Phân tích tài chính đối với Ngân hàng thương mại cổ phần Sài gòn thương tín Sacombank 3

Mục lục Lời mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài. NHTM là một trong các tổ chức trung gian tài chính quan trọng nhất của nên kinh tế. Với tư cách là trung gian tài chính, NHTM là loại hình doanh nghiệp kinh doanh dặc thù vì kinh doanh loại hàng hoá đặc biệt là tiền tệ. Tự xác định chỗ đứng cho mình là kinh doanh trên lĩnh vực nhạy cảm nhất của nền kinh tế, mỗi ngân hàng đều nỗ lực để tạo cho mình một chỗ đứng và một tiếng nói riêng. Đó có lẽ là một trong những lí do khiến cho phân tích tài ch

doc47 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1905 | Lượt tải: 4download
Tóm tắt tài liệu Phân tích tài chính đối với Ngân hàng thương mại cổ phần Sài gòn thương tín Sacombank 3, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ính đối với NHTM đóng một vai trò đặc biệt quan trọng và trở nên là việc làm không thể thiếu đối với bất kì ngân hàng nào, bởi đối với nhà quản trị ngân hàng phân tích tài chính đối với NHTM chính là con đường ngắn nhất để tiếp cận với bức tranh toàn cảnh tình hình tài chính của chính ngân hàng mình, thấy được cả ưu và nhược điểm cũng như nguyên nhân của những nhược điểm đó để có thể có định hướng kinh doanh đúng đắn trong tương lai. Có rất nhiều mô hình đánh giá tài chính trong NHTM nhưng sử dụng mô hình nào là có hiệu quả nhất và phù hợp nhất với các NHTM Việt Nam? Đó là câu hỏi cần được nhiều nhà phân tích tài chính nói chung và những nhà phân tích tài chính quan tâm đến lĩnh vực ngân hàng nói riêng. Vì lí do này, em đã quyết định lựa chọn đề tài: “Phân tích tài chính đối với NHTM cổ phần Sài gòn thương tín Sacombank” cho bài đề án của mình với hy vọng sẽ góp một tiếng nói và đóng góp một phần công sức nhỏ bé của mình vào việc hoàn thiện công tác phân tích tài chính ở Sacombank nói riêng và trong hệ thống các NHTM nói chung. 2. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu. Đề tài đưa ra các giới thiệu sơ lược về hai mô hình phân tích tài chính CAMEL và PEARLS và áp dụng vào phân tích thực tế ở Sacombank thông qua các chỉ tiêu của báo cáo tài chính từ năm 2005 đến 2007. 3. Phương pháp nghiên cứu. Đề án sử dụng phương pháp duy vật biện chứng kết hợp với các phương pháp thống kê, tổng hợp, phân tích với hệ thống sơ đồ, bảng biểu để trình bày các nội dung lí luận và thực tiễn. 4. Kết cấu đề án. Ngoài lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo đề án được chia làm 2 chương: Chương 1: Những vấn đề cơ bản về phân tích tài chính của NHTM. Chương 2: Phân tích tài chính đối với NHTM cổ phần Sài Gòn thương tín (Sacombank) Do đề tài còn mới mẻ, thời gian thực hiện còn hạn chế cùng với hạn chế về kiến thức của bản thân nên khóa luận không tránh khỏi các sai sót. Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo để bài viết của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn ! Chương 1: những vấn đề cơ bản về phân tích tài chính của ngân hàng thương mại (NHTM) 1.1. Giới thiệu về NHTM 1.1.1. Khái niệm về NHTM Ra đời và phát triển đồng thời cùng với nền sản xuất hàng hoá, ngân hàng là một động lực quan trọng thúc đẩy nền kinh tế phát triển mạnh mẽ. Ban đầu, chỉ là những người thợ vàng, những người cho vay nặng lãi thực hiện cho vay với cá nhân. Họ dần dẫn thực hiện cả việc đổi tiền, giữ hộ và thanh toán hộ. Hình thức cho vay chủ yếu của họ là thấu chi – tức là cho khách hàng chi nhiều hơn số tiền mà họ gửi vào. Thực tế là các ngân hàng sơ khai này đã lợi dụng tính chất vô danh của tiền để tạo nên lợi nhuận từ việc cho vay bằng tiền gửi của người khác. Tuy nhiên, điều này cũng gây ra nhiều rủi ro lớn và do việc cho vay khống nhằm tăng lợi nhuận, nhiều ngân hàng dạng này phá sản. Điều đó gây ra những khó khăn đối với hoạt động buôn bán của các thương nhân. Do đó, nhiều thương nhân đã cùng thành lập nhân hàng, được gọi là ngân hàng thương mại (NHTM). Khác với các ngân hàng thợ vàng trước đây, các NHTM chủ yếu cho các nhà buôn vay với hình thức chiết khấu thương phiếu nhưng về căn bản vẫn thực hiện những nghiệp vụ truyền thống như các ngân hàng trước đây. Sau đó, theo dòng phát triển của phương thức sản xuất xã hội nói chung và sự vận động của tư bản thương nghiệp nói riêng, các NHTM đã liên kết với nhau tạo nên hệ thống ngân hàng. Đi cùng với sự phân công lao động xã hội là sự phân hoá thành nhiều loại hình ngân hàng chuyên biệt hơn như ngân hàng Nhà nước, ngân hàng phát triển, ngân hàng tiết kiệm, ngân hàng đầu tư… Đồng thời, hoạt động của NHTM cũng ngày càng đa dạng, phức tạp và luôn thay đổi để bắt kịp sự thay đổi của nền kinh tế. Như vậy, trên phương diện loại hình dịch vụ mà chúng cung cấp, các NHTM có thể được định nghĩa là "các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất trong so với bất kì một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế."[1] Ngoài ra, ở mỗi quốc gia, do đặc thù về kinh tế, xã hội, chính trị và phong tục tập quán khác nhau nên đã nảy sinh nhiều quan niệm, nhiều định nghĩa khác nhau về ngân hàng. Luật TCTD Việt Nam ghi rõ: “Ngân hàng là một loại hình TCTD được phép thực hiện toàn bộ các hoạt động ngân hàng và các hoạt động khác có liên quan”. [2] 1.1.2. Chức năng của NHTM 1.1.2.1. Trung gian tài chính Trên thực tế, do sự chênh lệch thời điểm phát sinh thu nhập và thời điểm phát sinh chi tiêu của các hoạt động kinh tế nên trong nền kinh tế luôn luôn tồn tại hai loại cá nhân và tổ chức: (1) Các cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu, tức là những đối tượng cần bổ sung vốn trong ngắn hạn. (2) Các cá nhân và tổ chức tạm thời thặng dư trong chi tiêu, tức là những đối tượng có tiền nhàn rỗi trong ngắn hạn. Do tính chất thời gian của tiền, việc nắm giữ tiền nhàn rỗi sẽ làm giảm giá trị của tiền và tất yếu việc chuyển tiền từ nhóm (2) sang nhóm (1) sẽ giúp cho cả 2 bên cùng có lợi. Và việc dòng tiền di chuyển từ nhóm (2) sang nhóm (1) rồi trở về nhóm (2) với giá trị lớn hơn được gọi là quan hệ tín dụng. Tuy nhiên, các quan hệ tín dụng trực tiếp gặp phải nhiều cản trở như về quy mô, thời gian, không gian… và đó là điều kiện nảy sinh các trung gian tài chính hay cụ thể là các NHTM. NHTM thực hiện nghiệp vụ huy động tiền gửi từ nhóm (2) bằng cách phát hành các chứng khoán ít rủi ro và sau đó mang số vốn này cho nhóm (1) vay với rủi ro lớn hơn để hưởng mức lợi tức đền bù lớn hơn. Như vậy, NHTM là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yêu là huy động vốn và cho vay, tức là chuyển từ tiết kiệm thành đầu tư. 1.1.2.2. Tạo phương tiện thanh toán Trong điều kiện phát triển các dịch vụ tại ngân hàng, khách hàng nhận thấy nếu họ có được một số dư nhất định trên tài khoản tiền gửi thanh toán, họ có thể dùng nó để chi trả hàng hoá và dịch vụ theo yêu cầu. Theo quan điểm của kinh tế học hiện đại, đại lượng tiền tệ bao gồm nhiều bộ phận: tiền giấy trong lưu thông, số dư trên tài khoản giao dịch của các ngân hàng, tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi có kì hạn… Như vậy là khi ngân hàng cho vay, số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tăng lên, khách hàng có thể dùng nó để mua hàng hoá và dịch vụ. Cũng tức là bằng việc cho vay (hay tạo tín dụng) các ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán (tham gia tạo ra M1). Cũng như thế, toàn bộ hệ thống ngân hàng cũng tạo phương tiện thanh toán khi mở rộng các khoản tiền gửi từ ngân hàng này đến ngân hàng khác trên cơ sở cho vay. 1.1.2.3. Trung gian thanh toán Do sự phát triển mạnh mẽ và nhanh chóng cùng với nền kinh tế của hệ thống ngân hàng, hiện nay, ở hầu hết các quốc gia, ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất. Thông qua việc gửi tiền tại các tài khoản thanh toán, khách hàng uỷ thác cho các ngân hàng thay mặt họ thực hiện thanh toán giá trị hàng hoá và dịch vụ. Để thực hiện chức năng này, các ngân hàng đưa ra cho khách hàng nhiều hình thức thanh toán như thanh toán bằng séc, uỷ nhiệm chi, nhờ thu, các loại thẻ… cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và cung cấp tiền giấy khi khách hàng cần. Ngoài ra, các ngân hàng còn thực hiện thanh toán bù trừ với nhau thông qua ngân hàng Trung ương hoặc các trung tâm thanh toán. 1.1.3. Những hoạt động chủ yếu của ngân hàng Để thực hiện được những chức năng của mình, NHTM thực hiện các nghiệp vụ hết sức đa dạng với mức độ chuyên môn hoá cao. Trong đó, co ba hoạt động chủ yếu, đó là: hoạt động huy động vốn, hoạt động tín dụng và đầu tư và các hoạt động cung cấp dịch vụ tài chính khác như dịch vụ thanh toán, tư vấn tài chính, quản lý hộ tài sản, kinh doanh ngoại tệ… 1.1.3.1. Hoạt động huy động vốn Khác với các loại hình doanh nghiệp phi tài chính, nguồn vốn chủ sở hữu của các NHTM thường chỉ chiếm <10% tổng nguồn vốn, bởi vậy để đảm bảo cho hoạt động của mình, các NHTM phải thực hiện hoạt động huy động vốn. Hoạt động huy động vốn của NHTM bao gồm: huy động vốn tiền gửi và huy động vốn phi tiền gửi. Các nguồn vốn huy động này là nhằm để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng ổn định và nó được thực hiện thông qua các nghiệp vụ: tiết kiệm, tiền gửi dân cư; tiền gửi giao dịch; phát hành giấy tờ có giá; đi vay trên thị trường tiền tệ; vay ngân hàng Trung ương… 1.1.3.2. Hoạt động tín dụng Nguồn vốn NHTM huy động được chủ yếu được đem cho vay và tái đầu tư trở lại nền kinh tế. Ngay từ thời kỳ sơ khai của các NHTM, nghiệp vụ tín dụng đã được coi là một hoạt động quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của mỗi ngân hàng, cũng như đem lại hiệu quả cho xã hội. Các sản phẩm gắn liền với hoạt động tín dụng bao gồm: cho vay kinh doanh, cho vay tiêu dùng, đầu tư vào giấy tờ có giá, góp vốn liên doanh liên kết … 1.1.3.3. Hoạt động cung cấp dịch vụ khác Trong nền kinh tế hiện đại, yêu cầu về các sản phẩm tài chính ngày càng gia tăng mạnh mẽ mà đi liền với nó là sự cạnh tranh khốc liệt trên thị trường từ các tổ chức tài chính phi ngân hàng cho đến các NHTM. Do vậy, xuất hiện xu hướng đáp ứng nhu cầu của mọi đối tượng khách hàng một cách tốt nhất và xu thế đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ ngân hàng, tiến tới giảm dần sự phụ thuộc thu nhập của ngân hàng vào thu nhập từ hoạt động tín dụng. Dịch vụ ngân hàng khác bao gồm: dịch vụ thanh toán, kinh doanh ngoại hối, dịch vụ môi giới, bảo lãnh, tư vấn tài chính … 1.1.4. Đặc trưng của NHTM 1.1.4.1. Hoạt động kinh doanh của ngân hàng hàm chứa nhiều rủi ro Ngân hàng nói chung và NHTM nói riêng là doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực tiền tệ với nghiệp vụ chính là kinh doanh tiền. Do đó, bản thân nó hàm chứa rất nhiều rủi ro. Cụ thể là: - Rủi ro tín dụng xảy ra khi khách hàng không thanh toán được gốc và lãi của khoản vay. Và đây là rủi ro mang tính hệ thống. - Rủi ro lãi suất xảy ra khi lãi suất thị trường có sự biến động. Nguyên nhân của nó là do ngân hàng không có sự cân xứng giữa kỳ hạn của tài sản có và tài sản nợ hoặc sự mất cân xứng giữa khối lượng tài sản có và tài sản nợ nhạy cảm với lãi suất. Có hai loại rủi ro lãi suất là rủi ro tái tài trợ tài sản nợ và rủi ro tái đầu tư tài sản có. - Rủi ro thanh khoản là nguy cơ mất khả năng chi trả của ngân hàng khi khách hàng có nhu cầu rút tiền. Đây là rủi ro xảy ra thường xuyên và nghiêm trọng hơn cả. Do tính chất lan truyền, nếu những người gửi tiền nhận thấy ngân hàng gặp rắc rối về thanh khoản thì họ có thể sẽ đồng loạt rút tiền ra khỏi ngân hàng. - Rủi ro ngoại hối là khoản lỗ tiềm tàng mà ngân hàng phải gánh chịu khi duy trì các tài sản có và tài sản nợ bằng ngoại tệ ở trong trạng thái trường hay đoản về loại ngoại tệ mà ngân hàng nắm giữ. - Các hoạt động ngoại bảng là các hoạt động không được theo dõi trên bảng cân đối tài sản của ngân hàng. Do tính đa dạng và phức tạp của các hoạt động này, nguyên nhân và thời điểm xảy ra cũng như những tác động của nó lên bản thân ngân hàng là không giống nhau. Nhưng tựu trung là đưa lại tổn thất cho ngân hàng. - Rủi ro công nghệ phát sinh khi những khoản đầu tư cho phát triển công nghệ không tạo được khoản tiết kiệm trong chi phí đã dự tính khi mở rộng quy mô hoạt động. Rủi ro hoạt động có mối liên hệ chặt chẽ với rủi ro công nghệ và có thể phát sinh bất cứ lúc nào nếu hệ thống công nghệ bị trục chặc hoặc là khi hệ thống hỗ trợ công nghệ bên trong ngừng hoạt động. 1.1.4.2. Đối tượng kinh doanh chính của ngân hàng là tiền tệ Có thể nói, ngân hàng kinh doanh một loại hàng hóa đặc biệt trên thị trường – đó chính là tiền tệ với đặc tính xã hội hóa cao, tính cảm ứng và nhạy bén với mọi thay đổi trong nền kinh tế. Đây chính là đặc điểm cơ bản phân biệt lĩnh vực kinh doanh ngân hàng so với các lĩnh vực kinh doanh khác. Giá cả trong kinh doanh ngân hàng chính là lãi suất. Sự vận động lên hoặc xuống của lãi suất bị tác động và đồng thời cũng chịu tác động của rất nhiều mối quan hệ kinh tế – xã hội khác nhau. Sự biến động của lãi suất có tác dụng điều tiết cân bằng thị trường và là tín hiệu thông báo, hướng dẫn người sản xuất và người tiêu dùng trong các hành vi kinh tế của họ. Lãi suất cũng là một trong các yếu tố thu hút khách hàng đến với ngân hàng hiệu quả nhất. Do vậy, trong thực tiễn hoạt động, tất cả các NHTM đều xây dựng cho mình biểu lãi suất hợp lý nhất để tăng sức cạnh tranh của ngân hàng mình trên thị trường. 1.1.4.3. Nguồn vốn chủ yếu để các ngân hàng hoạt động kinh doanh chính là nguồn vốn huy động Xuất phát từ chức năng thứ nhất của ngân hàng là: trung gian tài chính làm nhiệm vụ thu hút tiền gửi và tiết kiệm trong nền kinh tế, các NHTM đã tạo ra được nguồn vốn khổng lồ từ hoạt động huy động vốn để sử dụng cho hoạt động kinh doanh của mình. Đây là nguồn vốn dồi dào và chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn của ngân hàng. Đặc điểm của nguồn vốn này là ngân hàng không có quyền sở hữu đối với nó mà do đáp ứng những điều kiện đã thỏa thuận với khách hàng, ngân hàng được sử dụng số vốn này trong một khoảng thời gian nhất định. 1.1.4.4. Kinh doanh ngân hàng là lĩnh vực kinh doanh mang tính hệ thống cao và phải chịu sự quản lý nghiêm ngặt của Nhà nước Do những đặc trưng riêng biệt của mình, lĩnh vực kinh doanh ngân hàng mang tính hệ thống cao hơn hẳn những lĩnh vực kinh doanh khác. Do đó, một mặt đòi hỏi phải có sự quản lý nghiêm ngặt của các cơ quan quản lý Nhà nước nhằm thực thi chính sách tiền tệ quốc gia, nhằm bảo vệ sự an toàn của hệ thống tài chính ngân hàng, bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền và người đầu tư. Mặt khác, để bảo đảm an toàn trong hoạt động kinh doanh cũng như để có thể tạo ra các dịch vụ toàn diện cho ngân hàng, luôn đòi hỏi phải duy trì tính ràng buộc theo hệ thống trong quá trình hoạt động của các ngân hàng, bao gồm cả những ràng buộc về mặt kỹ thuật và về mặt tổ chức, có thể do các ngân hàng tự thiết lập hay do các yêu cầu của cơ quan quản lý Nhà nước. 1.2. Phân tích tài chính đối với NHTM 1.2.1. Khái niệm về phân tích tài chính Phân tích tài chính là sử dụng một tập hợp các khái niệm, phương pháp và các công cụ cho phép xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác về quản lý nhằm đánh giá tình hình tài chính của một doanh nghiệp, đánh giá rủi ro, mức độ và chất lượng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp đó. Quy trình phân tích tài chính ngày càng được áp dụng rộng rãi hơn trong các doanh nghiệp nói chung và trong hoạt động của các NHTM nói riêng. Chủ yếu phân tích tài chính đối với NHTM là việc phân tích số liệu thông qua các báo cáo tài chính của NHTM nhằm giúp cho những người sử dụng thông tin đưa ra quyết định hợp lý. 1.2.2. Vai trò của phân tích tài chính đối với NHTM Hoạt động ngân hàng là hoạt động tạo ra lợi nhuận lớn và ngày càng phát triển. Tuy nhiên, đây cũng là ngành kinh doanh ẩn chứa những rủi ro lớn nhất do đó cần có những biện pháp quản lý tốt và hiệu quả nguồn vốn nhằm đạt lợi nhuận tối đa. Đối với những nhà quản trị ngân hàng, phân tích tài chính giúp họ nhìn nhận toàn diện bộ mặt của NHTM trong kỳ hoạt động đã qua một cách khách quan và tương đối trung thực, từ đó có các biện pháp đối phó thích hợp nhằm hạn chế nhược điểm và phát huy ưu điểm của bản thân NHTM, nâng cao tính cạnh tranh. Mặt khác, phân tích tài chính cũng giúp các nhà quản trị nhận biết và dự đoán trước những rủi ro cũng như các tiềm năng trong tương lai để có được các biện pháp thích hợp phòng ngừa rủi ro và tận dụng lợi thế. Đồng thời, đây cũng là một công cụ trong tay các nhà quản trị để kiểm soát các hoạt động quản lý trong đơn vị về tính hiệu quả cũng như tính đầy đủ của nó. 1.2.3. Các phương pháp phân tích tài chính Có rất nhiều phương pháp phân tích tài chính nói chung và đối với NHTM nói riêng, tuy nhiên, đề án chỉ đi vào nghiên cứu hai mô hình phân tích là Hệ thống đánh giá CAMEL và Hệ thống giám sát PEARLS. 1.2.3.1. Hệ thống đánh giá CAMEL 1.2.3.1.1.Sơ lược về mô hình CAMEL CAMEL là phương pháp phân tích tài chính ngân hàng được xây dựng ở Mĩ từ thập niên 80 của thế kỉ XIX. Ngày nay, đây được coi là một phương pháp chuẩn được công nhận rộng rãi trên thế giới đối với việc phân tích tài chính trong NHTM. Đây là công cụ rất hữu ích trong việc đưa ra các dự đoán liệu ngân hàng có lanh fmạnh hay không và nó cho phép xác định giái trị ngân hàng với mức độ tin cậy cao nhất. CAMEL là chữ viết tắt tiếng Anh của 5 nhân tố quan trọng để đánh giá tính ổn định và lành mạnh của một ngân hàng. Đó là: C - Capital adequacy : Vốn A - Asset quality : Chất lượng tài sản M - Management quality : Năng lực quản lý E – Earnings : Khả năng sinh lời L – Liquidity : Khả năng thanh toán Các yếu tố của CAMEL đã đưa ra những điểm nổi bật nhất về tình hình tài chính của ngân hàng. Trong môi trường kinh tế và luật pháp của một quốc gia, các chỉ tiêu CAMEL cho phép xác định mức độ an toàn vốn của một NHTM, chất lượng tài sản có – nguồn vốn và các khoản đầu tư, hiệu quả công tác quản trị, khả năng thanh toán, khả năng sinh lời và duy trì lợi nhuận. Thông qua các nhân tố, các nhà phân tích đánh giá và phân loại ngân hàng thông qua việc cho điểm từ 1 (tốt nhất) đến 5 (kém nhất) đối với mỗi nhân tố. Nếu một ngân hàng có số điểm trung bình dưới 2 thì được coi là ngân hàng có chất lượng cao trong khi các ngân hàng có số điểm từ 3 trở lên được coi là ít ổn định hơn. Hệ thống này giúp cho nhà quản trị ngân hàng biết được ngân hàng mình đang cần những gì. 1.2.3.1.2. Các chỉ tiêu của mô hình CAMEL: Năm tiểu mục dưới đây sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về các nhân tố của CAMEL và cách tính toán các chỉ số đó. C - Capital Adequacy Ratio (Tỉ lệ an toàn vốn) Vốn tự có của NHTM có 3 ý nghĩa chính: Một là để bù đắp những tổn thất không mong đợi cho ngân hàng; Hai là bảo đảm sự an toàn cho người gửi tiền cũng như các chủ nợ; Ba là đảm bảo tuân thủ những quy định của cơ quan quản lý đặt ra nhằm bảo vệ người gửi tiền cũng như ổn định toàn hệ thống ngân hàng.Trên thực tế, vốn tự có được coi như tấm đệm cho những trường hợp tổn thất. Mức độ vốn càng cao cho phép nhà quản trị theo đuổi những cơ hội kinh doanh có mức rủi ro càng lớn. Tuy nhiên, nếu tỉ trọng vốn tự có quá cao sẽ giảm đòn bẩy hoặc khả năng của ngân hàng trong việc tối đa hoá tỉ lệ lợi nhuận trên vốn tự có (ROE). Trái lại, nếu quá ít vốn sẽ khiến cho ngân hàng mất cân xứng về rủi ro khi xảy ra tổn thất. Nói chung, tỉ trọng vốn hợp lý sẽ đảm bảo sự an toàn cho bản thân ngân hàng và cả hệ thống cũng như tối đa hoá được tỉ lệ cổ tức cho các cổ đông. Các tỉ lệ chính đo lường mức độ hợp lý và an toàn vốn của NHTM: Vốn tự có x 100 (1) CAR (%) = ----------------------------------- Tài sản rủi ro Theo Hiệp định quốc tế Basle 2 (Tháng 6/1999), vốn tự có gồm 2 thành phần là vốn cấp 1 và vốn cấp 2. Trong đó: - Vốn cấp 1 (vốn cơ sở): gồm vốn cổ đông đã góp, thặng dư vốn cổ phần, dự trữ công khai (các quỹ dự trữ, thu nhập giữ lại) trừ đi lợi thế thương mại. Vốn này được xem là sức mạnh và tiềm lực thực sự của ngân hàng. - Vốn cấp 2 (vốn bổ sung): giá trị tăng thêm của tài sản cố định được định giá lại, dự trữ công khai, dự phòng chung hay dự phòng tổn thất nợ chung, các khoản nợ thứ cấp, các công cụ vốn nợ khác (chứng chỉ đầu tư, trái phiếu chuyển đổi, cổ phiếu ưu đãi…) Tài sản của NHTM được phân loại thành các mức độ: (i) phi rủi ro; (ii) ít rủi ro; (iii) rủi ro trung bình; (iv) dưới tiêu chuẩn; (v) "workout" (hay cơ hội thu hồi rất nhỏ); và (vi) tài sản cố định, nội thất và trang thiết bị văn phòng, máy vi tính,… Trong đó, tài sản phi rủi ro bao gồm: (i) Tiền mặt tại quỹ; (ii) Tiền gửi ngân hàng; (iii) cho vay liên ngân hàng); (iv) Các món cho vay được chính phủ bảo lãnh; và (v) Đầu tư vào chứng khoán của chính phủ. Đối với mỗi nhóm loại đều được gán một hệ số rủi ro tương ứng. Tổng tài sản rủi ro của ngân hàng được tính bằng cách nhân tổng tài sản của mỗi nhóm tài sản rủi ro với hệ số rủi ro của nhóm tài sản đố rồi cộng lại. Những yêu cầu về vốn thêo Hiệp định Balse bao gồm: - Tỉ trọng vốn cấp 1 tối thiểu là 4% - Tỉ lệ an toàn vốn CAR tối thiểu là 8%, trong đó vốn cấp 2 được giới hạn tối đa là 100% của vốn cấp 1. Về ý nghĩa, tỉ số an toàn vốn CAR nhấn mạnh vào yêu cầu vốn cơ sở tối thiểu cho các ngân hàng trên quy mô quốc tế. Tuy nhiên, rất khó để xác định số liệu để tính toán rủi ro như tài sản rủi ro, mức độ rủi ro phù hợp và các khoản mục ngoài bảng. Tổng nợ phải trả (2) Hệ số đòn bẩy tài chính = ------------------------------- Vốn tự có Đây là một thước đo thông dụng mức độ nợ trên vốn chủ sở hữu được nhiều ngân hàng áp dụng. Hệ số này cho biết khả năng huy động vốn của ngân hàng lớn gấp bao nhiêu lần so với vốn tự có từ đó đo lường mức độ phụ thuộc vào nguồn vốn bên ngoài. Mức trung bình của các ngân hàng trên thế giới là 12,5 lần. Lợi nhuận giữ lại (3) Hệ số tạo vốn nội bộ = ------------------------------------------ Vốn cấp 1 Hệ số cho biết khả năng tăng vốn tự có của ngân hàng từ lợi nhuận giữ lại. Hệ số này càng lớn càng tốt. Trên thế giới, hệ số này được coi là tốt khi nó tối thiểu là 12%. Tóm lại, NHTM là tổ chức tài chính trung gian thực hiện các hoạt động luân chuyển vốn. Điều này đòi hỏi sự đảm bảo bằng phần trăm vốn tự có trên tài sản của ngân hàng. Vốn của ngân hàng vì thế được coi như tấm nệm tài chính cho phép ngân hàng tồn tại trong các điều kiện kinh tế khó khăn. Trên đây đã chỉ ra mức độ quan trọng của mức độ an toàn vốn và các thước đo sử dụng để đánh giá chỉ tiêu này. A – Asset quality (chất lượng tài sản) Tài sản là phần sử dụng vốn và duy trì khả năng thanh toán của một ngân hàng. Chất lượng tài sản kém có thể là do quản trị kém trong chính sách cho vay, điều này dẫn đến áp lực đối với vị thế về tài trợ vốn cho ngân hàng trong ngắn hạn. Kết quả dẫn đến khủng hoảng về thanh khoản hoặc làm cho ngân hàng hoàn toàn phá sản. Việc đánh giá chất lượng tài sản là một trong những khía cạnh khó khăn trong phân tích tài chính ngân hàng. Về căn bản, nhà phân tích phải đi theo hai hướng: (i) đánh giá mức độ mạnh yếu trong quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng, (ii) đánh giá chất lượng của các khoản đầu tư và danh mục cho vay bằng việc sử dụng phân tích xu thế và so sánh. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tài sản: Lợi nhuận trước thuế + Khấu hao + Dự phòng (1) Tỉ lệ dự phòng = ----------------------------------------------------------------- Dự phòng tổn thất nợ Mức chất lượng của chỉ tiêu: từ 3 đến 4 lần. Dự phòng tổn thất nợ (2) Tỉ lệ chi phí dự phòng = ---------------------------------------- Dư nợ bình quân Mức chất lượng của chỉ tiêu: tối đa 1%. ý nghĩa của chỉ tiêu: Chi phí dự phòng tổn thất nợ trong một năm phản ánh những thay đổi trong chất lượng cũng như quy mô của danh mục cho vay. Những ngân hàng quản trị tốt và có mức tín nhiệm cao thường duy trì tỉ số này ở mức 0.6% đến 1%. Dự phòng tổn thất nợ (3) Khả năng bù đắp nợ xấu = --------------------------------------------- Nợ xấu (NPLs) Nợ xấu được xem là khoản nợ đã quá hạn có nợ gốc và nợ lãi bị quá hạn trả từ 90 ngày trở lên. Mức chất lượng của chỉ tiêu: trên 1%. Nợ xấu (4) Tỷ lệ nợ xấu = -------------------------- Tổng dư nợ Mức chất lượng chỉ tiêu: dưới 1,5%. ý nghĩa: chỉ tiêu này đo lượng tie lệ phần trăm các khoản nợ có vấn đề trong tổng dư nợ của ngân hàng. Chỉ tiêu này càng cao thì càng đòi hỏi ngân hàng có nhiều vốn hơn để hỗ trợ cho danh mục các khoản cho vay. (5) Tỷ lệ nợ xấu/ Tổng tài sản Mức chất lượng của chỉ tiêu: dưới 2%. Chỉ tiêu được tính toán trên cơ sở giả định thông tin về tỉ lệ nợ xấu là có sẵn và chính xác. Dư nợ (6) Danh mục cho vay trên tổng tài sản có = ------------------------- Tổng tài sản Chỉ tiêu này cho biết mức độ đa dạng hoá trong hoạt động của ngân hàng. Nếu cho vay chiếm tỉ trọng lớn trong tổng tài sản tức là ngân hàng có mức độ tập trung tín dụng lớn. Ngược lại, nếu tỉ lệ này nhỏ thì ngân hàng hoặc là thiếu khách hàng vay vốn hoặc là đa dạng hoá danh mục đầu tư. Dư nợ cuối kì - Dư nợ đầu kì (7) Tốc độ tăng trưởng = -------------------------------------------- Tổng tài sản có Chỉ tiêu này phải được xem xét trong mối tương quan với giai đoạn phát triển của ngân hàng và tốc độ tăng trưởng tín dụng của cả hệ thống ngân hàng do Ngân hàng trung ương khống chế hàng năm. Giá trị tài sản cố định (8) Tỉ lệ đầu tư tài sản cố định = ------------------------------------------ Vốn tự có Tỉ lệ đầu tư tài sản cố định thể hiện phân trăm vốn tự có đầu tư vào tài sản cố định. Nó đánh giá được lượng vốn đầu tư vào các tài sản không sinh lợi của ngân hàng có hợp lý không. Hiện nay, theo quy ước quốc tế thì tỷ lệ này không vượt quá 20%. Còn theo quyu định của Việt Nam tại Điều 88 Luật các tổ chức tín dụng 1997 và Luật sửa đổi bổ sung Luật các tổ chức tín dụng năm 2004, tỉ lệ này không được vượt quá 50%. Như vậy là rủi ro tín dụng là nội dung chính trong phân tích chất lượng tài sản của NHTM. Một ngân hàng ra quyết định tín dụng kém chất lượng sẽ không thể tiếp tục tồn tại. ở một góc độ khác, chất lượng tài sản là nhân tố quan trọng hàng đầu đóng góp vào lợi nhuận và là nhân tố tạo sức mạnh tài chính dài hạn của ngân hàng. M – Management quality (chất lượng quản lý) Theo mô hình CAMEL, phân tích nhân tố quản lý cũng đóng vai trò quan trọng trong phân tích tài chính cũng như đưa ra các đánh giá về tình hình hoạt động và tài chính NHTM. Bởi vì sự quản lý và các quyết định quản lý sẽ có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động của ngân hàng. Chính vì thế mà cần tập trung phân tích các yếu tố quản lý của NHTM để đánh giá chính xác hơn tình hình tài chính của ngân hàng. Nhà phân tích có thể thông qua các nguồn htông tin sau để đánh giá chất lượng công tác quản lý: phỏng vấn trực tiếp, hiểu biết về thị trường, ý kiến của các ngân hàng tương đương, quy định của chính ngân hàng, khách hàng, các tổ chức đánh giá tín nhiệm. Tóm lại, đây là những đánh giá mang tính chất chủ quan của nhà phân tích. Tuy nhiên, nó lại là điều cần thiết để các nhà phân tích đưa ra các ý kiến mang tính hệ thống về triết lý quản trị, phong cách quản trị và cách tiếp cận chiến lược hoạt động của 1 NHTM. E – Earning (khả năng sinh lời) Khả năng sinh lời phản ánh khá tổng quát kết quả của các hoạt động kinh doanh. Ngoài ra, khả năng sinh lời còn giúp bù đắp các khoản tổn thất, tạo ra một cấu trúc tài chính cân bằng và là phần thưởng đối với cổ đông. Thu nhập tốt sẽ tạo dựng được niềm tin của người gửi tiền, nhà đầu tư, chủ nợ và công chúng. Do đó, khả năng sinh lời là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hiệu quả hoạt động của NHTM. NHTM có 4 nguồn thu chính: thu nhập từ lãi, phí và hoa hồng dịch vụ, thu nhập từ hoạt động kinh doanh và thu nhập khác. Chi phí quan trọng nhất của ngân hàng là chi phí lãi, lương nhân viên và dự phòng tổn thất nợ. Điểm quan tâm lớn nhất của nhà phân tích tài chính là chất lượng của khoản thu nhập. Nó được đánh giá qua mức độ ổn định, độ tin cậy và tỉ lệ so sánh với các NHTM đồng hạng khác. Các bước phân tích khả năng sinh lời bao gồm: Bước 1: Phân tích lợi nhuận ròng từ lãi Lợi nhuận ròng từ lãi là chênh lệch giữa thu nhập thu được từ lãi cho vay và chi phí lãi. Nó thể hiện khoản lãi thu được từ danh mục cho vay. Chỉ tiêu phân tích: Thu nhập ròng từ lãi a. Lãi ròng biên = --------------------------------------- Tổng tài sản bình quân Mức chất lượng của chỉ tiêu: trên 3%. ý nghĩa: Lãi ròng biên thể hiện cách thức đo lường hiệu quả sử dụng tài sản của NHTM. Mức lãi ròng biên tốt là chỉ dẫn về: thu nhập từ khoản cho vay tốt; tỉ lệ chi phí thấp; hiệu quả sử dụng tài sản và khả năng thu được lợi nhuận từ nguồn vốn. b. Chênh lệch lãi suất huy động và lãi suất cho vay Thu từ lãi Chi trả lãi Chênh lệch lãi suất (%) = ------------------------ – ------------------------- Tài sản sinh lợi Nợ phải trả lãi bình quân bình quân Chênh lệch lãi suất đo lường hiệu quả đối với hoạt động trung gian của ngân hàng trong quá trình huy động vốn và cho vay, đồng thời nó cũng đo lường cường độ cạnh tranh trên thị trường của ngân hàng. Sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường ngân hàng có xu hướng thu hẹp mức chênh lệch lãi suất. Nếu các nhân tố khác không đổi, chênh lệch lãi suất sẽ giảm khi cạnh tranh tăng buộc ban quản trị ngân hàng phải có những biện pháp bù đắp mức chênh lệch lãi suất bị mất. Bước 2: Phân tích các khoản thu nhập khác Các khoản thu nhập khác bao gồm các khoản thu như phí và hoa hồng, kinh doanh ngoại tệ và kinh doanh chứng khoán. Chỉ tiêu phân tích: tỉ trọng thu nhập khác trên tổng thu nhập hoạt động. Mức chất lượng của chỉ tiêu: Không có mức độ xác định cụ thể đối với chỉ tiêu này. Mức chất lượng phụ thuộc vào mức độ phân bổ trong quá khứ của tổng thu nhập hoạt động. Tuy nhiên, một mức độ ổn định 1% hoặc lớn hơn trên tổng tài sản được xem là một mức tốt vì điều đó chứng tỏ các NHTM ngày càng coi trọng thu nhập từ phí dịch vụ và các hoạt động ngoại bảng. Bước 3: Phân tích chi phí hoạt động Chi phí hoạt động hay còn gọi là chi phí ngoài lãi, bao gồm lương và các khoản liên quan; khấu hao; thuế; chi phí quản lý và chi phí khác. Chỉ tiêu phân tích: Tổng chi phí hoạt động Chi phí trên thu nhập = ------------------------------------ Tổng thu nhập hoạt động Mức chất lượng của chỉ tiêu: từ 55% đến 60%. ý nghĩa của chỉ tiêu: Quản lý chi phí hoạt động là nhiệm vụ cơ bản của quản lý lợi nhuận. Thành công của công tác quản lý lợi nhuận là tỉ lệ chi phí/thu nhập ổn định, thấp hơn so với các ngân hàng đồng hạng và giảm dần theo thời gian. Bước 4: Phânt ích dự phòng tổn thất nợ: Dự phòng tổn thất nợ hay còn được gọi là dự phòng nợ xấu thể hiện sự phân bổ định kì đối với các khản dự trữ cho tổn thất nợ trên bảng cân đối kế toán của ngân hàng. Các chỉ tiêu phân tích: - Chỉ tiêu 1: Dự phòng tổn thất nợ/Tổng tài sản bình quân Mức chất lượng: dưới 0.5% - Chỉ tiêu 2: Dự phòng tổn thất nợ/ Tổng dư nợ bình quân Mức chất lượng: dưới 1%, lý tưởng là dưới 0.5% - Chỉ tiêu 3: Thu nhập trước thuế, các khoản mục bất thường và dự phòng nợ tổn thất/Dự phòng tổn thất nợ Mức chất lượng của chỉ tiêu: trên 1% Mỗi chỉ tiêu ở trên là một thước đo đo lường sự tác động của chi phí hàng năm hoặc định kì đối với khả._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc1917.doc
Tài liệu liên quan