Nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận. Vai trò của lợi nhuận trong nền Kinh tế thị trường. Ý nghĩa vấn đề nghiên cứu và ý kiến cá nhân

Phần mở đầu Sự thành công khi thực hiện các chính sách kinh tế luôn là mục tiêu cơ bản của đảng và nhà nước ta .Nếu một chính sách phát triển kinh tế không liên quan đến kết quả của chủ thể đạt ra thì chính sách ấy cũng không có tác dụng.Bất kể ai,bất kể đất nước nào dù là người đề xuất hay có vai trò xuất sắc ở những công đoạn nào đó của chính sách cũng không thể xây dựng chính sách theo kiểu chỉ đạo từ trên xuống như là “cưỡi ngựa xem hoa” mà bắt buộc phải thực hiện từ cơ sở lên . Trong cơ

doc25 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1263 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận. Vai trò của lợi nhuận trong nền Kinh tế thị trường. Ý nghĩa vấn đề nghiên cứu và ý kiến cá nhân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chế tập trung quan liêu bao cấp trước đây chúng ta chưa thực sự coi lợi nhuận với tư cách là hình thức thu nhập đối với người sản xuất kinh doanh.sản xuất chỉ là để phục vụ chứ không vì mục đích lợi nhuận.Cơ chế hình thành và phân phối lợi nhuận,không được tiến hành trên cơ xở căn cứ khoa học và khách quan.Điều đó đã gây ra sợ bất bình đẳng lớn giữa các đơn vị sản xuất kinh doanh,làm mất đi động lực thúc đẩy của đòn bẩy lợi nhuận,tạo ra một tư tưởng ỷ lại ngày càng lớn của các doanh nghiệp và Nhà nước ,làm mất đi tính chủ động,sáng tạo của các đơn vị sản xuất kinh doanh ... Ngày nay,trong thời kỳ đI lên chủ nghĩa xã hội chúng ta đang vận hành cơ chế thị trường có sự đIều tiết vĩ mô của Nhà nước thì lợi nhuận chính là “ Ông quan toà công minh nhất để phán xét sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp”.Như vậy,lợi nhuận chính là sự sống còn của doanh nghiệp,là động lực để phát triển kinh tế.Có hiểu rõ nguồn gốc,bản chất cũng như vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường,chúng ta mới khắc phục được tình trạng tụt hậu về kinh tế của đất nước,nâng cao không ngừng đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân,thực hiên mục tiêu dân giầu,nước mạnh,xã hội công bằng,dân chủ,văn minh.Vì vậy,việc nghiên cứu nguồn gốc,bản chât của lợi nhuận và vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc phát triển kinh tế nước ta . Cũng chính vì vai trò to lớn đó của lợi nhuận trong nền kinh tế nói chung và trong nền kinh tế thị trường nói riêng mà em đã quyết địn chọn đề tài này làm đề án kinh tế chính trị ,mục đích là để mình và mọi người hiểu rõ hơn về nguồn gốc,bản chất của lợi nhuận và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường. Phần nội dung I.Nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận. 1.Quan điểm của trường phái trọng thương về lợi nhuận . Chủ nghĩa trọng thương ra đời vào thời kì quá độ mà nền kinh tế phong kiến bước vào thời kì suy đồi và nền kinh tế tư bản chủ nghĩa bắt đầu hình thành. Nó ra đời phản ánh những quan điểm kinh tế của chủ nghĩa tư bản vào thời kì tiền tư bản và nó được phát triển rộng rãi ở các nước tây Âu. Mặc dù thời kì này chưa biết đến qui luật kinh tế và còn hạn chế về tính qui luật nhưng hệ thống quan điểm học thuyết kinh tế trọng thương đã tạo ra nhiều tiền đề về kinh tế xã hội cho các lí luận kinh tế thị trường sau này phát triển. Điều này thể hiện ở chỗ họ đưa ra quan điểm sự giàu có không phải là giá trị sử dụng mà là giá trị tiền. Mục đích hoạt động của kinh tế hàng hoá thị trường là lợi nhuận. “Học thuyết kinh tế trọng thương cho rằng lợi nhuận là do lĩnh vực lưu thông buôn bán, trao đổi sinh ra . Nó là kết quả của việc mua ít bán nhiều, mua rẻ bán đắt mà có”. Nhưng trong giai đoạn này các nhà kinh tế học chưa hiểu quan hệ giữa lưu thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ . Vì đó ở giai đoạn đầu của thời kì này các nước tư bản đã đưa ra các chính sách làm tăng của cải tiền tệ, giữ cho khối lượng tiền không ra nước ngoài, tập trung buôn bán phải dùng số tiền mà họ có mua hết số hàng mang vào nước họ ... ở giai đoạn sau họ dùng chính sách xuất siêu để có chênh lệch, mang tiền ra nước ngoài để thực hiện mua rẻ bán đắt .. Với những chính sách đưa ra nhằm đạt được như trên của các nước tư bản chỉ mang tính chất bề mặt nông cạn .Chứng tỏ quan điểm về lợi nhuận cũng như kinh tế chưa có chiều sâu thực chất . Chính điều này đã dẫn đến nhiều mâu thuẫn trong nền kinh tế . Đòi hỏi phải thoát khỏi phương pháp thuần tuý . Phải phân tích kinh tế với tư cách là một chỉnh thể. 2.Quan điểm của trường phái trọng nông về lợi nhuận. Trường phái trọng nông đã chuyển việc nghiên cứu các hiện tượng kinh tế từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực sản xuất . Đây là một tiến bộ so với trọng thương nhưng họ vẫn nêu ra được một lí luận đúng đắn về lợi nhuận. Tư tưởng của họ là sản xuất ra giá trị thặng dư , do đó họ cho rằng lợi nhuận chỉ được tạo ra trong nông nghiệp và ngoại thương. 3.Quan điểm của trường phái kinh tế trính trị học tư sản cổ điển về lợi nhuận . a.Quan điểm của William Petty(1623-1687) Petty cho rằng , lợi nhuận là khoản dôi ra so với chi phí sản xuất và ông cho rằng phần lợi nhuận dôi ra phụ thuộc vào nhà tư bản là hợp lí .Đó là công lao về sự mạo hiểm của nhà tư bản ứng tiền ra sản xuất. b.Quan điểm của Ađam Smith(1723-1790). A.Đam Smith là một nhà kinh tế chính trị cổ điển nổi tiếng ở Anh và trên thế giới .Ông cho rằnglợi nhuận là khoản khấu trừ thứ hai vào sản phẩm của người lao động , chúng đều có chung nguồn gốc là lao động không được trả công của công nhân. Ông chỉ ra lợi tức là một bộ phận của lợi nhuận mà nhà tư bản hoạt động bằng tiền đi vay phải trả cho chủ nó để đuợc sử dụng tư bản. Điểm tiến bộ của A.Đam Smith là ông đã phát hiện ra không chỉ lao động trong nông nghiệp tạo ra giá trị lợi nhuận mà cả lao động trong công nghiệp cũng tạo lợi nhuận. Ông thừa nhận sự đối lập giữa tiền công và lợi nhuận, ông đã nhận thấy khuynh hướng thường xuyên đi đến chỗ ngang nhau của tỉ suất lợi nhuận giảm dần. Theo ông tư bản đầu tư càng nhiều thì tỉ suất lợi nhuận càng thấp .Tư tưởng của A.Đam Smith được Mac đánh giá rất cao bởi ông đã nêu được nguồn gốc thực sự của giá trị thặng dư đẻ ra từ lao động. Tuy nhiên khi đề cập đến vấn đề lợi nhuận , do ông không thấy được sự khác nhau giữa lợi nhuận và giá trị thặng dư, không phân biệt được lĩnh vực sản xuất và lưu thông , nên lí luận của ông còn một số điểm hạn chế như: ông cho rằng lợi nhuận là do toàn bộ tư bản đẻ ra , tư bản trong lĩnh vực lưu thông cũng như lĩnh vực sản xuất đều sinh ra lợi nhuận như nhau. Ông cho rằng phần lớn các trường hợp lợi nhuận chỉ là món tiền thưởng trả cho việc mạo hiểm và cho lao động khi đầu tư tư bản . Lợi nhuận là một trong những nguồn gốc đầu tiên của mọi thu nhập cũng như của mọi giá trị trao đổi. c.Quan điểm của Đavid Ricardo (1772-1823). Nếu như A.D Smith sống trong thời kì công trường thủ công phát triển mạnh mẽ thì David Ricardo sống trong thời kì cách mạng công nghiệp . Đó là điều kiện khách quan để ông vượt được ngưỡng giới hạn mà A.D Smith dừng lại .Ông là người kế tục xuất sắc của A.D Smith .Theo C.Mac , A.D Smith là nhà kinh tế học của thời kì công trường thủ công còn D.Ricardo là nhà tư tưởng của thời đại cách mạng công nghiệp. Ông sử dụng phương pháp khoa học tự nhiên , sử dụng công cụ trừu tượng hoá , đồng thời áp dụng các phương pháp suy diễn để nghiên cứu chính trị học . Về lợi nhuận,D.Ricardo cho rằng “lợi nhuận là số còn lại ngoài tiền lương mà nhà tư bản trả cho công nhân”.Ông đã thấy xu hướng giảm sút tỉ suất lợi nhuận và giải thích nguyên nhân của sự giảm sút nằm trong vận động,biến đổi thu nhập giữa 3 giai cấp: địa chủ, công nhân và tư bản.Ông cho rằng do qui luật mầu mỡ đất đai ngày càng giảm , giá cả nông phẩm tăng lên làm cho tiền lương tăng và địa tô tăng lên còn lợi nhuận không tăng.Như vậy , theo ông địa chủ là người có lợi , công nhân không có lợi cũng không bị hại vì tỉ suất lợi nhuận giảm xuống. Nhưng hạn chế của ông là không phân biệt P thặng dư. 4.Quan điểm của trường phái Samuellson về lợi nhuận. Theo Samuellson, lợi nhuận kinh doanh là lợi tức ẩn, lợi nhuận là phần thưởng cho việc gánh chịu rủi ro cho sự đổi mới , lợi nhuận là lợi tức độc quyền. Bởi ông cho rằng lợi nhuận kinh doanh là tổng hợp của nhiều khoản khác nhau. Phần lớn giá trị lợi nhuận kinh doanh được báo cáo chỉ là phần lợi tức của các chủ sở hữu Công ty có được do lao động của họ hay do vốn đầu tư của họ mang lại .Nghĩa là tiền trả cho các yếu tố sản xuất do họ cung cấp. Nếu loại bỏ tất cả lợi tức ẩn thì ta được lợi nhuận thuần tuý và đó là phần thưởng cho các hoạt động đầu tư có lợi bất định. Khi phân tích phần thưởng cho sự gánh chịu rủi ro nói chung. Chúng ta không tính tới các rủi ro do vỡ nợ hay các rủi ro có bảo hiểm .Có một dạng rủi ro cần lưu ý khi tính toán lợi nhuận đó là rủi ro do đầu tư không được bảo hiểm . Doanh thu công ty phụ thuộc rất lớn vào thăng trầm trong chu kì kinh doanh. Do các nhà đầu tư rất không thích các trường hợp rủi ro nên họ đòi hỏi phải có mức phí dự phòng rủi ro cho những đầu tư không chắc chắn nhằm bù đắp cho những rủi ro của họ. Lợi nhuận bằng doanh thu trừ chi phí .Lợi nhuận kinh doanh được báo cáo chủ yếu là thu nhập công ty. 5.Học thuyết kinh tế của C.Mac (Quan điểm về lợi nhuận của Mac). a.Quá trình tạo ra giá trị thặng dư. Mac viết : “Tôi là người đầu tiên phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động biểu hiện trong hàng hoá”. Sở dĩ hàng hoá có hai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị lao động vì lao động sản xuất hàng hoá có tính hai mặt là lao động trừu tượng và lao động cụ thể. Trong nền sản xuất giản đơn, tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá là sự biểu hiện của mâu thuẫn giữa lao động tư nhân và lao động xã hội của những người sản xuất hàng hoá. Đó là mâu thuẫn cơ bản của sản xuất hàng hoá giản đơn. Mâu thuẫn này còn biểu hiện ở lao động cụ thể với lao động trừu tượng , ở giá trị sử dụng với giá trị hàng hoá. “Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá là điểm mấu chốt để hiểu biết kinh tế chính trị học”. Nó là sự vượt bậc so với các học thuyết kinh tế cổ đại. Mac và Ănghen cũng là người đầu tiên đã xây dựng nên lí luận về giá trị thặng dư một cách hoàn chỉnh vì vậy, lí luận giá trị thặng dư được xem là hòn đá tảng to lớn nhất trong toàn bộ học thuyết kinh tế của Mac. Qua thực tiễn xã hội tư bản lúc bấy giờ Mac thấy rằng giai cấp tư bản thì ngày càng giàu thêm còn giai cấp vô sản thì ngày càng nghèo khổ và ông đã đi tìm hiểu nguyên nhân vì sao lại có hiện tượng này. Cuối cùng ông hiểu ra rằng nều tư bản bỏ ra một lượng tiền là T đưa vào quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá thì số tiền thu về lớn hơn số tiền ứng ra. Ta gọi là T’ ( T’>T) hay T’=T +DT. C.Mac gọi DT là giá trị thặng dư .Ông cũng thấy rằng mục đích của lưu thông tiền tệ với tư cách là tư bản không phải là giá tị sử dụng mà là giá trị. Mục đích của lưu thông T-H-T’ là sự lớn lên của giá trị thặng dư nên sự vận động T-H-T’ là không có giới hạn. Công thức này được Mac gọi là công thức chung của tư bản. Qua nghiên cứu Mac đi đến kết luận :“Tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông và cũng không thể xuất hiện ở người lưu thông . Nó phải xuất hiện trong lưu thông và đồng thời không phải trong lưu thông ’’.Đây chính là mâu thuẫn chung của công thức tư bản .Để giải quyết mâu thuẫn này Mác đã phát hiện ra nguồn gốc sinh ra giá trị hàng hoá - sức lao động. Quá trính sản xuất hàng hoá và sản xuất ra giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân giá trị sức lao động.Vậy quá trính sản xuất ra tư bản chủ nghĩa là quá trình sản xuất ra giá trị sử dụng và quá tình sản xuất ra giá trị thặng dư. C.mac viết : “ Với tư cách là sự thống nhất giữa quá trình lao động và quá trình sáng tạo ra giá trị thì quá trình sản xuất là quá trình sản xuất ra hàng hoá: với tư cách là tăng giá trị thì quá trình sản xuất là một quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa , là hình thái tư bản chủ nghĩa của nền sản xuất hàng hoá”. Phần giá trị mới lớn hơn giá trị sức lao động, nó được tính bằng giá trị sức lao động cộng thêm giá trị thặng dư.Vậy giá trị thặng dư (m) là phần giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do công nhân tạo ra và bị nhà tư bản chiếm đoạt. Qua đó chúng ta thấy tư bản là giá trị đem lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột công nhân làm thuê. Để nghiên cứu yếu tố cốt lõi tạo nên giá trị thặng dư trong quá trình sản xuất của tư bản thì C.Mac đã chia tư bản ra làm hai bộ phận: tư bản bất biến và tư bản khả biến. Bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thái tư liệu sản xuất mà giá trị được bảo tồn và chuyển vào sản phẩm, tức là giá trị không biến đổi về lượng trong quá trình sản xuất được C.Mac gọi là tư bản bất biến và kí hiệu là c. Còn bộ phận tư bản biểu hiện dưới hình thức giá trị sức lao động trong quá trình sản xuất đã tăng thêm về lượng gọi là tư bản khả biến và kí hiệu là v. Như vậy, muốn cho tư bản khả biến hoạt động được phải có một tư bản biến đã được ứng trước với những tỉ lệ tương đương. Và qua sự phân chia, ta rút ra tư bản khả biến tạo ra giá trị thặng dư vì nó dùng để mua sức lao động. Còn tư bản bất biến có vai trò gián tiếp trong việc tạo giá trị thặng dư. Từ đây ta kết luận :“Giá trị của một hàng hoá bằng giá trị tư bản bất biến mà nó chứa đựng, , cộng với giá trị tư bản khả biến đó (tức là giá trị thặng dư đã được sản xuất ra ). Nó được biểu hiện bằng công thức : Giá trị = c + v + m Sự phân chia tư bản thành tư bản bất biến và tư bản khả biến đã chỉ ra thực chất bóc lột tư bản chủ nghĩa , chỉ có lao động của công nhân làm thuê mới tạo ra giá trị thặng dư của tư bản (tư bản đã bóc lột một phần giá trị mới do công nhân tạo ra ).Nó được biểu hiện một cách ngắn gọn qua quá trình : Giá trị = c+v+m Giá trị tư liệu sản xuất chuyển vào sản phẩm : c Giá trị lao động của người công nhân (mà nhà tư bản trả cho người công nhân ): v Giá trị mới do người công nhân tạo ra :v+m Như thế tư bản bỏ ra một lượng tư bản để tạo ra giá trị là c+v . Nhưng giá trị mà tư bản thu vào là c+v+m. Phần M dôi ra là phần mà tư bản bóc lột của người công nhân. b.Lợi nhuận. Quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư chỉ là sự biểu hiện qua sản phẩm còn thực tế để thu được tiền thì sự chuyển hoá giá trị thặng dư như thế nào. Vì công thức chung của tư bản là T-H-T’ nên mục đích cuối cùng của nhà tư bản là thu được T’ còn m chỉ là tiền đề là nền tảng để thu được T’ (T>T’). Mac đã giúp ta giải quyết vấn đề này vì ông đã tìm ra một đại lượng biểu hiện giá trị thặng dư đó là lợi nhuận (P) .Vậy: “Giá trị thặng dư khi được đem so sánh với tổng tư bản ứng trước thì mang hình thức biến tướng thành lợi nhuận ”. Từ đó ta có thể thấy P chính là con đẻ của tổng tư bản ứng trước c+v. Để hiểu rõ hơn về P chúng ta có thể đi sâu vào phân tích chi phí thực tế xã hội và chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa xuất phát từ giá trị hàng hoá c+v+m. Muốn sản xuất hàng hoá phải chi phí lao động nhất định bao gồm chi phí mua bán tư liệu sản xuất (c) gọi là lao động quá khứ và lao động tạo ra giá trị mới (v+m) .Đứng trên quan điểm toàn xã hội , quan điểm của người lao động thì chi phí đó là chi phí thực tế để tạo ra giá trị hàng hoá (c+v+m) .Nhưng đối với nhà tư bản thì họ không hao phí thực tế để sản xuất hàng hoá nên nhà tư bản chỉ xem hết bao nhiêu tư bản chứ không tính xem chi phí hết bao nhiêu lao động cần thiết .Thực tế họ chỉ ứng ra số tư bản để mua tư liệu sản xuất (c) và mua sức lao động (v). Chi phí đó được Mac gọi là chi phí tư bản chủ nghĩa và kí hiệu là k ( k = c+v ). Như vậy chi phí tư bản chủ nghĩa luôn luôn nhỏ hơn chi phí thực tế .Giữa giá trị hàng hoá và chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa có sự chênh lệch nhau một lượng đúng bằng m. Do đó nhà tư bản hàng hoá sẽ thu về một phần lời đúng bằng giá trị thặng dư m, số tiền này gọi là lợi nhuận. Giá trị hàng hoá lúc này bằng chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa cộng sản với lợi nhuận : giá trị =k+ P. Về mặt lượng , P có nguồn gốc là kết quả lao động không công của công nhân làm thuê. Về mặt chất P xem như toàn bộ tư bản ứng trước đẻ ra. Do đó P che dấu quan hệ bóc lột TBCN , che dấu nguồn gốc thực sự của nó. Do chi phí tư bản chủ nghĩa luôn luôn nhỏ hơn chi phí sản xuất thực tế cho nên nhà tư bản có thể bán hàng hoá cao hơn chi phí sản xuất TBCN và có thể thấp hơn giá trị hàng hoá. Nếu nhà tư bản bán hàng hoá với giá trị bằng giá trị của nó thì P=m. Nếu bán với giá trị cao hơn giá trị của nó thì P < m. Chính điều này đã làm cho họ cho rằng lợi nhuận là do việc mua bán , do lưu thông tạo ra, do tài kinh doanh của nhà tư bản tạo ra mà có. Điều này dẫn đến sự che dấu thực chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản. c.Tỉ suất lợi nhuận. Tỉ suất lợi nhuận (P) là tỉ số tính theo phần trăm giữa giá trị thặng dư và toàn bộ tư bản ứng truớc : P = m.100%/c+v. Tỉ suất lợi nhuận không phản ánh trình độ bóc lột của nhà tư bản mà nó nói lên mức lãi của việc đầu tư. Nó cho nhà tư bản biết họ đầu tư vào đâu thì có lợi . Do đó việc thu P và theo đuổi P là động lực thúc đẩy nhà tư bản , là mục tiêu cạnh tranh của nhà tư bản. Do mục tiêu đạt được lợi nhuận cao nhất nên giữa các nhà tư bản luôn luôn diễn ra sự cạnh tranh gay gắt. Các quá trình cạnh tranh của nhà tư bản được Mac phân chia làm hai loại: cạnh tranh trong nội bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành. Cạnh tranh trong nội bộ ngành là sự cạnh tranh giữa các xí nghiệp trong cùng một ngành , cùng sản xuất ra một loại hàng hoá nhằm mục đích tiêu thụ hàng hoá có lợi hơn để thu lợi nhuận siêu ngạch. Do bản chất của cạnh trạnh chính là một hình thức đấu tranh gay gắt giữa những người sản xuất hàng hoá dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất nhằm giành giật những điều kiện có lợi nhất của sản xuất và tiêu thụ hàng hoá. Vì vậy cho nên cạnh tranh trong nội bộ ngành buộc các xí nghiệp phải tìm ra cách giảm giá trị cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá trị xã hội để giành thắng lợi trong cạnh tranh . Kết quả là do điều kiện sản xuất bình quân trong một nnh thay đổi , giá trị xã hội của hàng hoá giảm xuống . Cạnh tranh giữa các ngành là cạnh tranh giữa các nhà tư bản ở các ngành sản xuất khác nhau nhằm tìm nơi đầu tư có lợi hơn, ở các ngành sản xuất khác nhau có các điều kiện khác nhau , do đó tỉ suất lợi nhuận cũng khác nhau. Các nhà tư bản chọn ngành có lợi nhuận cao để đầu tư .C.Mac viết “Do ảnh hưởng của cạnh tranh, những tỉ suất lợi nhuận khác nhau đó san bằng đi thành một tỉ suất lợi nhuận chung , đó là con số bình quân của tất cả những tỉ suất lợi nhuận khác nhau. Lợi nhuận của một tư bản có một lượng nhất định thu được , theo tỉ suất lợi nhuận chung đó , không kể cấu tạo hiện có đó như thế nào là lợi nhuận bình quân”. d.Quá trình bình quân hoá tỉ suất lợi nhuận. Quá trình bình quân hoá tỉ suất lợi nhuận là sự hoạt động của quy luật tỉ suất lợi nhuận bình quân trong xã hội tư bản. Sự hoạt động của qui luật tỉ suất lợi nhuận bình quân là biểu hiện cụ thể của sự hoạt động của qui luật giá trị thặng dư trong thời kì tự do cạnh tranh của chủ nghĩa tư bản. Sự hình thành tỉ suất lợi nhuận bình quân và lợi nhuận bình quân đã che dấu hơn nữa thực chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản. Sự hình thành P’ và P không làm chấm dứt quá trình cạnh tranh trong xã hội tư bản , trái lại cạnh tranh vẫn tiếp diễn. Cùng với sự hình thành tỉ suất lợi nhuận bình quân ta thấy một bộ phận hàng hoá được bán cao hơn giá trị của chúng , còn bộ phận khác lại bán thấy hơn giá trị của chúng cũng theo một tỉ lệ như thế. Chỉ có bán hàng hoá theo những giá cả đó thì tỉ suất lợi nhuận trong các Công ty mới có thể đồng nhất và ngang với nhau, dù cấu thành hữu cơ của các tư bản đều khác nhau. “Những giá cả có được bằng cách lấy chi phí sản xuất của hàng hoá cộng với lợi nhuận bình quân gọi là giá cả sản xuất”. Vậy: Giá cả sản xuất =k +P Tiền đề của giá cả sản xuất là sự hình thành tỉ suất lợi nhuận bình quân. Điêu kiện đẻ giá trị biến thành giá cả sản xuất gồm có:Đại công nghiệp cơ khí tư bản chủ nghĩa phát triển ; sự liên hệ đầy đủ giữa các ngành sản xuất ; quan hệ tín dụng phát triển , tư bản tự do di chuyển từ ngành này sang ngành khác. Trước đây khi chưa xuất hiện phạm trù giá cả sản xuất thì giá cả xoay quanh giá trị hàng hoá. Giờ đây giá cả của hàng hoá xoay quanh giá cả sản xuất. Về mặt lượng , giá cả sản xuất và giá cả có thể không bằng nhau. Chính trong mối quan hệ này , giá trị vẫn là cơ sở, là nội dung bên trong của giá cả sản xuất và giá cả thị trường. Thực chất hoạt động của quy luật giá cả sản xuất là sự biểu hiện hoạt động của quy luật giá trị trong thời kì tự do cạnh tranh của của nghĩa tư bản. e.Các hình thức biểu hiện của lợi nhuận. Như ta đã biết , giá trị thặng dư, lợi nhuận hoàn toàn không đồng nhất nhưng chúng đều có chung nguồn gốc từ lao động thặng dư . Giá trị thặng dư là phần giá trị mà nhà tư bản bóc lột không công của người công nhân còn lợi nhuận là số tiền thu được sau khi bán sản phẩm trên thị trường so với số tiền bỏ vào sản xuất. Có thể nói , chính giá trị thặng dư biểu hiện sự bóc lột sản xuất , chứng minh công thức , mâu thuẫn tư bản một cách chính xác và khoa học. Trước Mac ,các nhà kinh tế học đã hình dung ra giá trị thặng dư nhưng họ chưa có đủ lí luận để diễn đạt mà chỉ biểu hiện quan điểm của mình trong vấn đề thu nhập , tiền lương.Chỉ đến Mác ông mới xây dựng lí thuyết giá trị thặng dư một cách hoàn chỉnh , khoa học và các vấn đề liên quan. Có thể nói, lý thuyết giá trị thặng dư là một phát minh vĩ đại của Mac mà như Lenin nói đó là “Hòn đá tảng” trong học thuyết kinh tế.Tuy nhiên , chúng ta phải hiểu rằng Mac không phải là người phát minh ra giá trị thặng dư , càng không phải là người làm ra nó :Chính người tìm ra giá trị thặng dư là nhà tư bản và người lao động thặng dư là công nhân giá trị thặng dư rất rõ ràng nhưng nó được che dấu bởi lợi nhuận và nó tồn tại trong xã hội tư bản bởi các hình thức sau: -Lợi nhuận công nghiệp:Về bản chất là phần giá trị do công nhân tạo ra bị nhà tư bản chiếm không và phần, giá trị này bán trên thị trường thu được một số tiền lời sau khi trừ đi chi phí sản xuất. Ngày lao động của công nhân (giả sử là 8 giờ ) được chia ra làm hai phần :một phần làm ra giá trị tương đương với số tiền lương của anh ta và làm ra giá trị thặng dư. Vì thèm muốn lợi nhuận nên nhà tư bản công nghiệp luôn tìm cách tăng phần thời gian lao động thặng dư như tăng giờ làm , tăng năng suất lao động ( giảm thời gian lao động tất yếu). Thời gian lao động thặng dư càng nhiều thì càng thuộc về nhà tư bản và sẽ thu được lợi nhuận càng cao. Như vậy, lợi nhuận công nghiệp là hình thái gần nhất , dễ thấy nhất với giá trị thặng dư và lợi nhuận công nghiệp là động lực mạnh mẽ nhất để phát triển sản xuất. -Lợi nhuận thương nghiệp:Trong lưu thông ,trao đổi không tạo ra giá trị nhưng nhà tư bản thương nghiệp làm nhiệm vụ lưu thông hàng hoá, làm cho hàng hoá được bán đi nhanh hơn.Vì thế , họ phải thu được một phần lợi nhuận mà nhà tư bản thương nghiệp chiếm được.Về thực chất , lợi nhuận thương nghiệp là một phần giá trị thặng dư được sáng tạo ra trong lĩnh vực sản xuất mà tư bản công nghiệp nhường cho nhà tư bản thương nghiệp. Sở dĩ nhà tư bản công nghiệp nhường cho nhà tư bản thương nghiệp một phần giá trị thặng dư trong lúc họ luôn khao khát ,thèm muốn nó là bởi vì :Nhà tư bản thương nghiệp rất am hiểu thị trường , khách hàng do đó giúp cho hàng hoá bán đi nhanh hơn , tốc độ chu chuyển nhanh hơn nên nhà tư bản công nghiệp rảnh tay để sản xuất. Do có vai trò quan trọng như vậy, nhà tư bản công nghiệp phải nhường một phần giá trị thặng dư cho nhà tư bản thương nghiệp . Lợi nhuận thương nghiệp là sự chênh lệch giá bán và giá mua hàng hoá .Điều đó không có nghĩa là nhà tư bản thương nghiệp bán giá cao hơn giá trị mà là họ mua hàng hoá thấp hơn giá trị và khi bán thì bán đúng giá trị. -Lợi tức cho vay : Nhà tư bản muốn hoạt động nhưng bản thân họ không đủ vốn hoặc không có vốn nên họ phải đi vay để làm vốn đem vào sản xuất. Một số nhà tư bản có tiền nhưng chưa đến chu kì sử dụng hoặc chưa sử dụng nên họ cho vay và nhận được một khoản tiền ứng với số tiền cho vay từ tay nhà tư bản đi vay , gọi là lợi tức. Lợi tức cho vay là một phần lợi nhuận bình quân mà nhà tư bản đi vay phải trả cho nhà tư bản cho vay ứng với món tiền mà nhà tư bản cho vay đã đưa cho nhà tư bản đi vay sử dụng, lợi tức cao hay thấp tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố như sự cấp thiết , hoàn cảnh lịch sử, sự thoả thuận giữa nhà tư bản... đối với tư bản thì tiền không thể chết trong két sắt mà nó được đẻ ra liên tục. -Lợi nhuận ngân hàng: Ngân hàng là cơ quan kinh doanh tiền tệ , làm môi giới giữa người đi vay và người cho vay. Tuy nhiên , tư bản ngân hàng khác tư bản cho vay ở chỗ :Tư bản ngân hàng là tư bản hoạt động , ngoài nguồn vốn nhàn rỗi còn có các chứng khoán ... Ngân hàng tham gia vào sản xuất với tư bản và cả hai bên chi phí liên quan đến nhau cùng chia lợi nhuận. Lợi nhuận ngân hàng là phần lợi nhuận thu được ứng với số tiền mà ngân hàng chung vốn với nhà tư bản tham gia sản xuất. Một đất nước phát triển thì hệ thống ngân hàng phải phát triển bởi vì vai trò của ngân hàng trong cơ chế thị trường là yếu tố đặc biệt quạn trọnng. -Địa tô : Tư bản không chỉ hình thành và thống trị trong lĩnh vực công nghiệp mà còn mở rộng sang cả nông nghiệp .Địa chủ có nhiều ruộng đất còn nhà tư bản cần ruộng để kinh doanh. Nhà tư bản kinh doanh ruộng đất phải thu thêm một phần giá trị thặng dư dôi ra ngoài lợi nhuận bình quân, tức là lợi nhuận siêu ngạch. Lợi nhuận siêu ngạch này tương đối ổn định và lâu dài và nhà tư bản phải trả cho chủ ruộng đất dưới hình thái địa tô tư bản chủ nghĩa .Như vậy , địa tô tư bản chủ nghĩa là một phần giá trị thặng dư còn lại sau khi đã khấu trừ đi phần lợi nhuận bình quân của nhà tư bản kinh doanh ruộng đất. II.Vai trò của lợi nhuận trong nền Kinh tế thị trường. lợi nhuận đóng vai trò rất lớn trong nền kinh tế. Nó ảnh hưởng cả đến chính trị xã hội và len lỏi vào mọi mặt của đời sống xã hội trong nền Kinh tế thị trường. Như ta đã biết mọi sự vật hiện tượng đều có tính hai mặt: Mặt tích cực và mặt tiêu cực. Vấn đề đặt ra là ta phải phát triển mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực như thế nào để phát huy được vai trò của nó. 1.Lợi nhuận trong nền kinh tế a.Lợi nhuận ( P ) thúc đẩy LLSX phát triển Với mục đích P các nhà tư bản đã tạo ra P ngày càng nhiều. Trước đây họ có thể tạo ra P bằng cách kéo dài ngày công lao động của công nhân nhưng vì phương pháp đó gặp sự chống cự của giai cấp công nhân vì vậy họ chuyển sang phương pháp bóc lột một cách tinh vi hơn. Nhà tư bản áp dụng kỹ thuật mới vào và bắt buộc người công nhân phải tăng năng suất lao động của mình lên. Nhưng chính mục đích áp dụng kỹ thuật mới đã làm cho các nhà tư bản đầu tư ngày càng nhiều vào vấn đề nghiên cứu khoa học. LLSX phát triển một cách nhanh chóng đặc biệt vào thế kỉ 19 đến 20. Yếu tố này đã giúp cho các nhà tư bản không chỉ thu được lợi nhuận đơn thuần mà còn thu được lợi nhuận siêu ngạch. Công nghệ tiên tiến ra đời đòi hỏi phải có một đội ngũ công nhân đủ năng lực, tay nghề, trình độ kĩ thuật cao. Vì vậy quá trình đầu tư cho chiến lược nâng cao trình độ lao động của nhà tư bản và yêu cầu cấp thiết phải nâng cao trình độ của những người công nhân đã diễn ra. Qua đó trình độ của người lao động ngày càng được nâng cao và đó cũng là yêu cầu tất yếu của một xã hội hiện đại ngày nay. Do nhận biết được vai trò quan trọng của những người lao động lành nghề nhưng lại không muốn đầu tư nên hiện nay đang diễn ra tình trạng mua chuộc, lôi kéo nhân tài bằng các biện pháp kinh tế gây nên hiện tượng chảy máu chất xám ở các nước đang phát triển. Hiện tượng này làm thiệt hại rất lớn cho các nước đang phát triển nên cần được ngăn chặn. b. lợi nhuận thúc đẩy quan hệ SX phát triển LLSX và QHSX luôn luôn có quan hệ biệ chứng với nhau. Do tác động của lợi nhuận cùng với sự phân chia lợi nhuận dưới nhiều hình thức khác nhau đã làm cho chế độ sở hữu ngày càng được củng cố và phát triển. Quan hệ sở hữu từng bước được thắt chặt hơn, rõ ràng hơn giữa nhà tư bản và người lao động nói riêng, giữa các cá nhân trong xã hội nói chung. Bên cạnh đó mục đích P luôn đặt các nhà kinh tế, các tổ chức kinh tế trước yêu cầu “hiệu quả”. Làm thế nào để chi phí ít nhất mà lợi nhuận thu được về là lớn nhất. Điều đó đòi hỏi tính chuyên môn hóa cao và sự sắp xếp, tổ chức hợp lý các bộ phận quản lí. Hạn chế bớt một số khâu, bộ phận quản lí rườm rà, cồng kềnh không cần thiết giúp cho các nhà kinh tế giảm bớt được một phần chi phí (tiền lương) đồng nghĩa với việc tăng lợi nhuận. Xuất phát từ mục tiêu ổn định và phát triển có kế hoạch phân bố lực lượng lao động hợp lí, cân đối trong nền kinh tế tốt để khai thác tốt nguồn tài nguyên, kết hợp chặt chẽ và thích đáng lợi ích xã hội, tập thể và cá nhân người lao động, giáo dục quan điểm thái độ và kỹ thuật cho người lao động. Tất cả những vấn đề đặt ra ở trên đều xuất phát từ lợi nhuận và chính nó đã thúc đẩy quá trình phân phối theo lao động diễn ra mạnh mẽ theo nguyên tắc làm nhiều thì hưởng nhiều, làm ít hưởng ít. Nhưng cùng với sự phát triển của kinh tế thì ngoài phân phối theo lao động còn có sự phân phối ngoài thù lao lao động thông qua các quỹ phúc lợi tập thể và xã hội.. Trong thời kì quá độ hiệ nay ở nước ta còn xuất hiện hình thái phân phối theo vốn và tài sản dưới hình thức Công ty cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn... - P làm chuyển đổi kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng hoá và tiếp theo là sang Kinh tế thị trường. Theo quá trình phát triển của lịch sử nền kinh tế đã trải qua rất nhiều hình thức khác nhau từ hình thức lạc hậu đến hình thức tiên tiến hiện đại. Đi từ kinh tế tự nhiên đến kinh tế hàng hoá rồi đến Kinh tế thị trường gắn liền với quá trình mong muốn được lợi nhuận ngày càng cao. Ham muốn của con người không bao giờ có giới hạn. Quá trình quy đổi diẽn ra khi có hàng hoá thừa, đồng tiền xuất hiện và kinh tế hàng hoá xuất hiện. Nhu cầu ngày càng lớn và thị trường ngày càng được mở rộng. Cơ sở của sự ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hoá là phân công lao động xã hội và sự tách biệt về kinh tế giữa người sản xuất này với người sản xuất khác do các quan hệ sở hữu khác nhau về TLSX quy định. Khi kinh tế hàng hoá phát triển sẽ làm cho quá trình sản xuất mua bán diễn ra mạnh mẽ và các nhà kinh tế luôn tìm kiếm và năng động hơn trong hoạt động sản xuất cũng như phân phối lưu thông lợi nhuận đã làm cho họ cố gắng đạt được bang nhiều hình thức khác nhau. Cùng một lúc mà có nhiều nhà tư bản cùng tham gia thì vấn đề thời cơ lại trở nên cấp thiết. Lúc này nhà kinh tế sẽ có nhiều hình thức khác nhau để đi đến mức lợi nhuận cao. Sự cản trở ở một khâu nào đó trong quá trình hoạt động sẽ là gián đoạn các bước tiếp theo và lúc này thời cơ không còn nữa. Chính điều này đã làm nảy sinh ra một yêu cầu là cần phải tách ra khỏi sự quản lí vi mô của Nhà nước. Nhà nước chỉ nên có những quản lý điều chỉnh ở tầm vĩ mô để có thể tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các thành phần kinh tế phát triển, tạo hành lang môi trường pháp lí tốt, môi trường chính trị ổn định... Đó cũng chính là để các nhà kinh tế thu được nhiều lợi nhuận nhấtmà không vi phạm đến lợi ích của người khác. Với nền Kinh tế thị trường như trên sẽ thúc đẩy nề kinh tế phát triển ngày càng mạnh mẽ hơn. c.Vai ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34621.doc
Tài liệu liên quan