Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài theo pháp luật VN và Công ước La Hay 1993 về bảo vệ trẻ em và sự hợp tác giữa các nước

LỜI NÓI ĐẦU Nuôi con nuôi là một chế định quan trọng không chỉ trong hệ thống pháp luật của nhiều nước mà còn thể hiện rất rõ trong pháp luật quốc tế. Chế định nuôi con nuôi được các quốc gia và cộng đồng quốc tế quan tâm đặc biệt vì nó là sự bảo vệ về pháp lý rất cần thiết nhằm đảm bảo những lợi ích tốt nhất cho những trẻ em không những chỉ non nớt về thể chất và trí tuệ mà còn có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn cần được sự chăm sóc từ phía gia đình và xã hội. Chính vì vậy, vấn đề nuôi con nuôi

doc60 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1578 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài theo pháp luật VN và Công ước La Hay 1993 về bảo vệ trẻ em và sự hợp tác giữa các nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
được nhiều quốc gia trên thế giới quan tâm, thực hiện. Tuy mỗi nước có những quy định khác nhau về trình tự, thủ tục giải quyết việc nuôi con nuôi, nhưng đều có chung một mục đích đó là nhằm đảm bảo lợi ích tốt nhất cho trẻ em. Kể từ khi Nhà nước và nhân dân Việt Nam thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, quan hệ quốc tế ngày càng được mở rộng, giao lưu về mọi mặt giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài ngày càng phát triển, thì các quan hệ về hôn nhân và gia đình của công dân Việt Nam với người nước ngoài, trong đó có các quan hệ nuôi con nuôi, đã và đang trở thành một hiện tượng xã hội thu hút sự quan tâm của nhiều người, cả ở trong và ngoài nước. Trong bối cảnh đó, việc người nước ngoài xin nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi đã và đang đặt ra nhiều vấn đề cần phải tiếp tục được nghiên cứu, hoàn thiện, không chỉ về pháp luật mà có thể cả về các định chế. Qua tình hình người nước ngoài xin nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi trong những năm vừa qua, một vấn đề có tính cấp thiết được đặt ra đối với Việt Nam là cần nghiên cứu, tham gia các Công ước quốc tế đa phương, ký kết các điều ước quốc tế song phương nhằm tạo ra một cơ chế hợp tác quốc tế chặt chẽ giữa Việt Nam với các nước liên quan về lĩnh vực này, đảm bảo cho trẻ em được nhận làm con nuôi có đủ điều kiện được hưởng những gì tốt đẹp nhất, cũng như tạo thuận lợi hơn về mặt thủ tục cho cha mẹ nuôi trong lĩnh vực này. Mặt khác cũng nhằm hạn chế đến mức tối đa những hiện tượng tiêu cực có thể xảy ra trong lĩnh vực hết sức nhạy cảm này. Hiện nay, Việt Nam đang đứng trước yêu cầu của công cuộc hội nhập nhất là trong việc chuẩn bị gia nhập Công ước La Hay 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi giữa các nước, do đó việc làm cho pháp luật Việt Nam hài hoà với thông lệ quốc tế cũng như pháp luật của nhiều nước về nuôi con nuôi là việc làm cấp bách. Chính vì mục đích như vậy, mà em đã chọn đề tài “ Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam và Công ước La Hay 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi giữa các nước “, để thấy rõ những vấn đề bất cập trong pháp luật Việt Nam với Công ước La Hay 1993. Để từ đó có những giải pháp phù hợp trong quá trình Việt Nam gia nhập Công ước La Hay 1993. Khoá luận được cấu thành bởi 3 chương : Chương I : Những vấn đề lý luận về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Chương II : Quy định của pháp luật về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam. Chương III : Thực trạng và giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Bài khóa luận được hoàn thiện dựa trên việc sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, kết hợp với các phương pháp như : phương pháp tổng hợp, so sánh, phân tích, thống kê và đối chiếu để giải quyết những vấn đề đã được xác định trong đề tài. CHƯƠNG I NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI 1.1 Khái niệm nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. 1.1.1 Khái niệm nuôi con nuôi. Nuôi con nuôi là một chế định quan trọng trong pháp luật về hôn nhân và gia đình, nó góp phần vào việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ em, đặc biệt là đối với trẻ em mồ côi, bị tàn tật, bị cha mẹ bỏ rơi. Việc nuôi con nuôi, trước hết phải xuất phát từ mục đích quan trọng là vì lợi ích của người được nhận làm con nuôi, nhằm mang lại cho đứa trẻ được nhận làm con nuôi một mái ấm gia đình, được yêu thương, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Bên cạnh đó, việc nuôi con nuôi cũng xuất phát từ nhu cầu tình cảm của người nhận nuôi, nhằm thiết lập quan hệ tình cảm gắn bó giữa cha, mẹ và con cái. Xuất phát từ ý nghĩa xã hội và mục đích nhân đạo của việc nuôi con nuôi, tại Điều 67 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã quy định rất cụ thể về vấn đề này. Điều 67 : “ Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm con nuôi, bảo đảm cho người được nhận làm con nuôi được trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục phù hợp với đạo đức xã hội “. Đây chính là khung pháp lý quan trọng nhằm xác lập mối quan hệ giữa cha mẹ và con nuôi và là cơ sở để phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa họ với nhau. Khái niệm nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là vấn đề hiện được nhiều nước trên thế giới quan tâm. Đặc biệt trong điều kiện toàn cầu hoá hiện nay, nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài thực sự đã trở thành vấn đề nhân đạo mang tính toàn cầu và đã được thể chế hoá trong pháp luật quốc tế và pháp luật trong nước. Ở nước ta trong những năm gần đây nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài được Nhà nước đặc biệt quan tâm bằng việc ban hành nhiều chính sách, văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài nhằm xử lý những sai phạm, làm cho việc cho trẻ em làm con nuôi người nước ngoài thực sự mang tính nhân đạo, tìm mái ấm gia đình và hạnh phúc cho trẻ em. Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là một chế định của quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. Mặt khác, quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài chính là quan hệ dân sự (theo nghĩa rộng) phát sinh trong đời sống quốc tế và quan hệ dân sự này luôn có đặc trưng là mang “ yếu tố nước ngoài “. Yếu tố nước ngoài đã được khẳng định một cách rất rõ ràng trong Bộ Luật Dân sự (Điều 826), Nghị định 60/CP ngày 6/6/1997 của Chính phủ hướng dẫn thi hành các quy định của Bộ luật Dân sự về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài (Điều 1) đã khẳng định : “ Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài được hiểu là các quan hệ dân sự có người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài tham gia hoặc căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó phát sinh ở nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài ”. Cũng theo Nghị Định 60/CP thì “ người nước ngoài là người không có quốc tịch Việt Nam, bao gồm công dân nước ngoài và người không quốc tịch “. Từ quy định trên, có thể suy ra rằng : quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là quan hệ pháp luật thuộc một trong các trường hợp sau đây : Có người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài tham gia ; Căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó xảy ra ở nước ngoài Tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài. Yếu tố nước ngoài trong quan hệ hôn nhân và gia đình nói chung trong đó có quan hệ nuôi con nuôi được quy định tại Khoản 14 - Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Theo đó : Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài được hiểu là quan hệ hôn nhân và gia đình : Giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài; Giữa người nước ngoài thường trú tại Việt Nam với nhau; Giữa công dân Việt Nam với nhau mà căn cứ xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài. Ngoài ra, Điều 100-Khoản 4 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 còn ghi nhận “ Các quy định của chương XI về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài cũng được áp dụng đối với quan hệ hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với nhau mà một bên hoặc cả hai bên định cư ở nước ngoài “. Như vậy, theo quy định trên thì quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài bao gồm các quan hệ sau : 1. Quan hệ nuôi con nuôi giữa người nước ngoài với trẻ em Việt Nam cư trú trên lãnh thổ Việt Nam hoặc cư trú ở nước ngoài. 2. Quan hệ nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với trẻ em nước ngoài ở Việt Nam hoặc ở nước ngoài. 3. Quan hệ nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với nhau mà một hoặc cả hai bên định cư ở nước ngoài. 4. Quan hệ nuôi con nuôi giữa người nước ngoài với nhau phát sinh tại Việt Nam. Theo các trường hợp trên, quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài đã được mở rộng, không chỉ là quan hệ nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài mà còn bao gồm quan hệ nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với nhau ở nước ngoài và quan hệ nuôi con nuôi giữa người nước ngoài với nhau ở Việt Nam. 1.2 Đặc trưng của quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. 1.2.1 Quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài luôn mang yếu tố nước ngoài. Như trên đã phân tích, quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài bao gồm các loại quan hệ (phần 1.1.2), mà quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là việc xác lập quan hệ cha, mẹ và con giữa hai bên chủ thể khác quốc tịch hoặc cùng quốc tịch nhưng sự kiện nhận nuôi con nuôi xảy ra ở nước ngoài nhằm bảo đảm cho người được nhận làm con nuôi được trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục phù hợp với đạo đức xã hội. Do vậy, yếu tố nước ngoài trong quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài bao gồm : 1.2.1.1 Yếu tố chủ thể : Khi đề cập đến yếu tố chủ thể trong quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, có hai loại chủ thể cơ bản : Thứ nhất : Công dân Việt Nam khi tham gia vào quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài phải có quyền năng chủ thể tức là có năng lực pháp luật và năng lực hành vi trước tiên theo pháp luật Việt Nam. Năng lực pháp luật và năng lực hành vi là những thuộc tính của chủ thể pháp luật, là đặc trưng không thể thiếu của chủ thể pháp luật. Vấn đề năng lực pháp luật và năng lực hành vi ở đây trước hết được xác định trên cơ sở các quy định của pháp luật dân sự Việt Nam. Thứ hai : Bên cạnh đó, người nước ngoài cũng là chủ thể cơ bản của quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Pháp luật Việt Nam và pháp luật của nhiều nước trên thế giới có nét đặc trưng chung là đều lấy dấu hiệu quốc tịch để định nghĩa người nước ngoài. Có thể khái quát, người nước ngoài là người không có quốc tịch của nước sở tại. Để tham gia vào quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài cũng như quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài thì người nước ngoài phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi trước tiên là theo pháp luật của nước mà người đó là công dân hoặc pháp luật của nước mà người đó thường trú nếu người đó là người không quốc tịch. Tại Điều 830 Bộ luật Dân sự Việt Nam thì người nước ngoài có năng lực pháp luật dân sự tại Việt Nam như công dân Việt Nam, trừ các trường hợp ngoại lệ. Tuy nhiên, để người nước ngoài tham gia trực tiếp vào quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài thì người nước ngoài phải có năng lực hành vi. Ở Việt Nam năng lực hành vi được quy định tại Điều 831 Bộ Luật Dân sự. Như theo Điều 831 thì Việt Nam đã sử dụng chủ yếu nguyên tắc luật quốc tịch để xác định năng lực hành vi dân sự của người nước ngoài. Ngoài ra, trong một số trường hợp năng lực hành vi dân sự của người nước ngoài được xác định theo pháp luật dân sự Việt Nam. 1.2.1.2 Sự kiện pháp lí làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi xảy ra ở nước ngoài. Sự kiện pháp lí làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi phải là sự kiện pháp lí xảy ra ở nước ngoài. Nó có thể là sự kiện, hành vi…phù hợp với pháp luật Việt Nam hoặc pháp luật nước ngoài. Sự kiện pháp lí còn là hành vi pháp lí. Hành vi pháp lí là hành vi hợp pháp xảy ra do các chủ thể trong quan hệ nuôi con nuôi thực hiện (làm chấm dứt quan hệ về nhân thân và tài sản của đứa trẻ với cha, mẹ đẻ và làm phát sinh những quan hệ đó giữa cha, mẹ nuôi và con nuôi). Hành vi của những người tham gia quan hệ pháp luật nuôi con nuôi nhằm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ trong lĩnh vực nuôi con nuôi cần thiết phải có cả quyết định của cơ quan có thẩm quyền công nhận sự kiện hoặc hành vi theo thủ tục luật định. Ví dụ : Để cho việc xác nhận con nuôi làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa người nhận nuôi và con nuôi thì cần thiết phải có quyết định về việc nhận con nuôi của Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc Uỷ ban nhân xã nếu việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam cư trú ở khu vực biên giới với công dân của nước láng giềng cùng cư trú ở khu vực biên giới với Việt Nam. Sự kiện pháp lí làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là sự kiện pháp lí xảy ra ở nước ngoài. Về việc nhận nuôi con nuôi ở nước ngoài, pháp luật Việt Nam thường sử dụng quy tắc luật nơi thực hiện hành vi để giải quyết xung đột pháp luật phát sinh trong quan hệ này. Trong trường hợp Việt Nam và nước hữu quan kí kết điều ước quốc tế thì xung đột pháp luật trong vấn đề này được điều chỉnh theo các quy phạm pháp luật ghi nhận trong các điều ước đó. Như vậy, việc xác định đúng thời điểm mà sự kiện pháp lí làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi có ý nghĩa rất quan trọng, nó giúp cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định đúng luật áp dụng để giải quyết xung đột pháp luật phát sinh giữa các bên, từ đó áp dụng luật chính xác trong việc giải quyết tranh chấp liên quan đến các chủ thể tham gia quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Yếu tố cư trú của các bên đương sự. Theo Pháp luật Việt Nam (Điều 826-Bộ Luật Dân Sự) chỉ nói đến ba yếu tố nước ngoài. Nhưng trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định bổ sung thêm yếu tố cư trú của các đương sự tham gia vào quan hệ gia đình có yếu tố nước ngoài cũng như quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Vì vậy, khi nói đến yếu tố cư trú của đương sự tham gia vào quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài có thể xảy ra hai trường hợp : Thứ nhất : Công dân Việt Nam cư trú ở nước ngoài. Theo quy định tại Điều 100 - Khoản 4 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 thì các quy định của Chương XI (quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài) cũng được áp dụng đối với quan hệ hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với nhau mà một bên hoặc cả hai bên định cư ở nước ngoài. Quy định này là hoàn toàn phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội hiện nay khi số lượng người Việt Nam cư trú ở nước ngoài nhập cảnh vào Việt Nam ngày càng tăng. Do đó, quan hệ nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài và người Việt Nam định cư ở nước ngoài cũng tăng lên. Do vậy, việc điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với nhau mà một bên hoặc cả hai bên cư trú ở nước ngoài là hết sức cần thiết. Theo quy định tại Khoản 4 Điều 100 Luật hôn nhân và gia đình, pháp luật được áp dụng để điều chỉnh quan hệ của họ là pháp luật Việt Nam, tức là áp dụng quy tắc Luật quốc tịch. Việc quy định như vậy là hoàn toàn hợp lí, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan có thẩm quyền giải quyết việc nuôi con nuôi khi họ tham gia tại Việt Nam. Thứ hai : Người nước ngoài cư trú ở Việt Nam. Hiện nay, quan hệ nuôi con nuôi giữa người nước ngoài với nhau thường trú tại Việt Nam phát sinh ngày càng nhiều. Trước tình hình đó, pháp luật Việt Nam đã có quy định điều chỉnh quan hệ giữa họ với nhau ở Việt Nam. Pháp luật áp dụng để điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi khi họ tham gia tại Việt Nam là pháp luật Việt Nam, tức là áp dụng quy tắc luật nơi cư trú của đương sự. Quy tắc này được ghi nhận tại Điều 105 - khoản 2 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Việc áp dụng luật nơi cư trú để điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi khi người nước ngoài tham gia tại Việt Nam là phù hợp với thực tế vì khi họ cư trú tại Việt Nam các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam áp dụng pháp luật Việt Nam sẽ giải quyết vụ việc nhanh chóng và thuận lợi do không phải áp dụng pháp luật nước ngoài. Như vậy, yếu tố nước ngoài trong quan hệ nuôi con nuôi được quy định trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 đã được mở rộng hơn trước đây. Việc mở rộng yếu tố nước ngoài là hết sức cần thiết, phù hợp với tình hình thực tế hiện nay của nước ta trong tiến trình hội nhập quốc tế. Phương pháp điều chỉnh. Phương pháp điều chỉnh của pháp luật điều chỉnh quan hệ gia đình có yếu tố nước ngoài trong đó có quan hệ nuôi con nuôi là phương pháp xung đột và phương pháp thực chất. Hai phương pháp này được kết hợp hài hoà và tác động tương hỗ với nhau trong điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài nhằm bảo đảm sự thuận lợi cho các bên trong quá trình giải quyết việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. 1.2.2.1 Phương pháp xung đột. Phương pháp xung đột là phương pháp điều chỉnh dựa vào các quy tắc được ấn định để áp dụng pháp luật của một nước chỉ định nhằm giải quyết quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài phát sinh thông qua các quy phạm xung đột [3]. Phương pháp xung đột được hình thành và phát triển trên nền tảng hệ thống các quy phạm xung đột của quốc gia và các quy phạm xung đột trong các điều ước quốc tế mà quốc gia đó là thành viên. Quy phạm xung đột là quy phạm pháp luật ấn định pháp luật của nước nào phải được áp dụng để điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài trong một tình huống cụ thể. Như vậy, quy phạm xung đột là loại quy phạm pháp luật “dẫn chiếu“, theo đó các cơ quan có thẩm quyền chọn được hệ thống pháp luật tối ưu để điểu chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Khác với các loại quy phạm pháp luật thông thường, quy phạm xung đột được cấu thành bởi hai bộ phận là phạm vi (tương tự phần “ giả định “) và hệ thuộc (tương tự phần “ quy định”), không có phần chế tài. Để giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, các nước thường sử dụng một số kiểu hệ thuộc cơ bản sau : Luật nhân thân (lex personalis) bao gồm luật quốc tịch (lex patriae) và luật nơi cư trú (lex domicilii); luật nơi thực hiện hành vi (lex loci astus) và luật toà án (lex fori). Ở Việt Nam, quy phạm xung đột về vấn đề nuôi con nuôi được ghi nhận trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 và một số văn bản khác. Ngoài ra, quy phạm xung đột còn được ghi nhận trong Hiệp định tương trợ tư pháp (HĐTTTP) Việt Nam đã kí kết với các nước. Ví dụ như : Theo Điều 29 HĐTTTP Việt Nam – Bungari; Điều 30 HĐTTTP Việt Nam – Ba lan ; Điều 29 HĐTTTP Việt Nam – Mông Cổ đều khẳng định “ việc nuôi con nuôi sẽ được áp dụng pháp luật của nước kí kết mà người nhận nuôi là công dân”. Phương pháp xung đột được áp dụng tương đối phổ biến để điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Phương pháp này được áp dụng thông qua quy phạm xung đột. Quy phạm xung đột không trực tiếp quy định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia trong quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, mà nó chỉ ra việc áp dụng pháp luật của một nước nào đó để điều chỉnh quan hệ này. 1.2.2.2 Phương pháp thực chất. Phương pháp thực chất là phương pháp điều chỉnh dựa vào việc nhất thể hoá các quy phạm luật thực chất, cách thức giải quyết quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài trong pháp luật của từng nước, định rõ quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ này dưới dạng định ra các quy phạm thực chất thống nhất [3]. Quy phạm thực chất là quy phạm trực tiếp phân định quyền và nghĩa vụ cụ thể giữa các bên tham gia quan hệ dân sự quốc tế. Quy phạm thực chất có thể được xây dựng trong các điều ước quốc tế (gọi là các quy phạm thực chất thống nhất). Việc xây dựng các quy phạm thực chất trong các điều ước quốc tế điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài cũng như trong quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là hết sức cần thiết. Nó làm hài hoà sự khác biệt trong pháp luật của các quốc gia và có tính chất đơn giản hoá trong việc điều chỉnh các quan hệ này. Khi các quốc gia kí kết với nhau điều ước quốc tế trong đó có quy phạm thực chất thống nhất, cơ quan có thẩm quyền giải quyết sẽ dựa vào đó để xem xét và giải quyết thực chất vấn đề trên cơ sở áp dụng ngay quy phạm đó.Việc áp dụng các quy phạm thực chất sẽ loại trừ vấn đề phải chọn luật và cả vấn đề áp dụng luật nước ngoài. Quy phạm thực chất còn được xây dựng trong pháp luật quốc gia. Loại quy phạm này gọi là quy phạm thực chất thông thường. Tuy nhiên, về vấn đề này, trong khoa học pháp lí các nước chưa có quan điểm thống nhất. Song, cùng với các quy phạm xung đột và quy phạm thực chất thống nhất, các quy phạm thực chất thông thường là quy phạm được áp dụng để điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, trong đó có quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Các quy phạm thực chất này được ghi nhận trong các văn bản pháp luật Việt Nam ban hành. Ví dụ như Khoản 1 - Điều 105 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Rõ ràng các quy phạm thực chất trong pháp luật quốc gia điều chỉnh trực tiếp quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Tóm lại, để điều chỉnh trực tiếp quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, các quốc gia thường sử dụng hai phương pháp xung đột và phương pháp thực chất với các quy phạm xung đột và quy phạm thực chất. Hai loại quy phạm này cùng tồn tại song song, hỗ trợ cho nhau với những chức năng khác nhau để điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. 1.3 Sơ lược quá trình hình thành và phát triển của pháp luật điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài tại Việt nam. Theo từng thời gian, để phù hợp với sự nghiệp cách mạng của đất nước, phù hợp với tình hình phát triển của các điều kiện kinh tế, xã hội và thực tế của các quan hệ hôn nhân và gia đình nói chung và quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài nói riêng, trong đó có quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Nhà nước ta đã kịp thời ban hành các văn bản pháp luật về hôn nhân và gia đình. Hệ thống pháp luật hôn nhân và gia đình dần được hoàn thiện, là công cụ pháp lý của Nhà nước ta, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân. 1.3.1 Trước năm 1945 Pháp luật phong kiến nước ta từ thế kỉ XV đến thể kỉ XIX tiêu biểu là hai bộ luật đó là : Quốc triều hình luật (Bộ luật Hồng Đức được ban hành dưới triều Lê) và Hoàng Việt luật lệ (còn gọi là Bộ luật Gia Long được ban hành dưới triều Nguyễn). Hai bộ luật này quy định khá cụ thể việc điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi trong thời kỳ đó. Thể hiện rõ nét phong tục, tập quán truyền thống của người Việt Nam về gia đình. Song các bộ luật này cũng không tránh khỏi hạn chế của chế độ phong kiến đang suy tàn, xu hướng duy trì chế độ phụ hệ vững chắc, triệt tiêu sự bình đẳng giữa vợ và chồng, giữa con nuôi và con đẻ. Dưới thời Pháp thuộc, đất nước ta bị chia làm ba kì là Bắc kì, Trung kì và Nam kì. Sau khi xâm lược Việt Nam và đặt ách đô hộ ở Nam kì, thực dân Pháp đã ban hành Bộ dân luật giản yếu Nam kì áp dụng ở Nam kì và ba thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Đã Nẵng. Bộ dân luật Bắc kì được ban hành vào ngày 30/03/1931 theo Nghị Định của Thống sứ Bắc kì để thi hành trên toàn Bắc kì từ ngày 01/07/1931 thay cho Bộ luật Gia Long. Hoàng Việt Trung kì bộ luật được ban hành năm 1939 thi hành trên toàn Trung kì. Về quan hệ gia đình, các bộ luật này đã quy định về vấn đề nuôi con nuôi, quyền và nghĩa vụ giữa cha, mẹ và con theo mô hình phương Tây. Song pháp luật dân sự thời kì này có những mặt hạn chế nhất định đó là gia đình vẫn mang nặng tư tưởng phong kiến, trọng nam khinh nữ, nhiều quy định về nghĩa vụ của con còn rất khắt khe. 1.3.2 Từ năm 1945 đến 1959 Ngay từ khi ra đời, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã quan tâm và coi trọng việc xây dựng hệ thống pháp luật nhằm củng cố và bảo vệ thành quả của cách mạng. Tuy chưa có văn bản riêng điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài nhưng vấn đề này được quy định trong một số văn bản pháp luật khác, như trong Sắc lệnh số 53/SL ngày 20/10/1945 về quốc tịch Việt Nam. Hiến pháp năm 1959 là cơ sở pháp lí quan trọng để điều chỉnh quan hệ gia đình trong thời kì này, tuy nhiên vẫn chưa có quy định cụ thể điều chỉnh trực tiếp quan hệ gia đình có yếu tố nước ngoài. Pháp luật trong nước về quan hệ gia đình có yếu tố nước ngoài còn hết sức đơn giản, chưa tập hợp thành hệ thống. Nhà nước ta chủ trương chưa ban hành văn bản pháp luật riêng để điều chỉnh trực tiếp quan hệ gia đình có yếu tố nước ngoài mà chỉ điều chỉnh quan hệ gia đình trong nước theo Hiến pháp 1946. Quan hệ hợp tác giữa nước Việt Nam dân chủ cộng hoà với các nước chủ yếu là các nước xã hội chủ nghĩa ở giai đoạn này mới bắt đầu kiến lập và dần được củng cố. Trong bối cảnh đó, các quan hệ xã hội có yếu tố nước ngoài phát sinh, đòi hỏi phải được pháp luật điều chỉnh, tuy nhiên vấn đề quan hệ gia đình có yếu tố nước ngoài chưa phải là yêu cầu bức xúc. 1.3.3 Từ năm 1959 đến 1986 Trong thời kì này, bản Hiến pháp mới của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã được Quốc hội thông qua tại kì họp thứ 11 ngày 31/12/1959, tiếp tục ghi nhận quyền bình đẳng giữa nam và nữ (Điều 24). Xuất phát từ tình hình thực tế của quan hệ gia đình trong thời kì mới, Luật hôn nhân và gia đình đã được Quốc hội thông tại kì họp thứ 11 ngày 29/12/1959. Luật đã điều chỉnh quyền và nghĩa vụ giữa vợ chồng, giữa cha, mẹ và con. Tuy nhiên, Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 không có quy phạm điều chỉnh quan hệ gia đình có yếu tố nước ngoài. Ở miền Bắc, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 04 ngày 16/01/1961 kèm theo Điều lệ về đăng kí hộ tịch. Ngày 21/06/1961, Bộ nội vụ ban hành Thông tư số 05/NV hướng dẫn thi hành Điều lệ về đăng kí hộ tịch nói trên. Tuy nhiên, trong văn bản pháp luật này chưa quy định điều chỉnh quan hệ gia đình có yếu tố nước ngoài đầy đủ nhưng những quy định này sẽ là nền móng cơ bản để chúng ta giải quyết quan hệ gia đình có yếu tố nước ngoài, đặc biệt là vấn đề con nuôi. Trong giai đoạn này, một số ít trường hợp người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi đã được giải quyết. Do vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài không được cụ thể hoá trong các văn bản pháp luật nói trên nên khi giải quyết các việc này các cơ quan nhà nước có thẩm quyền của ta còn gặp nhiều khó khăn và lúng túng. Ở miền Nam, cũng trong giai đoạn này, chính quyền Nguỵ Sài Gòn đã ban hành Bộ dân luật ngày 20/12/1972. Trong Bộ dân luật này đã quy định về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài nói chung và quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài nói riêng. Điều 248 Bộ dân luật Sài Gòn có quy định về vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, theo quy định này thì “Người Việt Nam có thể lập người ngoại quốc làm con nuôi hay làm con nuôi của người ngoại quốc “. Sau khi đất nước thống nhất, quan hệ hợp tác giữa Việt Nam với các nước ngày càng được mở rộng, do đó đã làm phát sinh ngày càng nhiều các quan hệ gia đình có yếu tố nước ngoài, đòi hỏi phải được pháp luật điều chỉnh ngay. Để xử lý tình hình này, Việt Nam đã tiến hành đàm phán và kí kết các hiệp định tương trợ tư pháp với Cộng hoà dân chủ Đức (1980) , Liên Xô (1981), Tiệp Khắc (1982), Cu Ba (1984)…Các hiệp định này đã tạo lập một khung pháp lí khá hoàn chỉnh điều chỉnh quan hệ gia đình có yếu tố nước ngoài như quan hệ pháp lí giữa vợ chồng, giữa cha mẹ và con; vấn đề nuôi con nuôi; vấn đề xung đột pháp luật và xung đột thẩm quyền được giải quyết khá cụ thể. Từ năm 1986-2000 Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nước ta bước sang một thời kỳ mới, chuyển dần sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trước những thay đổi mới to lớn của đất nước, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật kịp thời điều chỉnh những quan hệ mới phát sinh. Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 ra đời, trong thời kỳ đổi mới đất nước, kế thừa những nguyên tắc dân chủ và tiến bộ của chế độ hôn nhân gia đình mới được thể chế hoá trong Luật hôn nhân và gia đình năm 1959. Đã góp phần vào việc xây dựng và củng cố chế độ gia đình xã hội chủ nghĩa, giữ gìn và phát huy những phong tục tập quán, truyền thống tốt đẹp về hôn nhân và gia đình, từng bước nâng cao nhận thức và ý thức của nhân dân trong việc thi hành các quy định của Luật hôn nhân và gia đình. Về cơ bản, Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 kế thừa và tiếp tục phát huy những thành tựu lập pháp của Luật hôn nhân và gia đình năm 1959, đồng thời bổ sung những chế định quan trọng phù hợp với giai đoạn phát triển mới. Lần đầu tiên trong lịch sử pháp luật hôn nhân và gia đình, Nhà nước ta đã dành một chương riêng (Chương IX) để quy định về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. Trong chương này, các quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài được quy định tại Điều 52, 53 và 54. Đây là bước phát triển mới của Luật hôn nhân và gia đình năm 1986, đáp ứng nhu cầu của tình hình mới và phản ánh xu hướng mở rộng phạm vi điều chỉnh của Luật hôn nhân và gia đình, bước đầu quy định về hôn nhân và gia đình. Trong khoảng thời gian này, Quốc hội đã thông qua một số văn bản pháp lí có liên quan đến quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài nói chung và quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài nói riêng như Luật quốc tịch năm 1988, Điều 14 quy định : trẻ em là công dân Việt Nam làm con nuôi người nước ngoài không vì thế mà mất quốc tịch Việt Nam ; Luật bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em quy định (Điều 7)“ Mọi trường hợp đưa trẻ em ra nước ngoài hoặc từ nước ngoài vào phải theo quy định của pháp luật “; Pháp lệnh lãnh sự năm 1990, trong đó có quy định Cơ quan lãnh sự có thẩm quyền đăng kí kết hôn, nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài. Ngày 29/04/1992, Hội đồng bộ trưởng đã ban hành Quyết định số 145/ HĐBT quy định tạm thời về việc cho người nước ngoài nhận con nuôi là trẻ em mồ côi, bị bỏ rơi, bị tàn tật ở các cơ sở nuôi dưỡng do ngành lao động thương binh xã hội quản lí. Sau đó, ngày 19/01/1993, Bộ lao động - thương binh - xã hội, Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao, Bộ Nội vụ đã ban hành Thông tư liên tịch số 01/TTLB hướng dẫn thi hành Quyết định 145/HĐBT. Quyết định 145/HĐBT là văn bản pháp luật trong nước đầu tiên của Việt Nam cụ thể hoá nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện việc cho người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi, Quyết định 145/HĐBT đã bộc lộ một số hạn chế. Ngày 02/12/1993 Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài, trong đó Pháp lệnh có đề cập đến nuôi con nuôi tại Điều 16, Điều 17 với nội dung quy định cơ chế giải quyết tranh chấp và xác định quyền và nghĩa vụ của người nuôi và con nuôi, chấm dứt việc nuôi con nuôi. Để thi hành Pháp lệnh, ngày 30/11/1994 Nhà nước đã ban hành Nghị Định 184/CP quy định về thủ tục kết hôn, nhận con ngoài giá thú, nuôi con nuôi, nhận đỡ đầu giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài. Theo Điều 16 của Nghị Định trên thì trẻ em được nhận làm con nuôi bao gồm trẻ ở cơ sở nuôi dưỡng, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn được cha mẹ đồng ý và cả trường hợp trẻ em bị bỏ lại ở các cơ sở y tế. Tiếp đó, ngày 25/05/1995, liên Bộ Tư pháp - Bộ Ngoại giao - Bộ Nội vụ đã ban hành Thông tư số 503/TTLB hướng dẫn chi tiết thi hành Nghị Định số 184/CP. Ngày 28/08/1995, Bộ Tư pháp ban hành Thông tư số 337/TT-PLQT hướng dẫn thi hành một số quy định của Thông tư số 503 nói trên. Cũ._.ng trong giai đoạn này, ngày 01/02/2000 Việt Nam đã kí kết Hiệp định song phương với Cộng hoà Pháp hợp tác về lĩnh vực nuôi con nuôi. Hiệp định đã quy định các vấn đề về đối tượng nhận con nuôi, cho làm con nuôi ; thẩm quyền giải quyết việc nuôi con nuôi và luật áp dụng ; trình tự, thủ tục giải quyết nuôi con nuôi… Hiệp định hợp tác về lĩnh vực nuôi con nuôi này tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình giải quyết cho người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi. Như vậy, trong giai đoạn này Việt Nam đã xây dựng được hệ thống pháp luật khá đầy đủ, đồng bộ và tương đối chi tiết điều chỉnh các vấn đề thuộc quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Các văn bản này đã góp phần vào việc thực hiện chính sách đối ngoại mở rộng của Nhà nước ta trong thời kỳ mới. Đồng thời đã định ra một cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa Bộ Tư pháp với các Uỷ ban nhân dân tỉnh trong giải quyết việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Từ năm 2000 đến nay. Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 đã đóng góp một phần to lớn trong việc điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình. Tuy nhiên, trong giai đoạn đổi mới hiện nay, nhiều quy định trong Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 không còn phù hợp nữa do đó cần được nghiên cứu và bổ sung. Để đáp ứng yêu cầu trong nước và quốc tế trong giai đoạn mới, Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 được Quốc Hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua ngày 9/6/2000 tại kỳ họp thứ 7 khoá X. Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2001. Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 thay thế cho Luật hôn nhân và gia đình năm 1986, Pháp lệnh 1993, Nghị Định 184/CP và các văn bản hướng dẫn thi hành Nghị Định. Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 đã dành một chương (chương XI) quy định quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. Chương này gồm 7 điều từ Điều 100 đến Điều 106. Trong đó quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài được quy định tại Điều 105 “ Người nước ngoài xin nhận trẻ em Việt Nam hoặc nhận trẻ em nước ngoài thường trú tại Việt Nam làm con nuôi phải tuân theo quy định của Luật này và quy định trong pháp luật của nước mà người đó là công dân về điều kiện nhận nuôi con nuôi.” Sự ra đời của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 đã đáp ứng được yêu cầu thực tế trong việc giải quyết quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài nói chung và quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài nói riêng, nó có phạm vi điều chỉnh rộng hơn so với Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, Pháp lệnh 1993 và Nghị Định 184/CP. Ngày 10/07/2002, Nghị Định 68/2002/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài đã được Chính phủ thông qua. Ngày 16/12/2000, Bộ Tư pháp ra thông tư số 07/2000/TT-BTP hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị Định 68/2002/NĐ-CP. Các văn bản pháp lí này đã tạo điều kiện cho việc áp dụng dễ dàng và thống nhất các quy định về hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Như vậy, Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 và các văn bản hướng dẫn thi hành luật này đã tạo khung pháp lí hoàn chỉnh cho việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài được thực hiện một cách dễ dàng và nhanh chóng đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế của Việt Nam hiện nay trong lĩnh vực nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. CHƯƠNG II QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM. Pháp luật Việt nam điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. 2.1.1 Nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài Nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài được quy định tại Điều 35 - Nghị Định 68/2002/NĐ-CP thể hiện quan điểm cơ bản, chủ đạo xuyên suốt trong quá trình giải quyết việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam. - Theo quy định tại Điều 35- Nghị Định 68/2002/NĐ-CP bao gồm 2 nguyên tắc : Thứ nhất , Việc cho, nhận con nuôi chỉ được thực hiện trên tinh thần nhân đạo, nhằm bảo đảm lợi ích tốt nhất cho trẻ em và tôn trọng các quyền cơ bản của trẻ em. Nghiêm cấm lợi dụng việc nuôi con nuôi nhằm mục đích bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục, mua bán trẻ em hoặc vì mục đích trục lợi khác. Đây là nguyên tắc chưa được khẳng định trong Nghị định 184/CP, là sự khác biệt cơ bản của Nghị Định 68/2002/NĐ-CP, thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với thế hệ trẻ em hôm nay. Đồng thời, nguyên tắc này được ghi nhận trong Công ước La Hay về hợp tác nuôi con nuôi 1993. Từ đó, có thể thấy nguyên tắc cơ bản của việc giải quyết nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài dựa trên nguyên tắc của Công ước La Hay 1993. Quy định này nhằm đảm bảo đúng mục đích của của việc nuôi con nuôi. Bởi vì trong thời gian qua, một số trường hợp người nhận con nuôi đã lợi dụng việc nuôi con nuôi, có các hành vi bóc lột sức lao động của con nuôi, xâm phạm tình dục đối với con nuôi. Những việc làm đó là hoàn toàn trái với mục đích của việc nhận nuôi con nuôi, trái pháp luật và đạo đức xã hội. Quy định này của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 chính là cơ sở để phòng ngừa, ngăn chặn, và xử lý những hiện tượng xã hội tiêu cực đó. Thứ hai, Việc cho người nước ngoài thường trú ở nước ngoài nhận trẻ em có quốc tịch Việt Nam làm con nuôi được xem xét, giải quyết nếu Việt Nam và nước nơi người xin nhận con nuôi thường trú đã ký kết hoặc cùng gia nhập điều ước quốc tế về hợp tác nuôi con nuôi ( trừ trường hợp là xin trẻ đích danh theo quy định tại điểm b, khoản 2, Điều 36 – Nghị Định 68/2002/NĐ-CP ). Đây chính là điểm mới của NĐ 68/2002 so với NĐ 184/CP, mà trước đây nghị định 184/CP đã không quy định nguyên tắc này. Đây là nguyên tắc hết sức quan trọng vì nó yêu cầu việc giải quyết con nuôi phải đặt ở tầm quan hệ giữa hai nhà nước, chứ không còn là quan hệ giữa người xin con nuôi, người cho con nuôi và cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Thông qua cơ chế hợp tác này, Hiệp định bảo đảm về cả phía ta và phía nước ngoài quản lý tốt hơn cha mẹ nuôi và con nuôi, cũng như toàn bộ trình tự thủ tục giải quyết. Điều này làm tăng độ tin cậy đối với hồ sơ, cũng như toàn bộ quy trình giải quyết cho con nuôi, phù hợp với các nguyên tắc, mục đích cao cả của Công ước Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em ngày 20/11/1989 và Công ước La Hay về hợp tác nuôi con nuôi năm 1993. Bên cạnh những nguyên tắc được quy định tại Điều 35 của Nghị Định 68/2002/NĐ-CP, trong quá trình giải quyết việc nuôi con nuôi cần đảm bảo các nguyên tắc sau : a. Nguyên tắc bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam ở nước ngoài phù hợp với pháp luật Việt Nam, pháp luật nước sở tại, pháp luật và tập quán quốc tế. Đồng thời không phân biệt đối xử với người nước ngoài trong quan hệ gia đình có yếu tố nước ngoài cũng như quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam. Theo quy định tại Khoản 2 Điều 100 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000: “Trong quan hệ hôn nhân và gia đình, người nước ngoài tại Việt Nam được hưởng các quyền và nghĩa vụ như công dân Việt Nam, trừ trường hợp pháp luật Việt Nam có quy định khác “. Theo nguyên tắc này, khi người nước ngoài tham gia vào quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài sẽ được hưởng các quyền và nghĩa vụ như công dân Việt Nam, trừ một số trường hợp cụ thể mà pháp luật Việt Nam có quy định khác. Như vậy, Nhà nước Việt Nam đã áp dụng chế độ đãi ngộ như công dân đối với người nước ngoài trong quan hệ nuôi con nuôi được thực hiện tại Việt Nam Bên cạnh việc thừa nhận và bảo hộ quyền lợi của công dân nước ngoài,“ Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo hộ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam ở nước ngoài trong quan hệ hôn nhân và gia đình phù hợp với pháp luật Việt Nam, pháp luật của nước sở tại, pháp luật và tập quán quốc tế” (Khoản 3 Điều 100 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000). Quy định này rất có ý nghĩa trong giai đoạn hiện nay, tạo cơ sở pháp lý thống nhất để Nhà nước tiến hành bảo hộ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân ta trong quan hệ hôn nhân và gia đình bao gồm quan hệ nuôi con nuôi ở nước sở tại. Việc bảo hộ quyền lợi của công dân Việt Nam được thực hiện thông qua Cơ quan đại diện ngoại giao, Cơ quan lãnh sự của ta ở nước ngoài. Điều này hoàn toàn phù hợp với quy định của Công ước Viên 1961 về quan hệ ngoại giao và Công ước Viên 1963 về quan hệ lãnh sự mà Việt Nam đã gia nhập. Như vậy, trong quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, Nhà nước Việt Nam luôn tôn trọng và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên không phân biệt họ là người Việt Nam hay người nước ngoài. Việc bảo vệ quyền lợi của các bên đều được thực hiện trên cơ sở các quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình của Việt Nam, các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết và tham gia. Việt Nam cũng bày tỏ kiên quyết trong đấu tranh chống các hành vi lợi dụng quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài nhằm mục đích mua bán, bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục đối với trẻ em hoặc vì mục đích trục lợi khác. b. Nguyên tắc áp dụng pháp luật nước ngoài đối với quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài (Điều 101). Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là một chế định của quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, do đó trong quá trình giải quyết việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài cũng phải tuân theo nguyên tắc này. Do bản chất của quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài nên có ít nhất hai hệ thống pháp luật (pháp luật Việt Nam và pháp luật nước ngoài hữu quan) cùng có thể được áp dụng để điều chỉnh quan hệ đó. Việc áp dụng pháp luật nước nào không phải do ý chí chủ quan của cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà là do sự dẫn chiếu của quy phạm xung đột. Theo Điều 101, trong các trường hợp sau, pháp luật nước ngoài được áp dụng : Một là, khi quy phạm xung đột trong Luật hôn nhân và gia đình dẫn chiếu áp dụng pháp luật nước ngoài. b. Hai là, trong các văn bản khác của Việt Nam (bao gồm cả các văn bản hướng dẫn thi hành Luật hôn nhân và gia đình năm 2000) dẫn chiếu áp dụng pháp luật nước ngoài để điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình. c. Ba là, điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia dẫn chiếu áp dụng pháp luật nước ngoài. Do vậy, căn cứ để áp dụng pháp luật nước ngoài, trước hết phải dựa trên các quy phạm xung đột được quy định trong pháp luật Việt Nam hoặc trong điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia. Việc áp dụng pháp luật nước ngoài bắt buộc phải bảo đảm điều kiện không trái với các nguyên tắc của Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam. Tóm lại, có thể nói việc giải quyết nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam phải tuân theo một số nguyên tắc pháp lí nhất định. Những nguyên tắc này được cụ thể hoá trong các quy định của pháp luật về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài của Việt Nam. Việc tuân thủ các nguyên tắc này không chỉ bảo vệ lợi ích của quốc gia trong quan hệ quốc tế mà còn bảo vệ quyền lợi chính đáng của các chủ thể trong quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Điều kiện nuôi con nuôi. Như chúng ta đã biết, mục đích của việc nuôi con nuôi nói chung cũng như nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài nói riêng là nhằm gắn bó tình cảm giữa người nuôi và con nuôi trong quan hệ cha, mẹ và con, đảm bảo cho người con chưa thành niên được trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục tốt phù hợp với đạo đức xã hội [19]. Do vậy, việc nuôi con nuôi là biện pháp hữu hiệu nhằm tạo ra mái ấm gia đình, sự yêu thương chăm sóc, giáo dục của cha, mẹ nuôi đối với con nuôi. Để việc nuôi con nuôi được thực hiện theo đúng mục đích tốt đẹp đó, đồng thời đảm bảo sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước, pháp luật Việt Nam quy định về điều kiện nhận nuôi con nuôi bao gồm điều kiện đối với người nhận nuôi con nuôi và điều kiện đối với người được nhận làm con nuôi. Điều kiện đối với người nhận con nuôi. Theo khoản 1- Điều 105 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000: “ Người nước ngoài xin nhận trẻ em Việt Nam hoặc nhận trẻ em nước ngoài thường trú tại Việt Nam làm con nuôi phải tuân theo quy định của Luật này và quy định trong pháp luật của nước mà người đó là công dân về điều kiện nhận nuôi con nuôi “. Như vậy, pháp luật Việt Nam đã kết hợp giữa nguyên tắc nơi cư trú và nguyên tắc quốc tịch để điều chỉnh điều kiện của người nhận nuôi. Theo quy định tại Khoản 2 Điều 35 Nghị Định 68/2002/NĐ-CP, người nước ngoài cư trú ở nước ngoài chỉ có thể nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi nếu Việt Nam và nước nơi người xin nhận con nuôi thường trú đã kí kết hoặc cùng gia nhập điều ước quốc tế về hợp tác nuôi con nuôi (bao gồm trẻ em sống tại gia đình và cơ sở nuôi dưỡng). Đối với người nước ngoài thường trú tại nước chưa kí kết hoặc cùng gia nhập với Việt Nam điều ước quốc tế về hợp tác nuôi con nuôi thì chỉ được nhận trẻ em Việt Nam đang sống tại gia đình làm con nuôi trong trường hợp xin đích danh trẻ em thuộc trường hợp bị mồ côi, bị tàn tật, trẻ em có quan hệ họ hàng thân thích với người xin nhận con nuôi. Và cũng tại Nghị định số 68/CP, Khoản 1 - Điều 37 thì điều kiện đối với người xin nhận con nuôi bao gồm “ Người nước ngoài xin nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi phải có đủ điều kiện để nuôi con nuôi theo quy định tại Điều 69 của Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam và pháp luật của nước nơi người đó thường trú”. Như vậy, người nước ngoài phải đáp ứng được các điều kiện tại Điều 69 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 tức là phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; hơn con nuôi từ hai mươi tuổi trở lên; có tư cách đạo đức tốt; có điều kiện thực tế bảo đảm việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi; không phải là người đang bị hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên…[19]. Việc quy định như vậy là hết sức cần thiết. Bảo đảm cho người con nuôi được sống trong môi trường gia đình lành mạnh, được chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục tốt bảo đảm cho sự hình thành và phát triển tốt về nhân cách cho người con nuôi. Đồng thời, bảo đảm cho việc nuôi con nuôi đạt được mục đích của nó và phù hợp với ý nghĩa của việc nuôi con nuôi. Do vậy, khi nhận con nuôi, người nhận con nuôi phải có đủ các điều kiện đó. Trong trường hợp vợ chồng xin nhận con nuôi thì vợ chồng đều phải có đủ các điều kiện quy định tại Điều 69 của Luật hôn nhân và gia đình (Điều 70-Luật hôn nhân và gia đình , Khoản 2-Điều 37 Nghị Định 68/2002/NĐ-CP ). Điều kiện đối với người được nhận làm con nuôi. Trước đây, Nghị Định 184/CP không có quy định hạn chế về đối tượng trẻ em được cho làm con nuôi nên trong một thời gian dài bất cứ người nước ngoài nào cũng có thể vào Việt Nam để xin trẻ em từ các cơ sở nuôi dưỡng, cơ sở y tế hoặc từ gia đình có con nuôi. Do đó, hiện tượng môi giới, trung gian về nuôi con nuôi đã xuất hiện, gây mất trật tự an ninh, xã hội nghiêm trọng. Để khắc phục hiện tượng này, Nghị Định 68/2002/NĐ-CP ngoài việc quy định về điều kiện đối với người nhận con nuôi còn quy định điều kiện đối với người được nhận làm con nuôi là trẻ em Việt Nam bao gồm : * Phải là người từ đủ 15 tuổi trở xuống. Quy định này xuất phát từ cơ sở những người chưa thành niên từ 15 tuổi trở xuống là người chưa có năng lực hành vi đầy đủ, họ chưa nhận thức được đầy đủ hành vi của mình, quan hệ nuôi con nuôi sẽ bảo đảm cho người con nuôi có được sự giám hộ của cha mẹ nuôi. Hơn nữa, căn cứ vào đặc tính thể chất, ở lứa tuổi này, các em chưa có khả năng tự lập nên cần được nuôi dưỡng, quan tâm chăm sóc và giáo dục. Nếu các em ở độ tuổi này rơi vào tình trạng không còn cha mẹ, không xác định được cha mẹ hoặc cha mẹ rơi vào tình trạng không có khả năng lao động hoặc mất năng lực hành vi dân sự thì các em có quyền được nhận làm con nuôi để cha mẹ nuôi chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục các em. Theo quy định tại Điều 1 Luật bảo vệ và chăm sóc trẻ em ( 12/08/1991) và Công ước quốc tế về quyền trẻ em thì đây là lứa tuổi các em cần được đặc biệt quan tâm bảo vệ. * Trẻ em trên 15 tuổi có thể được nhận làm con nuôi nếu là trẻ em tàn tật hoặc mất năng lực hành vi dân sự. Việc quy định như vậy nhằm tạo cho các em có một cơ hội chăm sóc, nuôi dưỡng tốt hơn. * Đối tượng trẻ em được nhận làm con nuôi Trẻ em được cho làm con nuôi thuộc một trong các đối tượng sau : a. Trẻ em đang sống tại cơ sở nuôi dưỡng được thành lập hợp pháp tại các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Quy định này là hoàn toàn hợp lý, để tránh tình trạng buôn bán trẻ em dưới hình thức nuôi con nuôi. Mặt khác, để Nhà nước có thể quản lý thống nhất hoạt động nuôi con nuôi từ Trung ương đến địa phương. b. Trẻ em đang sống tại gia đình thuộc diện mồ côi, bị tàn tật hoặc có quan hệ họ hàng, thân thích với người xin nhận con nuôi. Như vậy, Nghị Định 68/2002/NĐ-CP không cho phép cơ sở y tế trực tiếp cho trẻ em làm con nuôi người nước ngoài như Nghị Định 184/CP trước đây, nhằm giới hạn đối tượng con nuôi về một mối thống nhất để dễ quản lý, ngăn chặn các hiện tượng tiêu cực có thể phát sinh. Quyền và nghĩa vụ giữa cha, mẹ và con nuôi. Khi quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài được xác lập thì vấn đề tất yếu là xác định nội dung các quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi. Để giải quyết xung đột pháp luật về vấn đề này, khoản 2 Điều 105 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định : Thứ nhất : Nếu việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài được thực hiện tại Việt Nam thì quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi được xác lập theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Điều 74 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định “ Giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con theo quy định của Luật này, kể từ thời điểm đăng kí việc nuôi con nuôi “. Việc pháp luật Việt Nam khẳng định vị trí con nuôi như con trong giá thú có ý nghĩa rất quan trọng, đảm bảo sự chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục của cha, mẹ nuôi đối với con nuôi. Thứ hai : Nếu việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài được thực hiện tại nước không phải là Việt Nam thì quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi được xác định theo quy định của pháp luật nước nơi người con nuôi thường trú. Quy định này hoàn toàn khác với Pháp lệnh 1993 về hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài. Theo Khoản 2 - Điều 16 Pháp lệnh 1993 thì quyền và nghĩa vụ của người nuôi và con nuôi giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài được xác định theo pháp luật của nước mà người nuôi là công dân nếu cha mẹ nuôi có quốc tịch khác nhau thì áp dụng pháp luật của nước nơi thường trú của con nuôi. Như vậy, pháp luật Việt Nam sử dụng hệ thuộc luật nơi thường trú (lex domicilli) của con nuôi để xác định quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi khi việc nuôi con nuôi được thực hiện ở nước ngoài. ChÊm dứt việc nuôi con nuôi. Việc nuôi con nuôi không chỉ là một biện pháp phúc lợi cho trẻ em mà còn là một biện pháp xã hội và pháp lý để bảo vệ trẻ em nhằm tạo ra mái ấm gia đình, sự thương yêu đùm bọc của cha mẹ nuôi để cứu giúp những đứa trẻ bất hạnh như các trẻ em mồ côi, trẻ em lang thang cơ nhỡ, trẻ em bị cha mẹ bỏ rơi… Việc chấm dứt việc nuôi con nuôi nằm ngoài sự mong đợi của cha mẹ nuôi và con nuôi. Nhưng để nhằm bảo vệ quyền lợi của các bên cũng như ý nghĩa xã hội của chế định nuôi con nuôi mà pháp luật về hôn nhân và gia đình Việt Nam quy định những trường hợp chấm dứt nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam. Cụ thể là : - Cha mẹ nuôi và con nuôi đã thành niên cùng tự nguyện chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi. - Con nuôi bị kết án về một trong các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của cha mẹ nuôi; ngược đãi, hành hạ cha mẹ nuôi hoặc có hành vi phá tán tài sản của cha mẹ nuôi. - Cha mẹ nuôi đã lợi dụng việc nuôi con nuôi để bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục, mua bán trẻ em hoặc vì mục đích trục lợi khác ; bị hạn chế hoặc bị kết án mà chưa được xoá án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của người khác ; ngược đãi hành hạ ông bà, vợ, chồng, cha, mẹ, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình ; dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thành niên phạm pháp ; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em ; các tội xâm phạm tình dục đối với trẻ em ; có hành vi xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội. * Thẩm quyền chấm dứt việc nuôi con nuôi. Cơ quan có thẩm quyền chấm dứt việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam hiện nay là Toà án nhân dân cấp tỉnh nơi thường trú của con nuôi. Trong trường hợp trẻ em Việt Nam làm con nuôi người nước ngoài đã xuất cảnh ra nước ngoài cùng cha mẹ nuôi, thì việc chấm dứt nuôi con nuôi do Toà án hoặc Cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài nơi tiến hành việc nuôi con nuôi đó, thực hiện theo pháp luật nước ngoài. * Việc chấm dứt nuôi con nuôi có những hệ quả pháp lý : Nếu việc chấm dứt nuôi con nuôi được tiến hành tại Tòa án Việt Nam, thì các quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi hoàn toàn chấm dứt. Giữa cha mẹ nuôi và con nuôi không còn tồn tại mối quan hệ pháp lý giữa cha mẹ và con nữa; nếu con nuôi là người chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động hoặc không có tài sản để tự nuôi mình, thì Toà án quyết định giao người đó cho cha mẹ đẻ hoặc cá nhân, tổ chức trông nom, nuôi dưỡng. Nếu con nuôi có tài sản riêng thì được nhận lại tài sản của mình. Nếu con nuôi đã thay đổi họ, tên, thì được lấy lại họ tên cũ của mình do cha mẹ đẻ đặt. Nếu việc chấm dứt nuôi con nuôi do Toà án hoặc cơ quan có thẩm quyền khác của nước ngoài tiến hành thì thường phát sinh những hệ quả pháp lý sau : Quan hệ pháp lý giữa cha mẹ nuôi và con nuôi chấm dứt tức là cha mẹ nuôi và con nuôi không còn tồn tại mối quan hệ pháp lý giữa cha mẹ và con, không có các quyền và nghĩa vụ đối với nhau kể cả về cấp dưỡng, thừa kế. Quan hệ pháp lý giữa cha mẹ đẻ (nếu có) và con nuôi được khôi phục lại. Con nuôi được lấy lại họ của cha mẹ đẻ. Khôi phục lại các quan hệ gia đình giữa con nuôi và gia đình gốc của mình kể cả quan hệ thừa kế. Sau khi Toà án hoặc Cơ quan có thẩm quyền khác của nước ngoài quyết định việc chấm dứt nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, để đảm bảo lợi ích tốt nhất của trẻ em, nếu cha mẹ nuôi hoặc cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài yêu cầu nhận trẻ em về Việt Nam do hậu quả của việc chấm dứt nuôi con nuôi đó, thì cha mẹ đẻ, người giám hộ hoặc cơ sơ nuôi dưỡng đã giao trẻ em đó trước đây có trách nhiệm làm thủ tục tiếp nhận trẻ em. 2.1.5 Trình tự và thủ tục giải quyết việc nuôi con nuôi tại Việt Nam Nghị định 68/CP quy định chi tiết hơn rất nhiều về trình tự, thủ tục giải quyết các vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Nhiều quy định được thể hiện trong các mẫu hồ sơ ban hành kèm theo thống nhất trên phạm vi cả nước. Các loại giấy tờ, thời hiệu, trình tự giải quyết được quy định hợp lý hơn, thuận lợi hơn cho người xin con nuôi, đảm bảo sự yên tâm cho người xin con nuôi và người cho con nuôi, đồng thời cũng đảm bảo lợi ích tốt nhất của đứa trẻ bởi một đứa trẻ đã bị bỏ rơi và khi được người khác nhận làm con nuôi thì không phải chịu thêm bất hạnh một lần nữa do việc xin con nuôi không thành. Hồ sơ của người xin nhận con nuôi. Tại Điều 41 Nghị Định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10 tháng 7 năm 2002 của Chính phủ, Người nước ngoài xin nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi phải làm 02 bộ hồ sơ, mỗi bộ gồm các giấy tờ sau : 1. Đơn xin nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi theo mẫu quy định. Bản sao Hộ chiếu hoặc giấy tờ có giá trị thay thế; Giấy phép còn có giá trị do cơ quan có thẩm quyền của nhà nước nơi người xin nhận con nuôi thường trú cấp, cho phép người đó nhận con nuôi. Nếu nước nơi người xin nhận con nuôi thường trú không cấp loại giấy phép này thì thay thế bằng giấy xác nhận có đủ điều kiện nuôi con nuôi theo pháp luật của nước đó; Giấy xác nhận do tổ chức y tế có thẩm quyền của nước nơi người xin nhận con nuôi thường trú cấp chưa quá 06 tháng tính đến ngày nhận hồ sơ, xác nhận người đó có sức khoẻ, không bị mắc bệnh tâm thần, bệnh truyền nhiễm; Giấy tờ xác nhận về tình hình thu nhập của người xin nhận con nuôi, chứng minh người đó bảo đảm việc nuôi con nuôi ; Phiếu lý lịch tư pháp của người xin nhận con nuôi do cơ quan có thẩm quyền của nước nơi người đó thường trú cấp chưa quá 06 tháng tính đến ngày nhận hồ sơ. Trong trường hợp nếu hai vợ chồng xin nhận con nuôi, thì còn phải có bản sao giấy chứng nhận kết hôn. Nếu người xin nhận con nuôi có quan hệ họ hàng, thân thích với trẻ em được xin làm con nuôi thì còn phải có giấy tờ xác nhận về mối quan hệ họ hàng, thân thích đó. Cũng theo Nghị Định 68/2002/NĐ-CP thì các giấy tờ bằng tiếng nước ngoài do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cấp có trong hồ sơ của người xin nhận con nuôi phải được Bộ Ngoại giao hoặc Cơ quan Ngoại giao, Cơ quan Lãnh sự của Việt Nam hợp pháp hoá và được dịch sang tiếng Việt và được Công chứng theo quy định của pháp luật Việt Nam. Đối với khu vực biên giới, các giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền của các nước Trung Quốc, Lào, Campuchia cấp, công chứng hoặc xác nhận để sử dụng tại Việt Nam vào việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở khu vực biên giới được miễn hợp pháp hoá lãnh sự. Tiếp nhận và xử lý ban đầu hồ sơ của người xin nhận con nuôi. Khi Việt Nam với nước ngoài hữu quan đã ký kết Hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi , thì người nước ngoài phải nộp hồ sơ thông qua cơ quan trung ương về nuôi con nuôi quốc tế ( hoặc tổ chức con nuôi được uỷ quyền ) của nước đó ; không chấp nhận việc gửi trực tiếp hồ sơ cho Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh hoặc cho Sở Tư Pháp như trước đây. Đây chính là điểm mới của NĐ 68/CP so với NĐ 184/CP. Theo quy định của Nghị Định 68/2002/NĐ-CP của Chính phủ, thì Cục Con nuôi quốc tế (Bộ Tư Pháp) là cơ quan Trung ương về nuôi con nuôi của Việt Nam, là cơ quan có trách nhiệm kiểm tra, theo dõi quá trình giải quyết hồ sơ của người nước ngoài xin nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi, do vậy hồ sơ xin nhận con nuôi của người nước ngoài phải được nộp tại Cục Con nuôi quốc tế là hoàn toàn phù hợp với tinh thần của Công ước La Hay về nuôi con nuôi. Khi tiếp nhận hồ sơ, Cục con nuôi quốc tế chủ yếu nhằm mục đích kiểm tra tính hợp lệ, tính đầy đủ của hồ sơ. Hồ sơ của người xin con nuôi phải bảo đảm phù hợp với quy định của Nghị Định và Hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi giữa Việt Nam với các nước hữu quan như : + Người xin nhận phải đúng đối tượng theo quy định của Nghị Định 68/2002/NĐ-CP, cụ thể là người xin con nuôi phải là thường trú tại nước mà nước đó đã ký kết hoặc cùng gia nhập điều ước quốc tế về hợp tác nuôi con nuôi với Việt Nam; nếu không thường trú tại nước đó, thì chỉ được xem xét giải quyết trong trường hợp ngoại lệ như xin đích danh trẻ em bị mồ côi cả cha và mẹ hoặc mồ côi mẹ (hoặc cha) còn người kia không rõ là ai; trẻ em bị tàn tật hoặc có quan hệ họ hàng, thân thích với người xin nhận con nuôi; những trẻ em này hiện tại đang sống cùng với gia đình. + Trong trường hợp Việt Nam với nước ngoài hữu quan chưa ký kết Hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi, thì hồ sơ phải do người xin nhận con nuôi trực tiếp nộp tại Cục con nuôi quốc tế thuộc Bộ Tư Pháp. Nếu người xin nhận con nuôi là vợ chồng mà một trong hai người không thể có mặt tại Việt Nam để nộp hồ sơ, thì phải có giấy uỷ quyền cho người kia. Sau khi nhận được hồ sơ, căn cứ vào nguyện vọng của người xin nhận con nuôi muốn nhận trẻ em ở tỉnh, thành phố nào thì Cục Con nuôi quốc tế gửi công văn kèm có nội dung hồ sơ trích ngang của người xin nhận con nuôi cho Sở Tư pháp tỉnh, thành phố của trẻ em được nhận làm con nuôi để hướng dẫn làm hồ sơ cho trẻ trong trường hợp xin đích danh từ gia đình hoặc cơ sở nuôi dưỡng. Nếu người xin nhận con nuôi không thể hiện rõ ý muốn xin nhận trẻ em tại tỉnh, thành phố nào thì Cục Con nuôi quốc tế có công văn gửi Sở Tư pháp nơi có cơ sở nuôi dưỡng có khả năng giới thiệu trẻ em thực hiện việc giới thiệu đó. Một điểm mới là khi gửi Công văn cho Sở Tư pháp, Cơ quan Con nuôi quốc tế không gửi kèm hồ sơ của người xin nhận con nuôi, kể cả đối với trường hợp xin trẻ đích danh cũng như xin trẻ không đích danh, mà chỉ gửi kèm nội dung hồ sơ trích ngang của người xin nhận con nuôi (Thông tư số 07/2002/TT-BTP hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị Định 68/CP) nhằm tránh việc chuyển hồ sơ lòng vòng khi chưa xác định được trẻ em cho làm con nuôi Chuẩn bị hồ sơ, thẩm tra hồ sơ của trẻ em tại địa phương. Chuẩn bị hồ sơ cho trẻ em : Trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày nhận được công văn của Cục Con nuôi quốc tế, Sở Tư pháp có trách nhiệm hướng dẫn cơ sở nuôi dưỡng trẻ em (nếu xin đích danh trẻ em từ cơ sở nuôi dưỡng) hoặc cha mẹ, người giám hộ của trẻ em (nếu xin đích danh trẻ em từ gia đình) làm hồ sơ cho trẻ em. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được công văn của Sở Tư pháp, người đứng đầu cơ sơ nuôi dưỡng hoặc cha mẹ , người giám hộ của trẻ em có trách nhiệm hoàn tất 04 bộ hồ sơ của trẻ em và nộp cho Sở Tư pháp ; Theo Điều 44 Nghị Định 68/2002/NĐ-CP thì mỗi bộ hồ sơ gồm các giấy tờ sau đây Bản sao Giấy khai sinh của trẻ em ; Giấy đồng ý cho trẻ em làm con nuôi quy định tại khoản 3 Điều này; Giấy xác nhận của tổ chức y tế từ cấp huyện trở lên về tình trạng sức khoẻ của trẻ em, trong đó ghi rõ tình trạng đặc biệt, nếu có ; 4. Hai ảnh mầu của trẻ em, chụp toàn thân cỡ 10 x 15 cm hoặc 9 x 12 cm. 5. Ngoài ra, tuỳ từng trường hợp, thì còn phải nộp các giấy tờ tương ứng. Việc chuẩn bị hồ sơ cho trẻ em Việt Nam làm con nuôi người nước ngoài được tiến hành theo Điều 43 Nghị Định 68/2002/NĐ-CP. Cơ sở nuôi dưỡng hoặc cha mẹ, người giám hộ của trẻ em có trách nhiệm lập hồ sơ cho trẻ. Quy định này một mặt xác định rõ trách nhiệm và nâng cao ý thức của những người liên quan trong việc hoàn thiện hồ sơ cho trẻ em và tránh được tình trạng hồ sơ giấy tờ giả mạo, mặt khác giúp cho Sở Tư pháp có điều kiện thẩm tra xác minh kỹ lưỡng hồ sơ của trẻ em trước khi thông báo cho Cơ quan Con nuôi quốc tế. Thẩm tra hồ sơ của trẻ em tại Sở Tư pháp : Theo Điều 45 Nghị Định 68/2002/NĐ-CP của Chính phủ thì trình tự thẩm tra hồ sơ của trẻ em tại Sở Tư pháp được tiến hành trong thời gian không quá 30 ngày theo các bước sau : - Kiểm tra toàn bộ các giấy tờ trong hồ sơ ; nếu hồ sơ chưa đầy đủ hoặc chưa hợp lệ thì yêu cầu cơ sở nuôi dưỡng hoặc cha mẹ, người giám hộ của trẻ em bổ sung hoàn thiện hồ sơ. - Thẩm tra về tính hợp pháp của toàn bộ giấy tờ trong hồ sơ của trẻ em; - Xác minh, làm rõ về nguồn gốc của trẻ em ; - Gửi văn bản bá._. Việt Nam. * Sức ép của các nước thành viên khi Việt Nam gia nhập Công ước La Hay 1993. Đây là một thách thức mà chúng ta phải tính đến khi gia nhập Công ước La Hay 1993 về nuôi con nuôi. Trên nguyên tắc điều ước, chúng ta khó có thể từ chối đối với trường hợp người thường trú tại bất kỳ nước thành viên nào xin nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi. Mặt dù, Việt Nam có quyền từ chối việc cho trẻ em đó làm con nuôi tại một nước thành viên cụ thể vì lợi ích tốt nhất của trẻ em. Nhưng trên thực tế , người thường trú tại một nước thành viên bất kỳ của Công ước xin nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi, mà nước đó với Việt Nam không có quan hệ hợp tác trên lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hoá ; không có quan hệ ngoại giao, quan hệ lãnh sự thì rõ ràng sự việc trở nên phức tạp. Mặt khác, xét trên khía cạnh bình đẳng trong quan hệ đa phương (với tư cách đều là quốc gia thành viên Công ước) và khía cạnh hỗ trợ kỹ thuật giữa các tổ chức con nuôi của các nước thành viên có các dự án, chương trình hỗ trợ nhân đạo với các nước không có dự án hỗ trợ, đã cho thấy sự bất bình đẳng trong quan hệ nuôi con nuôi. Khi đó, các cơ sở nuôi dưỡng của ta khó có thể chấp nhận cho trẻ em đi làm con nuôi tại những nước không có dự án hoạt động hỗ trợ kỹ thuật. Đây là một lý do tế nhị trong việc từ chối cho nhận con nuôi, mặc dù dưới khía cạnh nhân đạo của việc cho con nuôi thì ít nhiều đã bị ảnh hưởng. Như vậy, việc Việt Nam gia nhập Công ước La Hay 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi giữa các nước là đỏi hỏi tất yếu để giải quyết tốt vấn đề nuôi con nuôi quốc tế ở Việt Nam đồng thời bảo về quyền lợi trẻ em Việt Nam làm con nuôi người nước ngoài. Tuy nhiên, có nhiều khó khăn bất cập trong việc giải quyết cho người nước ngoài xin nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi khi Việt Nam gia nhập Công ước La Hay 1993. Việc khắc phục những khó khăn bất cập kể cả từ phương diện cơ chế, chính sách, pháp luật và thực tiễn thi hành là một công việc vô cùng nặng nề và phức tạp không thể làm xong một sớm một chiều. CHƯƠNG III THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM TRONG LĨNH VỰC NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI 3.1 Thực trạng của quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài Theo thống kê, ở Việt Nam hiện nay có khoảng 30 triệu trẻ em, trong đó có khoảng 2,5 triệu trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, 1,7 triệu gia đình đói nghèo, gần 150 ngàn trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ tàn tật, trẻ lang thang [26]. Việc cho trẻ em Việt Nam làm con nuôi người nước ngoài trong thời gian qua đã cơ bản giải quyết được những khó khăn về đời sống cho một số trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, trẻ em tàn tật mà điều kiện gia đình cũng như cơ sở nuôi dưỡng không đảm bảo được việc chăm sóc, chữa trị tốt nhất, đồng thời đáp ứng được mục tiêu cơ bản của việc nuôi con nuôi là vì lợi ích tốt nhất của trẻ em. Kể từ khi Việt Nam thực hiện chính sách đổi mới cùng với xu thế chung tình hình người nước ngoài xin nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi ngày càng gia tăng. Theo thống kê chưa đầy đủ, từ năm 1990 đến 5 tháng đầu năm 2004 có 15.427 trẻ em Việt Nam được người nước ngoài nhận làm con nuôi [16]. Trong số đó, nước nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi nhiều nhất là Pháp và Mỹ. Bảng 1 : Những quốc gia chủ yếu nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi trong giai đoạn 1998 – 2003 [11] 1998 1999 2000 2001 2002 2003 Đức 5 15 155 150 159 11 Bỉ 203 99 39 42 39 14 Canada 37 63 69 133 83 42 Hoa Kỳ 274 724 544 741 387 Pháp 1343 731 5 44 73 235 Thụy Điển 182 171 127 51 64 17 Đan Mạch 58 50 46 65 73 19 Bảng 2: Số lượng trẻ em được nhận làm con nuôi người nước ngoài trong giai đoạn 1990 đến 5 tháng đầu năm 2004 [16]. Năm Số trẻ em được nhận làm con nuôi người nước ngoài 1990 60 1991 181 1992 432 1993 638 1994 1233 1995 1584 1996 1695 1997 1576 1998 1860 1999 1474 2000 1229 2001 1127 2002 1392 2003 807 5 tháng đầu năm 2004 139 Mặc dù năm 1990 chỉ có 60 trường hợp trẻ em Việt nam làm con nuôi người nước ngoài, nhưng từ giữa những năm 90 số lượng tăng nhanh. Từ khi Nghị Định 68/CP đi vào cuộc sống, do tính chất pháp lý chặt chẽ và các điều kiện nuôi con nuôi nghiêm ngặt hơn nên số lượng trẻ em Việt Nam được cho làm con nuôi người nước ngoài có giảm đi so với các năm trước. Song về cơ bản, việc giải quyết nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài đã dần dần đi vào quy củ, ngăn chặn về cơ bản được những hiện tượng trục lợi, cò mồi, đảm bảo tính nhân đạo, tính chặt chẽ và tính nghiêm minh của pháp luật. Đây là đà ban đầu để chúng ta có thể giải quyết tốt hơn, nhanh chóng hơn và thuận lợi hơn trong tương lai. Hà Nội là một trong những địa phương có số lượng người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi tương đối đông. Theo số liệu thống kê của Sở Tư pháp Hà Nội, trong 8 năm (từ 1995-2002) có khoảng 15 quốc gia có công dân xin nhận trẻ em Việt Nam tại Hà Nội làm con nuôi, với tổng số 1.037 trẻ em, trong đó tập trung ở một số nước như Mỹ, Thụy Điển, Cộng hoà liên bang Đức, Tây Ban Nha. Từ năm 2000 đến 2002, Sở Tư pháp Hà Nội đã thụ lý và giải quyết 509 hồ sơ người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam tại Hà Nội làm con nuôi trong đó: - Năm 2000 : 169 hồ sơ - Năm 2001 : 167 hồ sơ - Năm 2002 : 173 hồ sơ. Trong tổng số 509 trẻ em được làm con nuôi người nước ngoài có 294 trẻ ở trong các cơ sở nuôi dưỡng, 167 trẻ ở các cơ sở y tế, có 6 trẻ ở gia đình [27]. Như vậy, trẻ em được cho làm con nuôi đa số là trẻ em có nguồn gốc bị bỏ rơi, một số ít sống cùng gia đình và cha mẹ. Nghị Định 68/2002/NĐ-CP ngày 10/07/2002 thay thế Nghị Định 184/CP ngày 30/11/1994 đã quy định chặt chẽ về đối tượng nhận con nuôi và đối tượng trẻ em được cho làm con nuôi nên kết quả trong 11 tháng (từ 02/01/2003 đến 15/11/2003) Hà Nội chỉ giải quyết được 06 trường hợp trẻ làm con nuôi người nước ngoài (03 trẻ làm con nuôi người Pháp, 03 trẻ nhận làm con nuôi người Tây Ban Nha). Số lượng này so với cùng kỳ năm 2002 giảm 75 %. Mặc dù số lượng trẻ em được nhận làm con nuôi người nước ngoài giảm đi kể từ khi Nghị Định 68/2002/NĐ-CP ra đời. Song việc ra đời của Nghị Định 68 là một bước chuẩn bị về mặt luật pháp của Việt Nam trước khi gia nhập Công ước La Hay năm 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác giữa các nước về con nuôi nước ngoài. Như vậy, Nghị Định 68/CP đã góp phần làm ổn định tình hình nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam hiện nay. Cụ thể là : - Thông qua cơ chế ký kết điều ước quốc tế về hợp tác nuôi con nuôi với các nước, nước ta có thể tăng cường sự hợp tác trong việc xử lý một cách tổng thể vấn đề nuôi con nuôi, giảm bớt được những rào cản về trình tự, thủ tục, giấy tờ, cũng như tăng cường cơ chế bảo vệ trẻ em theo các chuẩn mực của Công ước La Hay. - Việc cho trẻ em từ cơ sở được thành lập hợp pháp đi làm con nuôi, cũng như trẻ em từ gia đình thuộc diện mồ côi, tàn tật hoặc có quan hệ họ hàng thân thiết (đối với trường hợp ngoại lệ), đã tạo ra cơ chế kiểm tra và quản lý tốt về nguồn trẻ em, tránh tình trạng tiêu cực, lộn xộn, phức tạp hoặc không rõ ràng từ việc cho trẻ em làm con nuôi người nước ngoài. Do vậy, việc trẻ em được nhận làm con nuôi người nước ngoài trở nên minh bạch, công khai hơn theo các trình tự, thủ tục chặt chẽ và có thể kiểm soát được từ Trung ương đến địa phương. - Trình tự, thủ tục giải quyết hồ sơ đã có những bước tiến đáng kể. Các mẫu giấy tờ đã được thực hiện nhuần nhuyễn và thuận lợi hơn cho người xin con nuôi, cũng như cho các địa phương. Các hồ sơ của người xin con nuôi trực tiếp hoặc thông qua tổ chức con nuôi nước ngoài được uỷ quyền nộp tại Cục Con nuôi quốc tế, đều được Cục kiểm tra khá kỹ lưỡng trước khi xử lý và gửi xuống địa phương để làm thủ tục và ra quyết định cho trẻ em làm con nuôi. Hồ sơ của trẻ cũng được địa phương gửi cho Cục để Cục thẩm tra và cho ý kiến trước khi địa phương làm thủ tục cuối cùng. Đây là cơ chế đảm bảo tính minh bạch và an toàn cho hồ sơ của người xin con nuôi cũng như hồ sơ của trẻ được xin làm con nuôi nhằm hạn chế tiêu cực, đảm bảo yên tâm cho người xin con nuôi và người cho con nuôi. - Hiện nay, việc cho phép tổ chức con nuôi nước ngoài hoạt động tại Việt Nam theo Nghị Định 68/2002 và theo Hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi với các nước đã tạo ra yếu tố kích thích quan trọng, năng động và thực tế hơn trong quy trình giải quyết vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Những tổ chức này chỉ được phép hoạt động nhân đạo, phi lợi nhuận, chịu sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ của các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam ở Trung ương và cả ở địa phương. Thông qua cơ chế cấp phép một cách công khai, minh bạch, Bộ Tư pháp có điều kiện theo dõi, kiểm tra, cũng như thực hiện quyền thu hồi, huỷ giấy phép khi cần thiết. Cơ chế quản lý này còn được quy định trong các Hiệp định về hợp tác nuôi con nuôi giữa nước ta với các nước và trong pháp luật trong nước của mỗi nước. Việc cho phép tổ chức con nuôi nước ngoài vào hoạt động tại Việt Nam dưới hình thức thực hiện các dự án hỗ trợ nhân đạo cho cơ sở nuôi dưỡng trẻ em tại địa phương, đã tạo nên cơ chế mềm dẻo, linh hoạt và thực tế hơn, tiết kiệm được nhiều chi phí đi lại cho cha mẹ nuôi, cũng như góp phần loại bỏ nhiều vấn đề tiêu cực, phức tạp phát sinh khác. Tuy nhiên, do mới bước vào hoạt động công khai trong khuôn khổ pháp luật, trong điều kiện (từ cơ chế hoạt động nhân đạo, sang cơ chế hỗ trợ việc nuôi con nuôi) nên một số tổ chức vẫn còn lúng túng, tính hiệu quả vẫn còn hạn chế. Nhưng kết quả chung cho thấy, đây là một chủ trương đúng đắn, bước đầu đã tạo được lòng tin và sự ủng hộ của cả trong và ngoài nước tạo điều kiện tốt cho sự phát triển cho các tổ chức con nuôi nước ngoài trong những năm tới. Song bên cạnh đó, trong quá trình thực hiện Nghị Định 68/CP đã phát sinh một số vấn đề như sau : Thứ nhất, tình trạng ứ đọng hồ sơ chủ yếu diễn ra đối với các hồ sơ xin con nuôi của người Pháp. Trong năm 2003 chỉ xử lý được 235 hồ sơ trên tổng số trên 1000 hồ sơ được chuyển qua Đại sứ quán Pháp. Thực tế đã có nhiều gia đình Pháp vì chờ đợi qúa lâu, đã xin rút hồ sơ để xin con nuôi ở nước khác. Trong 5 tháng đầu năm 2004 với rất nhiều cố gắng, song cũng mới chỉ giải quyết được 139 hồ sơ. Số hồ sơ tồn đọng hiện này tại Cục Con nuôi quốc tế khoảng 100 và số hồ sơ đọng tại Đại sứ quán Pháp hiện nay là 368 [16]. Trong khi đó, các hồ sơ xin con nuôi mới vẫn tiếp tục được công dân Pháp gửi đến Đại sứ quán Pháp. Nhiều hồ sơ do chờ đợi quá lâu nên không ít giấy tờ đã hết hạn, đòi hỏi đương sự phải gia hạn hoặc xin cấp mới. Đây thực sự là một khó khăn trong quá trình giải quyết cho người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi. Mặt khác, theo Nghị Định 68/2002/NĐ-CP, Việt Nam chỉ giải quyết cho người nước ngoài thường trú tại các nước đã ký kết điều ước quốc tế hợp tác về nuôi con nuôi với Việt Nam được nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi. Do vậy, nhiều trung tâm nuôi dưỡng, bảo trợ xã hội của địa phương đang ở tình trạng quá tải, không còn chỗ để đón nhận trẻ em bị bỏ rơi vào cơ sở nuôi dưỡng. Nhiều cơ sở nuôi dưỡng đang gặp khó khăn trong công tác chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em, bởi số kinh phí hạn hẹp do nhà nước cấp. Điều này gây khó khăn cho bản thân các trung tâm trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng và theo dõi sức khoẻ của trẻ em trong điều kiện hạn hẹp về khả năng tài chính. Thứ hai, Tình trạng hồ sơ giải quyết chậm. Theo Nghị Định 68/CP thì thời hạn giải quyết hồ sơ là 4 tháng kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ tại Cục Con nuôi quốc tế, Bộ Tư pháp. Nhưng thông thường rất ít hồ sơ đảm bảo được thời hạn này. Thậm chí có những hồ sơ kéo dài đến hàng năm do nhiều nguyên nhân khác nhau. Nhiều khâu hồ sơ không được giải quyết đúng hạn. Điều này gây cho không ít giấy tờ hết giá trị khiến đương sự lại phải làm lại. Nhiều địa phương do ít va chạm với hồ sơ nuôi con nuôi nên chưa nắm vững trình tự, thủ tục xử lý hồ sơ. Đồng thời, cũng có nhiều khâu các cơ quan hữu trách và các cán bộ xử lý trực tiếp kéo dài, không đảm bảo tiến độ theo quy định, thiếu tinh thần trách nhiệm, tắc trách trong xử lý hồ sơ. Trong khi đó, các biện pháp nhắc nhở, đôn đốc còn thiếu kịp thời, thiếu biện pháp xử lý hành chính đối với những cá nhân, cơ quan xử lý chậm hồ sơ. Điều này cũng là nguyên nhân không kém phần quan trọng làm chậm trễ quá trình xử lý hồ sơ. Chính vì thế mà việc nâng cao trình độ chuyên môn, tác nghiệp, tăng cường cán bộ và công tác quản lý cán bộ làm công tác con nuôi, nâng cao ý thức trách nhiệm của từng cán bộ, từng cơ quan hữu trách là giải pháp để khắc phục tình trạng chậm trễ này. Thứ ba, tổ chức con nuôi nước ngoài. Với các tổ chức con nuôi nước ngoài đi lập dự án với địa phương cho thấy, một số địa phương đã có tinh thần hợp tác tốt, cởi mở sẵn sàng hợp tác với tổ chức con nuôi nước ngoài. Tuy nhiên, cũng có không ít các tỉnh còn do dự hoặc có những điểm chưa rõ, thậm chí còn có những nhận thức chưa đúng về chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Song cũng có địa phương lại yêu cầu vấn đề hỗ trợ nhân đạo quá cao, không phù hợp với khả năng của tổ chức con nuôi nước ngoài, thậm chí có những cán bộ còn gợi ý thiếu tế nhị làm cho đối tác nước ngoài hiểu nhầm về mục đích hợp tác. Một trong những nguyên nhân gây ra tình trạng trên là, chúng ta chưa có văn bản pháp luật quy định thống nhất về cơ chế huy động hỗ trợ nhân đạo và cơ chế quản lý thống nhất khoản hỗ trợ này. Bởi lâu nay việc sử dụng khoản viện trợ này là tuỳ từng địa phương, tuỳ từng đối tác nước ngoài cho nên hầu như không có địa phương nào công khai một cách rõ ràng các khoản thu, chi hoặc nếu có công khai hoá, thì chỉ để hợp thức hoá về mặt hình thức hay đối phó với việc thanh tra, kiểm tra của Nhà nước. Do đó, đã đến lúc chúng ta phải có văn bản pháp luật quy định cụ thể về cơ chế huy động và sử dụng các khoản hỗ trợ nhân đạo này và áp dụng thống nhất trên phạm vi cả nước, nhằm mục đích bảo đảm tốt hơn mục đích nhân đạo của việc tiếp nhận các khoản hỗ trợ cho công tác bảo vệ trẻ em và giải quyết nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Thứ tư, Cơ quan chuyên môn. Việc thành lập Cục con nuôi quốc tế thuộc Bộ Tư pháp là một bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện cơ chế, chính sách và thiết chế về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở nước ta. Tuy nhiên, trong điều kiện cải cách hành chính, lực lượng biên chế của Cục còn hạn chế, lại phải đảm trách nhiều lĩnh vực công việc khác nhau, nên từ khi thành lập đến nay Cục chưa có điều kiện đi sâu nghiên cứu, khảo sát, kiểm tra và hướng dẫn, đôn đốc công việc tại địa phương. Bên cạnh đó, đứng trước việc xử lý vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài phức tạp, đòi hỏi sự quyết đáp cơ bản thì với thẩm quyền, chức năng, quyền hạn của Cục hiện nay còn chưa đáp ứng được yêu cầu. Đối với các Sở Tư pháp địa phương cũng còn không ít bất cập. Nhiều tỉnh vẫn chưa có cán bộ chuyên trách xử lý hồ sơ nuôi con nuôi. Vấn đề nuôi con nuôi do cán bộ hộ tịch kiêm nhiệm. Do vậy, không có điều kiện đi sâu, nắm vững nghiệp vụ xử lý hồ sơ, gây khó khăn cho việc giải quyết đúng hạn theo quy định. Tại những tỉnh đã có cán bộ chuyên trách thì lực lượng vẫn còn rất mỏng, khó có thể đáp ứng kịp thời yêu cầu xử lý hồ sơ trong giai đoạn hiện nay, nhất là khi số lượng hồ sơ gia tăng đáng kể. Thứ năm, quy trình làm việc giữa cơ quan Trung ương (Cục Con nuôi quốc tế - Bộ Tư pháp) và các cơ quan địa phương (Văn phòng Uỷ ban nhân dân tỉnh, Sở Tư pháp) thực hiện bằng con đường công văn. Vì vậy, quá trình giải quyết một hồ sơ tốn khá nhiều thời gian. Đó chưa kể có những vấn đề sai sót, vướng mắc trong hồ sơ cần được điều chỉnh, bổ sung. Do vậy, nếu giữa các cơ quan không có sự nghiên cứu nghiêm túc, khẩn trương và thông tin kịp thời cho nhau thì việc giải quyết hồ sơ sẽ bị đình trệ, gây khó khăn cho người xin nhận con nuôi và cả các cơ quan nhà nước tham gia giải quyết việc cho nhận con nuôi; đặc biệt đối với những trường hợp sức khoẻ của trẻ em đang ở trong tình trạng không đảm bảo, cần sớm được cha mẹ nuôi đảm nhận thì mới có điều kiện chữa trị kịp thời. Trong những trường hợp này, việc giải quyết hồ sơ càng cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan Trung ương và ở địa phương. 3.2 Giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Pháp luật Việt Nam về vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài đã quy định tương đối đồng bộ và đầy đủ các điều kiện, trình tự, thủ tục cũng như thẩm quyền giải quyết, tạo nên khung pháp lí tương đối hoàn chỉnh điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện giải quyết cho người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi trong những năm qua cho thấy còn không ít tồn tại, bất cập xảy ra, cả về pháp luật và về cơ chế chính sách. Trước tình hình đó, Việt Nam cần phải sớm hoàn thiện pháp luật về nuôi con nuôi, tạo cơ sở pháp lý an toàn, vững chắc và tin cậy cho việc giải quyết và quản lý nhà nước trong lĩnh vực này. Do vậy, Việt Nam cần phải thực hiện một số giải pháp sau đây : Thứ nhất : Một số giải pháp đối với hồ sơ của người xin nhận con nuôi. - Chúng ta cần có sự phối hợp chặt chẽ với Cơ quan Ngoại giao, Cơ quan Lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài hoặc Cơ quan Ngoại giao, Cơ quan Lãnh sự của nước ngoài tại Việt Nam để tìm hiểu rõ các quy định pháp luật của các nước về các giấy tờ có trong hồ sơ của Người xin nhận con nuôi để có các quy định phù hợp và chặt chẽ hơn ; - Có thể nghiên cứu và kéo dài thời hạn của một số loại giấy tờ có trong hồ sơ của người xin nhận con nuôi. Ví dụ như : Giấy chứng nhận sức khoẻ có thể cho thời hạn là 01 năm cho phù hợp với việc khám sức khoẻ định kỳ của các nước bởi vì theo Nghị Định 68/2002/NĐ-CP của Chính phủ quy định Giấy xác nhận về tình trạng sức khoẻ của người xin nhận con nuôi và Phiếu lý lịch Tư pháp của người xin nhận con nuôi có trong hồ sơ của người xin nhận con nuôi phải do cơ quan có thẩm quyền của nước nơi người xin nhận con nuôi thường trú cấp chưa quá 06 tháng tình đến ngày Cục con nuôi quốc tế nhận hồ sơ. Tuy nhiên, theo quy định của một số nước, khi làm thủ tục xin phép nhận nuôi con nuôi tại nước nơi mình thường trú, người xin nhận con nuôi cũng phải nộp các giấy tờ như trên do đó khi đã nhận được giấy phép xin nhận con nuôi và hoàn tất hồ sơ để nộp tại Cục con nuôi quốc tế (Bộ Tư pháp) thì các giấy tờ đó bị quá hạn và người xin nhận con nuôi lại phải làm thủ tục xin lại các giấy tờ này, nên thời hạn chuẩn bị hồ sơ xin nhận con nuôi thường bị kéo dài, gây tâm lý chán nản cho người xin nhận con nuôi. - Nên xem xét, bổ sung quy định đối với các nước mà khi cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy phép nuôi con nuôi có kèm theo các giấy tờ của người xin nhận con nuôi đầy đủ như các giấy tờ quy định tại Nghị Định 68/2002/NĐ-CP và nếu các giấy tờ đó còn thời hạn thì chấp nhận đó là một bộ hồ sơ hoàn chỉnh, tránh việc người xin nhận con nuôi phải làm lại các giấy tờ, kéo dài thời gian chuẩn bị hồ sơ. - Đối với các trường hợp hồ sơ xin nhận con nuôi của người nước ngoài thường trú tại các nước chưa ký Hiệp định về nuôi con nuôi với Việt Nam hay hồ sơ của Việt Kiều xin nhận họ hàng thân thích, nên đề nghị Cơ quan Ngoại giao, Cơ quan Lãnh sự nước ngoài tại Việt Nam cấp Giấy xác nhận Lãnh sự, xác nhận sự phù hợp với quy định của pháp luật nước ngoài về điều kiện, tư cách của người xin nhận con nuôi (tương tự như các trường hợp xin nhận con nuôi theo Hiệp định). Thứ hai : Về đối tượng làm con nuôi; Nhà nước cần sớm ban hành văn bản nghiên cứu mở rộng đối tượng trẻ được xin đích danh. Bởi hiện nay, theo quy định của Nghị Định 68/2002/NĐ-CP thì đối tượng được cho làm con nuôi người nước ngoài là trẻ em đang sống trong các cơ sở nuôi dưỡng hợp pháp (trừ trường hợp ngoại lệ), theo đó đối tượng được tiếp nhận vào các cơ sở này được quy định tại Thông tư số 10/2002/TT-BLĐTBXH, bao gồm : trẻ em mồ côi cả cha và mẹ, trẻ em bị bỏ rơi không có nguồn nuôi dưỡng, không có người thân thích để nương tựa hoặc trẻ em mồ côi nhưng người thân thích không đủ khả năng nuôi dưỡng và các đối tượng khác do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định. Nhưng lại không có cơ quan có thẩm quyền nào đưa ra văn bản hướng dẫn hoặc văn bản cụ thể nào quy định các đối tượng khác có thể được tiếp nhận vào các cơ sở, trung tâm bảo trợ xã hội. Thứ ba : Pháp luật Việt nam đã cho phép tổ chức con nuôi nước ngoài hoạt động tại Việt Nam nếu họ đáp ứng đủ các điều kiện quy định. Tuy nhiên, Nghị Định 68/2002/NĐ-CP mới chỉ quy định cơ bản về điều kiện, trình tự và thủ tục lập Văn phòng con nuôi nước ngoài tại Việt Nam, nhưng quy chế hoạt động của các văn phòng này chưa được xác định rõ nét. Vì vậy, nhà nước cần đề ra quy chế hoạt động chung cho các tổ chức này, trên cơ sở đó các tổ chức này sẽ đề ra cho mình một quy chế phù hợp với quy chế chung nhằm thống nhất quản lý và hướng các tổ chức này hoạt động theo đúng pháp luật, tránh được tình trạng hoạt động cạnh tranh không lành mạnh giữa tổ chức con nuôi nước ngoài của các quốc gia, gây tiêu cực, phản tác dụng trong thực tế, nhất là khi gia nhập Công ước La Hay 1993, Việt Nam sẽ phải chấp nhận sự hoạt động của Văn phòng con nuôi nước ngoài của các nước thành viên. Thứ tư : Về phía Bộ Tư pháp, nên chú trọng công tác bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ làm công tác thụ lý và giải quyết hồ sơ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ; tăng cường tổ chức hội nghị trao đổi kinh nghiệm giữa các địa phương làm tốt công tác giải quyết cho người nước ngoài nhận nuôi con nuôi Việt Nam. Bên cạnh đó, kịp thời đề nghị Nhà nước sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật liên quan đến vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài để làm cho pháp luật Việt Nam hài hoà với thông lệ quốc tế cũng như pháp luật của các nước đã hoặc sắp ký Hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi với Việt Nam. Nghiên cứu đề nghị Chính phủ mở rộng đối tượng trẻ được xin đích danh từ gia đình nhằm đáp ứng được nguyện vọng của cả người cho và người nhận con nuôi. Thứ năm : Phải tăng thêm quyền cho Cục con nuôi quốc tế để cơ quan này có đủ thẩm quyền cần thiết để thực hiện một cách có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế, mà trước hết cần phải phân định rõ thẩm quyền quyết định cho trẻ em làm con nuôi người nước ngoài giữa Cục Con nuôi quốc tế và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh. Có thể phân định thêm chức năng quyết định việc cho trẻ em Việt Nam làm con nuôi người nước ngoài cho Cục Con nuôi quốc tế. Thứ sáu : Mở rộng việc kí kết hiệp định song phương về hợp tác nuôi con nuôi với các nước. Bởi theo Nghị Định 68/2002/NĐ-CP thì Việt Nam chỉ giải quyết cho trẻ em Việt Nam làm con nuôi ở các nước đã kí kết hoặc tham gia điều ước quốc tế về hợp tác nuôi con nuôi với Việt Nam. Đối với các nước chưa kí kết hoặc chưa tham gia điều ước quốc tế với Việt Nam thì chỉ giải quyết cho trẻ em làm con nuôi trong một số trường hợp. Do đó, Nhà nước ta cần mở rộng việc kí kết hiệp định về hợp tác nuôi con nuôi với các nước để có một cơ chế hợp tác quốc tế nhằm bảo vệ trẻ em Việt Nam được làm con nuôi, tránh cho trẻ em Việt Nam mọi rủi ro không đáng có khi làm con nuôi ở nước ngoài và tạo điều kiện cho công dân các nước được nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi. Tuy nhiên, để hiệp định hợp tác nuôi con nuôi mà nước ta kí với các nước sau này đạt được kết quả tốt, Nhà nước ta cần có kế hoạch đầu tư ngân sách để tăng khả năng thu hút trẻ em vào cơ sở nuôi dưỡng, tạo nguồn giới thiệu cho nước ngoài. Đồng thời, cần tăng cường phát huy vai trò của ngành lao động – thương binh – xã hội và các cơ quan liên quan đến việc giải quyết nuôi con nuôi. Thứ bảy : Nhà nước cần xem xét để sớm thành lập thêm các cơ sở nuôi dưỡng trẻ em, đồng thời hỗ trợ kinh phí, tăng cường trang bị cơ sở vật chất cho các trung tâm nuôi dưỡng trẻ mồ côi suy dinh dưỡng để các trung tâm này có đủ điều kiện tiếp nhận trẻ vào trung tâm, đảm bảo “đầu ra” cho công tác giải quyết cho người nước ngoài nhận con nuôi. Thứ tám : Cần kịp thời xây dựng Quy chế phối hợp liên ngành giữa các cơ quan hữu quan (như giữa Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao, Bộ Công an và Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội) và cơ chế phối hợp giữa các cơ quan Trung ương và các cơ quan chức năng ở địa phương trong quá trình giải quyết việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Tại địa phương, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh cần chỉ đạo các ngành hữu quan (Tư pháp, Lao động – Thương binh và Xã hội, Công an, Y tế) kịp thời xây dựng Quy chế phối hợp trong việc tiếp nhận trẻ vào cơ sở nuôi dưỡng trẻ em trên địa bàn; xác minh nguồn gốc trẻ phục vụ công tác giải quyết cho người nước ngoài nhận nuôi con nuôi, nhằm tạo thuận lợi cho việc thực hiện giải quyết tốt và hiệu quả vấn đề nuôi con nuôi quốc tế mà mục tiêu cao nhất là vì lợi ích tốt nhất cho trẻ em. Như vậy, các giải pháp hoàn thiện pháp luật điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài luôn có mối liên hệ mật thiết với nhau, do vậy các giải pháp trên phải được tiến hành một cách đồng bộ mới đem lại kết quả tích cực. Đồng thời, đòi hỏi phải có sự nỗ lực rất lớn cả từ phía nhà nước và xã hội để thực hiện các giải pháp nhằm hoàn thiện chế định nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, đáp ứng được yêu cầu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. KẾT LUẬN Sau khi thống nhất đất nước, Việt Nam phải gánh chịu hậu quả nặng nề của chiến tranh để lại thì việc bảo vệ các quyền cơ bản của trẻ em trong đó có quyền được làm con nuôi, được chăm sóc, nuôi dưỡng trong môi trường gia đình thay thế đối với những đứa trẻ bất hạnh là điều luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm và bảo đảm thực hiện. Cùng với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài ngày càng tăng, trong đó số lượng trẻ em Việt Nam được nhận làm con nuôi người nước ngoài chiếm một số lượng lớn. Ở góc độ nào đó thì đây là điều đáng mừng song bên cạnh đó đòi hỏi sự hoàn thiện của pháp luật để bảo đảm quyền lợi của trẻ em không bị xâm phạm. Trong thời gian vừa qua, pháp luật Việt Nam về vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài được quy định cụ thể và ngày càng hoàn thiện hơn. Các Hiệp định hợp tác nuôi con nuôi giữa Việt Nam và các nước đã được kí kết như Hiệp định hợp tác nuôi con nuôi giữa Việt Nam với Pháp, Italia, Đan Mạch, Ailen, Thuỵ Điển và gần đây nhất là Hiệp định hợp tác nuôi con nuôi giữa Việt Nam và Bỉ. Tạo cơ sở pháp lí quan trọng để việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài được thực hiện nhanh chóng và thuận lợi. Song bên cạnh đó, vẫn còn tồn tại một số khó khăn và bất cập cần sớm được tháo gỡ trong quá trình giải quyết việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài . Như vậy, chúng ta phải có các giải pháp phù hợp để giải quyết những bất cập, khó khăn trước khi có thể tuyên bố gia nhập “Công ước La Hay 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi giữa các nước “. TÀI LIỆU THAM KHẢO Bộ ngoại giao (1994), “ Công ước La Hay 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi giữa các nước “. Trường đại học Luật Hà Nội (2002), Giáo trình Luật hôn nhân và gia đình, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. Trường đại học Luật Hà Nội (2004), Giáo trình Tư pháp quốc tế, Nxb Tư pháp, Hà Nội. Nguyễn Hồng Bắc, “Pháp luật điều chỉnh quan hệ gia đình có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và hội nhập “, luận án tiến sĩ (2003). Nguyễn Hồng Bắc (2001), “Những quy định mới của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài “, Tạp chí Luật học (3), tr 43-47. Nguyễn Hồng Bắc (2002), “Quy định của pháp luật Việt Nam về quan hệ gia đình có yếu tố nước ngoài ở khu vực biên giới “, Tạp chí Luật học (5), tr3-6. Nguyễn Hồng Bắc (2003), “Một số vấn đề cần giải quyết khi Việt Nam gia nhập Công ước La Hay năm 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi giữa các nước “, Tạp chí luật học số 3, tr.3. Nông Quốc Bình (2002), “Lịch sử phát triển của pháp luật về hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam “, Tạp chí Luật học (2), tr 7-10. Nguyễn Phương Lan, “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật Việt Nam “, Luận văn thạc sỹ (2000). Chu Mạnh Hùng (2003), “ Công ước quyền trẻ em năm 1989 - cơ sở cho việc bảo vệ quyền trẻ em ”, Tạp chí Luật học (3), tr 31-34. Bộ Tư pháp (2004), Báo cáo về công tác giải quyết cho trẻ em Việt Nam làm con nuôi người nước ngoài, Hà nội. Bộ luật Dân sự (1995), Nxb chính trị. Luật quốc tịch (1988). Luật quốc tịch (1998). Công ước của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em năm 1989. TS.Vũ Đức Long, Cục trưởng Cục con nuôi quốc tế, Bộ Tư pháp “Tổng quan về tình hình đăng kí việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam“ (Tham luận Hội thảo tại Hà Nội - 2003) Luật hôn nhân và gia đình (1959). Luật hôn nhân và gia đình (1986). 19 Luật hôn nhân và gia đình (2000). 20. Pháp lệnh Hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài năm 1993. 21. Nghị Định 184/CP của Chính phủ quy định về thủ tục kết hôn, nhận con ngoài giá thú, nuôi con nuôi, nhận đỡ đầu giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài. 22. Nghị Định 68/2002/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. 23. Thông tư số 07/2002/TT-BTP ngày 16-12-2002 của Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị Định số 68/2002/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài . 24. Hiệp định Hợp tác về nuôi con nuôi giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và các nước. 25. Hiệp định tương trợ Tư pháp và pháp lí ký kết giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và các nước. 26. Hội thảo “ Hoàn thiện pháp luật Việt Nam hướng tới gia nhập Công ước La Hay về bảo vệ trẻ em và hợp tác trên lĩnh vực con nuôi nước ngoài “ (Kỷ yếu hội thảo ở Hà Nội tháng 12/2003). 27. Sở Tư pháp Hà Nội (2003), “ Công tác giải quyết cho người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam tại Hà Nội làm con nuôi “ (Tham luận hội thảo tại Hà Nội tháng 12/2003). 28. TS. Nguyễn Công Khanh, Cục con nuôi quốc tế - Bộ Tư pháp, “Những khó khăn bất cập trong việc giải quyết cho người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi trước yêu cầu gia nhập Công ước La Hay” (Tham luận Hội thảo tại Hà Nội – 2003). ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28034.doc
Tài liệu liên quan