Phân tích nợ xấu, để giảm thiểu rủi ro trong tín dụng của Chi nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) Hoàn Kiếm

Tài liệu Phân tích nợ xấu, để giảm thiểu rủi ro trong tín dụng của Chi nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) Hoàn Kiếm: ... Ebook Phân tích nợ xấu, để giảm thiểu rủi ro trong tín dụng của Chi nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) Hoàn Kiếm

doc63 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1326 | Lượt tải: 3download
Tóm tắt tài liệu Phân tích nợ xấu, để giảm thiểu rủi ro trong tín dụng của Chi nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) Hoàn Kiếm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục Lời mở đầu Như ta đã biết cùng với sự đổi mới của nền kinh tế , hệ thống Ngân Hàng đóng vai trò quan trọng cho sự phát triển kinh tế trong nước cũng như sự phát triển kinh tế toàn cầu . Trong kinh tế thị trường , hệ thống Ngân Hàng hoạt động thông suốt , lành mạnh và hiệu quả là tiền đề để các nguồn lực tài chính luân chuyển ,phân bố và sử dụng hiệu quả , kích thích tăng trưởng kinh tế một cách bền vững. Điều không thể phủ nhận là trong kinh tế thị trường , rủi ro trong kinh doanh là không thể tránh khỏi , đặc biệt rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng .Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng những rủi ro lãi suất , rủi ro tín dụng … ảnh hưởng tiêu cực hay tích cực đến đời sống kinh tế , chính trị , xã hội của một nước . Mà tín dụng lại là một bộ phận quan trọng , nó ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh của một Ngân Hàng.Do vậy việc bảo hiểm về rủi ro trong tín dụng là điều tất yếu trong mỗi Ngân Hàng, và phần ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động tín dụng trong Ngân Hàng đó là các khoản nợ xấu phát sinh trong tín dụng của Ngân Hàng. Do sự nhận thức về ảnh hưởng của nợ xấu đến Ngân Hàng , em xin đề xuất đề tài thực tập tốt nghiệp của mình là : “ Phân tích nợ xấu, để giảm thiểu rủi ro trong tín dụng của Ngân Hàng”. Chương І Giới Thiệu Tổng Quan Về Chi Nhánh Ngân Hàng Công Thương Hoàn Kiếm І. Khái quát chung về chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm 1. Tóm tắt quá trình hình thành và phát triển của NHCT Hoàn Kiếm Ngân Hàng Công Thương Hoàn Kiếm là một chi nhánh của Ngân Hàng Công Thương Việt Nam , một đơn vị hạch toán phụ thuộc và có con dấu riêng .Từ đại hội VІ của Đảng , cùng với sự đổi mới của nền kinh tế , hệ thống Ngân Hàng là động lực cho sự phát triển cũng được đổi mới . Điều này được thể hiện bởi sự xuất hiện của nghị định 53/HĐBT , nay là thủ tướng chính phủ , đặc biệt là sự ra đời của hai pháp lệnh Ngân Hàng năm 1990 – hình thành nên Ngân Hàng chính sách và Ngân Hàng kinh doanh . Từ đây đã tạo ra một sự chuyển biến căn bản trong hệ thống Ngân Hàng Việt Nam – đó là việc chuyển đổi từ hệ thống Ngân Hàng một cấp sang hệ thống Ngân Hàng hai cấp. Trước tháng 7/1988 NHCT Hoàn Kiếm là Ngân Hàng quận Hoàn Kiếm ( trực thuộc Ngân Hàng Hà Nội ) cho đến tháng 7/1988 Ngân Hàng Công Thương Việt Nam được thành lập và NHCT Hoàn Kiếm đã trở thành một chi nhánh của Ngân Hàng Công Thương Việt Nam . Cùng với sự thay đổi đó , NHCT Hoàn Kiếm từ một quỹ tiết kiệm chuyển từ số 10 Lê Lai về 37 Hàng Bồ , quận Hoàn Kiếm và đây cũng là trụ sở chính của NHCT Hoàn Kiếm cho đến bây giờ. Cho đến ngày 27/3/1993 dưới sự thành lập của Ngân Hàng nhà nước đã xoá bỏ Ngân Hàng Công Thương Hà Nội, từ đó NHCT Hoàn Kiếm trở thành trực thuộc Ngân Hàng Công Thương Việt Nam , như vậy NHCT Hoàn Kiếm không thành lập riêng mà được thành lập ở quyết định 67. Khu vực Hoàn Kiếm là một quận trung tâm của Hà Nội , tập trung nhiều doanh nghiệp kinh doanh ( cả doanh nghiệp tư nhân , doanh nghiệp quốc doanh , hộ gia đình ). Đây được coi là quận có nhiều hoạt động kinh doanh nhất Hà Nội và cũng là quận có nhiều khu phố có hoạt động kinh doanh sầm uất như: Phố Hàng Ngang , Hàng Đào , Hàng Bạc … có rất nhiều khách du lịch nước ngoài cũng như trong nước .Chính điều này đã tạo nhiều thuận lợi cho NHCT Hoàn Kiếm trong quá trình hoạt động như : có điều kiện mở rộng quy mô kinh doanh tín dụng, thanh toán và các dịch vụ khác như : dịch vụ chuyển tiền , dịch vụ tư vấn , dịch vụ cầm cố tài sản … Tuy nhiên Ngân Hàng cũng gặp không ít khó khăn do trên địa bàn có hơn 70 Ngân Hàng cùng hoạt động nên sự cạnh tranh cũng rất lớn , đòi hỏi Ngân Hàng phải thường xuyên nỗ lực để đáp ứng nhu cầu thị trường . Như vậy hơn 10 năm xây dựng và trưởng thành , NHCT Hoàn Kiếm đã gặp không ít khó khăn , thậm chí va vấp trong buổi đầu của quá trình chuyển đổi nền kinh tế . Nhưng đến nay NHCT Hoàn Kiếm đã đạt được những kết quả đáng kể trong hoạt động kinh doanh của mình và liên tục trong ba năm 2003 , 2004 , 2005 là “lá cờ” đầu trong hệ thống NHCT Việt Nam . Ngân Hàng luôn đảm bảo nâng cao đời sống của cán bộ công nhân viên , đồng thời hoạt động kinh doanh của Ngân Hàng luôn có lợi nhuận và dư nợ lành mạnh , góp phần thực hiện mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước Trụ sở chính sở giao dịch C.nhánh cấp 1 V.phòng đại diện Đơn vị sự nghiệp C.ty trực thuộc P.giao dịch Quỹ T.Kiệm C.N cấp 2 P.giao dịch CN phụ thuộc Quỹ T.Kiệm P.giao dịch Quỹ T.Kiệm 2. Cơ cấu tổ chức của Ngân Hàng Công Thương Bộ máy giúp việc Ban kiểm soát Hội đồng quản trị Tổng giám đốc Kế toán trưởng Phó tổng giám đốc H.T kiểm tra thanh toán nội bộ Các phòng hoặc ban chuyên môn Hình 1: Hệ thống tổ chức của Ngân Hàng Công Thương Hình 2: Cơ cấu tổ chức và điều hành trụ sở Giám đốc Phó giám đốc Các P.C.M nghiệp vụ Phòng giao dịch T.Phòng K.Hoạch Tổ K.Tra nội bộ Quỹ tiết kiểm Hình 3: Cơ cấu tổ chức bộ máy điều hành của sở giao dịch, chi nhánh cấp 1, chi nhánh cấp 2 3. Các hoạt động chính của Ngân Hàng Công Thương 3.1. Tình hình huy động vốn Nhận tiền gửi : Tiền gửi khách hàng đó là một trong nhưng kênh huy động vốn quan trọng của NHTM .Ngân hàng thường huy động bằng các nguồn cho vay của các doanh nghiệp các tổ chức và dân cư .Trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt như hiện nay vấn đề huy động vốn không còn chỉ là một vấn đề với một ngân hàng cụ thể nào đó mà chung cho toàn bộ các ngân hàng .Để gia tăng nguồn tiền gửi trong điều kiện đó các ngân hàng thường đưa ra và thực hiện nhiều hình thức khác nhau , đa dạng và rất phong phú : Tiền gửi thanh toán , tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp ,các tổ chức xã hội , tiền gửi tiết kiệm của dân cư và tiền gửi của các Ngân Hàng khác . Đi vay : Thường bên cạnh nguồn tiền gửi của dân cư , doanh nghiệp khá ổn định ngân hàng thường rất ổn định thì các NHTM cũng đi vay mượn thêm để đáp ứng các nhu cầu chi trả khi khả năng huy dộng bị hạn chế.Các NHTM thường đi vay NHTW với hình thức chiết khấu giấy tờ có giá , hoặc vau các tổ chức tài chính khác và vay trên thị trường tiền tệ . Ngoài ra , các NHTM còn huy động các nguồn vốn khác từ các nguồn ủy thác và nguồn trong thanh toán. Chi nhánh Ngân Hàng Công Thương Hoàn Kiếm đã luôn chú trọng đến công tác huy động vốn vì có nguồn vốn ổn định , mạnh mẽ sẽ giúp cho chi nhánh chủ động trong hoạt động kinh doanh .Với chính sách lãi suất , thời hạn linh hoạt , phù hợp với biến động của thị trường chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm đã thu hút được nguồn nhàn rỗi của các tổ chức kinh tế , cá nhân , nguồn vốn này luôn tăng trưởng trong các năm. Quá trình huy dộng vốn trên , chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm là một chi nhánh có ưu thế về huy động vốn đặc biệt là huy động vốn bằng tiền gửi tổ chức kinh tế , tiền gửi DN luôn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng nguồn vốn huy động . Điều này chi nhánh đã khai thác , tận dụng được các thế mạnh về địa điểm, địa bàn nơi mình hoạt động . Căn cứ vào thời hạn huy động vốn : Lượng tiền gửi có kì hạn tăng . Chi nhánh có nguồn vốn huy động chủ yếu tiền gửi tài khoản vì vậy tạo được sự tin cậy tín nhiệm đối với khách hàng vì họ gửi tài khoản an toàn và thu nhập từ lãi suất hàng tháng . Bên cạnh đó , tiền gửi trong dân cư cũng tăng điều đó chi nhánh đã thu hút được khá lớn lượng khách hàng đến với chi nhánh ,Chi nhánh đã áp dụng chính sách khách hàng có hiệu quả : Tinh thần , thái độ phục vụ khách hàng, giải quyết thủ tục nhanh chóng , thuận lợi đã tăng thêm uy tín với khách hàng, có nhiều chương trình khuyến mại hấp dẫn , phương thức đa dạng … nên đã huy động ngày càng tăng lượng tiền nhàn rỗi lớn trong dân cư. 3.2. Cho vay, đầu tư Cho vay : Gồm có nhiÒu c¸ch ph©n lo¹i kh¸c nhau, nh­ng nh÷ng h×nh thøc cho vay c¬ b¶n cña ng©n hµng th­¬ng m¹i bao gåm : Cho vay tiêu dùng : Thường cho vay tiêu dùng để nhằm vào mục đích như : Mua nhà , xây sửa nhà , mua xe hơi ,các dụng cụ ,đồ vật lâu bền trong gia đình , chi phí du học..thường cho vay tiêu dùng được áp dụng cho các các nhân có thu nhập tương đối cao và ổn định ,cho vay tiêu dùng thường là các khoản vay chịu rủi ro khá cao . Cho vay kinh doanh : Các doanh nghiệp thường luôn có nhu cầu về vốn để bổ sung cho nguồn vốn kinh doanh , vì thế các NHTM cho các doanh nghiệp vay vốn ngắn hạn và trung hạn tùy theo mục đích sử dụng của doanh nghiệp .Các khoản vay ngắn hạn thường để đáp ứng bổ xung nguồn vốn lưu động dưới nhiều hình thức : Chiết khấu thấu chi hoặc luân chuyển . Còn đối với các khoản vay trung và dài hạn thường được dùng vào đầu tư các tài sản cố định như mua sắm trang thiết bị máy móc,xây dựng,cải tiến kỹ thuật,mua công nghệ hay thực hiện các dự án. Tài trợ các hoạt động chính phủ : Khả năng huy động và cho vay với khối lượng lớn của Ngân Hàng đã trở thành trọng tâm chú ý của các chính phủ .Do nhu cầu chi tiêu lớn và thường là cấp bách trong khi không dủ .Chính phủ các nước đều muốn tiếp cận các khoản vay của Ngân hàng .Trong điều kiện các ngân hàng tư nhân không muốn tài trợ cho chính phủ vì rủi ro cao,Chính Phủ dùng một số đặc quyền trao đổi lấy các khoản vay của các Ngân Hàng lớn .Các Ngân hàng để có được giấy phép thành lập họ thường phải có những cam kết thực hiện với một mức độ chính sách nào đó với Chính phủ và tài trợ cho Chính Phủ. Đầu tư : Ngoài các hoạt động trên ngân hàng còn có các khoản đầu tư và chứng khoán có khả năng thanh khoản cao trên thị trường .Chứng khoán là một nguồn cung cấp các thu nhập bổ xung quan trọng cho Ngân hàng , đây là một nguồn thu nhập tương đối quan trọng trong việc quản lý Ngân hàng cũng như cho các cổ đông khi thu nhập từ danh mục cho vay suy giảm. 3.3. Bảo lãnh - Bảo lãnh , tái bảo lãnh ( trong nước và quốc tế ) : Bảo lãnh dự thầu ; bảo lãnh thực hiện hợp đồng ; bảo lãnh thanh toán . 3.4. Thanh toán và tài trợ thương mại - Phát hành , thanh toán thư tín dụng nhập khẩu ; thông báo , xác nhận thanh toán thư tín dụng nhập khẩu - Nhờ thu xuất , nhập khẩu ; nhờ thu hối phiếu trả ngay và nhờ thu chấp nhận hối phiếu - Chuyển tiền trong nước và quốc tế . - Chuyển tiền nhanh Western Union. - Thanh toán uỷ nhiệm thu , uỷ nhiệm chi, séc. - Chi trả lương cho doanh nghiệp qua tài khoản , qua ATM. - Chi trả Kiều hối … 3.5. Ngân quỹ - Mua , bán ngoại tệ - Mua , bán các chứng từ có giá ( trái phiếu chính phủ , tín phiêud kho bạc , thương phiếu ..) - Thu , chi hộ tiền mặt VNĐ và ngoại tệ… - Cho thuê két sắt ; cất giữ bảo quản vàng , bạc , đá quý , giấy tờ có giá trị bằng phát minh và sang chế . 3.6. Thẻ và ngân hàng điển tử - Phát hành và thanh toán thẻ tín dụng nội địa , thẻ tín dụng quốc tế Cho vay thẻ tín dụng (quốc tế, nội địa) là sản phẩm tín dụng dành cho khách hàng cá nhân sở hữu thẻ tín dụng quốc tế hay nội địa (do ACB phát hành) đã sử dụng số tiền trên thẻ nhưng chưa thể hoàn trả khi đến hạn thanh toán. Đối tượng & Điều kiện: Cá nhân người Việt nam. Cá nhân người nước ngoài (cư trú). Sở hữu thẻ tín dụng quốc tế hay nội địa do ACB phát hành. - Dịch vụ thẻ ATM Thẻ ATM là một phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt do Ngân hàng Công thương Việt Nam (Incombank) phát hành dùng để rút tiền và thực hiện nhiều dịch vụ tài chính khác tại các ATM. Thủ tục làm thẻ hết sức đơn giản: khách hàng chỉ cần đến bất kỳ chi nhánh Incombank (click vào đây để xem danh sách chi nhánh ) đề nghị phát hành thẻ. Các giấy tờ cần thiết bao gồm: • 01 Giấy đề nghị phát hành thẻ ATM (click vào đây để download Giấy đề nghị phát hành thẻ ATM) • CMND hoặc hộ chiếu • 01 ảnh 4x6 mới nhất (trong trường hợp phát hành thẻ G-Card) • Phí phát hành thẻ (click vào đây để tham khảo biểu phí cho từng loại thẻ) Nhân viên Ngân hàng sẽ viết Giấy hẹn ngày đến nhận thẻ. Khi đến nhận thẻ, khách hàng mang theo Giấy hẹn và CMT/hộ chiếu. - Internet Banking, phone Banking, SMD Banking . 3.7. Hoạt động tín dụng - Hoạt động tín dụng là hoạt động cơ bản , quan trọng của Ngân Hàng , nó chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản , tạo thu nhập từ lãi lớn nhất và cũng là hoạt động mang lại rủi ro cao nhất.Tín dụng là hoạt động tài trợ của Ngân Hàng cho khách hàng , thông qua nghiệp vụ tài trợ ,NHTM đã tạo tiền đề cho nên kinh tế , trợ giúp các tổ chức kinh tế trong hoạt động sản xuất kinh doanh, tăng cường hoạt động sản xuất lưu thông hàng hoá , giảm chi phí lưu thông tiền tệ, giúp ổn định và phát triển nền kinh tế . - Nhờ có nguồn vốn tăng trưởng ổn định , chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm đã tích cực mở rộng đầu tư , đáp ứng các nhu cầu tín dụng hợp lý của khách hàng. 3.8. Hoạt động kinh doanh đối ngoại Song song với việc tăng trưởng nguồn vốn và đầu tư tín dụng , NHCT Hoàn Kiếm đã rất chú trọng đến việc triển khai và làm tốt nghiệp vụ đối ngoại. 3.9. Hoạt động khác - Tư vấn đầu tư và tài chính - Cho thuê tài chính - Môi giới , tự doanh , bảo lãnh phát hành , quản lý danh mục đầu tư , tư vấn , lưu ký chứng khoán. - Tiếp nhận , quản lý và khai thác các tài sản xiết nợ qua công ty quản lý nợ và khai thác tài sản . - Để hoàn thiện các dịch vụ liên quan hiện có nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng, đồng thời tạo đà cho sự phát triển và hội nhập với các nước trong khu vực và quốc tế , Ngân Hàng Công Thương Việt Nam luôn có tầm nhìn chiến lược trong đầu tư và phát triển , tập trung ở 3 lĩnh vực : Phát triển nguồn nhân lực – Phát triển công nghệ - Phát triển kênh phân phối . 4. Mục tiêu phát triển - Ngân Hàng Công Thương Việt Nam đã xây dựng xong và đã bắt tay vào triển khai chiến lược kinh doanh trong giai đoạn 2006-2010 với các mục tiêu chiến lược và giải pháp cụ thể theo từng năm. - Chuyển Ngân Hàng Công Thương Việt Nam từ hình thức sở hữu Nhà nước thành một Ngân Hàng Thương Mại đa sở hữu , với sự tham gia của các nhà đầu tư chiến lược là các tập đoàn Ngân Hàng – Tài Chính có uy tín Quốc Tế và một phần cổ đông giành cho cán bộ nhân viên Ngân Hàng Công Thương . Đây chính là bước quan trọng để chuyển sang cơ chế quản trị , điều hành theo nguyên tắc thương mại , thị trường và thông lệ quản trị tốt nhất . - Đẩy mạnh việc đổi mới cơ cấu, danh mục tài sản nợ , tài sản có theo hướng một Ngân Hàng đa năng , tích cực giảm tỷ trọng các tài sản có độ rủi ro cao , nâng cao tỷ trọng thu nhậptừ các sản phẩm dịch vụ phi ứng dụng ; áp dụng các nguyên tắc quản trị rủi ro và trích lập dự phòng theo thông lệ quốc tế. - Đẩy mạnh tốc độ hiện đại hoá công nghệ hoá ngân hang để tự động hoá , tin học hoá tất cả các giao dịch và các nghiệp vụ bằng các phần mềm ứng dụng tiên tiến , với mục tiêu để nâng cao năng lực cạnh tranh về chất lượng sản phẩm , dịch vụ , giảm trị rủi ro và trích lập dự phòng theo thông lệ quốc tế. - Đẩy nhanh tốc độ hiện đại hoá công nghệ Ngân Hàng để tự động hoá , tín học hoá tất cả các giao dịch và các nghiệp vụ bằng các phần mềm ứng dụng tiên tiến , với mục tiêu để nâng cao năng lực cạnh tranh về chất lượng sản phẩm , dịch vụ , giảm chi phí , nâng cao năng suất lao động . - Lành mạnh hoá và nâng cao năng lực tài chính của Ngân Hàng Công Thương phấn đấu đến 2010 đạt các thông số đánh giá an toàn theo tiêu chuẩn quốc tế : Nợ quá hạn, nợ xấu dưới 3% , tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu đạt 8%. - Thực hiện các chính sách , cơ chế để đầu tư và đào tạo , phát triển nguồn nhân lực từ cán bộ quản lý , điều hành đến các cán bộ chuyên môn nghiệp vụ, đặc biệt là bộ máy quản lý chủ chốt và đội ngũ cán bộ chuyên môn đầu ngành có trình độ chuyên môn cao. - Hoàn thiện hệ thống cơ chế , quy chế , quản trị điều hành , quy trình kỹ thuật nghiệp vụ , vừa đảm bảo cơ sở pháp lý anh toàn, đúng hướng trong mọi hoạt động , vừa thông thoáng , thuận lợi , cạnh tranh thu hút khách hàng - Nâng cao chất lượng các hệ số tài chính , phấn đấu đạt hệ số an toàn vốn bằng 8% vào trong năm 2007 ; hệ số sinh lời trên vốn chủ sở hữu bình quân 15% từ năm 2006-2010 , tiền lương bình quân đầu người 300 USD năm 2006 và mức 500-600 USD năm 2010 . - Phát triển nhanh nguồn lực bằng việc đào tạo , quy hoạch , sắp xếp lại cán bộ , thu hút nhân tài , đáp ứng yêu cầu cơ cấu lại mô hình tổ chức kinh doanh , với mục tiêu : “ xây dựng Ngân Hàng Công Thương Việt Nam thành Ngân Hàng thương mại hiện đại, tổ chức bộ máy phù hợp với tính chất kinh doanh , tinh gọn , hiệu quả , đủ điều kiện hội nhập khu vực và quốc tế”. - Phát triển nhanh nguồn kinh doanh và đổi mới hoạt động tính dụng theo nguyên tắc thương mại và thị trường . Thực hiện phương châm “ phát triển bền vững , an toàn , hiệu quả” , không phân biệt đối tượng , thành phần kinh tế , chú trọng phát triển tính dụng tiêu dùng.Nâng cao chất lượng , hiệu quả tính dụng . - Mở rộng hoạt động kinh doanh trên thị trường tiền tệ , thị trường ngoại hối từng bước thâm nhập vào thị trường tiền tệ quốc tế thông qua việc quản lý và sử dụng có hiệu quả tài sản nợ - có . - Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác kiểm tra kiểm toán nội bộ , giữ vững kỷ cương điều hành ngăn chặn , phát hiện , khắc phục kịp thời những sai sót để hạn chế thấp nhất những rủi ro về tài sản và con người . - Bên cạnh hoạt động kinh doanh , Ngân Hàng Công Thương cần phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền , quảng bá hoạt động , gắn kết quả hoạt động kinh doanh với các chương trình xã hội mang tính cộng đồng làm cho hình ảnh của Ngân Hàng Công Thương Việt Nam ngày càng rõ nét hơn trên thị trường trong nước và quốc tế . Mở ra nhiều thời cơ và cơ hội mới phát triển. ІІ. Tổng quan về chi nhánh Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm P.Tổng hợp tiếp thị P.Tài trợ thương mại CN Ngân Hàng Công Thương Hoàn Kiếm P.Khách hàng cá nhân P.Tiền tệ kho quỹ P.K Hàng số 1 P.K hàng số 2 P.Kế toán tài chính P. kiểm Tra nôi bộ P.Kế toán giao dịch P.Tổ chức hành chính P.T. Tin điện toán Hình 4: Sơ đồ tổ chức chi nhánh Ngân Hàng Công Thương Hoàn Kiếm 1. Đặc điểm của Ngân Hàng Công Thương Hoàn Kiếm Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm là một chi nhánh của Ngân Hàng Công Thương Việt Nam , một đơn vị hạch toán phụ thuộc và con dấu riêng . Từ đại hội VI của Đảng , cùng với sự đổi mới của nền kinh tế , hệ thống ngân hàng đóng làm động lực cho sự phát triển cũng được đổi mới . Sự ra đời của hai pháp lệnh ngân hàng năm 1990 – hình thành nên ngân hàng chính sách và ngân hàng kinh doanh .Từ đây tạo ra một sự chuyển biến căn bản trong hệ thống ngân hàng Việt Nam – đó là việc chuyển đổi từ hệ thống ngân hàng một cấp sang ngân hàng hai cấp . Trước tháng 7/1988 NHCT Hoàn Kiếm là ngân hàng quận Hoàn Kiếm ( trực thuộc Ngân hàng Hà Nội ) cho đến tháng 7/1988 Ngân hàng công thương Việt Nam được thành lập và NHCT Hoàn Kiếm đã trở thành một chi nhánh của ngân hàng công thương Việt Nam . Cùng với sự thay đổi đó , NHCT Hoàn Kiếm từ một quĩ tiết kiệm chuyển từ số 10 Lê Lai về 37 Hàng Bồ , quận Hoàn Kiếm và đây cũng là trụ sở chính của NHCT Hoàn Kiếm cho đến tận bây giờ. Cho đến ngày 27/3/1993 dưới sự thành lập của ngân hàng nhà nước đã xoá bỏ Ngân hàng Hà Nội , từ đó NHCT Hoàn Kiếm trở thành trực thuộc ngân hàng công thương Việt Nam , như vậy NHCT Hoàn Kiếm không thành lập riêng mà được thành lập ở quyết định 67. Khu vực Hoàn Kiếm là một quận trung tâm của Hà Nội , tập trung nhiều doanh nghiệp kinh doanh ( cả doanh nghiệp tư nhân , doanh nghiệp quốc doanh , hộ gia đình ). Đây được coi là quận có nhiều hoạt động kinh doanh nhất Hà Nội và cũng là quận có nhiều khu phố có hoạt động kinh doanh sầm uất như : Hàng Ngang , Hàng Đào , Hàng Gà,.. có rất nhiều khách du lịch nước ngoài cũng như trong nước . Chính điều này đã tạo nhiều thuận lợi cho NHCT Hoàn Kiếm trong quá trình hoạt động như : có điều kiện mở rộng quy mô kinh doanh tín dụng , thanh toán và các dịch vụ khác như : dịch vụ chuyển tiền , dịch vụ tư vấn , dịch vụ cầm cố tài sản … Tuy nhiên ngân hàng cũng gặp không ít khó khăn do trên địa bàn có hơn 70 ngân hàng cùng hoạt động nên sự cạnh tranh cũng rất lớn , đòi hỏi ngân hàng phải thường xuyên nỗ lực để đáp ứng nhu cầu thị trường. Như vậy , hơn 10 năm xây dựng và trưởng thành , NHCT Hoàn Kiếm đã gặp không ít khó khăn , thậm chí va vấp trong buổi đầu của quá trình chuyển đổi nền kinh tế . Nhưng đến nay NHCT Hoàn Kiếm đã đạt được những kết quả đáng kể trong hoạt động kinh doanh của mình và liên tục trong 3 năm 2003 , 2004, 2005 là " lá cờ " đầu trong hệ thống NHCT Việt Nam .Ngân Hàng luôn đảm bảo nâng cao đời sống của cán bộ công nhân viên , đồng thời hoạt động kinh doanh của ngân hàng luôn có lợi nhuận và nợ lành mạnh , góp phần thực hiện mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước . 2.Cơ cấu tổ chức của ngân hàng Công Thương . 2.1. Chức năng , nhiệm vụ - Phòng kế toán giao dịch:Là phòng nghiệp vụ thực hiện các giao dịch trực tiếp với khách hàng , tổ chức hạch toán kế toán theo quy định của nhà nước và của Ngân Hàng Công Thương Việt Nam . Cung cấp các dịch vụ Ngân Hàng theo quy định của Ngân Hàng nhà nước và của NHCT . Quản lý hệ thống giao dịch trên máy , quản lý quỹ tiền mặt trong ngày , thực hiện nhiệm vụ tư vấn cho khách hàng về sử dụng các sản phẩm của Ngân Hàng . - Phòng tài trợ thương mại: Là phòng nghiệp vụ trực tiếp giao dịch với khách hàng là các doanh nghiệp lớn , để khai thác vốn bằng VNĐ và ngoại tệ .Xử lý các nghiệp vụ liên quan đến cho vay , quản lý các sản phẩm cho vay phù hợp với chế độ , thể lệ của Ngân Hàng nhà nước và hướng dẫn của Ngân Hàng Công Thương. - Phòng khách hàng cá nhân : Là phòng nghiệp vụ trực tiếp giao dịch với khách hàng là các cá nhân để huy động vốn bằng VNĐ và ngoại tệ ; xử lý với chế độ , thể lệ của Ngân Hàng nhà nước và hướng dẫn của Ngân Hàng Công Thương ; quản lý hoạt động của các quỹ tiết kiệm , điểm giao dịch. - Phòng tổng hợp tiếp thị : Là phòng nghiệp vụ tham mưu cho giám đốc chi nhánh dự kiến kế hoạch kinh doanh , tổng hợp , phân tích đánh giá tình hình hoạt động kinh doanh , thực hiện báo cáo hoạt động hàng năm của chi nhánh. - Phòng kế toán tài chính : Là phòng nghiệp vụ tham mưu cho giám đốc thực hiện công tác quản lý tài chính và thực hiện nhiệm vụ chi tiêu nội bộ tại chi nhánh theo đúng quy định của nhà nước và của NHCT. - Phòng kiểm tra nội bộ : Là phòng có chức năng giúp giám đốc giám sát , kiểm tra , kiểm toán các mặt hoạt động kinh doanh của chi nhánh nhằm đảm bảo việc thực hiện theo đúng pháp luật của nhà nước và cơ chế quản lý của ngành . - Phòng tiền tệ kho quỹ : Là phòng nghiệp vụ quản lý an toàn kho quỹ, quản lý tiền mặt theo quy định của Ngân Hàng nhà nước và Ngân Hàng Công Thương , ứng và thu tiền cho các quỹ tiết kiệm , các điểm giao dịch trong và ngoài quầy , thu chi tiền mặt cho các doanh nghiệp có thu chi tiền mặt lớn. - Phòng thông tin điện toán : Là phòng thực hiện công tác duy trì hệ thống , bảo trì , bảo dưỡng máy tính đảm bảo thông suốt hoạt động của hệ thống mạng , máy tính của chi nhánh. - Phòng tổ chức hành chính : Là phòng nghiệp vụ thực hiện công tác tổ chức cán bộ và đào tạo tại chi nhánh theo đúng chủ trương chính sách của nhà nước và quy định của NHCT Việt Nam .Thực hiện công tác quản trị và văn phòng phục vụ hoạt động kinh doanh tại chi nhánh , thực hiện công tác bảo vệ an ninh toàn chi nhánh. 2.2. Thực trạng hoạt động 2.2.1. Những kết quả đạt được 2.2.1.1. Giúp doanh nghiệp hoạt động và đầu tư vào các dự án có hiệu quả hơn . - Thứ 1: Về dự án vay vốn : Do có kinh nghiệm trong lĩnh vực đầu tư và phát triển cho nên trong công tác thẩm định hồ sơ xin vay của khách hàng Ngân Hàng đã đánh giá , phân tích cho khách hàng những dự án phù hợp với hoạt động kinh doanh , trình độ quản lý của công ty bằng nghiệp vụ và trình độ của mình, cán bộ quản lý tín dụng trung và dài hạn của chi nhánh đã tư vấn cho khách hàng những biện pháp đảm bảo an toàn trong đầu tư phát triển . * Khoản vay có đóng góp thực sự cho các hoạt động sinh lời của doanh nghiệp không ? * Liệu vay như yêu cầu của doanh nghiệp có hoàn trả được vốn Ngân Hàng đúng kì hạn không? * Cấu trúc khoản vay có thích hợp không, nếu xét theo mục đích của có. - Thứ 2 : Niềm tin của doanh nghiệp đối với Ngân Hàng : Ngày càng được khẳng định qua kết quả của công tác tư vấn , công tác giải ngân và đáp ứng đầy đủ , kịp thời cho khách hàng , tiếp thu ý kiến của khách hàng để không ngừng cải tiến , hoàn thiện quản lý tín dụng của chi nhánh. 2.2.1.2. Góp phần nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn. Chất lượng tín dụng thể hiện ở mức độ, phạm vi giới của tín dụng phải phù hợp với khả năng theo hướng tích cực của Ngân Hàng và phải đảm bảo được khả năng cạnh tranh trên thương trường. * Khả năng sinh lời từ hoạt động tín dụng trung và dài hạn đã đem lại những dự án tốt cho chi nhánh . Nhờ những dự án tốt và có hiêu quả mà thu nhập từ lãi vay của khách hàng đã tăng lên ngày một nhiều . * Mức an toàn tín dụng : Rủi ro trong kinh tế thị trường là khách quan không thể tránh khỏi .Rủi ro và an toàn là hai thuật ngữ có ý nghĩa trái ngược nhau , đối lập nhau . Hạn chế rủi ro tín dụng trung và dài hạn được thể hiện ở khoản vay được hoàn trả đầy đủ và đúng hạn. 2.2.1.3. Góp phần thực hiện tốt chính sách tín dụng của Ngân Hàng Công Thương Việt Nam . Với phương châm hoạt động của chi nhánh là : “ Hiệu quả , chất lượng, tăng trưởng , bền vững” quá trình quản lý tín dụng trung và dài hạn luôn hướng tới việc cung cấp sản phẩm tín dụng trung và dài hạn có chất lượng tốt , hiệu quả nâng cao tiện ích nhằm thoả mãn nhu cầu hết sức đa dạng của khách hàng và xem đây là nền tảng vững chắc cho sự cạnh tranh và phát triển của chi nhánh Ngân Hàng Công Thương Hoàn Kiếm. Chương 2 Rủi Ro tín dụng trong Ngân Hàng І. Rủi ro tín dụng 1. Khái niệm - Rủi ro : là bất cứ điều gì không chắc chắn có thể ảnh hưởng tới các kết quả của chúng ta so với những gì chúng ta mong đợi . - Rủi ro tín dụng, theo khái niệm cơ bản nhất, là khả năng khách hàng nhận khoản vốn vay không thực hiện, thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đối với NH, gây tổn thất cho NH, đó là khả năng khách hàng không trả, không trả đầy đủ, đúng hạn cả gốc và lãi cho NH. 2. Phân loại rủi ro - Có nhiều tiêu chí phản ánh rủi ro tín dụng của Ngân Hàng : + Nợ xấu và tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ + Tỷ lệ nợ xấu trên vốn chủ sở hữu. + Tỷ lệ nợ xấu trên quĩ dự phòng tổn thất. + Nợ đáng nghi ngờ (nợ có vấn đề)-có khả năng chuyển thành nợ xấu cao. + Nợ không có tài sản đảm bảo. - Nhiều NH phân loại nợ theo khách hàng để phân tích và đánh giá rủi ro tín dụng. Nợ của khách hàng nhóm A được coi có rủi ro thấp nhất còn nợ khách hàng nhóm D, E được coi là có khả năng mất vốn cao nhất. Để cách phân loại này phản ảnh chính xác rủi ro tín dụng phải có tiêu chuẩn để xếp hạng tín nhiệm đúng. - Vì rủi ro tín dụng là khả năng (xác suất) vỡ nợ của khách hàng nên các NH cố gắng “thấy” được càng rõ, càng kỹ, càng tốt. Khách hàng phá sản, lừa đảo, chây ỳ không trả nợ là biểu hiện rõ nhất; bên cạnh đó các khoản nợ không trả được khi đến hạn ở các cấp độ khác nhau cũng thể hiện các khả năng vỡ nợ khác nhau. Nhiều NH cho rằng nếu một khoản nợ đến hạn không trả được, thì các khoản nợ khác chưa đến hạn cũng được coi là có rủi ro. - Thậm chí, dù nợ chưa đến hạn, hoặc đến hạn vẫn trả được, song tình hình tài chính yếu kém, môi trường kinh doanh có biến động không thuận lợi cho khách hàng, thì khoản nợ đó cũng được coi là có rủi ro. Những thước đo rủi ro tín dụng này cho thấy rủi ro ở độ rộng với những tầng nấc khác nhau. Do đó vấn đề không phải là ở con số nợ xấu chiếm 2 % hay 7% tổng dư nợ, mà nợ xấu được định lượng ở độ rộng hay hẹp. 3. Ảnh hưởng của rủi ro tín dụng đến Ngân Hàng - Hoạt động tín dụng hiện đang chiếm tỷ trọng lớn nhất: từ 60- 70% trong danh mục tài sản có. Đặc biệt, nguồn tín dụng này đang đóng vai trò kênh dẫn vốn chủ đạo cho các doanh nghiệp. - Rủi ro tín dụng không chỉ gây ảnh hưởng và có tác động xấu đến một Ngân hàng, mà còn ảnh hưởng đến cả một hệ thống Ngân hàng. Xuất phát từ nhiều nguyên nhân, nhưng là cán bộ Ngân hàng ai cũng hiểu rằng rủi ro của khách hàng chính là rủi ro của Ngân hàng. - Tại khoản 3, điều 6 của quyết định 493 nêu: “Trường hợp một khách hàng có nhiều hơn một khoản nợ với TCTD mà có bất kỳ khoản nợ bị chuyển sang nhóm nợ rủi ro cao hơn thì TCTD bắt buộc phải phân nợ các khoản nợ còn lại của khách hàng đó vào các nhóm nợ rủi ro cao hơn tương ứng với mức độ rủi ro”. Nội dung này đã được quy định rất cụ thể, nhằm đánh giá chất lượng và phân loại khách hàng khi đã có dấu hiệu rủi ro trong quan hệ tín dụng đối với một TCTD. - Nhưng trong điều kiện cạnh tranh (chưa hoàn hảo) của các TCTD, không ít các trường hợp một khách hàng có thể vay nhiều TCTD (kể cả trong hay ngoài địa bàn hành chính). Vì một khách hàng có thể có nợ được coi là tốt ở TCTD này, nhưng lại có nợ xấu ở một TCTD khác… - Để có đủ lượng thông tin trong quá trình phân loại, đánh giá chất lượng tín dụng và thực hiện phân loại rủi ro chính xác là điều cần thiết đối với các TCTD. - Dưới góc nhìn và suy nghĩ của một cán bộ tín dụng trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng hiện nay thì hiệu quả và chất lượng tín dụng luôn luôn đặt lên vị trí hàng đầu. Song, để phòng ngừa và tránh những tổn thất có thể xảy ra thì cần phải làm tốt công tác phân loại nợ, đánh giá khách hàng... coi đây là “nghiệp chướng” thường xuyên của những người làm công tác tín dụng. Chính vì lẽ đó xin được cùng nghiên cứu trao đổi thêm một số nội dung thông qua thực hiện cơ chế cùng đồng nghiệp, không ngoài ý tưởng học hỏi kinh nghiệm và bổ sung kiến thức cho bản thân; Phấn đấu vì sự lớn mạnh và phát triển của hệ thống Ngân hàng nói chung, NHCT nói riêng. ІІ. Xếp hạng nợ tín dụng Theo Quyết định 493, tất cả các TCTD hoạt động tại Việt Nam (trừ Ngân hàng Chính sách xã hội) phải thực hiện việc phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng. Tuy nhiên, khác với các quy định trước đây, Quyết định 493 cho phép chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam được áp dụng chính sách trích lập dự phòng của ngân hàng nước ngoài, nếu được NHNN chấp thuận bằng văn bản.Mục đích của việc sử dụng dự phòng là để bù đắp tổn thất đối với các khoản nợ của TCTD. Dự phòng rủi ro chỉ tính theo dư nợ gốc của khách hàng và được hạch toán vào chi phí hoạt động của tổ chức tín dụng. - Khái niệm “nợ” được định nghĩa rất rộng theo Quyết định 493. Nợ không chỉ bao gồm các khoản cho vay, cho thuê tài chính, chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác, tiền trả thay cho người được bảo lãnh, mà còn bao gồm các khoản ứng trước, thấu chi, các khoản bao thanh toán (một hình thức cấp tín dụng mới được phép theo Quy chế bao thanh toán của các TCTD ban hành kèm theo Quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN ngày 6/9/2004 của NHNN) và “các hình thức tín dụng khác”. - Các khoản cho vay bằng nguồn vốn tài trợ, ủy thác của bên thứ ba mà bên thứ ba cam kết chịu toàn bộ “trách nhiệm xử lý rủi ro” và các khoản cho vay bằng nguồn vốn góp đồng tài trợ của TCTD khác mà TCTD không chịu bất cứ rủi ro nào, thì TCTD chỉ cần tiến hành phân loại nợ mà không phải trích lập dự phòng rủi ro. - Khi cho vay ủy thác, hợp đ._.ồng vay và hợp đồng bảo đảm thông thường được ký kết giữa TCTD và khách hàng vay, mà không có sự tham gia của bên ủy thác vốn vay. Vì không có quan hệ hợp đồng trực tiếp với khách hàng vay, sẽ khó có trường hợp bên ủy thác cam kết chịu trách nhiệm xử lý rủi ro nếu hiểu trách nhiệm xử lý rủi ro có nghĩa là trách nhiệm xử lý tài sản bảo đảm hoặc thực hiện các biện pháp cần thiết khác để thu hồi nợ. Thông thường TCTD nhận ủy thác sẽ có trách nhiệm xử lý rủi ro và nếu như vậy TCTD đó vẫn phải trích lập dự phòng rủi ro đối với vốn nhận ủy thác. Phương pháp phân loại nợ - Ngoài cách phân loại nợ theo phương pháp “định lượng” tương tự như các quy định trước đây, Quyết định 493 còn cho phép các TCTD có đủ khả năng và điều kiện được thực hiện phân loại nợ theo phương pháp “định tính” nếu được NHNN chấp thuận bằng văn bản. Phương pháp “định lượng” Quyết định 493 phân loại nợ thành năm nhóm, bao gồm: Nhóm 1: nợ đủ tiêu chuẩn, bao gồm nợ trong hạn được đánh giá có khả năng thu hồi đủ gốc và lãi đúng hạn và các khoản nợ có thể phát sinh trong tương lai như các khoản bảo lãnh, cam kết cho vay, chấp nhận thanh toán. Nhóm 2: nợ cần chú ý, bao gồm nợ quá hạn dưới 90 ngày và nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ. Nhóm 3: nợ dưới tiêu chuẩn, bao gồm nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày và nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày. Nhóm 4: nợ nghi ngờ, bao gồm nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày và nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày Nhóm 5: nợ có khả năng mất vốn, bao gồm nợ quá hạn trên 360 ngày, nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ trên 180 ngày và nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý. Cần lưu ý là cho dù có tiêu chí thời gian quá hạn trả nợ cụ thể để phân loại nợ như trên, TCTD vẫn có quyền chủ động tự quyết định phân loại bất kỳ khoản nợ nào vào các nhóm nợ rủi ro cao hơn tương ứng với mức độ rủi ro nếu đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng suy giảm. Phương pháp “định tính” Lần đầu tiên phương pháp “định tính” được Quyết định 493 cho phép áp dụng đối với TCTD đủ điều kiện. Theo phương pháp này, nợ cũng được phân thành 5 nhóm tương ứng như 5 nhóm nợ theo cách phân loại nợ theo phương pháp định lượng, nhưng không nhất thiết căn cứ vào số ngày quá hạn chưa thanh toán nợ, mà căn cứ trên hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ và chính sách dự phòng rủi ro của tổ chức tín dụng được NHNN chấp thuận. Các nhóm nợ bao gồm: Nhóm 1: nợ đủ tiêu chuẩn, bao gồm nợ được đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ gốc và lãi đúng hạn. Nhóm 2: nợ cần chú ý, bao gồm nợ được đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ gốc và lãi nhưng có dấu hiệu khách hàng suy giảm khả năng trả nợ. Nhóm 3: nợ dưới tiêu chuẩn, bao gồm nợ được đánh giá là không có khả năng thu hồi gốc và lãi khi đến hạn. Nhóm 4: nợ nghi ngờ, bao gồm nợ được đánh giá là có khả năng tổn thất cao. Nhóm 5: nợ có khả năng mất vốn, bao gồm nợ được đánh giá là không còn khả năng thu hồi, mất vốn. Chương 3 Nợ xấu trong Ngân Hàng và phân tích rủi ro 1. Khái niệm “Nợ Xấu” trong Ngân hàng - Cho đến nay vẫn chưa có được khái niệm đầy đủ, thống nhất về nợ xấu. Và khi nói về nợ xấu, người ta mới chỉ mô tả, nêu lên được một vài đặc điểm chung nhất của các khoản nợ này. - Ở Việt Nam, theo quy định tại khoản 3, Điều 2, Quyết định số 493/ 2005/ QĐ – NHNN ban hành ngày 22/4/2005 của Thống Đốc Ngân hàng Nhà Nước thì “Nợ bao gồm a. Các khoản cho vay, ứng trước, thấu chi, cho thuê tài chính; b. Các khoản chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác; c. Các khoản bao thanh toán; d. Các hình thức tín dụng khác.” Trong đó: - “Nợ quá hạn” là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và /hoặc lãi đã quá hạn. (Khoản 5, Điều 2) - “Nợ xấu (NPL) là các khoản nợ thuộc các nhóm 3, 4 và 5. Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ là tỷ lệ để đánh giá chất lượng của tổ chức tín dụng.” (Khoản 6, Điều 2) và nợ xấu vẫn được hiểu là các khoản nợ hầu như không có khả năng được thanh toán và bắt buộc phải xử lý bằng bút toán xoá nợ. Còn theo NHTW Liên minh Châu Âu quy định thì nợ xấu bao gồm các khoản nợ không thể thu hồi được như: - Những khoản nợ đã hết hiệu lực hoặc những khoản nợ không có căn cứ đòi bồi thường từ người mắc nợ. - Người mắc nợ trốn hoặc bị mất tích, không còn để lại tài sản để thanh toán nợ. - Những khoản nợ mà ngân hàng không thể liên lạc được với người mắc nợ hoặc không thể tìm được người mắc nợ. - Những khoản nợ mà người mắc nợ chấm dứt hoạt động kinh doanh hoạc thanh lý tài sản hoặc kinh doanh thua lỗ và tài sản không còn đủ để trả nợ. 2. Phân loại nợ xấu Theo quy định tại Điều 6, Quyết định 493/2005/QĐ – NHNN ban hành ngày 22/4/2005 thì nợ bao gồm năm nhóm, trong đó, những khoản nợ thuộc nhóm 3, 4, 5 là nợ xấu. Trước hết, nợ nhóm 3 hay còn gọi là nợ đưới tiêu chuẩn bao gồm: - Các khoản nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày - Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ qua hạn dưới 90 ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại. - Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 3 theo quy định tại Khoản 3 và Khoản 4 Điều này”. Tiếp theo, nợ nhóm 4 hay còn gọi là nợ nghi ngờ bao gồm: - Các khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày; - Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại; - Các khoản nợ khách được phân loại vào nhóm 4 theo quy định tại Khoản 3 và Khoản 4 Điều này” Cuối cùng là nợ nhóm 5 - nợ có khả năng mất vốn bao gồm: “- Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày; - Các khoản nợ được khoanh chờ Chính phủ xử lý; - Các khoản nợ đã cơ cầu lại thời hạn trả nợ quá hạn trên 180 ngày theo thời hạn đã được cơ cấu lại - Các khoản nợ khách được phân vào nhóm 5 theo quy định tại Khoản 3 và Khoản 4 Điều này.” 3. Các dấu hiệu nhận biết nợ xấu 3.1. Nhóm các dấu hiệu phát sinh từ phía khách hàng Dấu hiệu phát sinh từ phía khách hàng bao gồm hai nhóm chính thể hiện trong mối quan hệ giữa khách hàng với ngân hàng và phương thức quản lý, tình hình tài chính, hoạt động của khách hàng. Trước hết là có những biểu hiện không bình thường trong mối quan hệ giữa khách hàng với ngân hàng như: - Khách hàng gây khó khăn cho ngân hàng trong quá trình kiểm tra theo định kỳ hoặc đột xuất tình hình sử dụng vốn vay, tình hình tài chính, hoạt động sản xuất, kinh doanh của khách hàng mà không có sự giải thích rõ ràng, minh bạch thuyết phục. - Doanh nghiệp cố trì hoãn gửi các báo cáo tài chính theo yêu cầu hoặc không có các báo cáo về sự đoán hay lưu chuyển tiền tệ mà không có sự giải thích minh bạch thuyết phục. - Khách hàng có dấu hiệu không thực hiện đầy đủ các quy định, vi phạm pháp luật trong quá trình quan hệ tín dụng. - Đề nghị gia hạn, điều chỉnh định kỳ hạn nợ nhiều lần không rõ lý do hoặc thiếu các căn cứ thuyết phục mang tính khách quan về việc gia hạn hay điều chỉnh kỳ hạn nợ. - Có sự sút giảm bất thường số dư tài khoản tiền gửi mở tại Ngân hàng; xuất hiện những thay đổi bất thường ngoài dự kiến và không giải thích được trong tốc độ và tổng mức lưu chuyển tiền gửi thanh toán tại ngân hàng. - Xuất hiện nợ quá hạn do khách hàng không có khả năng hoàn trả hoặc khách hàng không muốn trả hoặc do việc thu hồi công nợ chậm hơn dự tính. - Mức độ vay thường xuyên gia tăng, yêu cầu vay các khoản vượt quá nhu cầu dự kiến. - Tài sản đảm bảo không đủ tiêu chuẩn, giá trị tài sản bị giảm sút so với định giá khi cho vay. Có dấu hiệu tài sản đã cho người khác thuê, bán, trao đổi hoặc đã biến mất hoặc không còn tồn tại. - Khách hàng có biểu hiện trông chờ các nguồn thu nhập bất thường khác, không phải từ hoạt động sản xuất, kinh doanh chính hoặc từ hoạt động được đề xuất trong phương án vay vốn để đáp ứng các nghĩa vụ thanh toán. Hoặc họ có tìm kiếm sự tài trợ nguồn vốn lưu động từ nhiều nguồn khác, đặc biệt là từ đối thủ cạnh tranh của ngân hàng hay sử dụng các khoản tài trợ ngắn hạn cho các hoạt động đầu tư dài hạn. - Chấp nhận sử dụng các nguồn vốn vay với giá cao với mọi điều kiện. Thứ hai là xuất hiện các dấu hiệu bất thường liên quan tới phương pháp quản lý, tình hình tài chính và hoạt động kinh doanh của khách hàng. Những dấu hiệu này tác động trực tiếp tới chất lượng khoản tín dụng nhưng với tốc độ chậm hơn. Chúng không dễ nhận diện nếu thiếu sự quản lý chặt chẽ, sâu sát của cán bộ tín dụng, bao gồm: - Có chênh lệch lớn giữa doanh thu hay dòng tiền thực tế so với mức dự kiến khi khách hàng đề nghị cấp tín dụng. - Những thay đổi bất lợi trong cơ cấu vốn, tỷ lệ thanh toán hay mức độ hoạt động của khách hàng. - Xuất hiện ngày càng nhiều các chi phí bất hợp lý như sự gia tăng đột biến trong chi phí quảng cáo, tập trung quá nhiều chi phí để gây ấn tượng như thiết bị văn phòng hiện đại, phương tiện giao thông đắt tiền…. - Thay đối thường xuyên tổ chức của ban điều hành. Xuất hiện mâu thuẫn trong quản trị điều hành, tranh chấp trong quá trình quản lý. - Khách hàng sẵn sàng từ bỏ những hợp đồng giá trị nhỏ và vừa nhưng có khả năng thu được tỷ suất lợi nhuận cao để tìm kiếm các hợp đồng lớn với các bạn hàng có tên tuổi dù lợi nhuận thu về có khả năng đạt thấp hơn. - Do áp lực nội bộ, doanh nghiệp phải tung ra thị trường các sản phẩm, dịch vụ quá sớm khi các sản phẩm chưa đạt được các điều kiện cần thiết hoặc đặt ra những hạn mức thời gian, doanh số không hợp lý. - Thiên tai, địch hoạ xảy, dịch bệnh bất ngờ xảy ra và có ảnh hưởng đến lĩnh vực kinh doanh của khách hàng. 3.2. Nhóm các dấu hiệu phát sinh từ phía ngân hàng Rủi ro có thể phát sinh từ phía khách hàng nhưng cũng có thể là bắt nguồn từ phía ngân hàng. Nếu là rủi ro do ngân hàng gây ra thì ta có thể nhận thấy thông qua một số các dấu hiệu như sau: -Có sự đánh giá và phân loại không chính xác về mức độ rủi ro của khách hàng. - Cấp tín dụng dựa trên các cam kết không chắc chắn và thiếu tính đảm bảo của khách hàng về việc duy trì một khoản tiền lớn hoặc các lợi ích do khách hàng đem lại từ khoản tín dụng được cấp. - Tốc độ tăng trưởng tín dụng quá nhanh, vượt qua khả năng và năng lực kiểm soát của ngân hang . - Cho vay dựa trên các sự kiện bất thường có thể xảy ra chẳng hạn như sáp nhập, thay đổi địa vị pháp lý từ chi nhánh lên công ty con hạch toán độc lập... - Soạn thảo các điều kiện ràng buộc trong hợp đồng tín dụng mập mờ, không rõ ràng, không rõ lịch hoàn trả đối với từng khoản vay; cán bộ tín dụng cố ý thoả hiệp các nguyên táce tín dụng với khách hàng mặc dù biết có rủi ro tiềm ẩn. - Cung cấp tín dụng với khối lượng lớn cho các khách hàng không thuộc phân đoạn ưu tiên. - Có khuynh hướng cạnh tranh thái quá: giảm thấp lãi suất hoặc phí dịch vụ hay giữ chân khách hàng bằng các khoản tín dụng mới để họ không quan hệ với tổ chức tín dụng khác..... 4. Nguyên nhân phát sinh nợ xấu Nợ xấu phát sinh do đâu? Những nguyên nhân phát sinh nợ xấu mà công tác tín dụng thường gặp phải là: Thứ nhất, về công tác thẩm định. Trừ một số ít khách hàng có phát sinh nợ xấu bắt nguồn từ nguyên nhân khách quan như: kinh doanh thua lỗ, công nợ khó đòi, khó khăn do thay đổi cơ chế, thay đổi chính sách tăng trưởng của Nhà nước thì hầu hết các khoản nợ xấu bắt nguồn từ khâu thẩm định quá hời hợt của cán bộ tín dụng. Do không xác định được quy mô kinh doanh thực sự của khách hàng, khả năng cạnh tranh của khách hàng đối với ngành nghề mà khách hàng đang kinh doanh, không xác định được nguồn thu của khách hàng từ đâu và về đâu để có thể đưa ra một mức cho vay và cách thức giám sát hợp lý. Cán bộ ngân hàng đôi khi còn hời hợt trong phần kiểm tra sử dụng vốn, dẫn đến không phát hiện kịp thời những khó khăn của khách hàng ngay từ khi vừa nhen nhóm. Không ít khách hàng, khi được kiểm tra về việc sử dụng vốn sau khi vay cho biết một phần vốn vay thực sự vào kinh doanh, phần khác dùng cho mục đích sửa nhà, mua sắm vật dụng, thậm chí là tiêu xài cá nhân... Đến khi phần vốn đầu tư kinh doanh thua lỗ, không còn nguồn khác để trả nợ ngân hàng, thế là phát sinh nợ xấu. Mặt khác, tư cách khách hàng là yếu tố quan trọng gắn liền với thiện chí hoàn trả tiền vay của khách hàng thường bị lãng quên trong quá trình thẩm định ban đầu. Thứ hai, là nguồn cung cấp thông tin. Thực sự, ngoài những thông tin do khách hàng cung cấp, cán bộ tín dụng cũng gặp nhiều khó khăn với các kênh thông tin về khách hàng. Rất khó kiểm chứng được toàn bộ những thông tin mà khách hàng cung cấp cho ngân hàng. Tâm lý một số cán bộ muốn đẩy phần rủi ro cho ngân hàng khác bằng cách chỉ cung cấp thông tin tốt về khách hàng đó khi ngân hàng bạn hỏi thăm. Ngân hàng vẫn chưa có sự liên thông với các cơ quan khác như Thuế, Hải quan,... để kiểm chứng những thông tin tài chính do khách hàng cung cấp. Trừ những doanh nghiệp lớn, các công ty cổ phần do yêu cầu phải kiểm toán cáo báo cáo tài chính của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hệ thống kế toán của chúng ta còn nhiều bất cập và chưa hoàn toàn thống nhất với các chuẩn mực của hệ thống kế toán thế giới. Thậm chí còn có doanh nghiệp sử dụng đồng thời hai hệ thống kế toán, một luôn lỗ hay lợi nhuận rất thấp để đối phó với cơ quan thuế và một rất đẹp đẽ khi đặt quan hệ giao dịch với ngân hàng. Xử lý tài sản đảm bảo, nợ xấu còn nhiều gian nan Trên thực tế ngân hàng gặp không ít khó khăn trong việc xử lý tài sản đảm bảo. Hầu hết các khoản vay của khách hàng đều có tài sản đảm bảo nhưng việc xử lý nó để thu hồi nợ là hết sức khó khăn. Loại trừ một số ít tài sản được định giá vượt khung, tài sản gặp rắc rối về quyền sở hữu, các tài sản đầy đủ giấy tờ sở hữu cũng gặp không ít khó khăn trong quá trình xử lý. Sự chồng chéo giữa các văn bản pháp luật cũng làm cho ngân hàng lúng túng trong việc xử lý. Ví dụ, Thông tư liên tịch số 03/2001/TTLT -NHNN-BTP- BTC-TCĐC giữa Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Tài chính, Tổng cục địa chính ngày 29.4.2001 quy định tổ chức tín dụng không được trực tiếp bán hay được trực tiếp nhận quyền sử dụng đất để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ bảo đảm. Theo khoản 3, Mục III của Thông tư này, nếu không đạt được sự thoả thuận của các bên thì tổ chức tín dụng phải đưa ra bán đấu giá hay khởi kiện ra toà. Trong khi đó, Nghị định số 178 lại cho phép tổ chức tín dụng có quyền xử lý tài sản đảm bảo nếu không đạt được sự thoả thuận của các bên. Việc này làm phát sinh những khó khăn trong thực tế như sau: + Trong các điều khoản của Hợp đồng đảm bảo, ngân hàng luôn ràng buộc điều kiện “Khi khách hàng vi phạm các điều khoản của Hợp đồng tín dụng thì ngân hàng được toàn quyền xử lý tài sản đảm bảo để thu hồi nợ”. Trên thực tế, nếu không đạt được sự thoả thuận với khách hàng hoặc khách hàng không hợp tác, cố tình chây kỳ để kéo dài thời gian trả nợ thì ngân hàng chỉ còn cách chuyển hồ sơ khởi kiện. + Luật pháp và các công cụ thực thi pháp luật chưa thực sự nghiêm minh, chưa hỗ trợ đầy đủ cho ngân hàng chủ động xử lý tài sản đảm bảo mà không có sự can thiệp của Toà án. Do đó, dù có phán quyết của Toà, ngân hàng vẫn còn gặp trở ngại vì khâu thi hành án còn chậm. Tiếp đến là sự phối hợp không đồng bộ giữa cơ quan thẩm định, cơ quan bán đấu giá... Từ lúc khởi kiện đến cưỡng chế, thi hành một vụ mất ít nhất 2 năm, trung bình mất 8-9 năm. + Một khó khăn khác mà ngân hàng thường gặp phải là khi tài sản của doanh nghiệp là các máy móc thiết bị chuyên dùng có giá trị cao thì rất khó thanh lý. Khi bán được thì phải ưu tiên thực hiện nghĩa vụ nộp thuế nhập khẩu vì hầu hết các thiết bị này đều được miễn thuế nhập khẩu vì thường được coi là tài sản cố định khi thành lập công ty. Để hỗ trợ các Ngân hàng thương mại nâng cao năng lực tài chính, Ngân hàng Nhà nước đã có công văn hướng dẫn việc bán nợ tồn đọng của các ngân hàng thương mại nhà nước cho Công ty mua, bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp (DATC). Đây là một bước xây dựng thị trường mua bán nợ, hướng đi quan trọng để xử lý nợ xấu và nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, quá trình thực hiện cũng gặp không ít khó khăn. Trong tay DATC không có những cơ chế riêng làm công cụ xử lý nợ. DATC cũng chưa có đủ năng lực tài chính để thực hiện mua bán nợ. Và không phải khoản nợ nào cũng dễ mua hoặc bán được. Với tâm lý sợ trách nhiệm, sợ mất quyền lợi, các doanh nghiệp nhà nước lại chọn phương cách treo nợ hơn là bán đấu giá thấp cho DATC. Ở Việt Nam hiện nay, yêu cầu đặt ra cho DATC là phải hoạt động vừa nhằm lành mạnh hoá tài chính thúc đẩy cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước vừa theo cơ chế hạch toán kinh doanh. Do đó để bảo toàn vốn, DATC phải cân nhắc lựa chọn những khoản nợ ít gặp rủi ro mất vốn. Do đó điều này đã làm chậm lại quá trình xử lý nợ cũng như số lượng các khoản xử lý được. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy việc xử lý nợ tồn đọng thường gắn liền và phục vụ một chính sách kinh tế cụ thể tuỳ theo bối cảnh riêng từng quốc gia chứ không đơn thuần chỉ nhằm xử lý nợ tồn đọng của các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Vì vậy mà các nước như Hàn Quốc, Trung Quốc, Malaysia,... không đặt vấn đề bảo toàn vốn và có lợi nhuận làm nguyên tắc hoạt động chính cho tổ chức xử lý nợ. Thay vào đó họ chỉ yêu cầu các tổ chức xử lý nợ phải tối đa hoá giá trị thu hồi để giảm thiểu gánh nặng ngân sách mà Chính phủ phải bỏ ra để hỗ trợ cho chương trình xử lý nợ tồn đọng. Mặt khác ở Việt Nam, mối quan hệ mua bán nợ giữa DATC với các tổ chức tín dụng, giữa DATC với tổ chức kinh tế và cá nhân hiện chưa được điều chỉnh, hầu hết thiếu quy định pháp lý, thậm chí chồng chéo và mâu thuẫn. Các quy định áp dụng cho DATC hầu như không tạo quyền ưu tiên đặc biệt trong việc tiếp cận và khai thác thông tin đánh giá khoản nợ nên đã gây ra không ít khó khăn trong việc mua và xử lý nợ. Chính vì thế mà DATC xử lý nợ mang nặng tính thủ tục, chưa có “hơi thở” thị trường. Trong quá trình xử lý nợ, có trường hợp ngân hàng đã mời DATC cùng giải quyết một món nợ, sau khi xem xong, DATC yêu cầu làm một công văn đề nghị bán nợ. Do chưa có hệ thống thẩm định nợ xấu nên sau đó, chi nhánh nhận được giá chào mua rất thấp chỉ khoảng 20% giá món nợ đó và ngân hàng lại rất băn khoăn không biết sẽ bán nợ cho DATC theo tỷ lệ nào. 4.1. Nguyên nhân khách quan Trước hết, các nguyên nhân bất khả kháng như thiên tai, địch hoạ, sự thay đổi thị hiếu người tiêu dùng…gây ra những biến động xấu ngoài dự kiến trong mối quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng của mình. Điều này có thể làm cho khách hàng mất khả năng trả nợ. Nguyên nhân khách quan thứ hai là sự thay đổi trong cơ chế, chính sách như: Chính trị, sự điều chỉnh chính sách, chế độ, luật pháp của Nhà nước hoặc thay đổi địa giới hành chính các địa phương, sự sáp nhập hay tách ra của các Bộ, Ngành trong nền kinh tế. Những sự thay đổi và điều chỉnh này tuy cần thiết trong quá trình phát triển kinh tế của đất nước nhưng đôi khi, cũng có tác động tiêu cực, ảnh hưởng đến ngân hàng và khách hàng dẫn tới làm giảm khả năng trả nợ của khách hàng. Nhân tố tiếp theo tác động vào quan hệ tín dụng này là thông tin không đầy đủ. Do thiếu thông tin về khách hàng nên ngân hàng rất dễ gặp các rủi ro như khách hàng cố tình vi phạm, che giấu thông tin hoặc làm sai lệch thông tin về mình (lập báo cáo tài chính thiếu trung thực, sử dụng vốn vay sai mục đích...). Khách hàng thì do không có đầy đủ thông tin về thị trường sẽ dẫn tới những quyết định kinh doanh sai lầm. Do đó, việc sản xuất kinh doanh không đáp ứng nhu cầu và dẫn tới làm ăn thua lỗ, không trả được nợ cho ngân hàng. Bên cạnh đó, môi trường pháp lý cũng tác động tới quan hệ vay mượn giữa ngân hàng và khách hàng. Nếu môi trường pháp lý chưa hoàn chỉnh sẽ không đảm bảo sự cạnh tranh lành mạnh cho các hoạt động kinh tế. Đây là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến rủi ro trong sản xuất kinh doanh của cá nhân, doanh nghiệp và tạo ra các khoản nợ quá hạn cho ngân hàng. Còn một nhân tố khách quan nữa là nhân tố quốc tế. Trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay, tín dụng trong nước có mối quan hệ chặt chẽ với tín dụng quốc tế, dễ bị ảnh hưởng bởi tình hình quốc tế như tình hình kinh tế, chính trị, chính sách tài chính của các quốc gia khác trên thế giới. Bất cứ một sự biến động nào trong nền kinh tế quốc tế cũng đều có tác động tới đất nước cho dù ít hay nhiều. 4.2. Nguyên nhân chủ quan Nguyên nhân đầu tiên phải kể đến ở đây là chính sách cho vay của ngân hàng. Đối với mỗi ngân hàng, chính sách cho vay là kim chỉ nam cho hoạt động tín dụng. Nó phải phù hợp với thực trạng của nền kinh tế. Khi chính sách cho vay thống nhất, đầy đủ và đúng đắn, cán bộ tín dụng sẽ dễ dàng xác định đúng phương hướng khi thực hiện nhiệm vụ của mình, nâng cao hiệu quả của hoạt động tín dụng. Còn ngược lại, một chính sách tín dụng thiếu độ chính xác, không đầy đủ và không nhất quán sẽ tạo ra kẽ hở cho người sử dụng vốn và dẫn tới rủi ro tín dụng. Nguyên nhân thứ hai nằm ở năng lực và đạo đức của người cán bộ tín dụng. Nếu cán bộ tín dụng không tính toán chính xác hiệu quả đầu tư của dự án xin vay thì họ sẽ dễ dàng có những những quyết định sai lầm trong cho vay. Hoặc người cán bộ tín dụng khi chưa được đào tạo đầy đủ, không am hiểu về lĩnh vực kinh doanh mà mình đang cho vay sẽ không thể đánh giá hết khả năng sinh lời cũng như những rủi ro của khách hàng. Đôi khi, những cán bộ tín dụng vì một lý do nào đó vẫn cố ý cho vay mặc dù biết dự án không có hiệu quả sẽ dẫn tới rủi ro cho ngân hàng. Trong những trường hợp như vậy thì khả năng mất vốn của Ngân hàng là rất cao. Thứ ba, ngân hàng chưa đánh giá đúng mức về khoản vay, về người đi vay hoặc do chủ quan tin tưởng khách hàng quen biết mà coi nhẹ khâu kiểm tra về tình hình tài chính, khả năng thanh toán hiện tại và tương lai, nguồn trả nợ. Thứ tư là do ngân hàng thiếu một cơ chế theo dõi, quản lý rủi ro, thiếu hạn mức tín dụng tối đa cho từng lkhách hàng thuộc từng ngành nghề, lĩnh vực, sản phẩm, địa phương khách nhau để phân tán rủi ro, chưa có các tiêu thức đo lường rủi ro, độ rủi ro cho phép chấp nhận đối với mỗi đối tượng khách hàng. Nguyên nhân thứ năm là thuộc về phía khách hàng. Trước hết, khả năng quản lý của khách hàng yếu kém sẽ dẫn tới sử dụng khoản vay không có hiệu quả, dễ thua lỗ. Tiếp theo, doanh nghiệp không chịu thu thập, tìm hiểu thông tin về thị trường, sản phẩm, đối tượng khách hàng sẽ dẫn tới những quyết định sai lầm trong kinh doanh. Do đó, doanh nghiệp dễ dàng lâm vào tình trạng vỡ nợ hoặc phá sản. Một phần nữa cũng quan trọng không kém là đạo đức của khách hàng. Không ít những chủ doanh nghiệp hoặc cá nhân vay vốn của ngân hàng chẳng những yếu kém về năng lực kinh doanh mà còn thiếu cả tư cách đạo đức. Phần lớn trong số họ đều mong muốn thành đạt trong kinh doanh để có điều kiện trả nợ cho ngân hàng, tuy nhiên, cũng không hiếm những người chỉ mong muốn lừa đảo, chiếm đoạt lấy tiền từ ngân hàng vào những mục đích xấu xa khác như cờ bạc, hụi đề. Thông thường, những khách hàng này đều xuất trình những dự án rất sáng sủa, những lời hứa hẹn hoa mỹ. Các nhà ngân hàng một phần thì thiếu kinh nghiệm, phần nữa có thể do tham một chút lợi nhỏ nên đã đầu tư vào những dự án này và đương nhiên là sẽ gặp rủi ro. 5. Ảnh hưởng của nợ xấu tới Ngân hàng và nền kinh tế Nhìn chung, đối với mỗi ngân hàng thì nợ xấu có tác động trực tiếp tới hoạt động của chính bản thân nó và từ đó tác gây ảnh hưởng tới toàn bộ hệ thống ngân hàng. Những ảnh hưởng này sẽ dẫn tới làm nguy hại cho nền kinh tế. Trước hết, những khoản nợ này làm chậm quá trình tuần hoàn và chu chuyển vốn của các tổ chức tín dụng, giảm vòng quay của vốn, từ đó làm giảm hiệu quả sử dụng vốn, giảm lợi nhuận của ngân hàng. Thứ hai, chi phí phát sinh nợ xấu là rất lớn (bao gồm chi trả lãi tiền gửi, chi phí quản lý nợ xấu và các chi phí khách liên quan). Chi phí tăng cao ngoài dự kiến và những chi phí này làm giảm đáng kể, thậm chí gây lỗ cho các ngân hàng khi hạch toán kết quả kinh doanh. Ngân hàng mất vốn phải khoanh nợ, giãn nợ, thậm chí là xoá nợ, ngoài một phần mà ngân sách cấp bù thì phần chủ yếu là do các ngân hàng phải trích lập quỹ phòng ngừa rủi ro. Điều này sẽ làm giảm thu nhập của ngân hàng. Ngoài ra, khi tỉ lệ nợ quá hạn quá cao, vượt qua giới hạn an toàn theo thông lệ quốc tế, không thực hiện đúng cam kết mở L/C, uy tín của hệ thống NHTM trong nước và quốc tế sẽ giảm sút, ảnh hưởng đến tình hình hoạt động của ngân hàng. Đồng thời, nợ xấu còn hạn chế khả năng mở rộng và tăng trưởng tín dụng, khả năng kinh doanh của các tổ chức tín dụng. Mặt khác, nợ xấu tác động trực tiếp đến khả năng tài chính của tổ chức tín dụng khi phân tích, đánh giá tình hình tài chính hoạt động của ngân hàng, là yếu tố bất lợi cho khả năng cạnh tranh và quá trình hội nhập, phát triển của ngân hàng. 6. Các biện pháp nhằm hạn chế nợ xấu 6.1. Các biện pháp phòng ngừa Trước hết, các ngân hàng thương mại phải thực hiện thẩm định các điều kiện vay vốn. Đây là một khâu quan trọng, không thể thiếu được trang quy trình cho vay và quản lý khoản vay. Nó giúp cho ngân hàng thương mại phát hiện ra những rủi ro tiềm ẩn của khoản vay để đưa ra các quyết định cho vay hợp lý, hạn chế được nợ xấu cho ngân hàng. Quy trình thẩm định điều kiện vay vốn của một khoản vay thì bao gồm các bước như sau: - Kiểm tra hồ sơ vay vốn (bao gồm hồ sơ khách hàng, hồ sơ khoản vay và hồ sơ bảo đảm tiền vay) và mục đích vay vốn. - Điều tra, thu thập, tổng hợp thông tin về khách hàng và phương án sản xuất kinh doanh, dự án vay vốn - Kiểm tra, xác minh lại các thông tin - Thực hiện phân tích ngành - Phân tích, thẩm định khách hàng vay vốn bao gồm: tư cách năng lực pháp lý, năng lực quản lý, điều hành sản xuất kinh doanh, mô hình tổ chức, bố trí lao động trong doanh nghiệp, tình hình hoạt động và khả năng tài chính… - Dự kiến lợi ích ngân hàng sẽ nhận được nếu khoản vay được phê duyệt. - Phân tích, thẩm định phương án kinh doanh, dự án đầu tư để đưa ra kết luận về tính khả thi, hiệu quả, khả năng trả nợ và những rủi ro có thể xảy ra. - Thẩm định tài sản bảo đảm tiền vay. Biện pháp thứ hai là thực hiện chấm điểm tín dụng khách hàng. Chấm điểm tín dụng khách hàng là việc đánh giá khả năng thực hiện các nghĩa vụ tài chính của một khách hàng đối với ngân hàng như trả lãi và gốc nợ vay khi đến hạn nhằm xác định rủi ro hoạt động cấp tín dụng. Mức độ rủi ro tín dụng thay đổi theo từng khách hàng và được xác định thông qua quá trình đánh giá bằng thang điểm dựa vào các thông tin tài chính và phi tài chính sẵn có của khách hàng tại thời điểm thực hiện chấm điểm tín dụng. Việc chấm điểm tín dụng nhằm giúp cho Ngân hàng thương mại trong việc đưa ra các quyết định cấp tín dụng : xác định hạn mức tín dụng đối với khách hàng, số tiền cho vay, thời hạn, mức lãi suất, mức phí, biện pháp bảo đảm tiền vay. Ngoài ra, nó còn giúp ngân hàng giám sát, đánh giá khách hàng khi khoản tín dụng còn dư nợ để phát hiện kịp thời những dấu hiệu bất thường của khách hàng, khoản vay, từ đó có những biện pháp đối phó, hạn chế rủi ro có thể xảy ra. Biện pháp thứ ba là thực hiện giám sát quản lý chặt chẽ khoản . Việc kiểm tra, giám sát khoản vay được thực hiện sau khi cho vay nhằm bảo đảm người vay sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả số tiền vay, đôn đốc hoàn trả nợ gốc và lãi vay đúng hạn, đồng thời, có các biện pháp thích hợp nếu người vay không thực hiện đầy đủ, đúng hạn các cam kết Thứ tư là thực hiện bảo đảm tiền vay. Biện pháp này nhằm tạo cơ sở kinh tế và pháp lý để thu hồi các khoản nợ đã cho khách hàng vay. Nó giúp nâng cao trách nhiệm thực hiện cam kết trả nợ của bên vay, phòng ngừa rủi ro khi phương án trả nợ dự kiến của bên vay không thực hiện được hoặc xảy ra các rủi ro không lường trước được và phòng ngừa sự gian lận của khách hàng đi vay. Bảo đảm tiền vay phải được thực hiện theo các nguyên tắc sau: Trường hợp khách hàng vay hoặc bên bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ đã cam kết, ngân hàng có quyền xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ. Sau khi xử lý tài sản bảo đảm tiền vay, nếu khách hàng vay hoặc bên bảo lành vẫn chưa thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ, khách hàng vay hoặc bên bảo lãnh phải có trách nhiệm tiếp tục thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ. Phần chênh lệch thừa sau khi xử lý vẫn phải được giữ để bảo đảm cho nghĩa vụ tín dụng khác còn đang tồn tại tại ngân hàng (nếu có thoả thuận). 6.2. Biện pháp khắc phục Khi phát hiện ra khoản vay có vấn đề hoặc tài sản bảo của khách hàng có dấu hiệu sút giá so với ban đầu hoặc giá trị tài sản bảo đảm thấp so với giá trị khoản vay, cán bộ tín dụng có thể yêu cầu khách hàng bổ sung tài sản bảo đảm nợ vay. Việc bổ sung này sẽ giúp làm tăng giá trị tài sản bảo đảm của khoản vay. Nếu trong trường hợp xảy ra rủi ro mất vốn thì tổn thất của ngân hàng sẽ giảm đi. Đồng thời, thêm một phần tài sản bị đem đi làm vật bảo đảm cho ngân hàng thì doanh nghiệp sẽ có thêm động lực để sản xuất kinh doanh có hiệu quả nhằm giữ lại những tài sản đó. Bên cạnh đó, nếu cán bộ tín dụng thấy có dấu hiệu khách hàng làm ăn không có hiệu quả thì cũng phải chú ý. Đây là một trong những nguy cơ làm tăng nợ xấu cho ngân hàng. Khi thấy những dấu hiện trên thì cán bộ tín dụng phải kịp thời đưa ra những biện pháp phòng ngừa, giúp tư vấn cho khách hàng trong việc quản lý, điều hành, định hướng sản xuất kinh doanh. Việc này sẽ giúp cho doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, hạn chế tổn thất và nguy cơ phá sản. Do đó, khả năng trả nợ cho ngân hàng của doanh nghiệp sẽ được đảm bảo. Nguy cơ nợ xấu được ngăn chặn. Biện pháp tiếp theo dụng là cho vay thêm. Biện pháp này được áp dụng khi khách hàng đang gặp khó khăn về vốn, có thể ảnh hưởng tới việc thu nợ và phương án sản xuất kinh doanh của káhch hàng có thể phát triển tốt nếu có đủ vốn thì cán bộ tín dụng sẽ xem xét để cho vay thêm. Biện pháp này cũng giúp ngăn chặn những thua lỗ cho khách hàng vay vốn, do đó, đảm bảo khả năng thu hồi được nợ cho ngân hàng. Ngoài ra, ngân hàng thương mại còn thực hiện gia hạn nợ cho khách hàng, Việc này cũng chỉ được thực hiện nếu như cán bộ tín dụng thấy nó có hiệu quả khi mà khách hàng chưa có đủ khả năng trả nợ nhưng nếu cứ duy trì khoản cho vay đó thêm một thời gian thì chắc chắn sẽ sinh lãi và trả được nợ cho ngân hàng. 7. Mô hình đề xuất , để giảm thiểu rủi ro tín dụng trong Ngân Hàng 7.1. Xây dựng mô hình lý thuyết - Mục tiêu của Ngân Hàng đối với nợ là làm sao có thể giảm thiểu rủi ro trong nợ xấu. - Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến nợ xấu : + Lãi suất tăng, nợ xấu tăng. Đó là vòng luẩn quẩn mà các ngân hàng đang tránh đề cập. Đó là lý thuyết kinh tế nhưng cũng là thực tế ở Việt Nam. Lã._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28985.doc