165.185,30 100,00 347,93 1. Đất nông nghiệp 114.816,19 69,65 109.315,52 66,18 - 5.500,67 1.1 Đất sản xuất nông nghiệp 98.393,11 85,70 91.882,88 84,05 - 6.510,23 1.1.1 Đất trồng cây hàng năm 83.138,48 84,50 73.964,96 80,50 - 9.173,52 Trong đó: Đất trồng lúa 80.085,44 96,33 70.220,83 94,94 - 9.864,61 1.1.2 Đất trồng cây lâu năm 15.254,63 15,50 17.917,92 19,50 2.663,29 1.2 Đất lâm nghiệp 9.147,40 5,55 8.858,55 5,36 - 288,85 1.3 Đất nuôi trồng thuỷ sản 7.275,68 6,34 8.541,58 7,81 1.265,90 1.4 Đất nông nghiệp khác 0,00 0,00 32,51 0,03 32,51 2. ĐẤT PHI NÔNG NGHIỆP 48.968,01 29,71 55.084,86 33,35 6.116,85 2.1 Đất ở 11.089,14 22,65 13.776,31 25,01 2.687,17 2.1.1 Đất ở tại nông thôn 10.239,28 92,34 12.143,00 88,14 1.903,72 2.1.2 Đất ở tại đô thị 849,86 7,66 1.633,31 11,86 783,45 2.2 Đất chuyên dùng 20.765,66 42,41 26.425,30 47,97 5.659,64 2.2.1 Đất trụ sở cơ quan 470,50 2,27 482,36 1,83 11,86 2.2.2 Đất quốc phòng, an ninh 268,65 1,29 341,04 1,29 72,39 2.2.3 Đất sản xuất phi nông nghiệp 1.395,47 6,72 3.388,82 12,82 1.993,35 - Đất khu công nghiệp 401,33 28,76 974,57 28,76 573,24 - Đất cơ sở sản xuất kinh doanh 448,14 32,11 1.088,30 32,11 640,16 - Đất cho hoạt động khoáng sản 107,54 7,71 261,16 7,71 153,62 - Đất sản xuất vật liệu xây dựng 438,46 31,42 1.064,79 31,42 626,33 2.2.4 Đất có mục đích công cộng 18.631,04 89,72 22.213,08 84,06 3.582,04 2.3 Đất tôn giáo, tín ngưỡng 226,66 0,46 226,66 0,41 0 2.4 Đất nghĩa trang, nghĩa địa 1.431,73 2,92 1.523,25 2,77 91,52 2.5 Đất sông suối và mặt nước SD 15.324,72 31,30 13.030,19 23,65 - 2.294,53 2.6 Đất phi nông nghiệp khác 130,10 0,27 103,15 0,19 - 26,95 3. ĐẤT CHƯA SỬ DỤNG 1.053,17 0,64 784,92 0,48 - 268,25 Nguồn: Sở tài nguyên và môi trường Hải Dương 3.1.3.2 Cơ sở hạ tầng Hải Dương có hệ thống cơ sở hạ tầng khá hoàn chỉnh, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế xã hội của tỉnh. Hệ thống giao thông: gồm đường bộ, đường thủy, đường sắt phân bổ hợp lý, giao lưu rất thuận lợi tới các tỉnh trong vùng. - Đường bộ: có 4 tuyến đường quốc lộ qua tỉnh dài 99 km, đều là đường cấp I cho 4 làn xe đi lại thuận tiện. Quốc lộ 5 từ Hà Nội đi thành phố cảng Hải Phòng, đoạn chạy ngang qua tỉnh dài 44 km, đây là đường giao thông vận chuyển toàn bộ hàng hoá xuất nhập khẩu qua cảng Hải Phòng và nội địa. Quốc lộ 18 từ Nội Bài qua Nắc Ninh đến tỉnh Quảng Ninh. Đoạn chạy qua huyện Chí Linh tỉnh Hải Dương dài 20 km. Quốc lộ 37 dài 12,4 km, đây là đường vành đai chiến lược phục vụ trực tiếp cho khu du kịch Côn Sơn, Kiếp Bạc. Quốc lộ 38 dài 14 km là đường cấp III đồng bằng. - Đường sắt: Tuyến Hà Nội- Hải Phòng chạy song song với quốc lộ 5, đáp ứng nhu cầu vận chuyển hàng hoá, hành khách qua 7 ga trong tỉnh. - Đường thuỷ: Với 400 km đường sông cho tàu, thuyền 500 tấn chạy qua lại dễ dàng. Cảng Cống Câu có công suất bốc dỡ 300.000tấn/năm và hệ thống bến bãi đáp ứng về vận tải hàng hoá bằng đường thủy một cách thuận lợi. 3.1.3.3 Tình hình phát triển kinh tế Với những lợi thế về vị trí địa lý, hệ thống giao thông và các cơ sở hạ tầng khác, Hải Dương đang khai thác triệt để các tiềm năng để phát triển, đặc biệt trong sản xuất công nghiệp. Tăng trưởng kinh tế ở Hải Dương những năm gần đây đã vượt cao hơn bình quân của cả nước (xem bảng 2). Theo đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch 5 năm 2001-2005, tăng trưởng kinh tế (GDP) bình quân hàng năm toàn tỉnh đạt 10,57% vượt mục tiêu đề ra (9 -10%/năm), cao hơn bình quân của thời kỳ 1996-2000 (9,3%/năm). Bảng 2. Tăng trưởng GDP giai đoạn 1996-2004 và 2005 của tỉnh Hải Dương ĐVT: % 1996-2000 2001-2004 2005 Cả nước Hải Dương Cả nước Hải Dương Hải Dương Tổng GDP 6,95 9,30 7,5 10,57 11,70 - Nông-Lâm-Thuỷ sản 4,42 5,7 3,5 4,25 4,2 - Công nghiệp và xây dựng 10,6 10,6 10,1 14,79 24,8 - Thương mại-Dịch vụ 5,69 12,4 6,4 10,79 14,58 Tăng trưởng GDP của Hải Dương so với cả nước + 2,35 + 3,07 Nguồn: Báo cáo tổng hợp Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội tỉnh Hải Dương giai đoạn 2006-2020; Niên giám thống kê tỉnh Hải Dương 2005 Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực; tỷ trọng Nông-Lâm-Thuỷ sản (NLTS): Công nghiệp-Xây dựng và Dịch vụ năm 2000 là 34,8% : 37,2% : 28% đến năm 2005 đã thay đổi thành 27,5% : 43% : 29,5% (mục tiêu 30% : 40% : 30%) Với những ưu thế của mình cùng với những chính sách được quy hoạch phát triển đúng đắn, tỉnh Hải Dương đã có những thành tựu phát triển đồng đều ở mọi lĩnh vực kinh tế với cơ cấu được chuyển dịch hợp lý. Từ lâu các ngành công nghiệp và xây dựng đã trở thành ngành sản xuất chính, đóng góp lớn vào phát triển kinh tế của tỉnh. GDP ngành công nghiệp-xây dựng d._.g suất cao, giá trị kinh tế cao đã qua khảo nghiệm vào sản xuất. Phấn đấu tỷ lệ giống lúa lai và lúa chất lượng cao vụ, tiếp thu một cách có chọn lọc đưa nhanh mô hình sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, như: nhà kính, nhà lưới … để có sản phẩm nông nghiệp sạch, giá trị kinh tế cao. Tiếp tục quy hoạch, phát triển các vùng sản xuất chuyên canh tập trung đối với các sản phẩm có lợi thế, có thị trường tiêu thụ. Trợ giá 30% giá giống cho các hộ sản xuất lúa chất lượng cao ở các vùng sản xuất tập trung có quy mô từ 5 ha trở lên. Thực hiện chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp, cá nhân đầu tư xây dựng mô hình ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất. Phát triển sản xuất rau an toàn, rau chất lượng cao cung cấp cho thành phố và các khu đô thị, mở rộng diện tích hoa và cây cảnh ở những nơi có điều kiện vì trong điều kiện đất chật hẹp thì những mô hình sản xuất này sẽ có điều kiện thực hiện và mang lại thu nhập cao trên đơn vị diện tích cũng như trên một lao động. - Chăn nuôi: Khẩn trương quy hoạch các vùng chăn nuôi tập trung. Khuyến khích phát triển chăn nuôi tập trung theo hình thức trang trại, nuôi công nghiệp, gắn với cơ sở chế biến tập trung và xử lý chất thải đảm bảo an toàn dịch bệnh, vệ sinh môi trường. - Thuỷ sản: Triển khai thực hiện nhanh các dự án nuôi trồng thuỷ sản tập trung, nâng cao hiệu quả sản xuất tại các vùng chuyển đổi tập trung của các huyện. Có hỗ trợ vốn xây dựng công trình hạ tầng tạo điều kiện thuận lợi cho các vùng nuôi trồng thuỷ sản tập trung có quy mô lớn. Đổi mới hoạt động của các HTX nông nghiệp. Nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống sản xuất giống. Quản lý chặt chẽ hoạt động cung ứng vật tư nông nghiệp, vận chuyển và giết mổ gia súc, gia cầm. Tổ chức thực hiện tốt công tác nạo vét kênh mương. Thực hiện Đề án miễn giảm thuỷ lợi phí cho nông dân. Triển khai xây dựng hệ thống thông tin khuyến nông và thị trường nông sản tỉnh Hải Dương. (2) Phát triển công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, xây dựng kết cấu hạ tầng Phát triển các làng nghề tiểu thủ công nghiệp: Tạo điều kiện để đầu tư, phát triển, khôi phục các làng nghề TTCN trong tỉnh; phát triển các ngành nghề mới. Cũng cố, hỗ trợ tạo điều kiện thuận lợi để các hợp tác xã hoạt động ổn định và phát triển. Phát triển kỹ thuật, công nghệ và bảo vệ môi trường: Phát triển kỹ thuật và công nghệ tiên tiến là yếu tố đảm bảo mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hóa; hướng tới đưa công nghệ kỹ thuật tiên tiến, hiện đại vào sản xuất công nghiệp; cho nên, các DN cần có kế hoạch đổi mới công nghệ và thiết bị hàng năm. Trong quá trình đầu tư phát triển công nghiệp phải ưu tiên đầu tư trang thiết bị công nghệ tiên tiến gắn với mục đích giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Biện pháp về đảm bảo cung ứng đủ nguồn nguyên liệu cho công nghiệp chế biến lương thực thực phẩm: phải thật sự gắn bó lợi ích của người nuôi, trồng nguyên liệu với nhà máy chế biến. Tăng cường mối liên kết giữa Hiệp hội, Hội ngành nghề với các nhà máy chế biến trong tỉnh. Khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào các khu, cụm công nghiệp tập trung của tỉnh. Chú trọng thu hút các nhà đầu tư sản xuất các sản phẩm có hàm lượng khoa học, công nghệ cao như: sản xuất linh kiện và lắp ráp điện tử, đồ dùng cao cấp,... Tạo môi trường thuận lợi về mặt bằng sản xuất và các dịch vụ hỗ trợ như: điện, cấp thoát nước, thông tin liên lạc, tín dụng vay vốn cho các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh. Thực hiện tốt chương trình hỗ trợ doanh nghiệp về: đào tạo lao động, xúc tiến thương mại, phát triển thị trường, cải tiến công nghệ. Tạo điều thuận lợi để dự án đầu tư mở rộng dây truyền 2 của Công ty Xi măng Phúc Sơn đã được Bộ Xây dựng trình Chính phủ bổ sung qui hoạch sớm được cấp phép đầu tư và triển khai thực hiện. Đẩy nhanh tiến độ xây dựng hạ tầng kỹ thuật các khu công nghiệp Tân Trường, Việt Hoà - Kenmark. Hoàn chỉnh quy hoạch 3 khu công nghiệp: Phú Thái (Kim Thành), Lai Cách (Cẩm Giàng), An Bình - Quốc Tuấn (Nam Sách). Gắn phát triển công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm với quy hoạch phát triển các vùng nguyên liệu tập trung. Triển khai một số chương trình liên tịch giữa Sở lao động – Thương binh và Xã hội với các ngành, các đoàn thể và giả quyết việc làm . (3) Đáp ứng nhu cầu về vốn cho đầu tư phát triển sản xuất của các hộ gia đình Khi diện tích đất còn lại không nhiều, người nông dân sẽ tìm mọi biện pháp để đầu tư thâm canh, chuyển sang trồng các loại cây và chăn nuôi các loại vật nuôi đòi hỏi vốn đầu tư cao, kỹ thuật tiên tiến nhằm tạo ra thu nhập cao và giải quyết việc làm cho người lao động. Để đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư cho sản xuất tiểu thủ công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ đòi hỏi phải có hàng loạt các biện pháp để huy động vốn, tạo ra cơ sở kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, tạo ra môi trường thuận lợi để kích thích phát triển các ngành công nghiệp, mở rộng quan hệ hợp tác, thu hút vốn đầu tư. (4) Phát triển thương mại, dịch vụ và du lịch Khuyến khích phát triển các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại,dịch vụ và du lịch, phải không ngừng nâng cao chất lượng phục vụ, chất lượng sản phẩm hàng hoá, hạ giá thành; giữ vững và phát triển thị trường trong điều kiện cạnh tranh. Cần chú ý đào tạo đội ngũ cán bộ tiếp thị, xúc tiến thương mại, xây dựng chiến lược về sản phẩm trong từng giai đoạn nhất định. Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp của tỉnh tham dự các kỳ hội chợ trong và ngoài nước nhằm quảng bá sản phẩm và phát triển thị trường. Hình thành các tuyến du lịch danh lam thắng cảnh gắn với tham quan các làng nghề truyền thống để thu hút du khách. Đẩy mạnh hợp tác về du lịch với Thành phố Hà Nội và các địa phương khác có tiềm năng trong khu vực để: khai thác, quảng bá sản phẩm; đào tạo nguồn nhân lực, thu hút đầu tư. Tiếp tục xây dựng cơ sở hạ tầng các khu du lịch gắn với mạng lưới du lịch của khu vực và toàn quốc. Phát triển và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. Tăng cường hợp tác, liên kết tạo thành mạng lưới kinh doanh thương mại có hiệu quả. Làm tốt công tác quản lý thị trường, chống hàng giả và hoạt động đầu cơ trái phép. Đẩy mạnh các hoạt động xuất khẩu, nhất là các mặt hàng có thế mạnh và có thị trường tiêu thụ ổn định. Hỗ trợ doanh nghiệp trong tỉnh tham gia các hội chợ có uy tín trong nước và quốc tế. Thí điểm chuyển đổi mô hình quản lý chợ trên địa bàn tỉnh từ ban quản lý, tổ quản lý sang doanh nghiệp kinh doanh khai thác chợ theo Nghị định số 02/2003/NĐ-CP. Ưu tiên phát triển các dự án về thương mại, dịch vụ, du lịch của quốc gia, quốc tế, các dự án lớn, các dự án có tổng mức đầu tư cao, thu hút nhiều lao động. Tổng kết và từng bước nhân rộng các mô hình công nghiệp và dịch vụ gắn với trung tâm đô thị mới trên địa bàn đó là các cụm kinh tế kỹ thuật và thương mại của các tiểu vùng nằm trong qui hoạch chung của mỗi địa phương được hình thành trên cơ sở kết hợp sản xuất nông sản hàng hoá và công nghệ chế biến với các hoạt đông dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống. (5) Xây dựng và hoàn thiện các quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất Quy hoạch tổng thể cho các KCN, cụm công nghiệp, vùng kinh tế trọng điểm, vùng sản xuất hàng hoá tập trung, làng nghề truyền thống, khu dân cư đô thị và các hệ thống quy hoạch chi tiết khác. Công bố công khai rộng rãi các quy hoạch này từ đó xây dựng kế hoạch sử dụng lao động đến các khu dân cư nằm trong các quy hoạch và các cơ sở đào tạo nghề để người lao động và chính quyền địa phương, các cơ sở đào tạo nghề có các giải pháp giải quyết việc làm, đào tạo nghề chuẩn bị nguồn nhân lực đủ điều kiện vào làm việc trong các KCN. Để khi nhà nước thu hồi đất người lao động không bị hẫng hụt, bị động trong sinh hoạt và tìm việc làm mới. (6) Nâng cao trình độ cho người lao động có đất bị thu hồi phù hợp với yêu cầu phát triển mới của nền kinh tế trong bối cảnh hội nhập quốc tế Lao động nông nghiệp nước ta nói chung, người nông dân có đất bị thu hồi nói riêng có trình độ văn hoá kém, trình độ khoa học kỹ thuật, năng lực quản lý kém, ý thức tổ chức kỷ luật, tác phong công nghiệp rất hạn chế. Do đó, khi được thu hút vào làm việc trong các doanh nghiệp không đáp ứng được yêu cầu, dẫn đến tình trạng hoặc không được thu nhận, hoặc tự bỏ doanh nghiệp, hoặc bị thải hồi sau một thời gian làm việc. Chính vì vậy để nâng cao chất lượng nguồn lao động cần: - Đào tạo và bồi dưỡng nhân lực: Nâng cao trình độ nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng sống còn phát triển các ngành nghề. Do đó, phải có biện pháp thường xuyên nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý, khoa học kỹ thuật và lực lượng lao động; đào tạo và bồi dưỡng nâng cao năng lực cán bộ làm công tác quản lý, kỹ thuật, quản trị doanh nghiệp và lực lượng lao động, bằng cách đầu tư nâng cao chất lượng dạy nghề: Tranh thủ sự trợ giúp của Nhà nước với tự hy vọng mọi nguồn lực, tập trung đầu tư, mua sắm thiết bị dạy nghề hợp lý theo hướng đồng bộ hoá, hiện đại hoá trang thiết bị gắn với thực tiễn. Chú trọng việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ đội ngũ giáo viên và đội ngũ cán bộ quản lý, đảm bảo 100% đội ngũ giáo viên đạt chuẩn và trên chuẩn về mặt trình độ chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm, phương pháp, phương tiện dạy học mới, đổi mới phương thức hoạt động của các cơ sở dạy nghề nhằm từng bước nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong dạy nghề. - Tư vấn để người lao động có được sự lựa chọn các ngành nghề đào tạo từ đó có được nghề nghiệp mà mình yêu thích, vì thế sẽ có điều kiện rèn luyện ý thức kỷ luật và tác phong công nghiệp cho người lao động. Muốn vậy, cần khảo sát nắm nhu cầu nguồn lao động của các thị trường. Trên cơ sở đó, cần nâng cao chất lượng hệ thống giáo dục và đào tạo, kể từ giáo dục phổ thông đến đào tạo nghề, thực hiện đổi mới nội dung, chương trình đào tạo đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp và nhu cầu xuất khẩu lao động. (7) Phát triển hệ thống các trường đào tạo nghề Qui hoạch phát triển mạng lưới dạy nghề theo hướng xã hội hoá theo hướng của Nghị đinh 73/NĐ- CP ngày 19/8/1999 của Chính phủ về phương hướng và chủ trương xã hội hoá các loại hình hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoa, thể thao và Nghị định 53/2006/NĐ-CP của Chính phủ về chính sách khuyến khích phát triển các cơ sở ứng dụng dịch vụ ngoài công lập. Phát triển hệ thống đào tạo của Trung ương trên địa bàn: nâng cấp trường dạy nghề lên trung cấp nghề, cao đẳng nghể và nâng cấp Trường Cao đẳng công nghiệp Sao Đỏ (Chí Linh) lên Đại học, đào tạo đa cấp, đa ngành tạo nguồn lao động chất lượng cao, phấn đấu có trên 30% học sinh là người Hải Dương theo học. Xã hội hoá, đa dạng hoá các loại hình đào tạo cơ sở đào tạo nghề, bao gồm: Thành lập mới từ 2-3 trường trung cấp nghề trực thuộc doanh nghiệp quốc doanh: đào tạo trình độ trung cấp nghề trở xuống, ưu tiên dạy các nghề mà các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh có nhu cầu tuyển. Thành lập 5 trung tâm dạy nghề thuộc doanh nghiệp, có quy mô đào tạo trên 150- 250 học sinh/năm. Khuyến khích các doanh nghiệp tham gia dạy nghề với mục tiêu vừa lao động cho nhu cầu phát triển doanh nghiệp mình vừa cung ứng lao động có tay nghề cho các doanh nghiệp khác. Phát triển các nâng cao chất lượng các trung tâm giới thiệu việc làm: Nâng cấp trung tâm giới thiệu việc làm Hải Dương thành trung tâm giới thiệu việc làm vùng trọng điểm khu vực phía Bắc; ngoài chức năng giới thiệu việc làm, cung cấp thông tin về học nghề- người tìm việc- việc tìm người cho các cơ sở đào tạo nghề và các doanh nghiệp, hàng năm đầu tư nâng cao quy mô dạy nghề lên 3.000 – 5.000 học sinh, trình độ sơ cấp nghề. Đầu tư, nâng cấp Trung tâm dạy nghề và giới thiệu việc làm Hội Nông dân tỉnh và 03 Trung tâm giới thiệu việc làm các hội, đoàn thể; ngoài chức năng giới thiệu việc làm còn tham gia dạy nghề, quy mô đào tạo từ 1.000- 1.500 học sinh/trung tâm/năm, trình độ sơ cấp nghề. Gắn kết công tác đào tạo nghề với giải quyết việc làm phục vụ các KCN. Đẩy mạnh xúc tiến đầu tư các dự án công nghiệp vào các KCN, tạo điều kiện thuận lợi cho các dự án sớm đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Khuyến khích các cơ sở đào tạo, dạy nghề thực hiện đào tạo, dạy nghề theo “đơn đặt hàng”, đào tạo có địa chỉ đầu ra, đào tạo theo cơ cấu nghề thực tế cần thiết trên địa bàn của các doanh nghiệp trong các KCN. Tăng cường phối hợp giữa các ngành trong việc xúc tiến thu hút các dự án đầu tư, có kế hoạch dạy nghề gắn với tạo việc làm trong các KCN cho lao động trước khi chuyển giao đất. Sở Lao động thương binh và Xã hội phối hợp với các trường dạy nghề trong tỉnh mở các lớp đào tạo nghề ngắn hạn phục vụ cho các doanh nghiệp, công ty nào có nhu cầu cần tuyển lao động, nhu cầu giải quyết việc làm, xuất khẩu lao động. Khuyến khích các doanh nghiệp mở các lớp dạy nghề cho số lao động được tuyển ngay tại doanh nghiệp trên cơ sở sử dụng máy móc thiết bị và giáo viên dạy nghề của doanh nghiệp. Có chính sách dạy nghề, truyền nghề gắn với giải quyết việc làm cho lao động sau khi giao đất không có khả năng vào làm việc trong các KCN Tăng cường quản lý Nhà nước về dạy nghề và Giới thiệu việc làm. Căn cứ theo trình độ chuẩn của Nhà nước và các cấp đào tạo, yêu cầu các cơ sở tổ chức điều tra, khảo sát nắm chắc về tình hình lao động. Căn cứ Pháp luật Lao động và các chính sách, chế độ của Nhà nước có kế hoạch Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện của các cơ sở dạy nghề, của các doanh nghiệp đảm bảo chính sách đối với người lao động. (8) Hỗ trợ người dân tìm kiếm thông tin về việc làm và dạy nghề cho họ Ban quản lý các KCN, Uỷ ban nhân dân các huyện, thành phố phối hợp chặt chẽ với các doanh nghiệp có dự án đầu tư để nắm được kế hoạch sử dụng lao động. Thông báo công khai về số lượng lao động cần tuyển, ngành nghề, thời gian dự kiến tuyển- ngăn chặn kịp thời nạn môi giới thu tiền của người lao động. Cung cấp các dịch vụ việc làm miễn phí cho người lao động đến tìm việc làm gồm: Tư vấn lựa chon việc làm, nơi làm việc; tư vấn chọn nghề học, hình thức, nơi học nghề; tư vấn lập dự án tạo việc làm hoặc dự án tạo thêm việc làm; tư vấn Pháp luật liên quan đến việc làm, giới thiệu việc làm, bố trí việc làm, các dịch vụ khác về việc làm khi được yêu cầu. Các trường, các trung tâm dạy nghề thông báo công khai kế hoạch tuyển sinh hàng năm, cơ cấu, ngành nghề đào tạo để người lao động lựa chọn nghề học phù hợp. Đồng thời liên hệ với các doanh nghiệp để dạy nghề cho người lao động theo địa chỉ tiếp nhận kể cả trong và ngoài tỉnh. Phát triển mô hình tư vấn và thông tin lao động, nghề nghiệp và việc làm tại các khu vực ngoại thành. Phát triển các tổ chức dịch vụ việc làm gia đình, các đội dịch vụ lao động phục vụ nhu cầu kinh tế xã hội. Ngân sách địa phương hỗ trợ trang thiết bị, phương tiện làm việc cho các trung tâm dịch vụ việc làm và các vệ tinh ở tuyến huyện để đủ năng lực dạy nghề cho người lao động. (9) Hoàn thiện các chính sách vĩ mô trong đền bù giải phóng mặt bằng - Chính sách đền bù đất nông nghiệp: Chính sách đền bù đất nông nghiệp ở một số địa phương còn có nhiều hạn chế đó gây bất ổn định đối với người dân điều đó được thể hiện ở hình thức đền bù của nhà nước. Do mức đền bù thiệt hại đất đai và tài sản trên đất còn quá thấp nên người dân gặp nhiều khó khăn trong việc tạo nghề và việc làm mới. Qua điều tra cho thấy, mức đền bù mà người dân nhận được trung bình cho 1 sào (360m2) chỉ từ 9,3 đến cao nhất là 14,0 triệu đồng (trong đó đã có khoản hỗ trợ tìm việc làm cho lao động nông nghiệpaxbij mất đất). Với tổng số tiền nhận được từ đền bù đất nông nghiệp không đủ để ổn định cuộc sống và chuyển đổi ngành nghề sản xuất. Vì vậy, trong quá trình xây dựng và thực hiện chính sách đền bù khi thu hồi đất nông nghiệp của nông dân cần phải quán triệt một số quan điểm như: Xây dựng và hoàn thiện chính sách đền bù đất nông nghiệp theo cơ chế thị trường có sự định hướng của xã hội chủ nghĩa. Phải đảm bảo quyền lợi thoả đáng và công bằng cho những người bị thu hồi đất. Từ đó để họ tự nguyện chấp hành quá trình giải phóng mặt bằng. Khi đã đảm bảo quyền lợi thoả đáng và công bằng cho những người bị thu hồi đất, nhà nước sẽ kiên quyết cưỡng chế những phần tử chây ì, cố tình không chấp thuận giải phóng mặt bằng. Sự công bằng trong chính sách đền bù phải được xem xét trong mối quan hệ giữa những người mất đất, người không mất đất, người phải di chuyển, người không phải di chuyển và được xem xét trong trạng thái động chứ không phải trong trạng thái tĩnh. Trong thực tế, khi Nhà nước thu hồi đất, đền đù đất xong để xây dựng công trình công cộng hoặc giao cho các doanh nghiệp thì đất đó trở thành phi nông nghiệp có giá trị kinh tế cao mặc dù chưa phải đầu tư quá nhiều, tuy nhiên Nhà nước chỉ đền bù thiệt hại về đất và tài sản trên đất cho người bị thu hồi theo giá đất nông nghiệp. Như vậy, người bị thu hồi sẽ chịu thiệt hại vô hình so với những nhà đầu tư và những người không bị thu hồi đất xin dùng đất đó vào mục đích khác. Việc xây dựng và thực hiện chính sách đền bù phải hướng tới quá trình chuyển nông dân thành thị dân. Do quá trình đô thị hoá tất yếu sẽ biến đa số nông dân trong khu vực đô thị hoá thành thị dân. Vì vậy, mức giá đền bù phải đảm bảo cho người nông dân có thể chuyển đổi được nghể từ hoạt động nông nghiệp sang hoạt động phi nông nghiệp. Do đó, mức hỗ trợ chuyển nghề được tính trên một đơn vị diện tích là không đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Mặc khác, quá trình đô thị hoá diễn ra, các khu đô thị được hình thành, giao thông được nâng cấp mở rộng thì giá trị đất cũng được nâng lên, điều này sẽ gây ra sự bất công bằng đối với người bị thu hồi đất, di chuyển và người không bị thu hồi đất, ở lại, do giá đền bù trước thời điểm đó thấp hơn rất nhiều so với giá trị đất sau khi được quy hoạch. Xuất phát từ những quan điểm trên, Nhà nước cần hoàn thiện một số chính sách đền bù và sau đền bù như sau: - Cần phải xem xét, đánh giá lại phương thức tính giá đền bù trên một đơn vị diện tích sao cho phù hợp với thực tế. - Không nên ban hành bảng giá “cứng” mà lấy giá thị trường hợp lý làm giá đền bù cho từng khu vực, từng dự án. - Giá đền bù đất nông nghiệp ở khu vực đô thị hoá cần tính theo giá thực tế khi dự án bắt đầu khởi động tại khu vực đó. - Mức hỗ trợ chuyển nghề cần phải dựa trên căn cứ số lao động bị mất việc làm tính trên mỗi đơn vị diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi và chi phí thực tế hợp lý để tạo một việc làm mới trong các ngành phi nông nghiệp. - Hỗ trợ đào tạo chuyển nghề, hướng nghiệp tạo việc làm mới đối với các hộ dân bị thu hồi đất nông nghiệp. - Các dự án đầu tư trong điều kiện cho phép cần ưu tiên tuyển dụng lao động từ nơi sử dụng đất. - Ưu tiên hỗ trợ xây dựng kết cấu hạ tầng đối với các làng xã bị thu hồi hầu hết đất canh tác. - Bố trí vốn cần thiết để thu hồi diện tích đất của các đơn vị, cá nhân sử dụng sai mục đích, kém hiệu quả, vi phạm luật đất đai. - Giải quyết khiếu nại kịp thời, đồng thời sử lý kiên quyết các trường hợp có tính vi phạm luật trong quá trình tổ chức thực hiện công tác giải phóng mặt bằng. Khi thực hiện phải đảm bảo công bằng, công khai, dân chủ, phối hợp thống nhất giữa thành phố và các phường xã, kết hợp chặt chẽ các biện pháp vận động, thuyết phục kinh tế, hành chính và pháp luật. - Nhanh chóng hoàn thành công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nông dân, cụ thể là cấp sổ đỏ và khuyến khích nông dân tự chuyển đổi giảm thiểu tình trạng ruộng đất manh mún, thiếu tập trung. - Cần phải cải tạo, nâng cấp hệ thống thủy lợi tưới tiêu nước cho phần diện tích đất còn lại sau khi bị thu hồi. Tránh tình trạng như hiện nay một số diện tích ở khu vực thành phố Hải Dương mùa mưa thì ngập úng mùa hanh thì không có nước tưới cho cây trồng. - Có chính sách tạo vốn cho lao động có vai trò to lớn tuy việc thúc đẩy giải quyết việc làm ở nông thôn. Tạo điều kiện thuận lợi và giải quyết nhanh chóng khi nông dân có nhu cầu vay vốn đầu tư sản xuất, mở rộng quy mô trang trại, kinh tế hộ gia đình. - Miễn giảm thuế cho các trung tâm xúc tiến việc làm, trung tâm dạy nghề, khuyến nông và các cơ sở dạy nghề tư nhân là cơ sở vệ tinh của các hệ thống chương trình giải quyết việc làm; Giảm thuế đất đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh đang sử dụng nhiều lao động và khả năng mở rộng để thu hút nhiều lao động phi nông nghiệp ở nông thôn và cung cấp các dịch vụ hỗ trợ đào tạo nghề cho lao động nông thôn Hải Dương. - Có chính sách đào tạo và dạy nghề cho lao động nông thôn mất đất: hỗ trợ hệ thống đào tạo kỹ thuật, tay nghề cho thanh niên nông thôn với hình thức đào tạo tại chỗ, đào tạo các trung tâm dạy nghề, dạy kèm và tự trang trải. (10) Đẩy mạnh xuất khẩu lao động sang các nước Tuyên truyền rộng rãi thường xuyên các thông tin về xuất khẩu lao động để mọi người dân nắm được chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, quyền lợi và nghĩa vụ của người khi tham gia xuất khẩu lao động. Trên cơ sở dự báo về thị trường lao động, ngành nghề, điều kiện làm việc, các trường, các trung tâm tổ chức dạy nghề cho những người để điều kiện, có nhu cầu đi xuất khẩu lao động tạo nguồn cung cấp cho các doanh nghiệp. Tỉnh hỗ trợ một phần học phí cho người học nghề, học tập giáo dục định hướng để đi xuất khẩu lao động. Ban chỉ đạo xuất khẩu lao động tỉnh phối hợp chặt chẽ với các doanh nghiệp xuất khẩu lao động để tuyên truyền, giúp đỡ người có nguyện vọng xuất khẩu lao động, khuyến khích các doanh nghiệp trong nước ưu tiên sử dụng lao động sau khi đi xuất khẩu hoàn thành nhiệm vụ về nước. Phát triển chương trình xuất khẩu lao động, tập trung và thị trường Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc; tổ chức di dân các vùng kinh tế mới; tổ chức có hiệu quả chương trình dự án nhỏ vay vốn quỹ việc làm quốc gia, chương trình xoá đói giảm nghèo và các chương trình liên tịch về việc làm giữa ngành Lao động – Thương binh và xã hội và các Đoàn thể. Xuất khẩu trực tiếp do các công ty cung ứng lao động ngoài nước của tỉnh qua Bộ, ngành của trung ương, qua các doanh nghiệp có giấy phép xuất khẩu lao động. Khai thác thị trường lao động ở trong nước như Hà Nội, Hải Phòng, TP Hồ Chí Minh và các khu vực công nghiệp lớn. Phần 5 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 5.1 Kết luận Việc làm là vấn đề mà Chính phủ và toàn xã hội càng quan tâm. Vì vậy chiến lược phát triển kinh tế- xã hội Việt Nam giai đoạn 2006-2010 đó được thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng nêu từ “giải quyết việc làm là yếu tố quyết định để phát huy nhân lực, ổn định và phát triển kinh tế, lành mạnh hoá xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc của nhân dân” Phát triển nguồn nhân lực, giải quyết việc làm cho người lao động nông nghiệp bàn giao đất khu cho các KCN đang là một trong những vấn đề xã hội bức xúc và nhạy cảm nhất hiện nay, liên quan đến cuộc sống của nhiều người và là một trong những yếu tố quan trọng nhất giúp phần ổn định kinh tế, chính trị và phát triển xã hội. Ở Hải Dương trong những năm gần đây quá trình phát triển các KCN diễn ra khá mạnh. Thời gian qua, diện tích đất nông nghiệp của tỉnh đã không ngừng bị thu hẹp gây ra những tác động không nhỏ đến sản xuất, lao động, việc làm và đời sống của các hộ nông dân có đất bị thu hồi. Qua thời gian nghiên cứu đề tài chúng tôi đi đến một số kết luận sau. - Về cơ cấu sản xuất, việc làm: Trước khi bàn giao đất nghề chủ yếu của các hộ gia đình là ngành sản xuất nông nghiệp, ở nhóm hộ I đã giảm đi là 16,2% so với lúc chưa bàn giao đất. Ở nhóm hộ II giảm đi 14,6% và nhóm hộ III do không bàn giao đất nhưng diện tích sản xuất ngành nông nghiệp vẫn giảm đi do chuyển một phần diện tích đất chuyển sang ngành khác là 3,7%. Ngành nghề kinh doanh dịch vụ và ngành nghề khác được mở rộng hơn trước số lao động tham gia vào ngành này đã tăng lên chiếm tỷ trọng 23,87% so với trước khi thu hồi đất là 11,62%, số lao động đi làm việc nơi khác cũng tăng lên chiếm 13,5% và trước khi thu hồi là 8,9%. - Về thu nhập: Sau khi bị thu hồi đất thu nhập bình quân trong tất cả các nhóm hộ điều tra đều tăng lên. Ở nhóm hộ I tăng từ chỗ bình quân một hộ trước thu hồi đất là 22,2 triệu đồng nay là 41,16 triệu đồng tăng gần 19 triệu đồng so với trước, nhóm hộ II tăng gần 17,2 triệu đồng so với trước, nhóm hộ III tăng 12,23 triệu đồng so với trước. * Nguyên nhân: - Có chế tuyển lao động vào KCN còn có những bất cập với thực tiễn. - Nhiều doanh nghiệp đang trong giai đoạn bắt đầu đi vào hoạt động hoặc xây dựng. - Doanh nghiệp không muốn nhận lao động không có tay nghề hoặc tay nghề không phù hợp với công việc. - Các hộ còn gặp khó khăn trong việc chuyển đổi nghề mới. 5.2 Kiến nghị Chuyển dịch lao động nông nghiệp sang làm ngành nghề khác, tạo mở thêm việc làm và việc làm mới, nhanh chóng ổn định việc làm và đời sống cho người lao động là vấn đề bức xúc cần được quan tâm hàng đầu đối với các địa bàn nông thôn có đất bị thu hồi. Xuất phát từ những vấn đề còn tồn tại trong quá trình chuyển đổi đất sang xây dựng các KCN ở địa phương, chúng tôi mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị như sau: Đối với Nhà nước Giao cho các cơ quan có chức năng cùng với các viện nghiên cứu xây dựng sớm chiến lược, quy hoạch kế hoạch sử dụng nguồn lực đất đai và chiến lược đào tạo lao động cho các cùng quy hoạch trước khi thu hồi đất từ nay cho đến năm 2010, 2020 tương đối rõ ràng và có cơ sở khoa học. Chấm dứt tình trạng việc sử dụng tuỳ tiện và thiết kế quy hoạch cũng như một số địa phương rơi vào tình trạng quy hoạch treo. Nhà nước có thể xây dựng quỹ đào tạo nghề cho những người có đất bị thu hồi. Có thể trích một phần cho thuê đất để hình thành quỹ nàyvà nó dùng vào việc hỗ trợ cho người dân bị thu hồi trong việc đào tạo nghề. Cần hoàn thiện một số chín sách về kinh tế như chính sách khuyến khích phát triển các loại hình kinh tế thu hút nhiều lao động; chính sách đối với các dự án đầu tư thu hút nhiều lao động tại chỗ; chính sách khuyến khích người lao động học tập để thích nghi với thị trường lao động. 2. Đối với doanh nghiệp trong các KCN Cần quan tâm hơn đối với lao động của nhưng hộ bị thu hồi đất nói riêng và lao động của địap hương nói chung. Cần thực hiện nghiêm túc những yêu cầu của địa phương sau khi đã thu hồi đất. Bê cạnh đó cũng cần quan tâm tới công trình phúc lợi, tu bổ và sử dụng có hiêu jquả những công trình phúc lợi đó. Đối với chính quyền địa phương Tuyên truyền giáo dục mọi người thay đổi cơ bản nhận htức về lao động việc làm, giải quyết việc làm cho lao động nói chung và cho lao động sau bàn giao đất nói riêng phải được coi là chương trình hàng động của các cấp uỷ Đảng, các cấp chính quyền, sự ủng hộ tích cực của các tầng lớp nhân dân, các đoàn thể và bản thân người lao động. Tăng cường các hoạt động tư vấn dịch vụ hướng nghiệp và dạy nghề. Hỗ trợ phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp trên địa bàn, ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp nhỏ và dịch vụ nông thôn. Thúc đẩy quá trình tích tụ đất nông nghiệp và hình thành các trang trại để nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp và thu hút được ngày càng nhiều số lao động làm công ăn lương trên địa bàn. Tăng cường đầu tư vốn tín dụng trong nông thôn đi kèm với tư vấn về chuyển đổi ngành nghề, tư vấn giúp nông dân lựa chọn, chuyển đổi ngành nghề cho phù hợp. Đưa thêm những ngành nghề thủ công hoặc khôi phục những ngành truyền thống đã có trên địa bàn huyện nhằm giải quyết việc làm cho lao động trong độ tuổi hoặc quá tuổi lao động nhằm nâng cao thu nhập cho người nông dân. Đối với các hộ gia đình Chấp hành tốt các chính sách của Đảng và Nhà nước, chuyển đổi phương hướng sản xuất kinh doanh phải trong khuôn khổ pháp luật. Trước hết cần tự tìm ra hướng đi mới, năng động, sáng tạo học hỏi kinh nghiệm của những hộ nông dân khác nhằm phát huy hết khả năng vốn có để vươn lên làm giàu chính đáng. Mạnh dạn đầu tư cho phát triển sản xuất, cho con em đi học nghề, học văn hoá nhằm tạo nền móng sau này có một nghề trong tay; tìm kiếm một số nghề đã phát triển ở địa phương mà hộ chưa thử nghiệm, sử dụng đồng vốn có hiệu quả./. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. T¹p chÝ céng s¶n Sè ph¸t hµnh 61 -2004 Ph¸t hµnh ®Òu kú vµo 10 vµ 25 hµng th¸ng. 2. NguyÔn V¨n ¸ng, Lª Du Phong, Hoµng V¨n Hoa (2002), ¶nh h­ëng cña ®« thÞ ho¸ ®Õn n«ng th«n ngo¹i thµnh Hµ Néi, NXB ChÝnh trÞ Quèc gia, Hµ Néi. 3. NguyÔn Thanh B×nh (8/2005), D¹y nghÒ g¾n víi gi¶i quyÕt viÖc lµm cho thanh niªn n«ng th«n, 4. NguyÔn QuyÕt ChiÕn, “Mét sè biÖn ph¸p ®µo t¹o lùc l­îng c«ng nh©n cho c¸c khu c«ng nghiÖp”, T¹p chÝ Ph¸t triÓn kinh tÕ sè 23. 5. TrÇn V¨n Chö, TrÇn Ngäc Hiªn (1998), §« thÞ ho¸ vµ chÝnh s¸ch ph¸t triÓn ®« thÞ trong c«ng nghiÖp ho¸ - hiÖn ®¹i ho¸ ë ViÖt Nam, NXB ChÝnh trÞ Quèc gia, Hµ Néi. 6. TH. Dương, (19/6/2006), “Giải quyết việc làm - chuyện không dễ”, Báo kinh tế đô thị. 7. PGS. PTS Phạm V©n Đ×nh & TS. Đỗ Kim Chung (1997), Kinh tế nông nghiệp, NXB nông nghiệp. 8. Lª §¨ng Gi¶ng (1998), VÊn ®Ò di chuyÓn lao ®éng tõ c¸c vïng n«ng th«n vµ thµnh phè, TT nghiªn cøu lao ®éng - Bé luËt lao ®éng TB - XH, NXB ChÝnh tri Quèc gia, Hµ Néi. 9. Khi n«ng d©n kh«ng cã ruéng (23/10/2004), Theo tiªu ®iÓm VTV1, 10. Ph¹m V¨n Kh«i (2002), “¶nh h­ëng cña qu¸ tr×nh ®« thÞ ho¸ ®Õn n«ng nghiÖp-n«ng th«n §«ng Anh Hµ Néi”, T¹p chÝ kinh tÕ vµ ph¸t triÓn 2002. 11. Vò Kim Ngäc, B¶o vÖ m«i tr­êng trong qua tr×nh ®« thÞ ho¸ ë §ång Th¸p, 12. Nh÷ng thö th¸ch, thiªn nhiªn ®a d¹ng nh­ng ®Çy th¸ch thøc, 13. Lª Du Phong (2005) Thùc tr¹ng thu nhËp, ®êi sèng, viÖc lµm cña ng­êi cã ®Êt bÞ thu håi ®Ó x©y dùng c¸c khu c«ng nghiÖp, khu ®« ThÞ , x©y dùng kÕt cÊu h¹ tÇng kinh tÕ x· héi, vµ nhu cÇu céng ®ång vµ lîi Ých quèc gia ( ®Ò tµi cÊp nhµ n­íc tr­êng ®¹i ho¹c kinh tÕ quèc d©n)”. 14. Chu TiÕn Quang (2001), ViÖc lµm ë n«ng th«n - thùc tr¹ng vµ gi¶i ph¸p, NXB N«ng nghiÖp, Hµ Néi. 15. NguyÔn Duy Quý (1998), §« thÞ ho¸ trong qu¸ tr×nh c«ng nghiÖp ho¸ kinh nghiÖm cña NhËt B¶n vµ mét sè n­íc kh¸c, NXB Khoa häc x· héi, Hµ Néi. 16. SÏ ph¶i t¹o viÖc lµm cho 500 ngh×n n«ng d©n mÊt ®Êt (20/05/2003), 17. B.T.S (03/08/2004), H×nh ¶nh vÒ ®« thÞ ViÖt Nam, Theo b¸o Hµ Néi míi, 18. T×m viÖc cho n«ng d©n mÊt ®Êt (18/05/2005), Hµ Néi míi, =050517145851 19. TËp trung søc gi¶i quyÕt viÖc lµm vµ xo¸ ®ãi gi¶m nghÌo, 20. Thùc tr¹ng lao ®éng - viÖc lµm ë ViÖt Nam (1999), NXB Thèng kª, Hµ Néi. 21. Thùc tr¹ng lao ®éng - viÖc lµm ë ViÖt Nam (2000), NXB Thèng kª, Hµ Néi. 22. Thùc tr¹ng lao ®éng - viÖc lµm ë ViÖt Nam (2001), NXB Thèng kª, Hµ Néi. 23. Bé luËt d©n sù n¨m 1995, nhµ xuÊt b¶n ChÝnh trÞ Quèc gia, Hµ Néi ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLuan van1.doc
Tài liệu liên quan