Những vấn đề đặt ra và các giải pháp nhằm phát triển kinh tế - Xã hội ở An Giang trong mùa nước nổi

MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nằm ở phần cuối của lãnh thổ Việt Nam thuộc khu vực hạ lưu sông Cửu Long, với một địa bàn 13 tỉnh gồm: Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Cần Thơ, Hậu Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang, có diện tích tự nhiên là 3.956.900 ha, dân số trên 16 triệu người, chiếm 12% diện tích và 21% dân số cả nước, hàng năm đóng góp trên 80% sản lượng gạo và 60% sản lượng thủy sản để xuất khẩu. Đồng bằng sông Cửu Long không chỉ đ

doc111 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1377 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Những vấn đề đặt ra và các giải pháp nhằm phát triển kinh tế - Xã hội ở An Giang trong mùa nước nổi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ược đánh giá là một vùng đất trù phú, màu mỡ, nhiều tài nguyên, là vùng đồng bằng lớn nhất Việt Nam, được thiên nhiên ưu ái dành cho nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển, mà còn được xem như là một vùng kinh tế có vị trí và vai trò chiến lược trong nền kinh tế nước ta nhất là trong sản xuất nông nghiệp, góp phần quan trọng trong đảm bảo an ninh lương thực không chỉ cho quốc gia, mà còn cho xuất khẩu. Tuy nhiên, đồng bằng sông Cửu Long cũng là vùng đất phải chịu nhiều thiên tai lũ lụt có tính chu kỳ hàng năm theo kiểu 6 tháng mùa khô, 6 tháng mùa nước. Chính lũ lụt là điều kiện ưu đãi của thiên nhiên giúp cho đồng bằng sông Cửu Long thêm màu mỡ, trù phú thông qua tác dụng tháo chua, rửa phèn, bồi đắp phù sa, tạo lợi thế riêng có về khai thác và nuôi trồng thủy sản… Đồng thời cũng chính lũ lụt lại là nguyên nhân chính gây nhiều thiệt hại về người và của, tàn phá cơ sở hạ tầng kỹ thuật… Bên cạnh đó, do đặc thù về tự nhiên, đồng bằng sông Cửu Long có hệ thống sông ngòi chằng chịt, vừa có tác dụng đưa nước vào đồng, phục vụ sinh hoạt và lưu thông lại vừa có tác dụng thoát lũ nên không giống như vùng đồng bằng sông Hồng là đắp đê chống lũ triệt để, vùng đồng bằng sông Cửu Long phải chọn giải pháp là sống chung với lũ. Sống chung với lũ là một hiện tượng tự nhiên, xã hội đã và đang được cư dân vùng đồng bằng sông Cửu Long tiếp nhận trong suốt quá trình hình thành và phát triển của vùng đất này. Từ chỗ sống chung với lũ một cách thụ động, con người ngày càng hiểu thêm về lũ, nắm bắt được nhiều hơn những quy luật của lũ để dần hạn chế đến mức thấp nhất những tác hại do lũ mang lại cũng như khai thác tối đa những lợi ích mà lũ mang lại, tiến dần đến chủ động sống chung với lũ, kiểm soát một cách hiệu quả hiện tượng tự nhiên này. An Giang là tỉnh đầu nguồn, có toàn bộ diện tích nằm trong vùng lũ và phải chịu ảnh hưởng của lũ lâu dài và nặng nề nhất. Thời gian chịu lũ kéo dài khoảng 6 tháng trong năm nên vấn đề được đặt ra là làm thế nào để khai thác một cách có hiệu quả nhất những công trình, cơ sở hạ tầng kiểm soát lũ đã được đầu tư phục vụ cho việc chủ động sống chung với lũ, khai thác tối đa những lợi thế của lũ cũng như trong phát triển kinh tế - xã hội, hạn chế thấp nhất những thiệt hại do lũ mang lại. Quyết định 99/TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 9/2/1996 về định hướng dài hạn và kế hoạch 5 năm 1996-2000 đối với việc phát triển thủy lợi, giao thông và xây dựng nông thôn đồng bằng sông Cửu Long đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bằng sông Cửu Long, cho quá trình chủ động sống chung với lũ. Song quá trình này cũng đặt ra nhiều vấn đề mới cần phải nghiên cứu như: xây dựng các cụm tuyến dân cư vượt lũ nhằm đảm bảo an toàn tính mạng, tài sản của nhân dân trong mùa lũ nhưng cũng làm thay đổi phong tục, tập quán, cách sống của nhân dân; xây dựng đê bao chống lũ kết hợp với phát triển đường giao thông nông thôn nhưng cũng ngăn không cho nước tràn đồng, có thể làm tăng mực nước lũ trên các dòng chính... Vì vậy, việc nghiên cứu vấn đề: "Những vấn đề đặt ra và các giải pháp nhằm phát triển kinh tế - xã hội ở An Giang trong mùa nước nổi " là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn trong việc chủ động sống chung với lũ, thúc đẩy nhanh quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn An Giang. Qua đó, tổng kết kinh nghiệm và góp phần thúc đẩy quá trình khai thác lợi thế mùa nước nổi của người dân vùng lũ bao đời nay từ tự phát lên tự giác dưới sự định hướng và hỗ trợ của Nhà nước. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Hiện nay, việc nghiên cứu về lũ ở châu thổ sông Cửu Long đã các công trình sau: GS.TS Nguyễn Ngọc Trân (Chủ biên): "Đồng bằng sông Cửu Long tài nguyên - môi trường - phát triển", Ủy ban Khoa học Nhà nước (Chương trình điều tra cơ bản tổng hợp vùng đồng bằng sông Cửu Long), Hà Nội - Thành phố Hồ Chí Minh - Đồng bằng sông Cửu Long, 1990. Đây là công trình của Ủy ban Khoa học kỹ thuật Nhà nước về điều tra, nghiên cứu, đánh giá tài nguyên và điều kiện thiên nhiên của đồng bằng sông Cửu Long, từ đó đưa ra những nhận định về tiềm năng nông nghiệp và những kiến nghị khoa học về sử dụng và bảo vệ tài nguyên, cung cấp các tư liệu điều tra, nghiên cứu khoa học làm luận cứ cho quy hoạch phát triển vùng đồng bằng sông Cửu Long. Nguyễn Công Bình (Chủ biên): "Đồng bằng sông Cửu Long nghiên cứu phát triển", Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1995. Đây là những chuyên đề khảo cứu về đồng bằng sông Cửu Long dưới góc độ các ngành khoa học về lịch sử, kinh tế, xã hội, văn hóa, tự nhiên, môi trường, kỹ thuật, nông nghiệp. PGS.TS Phương Ngọc Thạch: "Định hướng và một số giải pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng ngập lụt đồng bằng sông Cửu Long", Trung tâm Nghiên cứu kinh tế miền Nam, 1998. PGS.TS Phương Ngọc Thạch: "Những biện pháp thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn vùng đồng bằng sông Cửu Long", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002. Tác giả đã phân tích đặc điểm và thực trạng kinh tế - xã hội của vùng đồng bằng sông Cửu Long, những nhân tố tác động và mối quan hệ giữa đồng bằng sông Cửu Long với các tỉnh phía Nam nhất là đối với Thành phố Hồ Chí Minh. Trên cơ sở đó, tác giả đã đề xuất một số giải pháp nhằm đưa nông nghiệp nông thôn đồng bằng sông Cửu Long phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. PGS.TS Đào Công Tiến (Chủ biên): "Kinh tế - xã hội và môi trường vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002 và "Vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long hiện trạng và giải pháp", Nxb Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2001. Đây là đề tài khoa học độc lập cấp nhà nước tiến hành điều tra nghiên cứu về vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long trên các lĩnh vực: điều kiện tự nhiên, tài nguyên và đa dạng sinh học; cơ cấu kinh tế vùng ngập lũ; hệ thống canh tác nông - lâm - ngư kết hợp; nước sạch và vệ sinh môi trường; giáo dục và dạy nghề... Dương Văn Nhã: "Báo cáo tác động của đê bao đến kinh tế - xã hội - môi trường", chương trình nghiên cứu Việt Nam - Hà Lan, An Giang, 2004. Chương trình đã điều tra và đánh giá những tác động việc thực hiện đê bao chống lũ tại một số địa phương ở đồng bằng sông Cửu Long, đưa ra một số nhận định về việc thực hiện đê bao triệt để, đê bao tháng 8 và không đê bao. Ngoài ra, còn nhiều bài viết đăng trên các báo, tạp chí, các đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, địa phương. Các công trình trên đã nghiên cứu về mùa lũ ở châu thổ sông Cửu Long và vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long dưới nhiều góc độ khác nhau và đề cập đến một số nội dung chủ yếu sau: Một là, điều tra tổng hợp về kinh tế - xã hội - môi trường - văn hóa - giáo dục vùng đồng bằng sông Cửu Long, cung cấp số liệu cho công tác quy hoạch phát triển vùng đồng bằng sông Cửu Long. Hai là, đánh giá tác động và đưa ra những khuyến nghị về việc phát triển đồng bằng sông Cửu Long trong mối quan hệ với vùng kinh tế trọng điểm phía Nam nhất là trong mối quan hệ với Thành phố Hồ Chí Minh. Ba là, đánh giá bước đầu ảnh hưởng của việc thực hiện chương trình đê bao chống lũ triệt để ở một số địa phương. Bốn là, đưa ra những kiến nghị nhằm khuyến khích phát triển kinh tế - xã hội - môi trường và chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long trong điều kiện chung sống với lũ. Tuy nhiên, chưa có một đề tài nào nghiên cứu mùa lũ ở châu thổ sông Cửu Long với tư cách là một nguồn lực - nguồn tài nguyên thiên nhiên phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội của vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long nói chung và trên địa bàn tỉnh An Giang nói riêng. 3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của luận văn Trên cơ sở phát huy hiệu quả của các công trình cơ sở hạ tầng phục vụ cho việc chủ động chung sống và phát triển kinh tế - xã hội trong mùa nước nổi; nghiên cứu những lợi thế của mùa nước nổi có thể khai thác để phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở An Giang; từ thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội ở An Giang trong mùa nước nổi, nêu lên được những vấn đề đã và đang đặt ra trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở An Giang và đề xuất một số giải pháp cơ bản để giải quyết những vấn đề đó. Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ: - Phân tích được tác hại và lợi thế của mùa nước nổi đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở An Giang trên cơ sở có tác động của các công trình đã và đang xây dựng để chung sống trong mùa nước nổi. - Phân tích, đánh giá những thành công bước đầu của quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở An Giang trong mùa nước nổi; những tác động của phát triển kinh tế - xã hội trong mùa nước nổi đối với phát triển kinh tế - xã hội ở An Giang. - Xác định được những vấn đề đã và đang đặt ra cũng như đề xuất những giải pháp cơ bản để giải quyết những vấn đề đó. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề đã và đang đặt ra cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở An Giang. Phạm vi nghiên cứu là địa bàn tỉnh An Giang, tuy nhiên trong một chừng mực nhất định, luận văn có đề cập đến những tác động chung của mùa nước nổi đối với đồng bằng sông Cửu Long. Thời gian nghiên cứu khi có chủ trương chung sống với lũ từ năm 2000 đến nay. Trong quá trình nghiên cứu, một số dữ liệu phát triển kinh tế - xã hội ở An Giang trong mùa nước nổi chỉ có từ 2002 đến nay do nguyên nhân khách quan là những chương trình đó được triển khai trong thực tiễn từ 2002. 5. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng quan điểm cơ bản và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nghị quyết và chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước có liên quan đến phát triển nông nghiệp nông thôn nói chung và vùng đồng bằng sông Cửu Long nói riêng. Tham khảo và tiếp thu có chọn lọc các kết quả nghiên cứu khác có liên quan đến đề tài. 6. Đóng góp của luận văn - Làm rõ những lợi thế tự nhiên trong trong mùa nước nổi có tác động tích cực đối với phát triển kinh tế - xã hội ở vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long nói chung và An Giang nói riêng. - Khái quát những vấn đề cấp thiết đang đặt ra đối với phát triển kinh tế - xã hội ở An Giang trong mùa nước nổi. - Đề xuất những giải pháp chủ yếu để giải quyết những vấn đề được đặt ra để phát triển kinh tế - xã hội ở An Giang trong mùa nước nổi. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận văn gồm 3 chương, 9 tiết. Chương 1 LỢI THẾ VÀ HẠN CHẾ CỦA MÙA NƯỚC NỔI ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở AN GIANG 1.1. CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN 1.1.1. Quan niệm mùa nước nổi Đồng bằng sông Cửu Long có diện tích tự nhiên là 3.956.900 ha, được hình thành từ phù sa của phần hạ lưu vực sông Mêkông. Sông Mêkông dài 4.200 km, có diện tích lưu vực 795.000 km2, chảy qua Trung Quốc, Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam. Phần hạ lưu chảy vào Việt Nam theo hai nhánh chính là sông Tiền và sông Hậu, chảy ra biển theo 9 cửa là: cửa Tiểu, cửa Đại, cửa Ba Lai, cửa Hàm Luông, cửa Cổ Chiên, cửa Cung Hầu, cửa Đình An, cửa Bát Xác và cửa Tranh Đề, nên đoạn sông Mêkông chảy vào Việt Nam được gọi là sông Cửu Long và đồng bằng sông Cửu Long cũng được gọi theo tên sông. Là một vùng đất trù phú, được thiên nhiên ưu đãi với nhiều lợi thế để phát triển nhưng đồng bằng sông Cửu Long cũng chịu ảnh hưởng nặng nề của lũ lụt. Hàng năm, vào khoảng tháng 6 đến tháng 12, nước từ sông chính, theo các nhánh phụ và hệ thống sông ngòi, kênh rạch chằng chịt của sông Cửu Long chảy vào đồng (người dân thường gọi là nước tràn đồng), gây ngập trên một diện tích rộng khoảng 1,87 triệu ha. Phần diện tích ngập này (còn được gọi chung là: vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long) nằm trong diện tích của 9 tỉnh là: An Giang, Bến Tre, Cần Thơ, Đồng Tháp, Hậu Giang, Kiên Giang, Long An, Tiền Giang, Vĩnh Long. An Giang là một trong ba tỉnh có toàn bộ diện tích tự nhiên nằm trong vùng ngập lũ. Vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long được chia thành 4 tiểu vùng là: vùng Tứ giác Long Xuyên, vùng Đồng Tháp Mười, vùng Tây sông Hậu và vùng giữa sông Tiền và sông Hậu. Vùng Tứ giác Long Xuyên và vùng Tây sông Hậu có địa hình thấp dần về phía vịnh Thái Lan, có dạng ngập lũ hở. Vùng Đồng Tháp Mười được bao bọc bởi các vùng đất cao nên có dạng ngập lũ kín. Vùng giữa sông Tiền và sông Hậu có những vùng đất cao ven dòng sông, trũng ở giữa, có dạng ngập lũ lòng máng. Mùa lũ ở đồng bằng sông Cửu Long có những đặc trưng cơ bản sau: Một là, mùa lũ ở đồng bằng sông Cửu Long kéo dài khoảng 6 tháng, là hiện tượng tự nhiên, có chu kỳ thường xuyên hàng năm, không xuất hiện bất thình lình, đột ngột. Thường bắt đầu từ cuối tháng 6 và kết thúc vào tháng 12 hàng năm, lúc này cũng chính là mùa mưa ở châu thổ sông Cửu Long. Ta có thể tạm chia mùa lũ ở đồng bằng sông Cửu Long thành ba giai đoạn: giai đoạn đầu mùa lũ là lúc nước bắt đầu tràn từ thượng nguồn về các vùng trũng thường tính từ cuối tháng 6 đến đầu tháng 8; giai đoạn cao điểm lũ là giai đoạn có đỉnh lũ lớn nhất được tính từ đầu tháng 8 đến nửa đầu tháng 10; giai đoạn nước rút là giai đoạn lũ giảm dần ở các tỉnh đầu nguồn và dồn về các tỉnh hạ lưu. Hai là, mùa lũ ở đồng bằng sông Cửu Long lên xuống với cường suất nhỏ, khoảng 5-7cm/ngày và kéo dài trong suốt mùa lũ. Mức độ biến động lũ giữa các năm không lớn, nguyên nhân chính là do sự điều tiết tự nhiên của Biển Hồ ở Campuchia. Vì thế mà dạng lũ ở đồng bằng sông Cửu Long là tương đối ổn định và được điều hòa một cách tự nhiên, không có hiện tượng cường suất lũ dâng cao nhanh như lũ ở miền Trung và miền Bắc. Tuy nhiên, do địa hình đồng bằng sông Cửu Long tương đối bằng phẳng nên chỉ cần đỉnh lũ tăng thêm vài chục cm là mức độ ngập lũ tăng một cách đáng kể. Đối với đồng bằng sông Cửu Long, việc xác định lũ lớn hay nhỏ không phụ thuộc vào cường độ lũ, lưu lượng, tổng lượng mà yếu tố quan trọng là dựa vào mực nước. Theo phân cấp của Tổng cục Khí tượng Thủy văn, mực nước trên sông Tiền tại Tân Châu thấp hơn 3,83 m là lũ nhỏ, từ 3,83 m đến 4,83 m là lũ trung bình và trên 4,83 m là lũ lớn. Ba là, lũ ở đồng bằng sông Cửu Long thường là lũ một đỉnh, đạt lớn nhất vào khoảng từ cuối tháng 9 đến nửa đầu tháng 10. Tháng 8 thường xuất hiện một "đỉnh phụ", bởi sau đỉnh này, vào đầu tháng 9, lũ hoặc bị hạ thấp đôi chút hoặc nằm ngang hay tăng chậm hơn so với thời kỳ trước và sau đó. Đôi khi đỉnh lũ này lại cao hơn đỉnh lũ chính tháng 10 (lũ năm 1978, 1991). Bốn là, không chỉ chảy theo các nhánh sông chính, lũ còn tràn vào đồng bằng sông Cửu Long bằng cách tràn qua và lấp đầy các khu trũng thấp dọc theo biên giới (nhất là ở hai vùng ngập chính Đồng Tháp Mười và Tứ giác Long Xuyên). Diện tích ngập lũ khoảng 2 triệu ha, chiếm khoảng 2,5% diện tích lưu vực sông Mêkông nhưng phải gánh chịu tổng lượng lũ khoảng 400 tỷ m3 của toàn lưu vực đổ về. Trong đó, lượng theo các sông chính khoảng 320 tỷ m3, còn lại thì tràn đồng và theo hệ thống kênh rạch đổ ra sông chính. "Trong các trận lũ lớn, lượng nước lũ theo dòng chính chiếm khoảng 83,2 - 90,86% và tràn đồng khoảng 9,14 - 16,8%. Nước lũ tràn đồng là tác nhân chính gây ngập lụt cho vùng trũng Đồng Tháp Mười và Tứ giác Long Xuyên" [47, tr. 25]. Có nhiều nguyên nhân làm tác động đến mùa lũ ở vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long như: triều cường của thủy triều biển Đông, mùa mưa hàng năm, lũ thượng nguồn, chế độ mưa nội đồng, sự điều tiết của Biển Hồ, tác động khai phá thiên nhiên của con người... Trong đó, tác nhân chính tạo nên tính đặc trưng của mùa lũ ở vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long là: do địa hình đặc trưng của lưu vực sông Mêkông và lượng mưa hàng năm. Khởi nguồn từ cao nguyên Tây Tạng của Trung Quốc, đi qua các nước Trung Quốc, Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia vào Việt Nam và chảy ra biển Đông. Lưu vực sông MêKông có diện tích rộng (khoảng 795.000 km2), kéo dài (khoảng 4.200 km), trên một địa hình phức tạp có nhiều đồi núi cao, bị chia cắt bởi các thung lũng sông và thấp dần về phía hạ lưu. Lượng mưa bình quân toàn lưu vực khoảng 1.600 mm (có nhiều nơi có lượng mưa cao như: cao nguyên Boloven - Lào là 3.000 mm, Tây Trường Sơn là 2.000 - 3.000 mm), phân phối không đồng đều giữa các vùng đã tạo nên sự tập trung và tích tụ nước không đồng đều giữa các vùng làm cho lượng nước đổ về hạ lưu không ồ ạt nhưng kéo dài trong suốt mùa mưa. Kết hợp với lượng mưa tại chỗ, hai nguyên nhân trên đã tạo nên tính đặc trưng của mùa lũ ở vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long là tính chu kỳ, tốc độ chậm, tràn trên một diện rộng, không đột ngột, nhanh, mạnh như lũ ở miền Trung và miền Bắc. Nói một cách khác, đối với mùa lũ ở vùng châu thổ sông Cửu Long, con người có thể dự đoán một cách tương đối chính xác thời điểm lũ về, thời điểm lũ lớn nhất, thời điểm lũ rút… Tóm lại là nắm được quy luật hoạt động cơ bản nhất của lũ, các nhân tố còn lại chỉ có tác động làm cho lũ lớn hay nhỏ mà thôi. Với những đặc trưng riêng có như trên của mùa lũ ở đồng bằng sông Cửu Long ta cần phải có một tên gọi vừa thể hiện được đặc trưng đó, vừa thể hiện được tính lạc quan của việc chung sống trong mùa lũ mà cư dân vùng sông nước đã quen sống bao đời nay. Trên các phương tiện thông tin đại chúng hiện nay, từ lũ, lụt thường được dùng để chỉ mùa lũ chung cho các loại hình lũ, chỉ khác nhau là có thêm tên địa danh để phân biệt như: lũ ở sông Hồng, lũ ở miền Trung, lũ ở đồng bằng sông Cửu Long… Theo Đại từ điển tiếng Việt thì: Lũ (dt): "Hiện tượng nước dâng cao đầu nguồn, dồn vào dòng chảy, thường là rất mạnh, trong thời gian tương đối ngắn" [70, tr. 1055]. Lụt (dt): "Hiện tượng nước dâng cao tràn ngập cả một vùng rộng lớn do mưa lũ gây ra" [70, tr. 1066]. Cả hai khái niệm trên chỉ diễn tả được những tính chất chung nhất của lũ lụt nhưng không thể hiện được những đặc trưng cơ bản của mùa lũ ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Theo PGS.TS Trần Thanh Xuân thì: Thuật ngữ lũ chỉ hiện tượng nước sông dâng cao trong một khoảng thời gian nhất định, sau đó giảm dần. Trong mùa lũ, những trận mưa liên tiếp trên lưu vực sông (vùng hứng nước mưa và sinh dòng chảy) làm cho nước sông cũng từng đợt nối tiếp nhau dâng cao, tạo ra những trận lũ trong sông suối. Khi lũ lớn, nước lũ tràn qua bờ sông (đê) chảy vào những chỗ trũng và gây ra ngập lụt trên một diện rộng [69, tr. 7]. Các cách gọi như trên là đúng nhưng chưa đủ, để chỉ lũ ở đồng bằng sông Cửu Long thì chúng ta phải dùng cả cụm từ là "mùa lũ (lũ) ở châu thổ sông Cửu Long". Đây là cách gọi đúng và đủ nhưng mang nặng tính bi quan, thiên về những tác hại do lũ gây ra (lũ, lụt được ông cha ta từ xưa xếp vào một trong những thiên tai nguy hiểm nhất), bao hàm những ý nghĩa tiêu cực của những thiệt hại về tài sản, tính mạng không bao hàm được tính lạc quan trong chung sống với lũ. Vì thế, ta không thể dùng khái niệm lũ, lụt, hay lũ lụt để gọi chung cho mùa lũ ở đồng bằng sông Cửu Long. Theo Đại từ điển tiếng Việt thì: Mùa nước nổi: Mùa lũ ở châu thổ sông Cửu Long do nước sông Tiền và Hậu tràn bờ, làm ngập cả châu thổ với các độ sâu khác nhau và thời gian dài ngắn khác nhau khiến chỉ cấy được một vụ lúa nổi nhưng có tác dụng rửa mặn, xổ phèn, cả châu thổ có nước ngọt đưa vào một lượng phù sa đáng kể [70, tr. 1049]. Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam thì: Mùa nước nổi: mùa lũ ở châu thổ sông Cửu Long. Mùa nước nổi đưa về một khối lượng nước ngọt lớn, cùng với phù sa chi phối toàn bộ hoạt động nông nghiệp, chế độ canh tác, các hệ thống sản xuất ở châu thổ sông Cửu Long. Cảnh quan của châu thổ trong mùa nước nổi có những nét đặc trưng, cũng là mùa khai thác các loài thủy sản [25, tr. 959]. Như vậy, cách gọi mùa nước nổi là cách gọi vừa ngắn, diễn tả một cách đầy đủ nhất những đặc trưng riêng có của lũ ở đồng bằng sông Cửu Long vừa thể hiện tính lạc quan trong quá trình chung sống và chinh phục vùng đất này của cư dân nơi dây. Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa nhưng vùng đất Nam bộ nói chung và vùng đồng bằng sông Cửu Long nói riêng không phân biệt thành bốn mùa xuân, hạ, thu, đông rõ rệt hay có nắng nóng, mưa dầm, gió bấc như miền Bắc mà chỉ có hai mùa là mùa nắng và mùa mưa (tương ứng là mùa khô và mùa nước). Dân gian đồng bằng sông Cửu Long thường dùng câu nói "sáu tháng đạp đất đồng khô, nửa năm đi trên mặt nước" để hình dung một cách đơn giản về khí hậu của vùng đất mà cha ông đã khai phá. Và khi mùa nước nổi về, cư dân vùng đồng bằng sông Cửu Long lại tất bật chuẩn bị cho cuộc sống "đi trên mặt nước", tránh những tai họa, khai thác những nguồn lợi mà thiên nhiên mùa nước nổi mang lại cho họ; vẫn sinh sống, mua bán, trao đổi những vật phẩm khai thác được cũng như những hàng hóa thiết yếu cho cuộc sống... Mùa nước nổi là cách gọi truyền thống từ bao đời nay của người dân vùng sông nước, là cách gọi mang đầy tính lạc quan của những cư dân khai phá và sinh sống trên vùng đất này, thể hiện tinh thần chủ động chung sống với lũ theo hướng khai thác mùa lũ như là một trong những lợi thế để phát triển, từ đó tác động tích cực đến tư duy và các hoạt động cần thiết khác để cùng chung sống trong mùa nước nổi như: chủ động điều chỉnh lịch mùa vụ để hạn chế thấp nhất những thiệt hại do mùa nước nổi gây ra cũng như khai thác tốt nhất những lợi thế mà mùa nước nổi mang lại cho đồng bằng sông Cửu Long để xóa đói, giảm nghèo; triển khai các mô hình kinh tế hiệu quả cao trong mùa nước nổi để phát triển kinh tế... Chính vì thế, trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, tác giả sẽ dùng khái niệm mùa nước nổi để chỉ mùa lũ ở đồng bằng sông Cửu Long và cũng để thể hiện rõ mục đích nghiên cứu chính của luận văn là phân tích những lợi thế của mùa nước nổi trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở An Giang. 1.1.2. Một số khái niệm thường dùng trong phòng chống lũ lụt Có nhiều khái niệm được dùng trong phòng chống lũ lụt, trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, chúng ta chỉ tập trung tìm hiểu một số khái niệm thường dùng trong phòng chống lũ lụt có liên quan như: Điều tiết lũ là sử dụng các dung tích lớn như các hồ chứa, khu trũng... để phân bố lại dòng chảy lũ theo thời gian, tích nước khi có lũ, xã nước khi sông cạn kiệt. Điều khiển lũ là sử dụng các biện pháp công trình như đê bao ngăn lũ, kênh thoát lũ, cống điều tiết để phân bố lại dòng chảy lũ theo không gian. Kiểm soát lũ là khái niệm rộng hơn, trong đó chủ yếu là làm thay đổi hướng truyền lũ, thoát lũ (theo không gian), song cũng có phần phân bố lại lũ theo thời gian (như sử dụng một số dung tích trống, vùng trũng để làm chậm lũ, cắt lũ, trữ nước cuối mùa lũ [46, tr. 91]. Với cách hiểu như trên, điều tiết lũ là giải pháp phòng chống lũ theo thời gian, có tác dụng làm chậm tốc độ gia tăng của lũ trên phạm vi cả khu vực ngập; điều khiển lũ là giải pháp phòng chống lũ theo không gian, có thể làm giảm lũ ở vùng này và gia tăng lũ ở vùng khác, tránh hướng lũ vào những vùng có thể gây nhiều thiệt hại, đưa hướng lũ vào những vùng ít thiệt hại; Kiểm soát lũ là giải pháp tổng hợp của hai giải pháp điều tiết lũ và điều khiển lũ. Kiểm soát lũ là mục tiêu lâu dài không thể chỉ thực hiện trong phạm vi vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long mà phải có một chiến lược cấp vĩ mô liên quan đến các nước, nơi lưu vực sông đi qua, là cái đích cuối cùng mà các nhà hoạch định chính sách đang hướng tới. Hiện tại, các công trình phòng chống lũ ở đồng bằng sông Cửu Long mà chúng ta đang xây dựng là hệ thống những giải pháp nhằm từng bước kiểm soát lũ thông qua các kênh thoát lũ, cống, đê bao kết hợp giao thông… Với những đặc trưng riêng có của mình, mùa nước nổi có những tác động nhất định đến phát triển kinh tế - xã hội ở vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long nói chung và An Giang nói riêng. 1.2. LỢI THẾ CỦA MÙA NƯỚC NỔI TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 1.2.1. Mang một lượng phù sa lớn, màu mỡ bồi đắp cho đồng bằng sông Cửu Long Lưu lượng trung bình của sông Cửu Long là 10.700 m3/s, cao nhất vào mùa nước nổi là 53.000 m3/s, thấp nhất vào mùa kiệt là 2.000 m3/s. Hàm lượng phù sa của sông Cửu Long không cao như hàm lượng phù sa của sông Hồng nhưng do lưu lượng dòng chảy cao, khối lượng nước lớn nên tổng khối lượng phù sa của sông Cửu Long lên đến 150 triệu tấn/năm, gấp 7 - 8 lần tổng khối lượng phù sa của sông Hồng. Một phần phù sa theo nước tràn đồng, lắng đọng và bồi đắp cho ruộng đồng; một phần theo sông chảy ra cửa sông, bồi tụ cho những vùng ven biển. Chính sự bồi lắng của phù sa đã làm cho ruộng đồng luôn trù phú, màu mỡ, tiết kiệm nhiều chi phí trong trồng trọt, năng suất cao hơn, hiệu quả cao hơn. Quá trình chuyển tải và bồi lắng phù sa hay nói cách khác là khối lượng phù sa bồi đắp thực tế cho đồng bằng sông Cửu Long phụ thuộc nhiều vào vị trí vùng đất, các công trình kiểm soát lũ, bờ bao lũ, yếu tố dòng chảy... tuy nhiên, lượng phù sa bồi đắp cho đồng bằng sông Cửu Long hàng năm là khá cao và có chất lượng tốt hơn lớp đất cũ. "So với đất tại chỗ, phù sa bồi lắng giàu khoáng, lân, kali hơn, có tác dụng gia tăng độ tơi xốp, độ no bazơ và lượng lân tổng số trong đất" [46, tr. 143]. Riêng tại An Giang, theo kết quả nghiên cứu của dự án Bắc Vàm Nao - năm 2003, lượng phù sa phủ trên đồng ruộng tại An Giang là khoảng 80 tấn/ha, có chất lượng cao hơn lớp đất mặt trước lũ. Lượng phù sa bồi tích nhiều nhất ở điểm đặt khai số 1: 19092,2 g/m2; điểm số 4: 14314,4 g/m2; điểm số 8: 12585,5 g/m2; điểm số 22: 10851,0 g/m2; điểm số 23: 10734,4 g/m2; điểm số 19: 7696,4 g/m2; điểm có lượng thấp nhất là 1124,5 g/m2 - điểm số 5, lượng bồi tích trung bình: 7965,6 g/m2, như vậy có thể suy ra lượng phù sa phủ lên đồng ruộng trên 1 ha khoảng 80 tấn/ha . Thành phần hóa học của phù sa có ưu thế về "chất lượng" hơn so với thành phần phần hóa học đất ở tầng 0 - 5 cm trước lũ thể hiện rõ nét qua các chỉ tiêu pH, Ca2+, đạm dễ tiêu và lân tổng số [21, tr. 7-8]. Lượng phù sa mới, có chất lượng cao hơn lớp đất mặt được bồi đắp hàng năm do mùa nước nổi mang lại góp phần nâng dần độ cao cho vùng trũng của đồng bằng (Tứ giác Long Xuyên và Đồng Tháp Mười) và là một nhân tố chính làm cho đồng bằng sông Cửu Long luôn trù phú, làm tăng diện tích canh tác, tăng năng suất và tiết kiệm chi phí sử dụng phân bón. Bên cạnh tác dụng bồi đắp phù sa làm cho đồng bằng thêm màu mỡ, nâng dần độ cao của các vùng trũng... lưu lượng nước, độ dốc của dòng chảy còn có tác dụng to lớn đối với vùng châu thổ là ngăn chặn mặn xâm nhập sâu vào châu thổ sông Mêkông. Với tổng lượng lũ lớn, thời gian kéo dài cùng với độ dốc âm của lòng sông Tiền và sông Hậu tạo nên bức tường nước ngọt khổng lồ có tác dụng to lớn đối với việc ngăn chặn mặn xâm nhập vào sâu châu thổ Mêkông và giữ ngọt. Điều đó cũng có nghĩa là không nên nạo vét các cửa sông với hy vọng tăng khả năng thoát lũ [8, tr. 12]. Điều này cũng là một khuyến cáo đối với các nhà hoạch định chính sách là khi áp dụng các giải pháp đào kênh nhằm thoát lũ nhanh về phía biển Tây và làm thủy lợi phải gắn với việc quy hoạch một hệ thống cống, đập thích hợp nhằm đảm bảo thoát nước nhanh vào mùa nước nổi và giữ một mức nước thích hợp để tránh xâm mặn vào mùa kiệt. 1.2.2. Mang lại nguồn lợi thủy sản tự nhiên đa dạng, phong phú và là điều kiện thuận lợi cho nuôi trồng các loại thủy sản Thành phần loài cá vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long là khá phong phú và đa dạng, chủ yếu là cá nước ngọt, thuận lợi khai thác, đem lại nguồn lợi to lớn cho người dân trong vùng. Thành phần loài cá vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long khá phong phú với khoảng 183 loài thuộc 38 họ trong tổng số 267 loài cá thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long. Trong số này, có 122 loài hiện diện ở hạ lưu sông Mêkông thuộc địa phận Campuchia. Các loài chiếm ưu thế thuộc nhóm cá trắng bao gồm 9 họ (114 loài). Kế đến là nhóm cá nước lợ, gồm 19 họ (46 loài); nhóm cá đen là 8 họ (18 loài) và ít nhất là nhóm cá di cư có nguồn gốc từ biển bao gồm 3 họ (4 loài) [46, tr. 37-38]. Trong đó, có nhiều loài có giá trị kinh tế cao trong xuất khẩu như: cá tra, cá ba sa, cá bống tượng, cá lóc... Vào mùa nước nổi, cá từ sông, theo nước vào tìm mồi, sinh sống và sinh sản ở nội đồng - những vùng ngập nước vì những nơi đó vào mùa này có rất nhiều thức ăn và thuận lợi trong cư trú. Trong những tháng mùa nước, với những điều kiện thuận lợi trên, cá sinh sản và sinh trưởng nhanh tạo nên một trữ lượng cá tự nhiên nội đồng khá lớn. Khi nước rút, từ nội đồng, cá lại quay về sông và người dân rất dễ dàng đánh bắt bằng những biện pháp đơn giản như: làm đăng, đặt dớn, kéo lưới... mang lại nguồn lợi khai thác tự nhiên to lớn cho cư dân vùng ngập lũ. Cũng trong mùa nước nổi, lượng cá bột tự nhiên từ thượng nguồn theo nước đổ về đã góp phần hình thành những nghề như vớt cá bột, ươm cá giống, nuôi cá... Cư dân vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long đã sớm khai thác ưu thế được thiên nhiên ưu đãi về lượng nước, dòng chảy, nguồn cá bột tự nhiên... để nuôi trồng các loài thủy sản có giá trị xuất khẩu cao. Tuy nhiên, từ năm 1999 đến nay, khi ngành nghề nuôi trồng thủy sản phát triển mạnh, lượng con giống tự nhiên không đủ cung cấp và việc vớt cá bột ươm giống đã bị cấm theo pháp lệnh bảo vệ nguồn lợi thủy sản nên đã hình thành và phát triển nghề sinh sản con giống nhân tạo. Trong đó phát triển mạnh nhất là nuôi cá da trơn, chủ yếu là cá tra, ba sa… đã và đang là những thương hiệu hàng hóa có uy tín, và chiếm lĩnh được thị trường trong nước và trên thế giới. Bên cạnh đó, mùa nước nổi còn đem lại cho vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long một khối lượng nước ngọt lớn, trên một diện tích rộng hàng trăm ngàn ha, trong thời gian tương đối dài, có độ ngập nông sâu khác nhau tùy vùng đất, tạo nhiều điều kiện thuận lợi để khai thác diện tích mặt nước trên đồng cho nuôi nhiều loại thủy sản và trồng nhiều loại cây thủy sinh. 1.2.3. Tháo chua, rửa phèn, giảm dịch hại và độc chất trong đất làm sạch đất tạo điều kiện thuận lợi cho khai hoang, làm tăng diện tích đất nông nghiệp Do tác động của các yếu tố thiên nhiên, đất đai vùng đồng bằng sông Cửu Long có nhiều loại đất, khi nghiên cứu, các nhà khoa học thường phân chia thành 7 nhóm đất chính là đất phù sa, đất phèn, đất mặn, đất phèn mặn, đất phù sa cổ, đất than bùn, đất núi. Trong diện tích tự nhiên của vùng đồng bằng sông Cửu Long, các nhóm đất chiếm diện tích nhiều là: đất phù sa có diện tích khoảng 1.094.248 ha, có độ phì tự nhiên cao, thuận lợi cho nhiều loại cây trồng; đất nhiễm phèn có diện tích khoảng 1.054.342 ha, có độ chua của phèn, nồng độ độc tố nhôm cao, độ phì kém, đây._. là vùng đất đã và đang được tập trung khai phá nhằm tăng diện tích đất sản xuất; đất nhiễm mặn khoảng 809.034 ha, khó có khả năng ngọt hóa, chỉ có thể trồng được 1 vụ lúa (vào mùa mưa) và nuôi các loài hải sản. Bảng 1.1: Các nhóm đất chính ở đồng bằng sông Cửu Long Nhóm đất Diện tích (ha) Tỷ lệ (%) 1. Đất phù sa 1.094.248 28,91 2. Đất phèn 1.054.342 28,02 3. Đất mặn 890.034 21,38 4. Đất phèn mặn 631.443 16,98 5. Đất phù sa cổ 108.989 2,84 6. Đất than bùn 34.027 0,92 7. Đất núi 34.678 0,95 Nguồn: [51, tr. 38]. Vào mùa mưa, các đợt mưa đầu mùa làm hòa tan phèn tích lũy trong đất do sự ôxy hóa trong mùa khô. Lượng mưa càng nhiều kết hợp với lượng nước từ thượng nguồn đổ về làm loãng độ phèn và sau một thời gian dài ngâm nước, lượng nước có chứa phèn hòa tan theo hệ thống sông ngòi, kênh rạch và hệ thống thủy lợi thoát về hạ lưu, ra biển. Tác động này làm cho vùng đất nhiễm phèn nhẹ chuyển đổi từ sản xuất nông nghiệp một vụ vào mùa mưa sang sản xuất được hai vụ; chuyển đất nhiễm phèn nặng từ không sản xuất nông nghiệp được sang sản xuất một vụ và dần chuyển sang sản xuất hai vụ; đồng thời cũng gây nhiễm phèn trên một phần diện tích các thủy vực ven biển vào mùa mưa. Ta có thể nhìn thấy tác động tháo chua, rửa phèn của mùa nước nổi đối với vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long theo một quy trình chung nhất qua kết quả nghiên cứu sau: Bảng 1.2: Quá trình tháo chua, rửa phèn cho đất nhiễm phèn trong mùa nước nổi Thời điểm Đất phèn Nước Đầu mùa khô (I-II) Bắt đầu ôxy hóa. Độ chua gia tăng nhanh. Ít đến không chua sau thời gian dài ngâm lũ. Giữa đến cuối mùa khô (III-V) Độ chua ngày càng gia tăng, đạt cực điểm vào cuối mùa khô. Độ chua tăng dần theo quá trình tiêu nước vụ Đông xuân. Đầu mùa mưa (VI) Rửa trôi các ion vào môi trường nước. Độ chua vẫn cao vì khoáng chất bắt đầu bị công phá. Chua cực độ do dịch phèn đậm đặc hòa tan trong nước. Đầu mùa lũ (VII-VIII) Độ chua bắt đầu giảm. Độ chua vẫn còn cao. Giữa mùa lũ (IX-X) Độ chua giảm mạnh đến thấp nhất nhờ vào quá trình ngâm lũ. Độ chua bắt đầu giảm do lượng nước về nhiều và một phần nước phèn đã được tải về hạ lưu. Cuối mùa lũ (XI-XII) Đất ít chua. Nước ít chua nhất. Nguồn: [46, tr. 132]. Bên cạnh tác động tháo chua, rửa phèn, mùa nước nổi còn giúp rửa sạch những độc chất mà chủ yếu là dư lượng thuốc bảo vệ thực vật còn tồn đọng trên đồng ruộng trong quá trình sử dụng; thời gian ngập lâu cũng góp phần đáng kể vào việc giảm thiểu hay tiêu diệt các loài sâu bệnh có nguy cơ tiềm tàng trong lòng đất… 1.3. HẠN CHẾ CỦA MÙA NƯỚC NỔI ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Bên cạnh những lợi thế trên, mùa nước nổi cũng gây ra những tổn thất to lớn cho sản xuất, kết cấu hạ tầng, tài sản của nhân dân và Nhà nước, tính mạng của nhân dân nhất là trẻ em ở vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long, thiệt hại lên đến hàng ngàn tỷ đồng mỗi năm và làm tốn kém thêm công sức và hàng ngàn tỷ đồng để khắc phục. Trong khoảng 15 năm gần đây, liên tiếp có nhiều trận lũ lớn ở đồng bằng sông Cửu Long gây nhiều hậu quả nghiêm trọng, mà nguyên nhân chính là do những biến động bất thường của môi trường trái đất, sự tàn phá rừng nhất là rừng đầu nguồn, sự khai thác cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên phục vụ cho dân số và nhu cầu ngày càng tăng của con người, sự chủ quan của con người.... Lũ gây thiệt hại to lớn về tính mạng và tài sản của nhân dân, mỗi năm có hàng trăm người bị chết đuối (trong đó phần lớn là trẻ em, nguyên nhân chính là do sự bất cẩn của người lớn), hàng ngàn hộ dân phải di dời nhà, hàng trăm căn nhà bị hư hỏng...; các cơ sở hạ tầng y tế - trường học - cơ quan nhà nước bị ngập, xuống cấp nhanh, không sử dụng được...; các công trình thủy lợi, giao thông vận tải bị tàn phá... làm gián đoạn hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội bình thường của cư dân. Trong sản xuất nông nghiệp, lũ sớm đe dọa thu hoạch vụ lúa hè thu, gây mất trắng hay giảm chất lượng lúa do gặt ép (lúa còn chưa thật sự chín); lũ muộn làm chậm thời gian xuống giống vụ Đông - Xuân, làm mất tính thời vụ của vụ lúa. Làm ngập úng, giảm năng suất thậm chí làm chết các vườn cây ăn trái, cây công nghiệp khi nước vượt ngưỡng trung bình; phá vỡ hệ thống đê bao; một bộ phận không nhỏ nông dân có thời gian nông nhàn khá dài trong mùa nước nổi... Trong bảo vệ môi trường, chăm sóc sức khỏe cộng đồng, dòng nước mang hàm lượng phù sa lớn gây khó khăn trong xử lý nước sinh hoạt nhất là vùng nông thôn quen sử dụng nước sông là nước sinh hoạt chính; dòng nước bị ô nhiễm với chất thải, chất vi sinh, các hóa chất khác từ các vùng khác trên lưu vực chảy về; một số vùng, nước còn bị nhiễm phèn; tốn kém nhiều chi phí trong xây dựng nhà vệ sinh tự hoại; xử lý rác thải sinh hoạt... Những nguy hiểm trên nếu không có biện pháp phòng chống thích hợp, có thể sẽ là nơi phát sinh những "ổ dịch" lớn và nguy hiểm như: sốt xuất huyết, dịch tả … Ta có thể thấy tác hại của mùa nước nổi qua một số năm nước lớn (báo chí thường gọi là lũ lớn) như: năm 1994 (tương ứng mực nước 453 cm, tại trạm Tân Châu), làm cho 407 người chết, gây thiệt hại tài sản trị giá khoảng 2.284 tỷ đồng. Trận lũ năm 1996 (tương ứng mực nước 487 cm, tại trạm Tân Châu), làm cho 217 người chết, gây thiệt hại tài sản trị giá khoảng 2.182 tỷ đồng Trận lũ năm 2000 (tương ứng mực nước 506 cm, tại trạm Tân Châu), làm cho 453 người chết, gây thiệt hại tài sản trị giá khoảng 4.000 tỷ đồng. Trận lũ lịch sử năm 2000 là trận lũ lớn và gây thiệt hại nghiêm trọng nhất trong hơn 70 năm qua. Tính đến 5/11/2000, thiệt hại do lũ gây ra ở đồng bằng sông Cửu Long như sau: Bảng 1.3: Thiệt hại trong mùa nước nổi ở đồng bằng sông Cửu Long năm 2000 Thiệt hại Đơn vị tính Số lượng 1. Người chết/trẻ em Người 448/319 2. Số hộ bị ngập Hộ 865.166 3. Số trường/phòng học bị ngập Điểm /phòng 2.751/12.282 4. Số học sinh nghỉ học Học sinh 830.899 5. Trạm xá, bệnh viện bị ngập, hư hỏng Điểm 376 6. Đường giao thông bị ngập Km 11.010 7. Thiệt hại về thủy lợi - Sạt lở bờ bao, kênh M3 27.822.400 - Đê, bờ bao bị hư hại Km 1.470 - Cống, bộng, đập bị hư hại Cái 2.440 8. Thiệt hại về nông nghiệp Ha 330.266 Tổng trị giá thiệt hại Tỷ đồng 4.000 Nguồn: [52, tr. 10]. Qua phân tích lợi thế và hạn chế của mùa nước nổi đối với phát triển kinh tế - xã hội ở An Giang, chúng ta nhận thấy, mùa lũ đối với vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long có tác động hai mặt: tích cực và tiêu cực. Mặt tiêu cực, lũ gây thiệt hại to lớn trên nhiều mặt như: tính mạng, tài sản, thiệt hại cơ sở hạ tầng, gián đoạn các hoạt động kinh tế - xã hội... Mặt tích cực, lũ cũng mang đến những yếu tố sinh thái đặc trưng, những nguồn lợi về nước ngọt, phù sa, thủy sản... là những tiềm năng có thể khai thác để phát triển vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long. Nhận dạng được tính 2 mặt của mùa lũ ở vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long là một trong những nhân tố quan trọng cho việc hình thành những đối sách với lũ ở vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long. Chính tính đặc trưng riêng có này đã hình thành nên cách gọi mùa nước nổi để gọi mùa lũ ở vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long nhằm thể hiện tính lạc quan của cư dân trong quá trình khai phá vùng đất này cũng như nhấn mạnh đến những nguồn lợi tự nhiên được mang đến trong mùa nước nổi mà con người có thể khai thác được. Sông Mêkông là sông lớn, có lưu vực rộng, gắn chặt với môi trường tự nhiên, kinh tế và cả văn hóa của những quốc gia nơi lưu vực sông Mêkông chảy qua. Lũ ở lưu vực sông Mêkông nói chung và lũ ở đồng bằng sông Cửu Long nói riêng là một hiện tượng tự nhiên gắn liền với quá trình khai thác, hình thành và phát triển của vùng đồng bằng châu thổ sông Cửu Long. Đối sách với lũ ở vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long phải được tiếp cận từ quan điểm lịch sử, hợp quy luật, đặc điểm riêng, từ việc nhận dạng được tính hai mặt, là đặc trưng riêng có của mùa lũ ở vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long. Từ thế kỷ thứ 19, Ph. Ăngghen cũng đã chỉ ra rằng, con người có thể thống trị được giới tự nhiên không phải bằng cách chinh phục và đối đầu với giới tự nhiên mà phải tìm, nắm bắt và nhận thức được những quy luật của giới tự nhiên để phục vụ cho quá trình phát triển của loài người. … Và tất cả sự thống trị của chúng ta đối với giới tự nhiên biểu hiện ở chỗ là chúng ta có ưu thế hơn tất cả các sinh vật khác, nghĩa là chúng ta nhận thức được quy luật của giới tự nhiên và có thể sử dụng được những quy luật đó một cách chính xác. Và trên thực tế, chúng ta học hỏi để hiểu được một cách chính xác hơn những quy luật đó, và biết được những hậu quả gần gũi cũng như xa xôi của những sự can thiệp tích cực của chúng ta vào trong tiến trình bình thường của các sự vật trong giới tự nhiên [1, tr. 269-270]. Các kết quả nghiên cứu khoa học trong những năm gần đây cũng cho thấy bên cạnh những tác hại, lũ ở đồng bằng sông Cửu Long cũng mang lại nhiều lợi ích thiết thực mà nếu biết khai thác hợp lý vào quá trình phát triển thì đó sẽ chính là những tặng phẩm quý giá mà thiên nhiên đã ban cho vùng đất này. Vì thế, đối sách với lũ được chọn cho vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long là "không chống lũ triệt để như đồng bằng Bắc bộ, không xa lánh lũ, hãy chung sống hòa thuận với lũ một cách chủ động, ổn định và khai thác những lợi thế của lũ mang lại để phát triển", đây chính là là con đường đúng đắn và hiệu quả nhất cho vấn đề ổn định đời sống, phát triển kinh tế - xã hội ở vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long trong điều kiện có lũ hàng năm. Đối sách này có những đặc trưng cơ bản là: phải nắm được quy luật hoạt động tự nhiên của lũ để có được những dự báo lũ kịp thời và thích hợp; chủ động nghiên cứu để có đánh giá cơ bản về những diễn biến bất thường của lũ dưới tác động khai phá thiên nhiên của con người; phải có những giải pháp đồng bộ về quy hoạch cơ sở hạ tầng dần theo hướng kiểm soát lũ để hạn chế thấp nhất những thiệt hại do lũ mang lại; có những giải pháp tổng hợp về kinh tế - môi trường - văn hóa - xã hội thích hợp để khai thác có hiệu quả những lợi thế do lũ mang lại vào quá trình phát triển. Đối sách này được lựa chọn dựa trên những kinh nghiệm được đúc kết từ thực tiễn quá trình khai phá vùng đồng bằng sông Cửu Long của người dân Nam bộ; dựa trên những tiến bộ của khoa học kỹ thuật hiện đại giúp chúng ta có thể nắm bắt được quy luật vận động cơ bản của lũ, có thể dự báo tương đối chính xác diễn biến lũ...; dựa trên những công trình cơ sở hạ tầng điều khiển lũ và hướng tới mục tiêu lâu dài là kiểm soát lũ cho vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long, đã và đang được quy hoạch xây dựng nhằm giúp duy trì cuộc sống bình thường cho nhân dân trong mùa nước nổi... Các tác động trên đã giúp hạn chế thấp nhất những tác hại trong mùa nước nổi thì việc phát triển kinh tế - xã hội trong điều kiện chung sống trong mùa nước nổi như thế nào nhằm khai thác lợi thế mùa nước nổi cho phù hợp với điều kiện phát triển của từng địa phương là một vấn đề rất quan trọng và cần thiết. Chương 2 PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI TRONG MÙA NƯỚC NỔI Ở AN GIANG - NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA 2.1. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, KINH TẾ, XÃ HỘI CỦA AN GIANG 2.1.1. Vị trí địa lý An Giang là tỉnh nằm phía Tây Nam của Việt Nam, nằm giữa sông Tiền và sông Hậu, có tọa độ từ 100 đến 110 và 104,70 đến 105,50 kinh Đông, phía đông giáp tỉnh Đồng Tháp, phía tây giáp tỉnh Kiên Giang, Cần Thơ, phía bắc giáp Campuchia. Có đường biên giới Việt Nam - Campuchia dài gần 100 km với hai cửa khẩu quốc tế là Tịnh Biên (thuộc huyện Tịnh Biên) và Vĩnh Xương (thuộc huyện Tân Châu); một cửa khẩu quốc gia là Khánh Bình (thuộc huyện An Phú). Diện tích toàn tỉnh là 3.424 km2 với 11 đơn vị hành chính là: thành phố Long Xuyên, thị xã Châu Đốc, 9 huyện là An Phú, Châu Phú, Châu Thành, Chợ Mới, Phú Tân, Thoại Sơn, Tri Tôn, Tịnh Biên, Tân Châu với 150 xã, phường, thị trấn. Trung tâm hành chính, kinh tế, văn hóa của tỉnh là thành phố Long Xuyên. So với các tỉnh trong khu vực, An Giang là tỉnh có đặc trưng riêng biệt như: có đồng bằng (trên 70% diện tích là đất phù sa hoặc có nguồn gốc phù sa do bồi đắp hàng năm), có núi, có rừng, có tài nguyên khoáng sản và nhiều di tích văn hóa lịch sử... giúp tỉnh có thể phát triển một nền kinh tế tương đối đa dạng. Căn cứ vào địa lý kinh tế tự nhiên, An Giang hình thành hai vùng rõ rệt: Vùng đất cù lao nằm giữa sông Tiền và sông Hậu chiếm 30% diện tích, thuộc địa giới hành chính của 4 huyện cù lao: An Phú, Tân Châu, Phú Tân, Chợ Mới là vùng đồng bằng rất thuận lợi cho phát triển nông nghiệp. Vùng tứ giác Long Xuyên nằm ở phía Tây sông Hậu, chiếm 70% diện tích của tỉnh. Vùng này được chia thành hai tiểu vùng: đồng bằng và núi. Vùng núi ngoài những khối núi lớn, có tiềm năng về khoáng sản, vật liệu xây dựng, nguồn nước khoáng... còn có triển vọng phát triển du lịch với nhiều danh lam thắng cảnh, di tích văn hóa lịch sử. Tóm lại, An Giang nằm ở cửa ngõ Tây Nam của đất nước, cửa ngõ quan trọng có tuyến đường thủy, đường bộ quốc tế quan trọng nối Campuchia, Lào, Thái Lan với đồng bằng sông Cửu Long và biển Đông. Vị trí địa lý này là một điều kiện thuận lợi lớn cho tỉnh phát triển một nền kinh tế thị trường đa dạng nhất phát triển kinh tế thương mại với Campuchia và các nước ASEAN đất liền, mở rộng giao lưu kinh tế với bên ngoài; phát triển mạnh một số ngành du lịch, vận tải và gia công chế biến. 2.1.2. Tài nguyên thiên nhiên Tài nguyên đất: An Giang có 37 loại đất khác nhau, hình thành 6 nhóm đất chính, trong đó chủ yếu là đất phù sa 151.600 ha chiếm 44,5% diện tích đất tự nhiên, đất phù sa có phèn 93.800 ha chiếm 27,5%, nhóm đất phát triển tại chỗ và phù sa cổ 24.700 ha chiếm 7,3%, còn lại là các nhóm đất khác. Trên 70% diện tích đất là đất phù sa hoặc đất có nguồn gốc phù sa do bồi đắp hàng năm, địa hình bằng phẳng, thích nghi đối với nhiều loại cây trồng. Tài nguyên rừng: An Giang có trên 583 ha rừng tự nhiên, là rừng ẩm nhiệt đới, đa số là cây lá rộng với 154 loài cây quý hiếm thuộc 54 họ. Năm 2000, đất rừng là 12.443 ha và 30.500 ha diện tích cây phân tán, theo kế hoạch, dự kiến đến năm 2005 sẽ phát triển được 15.755 ha đất rừng và 50.000 ha cây phân tán. Rừng tập trung chủ yếu ở vùng Bảy Núi, tạo nhiều phong cảnh đẹp, có giá trị môi sinh, bảo vệ nguồn gen quý hiếm nhiều hơn là kinh tế... Tài nguyên thủy sản: Nguồn lợi thủy sản tự nhiên trên sông Tiền và Hậu là rất lớn, tuy nhiên do sự gia tăng dân số và sự khai thác không định hướng trong một thời gian dài làm cho nguồn thủy sản tự nhiên không còn phong phú như trước. Chế độ nước tự nhiên và hệ thống kênh, rạch, ao, hồ đã tạo ra những điều kiện thuận lợi cho phát triển nghề nuôi trồng thủy sản (đặc biệt là nuôi cá bè) trở thành nghề truyền thống của nhân dân địa phương - thế mạnh đặc trưng của An Giang. Trong những năm gần đây, nuôi trồng thủy sản nhất là cá basa, cá tra, tôm, cá rô phi đơn tính... là những mặt hàng xuất khẩu chủ lực, chỉ đứng sau gạo và ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong GDP và cơ cấu xuất nhập khẩu của An Giang. Phát triển mạnh nghề nuôi trồng thủy sản không chỉ tạo thế mạnh xuất khẩu với hàng hóa chủ lực, tăng GDP mà còn góp phần nâng cao mức sống cho một bộ phận không nhỏ dân cư... Bảng 2.1: Hiện trạng nuôi trồng và khai thác thủy sản năm 2000 - 2004 ở An Giang Năm 2000 2001 2002 2003 2004 1. Diện tích nuôi trồng 1.252,21 1.252,11 1.787,77 1.560,90 1.896,35 - Tôm (ha) 5,50 235,44 282,88 370,10 560 - Cá (ha) 1.209,44 983,7 1.464,63 1.101,30 1.217,15 - Bè (cái) 3.086 3.237 4.053 3.178 3.504 2. Sản lượng (tấn) - Cá 148.633 156.291 169.946 187.631 196.507 - Tôm 91,4 265 390 523 713 - Khác 22.670 23.657 20.324 16.135 15.517 - Chia ra: Nuôi trồng 80.156 83.643 111.599 136.825 154.675 Khai thác 91.268 96.570 79.061 67.473 58.062 3. Giá trị sản xuất (tr.đồng) 1.231.466 1.351.263 1.612.583 1.764.713 2.329.128 - Nuôi trồng 840.939 907.351 1.271.530 1.340.966 1.929.917 - Khai thác 352.693 368.298 294.856 363.424 329.267 - Dịch vụ thủy sản 37.835 39.614 46.196 60.323 69.944 4. Trị giá xuất khẩu (1000USD) 23.801 34.407 62.502 52.448 124.841 - Sản lượng xuất khẩu (tấn) 5.645 12.538 24.430 23.155 40.410 Nguồn: [20]. Tài nguyên nước: Với lượng mưa bình quân hàng năm là 1.418 mm, lượng nước do sông Tiền và sông Hậu cung cấp là nguồn nước mặt và trữ lượng nước ngầm dồi dào đủ cho phát triển nông nghiệp, công nghiệp và sinh hoạt cho dân cư trong vùng cả trong mùa khô. Vào mùa nước nổi, với một diện tích ngập nước có thể khai thác cho nuôi thủy sản, trồng những hoa màu đặc trưng trong mùa nước nổi khoảng trên 200.000 ha. Tài nguyên khoáng sản: So với các tỉnh khác trong vùng, An Giang có nguồn tài nguyên khoáng sản khá phong phú với trữ lượng ước tính như sau: đá granit trên 7 tỷ m3, đá cát kết trên 400 triệu m3, sét gạch ngói 40 triệu m3, cao lanh 2,5 triệu tấn, vỏ sò trên 30 triệu m3... là lợi thế của An Giang so với các tỉnh trong khu vực nhất là cho việc sản xuất vật liệu phục vụ cho nhu cầu xây dựng. Tóm lại, lợi thế so sánh của An Giang về tài nguyên thiên nhiên thể hiện tập trung trên ba lĩnh vực: sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, có tiềm năng về khoáng sản. Trong sản xuất nông nghiệp, tăng nhanh số lượt vòng quay của đất kết hợp với chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn theo hướng tích cực, đẩy mạnh công nghệ sau thu hoạch... để nâng cao chất lượng sản phẩm và hiệu quả sử dụng đất giúp cho An Giang trở thành một trong những tỉnh dẫn đầu về sản lượng lương thực trên toàn quốc. Trong nuôi trồng thủy sản, việc đầu tư phát triển mạnh nghề nuôi cá theo hướng công nghiệp kết hợp các yếu tố giữ gìn môi trường sinh thái và an toàn thực phẩm, đảm bảo chất lượng sản phẩm đạt tiêu chuẩn Việt Nam và quốc tế, giúp cho sản phẩm thủy sản xuất khẩu của An Giang chiếm tỷ trọng tương đối lớn so với các tỉnh trong khu vực và là một trong những tỉnh cung cấp nguồn nguyên liệu chế biến thủy sản xuất khẩu cho các tỉnh bạn. 2.1.3. Điều kiện kinh tế Từ một tỉnh thuần nông, cơ cấu kinh tế của An Giang đã dần chuyển đổi theo hướng tích cực. Tỷ trọng khu vực I ngày càng giảm, tỷ trọng của khu vực II và III ngày càng tăng lên. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân thời kỳ 1985 - 2004 là 11,7%. Khu vực I từ 53,6% (năm 1995) giảm xuống còn 41,6% (năm 2000) và 37,9% (2004), dự kiến giảm còn 35,2% vào 2005; khu vực II từ 11% (năm 2000) tăng lên 12% (2004), dự kiến năm 2005 tăng lên 12,4%; khu vực III từ 34,7% (năm 1995) tăng lên 47,3% (năm 2000) và 50,1% (2004), dự kiến tăng lên 52,4% vào 2005. Trong khu vực I, từ cơ cấu độc canh cây lúa đã chuyển sang cơ cấu kinh tế nông nghiệp tổng hợp như: lúa - màu - lúa, lúa - màu - màu, lúa - cá, lúa - cá (tôm) chân ruộng... làm tăng hiệu quả sử dụng đất. Bảng 2.2: Tổng sản phẩm quốc nội trên địa bàn và cơ cấu kinh tế Năm 2000 2001 2001 2003 2004 1. GDP trên địa bàn (triệu đồng) 9.472.151 10.069.233 11.778.830 13.233.906 15.603.802 - Khu vực I 3.937.257 4.016.145 4.695.797 5.151.532 5.913.355 - Khu vực II 1.057.920 1.230.773 1.475.638 1.647.296 1.896.763 - Khu vực III 4.476.974 4.822.315 5.670.395 6.435.078 7.820.684 2. Cơ cấu (%) - Khu vực I 41,6 39,9 39,9 38,9 37,9 - Khu vực II 11,2 12,2 12,5 12,4 12,0 - Khu vực III 47,3 47,9 47,6 48,6 50,1 3. Bình quân đầu người (1.000đ/người) 4.560 4.796 5.533 6.165 7.190 Nguồn: [20]. Về xuất nhập khẩu, năm 2004 tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 260 triệu USD, dự kiến năm 2005 đạt khoảng 300 triệu USD, kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người đạt 120 USD. Mặt hàng xuất khẩu chủ lực của tỉnh là thủy sản (48%), gạo (36%), còn lại là các ngành hàng khác. An Giang đã có quan hệ mua bán với gần 60 quốc gia, chất lượng các mặt hàng xuất khẩu càng được nâng cao và đã tạo được uy tín trên thị trường thế giới. Thương mại được mở rộng từ thành thị đến nông thôn, từ trong nước ra ngoài nước, cơ sở hạ tầng thương mại được đầu tư phát triển nhất là các chợ ở trung tâm thị trấn, các chợ biên giới, cửa khẩu. Tổng mức bán lẻ hàng hóa năm 2004 đạt 12.651 tỷ đồng. Ngành du lịch đã đầu tư mở rộng và xây dựng mới nhiều điểm du lịch gắn kết chặt với những cảnh quan thiên nhiên nhiên và những di tích văn hóa lịch sử, thu hút trên 2 triệu lượt khách mỗi năm, mang lại doanh thu khoảng 70.450 tỷ đồng (năm 2004). 2.1.4. Những vấn đề xã hội Phong trào khai hoang, phục hóa, đổi mới chính sách trong nông nghiệp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giúp vốn giải quyết việc làm... đã giải quyết cho việc làm và tạo thu nhập cho hàng trăm ngàn lao động, hàng ngàn hộ vươn lên thoát nghèo. Mức sống của nhân dân được nâng lên, bình quân thu nhập trên đầu người đạt 500USD; số hộ nghèo từ 10,6% năm 1996 giảm còn 4,96% năm 2003 và 4,5% năm 2004 (20.430 hộ); nhà ở kiên cố và bán kiên cố chiếm 32%... Mạng lưới y tế được quan tâm phát triển, hiện toàn tỉnh có 17 bệnh viện, 12 phòng khám đa khoa khu vực, 150 trạm y tế xã phường (đều có bác sĩ), tổng số 4.200 giường bệnh, đạt tỷ lệ 9,1 bác sĩ và 18,4 giường bệnh trên 10.000 dân, tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng giảm còn 27,6%. Năm 2000, tỉnh đã được công nhận đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học, năm 2003 hoàn thành chương trình xóa mù chữ, 45,33% xã, phường đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở. Hệ thống trường lớp ngày càng tăng nhanh về số lượng lẫn chất lượng. Năm học 2004 - 2005, toàn tỉnh hiện có 144 trường mẫu giáo với 1.192 lớp và có 35.989 học sinh; hệ phổ thông có 598 trường, 8.239 phòng học và có 375.302 học sinh. Tỉnh hiện có 3 trường trung học chuyên nghiệp, 1 trường dạy nghề và 1 trung tâm giáo dục thường xuyên cấp tỉnh. Đặc biệt, trường Đại học An Giang được thành lập đã nhanh chóng phát triển, hòa nhập vào mặt bằng phát triển chung của khu vực, thực sự trở thành trung tâm đào tạo, cung cấp đội ngũ cán bộ trẻ, có trình độ chuyên môn cao cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa tỉnh nhà. Dân số An Giang là 2.049.000 người vào năm 1999, đến năm 2004 là 2.200.000 người, mật độ dân số khoảng 646 người/km2, dân số thành thị khoảng 26,6%. Có 4 dân tộc chủ yếu: người Kinh chiếm 91% dân số, Hoa 5%, Khơme 4,3% và Chăm khoảng 0,6%. Số người trong độ tuổi lao động so với dân cư khoảng 61%. Tốc độ tăng dân số ngày càng giảm, từ 2,1% năm 1990 giảm xuống còn 1,39% năm 2004. Trình độ dân cư từng bước được nâng cao nhưng vẫn còn thấp so với mặt bằng chung của khu vực và cả nước, lực lượng lao động dồi dào nhưng chất lượng còn thấp, lao động có kỹ năng còn thiếu; lao động phần nhiều là thuần nông chưa quen với tác phong công nghiệp, chưa qua đào tạo... là những khó khăn lớn cho quá trình phát triển của tỉnh. 2.1.5. Cơ sở hạ tầng Đầu tư xây dựng phát triển không ngừng gia tăng, ước thực hiện năm 2003 đạt 7.410 tỷ đồng, trong đó huy động vốn trong lỉnh trên 63%. Đầu tư xây dựng cơ bản được tỉnh quan tâm là trong thủy lợi, giao thông nông thôn, điện, các công trình phúc lợi khác. Quan điểm chung là xây dựng hệ thống thủy lợi, thoát lũ kết hợp phát triển giao thông và xây dựng nông thôn tạo điều kiện cho nhân dân chung sống an toàn trong mùa nước nổi . Phương thức đầu tư là vốn ngân sách và có chính sách huy động vốn nhàn rỗi trong dân, Nhà nước và nhân dân cùng làm. Giai đoạn 1990 - 2004 đã tôn cao, mở rộng đường lộ nông thôn với chiều dài 2.002 km, trong đó: nhựa hóa 600 km, bê tông hóa 400 km, xây mới và nâng cấp 891 cầu giao thông nông thôn... tạo điều kiện cho ôtô đến được trung tâm xã, thuận lợi cho giao lưu trong xã hội (nhân dân đóng góp khoảng 77% tổng kinh phí, tương đương 1.208 tỷ đồng). Hệ thống điện, nước nông thôn cũng được chú trọng đầu tư, tiêu chí đánh giá là tỷ lệ hộ được thụ hưởng. Đến nay, 95% hộ được sử dụng lưới điện quốc gia; 80% hộ được dùng nước sạch (không tính các hộ vào sinh sống trong các cụm, tuyến dân cư chưa được xây dựng đồng bộ). Bên cạnh đó, việc triển khai thực hiện Quyết định 99/TTg của Thủ tướng Chính phủ tại An Giang đã đạt kết quả như sau: Tính đến 10/12/2004 An Giang đã triển khai xây dựng 177/178 cụm, tuyến dân cư và đã hoàn thành được 159 cụm, tuyến. Cho vay vốn tôn nền nhà vượt lũ và làm nhà sàn cho 97.000 hộ với số tiền 465 tỷ đồng. Nâng cấp 2.631 km đường giao thông đạt cao trình đỉnh lũ Tân Châu 5m, trong đó có 2.382 km đường giao thông nông thôn. Đến tháng 10/2002 đã xây dựng được 3.369 phòng học, 10 trung tâm có cao trình vượt mức nước 5,0 m tại Tân Châu. Dự kiến đến cuối năm 2005 sẽ xây mới thêm 1.500 phòng học, đảm bảo việc học tập bình thường trong mùa nước nổi cho học sinh. Hệ thống cơ sở hạ tầng trên đã góp phần tích cực trong phát triển kinh tế - xã hội, trong việc giảm thiểu những thiệt hại về người và của trong mùa nước nổi như: đảm bảo giao thông nông thôn thông suốt trong mùa nước nổi; các điểm trường không ngập nước và không có học sinh phải nghỉ học trong mùa nước nổi (nếu mùa nước nổi năm 2000 có 462 điểm trường bị ngập, 130.758 học sinh phải nghỉ học thì từ mùa nước nổi năm 2003 đến nay, chỉ có 38 điểm trường bị ngập sân và không có học sinh phải nghỉ học); việc chung sống trong mùa nước nổi của người dân ngày càng trở nên an toàn hơn (nếu mùa nước nổi năm 2000 có 14.817 hộ phải di dời tránh lũ, 134 người chết thì đến năm 2004 chỉ có 1.989 hộ phải di dời và chỉ có 16 người chết)… Đây chính là một trong những yếu tố quyết định đảm bảo sinh hoạt bình thường và chung sống an toàn của nhân dân trong mùa nước nổi, tạo tiền đề quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội trong mùa nước nổi ở An Giang. 2.1.6. Chế độ thủy văn mùa nước nổi Nằm ở vị trí trung tâm của hạ lưu lưu vực sông Mêkông, là một trong những tỉnh đầu nguồn, ngoài những ảnh hưởng chung của chế độ thủy văn toàn vùng, chế độ thủy văn trong mùa nước nổi ở An Giang có ba đặc trưng khác biệt có tác động đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội như sau: Mực nước đầu mùa ở Tân Châu thường đạt 3,50 m vào sau tháng 7 nên phải bố trí thu hoạch vụ lúa hè thu dứt điểm trước cuối tháng 7 để đảm bảo an toàn và tránh lũ đầu mùa. Khi mực nước tại Tân Châu đạt 4 m thì đa phần diện tích đất nông nghiệp của tỉnh bị ngập. Khi mực nước lớn nhất trong năm thì các huyện thượng nguồn có độ ngập từ 3 m - 4 m, các huyện hạ nguồn ngập từ 1,50 m - 2m. Thời gian bắt đầu và kết thúc của mùa nước nổi khá dài, dao động từ 4 đến 7 tháng, có tác động xấu đến mùa vụ nhưng thuận lợi cho nuôi trồng thủy sản. Từ đặc trưng trên ta nhận thấy, các yếu tố như: tính thời vụ và cơ cấu mùa vụ và thời gian bắt đầu và kết thúc của mùa nước nổi có vai trò quan trọng trong chương trình phát triển kinh tế - xã hội ở An Giang trong mùa nước nổi (điều này sẽ được phân tích ở những tiết sau). 2.2. NHỮNG KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU TRONG THỰC HIỆN CHỦ TRƯƠNG CHỦ ĐỘNG CHUNG SỐNG TRONG MÙA NƯỚC NỔI Ở AN GIANG Trước hiện trạng ảnh hưởng của lũ, trên cơ sở những định hướng quy hoạch lũ, phương hướng phát triển kinh tế - xã hội các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, Chính phủ đã ban hành một hệ thống chính sách đồng bộ cho chương trình chung sống với lũ ở đồng bằng sông Cửu Long, trong đó có các quyết định quan trọng, có tác động thúc đẩy nhanh quá trình phát triển của đồng bằng sông Cửu Long nói chung và vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long nói riêng. Mục tiêu chính của các chính sách này là nhằm đảm bảo an toàn tính mạng nhân dân, bảo vệ tài sản, ổn định đời sống, phát triển cơ sở hạ tầng, đảm bảo an ninh quốc phòng, góp phần phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bằng sông Cửu Long theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Các chính sách đồng bộ trên nhằm từng bước xây dựng hoàn thiện một chương trình kiểm soát lũ ở vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long theo hướng khai thác tiềm năng giàu có của vùng đất này. Các chương trình trên đã phát huy tác động tích cực, có tác động to lớn đến ổn định đời sống nhân dân, tác động toàn diện cơ sở hạ tầng - giao thông - thủy lợi, từ đó tác động tích cực đến kinh tế - xã hội vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long nói riêng và cả vùng châu thổ sông Cửu Long nói chung. Có thể nhận định tổng thể sau 5 năm 1996 - 2000 thực hiện Quyết định 99/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, bức tranh đồng bằng sông Cửu Long đã thay đổi to lớn, toàn diện cơ sở hạ tầng, kinh tế - xã hội, cảnh quan môi trường [8, tr. 11]. Đối với An Giang, các công trình của Trung ương và các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng của tỉnh đã có tác động tích cực đến việc ổn định kinh tế - xã hội, đảm bảo an toàn tính mạng và tài sản của nhân dân trong mùa nước nổi... hay nói cách khác, các công trình trên đã mang lại hiệu quả rõ rệt trong việc giảm thiểu những thiệt hại trong mùa nước nổi hàng năm. Bảng 2.3: So sánh mực nước và một số chỉ tiêu thiệt hại cơ bản trong mùa nước nổi ở An Giang Năm 1996 2000 2001 2002 2003 2004 1. Mực nước (tại Tân Châu) 4,86 5,06 4,78 4,82 4,06 4,41 2. Tổng thiệt hại (tỷ đồng) 338 842 172 79 4 10,3 3. Học sinh nghỉ học 188.422 130.758 34.179 8000 Không không 4. Số người chết/trẻ em 35/32 134/94 135/104 54/50 6/6 19/15 5. Nhà ngập, di dời... 120.808 167.650 33.471 22.130 616 2.624 Nguồn: [20], [63], [64], [65], [66], [67]. Từ bảng trên ta nhận thấy: Nếu bỏ qua trận lũ lịch sử năm 2000 (lớn nhất trong hơn 70 năm qua ở đồng bằng sông Cửu Long) thì với mực nước tương đương năm 1996 (mực nước năm 1996 được lấy làm chuẩn để tính toán cao trình của các công trình xây dựng phục vụ cho chung sống với lũ ở vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long), tổng thiệt hại trong mùa nước nổi của năm 2001 và 2002 thấp hơn nhiều lần so với năm 1996 (riêng năm 2003 là năm nước về muộn và thấp hơn mức trung bình các năm nên thiệt hai là không đáng kể). Một số chỉ tiêu qua trọng như: nhà di dời, bị ngập càng giảm, tính "an cư" trong đời sống cư dân dần được thể hiện rõ; học sinh phải nghỉ học trong mùa nước nổi ngày càng giảm và từ 2003 không có học sinh phải nghỉ học trong mùa nước nổi... Điều này cho ta thấy rằng: với mức nước tương đương với mức nước năm 1996, thiệt hại trong mùa nước nổi từ sau năm 2000 đến nay ở An Giang đã giảm dần, đây là tiền đề cần thiết cho việc hoạch định một chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong mùa nước nổi, là một bước tổng kết thực tiển nhằm khai thác tối đa lợi thế của hệ thống các công trình thủy lợi, giao thông nông thôn và các công trình cơ sở hạ tầng khác cũng như các lợi thế tự nhiên của mùa nước nổi vào quá trình phát triển kinh tế - xã h._.suất tôm có tương quan với mật độ nuôi. Điều này cho thấy với tỉ lệ sống của tôm thấp nên người dân phải thả mật độ cao để bù vào khoảng hao hụt nhằm duy trì năng suất tôm. Kết quả này cũng phù hợp với kết quả khảo sát của Nguyễn Thanh Phương (2004) là tỉ lệ sống của tôm càng xanh trong ruộng lúa ở An Giang thấp khoảng 32,7 ± 12%. 2.4. Hiệu quả sản xuất 2.4.1 Hiệu quả kinh tế của mô hình Kết quả phân tích cho thấy có khoảng 55% số hộ nuôi tôm có lời, còn lại là lỗ vốn (Bảng 3) và tỷ lệ này cao hơn so với kết quả khảo sát của phòng Xây dựng và Phát triển nông thôn huyện (2003). Tổng chi phí đầu tư cho mô hình nuôi tôm rất cao (khoảng 44,3 ± 28,2 triệu đồng/ha/vụ), nhưng lợi nhuận của mô hình thấp (22 ± 36 triệu đồng/ha) nên hiệu quả sử dụng đồng vốn thấp (0,5 ± 1,84). Điều này cho thấy nuôi tôm trên ruộng lúa rủi ro khá cao có lẽ còn tùy thuộc nhiều vào kỹ thuật nuôi của nông dân. Trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến hiệu quả của mô hình nuôi tôm như: mật độ tôm nuôi cao, thức ăn và cách quản lý môi trường nuôi chưa tốt nên tôm kém phát triển hoặc tỷ lệ sống thấp và chi phí đầu tư thức ăn cao. Theo kết quả nghiên cứu của Phan Hồng Cương (2002) thì nguyên nhân dẫn đến tỉ lệ sống của tôm thấp là do thiếu giống nên nông dân phải thả giống nhiều lần giống không đồng nhất. Cũng theo tác giả thì nuôi tôm bằng thức ăn tươi sống (cua, ốc) cho kết quả sinh trưởng tốt nhưng ruộng nuôi tích tụ nhiều chất hữu cơ ở nền đáy dẫn đến hàm lượng dinh dưỡng như đạm N-NH4, PO43-, COD, H2S trong nước tăng tương đối cao sẽ gây ảnh hưởng bất lợi đến sự phát triển của tôm. Do đó, cần có những giải pháp kỹ thuật có thể cải thiện để nâng cao hiệu quả của mô hình như: cải thiện thức ăn tự chế và phương pháp cho ăn để từng bước kết hợp với thức ăn công nghiệp, giảm hệ số thức ăn, giảm ô nhiễm môi trường nước từ đó giảm chi phí sản xuất. Ngoài ra, cần điều chỉnh mật độ nuôi hợp lý và quản lý môi trường nuôi tốt hơn nhằm nâng tỉ lệ sống và năng suất tôm nuôi Bảng 3. Hiệu quả kinh tế mô hình nuôi tôm trong ruộng lúa mùa lũ 2004, tại xã Phú Thuận, huyện Thoại Sơn (Đơn vị tính: triệu đồng/ha/vụ) Diễn giải Trung bình (n=20) Độ lệch chuẩn Tổng chi (A) 44.330 28.192 Nạo vét và vệ sinh ao 2.000 2.779 Máy, liều trại, vải bạc, sàn ăn 1.051 1.433 Chi phí vật tư 37.785 34.829 Vôi 843 676 Phân bón 34 94 Dây thuốc cá 247 396 Thuốc trị bệnh tôm 1.371 1.754 Chi phí các loại thuốc khác 562 1.016 Chi phí giống 8.386 5.932 Chi phí thức ăn 24.701 23.112 Bơm nước 1.642 1.847 Chi phí dịch vụ 278 550 Điện thấp sáng 65 164 Điện thoại 8 35 Nước đá 18 35 Đi lai và vận chuyển 187 316 Chi phí lao động 3.148 3.421 Chi phí lao động gia đình 1.643 1.409 Chi phí thuê lao động 1.506 2.012 Chi phí khác 66 197 Tổng thu (B) 66.352 40.192 Lợi nhuận (C = B-A) 22.022 36.106 Tỷ lệ lời/vốn (C/A) 0,50 1,84 2.4.2 Lợi ích và những trở ngại của mô hình nuôi tôm trên ruộng lúa Mô hình nuôi tôm trên ruộng lúa trong mùa lũ đã tạo thêm việc làm; bao gồm những người trực tiếp nuôi và người tham gia gián tiếp qua các hoạt động dịch vụ như cung cấp thức ăn, thú y thủy sản và lĩnh vực chế biến. Theo báo cáo của phòng Xây dựng và PTNT huyện Thoại Sơn (2003) với diện tích nuôi tôm trên 322 ha đã giải quyết được việc làm cho khoảng 170 lao động trong vùng với mức thu nhập từ 0,3 đến 0,5 triệu đồng/người/tháng. Ngoài ra còn giúp các hộ nghèo bắt ốc bươu vàng bán cho các hộ nuôi tôm trong thời gian 6 tháng mùa lũ với mức thu nhập bình quân 15.000 đồng/người/ngày. Trở ngại của mô hình nuôi tôm trên ruộng lúa là diện tích nuôi/hộ phải đủ lớn (trên 1 ha), ảnh hưởng nước cỏ sau vụ Thu đông (tháng 8-9), nguồn giống nhân tạo của tỉnh chỉ đáp ứng 1/3 nhu cầu sản xuất ở địa phương và thu hoạch đồng loạt làm giá tôm giảm mạnh. Hơn nữa, thức ăn chính cho tôm là ốc bươu vàng nếu nguồn thức ăn này giảm thì lợi nhuận của mô hình sẽ giảm do các nguồn thức ăn khác chi phí cao. Ngoài ra, xen kẽ giữa tôm với lúa Thu Đông nên ảnh hưởng của dư lượng thuốc bảo vệ thức vật và ô nhiễm nguồn nước đến tôm nuôi. 3. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ Mặc dù mô hình nuôi tôm có rủi ro cao do qui trình nuôi chưa ổn định nhưng đã mang lại hiệu quả kinh tế cho người dân, phù hợp với việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, đa dạng hóa sản phẩm nông nghiệp. Mô hình này cũng góp phần giải quyết việc làm tăng thu nhập cho một số hộ nghèo không có đất sản xuất. Xã Phú Thuận, huyện Thoại Sơn có điều kiện tự nhiên thuận lợi phù hợp cho việc thực hiện mô hình lúa - tôm. Năng suất tôm nuôi biến động lớn giữa các hộ (từ 0,4 đến 2,4 tấn/ha) tương ứng với mật độ tôm thả tôm cao (14,8 ± 3,49 con/m2) và cỡ tôm nhỏ nên giá bán còn thấp. Ảnh hưởng nước, cỏ sau vụ Thu Đông (tháng 8-9), thiếu nguồn giống nhân tạo và thu hoạch đồng loạt làm giá tôm giảm mạnh là những trở ngại của mô hình nuôi tôm. Thức ăn chính cho tôm là ốc bươu vàng nếu nguồn thức ăn này giảm thì lợi nhuận của mô hình sẽ giảm do các nguồn thức ăn khác chi phí cao. Ngoài ra, xen kẽ giữa tôm và lúa Thu Đông nên ảnh hưởng của thuốc bảo vệ thức vật và ô nhiễm nguồn nước đến tôm nuôi. Đề nghị Cần điều chỉnh mật độ nuôi phù hợp, cải tiến thức ăn tự chế và phương pháp cho ăn để từng bước cải tiến hiệu quả sử dụng thức ăn công nghiệp để giảm hệ số thức ăn, giảm ô nhiễm môi trường nước để nâng tỷ lệ sống của tôm làm tăng năng suất. Cần hạn chế ô nhiễm nguồn nước cấp vào ruộng và nguồn nước rửa ốc xay thức ăn cho tôm cùng tập trung một con kênh. Nên kiểm soát và hạn chế lượng cá tạp xâm nhập vào ruộng làm ảnh hưởng đến năng suất tôm nuôi. Nên chọn tôm giống đồng kích cỡ (cỡ giống từ P15) để làm tăng tì lệ sống khi nuôi. BÁO CÁO THAM LUẬN MÔ HÌNH SẢN XUẤT 1 VỤ TÔM VÀ 1 VỤ LÚA Kính thưa quý đại biểu Tôi tên: Trần Văn Săn, sinh năm 1946 hiện cư ngụ ấp Phú Tây, xã Phú Thuận huyện Thoại Sơn, An Giang. Tôi xin trình bày báo cáo mô hình 1 tôm + 1 lúa qua thực tế sản xuất của tôi cụ thể như sau: Là một trong những người đầu tiên thực hiện nuôi tôm càng xanh ở xã Phú Thuận, tôi bắt đầu thử nghiệm nuôi tôm trong ao từ năm 1999. Từ quan sát trên cánh đồng mùa nước nổi, tôi thấy tôm càng xanh ngày càng thích hợp trên đồng ruộng và phát triển rất tốt nên đã có ý định nuôi thử trong ao và tận dụng nguồn thức ăn dễ kiếm trong mùa nước nổi như: cá tạp, cua ốc,…và con giống là tôm con do những người dỡ chà, đặt lợp cung cấp. Bước đầu tôi nuôi đạt kết quả khả quan nên đến năm 2000 tôi bắt đầu thả con Post để nuôi và áp dụng khoa học kỹ thuật vào mô hình để nâng cao sản lượng ngày một tốt hơn. Trong năm 2004 tôi đạt được những kết quả sau với diện tích là 6 ha. Về trồng lúa: Xuống giống vụ lúa đông xuân trên diện tích 6 ha vào tháng 11 (âm lịch) và thu hoạch vào cuối tháng 2 (âm lịch). Tổng thu nhập của tôi về lúa được 39 tấn bình quân năng suất là 6,5 tấn/ ha, trị giá là 78 triệu đồng trừ chi phí hết 31.200.000đồng tôi còn lãi được 46.800.000 đồng. Về thả nuôi tôm: Sau khi thu hoạch xong vụ lúa đông xuân 2004 tôi tiến hành cày, ải phơi đất và thả tôm vào tháng 4 (âm lịch) - thu hoạch tôm vào tháng 10 (âm lịch). Trên diện tích 6 ha tôi thả 600.000 con Post tôi thu hoạch được 9 tấn tôm, bán được 580.000.000đồng, trừ chi phí khoảng 400.000.000 đồng, tôi còn lãi được 180.000.000 đồng. Như vậy, với diện tích 6 ha đất luân canh mô hình 1 tôm + 1 lúa tôi lãi được 226.800.000 đồng. Kính thưa quý đại biểu Qua kết quả đạt được, tôi rút ra bài học kinh nghiệm sau: Thực hiện mô hình 1 tôm + 1 lúa theo tôi là một hướng phát triển bền vững cho chủ trương chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi với những điểm sau: nhờ nuôi tôm luân canh với trồng lúa, con tôm và cây lúa ít bị sâu bệnh hơn nữa nhờ có thời gian cắt đứt dòng lưu truyền mầm bệnh từ vụ này sang vụ khác. Hơn nữa, sau thu hoạch tôm, cây lúa đông xuân vẫn còn trồng trên nền đất nuôi tôm hưởng được lớp phân hữu cơ nên phát triển tốt, tự nhiên, không cần nhiều đến phân hóa học mà vẫn cho năng suất cao, hạ giá thành sản phẩm góp phần bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, muốn nuôi tôm đạt năng suất cao phải luôn học hỏi về khoa học kỹ thuật và kinh nghiệm thực tế của người nuôi trước, vì nuôi tôm càng xanh lợi nhuận cao nhưng rủi ro cũng nhiều. Ngoài ra còn phải nắm bắt thông tin thị trường để chủ động trong việc sản xuất. Kính thưa quý đại biểu Trong hoàn cảnh kinh tế gia đình tôi ngày một phát triển, cho con cái đi học đàng hoàng tôi rất phấn khởi và biết ơn chính quyền các cấp, hội nông dân và phong trào nông dân sản xuất giỏi đã tạo điều kiện cho tôi phát triển kinh tế gia đình. Tôi rất mong mô hình sản xuất của tôi được nhân rộng để bà con nông dân có được mô hình sản xuất có hiệu quả, hưởng ứng chủ trương chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi của đảng và nhà nước. Kính chúc hội nghị thành công tốt đẹp! Phụ lục 2 MÔ HÌNH TRỒNG CÂY RAU NHÚT VÀ CÂY SEN TRONG MÙA LŨ TẠI AN GIANG NĂM 2004 Võ Văn Hà1. Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển nông thôn - Đại học An Giang. , Trang Thị Mỹ Duyên2. Viện Nghiên cứu phát triển đồng bằng sông Cửu Long - Đại học Cần Thơ. , Hồ Thị Kim Cương3, Nguyễn Thị Thanh Tuyến3, Nguyễn Quốc Huy3 và Dương Ngọc Thành3 Sinh viên khoa Nông nghiệp - Đại học An Giang. TÓM LƯỢC Qui mô diện tích trồng cây sen trên hộ trong mùa lũ cao nhất ở huyện Thoại Sơn (0,86 ha/hộ) và cây rau nhút ở huyện Châu Phú và Phú Tân khoảng 0,33-0,45 ha/hộ. Trồng cây sen trong mùa lũ cho thu nhập, lợi nhuận và hiệu quả đồng vốn cao hơn trồng rau nhút. Thu nhập bình quân của cây sen là 17,1 triệu đồng/ha và lợi nhận thu được khoảng 10,2 đến 12,3 triệu/ha. Tỷ lệ tiền lời/vốn là 1,48. Trồng rau nhút tại huyện Châu Phú và Phú Tân cho thu nhập bình quân khoảng 9,3-9,5 triệu đồng/ha và lợi nhuận từ 3,4 đến 6,5 triệu đồng/ha. Tỷ lệ tiền lời/vốn vào khoảng 0,57-0,92. Lợi nhuận trồng rau nhút tại huyện Phú Tân cao hơn Châu Phú (khoảng 1 triệu đồng/ha) là do chi phí giống thấp (1,2 so với 2,2 triệu/ha) và đầu tư phân bón cũng ít hơn (0,4 so với 1,3 triệu đồng/ha). Theo người dân trồng cây rau nhút trong mùa lũ rất dễ làm, ít bị sâu và ốc gây hại (chiếm 54,8-60% số ý kiến hộ) và tạo thêm được thu nhập trong mùa lũ (30-42,5% số hộ). Trong khi nông dân trồng cây sen thì cho hiệu quả kinh tế cao (41,8%), có thu nhập hàng ngày (23,3%), giải quyết lao động nông nhàn (14%) và tạo thêm thu nhập trong mùa lũ (9,3%). Những khó khăn chính của nông dân trồng cây rau nhút hiện nay là lũ lên nhanh làm rau theo không kịp bị chết (25,8% số hộ), hoặc lũ lớn làm dồn và dập rau (22,7%), và thời tiết xấu rau chậm phát triển (19,7%). Bên cạnh đó là giá bán không ổn định và giá vật tư thường cao (12,1%) cũng ảnh hưởng đến người trồng rau. Cây sen cũng gặp khó khăn về giá cả không ổn định (44,4%), các bệnh thối cây hiện tại chưa có thuốc đặc trị và đất có nhiều bùn (tỷ lệ tương đương nhau 22,2% số hộ). Ngoài ra, ngộ độc hữu cơ khi trục lại đất cũng gây trở ngại cho nông dân trồng cây sen (11,2%). Người dân trồng cây rau nhút cần thêm nhiều thông tin kỹ thuật để trồng được tốt hơn, bán được giá cao hơn (33,4% số hộ). Ngoài ra, người dân cần biết thêm thông tin về giá cả thị trường (8,3%), cách ngăn chặn các chất làm ô nhiễm nguồn nước (8,3%) và ngăn chặn bớt dòng lũ chảy mạnh (8,3%). Mô hình trồng cây sen cũng cần thêm các thông tin về thị trường (57,1%), kỹ thuật để trồng và bán được giá cao (14,3% số hộ). Đặc biệt cần nghiên cứu sâu bệnh trên cây sen (14,3%), chính sách thuế và dịch vụ bơm tưới hợp lý (9,5%) cho cây sen. 1. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Nghiên cứu này gồm hai phần: Theo dõi, ghi chép cách làm của một số hộ nông dân tiêu biểu đang trồng cây rau nhút và sen trong mùa lũ 2004. Chọn 3 hộ nông dân ở huyện Châu Phú (có kinh nghiệm, kỹ thuật canh tác và am hiểu điều kiện tự nhiên trong vùng cũng như tập quán canh tác của những nông dân khác) và 3 hộ nông dân ở huyện Phú Tân để theo dõi mô hình trồng rau nhút trong mùa lũ. Ở huyện Thoại Sơn chọn 3 hộ nông dân trồng cây sen để theo dõi mô hình. Tiến hành lập sổ ghi chép cho từng hộ để theo dõi qui trình kỹ thuật canh tác, các chi phí đầu vào, cũng như giá cả và đầu ra cho sản phẩm. Phỏng vấn trực tiếp nông hộ bằng phiếu điều tra soạn sẵn. Mẫu điều tra được chọn ngẫu nhiên phân bố trong vùng trồng cây thủy sinh tập trung tại 3 huyện nghiên cứu, bao gồm các nhóm hộ khá/giàu, nhóm trung bình và nhóm hộ nghèo. Tổng số mẫu điều tra là 90 hộ. Bảng 1: Số mẫu điều tra tại ba huyện trong tỉnh An Giang năm 2004 STT Xã/huyện Số mẫu 1 Xã Vĩnh Thạnh Trung, huyện Châu Phú 30 2 Xã Tân Trung, huyện Phú Tân 30 3 Xã Định Thành, huyện Thoại Sơn 30 Tổng 90 Số liệu thu thập bao gồm: Thông tin định tính: Lý do để nông dân trồng cây thủy sinh trong mùa lũ; đặc tính đất canh tác cây thủy sinh; những trở ngại và hướng khắc phục cây trồng thủy sinh; thị trường tiêu thụ sản phẩm; khả năng kết hợp với các mô hình canh tác khác... Thông tin định lượng: các chi phí đầu vào (giống, phân, thuốc, công lao động…) và đầu ra sản phẩm (năng suất, thời điểm bán, giá bán…). Kỹ thuật canh tác cây trồng thủy sinh: cách trồng (qui cách và mật độ), chăm sóc (bón phân, phòng trừ sâu bệnh), thu hoạch (cách thu hoạch, sơ chế, bảo quản, vận chuyển) và tiêu thụ sản phẩm (nơi tiêu thụ, thị trường, giá cả). 2. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 2.1. Thông tin về đặc điểm nông hộ Bảng 2: Đặc điểm của chủ hộ, nhân khẩu và nguồn lực lao động trong nông hộ tại ba huyện nghiên cứu trong tỉnh An Giang, năm 2004 Thông tin về chủ hộ Châu Phú Phú Tân Thoại Sơn Tuổi của chủ hộ 46,0 (13,55) 46,6 (13,16) 51,9 (12,06) Trình độ văn hóa của chủ hộ (%) Mù chữ Cấp I Cấp II Cấp III Cao đẳng/ĐH 26,7 43,3 16,7 10,0 3,3 0,0 63,3 23,4 10,0 3,3 3,3 73,4 20,0 0 3,3 Thời gian hoạt động NN của chủ hộ (%) Thời gian hoạt động phi NN của chủ hộ (%) 95,0 5,0 56,7 43,3 93,7 5,0 Số người/hộ (%) £ 5 người 6 - 8 người >8 người 70,0 26,6 3,4 76,7 23,3 0,0 50,0 40,0 10,0 Thành viên trong gia đình (%) < 18 tuổi 18-60 tuổi >60 tuổi 21,3 73,5 5,2 28,7 63,2 8,1 26,6 67,3 10,1 Chủ hộ được phỏng vấn có độ tuổi trung bình từ 46 đến 52, và phần lớn học cấp I (43-73% số hộ). Chủ hộ trồng cây sen ở huyện Thoại Sơn có độ tuổi trung bình cao nhất (52 tuổi) so với hai huyện còn lại khoảng 46 tuổi (Bảng 2). Đặc biệt ở huyện Châu Phú chủ hộ mù chữ chiếm tỷ lệ khá cao (khoảng 26,7%). Điều này cũng là yếu tố giới hạn trong việc trồng cây rau nhút so với chủ hộ ở huyện Phú Tân. Thời gian hoạt động trong nông hộ của chủ hộ ở Châu Phú và Thoại Sơn trên 90%, trong khi ở Phú Tân là 56,7% và thời gian còn lại là hoạt động ngoài nông hộ. Số liệu phân tích ở bảng 2 còn cho thấy số người trong hộ bình quân là 5 và độ tuổi lao động (18-60 tuổi) chiếm khoảng 63-74 %. Huyện Thoại Sơn có tỷ lệ số người trên hộ từ 6-8 người chiếm khoảng 40% số hộ. 2.2. Đặc tính đất canh tác cây thủy sinh Diện tích trồng cây sen trong mùa lũ cao nhất ở huyện Thoại Sơn trung bình là 0,86 ha/hộ. Trong khi diện tích trồng cây rau nhút ở huyện Châu Phú và Phú Tân khoảng 0,32-0,45 ha/hộ. Cao độ của đất trồng cây sen từ cao đến trung bình (huyện Thoại Sơn), nhưng đất trồng cây rau nhút là từ trung bình đến thấp (huyện Phú Tân và Châu Phú). Loại đất từ sét pha thịt đến đất thịt và không phèn ở huyện Châu Phú và Thoại Sơn, nhưng đất ở huyện Phú Tân là đất thịt và phèn nhẹ (Bảng 3). Bảng 3: Đặc tính đất canh tác cây trồng thủy sinh trong mùa lũ tại ba huyện nghiên cứu trong tỉnh An Giang năm 2004 Diễn giải Châu Phú Phú Tân Thoại Sơn DT.canh tác/hộ (ha) 0,32 0,45 0,86 Cao độ đất (%) Thấp Trung bình Cao 100 0 0 63,4 36,6 0 36,7 46,7 16,6 Loại đất (%) Sét Sét pha thịt Thịt Thịt pha cát Cát 0 100 0 0 0 0 0 90,0 3,3 6,7 3,3 73,4 20,0 3,3 0 Chất lượng đất (%) Không phèn Phèn nhẹ Phèn TB 100 0 0 6,7 90,0 3,3 60,0 30,0 10,0 2.3. Năng suất cây trồng thủy sinh Kết quả ở bảng 4 cho thấy mật độ trồng rau nhút ở huyện Châu Phú thấp hơn Phú Tân (0,47 so với 2,17 bụi/m2), nhưng năng suất rau thì ngược lại Châu Phú cao hơn Phú Tân (9,02 so với 8,00 t/ha). Điều này cho thấy rằng trồng rau nhút mật độ cao có khuynh hướng làm giảm năng suất. Tuy nhiên, qua phân tích hồi qui tuyến tính thì ảnh hưởng của mật độ trồng và năng suất rau khác biệt khong có ý nghĩa thống kê. Mật độ trồng cây sen bình quân 9,28 m2/bụi và không có sự khác biệt giữa mật độ trồng trên năng suất sen. Bảng 4: Mật độ trồng và năng suất cây trồng thủy sinh trong mùa lũ năm 2004 tại ba huyện nghiên cứu trong tỉnh An Giang Diễn giải Châu Phú (cây rau nhút) Phú Tân (cây rau nhút) Thoại Sơn (cây sen) Mật độ trồng (m2/bụi) 0,47 (0,39) 2,17 (1,59) 9,28 (3,27) Năng suất (t/ha) 9,02 (4,51) 8,00 (2,86) 0,21 (0,09) Ghi chú: Số trong ngoặc đơn là độ lệch chuẩn. 2.4 Hiệu quả kinh tế cây trồng thủy sinh Kết quả phân tích cho thấy trồng cây sen trong mùa lũ cho thu nhập, lợi nhuận và hiệu quả đồng vốn cao hơn trồng rau nhút (Bảng 5). Thu nhập bình quân của cây sen là 17,1 triệu đồng/ha và lợi nhận thu được khoảng 10,2 đến 12,3 triệu/ha (nếu không tính công lao động gia đình vào chi phí sản xuất). Tỷ lệ tiền lời/vốn là 1,48. Trồng rau nhút tại huyện Châu Phú và Phú Tân cho thu nhập khoảng 9,3-9,5 triệu đồng/ha và lợi nhuận từ 3,4 đến 6,5 triệu đồng/ha. Tỷ lệ tiền lời/vốn vào khoảng 0,57-0,92. Kết quả phân tích còn cho thấy thu nhập trồng rau nhút tại huyện Phú Tân thấp hơn Châu Phú (9,3 so với 9,5 triệu đồng/ha) nhưng lợi nhuận thì cao hơn (khoảng 1 triệu đồng/ha) là do chi giống thấp (1,2 so với 2,2 triệu/ha) và chi phí đầu tư phân bón ít hơn (0,4 so với 1,3 triệu đồng/ha). Bảng 5: Hiệu quả kinh tế của cây thủy sinh trong mùa lũ năm 2004 tại ba huyện nghiên cứu trong tỉnh An Giang (Đơn vị tính: 1000 đồng/ha) Diễn giải Châu Phú (cây rau nhút) Phú Tân (cây rau nhút) Thoại Sơn (cây sen) Tổng thu nhập (A) 9.475 9.338 17.100 Tổng chi phí (B) 6.035 4.852 6.886 Thuê máy móc 274 173 486 Lao động thuê 181 164 333 Lao động gia đình 1.809 2.082 2.052 Chi giống 2.231 1.187 543 Chi phân bón 1.339 414 3.305 Chi thuốc BVTV 201 832 88 Chi khác 0 0 79 Lợi nhuận (C=A-B) 3.434 4.485 10.214 Lợi nhuận không LĐGĐ 5.249 6.568 12.266 Tỉ lệ lời/vốn (C/B) 0,57 0,92 1,48 2.5 Nhận định của người dân về trồng cây thủy sinh trong mùa lũ Trước khi chưa trồng cây thủy sinh thì đa số ruộng được bỏ trống trong mùa lũ (Bảng 6). Ở huyện Châu Phú và Phú Tân người dân chuyển sang trồng cây rau nhút vì cây ấu bị ốc bươu vàng gây hại nặng (chiếm 23-53% số ý kiến hộ). Cá biệt người dân trồng rau nhút ở huyện Châu Phú còn do kết hợp với nuôi cá mùa lũ (10%). Người dân cho rằng cây rau nhút vì dễ trồng, ít sâu bệnh cũng như ốc bươu vàng gây hại (55-60% số ý kiến hộ) và cây sen cho hiệu quả kinh tế cao (42%), có thu nhập hàng ngày (23%) và giải quyết lao động nông nhàn trong nông thôn (14%). Để phát triển mô hình trồng cây rau nhút mùa lũ trong tương lai người dân cần biết thêm những kỹ thuật để trồng rau được tốt hơn (33%), quản lý tốt những người giăng câu, lưới làm hại đến rau (25%) và cần phổ biến nhân rộng mô hình này đến những nông dân khác (17%). Về cây sen người dân cần biết thêm về thông tin thị trường (57%), kỹ thuật trồng và phòng trị bệnh (28%). Bảng 6: Những nhận định của nông dân về cây trồng thủy sinh trong mùa lũ năm 2004 tại ba huyện nghiên cứu trong tỉnh An Giang Những nhận định Châu Phú (%) Phú Tân (%) Thoại Sơn (%) Trước khi trồng cây này mùa lũ ông (bà) làm gì? Bỏ trống 63,4 46,7 100 Nuôi cá 10,0 0 0 Trồng ấu, ốc nhiều không trồng được 23,3 53,3 0 Cho người khác mướn đất 3,3 0 0 Nhận định về loại cây trồng này trong mùa lũ Dễ trồng, ít sâu và ốc gây hại 60,0 54,8 2,3 Muốn tạo thêm thu nhập mùa lũ 30,0 45,2 9,3 Kết hợp với nuôi cá 5,0 0 2,3 Cây thủy sinh tích tụ phân bón sẽ làm tốt vụ lúa 5,0 0 2,3 Thích hợp trong mùa lũ 0 0 4,7 Hiệu quả kinh tế cao 0 0 41,8 Có thu nhập hàng ngày 0 0 23,3 Giải quyết lao động nông nhàn 0 0 14,0 Đề nghị phát triển mô hình này trong tương lai Cần phổ biến thêm các thông tin về thị trường 0 8,3 57,1 Cần thêm nhiều kiến thức để trồng tốt hơn 0 33,4 14,3 Cần nghiên cứu sâu bệnh trên cây sen 0 0 14,3 Quản lý tốt những người giăng lưới 0 25,0 0 Ngăn chặn các chất làm ô nhiễm nguồn nước 0 8,3 0 Ngăn chặn bớt dòng lũ chảy mạnh 0 8,3 0 Cần phổ biến mô hình lúa - cây thủy sinh 0 16,7 4,8 Cần có chính sách thuế, dịch vụ bơm tưới hợp lý 0 0 9,5 2.6. Lý do để người dân trồng cây thủy sinh mùa lũ Các lý do chính để nông dân trồng rau nhút là muốn tạo thêm thu nhập trong mùa lũ, tận dụng nước lũ và không muốn bỏ đất trống (Bảng 7). Ở huyện Châu Phú nông dân trồng rau nhút với các lý do chính là không muốn bỏ đất trống (chiếm 57,9% số hộ), muốn tận dụng nước lũ (36,8%) và tạo thêm thu nhập trong mùa lũ (5,3%). Ngoài ra, còn do cây rau nhút dễ trồng (51,6%), chung quanh trồng thấy có hiệu quả và biết cách trồng (29,0%), và trồng rau thích hợp cho nuôi tôm (9,7%). Ở huyện Phú Tân nông dân trồng rau nhút chính là muốn tạo thêm thu nhập mùa lũ (66,4%) và tận dụng nước lũ (33,3%). Mặt khác, còn do cây rau nhút dễ trồng (48,4% số hộ), có thu nhập hàng ngày (19,4%), mùa lũ không trồng được cây khác (19,3%) và chung quanh trồng có hiệu quả (12,9%). Từ những lý do trồng rau nhút khác nhau nên mức độ đầu tư cũng như hiệu quả kinh tế mang lại cũng khác nhau; trồng rau nhút ở huyện Phú Tân đạt hiệu quả cao hơn ở huyện Châu Phú (đã được thảo luận ở trên). Ở huyện Thoại Sơn nông dân chọn cây sen để trồng với các lý do chính là mô hình kết hợp với cây thủy sinh cho hiệu quả kinh tế cao (chiếm 38,2% số hộ), tạo thêm thu nhập mùa lũ (26,5%), giải quyết lao động nông nhàn (20,6%) và tận dụng nước lũ (14,7%). Tuy nhiên, còn những lý do khác để nông dân chấp nhận trồng cây sen dễ trồng, ít tốn chi phí và lợi nhuận cao (50%). Cây sen không bị ốc gây hại và sóng cuốn trôi (21,1%), giúp hạ phèn và thị trường đang sôi động (18,4%), và chung quanh trồng thấy có hiệu quả (10,5%). Bảng 7: Những lý do để người dân quyết định trồng loại cây thủy sinh trong mùa lũ tại ba huyện nghiên cứu trong tỉnh An Giang năm 2004 Những lý do Châu Phú (%) Phú Tân (%) Thoại Sơn (%) Lý do trồng trong mùa lũ? Tận dụng nước lũ 36,8 33,3 14,7 Không muốn bỏ đất trống 57,9 0 0 Tạo thu nhập trong mùa lũ 5,3 66,4 26,5 Giải quyết LĐ nông nhàn 0 0 20,6 Kết hợp cây thủy sinh có hiệu quả hơn 0 0 38,2 Lý do trồng loại cây này? Dễ trồng, ít tốn chi phí, công LĐ và lợi nhuận cao 51,6 48,4 50 Xung quanh trồng có hiệu quả và biết cách trồng 29,0 12,9 10,5 Tạo thu nhập mùa lũ và có thu nhập hàng ngày 3,2 19,4 0 Thích hợp cho ao nuôi tôm 9,7 0 0 Nguồn giống có sẵn tại địa phương 6,5 0 0 Mùa lũ không trồng được cây khác 0 19,3 0 Sen không bị ốc tấn công và sóng cuốn trôi 0 0 21,1 Trồng sen giúp hạ phèn và có thị trường tiêu thụ 0 0 18,4 2.7. Những trở ngại và hướng khắc phục cây trồng thủy sinh Những khó khăn chính của nông dân trồng cây rau nhút hiện nay là lũ lên nhanh làm rau theo không kịp bị chết (25,8% số hộ), hoặc lũ lớn làm dập rau và dồn rau (22,7%), và thời tiết xấu rau chậm phát triển (19,7%). Bên cạnh đó là giá bán không ổn định và giá vật tư thường cao (12,1%) cũng ảnh hưởng đến người trồng rau. Ngoài ra, còn bị những người giăng lưới phá hại làm tróc gốc (6,1%), nước cỏ làm gãy đọt rau và dập phau (4,6%). Để khắc phục nông dân trồng rau nhút phải cắm cộc tre và căng dây để giảm bớt thiệt hại (70%), hay luân canh lúa-cây thủy sinh (15%) và chỉ bón phân khi cần thiết (10%) để giảm thiệt hại. Bảng 8: Những khó khăn trở ngại và hướng khắc phục trồng cây rau nhút trong mùa lũ của người dân tại ba huyện nghiên cứu năm 2004 Những trở ngại Tỷ lệ (%) Lũ lên nhanh làm rau theo không kịp 25,8 Lũ lớn làm dập rau, dồn rau (đứt rể) 22,7 Thời tiết xấu (lạnh) làm rau nhút chậm phát triển 19,7 Giá bán không ổn định, giá vật tư cao 12,1 Bị những người giăng lưới phá hại làm tróc gốc 6,1 Nước cỏ làm gãy đọt rau và dập phau 4,6 Các bệnh thúi cây không có thuốc đặc trị 3,0 Gần sông nước chảy mạnh và đồng trống có gió mạnh nên rau dễ bị trôi 3,0 Thiếu kỹ thuật, đa số ND làm theo kinh nghiệm nên hiệu quả không cao 1,5 Ngộ độc hữu cơ khi trục lại 1,5 Hướng khắc phục Cắm tre và căng dây để giảm bớt thiệt hại 70,0 Luân canh lúa-cây thủy sinh 15,0 Chỉ bón khi cần thiết, xả lũ 10,0 Trồng sao cho khi thu hoạch không đồng loạt 5,0 Những người trồng cây sen cũng gặp khó khăn về giá cả không ổn định (44,4%), các bệnh thối cây hiện tại chưa có thuốc đặc trị và đất nhiều bùn chiến tỷ lệ tương đương nhau (22,2% số hộ). Ngoài ra, ngộ độc hữu cơ khi trục lại đất cũng gây trở ngại cho nông dân trồng cây sen (11,2%). Trước mắt để khắc phục của nông dân luân canh lúa-cây sen (50%), chỉ bón phân khi cần thiết và xả lũ (33,3%), và trồng sao cho khi thu hoạch không đồng loạt (16,7%) để giảm bớt thiệt hại (Bảng 9). Bảng 9: Những khó khăn trở ngại và hướng khắc phục trồng cây sen của người dân trong mùa lũ năm 2004 tại ba huyện nghiên cứu Những trở ngại Tỷ lệ (%) Giá bán không ổn định, giá phân bón cao 44,4 Các bệnh thối cây không có thuốc đặc trị 22,2 Bùn nhiều 22,2 Ngộ độc hữu cơ khi trục lại 11,2 Hướng khắc phục Luân canh lúa-cây thủy sinh 50,0 Chỉ bón khi cần thiết, xả lũ 33,3 Trồng sao cho khi thu hoạch không đồng loạt 16,7 4. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ Trồng cây sen trong mùa lũ cho thu nhập, lợi nhuận và hiệu quả đồng vốn cao hơn trồng rau nhút. Trồng rau nhút tại huyện Phú Tân có hiệu quả kinh tế cao hơn ở huyện Châu Phú do chi phí giống thấp và chi phí đầu tư phân bón cũng ít hơn. Người dân trồng cây rau nhút là muốn tạo thêm thu nhập cho gia đình, tận dụng nước lũ và không muốn bỏ đất trống. Cây rau nhút dễ trồng, cho thu nhập hàng ngày và phù hợp với mô hình nuôi tôm kết hợp. Tuy nhiên, khó khăn của người dân trồng cây rau nhút hiện nay là lũ lên nhanh làm rau theo không kịp bị chết, hoặc làm dập và dồn rau. Để khắc phục trồng rau nhút phải cắm cộc tre, căng dây để giảm bớt thiệt hại hoặc trồng cây chắn gió lớn làm dập và dồn rau. Ngoài ra, giá cả không ổn định, những người giăng lưới phá hại làm tróc gốc và nước cỏ cũng ảnh hưởng đến người trồng rau. Trồng cây sen cho hiệu quả kinh tế cao, tạo thêm thu nhập trong mùa lũ và giải quyết lao động nông nhàn trong nông thôn. Cây sen dễ trồng, ít tốn chi phí, không bị ốc gây hại và sóng cuốn trôi, giúp hạ phèn và có thị trường đang sôi động. Người trồng cây sen cũng gặp khó khăn về giá cả không ổn định và các bệnh thối cây chưa có thuốc đặc trị. Ngoài ra, đất trồng cây sen có nhiều bùn nên bị ngộ độc hữu cơ khi trục lại đất cũng gây trở ngại cho người dân. Trước mắt để khắc phục theo người dân nên luân canh lúa-cây sen, chỉ bón phân khi thật sự cần thiết và và trồng sao cho khi thu hoạch không đồng loạt để giảm bớt thiệt hại. Cần cung cấp những thông tin về kỹ thuật và kênh thị trường để trồng cây thủy sinh được tốt hơn, bán được giá cao hơn. Cần nghiên cứu sâu bệnh và mật độ trồng hợp lý để trồng cây thủy sinh đạt được năng suất cao. BÁO CÁO MÔ HÌNH SẢN XUẤT TRỒNG RAU NHÚT TRONG MÙA NƯỚC NỔI Kính thưa: Lãnh đạo Hội nghị, quý đại biểu và quý vị khách quí Tôi tên: Trần Minh Hùng sinh năm 1965, cư ngụ: xã Tân Hòa - Phú Tân - An Giang Nhân khẩu: 4 người Nghề nghiệp chính: Làm mướn. Trước đây gia đình tôi thuộc diện nghèo, làm mướn quanh năm cuộc sống thiếu thốn và thường xuyên nhận trợ cấp của các tổ chức cứu trợ, không đủ khả năng cho con đi học. Năm 2002 tôi được người anh cho mượn 2 công đất trầm thủy, đầu tiên tôi trồng ấu thấy hiệu quả không cao, không cải thiện được đời sống gia đình. Từ đó tôi mới suy nghĩ phải kiếm một loại cây gì đó để trồng và có hiệu quả hơn và tôi thấy rau nhút là loại để trồng, ít sâu bệnh, chi phí đầu tư thấp lại bán được giá, dễ tiêu thụ ở các chợ nông thôn, tôi mạnh dạn chuyển sang trồng rau nhút. Thông qua các lớp huấn luyện và học hỏi kinh nghiệm của các người trồng xung quanh từ khâu vệ sinh, vô nước, chăm sóc, thu hoạch. Lượng phân bón cho 1 công 3 kg Ure + 2 kg DAP ngâm ra nước xịt vào thân: Sau 15 ngày thu hoạch đợt đầu tiên và lần lượt 7 ngày cắt 1 cử. Ngoài ra, còn lưu ý nếu thấy rau già thì đạp gốc rau xuống cho ngang mặt cho nước và bổ sung phân bón lá để 10 ngày thu hoạch lại đợt đầu. Vì vậy, với diện tích trên tôi thu hoạch mỗi tháng 4 đợt, mỗi đợt 360 kg bán với giá 1.200 đ/kg thu được 432.000 đ. Sau khi trừ chi phí còn lại 350.000 đ. Bình quân mỗi tháng 1.400.000, một năm thu hoạch được 8 tháng tương đương với số tiền 11.200.000 đ. Hàng năm mỗi khi lũ về còn tận dụng diện tích này để nuôi khoảng 3.000 con cá lóc trong mùng và dùng lưới cước bao xung quanh, xây hom dùng mồi để nhử cá tự nhiên vào. Trong 1 vụ thu hoạch từ cá nuôi và cá thiên nhiên được khoảng 15 triệu đồng. Như vậy với nuôi trồng kết hợp, mỗi năm thu nhập được khoảng 26 triệu đồng. Sau khi trừ hết chi phí còn bỏ ống được 10 triệu đồng. Từ khi trồng rau nhút đến nay, nămn 2003 tôi sửa chữa lại căn nhà, thay cột tre bằng cột bạch đàn, mái lợp tol ước tính khoảng 11 triệu đồng, mua được 1 Tivi màu để xem thời sự và xem chương trình khuyến nông từ đó bổ sung thêm kiến thức còn hạn chế của mình. Ngoài ra, hàng năm còn chỗ hỗ trợ cho gia đình người anh khoản tiền mướn đất là 500.000 đ, lo cho con được đi học đầy đủ và nhất là gia đình đã thoát nghèo. Hiện cũng có khoảng 10 hộ xung quanh làm theo tôi. Từ nguồn vốn tích lũy năm 2002-2004 được 20 triệu, tôi sử dụng 15 triệu để có thêm 3 công đất, nâng diện tích trồng lên 5 công, có thể tin chắc rằng kết quả bội thu mùa nước nổi năm nay đang đế gần và hứa hiện đây là một mộ hình sản xuất bền vững trong thời gian tới. Kính thưa quý vị đại biểu Trở ngại trong thực tế sản xuất luôn luôn xảy ra như khâu chăm sóc, năng suất chưa được như mong muốn và nhất là tiêu thụ chưa được ổn định. Đây cũng là trăn trở trong sản xuất mùa nước nổi luôn gặp phải. Rất mong sự góp ý của các đại biểu để làm bài học cho việc thực hiện ngày càng tốt hơn. Tân Hòa, ngày 26 tháng 7 năm 2005 Người viết Trần Minh Hùng ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLuan van Thanh Nha - chinh thuc.doc
Tài liệu liên quan