Nguồn gốc lợi nhuận và vai trò của nó đối với sự phát triển kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

Lời mở đầu Bước sang thế kỷ 21 nền kinh tế thế giới đang có những bước chuyển biến rõ rệt và phát triển rất nhanh chóng. Xu hướng ngày càng giảm các nước kém phát triển và tăng số lượng các nước phát triển được thể hiện rõ nét.Đứng trước tình hình đó,song Việt Nam vẫn còn nguy cơ tụt hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Nguyên nhân là do chúng ta chịu ảnh hưởng trong một thời gian dài của nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp.Nền kinh tế chưa thực sự coi lợi nhuận là mục đích h

doc34 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1270 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nguồn gốc lợi nhuận và vai trò của nó đối với sự phát triển kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
àng đầu. Việc phân phối lợi nhuận cũng không dựa theo những quy luật khách quan mà lại dựa vào những ý nghĩ chủ quan nên không thúc đẩy được nền kinh tế phát triển, không phát huy được tính năng động của các xí nghiệp nhà nước và các cá nhân phát triển sản xuất. Thấy rõ được hạn chế đó và để có cơ hội hội nhập với nền kinh tế thế giới thì sự lựa chọn duy nhất cho nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường, và công nhận lợi nhuận là tâm điểm của nền kinh tế là điều tất yếu. Song cũng phải hạn chế quy mô của lợi nhuận để giữ vững nền kinh tế định hướng XHCN. Do đó, chúng ta phải hiểu được “Thế nào là lợi nhuận ? Nguồn gốc, bản chất của lợi nhuận? Vai trò của lợi nhuận ? Làm thế nào để tăng lợi nhuận ở nước ta hiện nay ?”. Ham muốn tìm hiểu được và giải đáp được những vấn đề đó nên em đã chọn đề tài : “Nguồn gốc lợi nhuận và vai trò của nó đối với sự phát triển kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”. Đây là đề tài có nội dung khái quát cao và lại là đề án đầu tay nên em không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong được sự chỉ bảo và góp ý của thầy. Em xin cảm ơn ! I. Lý luận về lợi nhuận. 1.Các quan điểm trước Mác về lợi nhuận. 1.1 Quan điểm của trường phái trọng thương. Chủ nghĩa trọng thương là tư tưởng kinh tế đầu tiên của giai cấp tư sản trong giai đoạn phương thức sản xuất phong kiến tan rã và CNTB ra đời và đây là quá trình tích luỹ nguyên thuỷ của CNTB. Vởy tích luỹ tư bản là gì? Tích luỹ tư bản chính là hình thức tư bản nắm trong tay một lượng tiền tệ lớn để tiến hành sản xuất, “tức là thời kỳ tước đoạt bằng bạo lực nền sản xuất nhỏ và tích luỹ tiền tệ ở ngoài phạm vi các nước Châu Âu, bằng cách ăn cướp và trao đổi không ngang giá với các nước thuộc địa thông qua con đường ngoại thương”. Lúc này vai trò của thương nghiệp được đặt ở vị trí trung tâm và chủ nghĩa trọng thương trực tiếp bảo vệ cho quyền lợi cuả tư bản thương nghiệp. Trong học thuyết này các nhà kinh tế học đã tìm ra nguồn gốc của lợi nhuận và họ cho rằng lợi nhuận thương nghiệp là kết quả của sự trao đổi không ngang giá, là sự lừa gạt, như chiến tranh. Họ cho rằng không một người nào thu được lợi mà không làm thiệt kẻ khác, dân tộc này làm giàu bằng cách hy sinh lợi ích của dân tộc khác. Tuy đạt được một số thành tựu song các nhà kinh tế học của trường phái trọng thương còn mắc nhiều sai lầm. Họ chưa biết và không thừa nhận các quy luật kinh tế, chưa biết rõ nguồn gốc của lợi nhuận. .Quan điểm của trường phái trọng nông. Chủ nghĩa trọng nông xuất hiện sau chủ nghĩa trọng thương khi thời kỳ tích lũy tư bản ban đầu đã chấm dứt và việc dùng thương mại để bóc lột các nước thuộc điạ đã mất hết ý nghĩa đặc biệt của nó với tư cách làm giàu cho tư bản. Và chủ nghĩa trọng nông này xuất hiện ở Pháp là cụ thể nhất. Tư tưởng của chủ nghĩa trọng nông trái ngược với tư tưởng của chủ nghĩa trọng thương. Họ cho rằng chỉ có nông nghiệp mới là lĩnh vực duy nhất trong xã hội tạo ra của cải. Chỉ có lao động nông nghiệp mới là lao động có ích, lao động sinh lời vì nó tạo ra sản phẩm thuần tuý cho xã hội mà của cải thuần tuý chính là lợi nhuận. Và theo chủ nghĩa trọng nông muốn làm giàu phải phát triển nông nghiệp, Quesnay tuyên bố “chỉ có của cải dân cư nông thôn mới đẻ ra của cải quốc gia”; “nông dân nghèo thì xứ sở nghèo”. Chủ nghĩa trọng nông tuy mắc nhiều sai lầm song nó “đã chuyển việc nghiên cứu nguồn gốc của giá trị thặng dư từ lĩnh vực lưu thông vào lĩnh vực sản xuất trực tiếp và nó đã đặt cơ sở cho việc phân tích nền sản xuất TBCN” (Tư bản-Q4). Quan điểm của trường phái cổ điển Anh. Trong thời kỳ chủ nghĩa trọng thương, sự hoạt động của tư bản chủ yếu là trong lĩnh vực lưu thông do kết quả sự phát triển của công trường thủ công tư bản đã chuyển sang lĩnh vực sản xuất và họ dã xây dựng một hệ thống phạm trù, quy luật của kinh tế thị trường. Nổi bật trong giai đoạn này về quan điểm lợi nhuận là Ricardo và Adamsmith. Theo Adamsmith. Adamsmith cho rằng “lợi nhuận là khoản khấu trừ thứ hai vào sản phẩm của người lao động. Chúng đều có nguồn gốc là lao động không được trả công của công nhân”. Và ông đã nêu được nguồn gốc thật của giá trị thặng dư đẻ ra từ lao động và không chỉ có lao động nông nghiệp mà cả lao động công nghiệp cũng tạo ra lợi nhuận. Ông thừa nhận sự đối lập giữa tiền công và lợi nhuận, thấy được “khuynh hướng thường xuyên đi đến chỗ ngang nhau”, của tỷ suất lợi nhuận trên cơ sở cạnh tranh giữa các ngành và khuynh hướng tỷ suất lợi nhuận giảm sút, theo ông tư bản đầu tư càng nhiều thì tỷ suất lợi nhuận càng thấp. Tuy nhiên Adamsmith còn nhiều hạn chế về lý luận lợi nhuận. Ông không thấy được sự khác nhau giữa giá trị thặng dư và lợi nhuận và ông cũng cho rằng lợi nhuận là do toàn bộ tư bản đẻ ra, ông coi lợi nhuận trong phần lớn trường hợp chỉ là món tiền thưởng cho việc mạo hiểm và cho lao động khi đầu tư tư bản Quan điểm của Ricardo Nếu A.Smith sống trong thời kỳ công thương thủ công phát triển mạnh mẽ thì Ricardo sống trong thời kỳ Cách mạng công nghiệp. Đó là điều kiện cho việc nghiên cứu của ông vượt ngưỡng thời gian mà A.Smith để lại và ông là kế tục xuất sắc của A.Smith. Ricardo cho rằng “lợi nhuận là số còn lại ngoài tiền lương mà tự trả cho công nhân”, ông đã thấy được sự giảm sút lợi nhuận và giải thích được nguyên nhân giảm sút nằm trong sự vận động, biến đổi thu nhập giữa ba giai cấp : địa chủ, công nhân và nhà tư bản. Theo Ricardo “quy luật màu mỡ đất đai càng giảm, giá nông phẩm càng tăng lên làm cho tiền lương của công nhân tăng và địa tô tăng lên còn lợi nhuận không tăng”. Như vậy khi tỷ suất lợi nhuận giảm xuống thì địa chủ được lợi, nhà tư bản bị thiệt còn người công nhân không chịu ảnh hưởng. Tuy nhiên Ricardo vẫn chưa phân biệt được lợi nhuận và giá trị thặng dư, chưa phân biệt được tỷ suất lợi nhuận và tỷ suất giá trị thặng dư. 2 . Học thuyết về giá trị thặng dư và lý luận của Mác. Mác và Ănghen là những người đầu tiên xây dựng những lý luận về giá trị thặng dư một cách hoàn chỉnh. Qua thực tế xã hội bấy giờ Mác thấy tư bản ngày càng giàu thêm còn giai cấp vô sản ngày càng nghèo khổ. Ông đã tìm hiểu nguyên nhân vì sao lại có hiện tượng này và phát hiện ra rằng : “Nếu nhà tư bản đưa lượng tiền là T vào quà trình sản xuất và lưu thông hàng hoá thì số tiền thu về là T’ > số tiền ứng ra là T. Hay T’ = T + ∆T ” 2.1 Quá trình tạo ra giá trị thặng dư. Trong công thức T’ = T + ∆T, Mác gọi ∆T là giá trị thặng dư, ông cho rằng mục đích của việc lưu thông T- H- T ’ là sự lớn lên của giá trị thặng dư nên quá trình vận động T- H- T’ là một chu trình không giới hạn. Và đó là công thức chung của TBCN. Khi nghiên cứu Mác đã rút ra được kết luận “Tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông và cũng không thể xuất hiện từ ngoài lưu thông. Nó phải xuất hiện trong lưu thông và đồng thời cũng không phải trong lưu thông”. T – H1… …H2 – T’ (=T + ∆T) Đây là mâu thuẫn chugn của công thức tư bản. Để giải thích vấn đề này Mác đã chỉ ra nguồn gốc của giá trị hàng hoá sức lao động. Giá trị hàng hoá sức lao động được tính trên cơ sở thời gian lao động xã hội cần thiết. Hình thức tồn tại đặc biệt vì nó không tồn tại dưới dạng vật chất thông thường mà nó lại tiềm tàn trong cơ thể một con người sống. Vì vậy để xác định giá trị của hàng hoá sức lao động phải thông qua những hàng hoá trung gian. Những hàng hoá đó là những tư liệu sinh hoạt cần thiết để nuôi sống người lao động và gia đình của anh ta. Hàng hoá sức lao động không chỉ có giá trị mà nó còn có giá trị sử dụng. Và chính thuộc tính này thoả mãn được nhu cầu làm giàu của các nhà tư bản. Bởi vì hàng hoá sức lao động khi sử dụng cũng đồng nghĩa với việc một quá trình lao động được tiến hành. Trong quá trình lao động một giá trị mới sẽ được sáng tạo ra. Vậy giá trị hàng hoá sức lao động không thuộc giá trị do sử dụng sức lao động mà có. Và quá trình tiêu dùng sức lao động sẽ tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân sức lao động. Phần lớn đó là giá trị thặng dư mà nhà tư bản chiếm đoạt. Vậy “giá trị thặng dư là phần giá trị mới dôi ra ngoài sức lao động của công nhân tạo ra và bị nhà tư bản chiếm đoạt“. Như vậy hàng hoá sức lao động có thuộc tính là nguồn gốc sinh ra giá trị. Đó là đặc điểm cơ bản nhất của hàng hoá sức lao động so với các hàng hoá khác, nó là chìa khoá để giải thích mâu thuẫn của công thức chung tư bản. Để nghiên cứu yếu tố tạo ra giá trị thặng dư trong quá trình sản xuất của tư bản thì Mác đã chia tư bản làm hai bộ phận : tư bản bất biến và tư bản khả biến. Phần tư bản tồn tại dưới hình thức tư liệu sản xuất mà giá trị được bảo tồn và chuyển vào sản phẩm, tức là giá trị không biến đổi về lượng trong quá trình sản xuất được gọi là tư bản bất biến (ký hiệu : c). Phần tư bản được biểu hiện dưới hình thức giá trị sức lao động trong quá trình sản xuất đã tăng thêm về lượng gọi là tư bản khả biến (v). Như vậy ta thấy muốn cho tư bản khả biến hoạt động được phải có một tư bản bất biến ứng trước với tỷ lệ tương đương. Và qua phân chia ta rút để mua sức lao động. Còn tư bản bất biến có vai trò gián tiếp trong quá trình tạo ra giá trị thặng dư. Từ đó ta đưa ra được công thức. Giá trị = C + V + m C : Giá trị tư liệu sản xuất chuyển vào sản phẩm. V : Giá trị sức lao động của người công nhân. m : Giá trị thặng dư. Như vậy sự phân chia tư bản thành tư bản bất biến và tư bản khả biến đã vạch rõ thực chất bóc lột của TBCN, chỉ có lao động của công nhân làm thuê mới tạo ra giá trị thặng dư của tư bản (tư bản đã bóc lột một phần giá trị mới do công nhân tạo ra). Nó được biểu hiện một cách ngắn gọn của quá trình Giá trị = C + V + m Trong đó giá trị bao gồm: + Giá trị tư liệu sản xuất chuyển vào sản phẩm. + Giá trị sức lao động của người công nhân mà nhà tư bản trả cho công nhân. + Giá trị mới do người công nhân tạo ra : V + m. Để hiểu rõ về quá trình tạo ra giá trị thặng dư ta xét ví dụ sau. Ví dụ : Một nhà tư bản kinh doanh trong lĩnh vực kéo sợi. Xét quá trình sản xuất đã kéo 10 kg bông thành sợi. Với dữ liệu sau : + Giá trị 1 kg bông biểu hiện bằng tiền là 1 USD. + Hao mòn của quá trình biến 10 kg bông thành sợi là 6 USD. + 1h lao động thì người lao động sáng tạo ra một lượng giá trị mới là 1 USD. + Giá trị sức lao động trong một ngày của người công nhân là 6 USD. Giả sử ngày lao động là 6h sẽ có 10 kg bông được kéo thành sợi. 10 kg sợi = 10 USD (giá trị bông) + 2 USD (hao mòn) + 6 USD (giá trị mới) = 18 USD Các khoản trang trải = 10 USD (tiền bông) + 2 USD (hao máy) + 6 USD (tiền công nhân) = 18 USD Nhưng nếu ngày lao động la 12h. Khi đó 20 kg bông được kéo thành sợi và thu được 18 x 2 = 36 USD. Các khoản phải trang trải : +Tiền mua bông 20 USD +Tiền khấu hao 4 USD +Trả lương công nhân 6 USD Tổng = 30 USD Khi đó thu nhập của nhà tư bản = 36 – 30 = 6 USD Như vậy quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư chính là quá trình sản xuất giá trị kéo dài tại một thời điểm nhất định. Và Mác cho rằng giá trị thặng dư chính là một bộ phần của giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do công nhân làm thuê sáng tạo ra và bị nhà tư bản bóc lột. Mác chia ngày lao động của người côngnhân ra làm 2 phần : thời gian lao động cần thiết và thời gian lao động thặng dư. Thời gian lao động cần thiết là thời gian mà người công nhân sáng tạo ra một lượng giá trị mới ngang với giá trị sức lao động. Cong rhời gian lao động thặng dư là khoảng thời gian công nhân sang stạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản . Khi xét về giá trị của hàng hoá Mác cũng chia thành 2 phần : giá trị cũ và giá trị mới sáng tạo. Giá trị hàng hóa = C + V + m. Trong đó: Giá trị cũ = C. Giá trị mới sáng tạo = V + m Qua quá trình nghiên cứu về giá trị thặng dư ta thấy các nhà tư bản luôn tìm cách tạo ra giá trị thặng dư bằng nhiều thủ đoạn. Trong đó, có hai phương pháp mà Mác chỉ ra là: + Sản xuất giá trị thặng dư tương đối. + Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối. Ngoài ra, còn có phương pháp sản xuất giá trị thặng dư siêu ngạch. Mác cho rằng trong giai đoạn đầu phát triển của CNTB khi kinh tế còn thấp thì việc tăng giá trị thặng dư tuyệt đối bằng cachs kéo dài tuyệt đối ngày lao động trong điều kiện thời gian cần thiết không thay đổi là biện pháp duy nhất. Nhưng phương pháp này còn hạn chế về thời gian, về thể chất và tinh thần cho người công nhân. Sự bóc lột này khiến cho xảy ra nhiều cuôc bãi công, đình công, đấu tranh của các nghiệp đoàn. Mặt khác đến giai đoạn phát triển cao có thể cho năng suất lao động phát triển cao nhất để tăng giá trị thặng dư và trình độ bóc lột. Nhà tư bản sản xuất ngày càng thu được nhiều giá trị thặng dư bằng cách rút ngắn thời gian lao động cần thiết để kéo dài thời gian lao động thặng dư, trong điều kiện đó ngày lao động sẽ là không đổi. Phương pháp này không có giới hạn. Bên cạnh đó, ngày nay cac nhà tư bản cũng tìm cách cải tạo kỹ thuật, đưa kỹ thuật mới vào nâng cao tay nghề của công nhân, tạo điều kiện về tinh thần để nâng cao năng suất lao động cá biệt hơn năng suất lao động xã hội. Phần giá trị thặng dư dôi ra ngoài giá trị thặng dư thông thường do thời gian lao động cá biệt nhỏ hơn thời gian lao động cần thiết gọi là giá trị thặng dư siêu bền hay giá trị thặng dư siêu ngạch. Lợi nhuận. Bản chất của lợi nhuận. Ta thấy giữa giá trị hàng hoá và chi phí sản xuất tư bản chủ nghia luôn có một khoảng chênh lệch nên sau khi bán hang hoá các nhà tư bản không những bù đắp đủ số tư bản đã ứng ra mà còn thu được một số tiền lời ngang bằng. Số tiền này được gọi là lợi nhuận. Giá trị thặng dư được so với toàn bộ tư bản ứng trước, được quan niệm là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng trước sẽ mang hình thức chuyển hóa lợi nhuận. Nếu gọi lợi nhuận là P thì ta có công thức: Giá trị = C + V + m = K + m Thì bây giờ giá trị = K + P (Chi phí sản xuất + lợi nhuận) Qua phương trình trên ta có thể thấy nguồn gốc của lợi nhuận là kết quả bóc lột lao động của công nhân làm thuê. Đồng thời quá trình sản xuất TBCN đã xoá nhoà sự khác nhau giữa C và V nên việc lợi nhuận sinh ra trong quá trình sản xuất nhờ bộ phận của V được thay thế bằng sức lao động thì bây giờ lại là con đẻ của quá trình ứng trước. Do K luôn nhỏ hơn chi phí sản xuất thực tế nên các nhà tư bản chỉ cần bán hàng hoá cao hơn chi phí sản xuất là đã có lợi nhuận. Nếu nhà tư bản bán hàng bằng giá trị của nó thì M = P trong trường hợp còn lại thì M > P ( hoặc M < P ) chính sự không nhất quán này đã che dấu sự bóc lột của TBCN, che dấu nguồn gốc thực sự của lợi nhuận. Cách tư bản tạo ra lợi nhuận Tư bản tạo ra lợi nhuận từ chi phsi sản xuất TBCN. Để gạo ra giá trị hàng hoá, tất yếu phải chi phí một lao động bao gồm lao động hiện tại (lao động tạo ra giá trị mới) và lao động quá khứ. Chi phí thực tế để tạo ra hàng hoá là C + V + M. Nhưng các nhà tư bản không quan tâm đến điều đó, họ chỉ ứng ra tư bản để sản xuất hàng hoá nên các nhà tư bản chỉ xem hao phí bao nhiêu tư bản chứ không tính đến hết bao nhiêu lao động xã hội. Mác gọi chi phí đó là chi phí sản xuất TBCN, ký hiệu là K (K= C + V ). Vậy chi phí sản xuất TBCN là chi phí về tư bản mà nhà tư bản bỏ ra để sản xuất hàng hoá. Khi xuất hiện chi phí sản xuất tư bản TBCN thì công thức giá trị hàng hoá = C + V + M sẽ chuyển thành K + M. Giữa giá trị và chi phí sản xuất TBCN có sự khác nhau về lượng và chất. Về mặt lượng: chi phí sản xuất TBCN luôn nhỏ hơn chi phí thực tế hay giá trị hàng hoá C + V < C + V + M. Về mặt chất: chi phí thực tế là chi phí lao động, phản ánh đầy đủ hao phí lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hoá đó còn chi phí TBCN chỉ phản ánh hao phí tư bản của nhà tư bản. Sự khác nhau giữa giá trị thặng dư và lợi nhuận. Giá trị thặng dư và lợi nhuận có chung nguồn gốc là kết quả lao động không công của công nhân làm thuê. Nhưng mặt chất chúng rất khác nhau. Giá trị thặng dư phản ánh nguồn gốc sinh ra từ V, còn lợi nhuận được xem như toàn bộ tư bản ứng trước đẻ ra. Do đó, nguồn gốc thực sự của lợi nhuận bị che dấu. Để thấy rõ được điều đó chúng ta phân tích những nguyên nhân sau. Một là, sự hình thành chi phí sản xuất TBCN đã xoá nhoà sự khác nhau giữa C và V nên việc lợi nhuận sinh ra trong quá trình sản xuất như bộ phận V được thay thế bằng sức lao động, bây giờ lại trở thành con đẻ của toàn bộ tư bản ứng trước. Hai là, do chi phí sản xuất TBCN luôn luôn nhỏ hơn chi phí thực tế nên nhà tư bản chỉ cần bán hàng hoá cao hơn chi phí sản xuất tư bản là đã có lợi nhuận. 2.3. Tỷ suất lợi nhuận. Bên cạnh khái niệm lợi nhuận, các nhà tư bản còn quan tâm đến khái niệm tỷ suất lợi nhuận. Tỷ suất lợi nhuận (P’) là tỷ số tính theo phần trăm giữa giá trị thặng dư và toàn bộ tư bản ứng trước. Ta có : M P’= x 100% C + V M V M’ = x 100 % = C + 1 C + 1 V V Như vậy giữa tỷ suất lợi nhuận P’ và tỷ suất giá trị thặng dư m’ có sự quan hệ với nhau. Về chất, phạm trù tỷ suất giá trị thặng dư phản ánh trình độ bóc lột của các nhà tư bản với công nhân làm thuê. Còn phạm trù tỷ suất lợi nhuận không phản ánh trình độ bóc lột mà nó phản ánh hiệu quả của việc đầu tư tư bản. Về lượng, theo công thức : m’ P’ = C + 1 V Thấy C + 1 V Tỷ suất lợi nhuận cao hay thấp phụ thuộc vào các nhân tố khách quan như tỷ suất giá trị thặng dư, sự tiết kiệm tư bản bất biến, cấu tạo hữu cơ của tư bản, tốc độ chu chuyển của tư bản. Sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân. Trong cuộc đấu tranh giành chỗ đầu tư có lợi nhất các nhà tư bản cạnh tranh với nhau kịch liệt. Họ thu được nhiều lợi nhuận nhất. Trong khi theo đuổi lợi nhuận cao, tư bản chuyển từ ngành này sang ngành khác, kết quả là hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân và tiến hành phân phối lao động và tư bản sản xuất giữa các ngành sản xuất TBCN. Ta xét ví dụ sau: VD : Giả sử, trong xã hội có 3 ngành : da, dệt và cơ khí, với số tư bản bằng nhau. Với các dữ liệu cho trong bản sau và với tỷ suất giá trị thặng dư của cả 3 ngành đều là 100%. Ngành C + V =100 m P’(%) Giá cả sản xuất Giá trị hàng hóa Chênh lệch cột 5 & 6 1 2 3 4 5 6 7 8 Da 70+30 30 30 120 130 20 -10 Dệt 80+20 20 20 120 120 20 0 Cơ khí 90+10 10 10 120 110 20 +10 Tổng 360 360 Nếu hàng hoá bán ra đúng giá trị của nó thì tỷ suất lợi nhuận ở 3 ngành lần lượt là 30%, 20%, 10%. Như vậy với kết quả như vậy ngành Da sẽ có lợi nhất và ngành thiệt thòi nhất là ngành cơ khí. Khi đó các nhà tư bản cơ khí sẽ đi tìm nơi khác để đầu tư và tất nhiên ngành Da sẽ thích hợp nhất và họ sẽ chuyển một tư bản ở ngành cơ khí sang ngành da. Kết qủa là số lượng sản phẩm ở ngành Da tăng lên và buộc ngành Da phải giảm giá thành sản phẩm xuống; trái lại ở ngành cơ khí số lượng hàng hoá sẽ ít đi và sự thay đổi tương quan giữa cung và cầu sẽ giúp cho các xí nghiệp nâng cao được giá của họ và tỷ suất lợi nhuận cũng tăng lên. Và tình trạng này sẽ tiếp diễn đến khi tỷ suất lợi nhuận của 3 ngành xấp xỉ bằng nhau. Điều đó xảy ra khi giá bán của 3 ngành đều bán theo giá 120 đơn vị. Lúc đó lợi nhuận bình quân của mỗi ngành sẽ là 20 đơn vị. Việc bình quân hoá tỷ suất lợi nhuận và việc biến giá trị thành giá cả sản xuất càng che dấu quan hệ bóc lột, che dấu nguồn gốc làm giàu thực sự của bọn tư bản. Thực ra sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân có nghĩa là phân bố lại giá trị thặng dư giữa các nhà tư bản của các ngành khác nhau. Nhà tư bản thuộc ngành có cấu tạo hữu cơ cao, chiếm đoạt được một phần giá trị thặng dư do các ngành có cấu tạo hữu cơ thấp sáng tạo ra. Bởi vậy công nhân không những bị nhà tư bản thuê mình bóc lột mà còn bị toàn bộ giai cấp các nhà tư bản bóc lột. Toàn bộ giai cấp các nhà tư bản đều quan tâm đến việc nâng cao mức độ bóc lột công nhân, vì điều đó làm tăng tỷ suất lợi nhuận bình quân. Quan điểm của các nhà kinh tế tư sản hiện đại về lợi nhuận. 3.1. Quan điểm của các nhà kinh tế tư sản hiện đại về lợi nhuận. Các nhà kinh tế học hiện đại cho rằng : lợi nhuận là lượng dôi ra ngoài doanh thu so với chi phí. Trong đó doanh thu của mỗi hãng là số tiền mà nó kiếm được qua việc bán hàng hoá hoặc dịch vụ trong một giai đoạn nhất định, ví dụ : một năm. Chi phí của hãng là những phí tổn phải chịu khi sản xuất ra hàng hoá hoặc dịch vụ trong thời kỳ đó. Lợi nhuận là mục tiêu cao nhất, là điều kiện tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Để cung cấp hàng hoá cho thị trường, các nhà sản xuất phải bỏ tiền vốn trong quá trình sản xuất và kinh doanh. Họ mong muốn chi phí cho các đầu vào thấp nhất và bán hàng hoá với giá cao nhất để sau khi trừ đi các chi phí còn số dư dôi ra không chỉ sản xuất giản đơn mà còn tái sản xuất mở rộng, không ngừng tích luỹ phát triển sản xuất, củng cố và tăng cường vị trí của mình trển thị trường. Ngày nay để thu được nhiều lợi nhuận, nhà tư bản sẽ không đầu tư nhiều vốn để thuê lao động mà đầu tư vào máy móc thiết bị hiện đại, tự động khi mà lợi nhuận thu được phải tương xứng với lợi nhuận bình quân xã hội, mặc dù giá trị được tao ra trong đó có giá trị thặng dư nhỏ hơn nhiều so với giá trị hàng hoá. Vì vậy lợi nhuận nhà tư bản thu được trong điều kiện tiến bộ kỹ thuật, tự động hoá là do chuyển hoá giá trị thặng dư được tạo ra trong xã hội dưới hình thức giá trị thặng dư siêu ngạch được san đi bù lại giữa các nhà tư bản. Việc áp dụng rộng rãi máy móc hiện đại, tự động trong điều kiện ngày nay đã khiến không ít người đặt ra câu hỏi rằng : “Phải chăng trong các dây chuyền sản xuất tự động không còn bóc lột thặng dư và chính máy móc sáng tạo ra lợi nhuận ?”. 3.2. Lý luận về máy móc tạo ra lợi nhuận. Trước hết ta cần khẳng định rằng máy móc và hệ thống máy móc dù có tinh vi hiện đại đến đâu cũng chỉ là sản phẩm sáng tạo của con người. Và con người không bao giờ chế tạo được một cỗ máy lý tưởng, một động cơ vĩnh cửu. Trong dây chuyền sản xuất tự động, giá trị thặng dư được tạo ra không chỉ là sản phẩm của lao động quá khứ mà vẫn cần tới lao động hiện tại. Mác viết rằng “lao động biểu hiện không phải chủ yếu với tư cách là một loại lao động trong đó con người ngày càng đứng sang bên cạnh với chức năng giám sát, điều khiển, sáng tạo mà máy móc không làm nổi”. Lợi nhuận siêu ngạch mà các nhà tư bản thu được khi áp dụng máy móc hiện đại so với các nhà tư bản khác chẳng qua là sự phân phối lại giá trị thặng dư sẵn có trên phạm vi toàn xã hội. Do áp dụng máy móc hiện đại nên ở đây năng suất lao động cao hơn thì giá thành sản phẩm sẽ thấp hơn. Song trên thị trường giá bán hàng hóa cùng loại vẫn theo giá trị thị trường nên khi đó các nhà tư bản sẽ thu được nhiều lợi nhuận hơn. Thực tế, trên quy mô thị trường thế giới, các nhà tư bản phát triển sản xuất bằng máy móc hiện đại và đem bán hàng hóa tại các nước đang và chậm phát triển và thu được những khoản lợi nhuận kếch xù. Lợi nhuận siêu ngạch mà một nhà tư bản thu được là do phần lợi nhuận của các nhà tư bản khác mất đi. Nếu mọi cơ sở sản xuất đều trang bị máy móc hiện đại hơn và thu được lợi nhuận siêu ngạch thì lập tức dẫn đến sự cạnh tranh để rồi sớm hay muộn sẽ làm triệt tiêu lợi thế cá biệt, triệt tiêu lợi nhuận siêu ngạch. Tóm lại nguồn gốc của lợi nhuận cũng như lợi nhuận siêu ngạch là từ giá trị thặng dư muốn lao động không công do công nhân sáng tạo ra và bị nhà tư bản chiếm đoạt, đúng như Mác đã nhận định và chứng minh. Các hình thức của lợi nhuận. Như ta đã biết giá trị thặng dư lợi nhuận không hoàn toàn đồng nhất nhưng chúng đều có chung nguồn gốc từ lao động thặng dư. Giá trị thặng dư là phần giá trị mà nhà tư bản bóc lột không công của người công nhân, còn lợi nhuận là số tiền thu được sau khi bán sản phẩm trên thị trường so với số tiền bỏ vào sản xuất. Có thể nói, chính giá trị thặng dư biểu hiện sự bóc lột sản xuất, chứng minh công htức mâu thuẫn cuả tư bản một cách chính xác và khoa học. Trước Mác các nhà kinh tế học đã hình dung ra giá trị thặng dư nhưng họ chưa có đủ lý luận để diễn đạt mà chỉ biểu hiện quan điểm của mình trong vấn đề thu nhập , tiền lương. Chỉ đến Mác, ông mới chứng minh xây dựng lý thuyết giá trị thặng dư là phát minh vĩ đại của Mác, mà như Lênin nói đó là “hòn đá tảng” trong học thuyết kinh tế. Tuy nhiên, chúng ta phải hiểu rằng Mác không phải là người phát minh ra giá trị thặng dư, càng không phải là người làm ra nó, chính ngươi tìm ra giá trị thặng dư là nhà tư bản và người lao động thặng dư là người công nhân. Giá trị thặng dư rất rõ ràng nhưng nó được che dấu bởi lợi nhuận và nó tồn tại ở các hình thức sau: 4.1. Lợi nhuận công nghiệp. Về bản chất là phần giá trị do công nhân tạo ra bị nhà tư bản chiếm khôn gvà phoần giá trị này bán trên thị trường thu được một số tiền lời sau khi trừ đi chi phí sản xuất. Ngày lao động của công nhân được chia làm 2 phần : một phần làm ra giá trị tương đương với số tiền lương của anh ta và làm ra giá trị thặng dư. Vì thèm muốn lợi nhuận nên nhà tư bản công nghiệp luôn tìm cách tăng phần thời gian lao động thặng dư như tăng giờ làm, tăng năng suất lao động ( giảm thời gian lao động tất yếu ). Thời gian lao động thặng dư càng nhiều thì càng thuộc về nhà tư bản và sẽ thu được lợi nhuận càng cao. Như vậy, lợi nhuận công nghiệp là hình thái gần nhất dễ thấy nhất với giá trị thặng dư và lợi nhuận công nghiệp là động lực mạnh mẽ nhất để phát triển sản xuất. 4.2. Lợi nhuận thương nghiệp. Trong lưu thông, trao đổi không tao ra giá trị nhưng nhà tư bản thương nghiệp làm nhiệm vụ lưu thông hàng hoá được bán đi nhanh hơn. Tư bản thương nghiệp thực hiện khâu tiêu thụ cho tư bản công nghiệp. Vì thế họ phải thu được một phần lợi nhuận mà nhà tư bản công nghiệp chiếm được. Về thực chất, lợi nhuận thương nghiệp là một phần giá trị thặng dư được sáng tạo ra trong lĩnh vực sản xuất mà nhà tư bản công nghiệp nhường cho nhà tư bản thương nghiệp. Sở dĩ nhà tư bản công nghiệp nhường cho nhà tư bản thương nghiệp một phần giá trị thặng dư trong lúc họ khao khát, thèm muốn nó là bởi vì : nhà tư bản thương nghiệp rất am hiểu thị trường, khách hàng, do đó, giúp cho hàng hóa bán đi nhanh hơn, tốc độ chu chuyển tư bản nhanh hơn nên nhà tư bản công nghiệp rảnh tay để sản xuất. Do có vai trò như vậy, nhà tư bản công nghiệp phải nhường một phần giá trị thặng dư cho nhà tư bản thương nghiệp. Lợi nhuận thương nghiệp chính là sự chênh lệch giữa giá bán và giá mua hàng hoá. Điều đó, không có ý nghĩa là nhà tư bản thương nghiệp bán giá cao hơn giá trị mà là họ mua hàng hoá thấp hơn giá trị và giá bán đúng bằng giá trị. 4.3. Lợi tức cho vay. Nhà tư bản muốn hoạt động nhưng bản thân họ không đủ vốn hoặc không có vốn nên họ phải đi vay để có làm vốn đem vào sản xuất. Một số nhà tư bản có tiền nhưng chưa đến chu kỳ sử dụng hoặc chưa sử dụng nên họ cho vay và nhận được một khoản tiền ứng với số tiền cho vay từ tay nhà tư bản đi vay, gọi là lợi tức. Lợi tức cho vay là một phần lợi nhuận bình quân mà nhà tư bản đi vay phải trả cho nhà tư bản cho vay ứng với số tiền họ đã vay. Lợi tức cao hay thấp còn tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố như sự cấp thiết, hoàn cảnh lịch sử, sự thoả thuận giữa các tư bản…, đối với tư bản thì tiền không thể để chết trong các két sắt mà nó đẻ ra liên tục. Lợi nhuận ngân hàng. Ngân hàng là cơ quan kinh doanh tiền tệ, làm môi giới giữa người đi vay và người cho vay. Tuy nhiên tư bản ngân hàng khác tư bản cho vay ở chỗ tư bản ngân hàng là tư bản hoạt động ngoài nguồn vốn nhàn rỗi còn các chứng khoán…Ngân hàng tham gia vào sản xuất với tư bản và cả hai bên chi phí liên quan đến chia nhau lợi nhuận. Lợi nhuận ngân hàng là phần lợi nhuận thu được ứng với số tiền mà ngân hàng chung vốn với nhà tư bản tham gia sản xuất. Ngân hàng có vai trò đặc biệt quan trọng đối với nhà sản xuất. Một đất nước có phát triển thì hệ thống ngân hàng phải phát triển bởi vì vai trò của ngân hàng trong cơ chế thị trường là yếu tố đặc biệt quan trọng. Địa tô. Tư bản không chỉ hình thành và thống trị trong lĩnh vực công nghiệp mà còn mở rộng cả trong nông nghiệp. Địa chủ có nhiều ruộng đất còn nhà tư bản cần ruộng để kinh doanh. Nhà tư bản kinh doanh ruộng đất phải thu thêm một phần giá trị dôi ra ngoài lợi nhuận bình quân tức là lợi nhuận siêu ngạch. Lợi nhuận siêu ngạch này tương đối ổn định và lâu dài và nhà tư bản phải trả cho chủ ruộng đất dưới hình thái địa tô TBCN. Như vậy địa tô TBCN là một phần giá trị thặng dư còn lại sau khi khấu trừ đi phần lợi nhuận bình quân của nhà tư bản kinh doanh ruộng đất. II- Vai trò của lợi nhuận Vai trò của lợi nhuận trong việc phát triển kinh tế Lợi nhuận đóng vai trò rất lớn trong nền kinh tế. Nó ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống xã hội trong quá trình phát triển kinh tế. ở nền kinh tế thị trường, cái mà nhà sản xuất kinh doanh quan tâm trước hết là lợi nhuận và hiệu quả sản xuất kinh doanh được thể hiện chủ yếu ở lợi nhuận nhiều hay ít. Lợi nhuận là nhân tố chênh lệch giữa doanh thu bán hàng với chi phí sản xuất. Để đạt được lợi nhuận tất yếu các nhà sản xuất kinh doanh phải cạnh tranh mạnh mẽ với nhau, tìm mọi cách giảm chi phí để thu lợi nhuận cao nhất. Như vậy, trong nền kinh tế thị trường, lợi nhuận là động lực chi phối mọi hoạt động của người sản xuất kinh doanh. 1.1. Lợi nhuận là nhân tố quyết định sự phát triển của lực lượng sản xuất Doanh nghiệp cũng như các nhà kinh tế phải cố gắng hết sức để đạt được lợi nhuận tối đa. Họ phải làm gì? phải lựa chọn cái nào? sản xuất ra sao?, ... Đó là một vấn đề rất khó trả lời một cách cụ thể nhưng chắc chắn rằng nếu sản xuất không có lãi doanh nghiệp sẽ bị loại khỏi thị trường. Trên thương trường, các doanh nghiệp luôn luôn phải tiến lên nếu dừng lại đồng nghĩa với nguy cơ phá sản đang tiến đến. Vì vậy, các ông chủ phải làm mọi cách để doanh nghiệp ngày càng mở rộng, phải làm cho lợi nhuận đẻ ra lợi nhuận thì mới có điều kiện phát triển trong môi trường gay go. Quyết định lợi nhuận đòi hỏi các doanh nghiệp phải tìm ra phương pháp sản xuất tối ưu nhất, giảm tối thiểu mức chi phí sản xuất, tăng năng suất lao động để giảm giá thành sản phẩm, giành thắng lợi trong cạnh tranh, thu được nhiều lợi nhuận. Trước đây, họ có thể tạo ra lợi nhuận bằng cách kéo dài ngày lao động của công nhân nhưng phương pháp đó gặp sự phản đối của giai cấp công nhân vì vậy họ chuyển sang phương pháp bóc lột mới một cách tinh vi hơn. Nhà tư bản áp dụng kĩ thuật mới vào và bắt buộc người công nhân phải tăng năng suất lao động của mình lên. Nhưng chính mục đích áp dụng kĩ thuật mới đã làm cho các nhà tư bản đầu tư ngày càng nhiều vào vấn đề nghiên cứu khoa học. Những phát minh lần lượt được ra đời._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVV068.doc
Tài liệu liên quan