Phân tích tình hình tài chính trên cơ sở bảng cân đối Kế toán với việc tăng cường quản trị doanh nghiệp tại Công ty cơ khí Hà Nội

Lời mở đầu Sau 20 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, nền kinh tế nước ta đã đạt được nhiều bước tiến hết sức quan trọng. Tuy nhiên để đặt được mục tiêu đến năm 2020 đưa nước ta về cơ bản trở thành một nước công nghiệp với cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lí và thực hiện công nghiệp hoá hiện dại hoá đất nước thì đòi hỏi chúng ta chiến lược đúng đắn và hợp lí. Cũng như tất cả các quốc gia trên thế giới phát triển nền kinh tế là mũ nhọn của đất nước. Công cụ chủ yếu đượ

doc74 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1316 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Phân tích tình hình tài chính trên cơ sở bảng cân đối Kế toán với việc tăng cường quản trị doanh nghiệp tại Công ty cơ khí Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c dùng đó là tài chính. Vàđể cung cấp những thông tin hữu ích cho việc ra quyết định kinh doanh và kinh tế của các nhà quản lí doanh nghiệp và các nhà sử dụng thông tin tài chính ở bên ngoài, hệ thống báo cáo tài chính đã ra đời. Dựa vào các nguồn thông tin nhận được trong các Báo cáo tài chính, người sử dụng sẽ nắm được thực trạng tài chính của doanh nghiệp và làm cơ sở cho việc ra quyết định của mình. Các Báo cáo tài chính gồm Bảng Cân đối kế toán, Báo cáo kết quả kinh doanh, Báo cáo lưu chuyển tiền tệ và thuyết minh Báo cáo tài chính, mỗi loại cung cấp những thông tin tổng hợp về một khía cạnh khác nhau của tình hình tài chính, tình hình kinh doanh của doanh nghiệp. Các báo cáo này bổ sung cho nhau và cùng làm sáng tỏ bức tranh tài chính của doanh nghiệp. Trong các báo cáo tài chính đó, Bảng cân đối kế toán đóng vai trò quan trọng, nó đưa ra bức tranh tài chính tổng quát tại doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định. Tuy nhiên, Bảng cân đối kế toán cũng có những hạn chế vốn có của nó, những hạn chế thuộc về bản chất được quy định bởi những nguyên tắc, quy tắc hạch toán nên không thể khắc phục được. Vì vậy, để tránh đưa ra các quyết định sai lầm, những người sử dụng thông tin của Báo cáo tài chính cần được trang bị những công cụ phân tích thích hợp. Phân tích Báo cáo tài chính sẽ giúp cho nhà phân tích nắm bắt được đầy đủ thực trạng tài chính doanh nghiệp và khắc phục được những hạn chế trên. Phân tích Báo cáo tài chính thông qua các công cụ và kĩ thuật phân tích giúp các nhà phân tích kiểm tra Báo cáo tài chính, qua đó có thể đánh giá được những thành tích và tình hình tài chính của doanh nghiệp cũng như dự tính được những rủi ro và tiềm năng trong tương lai. Phân tích Báo cáo tài chính có thể mang lại những thông tin có giá trị về xu thế và mối quan hệ, khả năng sinh lợi của doanh nghiệp qua đó phát hiện được những điểm mạnh, điểm yếu về tài chính của doanh nghiệp. Đối với các nhà quản trị của doanh nghiệp, phân tích Báo cáo tài chính đóng vai trò quan trọng,đặc biệt trong tình hình hiện nay, khi công việc ghi chép, xử lí thông tin kế toán đơn thuần đã được máy vi tính đảm nhận thì công việc kế toán được thực hiện chủ yếu là phân tích các thông tin kế toán có ích để phục vụ cho việc ra quyết định tài chính của chủ doanh nghiệp. Nhận thấy tầm quan trọng đặc biệt của việc phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp đối với việc ra quyết định của những nhà quản lí, với mong muốn được nghiên cứu sâu hơn về vấn đề phức tạp và khó khăn này và để vận dụng những hiểu biết, kiến thức đã thu thập được trong nhà trường và thực tế thực tập tại một doanh nghiệp sản xuất cụ thể, em đã mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Phân tích tình hình tài chính trên cơ sở bảng cân đối kế toán với việc tăng cường quản trị doanh nghiệp tại Công ty cơ khí Hà Nội” cho chuyên đề của mình. Luận văn ngoài Lời mở đầu và kết luận bao gồm ba nội dung chính sau: Chương I: Hoạt động tài chính và cơ sở của việc phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp. Chương II: Phân tích tình hình tài chính tại Công ty cơ khí Hà Nội. Chương III: Phương hướng nâng cao công tác quản trị tài chính tại Công ty cơ khí Hà Nội Do trình độ lí luận và thực tiên còn nhiều hạn chế nên bài viết này không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo cùng các cô chú trong công ty. Chương I Hoạt động tài chính và cơ sở lý luận của việc phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp 1.1. Hoạt động tài chính và sự cần thiết phải phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp. 1.1.1. Hoạt động tài chính: Bất kỳ một doanh nghiệp nào khi tiến hành sản xuất đều phải có một số vốn. Số vốn đó được huy động từ nhiều nguồn khác nhau như từ nguồn vốn góp của cá nhân, của Nhà nước và các nguồn vốn vay hay đi chiếm dụng của các doanh nghiệp khác. Nguồn vốn đó chính là nguồn hình thành các yếu tố sản xuất để tiến hành các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Tài chính doanh nghiệp là những quan hệ tiền tệ gắn trực tiếp với việc tổ chức, huy động, phân phối, sử dụng và quản lý vốn trong quá trình kinh doanh. Nó giúp cho quá trình sản xuất được thực hiện và tiến hành thông suốt. Là một trong những nội dung cơ bản của hoạt động kinh doanh, hoạt động tài chính giải quyết các mối quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh (SXKD) được biểu hiện qua các hình thái tiền tệ, xuất phát từ yêu cầu và mục đích kinh doanh. Cũng do đặc điểm là một bộ phận của hoạt động SXKD, hoạt động tài chính chịu tác đông của hoạt động SXKD nhưng nó cũng có tác động trở lại đối với hoạt động SXKD (nếu hoạt động tài chính tốt hay xấu sẽ có tác động thúc đẩy hoặc kìm hãm đối với quá trình sản xuất và lưu chuyển hàng hoá). Nếu hoạt động tài chính thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ của mình thông qua việc hoàn thành tốt hai chức năng phân phối và giám sát thì nó sẽ góp phần giúp cho doanh nghiệp: - Tạo thuân lợi trong quá trình tạo vốn và đảm bảo sản xuất: giúp doanh nghiệp tìm được các nguồn vốn để tăng vốn kinh doanh, đảm bảo đủ vốn để sản xuất. - Đảm bảo khả năng sinh lời tối đa trên cơ sở sử dụng vốn một cách tiết kiệm, hiệu quả. - Tạo đòn bẩy kích thích SXKD. - Tăng cường hiệu quả của công tác kiểm tra, kiểm soát hoạt động SXKD của doanh nghiệp. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu đó, hoạt động tài chính phải tuân theo những nguyên tắc cơ bản: - Phải có mục tiêu: Để giải quyết tốt mối quan hệ kinh tế với Nhà nước, với đơn vị bạn, công nhân viên,… thì doanh nghiệp phải cụ thể hoá về số lượng, chất lượng và thời gian tiến hành sản xuất, dự kiến bằng các con số kế hoạch cụ thể. Nguyên tắc này giúp doanh nghiệp đảm bảo hoạt động an toàn và phòng ngừa những rủi ro. - Phải đảm bảo nguyên tắc tiết kiệm có hiệu quả: Nó có ý nghĩa là phải đảm bảo đầy đủ, kịp thời số vốn tối thiểu cần thiết cho sản xuất và lưu thông, đồng thời phải sử dụng số vốn đó một cách hợp lý vào các khâu, các giai đoạn của quá trình kinh doanh nhằm đạt hiệu quả cao nhất. - Phải tôn trọng pháp luật, tuân theo chế độ tài chính tín dụng, pháp luật về tài chính, kỷ luật thanh toán, đảm bảo doanh nghiệp vừa đạt được lợi nhuận tối đa, vừa đảm bảo các yếu tố xã hội. 1.1.2. Sự cần thiết phải phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp. Tình hình tài chính doanh nghiệp (TCDN) được ghi chép và biểu hiện qua các con số trên các tài liệu kế toán. Những con số đó tự thân nó không nói lên một điều gì cả. Hơn nữa, chúng chỉ là những minh chứng cho quá khứ, chỉ là những con số trên sổ sách, không thể hiện được thực trạng đa dạng và sôi động của hoạt động tài chính trong doanh nghiệp. Chính phân tích sẽ làm cho chúng biết nói, không những làm hiện ra bức tranh tài chính hiện tại của doanh nghiệp mà còn chỉ ra xu hướng của nó trong tương lai tươi sáng hay ảm đạm. Nói cách khác, phân tích làm công việc thổi hồn cho bức tranh tài chính của doanh nghiệp, khiến nó trở nên sống động và có ích. Hoạt động tài chính là một hoạt động đóng vai trò cực kì quan trọng đối với sự phát triển của doanh nghiệp và cũng là đối tượng quan tâm đặc biệt của những đối tượng bên ngoài doanh nghiệp, những người có quan hệ tài chính với doanh nghiệp. Do tính chất quan trọng đó, đối tượng hoạt động tài chính luôn là đối tượng cần được nắm bắt để kiểm tra tình hình hoạt động và đưa ra những dự đoán, quyết định cho tương lai. Nếu chỉ nhìn vào những con số khô cứng trong các báo cáo tài chính và các tài liệu tài chính khác thì thông tin tài chính không mang một ý nghĩa nào đáng kể, các mối quan hệ, các xu hướng biến đổi, những cơ hội và rủi ro tiềm tàng sẽ chìm trong biển chi tiết các con số. Vì vậy chỉ có phân tích tình hình tài chính mới giúp người sử dụng đánh giá và đưa ra các dự đoán, quyết định trong tương lai một cách có hiệu quả, đáp ứng nhu cầu thông tin đa dạng của người dùng. 1.2. hai báo cáo tài chính cơ bản sử dụng để phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp. 1.2.1. Bảng cân đối kế toán Có những tài liệu khác nhau để phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp, chúng bao gồm các báo cáo tài chính (BCTC) được công bố rộng rãi, các tài liệu bổ xung của bộ phận quản lý và các tài liệu khác như: Môi trường hoạt động của doanh nghiệp, lĩnh vực hoạt động, loại hình doanh nghiệp, các chính sách tài chính hiện hành... nghĩa là mọi nguồn thông tin có khả năng làm rõ mục tiêu của dự đoán tài chính. Tuy nhiên, trong các tài liệu đó, thông tin kế toán là một nguồn thông tin đặc biệt cần thiết. Các thông tin kế toán phản ánh trong các BCTC là nguồn thông tin có sẵn, được công bố rộng rãi, sát thực và đầy đủ. Làm một bộ phận của BCTC, bảng CĐKT luôn là đối tượng được quan tâm, là tài liệu quan trọng và phổ biến để phân tích tài chính doanh nghiệp. 1.2.1.1. Đặc trưng và ý nghĩa của bảng CĐKT trong việc phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp a) Đặc trưng của BCĐKT - Bảng CĐKT cơ ba đặc trưng cơ bản. Những đặc trưng này được hình thành từ những quy định về nội dung và kết cấu hết sức khoa học và hợp lý. Chúng bao gồm: - Các chỉ tiêu trên bảng CĐKT được biểu hiện bằng giá trị (tiền) nên có thể tổng hợp được toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp đang tồn tại dưới các hình thái( cả vật chất và tiền tệ). - Bảng CĐKT được chia thành hai phần theo hai cách phản ánh vốn kinh doanh của doanh nghiệp là tài sản và nguồn hình thành tài sản (nguồn vốn). Về mặt lượng, tổng số tài sản luôn cân bằng với tổng số nguồn. - Bảng CĐKT phản ánh tài sản và nguồn vốn tại một thời điểm. Thời điểm đó thường là ngày cuối cùng của quý, năm. Tuy nhiên, do tính chất là báo cáo so sánh nên căn cứ vào số liệu ở hai thời điểm cuối kì và đầu năm sẽ thấy được sự thay đổi của vốn và nguồn vốn trong kì báo cáo. b) ý nghĩa của bảng CĐKT trong việc phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp. Do những đặc trưng cơ bản, riêng có, bảng CĐKT khái quát hoá toàn bộ tài sản và nguồn vốn hiện có tại doanh nghiệp vào thời điểm cuối kì. Nhìn vào hai dòng cuối cùng của phần tài sản và nguồn vốn, người đọc có thể thấy được quy mô tài sản của doanh nghiệp và các nguồn vốn tài trợ cho các tài sản đó. Do được sắp xếp khoa học theo các khoản mục và mục chi tiết, người đọc có thể dễ dàng nắm bắt được các con số tổng hợp, các con số chi tiết của từng loại tài sản và nguồn vốn, qua đó có thể tiến hành phân tích dọc để có thể thấy sự biến động về cơ cấu của chúng. Việc sắp xếp, phân loại hết sức lôgíc này cũng giúp người phân tích tài chính giảm thời gian và công sức phân loại thông tin trước khi tiến hành phân tích. Ngoài ra, do mang tính chất là báo cáo so sánh, bảng CĐKT luôn có số liệu của đầu năm và cuối kỳ. Việc cung cấp số liệu của hai kì liên tiếp tạo điều kiện choviệc so sánh, đối chiếu để dễ nhận thấy sự biến đổi qua thời gian, qua đó sự đoán dược xu hướng phát triển trong tương lai. Cuối cùng, bảng CĐKT được sắp xếp theo thứ tự khả năng chuyển đổi thành tiền của tài sản, từ nguồn vốn tài trợ tạm thời đến thường xuyên giúp cho người phân tích nhanh chóng thấy được khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Nói tóm lại, bảng CĐKT là một báo cáo tổng hợp, phản ánh tình hình tài sản và nguồn vốn của doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định. Nó cung cấp những thông tin tài chính tổng hợp theo các chỉ tiêu kinh tế, tài chính để nghiên cứu, phân tích toàn diện tình hình tài chính, kết quả và xu hướng phát triển của doanh nghiệp. Nó cũng cung cấp những thông tin, mối quan hệ cơ bản giữa các yếu tố, quá trình giúp cho việc đề xuất phương hướng và biện pháp quản lý hiệu quả. Chính nhờ sự khái quát hoá của bảng CĐKT và dựa vào các thông tin được phân theo bản chất kinh tế, tài chính, pháp lý,... nhà phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp sẽ có thể phân tích nhanh chóng và hiệu quả hơn. 1.2.1.2 Nội dung, kết cấu, nguyên tắc lập và kiểm tra bảng CĐKT a) Nội dung: Bảng CĐKT là báo cáo tổng hợp phản ánh tình hình tài chính của doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định (thời điểm lập báo cáo). Như vậy, nó có nội dung gồm hai phần tài sản và nguồn vốn cân bằng nhau theo công thức: Tài sản = Nguồn vốn Hay ta có thể viết: Tài sản = Nợ phải trả + Nguồn vốn chủ sở hữu (CSH) b) Nguyên tắc lập bảng cân đối kế toán : Cơ sở số liệu để lập bảng CĐKT là các số liệu ở sổ kế toán tổng hợp, sổ kế toán chi tiết và số liệu ở bảng CĐKT cuối năm trước. Nguyên tắc quy định như sau: + Trước khi lập bảng CĐKT, nhân viên kế toán cần phải phản ánh tất cả các nghiệp vụ kinh tế phát sinh vào sổ kế toán tổng hợp và chi tiết liên quan, thực hiện việc kiểm kê tài sản và phản ánh kết quả kiểm kê vào sổ kế toán trước khi khóa sổ. Sau đó tiến hành đối chiếu công nợ phải thu, phải trả, đối chiếu giữa số liệu tổng hợp và chi tiết, số liệu trên sổ kế toán và số thực kiểm kê, khoá sổ kế toán và tính số dư các tài khoản. + Khi lập bảng cân đối kế toán, những chỉ tiêu liên quan đến những tài khoản phản ánh tài sản có số dư bên Nợ thì căn cứ vào số dư Nợ để ghi. Những chỉ tiêu liên quan đến những tài khoản phản ánh nguồn vốn có số dư Có thì căn cứ vào số dư Có của tài khoản để ghi. + Những chỉ tiêu thuộc các khoản phải thu, phải trả ghi theo số dư chi tiết của các tài khoản phải thu, phải trả. Nếu số dư chi tiết là dư nợ thì ghi ở phần tài sản, nếu dư có thì ở phần nguồn vốn. + Một số chỉ tiêu liên quan đến các tài khoản điều chỉnh hay tài khoản dự phòng như tài khoản 214, 129, 229,139, 159…Các tài khoản này luôn có số dư có nhưng khi lên bảng CĐKT phải ghi ở phần tài sản theo số âm. Các tài khoản phản ánh nguồn vốn như tài khoản 412, 413, 421…nếu có số dư bên nợ thì vẫn ghi ở phần nguồn vốn và ghi theo số âm. c) Kiểm tra bảng CĐKT Kiểm tra bảng CĐKT là yêu cầu bắt buộc với công tác hạch toán và quản lý doanh nghiệp. Thực chất của công việc kiểm tra là thẩm định tính chính xác của số liệu trong bảng CĐKT thông qua kiểm tra nguồn số liệu và kĩ thuật lập bảng. Việc thực hiện công việc này hoàn toàn không dễ dàng. Vì vậy, để hỗ trợ, một hệ thống các phương pháp kiểm tra đã ra đời, cho phép người sử dụng, tuỳ từng trường hợp cụ thể, có thể vận dụng linh hoạt, lựa chọn hay kết hợp nhiều phương pháp để đạt được mục đích của mình. Tuy nhiên, dù có áp dụng phương pháp nào đi nữa thì công việc kiểm tra cũng được tiến hành qua các bước sau: Bước 1: Kiểm tra khái quát. Việc kiểm tra khái quát được tiến hành theo nhận thức cảm quan hoặc kiểm tra lôgíc các số liệu trong bảng CĐKT và một số tài liệu có liên quan. Thông qua kiểm tra lôgíc người ta phân tích sự biến động của các khoản mục có liên quan với nhau trên bảng CĐKT. (Khoản phải thu giảm tương ứng với lượng tiền tăng, khoản vay dài hạn tăng tương ứng với TSCĐ tăng...) Việc kiểm tra khái quát cho phép người phân tích nắm bắt được những mâu thuẫn, những dấu hiệu sai phạm trọng yếu có thể tồn tại qua đó có định hướng khoanh vùng kiểm tra, tiết kiệm được thời gian và công sức. Bước 2: Kiểm tra kĩ thuật lập bảng: Sau khi nắm bắt được những sai sót trên bảng CĐKT, người ta cần tiến hành kiểm tra kĩ thuật lập bảng nhằm xem xét khả năng xảy ra sai phạm trong quá trình chuyển sổ. Việc kiểm tra được tiến hành thông qua sự so sánh, đối chiếu các số liệu của các chỉ tiêu phản ánh trong bảng CĐKT với số dư các tài khoản, tiểu khoản tương ứng được ghi trong sổ cái hoặc sổ chi tiết. Về nguyên tắc, các số liệu so sánh này phải khớp đúng. Nếu các số liệu đối chiếu đã hoàn toàn khớp đúng, người ta phải xem xét khả năng nguồn số liệu cung cấp cho hạch toán đã không chính xác. Bước 3: Kiểm tra tính chính xác của nguồn số liệu. Kiểm tra tính chính xác của nguồn số liệu là một công việc rất phức tạp.Thực chất của việc kiểm tra này là kiểm tra công tác kế toán- tức là dựa vào các tài liệu, chứng từ, sổ sách và báo biểu kế toán để tiến hành đối chiếu kiểm tra từ việc ghi chép, tính toán số liệu đến việc thực hiện các chế độ thể lệ và phương pháp kế toán có phù hợp với tình hình, đặc điểm sản xuất kinh doanh của đơn vị hay không. Sau khi kiểm tra tính chính xác của nguồn số liệu, người kiểm tra sẽ đưa ra nhận xét cuối cùng về tính chính xác và đúng đắn của các số liệu trên bảng cân đối kế toán. Không chỉ đảm bảo tính trung thực của bảng cân đối kế toán, việc kiểm tra còn là cơ sở vững chắc cho việc phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp trong kỳ và phương hướng nhiệm vụ cho kỳ tới. Vì vậy, kiểm tra bảng cân đối kế toán là một bước chuẩn bị không thể thiếu trước khi tiến hành phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp. 1.2.1.3. Những hạn chế của Bảng cân đối kế toán. Bên cạnh những ưu điểm lớn khiến cho bảng cân đối kế toán trở thành một trong hai tài liệu đáng tin cậy cho những nhà phân tích tài chính (Bảng CĐKT và báo cáo KQKD) thì tự bản thân bảng CĐKT cũng có những hạn chế lớn. Nhưng hạn chế này bắt nguồn ngay trong quá trình hạch toán ghi chép do những nguyên tắc hạch toán kế toán khắt khe gây nên. Vì vậy, những hạn chế này không thể khắc phục được. Tuy nhiên, việc nhận biết những hạn chế đó lại cần thiết cho những nhà phân tích giúp họ có hướng khắc phục, giảm thiểu những ảnh hưởng của chúng đến kết quả phân tích của mình. Thứ nhất, bảng CĐKT không phản ánh giá trị hiện hành hay giá trị thị trường thích hợp vì nhân viên kế toán phải tuân thủ nguyên tắc chi phí lịch sử trong việc đánh giá và báo cáo Tài sản và Nguồn vốn. Thứ hai, Bảng CĐKT bỏ sót nhiều mục có giá trị về tài chính đối với doanh nghiệp như giá trị nguồn nhân lực cùng vơí khả năng quản lý, những nhân tố rất quan trọng, đặc biệt trong nền kinh tế tri thức ngày nay. Thêm vào đó, những sự đánh giá và giải quyết có tính chất nghiệp vụ rập khuôn thường được sử dụng trong quá trình chuẩn bị lập bảng CĐKT cũng có thể làm giảm tính hữu ích của các báo cáo. Do vậy, để có thể phân tích có hiệu quả, nhà phân tích phải biết vận dụng những phương pháp phân tích thích hợp và có những biện pháp xử lý các hạn chế, thiếu sót của bảng CĐKT trong quá trình phân tích. 1.2.2. Báo cáo kết quả kinh doanh 1.3. Nội dung và phương pháp phân tích bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả kinh doanh 1.3.1. Những nghiên cứu cơ bản: Phân tích bảng CĐKT bắt đầu bằng việc hình thành mục tiêu phân tích. Mục tiêu có thể là: để đưa ra quyết định đầu tư, xem xét khả năng thanh toán, phân tích điểm hoà vốn,… Mục tiêu phân tích sẽ là điểm khởi đầu để lựa chọn các công cụ phân tích và thu nhập, tích luỹ tư liệu từ các báo cáo tài chính và các nguồn khác. Các kết quả phân tích phải được tóm tắt lại, lý giải rõ ràng và phải rút ra được kết luận. Để làm được những điều đó, người phân tích phải : - Được làm quen với thực tế kinh doanh. - Hiểu được mục đích, bản chất và những hạn chế của công tác hạch toán. - Thông thạo với các thuật ngữ của công tác kinh doanh và công tác hạch toán. - Có kiến thức đầy đủ về những nguyên tắc cơ bản của tài chính. - Được làm quen với các công cụ phân tích báo cáo tài chính. Việc làm quen với thực tiễn kinh doanh giúp người phân tích có 1 cái nhìn động, thấy được mối quan hệ biện chứng giữa các hoạt động kinh doanh qua đó có khả năng xem xét trong tổng thể thay vì riêng rẽ. Cạnh đó, làm quen với thực tiễn kinh doanh giúp họ thấy được những nhân tố bên ngoài có thể tác động đến tình hình tài chính của doanh nghiệp. Những tác động không được thể hiện trên báo cáo tài chính như lạm phát, trượt giá, để điều chỉnh thông tin kịp thời, chính xác. 1.3.2. Nội dung phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp Nội dung của việc phân tích tình hình TCDN bao gồm : - Phân tích tổng quát tình hình tài chính. - Phân tích tình hình bảo đảm nguồn vốn, diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn. - Phân tích nguồn vốn lưu động và tình hình dự trữ cho sản xuất. - Phân tích hiệu quả sử dụng vốn. Do những hạn chế của bảng CĐKT và của các công cụ phân tích (số tỷ lệ, so sánh) như đã trình bày ở các phần trên, nên khi phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp các con số tỷ lệ và các tỷ suất, chỉ số nhận được đều phải so sánh với các doanh nghiệp khác cùng ngành và có sự điều chỉnh con số so với sự thay đổi giá cả qua các năm. 1.3.2.1-Phân tích khái quát tình hình tài chính : Thực chất của việc phân tích khái quát là đánh giá khái quát tình hình tài chính của doanh nghiệp. Trong phân tích chung, trước hết phải quan sát các chỉ tiêu tổng hợp của bảng CĐKT thông qua sự thay đổi số đầu năm và cuối kỳ của tài sản và nguồn vốn sau đó đánh giá sự thay đổi đó là tích cực hay tiêu cực để có định hướng đưa ra phân tích chi tiết và hoạch định những giải pháp trong quản lý và điều hành. Trước hết phải so sánh tổng số tài sản và tổng số nguồn vốn giữa đầu kỳ và cuối kỳ. Sự thay đổi này cho thấy quy mô tài sản tăng hay giảm, nguồn vốn tài trợ cho các tài sản đó được huy động như thế nào. Tuy nhiên, việc tăng hay giảm số tổng cộng chưa thể biểu thị cho sự hoạt động tích cực hay tiêu cực của doanh nghiệp một cách đầy đủ. Ví dụ như: Nếu số tổng cộng tăng do dự trữ quá nhiều thì số tiền vay nợ sẽ tăng, đây là nhân tố tiêu cực. Nhưng số tổng cộng giảm do hạ giá thành, tăng nhanh tốc độ chu chuyển vốn lưu động làm giảm nhu cầu về vốn vay thì đây là nhân tố tích cực. Hơn nữa, tính ổn định của số tổng cộng còn chưa phản ánh được chất lượng công tác ở doanh nghiệp và các kết quả tài chính. Bởi vì tuy số tổng cộng không đổi nhưng kết cấu của bảng CĐKT đã có sự thay đổi theo chiều hướng phân phối và sử dụng vốn tối ưu hơn hoặc ngược lại làm cho tình hình tài chính của doanh nghiệp xấu đi… Chính vì vậy, ngoài việc so sánh sự thay đổi của các số tổng cộng, ta cần tiến hành tìm hiểu mối quan hệ và biến động của các khoản mục trong bảng CĐKT để nắm được một cách đầy đủ thực trạng tài chính và tình hình sử dụng tài sản của doanh nghiệp. Mối quan hệ và biến động của các khoản mục trong bảng CĐKT: a. Mối quan hệ cân đối giữa nguồn vốn và tài sản của bảng CĐKT: Theo quan điểm luân chuyển vốn, tài sản của doanh nghiệp bao gồm tài sản lưu động và tài sản cố định. Tại thời điểm thành lập doanh nghiệp, hai loại tài sản này sẽ được tài trợ bởi nguồn chủ sở hữu. Vì vậy ta có cân đối: B. Nguồn vốn = A.(I + II + IV + V(2,3)+VI). Tài sản + B.(I + II + III )tài sản (1). Cân đối (1) chỉ mang tính lý thuyết, trên thực tế thường xảy ra một trong hai trường hợp sau : * Vế trái > vế phải: Doanh nghiệp thừa vốn và sẽ bị chiếm dụng. * Vế trái < vế phải: Doanh nghiệp thiếu vốn để trang trải tài sản nên phải bù đắp bằng các nguồn đi vay hoặc chiếm dụng bên ngoài. Việc doanh nghiệp đi vay hoặc chiếm dụng vốn trong thời hạn cho phép đều hợp pháp, trừ trường hợp vay quá hạn. Vì vậy, về mặt lý thuyết lại có quan hệ cân đối (2): B.Nguồn vốn+ A.[I(1)+ II ] Nguồn vốn = A.(I+II+IV+V(2,3)+VI)Tài sản +B.(I+II+III) tài sản (2) Cân đối (2) chỉ mang tính lý thuyết vì trên thực tế, trong quan hệ buôn bán nhiều chiều, doanh nghiệp không thể dùng vốn vay và vốn CSH để tài trợ cho tài sản mà không bị các đơn vị khác chiếm dụng. Thực tế chỉ xảy ra một trong hai trường hợp: *Vế trái > vế phải: doanh nghiệp còn thừa vốn kinh doanh và sẽ bị các đơn vị khác chiếm dụng. *Vế trái < vế phải: Doanh nghiệp thiếu nguồn bù đắp, phải đi chiếm dụng bên ngoài. Do tính chất cân đối của bảng CĐKT, cân đói (2) được viết lại như sau: [A(I(1),II) + B] Nguồn vốn + [A(I(2,3,..,8)III)] Nguồn vốn = = [AIII, V(1,4,5) + B.IV] Tài sản – [A.I(2,3,..,8)III] Nguồn vốn (4) Cân đối (4) cho thấy số vốn mà doanh nghiệp bị chiếm dụng (hoặc đi chiếm dụng) đúng bằng số chênh lệch giữa số tài sản phải thu và công nợ phải trả. Khi cả hai vế của cân đối (4) 0 tức là công nợ phải trả lớn hơn tài sản phải thu (doanh nghiệp đi chiếm dụng). b. Phân tích sự biến động của các khoản mục trong bảng CĐKT: Để hiểu chi tiết hơn về tình hình tài chính doanh nghiệp, biết được những nguyên nhân gây ảnh hưởng tới sự biến động của tổng tài sản và tổng nguồn vốn, ta cần đi sâu phân tích cơ cấu tài sản, cơ cấu nguồn vốn và một số tỷ suất quan trọng. Sự phân tích này nhằm mục đích : - Đánh giá trình độ sử dụng tài sản của doanh nghiệp và việc bố trí cơ cấu tài sản. Tuỳ theo đặc điểm từng lĩnh vực, ngành hoạt động sẽ cho ta thấy cơ cấu tài sản là hợp lý hay không. - Đánh giá sự biến động về tỷ trọng của từng loại tài sản, nguồn vốn qua thời gian để thấy rõ tầm quan trọng của mỗi khoản mục trong tổng tài sản, nguồn vốn. - Đánh giá và phát hiện chính sách mà doanh nghiệp đã thực hiện cũng như xu hướng phát triển của doanh nghiệp. Phân tích cơ cấu tài sản : Việc phân tích cơ cấu tài sản nhằm mục đích xem xét tính chất hợp lý của việc sử dụng vốn của doanh nghiệp như thế nào. Với số vốn đã có doanh nghiệp phân bổ cho các loại tài sản có hợp lý không, sự thay đổi kết cấu các loại vốn có ảnh hưởng gì đến quá trình sản xuất của doanh nghiệp? Phương pháp phân tích là so sánh tổng số vốn giữa cuối kỳ với đầu năm; xác định tỷ trọng từng loại tài sản ở thời kỳ đầu năm và cuối kỳ; so sánh sự thay đổi tỷ trọng giữa cuối kỳ với đầu năm để xác định chênh lệch và tìm nguyên nhân cụ thể. Mặt khác phải xác định được tỷ suất đầu tư và tỷ suất TSCĐ so với tài sản cũng như tỷ suất TSCĐ so với tổng tài sản. Căn cứ vào số liệu trên bảng CĐKT ngày cuối kỳ ta lập bảng phân tích sau : Bảng phân tích cơ cấu tài sản Chỉ tiêu Đầu năm Cuối kì Chênh lệch Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng A.TSLĐ và Đầu tư ngắn hạn Tiền Đầu tư tài chính ngắn hạn Các khoản phải thu Hàng tồn kho TSLĐ khác Chi sự nghiệp B.TSCĐ và đầu tư dài hạn 1.TSCĐ 2.Đầu tư tài chính dài hạn 3.Chi phí xây dựng cơ bản Cộng Quá trình phân tích được tiến hành trên cơ sở sự biến động của từng loại tài sản. Riêng về đầu tư chiều sâu, đầu tư mua sắm trang thiết bị, đổi mới quy trình công nghệ để tạo tiền đề tăng năng suất lao động thì việc phân tích cơ cấu tài sản phải được xem xét đồng thời với các tỷ suất đầu tư cụ thể (vì đây là đòn bẩy vận hành). -Tỷ suất đầu tư chung phản ánh tình hình chung về đầu tư vốn cho việc trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật mua sắm và xây dựng TSCĐ, đầu tư tài chính. Tỉ suất đầu tư chung = x 100% - Tỷ suất đầu tư TSCĐ phản ánh tình hình trang bị cơ sở vật chất, mua sắm và xây dựng TSCĐ. Khi xác định chỉ tiêu này phải phân biệt giữa số đã đầu tư và số hoàn thành để có cơ sở đánh giá đúng đắn hơn. Trị giá hiện có của TSCĐ Tỉ suất đầu tư TSCĐ = 3100 Tổng tài sản Tỉ suất cho biết trong một đồng tài sản có bao nhiêu phần trăm TSCĐ - Tỷ suất đầu tư tài chính dài hạn phản ánh tình hình sử dụng vốn đầu tư vào lĩnh vực liên doanh, mua cổ phần, cổ phiếu và kinh doanh bất động sản, tạo ra nguồn lợi tức lâu dài cho doanh nghiệp. Giá trị các khoản đầu tư tài chính dài Tỷ suất đầu tư tài = 3 100 chính dài hạn Tổng tài sản Tỷ suất cho biết trong một đồng tài sản có bao nhiêu phần trăm là đầu tư tài chính dài hạn. * Phân tích kết cấu nguồn vốn: Ngoài việc phân tích cơ cấu tài sản, nhà phân tích cần phải tiến hành phân tích kết cấu nguồn vốn. Việc phân tích kết cấu nguồn vốn sẽ giúp doanh nghiệp nắm được khả năng tự tài trợ về mặt tài chính, mức độ tự chủ, chủ động trong sản xuất kinh doanh hoặc những khó khăn mà doanh nghiệp gặp phải trong việc khai thác nguồn vốn. Phương pháp phân tích cũng giống như phân tích cơ cấu tài sản nghĩa là so sánh tổng số nguồn vốn cuối kỳ và đầu năm, xác định tỉ trọng từng nguồn vốn cụ thể trong tổng số nguồn vốn, xác định số chênh lệch giữa cuối kỳ với đầu năm cả về số tiền và tỉ trọng của từng nguồn, xác định tỷ suất tự tài trợ để biết được khả năng chủ động về mặt tài chính, tỉ lệ nợ phải trả so với tổng nguồn vốn. Căn cứ vào số liệu trên bảng cân đối cuối kỳ, lập bảng phân tích sau: Bảng phân tích cơ cấu nguồn vốn. Chỉ tiêu Số đầu năm Số cuối kỳ Chênh lệch Số tiền Tỉ trọng Số tiền Tỉ trọng Số tiền Tỉ trọng A. Nợ phải trả I Nợ ngắn hạn II. Nợ dài hạn III. Nợ khác B. Nguồn vốn CSH I. Nguồn vốn- quĩ Nguồn kinh phí Tổng Số liệu của bảng phân tích cho thấy sự biến động của từng nguồn vốn trong tổng số nguồn vốn của doanh nghiệp, việc tăng lên của các khoản nợ nếu ở mức độ hợp lý chứng tỏ doanh nghiệp đã biết vận dụng “đòn bẩy tài chính”, nhưng quá lớn lại cho thấy tình hình hoạt động không khả quan. Nhìn chung sự tăng lên của nguồn vốn chủ sở hữu là tốt nhưng cơ cấu của các bộ phận cấu thành nó sẽ đưa ra một cái nhìn cụ thể hơn. Cùng với quá trình phân tích cơ cấu nguồn vốn, người ta phân tích một số tỉ suất nhằm khẳng định mức độ độc lập tài chính của doanh nghiệp. - Tỉ suất tự tài trợ phản ánh khả năng tự bảo đảm về mặt tài chính và tính chủ động trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tỉ suất tự tài trợ cao thể hiện tính chủ động trong sản xuất kinh doanh càng cao do khả năng tự bảo đảm về mặt tài chính tốt. Tỉ suất tự tài trợ được xác định bằng công thức: Nguồn vốn CSH Tỉ suất tự tài trợ = 3 100 Tổng nguồn vốn Theo công thức trên ta thấy được trong một đông vốn có bao nhiêu phần trăm là vốn CSH. Ngoài ra, người ta sử dụng tỉ suất nợ chung để đánh giá tình hình nợ nần và năng lực đi vay của doanh nghiệp. Tỉ suất cho biết trong một phần vốn có bao nhiêu là nợ phải trả. Nợ phải trả Tỉ suất nợ chung = 3 100 Tổng nguồn vốn Các phân tích trên cho phép doanh nghiệp nhận biết được một cách khái quát tình hình tài chính của mình. Tuy nhiên, để có cái nhìn cụ thể, ta cần đi sâu vào phân tích các chỉ tiêu khác sẽ được trình bày trong các phần sau. 1.3.2.2: Phân tích tình hình bảo đảm nguồn vốn, diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn: Để có thể tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp phải có tài sản (TSCĐ và TSLĐ). Nhu cầu tài sản là nhu cầu cốt yếu để đảm bảo cho quá trình kinh doanh được tiến hành liên tục và có hiệu quả. Để có đầy đủ tài sản, doanh nghiệp cần tiến hành nhiều biện pháp để huy động và hình thành nguồn vốn. Nguồn vốn này trước hết được tài trợ bởi người chủ sở hữu, sau đó là các nguồn vay nợ hợp pháp (cả dài hạn trung hạn và ngắn hạn, vay hoặc chiếm dụng) và cuối cùng là các nguồn bất hợp pháp ( nợ quá hạn, chiếm dụng bất hợp pháp…) Tiêu chuẩn để đánh giá mức độ bảo đảm nguồn vốn là các tài sản cố định và đầu tư dài hạn phải được tài trợ bởi những nguồn vốn thường xuyên (nguồn vốn CSH và nguồn vay nợ trung dài hạn) và các tài sản lưu động đầu tư tài chính ngắn hạn phải được tài trợ bởi nguồn vốn tạm thời (vay ngắn hạn và chiếm dụng, các khoản bất hợp pháp…) và một phần có thể được tài trợ bằng nguồn vốn thường xuyên. Việc doanh nghiệp dùng một phần vốn tạm thời để đầu tư dài hạn l._.à bất hợp lý, doanh nghiệp cần có biện pháp huy động thêm vốn dài hạn để tài trợ. Để kiểm tra mức độ bảo đảm nguồn vốn cho doanh nghiệp cần lập bảng phân tích sau: Bảng phân tích mức độ bảo đảm nguồn vốn. Tổng tài sản Tài sản Số tiền Nguồn tài trợ Số tiền Nguồn tài trợ TSCĐ -TSCĐ hữu hình -TSCĐ vô hình -Đầu tư dài hạn Tài trợ thường xuyên Vốn CSH Vay dài hạn, trung hạn Nợ dài hạn trung hạn TSLĐ -Tiền -Phải thu -Đầu tư ngắn hạn Tài trợ tạm thời -Vay ngắn hạn -Nợ ngắn hạn -Chiếm dụng hợp pháp -Chiếm dụng bất hợp pháp Ngoài việc xem xét mức độ bảo đảm nguồn vốn, người ta còn phân tích tình hình sử dụng vốn và các nguồn cung cấp vốn phát sinh trong kỳ để làm rõ những trọng điểm đầu tư vốn và những nguồn vốn chủ yếu được hình thành để tài trợ cho những đầu tư đó. Để phân tích, người ta thiết lập bảng kê nguồn vốn và sử dụng vốn: Bảng kê nguồn vốn và sử dụng. Chỉ tiêu Đầu năm Cuối kỳ Sử dụng vốn Nguồnvốn Tài sản - Tiền và các chứng khoán dễ bán - Các khoản phải thu - Dự trữ - Tài sản cố định theo giá trị còn lại Nguồn vốn - Vay ngắn hạn - Các khoản phải trả - Các khoản phải nộp - Vay dài hạn - Lợi nhuận không chia - Vốn CSH Tổng cộng Mỗi sự thay đổi được ghi nhận ở hai cột: Sử dụng vốn và nguồn vốn theo nguyên tắc: - Khi tăng tổng tài sản hoặc giảm nguồn, số chênh lệch được ghi vào cột sử dụng vốn. - Khi giảm tài sản hoặc tăng nguồn, số chênh lệch được ghi vào cột nguồn vốn. Nhìn vào bảng phân tích ta sẽ thấy doanh nghiệp khai thác nguồn vốn bằng cách nào là chủ yếu, chiếm bao nhiêu phần trăm. Với tổng số nguồn vốn đó, doanh nghiệp dùng để tài trợ cho các tài sản nào. Việc xem xét diễn biến và sử dụng vốn sẽ giúp ta thấy được doanh nghiệp sử dụng vốn đã hợp lý chưa, doanh nghiệp đã khai thác hết các nguồn vốn chưa… Tuy nhiên trong một doanh nghiệp các hoạt động sản xuất diễn ra liên tục dưới sự tài trợ của nguồn vốn lưu động. Vì vậy, để thấy rõ hơn tình hình sử dụng vốn lưu động ta cần phải phân tích trong phần sau. 1.3.2.3. Phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn lưu động cho hoạt động sản xuất kinh doanh. a) Phân tích nguồn vốn lưu động (NVLĐ) Nguồn vốn lưu động là số vốn tối thiểu cần thiết đảm bảo cho doanh nghiệp có vốn để dự trữ các loại tài sản lưu động (kể cả dự trữ trong sản xuất và lưu thông). Nguồn vốn lưu động dùng để dự trữ tài sản lưu động bao gồm: - Vốn pháp định (đối với doanh nghiệp Nhà nước và nguồn vốn từ ngân sách) - Nguồn vốn lưu động tự bổ sung từ kết quả của quá trình kinh doanh, từ quĩ phát triển sản xuất. - Nguồn vốn do huy động từ liên doanh liên kết. - Nguồn vốn tín dụng ngắn hạn. Phân tích nguồn vốn lưu động nhằm xem xét mức độ bảo đảm vốn lưu động so với nhu cầu của quá trình sản xuất kinh doanh và khả năng huy động và phát triển vốn hay cấp thêm các nguồn vốn nào để dự trữ cho sản xuất kinh doanh, việc sử dụng vốn lưu động có hợp lý, hợp pháp không. Dựa vào bảng CĐKT và thuyết minh BCTC ta lập bảng phân tích NVLĐ Chỉ tiêu Đầu năm Cuối kỳ Chênh lệch NVKD thuộc vốn lưu động Số tiền Tỉ trọng Số tiền Tỉ trọng Số tiền Tỉ trọng 1.Nguồn vốn ngân sách cấp 2.Nguồn vốn tự bổ sung 3.Nguồn vốn liên doanh 4.Nguồn vốn cổ phần 5.Vay ngắn hạn Tổng cộng Để phân tích kỹ hơn về NVLĐ, ta xem xét NVLĐ thuần. Toàn bộ tài sản doanh nghiệp đang sử dụng căn cứ vào thời gian quay vòng được chia thành: - TSCĐ và đầu tư dài hạn: là tài sản có thời gian hoàn vốn trên một năm. Chúng được gọi là “ Tài sản dài hạn” - TSLĐ và đầu tư ngắn hạn: là tài sản có thời gian quay vòng dươi một năm:Tài sản ngắn hạn. - Nguồn vốn chủ sở hữu, các khoản nợ dài hạn có thời gian đảo nợ trên một năm: gọi là nguồn vốn dài hạn. - Các khoản nợ ngắn hạn và các khoản nợ khác là các khoản nợ có thời gian đáo hạn dưới một năm là nguồn vốn ngắn hạn. “ Nguồn vốn dài hạn” được đầu tư hình thành “tài sản dài hạn”. Phần dư ra (nếu còn) và “nguồn vốn ngắn hạn” được đầu tư hình thành “tài sản ngắn hạn”. Chênh lệch giữa “nguồn vốn dài hạn” và “tài sản dài hạn” là nguồn vốn lưu động thuần (hay NVLĐ thuần = NVLĐ - Nợ ngắn hạn) Theo quan hệ cân đối tổng quát giữa tài sản và nguồn vốn: Tài sản = Nguồn vốn TSLĐ + TSCĐ = Nợ phải trả + Nguồn vốn CSH Tài sản ngắn hạn + Tài sản dài hạn = Nguồn vốn ngắn hạn + Nguồn vốn CSH Tài sản ngắn hạn + tài sản dài hạn = Nguồn vốn dài hạn - tài sản dài hạn Như vậy: Nguồn vốn lưu động thuần = Tài sản ngắn hạn – Nguồn vốn ngắn hạn Hay NVLĐ thuần = Nguồn vốn dài hạn – Tài sản dài hạn Trong trường hợp nguồn vốn lưu động thuần < 0 nghĩa là “ tài sản ngắn hạn nhỏ hơn “nguồn vốn ngắn hạn” (hay nguồn vốn dài hạn < tài sản dài hạn). Điều này cho thấy doanh nghiệp đã sử dụng một phần nguồn vốn dài hạn để hình thành tài sản dài hạn, cán cân thanh toán sẽ mất cân bằng và dấu hiệu của nguy cơ phá sản. Để phân tích, ta lập bảng: Tài sản ngắn hạn Nguồn vốn ngắn hạn Nguồn vốn lưu động thuần Năm N-1 Năm N Chênh lệch b) Phân tích tình hình dự trữ TSLĐ: Để qúa trình sản xuất kinh doanh được tiến hành liên tục và hiệu quả, doanh nghiệp phải tiến hành dự trữ. Các tài sản lưu động dự trữ gồm: nguyên liệu, nhiên liệu, công cụ lao động, sản phẩm dở dang ( phục vụ cho quá trình sản xuất), thành phẩm, hàng hóa (phục vụ cho quá trình lưu thông). Dự trữ là một vấn đề tất yếu nhưng dự trữ bao nhiêu là hợp lý, không thừa hoặc không thiếu là vấn đề phức tạp. Nếu dự trữ quá nhiều, doanh nghiệp sẽ bị ứ đọng tài sản và vốn, tăng chi phí bảo quản, tăng lãi vay ngân hàng, giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh. Nhưng nếu dự trữ quá ít sẽ dẫn đến ngừng sản xuất, gây thiệt hại không nhỏ cho doanh nghiệp. Quá trình phân tích tình hình dự trữ TSLĐ nhằm mục đích đánh giá kết quả dự trữ và đươc tiến hành trên các mặt sau: - Sự thay đổi về kết cấu các loại tài sản dự trữ thông qua tỉ trọng của nó, có liên hệ với qui mô kinh doanh và chủng loại hàng hóa. - Sự tăng, giảm từng loại tài sản dự trữ. - So sánh với dự trữ hợp lí phù hợp với tính chất qui mô sản xuất, lưu thông của doanh nghiệp. Việc phân tích sẽ được tiến hành thông qua bảng sau: Bảng phân tích tình hình dự trữ TSLĐ Chỉ tiêu Đầu năm Cuối kỳ Chênh lệch Số tiền Tỉ trọng Số tiền Tỉ trọng Số tiền Tỉ trọng 1Hàng mua đang đi đường 2.Nguyên vật liệu tồn kho 3.Công cụ,dụng cụ trong kho 4.Chi phí sản xuất dở dang 5.Thành phẩm tồn kho 6.Hàng hoá tồn kho 7.Hàng gửi đi bán 8.Dự phòng giảm giá HTK 9.Chi phí trả trước 10.Chi phí chờ kết chuyển Tổng cộng c) Phân tích mức độ bảo đảm NVLĐ cho tài sản dự trữ: Việc dự trữ là tài sản tất yếu nhưng không phải lúc nào doanh nghiệp cũng có đủ nguồn để dự trữ. Để biết được thực trạng này, ta cần tiến hành phân tích để qua đó có biện pháp sử dụng hợp lý nguồn vốn dư thừa hoặc tìm kiếm nguồn bù đắp. Mức độ bảo đảm nguồn vốn lưu động cho tài sản dự trữ được xác định qua công thức: Mức độ bảo đảm = Nguồn vốn lưu động – Tài sản dự trữ thực tế Kết quả sẽ nằm trong một trong ba trường hợp sau đây. - Mức độ bảo đảm < 0: doanh nghiệp thiếu nguồn bù đắp và phải đi chiếm dụng để bù đắp. - Mức độ bảo đảm = 0: Điều này không đảm bảo chắc chắn doanh nghiệp có đủ nguồn để dự trữ tài sản. Trong thực tế, doanh nghiệp có thể vừa đi chiếm dụng vốn và vừa bị chiếm dụng vốn với mức độ khác nhau tạo nên sự cân bằng giả tạo. - Mức độ bảo đảm > 0: doanh nghiệp thừa nguồn vốn bù đắp và sẽ có xu hướng bị chiếm dụng vốn. Việc đi chiếm dụng vốn và bị chiếm dụng vốn là một tất yếu trong kinh doanh. Tuy nhiên, để đảm bảo “an toàn” trong kinh doanh, doanh nghiệp cần tiếp tục xem xét khả năng thu hồi các khoản bị chiếm dụng. 1.3.2.4. Phân tích hiệu quả sử dụng vốn. Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực sẵn có của doanh nghiệp để đạt kết quả cao nhất trong kinh doanh với chi phí thấp nhất. Hiệu quả kinh doanh không những là thước đo chất lượng phản ánh trình độ tổ chức quản trị mà còn là vấn đề sống còn của doanh nghiệp. Trong điều kiện kinh tế thị trường ngày càng phát triển, doanh nghiệp muốn tồn tại, vươn lên thì trước hết kinh doanh phải có hiệu quả. Hiệu quả càng cao, doanh nghiệp càng có điều kiện mở rộng sản xuất, đầu tư mua sắm máy móc thiết bị, áp dụng các tiến bộ khoa học kĩ thuật và qui trình công nghệ mới, cải thiện và nâng cao đời sống người lao động, thực hiện tốt nghĩa vụ với ngân sách Nhà nước. Hiệu quả kinh doanh được đánh giá theo hai dạng: số và phân số (chênh lệch tuyệt đối và chênh lệch tương đối) dựa trên các chỉ tiêu đánh giá tổng hợp và chi tiết. a) Phân tích khái quát: Như đã đề cập ở trên, hiệu quả kinh doanh được đánh giá qua việc so sánh giữa chi phí và kết quả và qua cả hai dạng số và phân số. ở dạng số, hiệu quả kinh doanh được xác định bằng hiệu số giữa kết quả trừ chi phí. Hiệu quả kinh doanh = Kết quả đầu ra – Chi phí đầu vào Kết quả này cho thấy doanh nghiệp đã đạt được lợi ích là bao nhiêu sau một kỳ sản xuất. Tuy nhiên, con số đó chưa phản ánh được quá trình sản xuất đó có thực sự đem lại hiệu quả hay không hay chỉ là một kết quả thông thường. Vì vậy, người ta thường sử dụng phân số giữa kết quả và chi phí để chỉ hiệu quả.: Kết quả đầu ra Hiệu quả kinh doanh = (*) Chi phí đầu vào Công thức (*) trên phản ánh sức sản xuất của các yếu tố đầu vào, được tính cho tổng số và cho riêng phần gia tăng trong kì. Hay: Chi phí đầu vào Hiệu quả kinh doanh = (**) Kết quả đầu ra Công thức (**) phản ánh suất hao phí của các chỉ tiêu đầu vào nghĩa là để có một đơn vị kết quả đầu ra thì hao phí hết bao nhiêu chi phí đầu vào. Kết quả đầu ra được đo bằng các chỉ tiêu như: giá trị tổng sản lượng, tổng doanh thu thuần, lợi nhuận thuần, lợi tức gộp. Còn yếu tố đầu vào bao gồm: lao động, tư liệu lao động, đối tượng lao động, vốn CSH, vốn vay… Trong các chỉ tiêu đo lường kết quả kinh doanh, chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh được coi là chỉ tiêu cơ bản nhất. Kết quả đầu ra Hiệu quả sử dụng vốn SXKD = Vốn sản xuất bình quân Chỉ tiêu phản ánh cứ một đồng vốn sản xuất bình quân dùng vào sản xuất kinh doanh trong kì thì được bao nhiêu đồng kết quả đầu ra. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp càng lớn. Để nâng cao chỉ tiêu này, một mặt phải tăng qui mô kết quả đầu ra, mặt khác cần sử dụng tiết kiệm và hợp lý cơ cấu vốn sản xuất. Để giải quyết hợp lý về cơ cấu của vốn sản xuất kinh doanh, ta phải thực hiện tốt các mặt sau: - Phải đảm bảo tỉ lệ thích hợp giữa TSCĐ tích cực và TSCĐ không tích cực. - Phải đảm bảo tỉ lệ thích hợp giữa các loại thiết bị sản xuất trên qui trình công nghệ nhằm tạo ra sự cân đối về năng lực sản xuất giữa các bộ phận của doanh nghiệp. - Phải đảm bảo tỉ lệ thích hợp giữa vốn cố định và vốn lưu động nhằm tạo ra sự đồng bộ giữa ba yếu tố của quá trình kinh doanh ( cung ứng- sản xuất- tiêu thụ). b) Phân tích hiệu quả sử dụng TSLĐ: Để đánh giá hiệu quả sử dụngTSCĐ, ta có thể dùng rất nhiều chỉ tiêu. Sau đây là những chỉ tiêu phổ biến. Doanh thu thuần * Hiệu suất sử dụng VCĐ = Vốn cố định bình quân Vốn cố định bình quân ở đây được tính bằng cách lấy trung bình vốn cố định đầu và cuối kì. Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn cố định tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu trong một năm. Hiệu suất càng cao chứng tỏ doanh nghiệp sử dụng vốn cố định càng hiệu quả hay doanh nghiệp đã sử dụng hiệu quả “ đòn bẩy vận hành” Lợi nhuận thuần * Tỉ suất sinh lợi vốn cố định = Vốn cố định bình quân Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn cố định bình quân sử dụng vào sản xuất kinh doanh được bao nhiêu đồng lợi nhuận thuần. Cũng như hiệu suất sử dụng TSCĐ, tỉ suất càng cao chứng tỏ doanh nghiệp sử dụngTSCĐ càng hiệu quả. Vốn cố định bình quân * Hệ số đảm nhiệm VCĐ = Doanh thu thuần Hệ số cho biết để đảm bảo một đồng doanh thu thuần cần có bao nhiêu đồng vốn cố định dùng để sản xuất kinh doanh. Đây là chỉ tiêu nghịch đảo của hiệu suất sử dụng vốn cố định, vì vậy, chỉ tiêu này càng nhỏ chứng tỏ doanh nghiệp tốn ít chi phí cố định, hiệu quả sử dụng tài sản cố định cao. Lợi nhuận thuần * Hiệu quả sử dụng TSCĐ = Nguyên giá bình quân TSCĐ Chỉ tiêu này cho biết một đồng nguyên giá TSCĐ tạo được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ doanh nghiệp đã sử dụng hiệu quả TSCĐ. Doanh thu thuần * Hiệu suất sử dụng TSCĐ = Nguyên giá bình quân TSCĐ Tỉ suất sinh lợi TSCĐ cho biết một đồng nguyên giá TSCĐ bình quân tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu thuần. Vì vậy, chỉ tiêu này càng cao càng hiệu quả. c) Phân tích hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Nếu như tài sản cố định là các tài sản có thời gian sử dụng dài và trong quá trình sản xuất, nó vẫn giữ nguyên hình thái ban đầu thì tài sản lưu động là những tài sản được dùng trong một thời gian ngắn, thường nhỏ hơn một chu kì kinh doanh và mất đi hình thái ban đầu vào sản phẩm. Do sự khác nhau đó, việc phân tích tài sản lưu động cũng khác so với việc phân tích tài sản cố định. Đối tượng so sánh, tính toán các chỉ tiêu hiệu quả vốn lưu động không thể là tổng hợp các tài sản lưu động cụ thể mà là tổng hợp các loại tài sản dưới các hình thái khác nhau, trong các giai đoạn sản xuất khác nhau thể hiện dưới cùng hình thái tiền tệ, đó là vốn lưu động. Việc phân tích hiệu quả sử dụng vốn lưu động có ý nghĩa rất lớn vì phần lớn lợi nhuận được tạo ra từ vốn lưu động (VLĐ). Việc đánh giá các hiệu quả sử dụng vốn lưu động dựa vào các chỉ tiêu sau: ã Chỉ tiêu phân tích chung hiệu quả sử dụng VLĐ: Lợi nhuận thuần * Sức sinh lời của VLĐ = Vốn lưu động bình quân Chỉ tiêu cho biết một đồng VLĐ bình quân tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận thuần. Cũng giống chỉ tiêu trên, hiệu qủa sử dụng VLĐ càng cao biểu hiện qua chỉ tiêu này càng cao. Ta cũng biết, vòng quay vốn lưu động càng nhiều chứng tỏ doanh nghiệp đã sử dụng tiết kiệm vốn lưu động. Vòng quay này càng tăng, lợi nhuận tạo ra trên lượng vốn lưu động xác định càng nhiều, hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng cao. Vì vậy cần đi sâu phân tích tốc độ luân chuyển VLĐ. ã Phân tích tốc độ luân chuyển VLĐ. Để xác định tốc độ luân chuyển VLĐ, người ta thường sử dụng các chỉ tiêu sau: Doanh thu thuần * Tốc độ chu chuyển VLĐ = (Vòng quay VLĐ) VLĐ bình quân Chỉ tiêu này cho biết VLĐ quay được mấy vòng trong kì. Số vòng quay tăng chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động tăng và ngược lại Thời gian của chu kỳ phân tích *Thời gian của một vòng = luân chuyển Số vòng quay vốn lưu động trong kỳ. Chỉ tiêu này thể hiện số ngày cần thiết cho vốn lưu động quay được một vòng. Thời gian của một vòng luân chuyển càng nhỏ thì tốc độ luân chuyển càng lớn. Vốn lưu động bình quân *Hệ số đảm nhiệm VLĐ = Tổng số doanh thu thuần Hệ số này càng nhỏ chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng cao, số vốn tíêt kiệm ngay càng nhiều. Qua chỉ tiêu này ta có thể biết để có một đồng luân chuyển thì cần mấy đồng vốn lưu động. Việc tăng tốc độ: luân chuyển vốn lưu động làm giảm nhu cầu vốn, tiết kiệm vốn được giải thích như sau: -Với số vốn lưu động không tăng có thể tăng được số doanh thu nếu tăng nhanh hơn tốc độ tăng chuyển của nó. Xuất phát từ công thức: Doanh thu thuần = Vốn lưu động bình quân 3Hệ số luân chuyển của VLĐ Khi tốc độ luân chuyển thay đổi, ta tính được số doanh thu thuần tạo ra, đó là mức tăng trưởng về sản xuất của vốn lưu động: Số doanh thu Hệ số luânchuyển - Hệ số luân chuyển VLĐ bình quân tăng thêm = VLĐ kỳ phân tích VLĐ kì gốc H kì phân tích hoặc mất đi Theo chỉ tiêu này, với số vốn lưu động bình quân hiện có ở kì phân tích, nếu hệ số luân chuyển VLĐ ở kì phân tích khác kì gốc thì sẽ làm cho doanh thu thuần kì gốc và kì phân tích cũng khác nhau. Phần chênh lệch cho ta số doanh thu thuần tăng thêm hoặc mất đi do sự thay đổi tốc độ luân chuyển. -Với một số vốn ít hơn nếu tăng tốc độ luân chuyển sẽ thu được số doanh thu như cũ, có nghiã là tiết kiệm được vốn lưu động so với kì gốc. Số vốn lưu động tiết kiệm hay lãng phí do thay đổi tốc độ luân chuyển VLĐ được xác định như sau: Số VLĐ tiết kiệm = (Tỷ suất VLĐ - Tỷ suất VLĐ) HDoanh thu thuần kì hay lãng phí kì phân tích kì gốc phân tích Hay: Số ngày luân chuyển kỳ phân tích = Số ngày luân chuyển kỳ gốc ´ Doanh thu thuần kỳ phân tích : Thời gian kỳ phân tích Ngoài ra, do mục đích chính của vốn lưu động là duy trì một mức độ dự trữ tài sản hợp lý phục vụ cho quá trình sản xuất nên người ta có thể phân tích hiệu quả sử dụng vốn lưu động thông qua việc phân tích tốc độ luân chuyển hàng dự trữ thông qua các chỉ tiêu. Giá thực tế NVL sử dụng trong kì * Hệ số quay kho NVL = Giá thực tế NVL tồn kho bình quân Giá vốn hàng tiêu thụ trong kì * Hệ số quay kho = sản phẩm hàng hóa Giá vốn hàng tồn kho bình quân Thời gian trong kì * Thời gian một vòng quay = Hệ số quay kho Hệ số quay kho càng lớn chứng tỏ doanh nghiệp sử dụng hiệu quả nguyên vật liệu, hàng hóa sản phẩm tiêu thụ nhanh, ngược lại, hệ số quay vòng kho nhỏ hơn cho thấy doanh nghiệp xác định mức dự trữ chưa hợp lý, nguyên vật liệu tồn kho nhiều, hàng hóa tiêu thụ chậm, vốn luân chuyển chậm làm giảm hiệu quả kinh doanh. d) Phân tích khả năng sinh lời. Nếu như các nhóm chỉ tiêu trên phản ánh hiệu quả của từng loại sản phẩm riêng biệt trong doanh nghiệp thì các chỉ tiêu về khả năng sinh lời phản ánh tổng hợp hiệu quả sản xuất kinh doanh và hiệu năng quản lí doanh nghiệp.Việc phân tích hiệu qủa sinh lời không còn là công việc của riêng nhà quản trị doanh nghiệp nữa mà trở thành mục tiêu phân tích của rất nhiều đối tượng quan tâm khác ở bên ngoài. Kết quả phân tích sẽ giúp họ ra quyết định có nên đầu tư hoặc tiếp tục đầu tư vào doanh nghiệp hay không. Nhóm chỉ tiêu phân tích khả năng sinh lời bao gồm: *Tỉ suất lợi nhuận/ doanh thu: Lợi nhuận sau thuế Tỉ suất lợi nhuận/ doanh thu = H100 Doanh thu thuần Chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả của quá trình hoạt động kinh doanh, thể hiện lợi nhuận do doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm mang lại. Chỉ tiêu cho biết cứ 100 đồng doanh thu thuần thì tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. * Hệ số quay vòng của tài sản (Số lần chu chuyển tổng tài sản) Chỉ tiêu này đo lường số vòng quay của tổng tài sản trong một kì tính doanh thu. Chỉ tiêu nói lên hiệu suất sử dụng vốn sản xuất, kinh doanh (tổng tài sản), thông thường tốc độ chu chuyển càng nhanh thì càng tốt (nhưng nó còn phụ thuộc đặc điểm từng ngành). Công thức xác định: Doanh thu thuần Hệ số quay vòng của tài sản = Giá trị tài sản vốn bình quân *Tỉ suất lợi nhuận/ vốn sử dụng Lợi nhuận sau thuế Tỉ suất lợi nhuận/ vốn sử dụng = x 100 Tổng giá trị tài sản bình quân Chỉ tiêu cho biết cứ 100 đồng vốn kinh doanh hoặc tài sản bỏ ra sẽ đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu càng lớn hiệu quả sử dụng vốn càng cao và ngược lại. Tỉ suất này còn được đánh giá thông qua hai chỉ tiêu trên. Lợi nhuận sau thuế Doanh thu thuần Tỉ suất lợi nhuận/ = x x100 vốn sử dụng Doanh thu thuần Giá trị tài sản vốn bình quân = Tỉ suất lợi nhuận/ Doanh thu x Hệ số quay vòng của TS Nhìn vào công thức trên ta thấy mối quan hệ tương hỗ giữa các chỉ số tài chính. Cụ thể là tỉ suất lợi nhuận/ vốn sử dụng phụ thuộc vào hai yếu tố sau: - Thu nhập của doanh nghiệp trên một đồng doanh thu là bao nhiêu?, đây là biểu hiện của nhân tố chất lượng. - Một đồng tài sản tạo ra mấy đồng doanh thu? Sự phân tích này cho phép xác định chính xác nguồn gốc làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp hoặc là do doanh thu bán hàng không đủ lớn để tạo ra lợi nhuận hoặc do lợi nhuận sau thuế trên một đồng doanh thu qúa nhỏ, trên cơ sở đó các nhà quản lí sẽ có biện pháp điều chỉnh phù hợp hoặc đẩy mạnh tiêu thụ hoặc tiết kiệm chi phí. * Doanh lợi vốn chủ sở hữu: Mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp là tạo ra lợi nhuận cho các chủ sở hữu của doanh nghiệp. Doanh lợi vốn chủ sở hữu chính là chỉ tiêu đánh giá mức độ tạo ra lợi nhuận của mục tiêu này.Công thức xác định là: Lợi nhuận sau thuế Doanh lợi vốn chủ sở hữu = Vốn CSH bình quân Chỉ tiêu cho biết một đồng vốn chủ sở hữu binh quân tạo ra được mấy đồng lợi nhuận. Doanh lợi vốn CSH cũng có mối quan hệ với tỉ suất lợi nhuận/ vốn chủ sở hữu thể hiện qua công thức: Tỉ suất lợi nhuận/vốn sử dụng Doanh lợi vốn CSH = 1- tỉ số nợ bình quân Tổng số dư nợ đầu kì và cuối kì Với tỉ số nợ bình quân = Tổng vốn đầu kì và cuối kì Hay doanh lợi vốn CSH = Tỉ suất lợi nhuận/ 1 vốn sử dụng 1- tỉ số nợ bình quân = Tỉ suất lợi nhuậndoanh thu x Hệ số quay vòng TS x 1- Hệ số nợ bq Như vậy doanh lợi tổng vốn phụ thuộc vào: - Trong một đồng vốn sử dụng có bình quân trong kì có mấy đồng được hình thành từ vốn huy động bên ngoài? - Một đồng vốn sử dụng bình quân trong kì tạo ra mấy đồng doanh thu? - Trong một đồng doanh thu có mấy đồng lợi nhuận sau thuế? Chương II Phân tích tình hình tài chính tại CÔNG TY CƠ KHí hà NộI 2.1. TìNH HìNH CHUNG CủA CÔNG TY CƠ KHí Hà NộI 2.1.1.Giới thiệu chung: + Công ty cơ khí Hà Nội (Hanoi Mechanical Company) là công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước 1 thành viên; dã trải qua hơn 50 năm hoạt động. Nhiều năm qua công ty dã chế tạo sản xuất các sản phẩm cơ khí, luyện kim phục vụ các ngành kinh tế trong nước và ngoài nước. + Được thành lập ngày 26/11/1955 Công ty Cơ khí Hà Nội hiện nay là công ty sản xuất cơ khí lớn nhất ở nước ta có quy mô khá lớn với tổng số vốn đầu tư là 275 tỷ đồng và tổng diện tích là 129.796 m2, có hệ thống cơ sở hạ tầng, máy móc thiết bị hiện đại, tạo công ăn việc làm cho hơn 1000 lao động. Trông đó đội ngũ kĩ sư : 150 người và công nhân bậc cao (từ bậc 5/7 trở lên):360 người + Giám đốc công ty : kĩ sư Lê Sỹ Chung + Địa chỉ trụ sở chính: 74 đường Nguyễn Trãi- Quận Thanh Xuân- Hà Nội Số Fax: 048 583268 Điện Thoại: 04 8584416 2.1.2. Các ngành nghề kinh doanh của công ty 2.1.2.1.Lĩnh vực kinh doanh: • Công ty sản xuất máy cắt gọt kim loại:Máy tiện, máy phay, máy bào, máy cắt,… • Chế tạo thiết bị công nghiệp và các phụ tùng thay thế cho các ngành kinh tế, thiết kế, chế tạo,và lắp đặt, dây chuyền thiết bị đồng bộ và dịch vụ kĩ thuật trong lĩnh vực công nghiệp. • chế tạo thiết bị nâng hạ, cân diện tử 60tấn • Kinh doanh thiết bị điện tử tin học. Dịch vụ chuyển giao công nghệ các thiết bị diện tử tin học • Sản phẩm đúc, rèn, cán, thép • Kinh doanh nhựa, gỗ và các sản phẩm làm bằng nhựa, gỗ; thiết bị dụng cụ y tế, hàng tiêu dùng • Xây dựng các công trình dân dụng và công nghiệp • Kinh doanh nhà ở, bất động sản, phân bón, hoá chất và vật tư nông nghiệp. Dịch vụ cho thuê kho bãi, nhà xưởng, văn phòng, vận chuyển và giao nhận hàng hoá • Xuất nhập khẩu và kinh doanh thiết bị. • Chế toạ các thiết bị áp lực cao • Đào tạo công nhân kĩ thuật các nghề tiện, phay, bào, rèn, đúc, nhiệt, luyện, công nhân vận hành các máy công nghệ cao • Kinh doanh các ngành nghề khác theo quy định của pháp luật 2.1.2.2 Mục tiêu phát triển: + Luôn cung cấp sản phẩm và dịch vụ có chất lượng, thoả mãn mọi yêu cầu của khách hàng. + Thực hin đúng, đầy đủ phương châm “Vui lòng khách đến, vừa lòng khách đi”. Luôn cải tiến phương thức phục vụ, tôn trọng mọi cam kết với khách hàng. + Bằng mọi phương tiện tuyên truyền và giáo dục cho cán bộ công nhân viên hiểu rõ chất lượng là sự sống còn của công ty, lao động có chất lượng là nghĩa vụ đồng thời là quyền lợi sát sừơn của mỗi người + Thường xuyên cải tiến sản phẩm thực hiện chiến lược đầu tư đổi mới công nghệ, đào tạo nâng cao năng lực cán bộ công nhân viên đáp ứng mọi yêu cầu phát triển của công ty. + Xây dựng hệ thống đảm bảo chất lượng theo mô hình TCVN ISO 9002:1996 2.1.2.3 Hoạt động chính của công ty: Với lực lượng kĩ sư gần 150 người và nhiều công nhân lành nghề, công ty cơ khí Hà Nội có khả năng cung cấp dịch vụ tư vấn và trực tiếp thực hiện thiết kế công nghệ và chế tạo sản phẩmcơ khí, công ty cơ khí đã cung cấp phụ tùng thay thế, chế tạo và lắp đặt thiết bị máy móccho các ngành như sau: a) Chế tạo và cung cấp thiết bị phụ tùngphục vụ các ngành khai thác dầu khí: Công ty cơ khí Hà Nội đã tham gia chế tạo thiết bị phụ tùng phục vụ cho các ngành khai thác dầu khí từ năm 1989. Thời gian đầu, công ty chế tạo những mặt hàng cơ khí đơn giản có độ phức tạp và chất liệu trung bình như: nắp đặt đầu dây, đầu nối cáp hộp… Dần dần, công ty nhiên cứu chế tạo các sản phẩm cơ khí đồi hỏi có độ chính xác cao hơn và mang tính chịu tải, chịu lực ổn định như: bánh công tác của các loại bơm, phanh tời, hệ thống thuỷ lực b) Chế tạo cung cấp thiết bị phu tùng phục vụ cho tuyển quặng: Công ty đã chế tạo các loại bơm bùn có lưu lượng lên tới 1250m3, vỏ bơm có khả năng chịu được sự va đập cứngcó đường kính lên tới 10mm, các loại ghi lò sấy chịu nhiệt đến 1350oC, hệ thống chịu nghiền, cấp nạp bi nghiền và cấu kiện hàn phi tiêu chuẩn. c) Chế tạo và cung cấp thiết bị ngành giấy: d) Chế tạo và cung cấp thiết bị, phụ tùng phục vụ ngành công nghiệp mía đường e) Chế tạo và cung cấp thiết bị phục vụ ngành xi măng Từ năm 1995, công ty cơ khí Hà Nội đã chế tạo toàn bộ thiệt bị trọn gói cho nhà mày xi măng Lưu Xá có công suất 60000 tấn/năm f) Chế tạocung cấp thiết bị, phụ tùng phục vụ thuỷ điện, thuỷ lợi: Công ty cơ khí Hà Nội đã tham gia chế tạo thiết bị toàn bộ( chìa khoá chao tay) cho các trạm thuỷ điện có công suất từ 20KW, 200KW, 300KW, 500KW và 1000KW như: Thuỷ điện Phú Ninh, Nậm Má, Viện Lâm- Thác Thuý… 2.1.3. Bảng kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty Kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty trong những năm gần đây được biểu hiện tóm tắt qua bảng sau: Đơn vị tính: Đồng Chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 Chênh lệch Số tuyệt đối Số tươngđối(%) 1.Giá trị tổng sản lượng 75500000000 83392943757 7892943757 10,45 2.Doanh thu tiêu thụ 82904540000 100980968316 18076428316 21,8 3.Lợi nhuận ròng 394152647 485957646 91804999 23,29 4.Nộp ngân sách 2989497000 3071560000 82063000 2,75 5.Tổng số vốn SXKD 41371085870 54709748075 13338662205 32,24 Trong đó: +Vốn cố định 14513285642 18285094943 3771809301 25,99 +Vốn lưu động 26857800228 36424653132 9566852904 35,62 6.Thu nhập bình quân đầu người/tháng 811364 878390 67026 8,26 (Nguồn: Phòng Kinh doanh của Công ty) 2.1.4. Đặc điểm sản xuất 2.1.4.1 Đặc điểm tổ chức sản xuất kinh doanh Quy trỡnh sản xuất kinh doanh được tuõn thủ theo cỏc bước sau: Trước hết phũng kinh doanh kết hợp với phũng kinh doanh xuất nhập khẩu lập kế hoạch cho cỏc loại sản phẩm rồi thụng bỏo cho Trung tõm kỹ thuật điều hành sản xuất. Trung tõm kỹ thuật điều hành sản xuất sẽ hướng dẫn cụng nghệ sản xuất tới cỏc bộ phận sản xuất liờn quan trực tiếp như : Xớ nghiệp Đỳc, xưởng gia cụng ỏp lực và nhiệt luyện, xưởng Cơ Khớ, xưởng Bỏnh răng.....Cỏc xưởng này sẽ tiến hành sản xuất theo một quy trỡnh sản xuất nhất định tuỳ theo từng loại sản phẩm. Tuy nhiờn tất cả cỏc loại sản phẩm đều phải trải qua một quy trỡnh cụng nghệ chung như sau: +Chuẩn bị: Phõn xưởng mộc sử dụng cỏt, đất sột và gỗ để làm khuụn tạo phụi đỳc căn cứ theo phụi mẫu. +Tạo phụi đỳc, phỏ khuụn, làm sạch và cắt gọt : nguyờn vật liệu được nung chảy rồi rút vào khuụn, sau đú phỏ khuụn để lấy phụi đỳc ra rồi làm sạch sẽ và cắt gọt. +Gia cụng nhiệt luyện: Đối với cỏc chi tiết cần độ rắn và cứng, phụi đỳc sẽ được nhiệt luyện và rốn để tăng cường độ cứng, độ rắn. +Gia cụng cơ khớ: Cỏc chi tiết được đưa vào mỏy như mỏy phay, mỏy tiện, mỏy bào, mài, rốn,..... để tạo ra cỏc chi tiết như mong muốn. +Nhiệt luyện: Áp dụng cho cỏc chi tiết cần độ cứng cao ở bề mặt hoạt động và được KCS kiểm tra chặt chẽ. +Lắp rỏp: Cỏc chi tiết được lắp rỏp lại với nhau để tạo nờn mỏy cụng cụ và thiết bị, phụ tựng và được KCS . +Sơn: sản phẩm được sơn theo tiờu chuẩn và được KCS. +KCS: sản phẩm được kiểm tra trước khi nhập kho. +Nhập kho: nhập kho sản phẩm chờ tiờu thụ . 2.1.4.2. Quy trình sản xuất kinh doanh của công ty: Yêu cầu Hợp đồng Thảo thuận cung cấp vật tư Nhập thành phẩm Cấp vật tư Phòng KD Phòng KD XNK Bảng trình chào thầu báo giá Duyệt chào thầu báo giá Khách hàng Giao hàng Chào thầu báo giá Xí nghiệp vật tư Phòng quản lý chất lượng sản phẩm Giao vật tư Nhà cung ứng Báo giá cung cấp vật tư Yêu ccầu kiểm tra Kiển tra vật tư, nguyên liệu tư đầu vàp Duyệt mua vật tư Ban giám đốc Các hoạt động tài chính Xí nghiệp vật tư Xin duyệt mua vật tư Ký hợp đồng Dự thảo hợp đồng Trung tâm kỹ thuật điều hành sản xuất Trao đổi kỹ thuật Thông báo sản xuất Sản xuất Cấp phối và bán thành phẩm Nhập phôi bán thành phẩm Kế hoạch sản xuất Giải quyết ván đề kỹ thuật Phiếu mua hàng XN lắp đặt, sữa chữa thiết bị Giao sản phẩm Yêu cầu sửa chữa thiết bị Bảo trì, bảo dưỡng thiết bị Quy trình sản xuất kinh doanh của công ty 2.1.5. Bộ máy quản lý của doanh nghiệp: 2.1.5.1. Mô hình bộ máy quản lý sản xuất kinh doanh của công ty cơ khí Hà Nội giám đốc PGĐ phụ trách sản xuất PGĐ kỹ thuật PGĐ nội chính TT kỹ thuật điều hành sx TT thiết kế tự động Phòng quản lý chất lượng sản phẩm Thư viện Xưởng cơ khí chế tạo Phòng tổ chức Trung tâm XDCB Phũng bảo vệ Phòng y tế VP công ty Phòng KTTC Phòng kinh doanh Ban quản lý dự án Trung tâm công nghệ chế tạo máy Xưởng cơ khí chính Xưởng cơ khí lớn Xưởng bánh răng Xưởng lắp ráp Xưởng vật tư Xí nghiệp đúc Xí nghiệp gia công áp lực và luyện nhiệt Xí nghiệp kết cấu thép Xí nghiệp lắp đặt và sửa chữa thiết bị 2.1.5.2. Mô hình bộ máy kế toán Sơ đồ 2.3 : Mụ hỡnh tổ chức bộ mỏy kế toỏn của cụng ty Cơ Khớ Hà Nội Phú phũng Trưởng phũng KT thanh toỏn thu chi và quản lý tiền mặt KT Ngõn hàng, hoạt động vay KT vật tư KT tài sản cố định và XDCB KT Cụng nợ, phải thu, thuế KT tiền lương và BHXH KT tập hợp chi phớ và tớnh giỏ thành SP KT tiờu thụ KT dự ỏn KT Thủ quỹ cụng nơ, phải trả Bộ CÔNG NGHIệP TổNG CÔNG TY MáY Và THIếT Bị CÔNG NGHIệP CÔNG TY CƠ KHí Hà NộI Bảng cân đối kế toán Ngày 31 tháng 12 năm 2005 Đơn vị tính: Đồng Tài sản Mã số Số đầu năm Số cuối năm 1 2 3 4 A. A. Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn 100 42.481.604.725 38.588.162.182 I. I. Tiền 110 3.135.267.748 1.179.999.595 1. 1 Tiền mặt tại quỹ 111 1.994.715.502 684.771.902 2. 2. Tiền gửi ngân hàng 112 1.140.552.246 495.227.693 3. 3. Tiền đang chuyển 113 II. II. Các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn 120 1. 1. Đầu tư chứng khoá._. định bình quân 17.522.923.898,5 18.101.506.246 +578.582.317,5 +,3,3 5. Hiệu suất sử dụng TSCĐ (1.3) 3,5 3,34 -0,21 -5,92 6. Hiệu quả sử dụng TSCĐ (2/3) 0,025 0,017 -0,008 -32 7. Hiệu suất sử dụng VCĐ (1/4) 5,71 5,67 -0,04 -0,7 8. Tỉ suất sinh lợi VCĐ (2/4) 0,04 0,029 -0,011 -27,5 9. Hệ số đảm nhiệm TSCĐ (3/1) 0,282 0,299 +0,017 6,03 10. Hệ số đảm nhiệm VCĐ (4/1) 0,175 0,176 +0,001 0,57 Nhìn vào bảng trên ta thấy: *Với TSCĐ: Hiệu suất sử dụng và hiệu quả sử dụng TSCĐ đều giảm, trong đó hiệu quả sử dụng TSCĐ giảm với tốc độ nhanh hơn hiệu suất sử dụng TSCĐ (giảm 32% so với 5,92%). Nguyên nhân là do doanh thu năm 2000 tăng so với năm 1999 nhưng lợi nhuận lại giảm so với năm 1999 khiến cho hiệu quả sử dụng TSCĐ giảm nhanh hơn hiệu suất sử dụng TSCĐ. Xét riêng từng khoản ta thấy hiệu suất sử dụng TSCĐ năm 2005 giảm 0,21 hay 5,92% so với 2004, chứng tỏ khả năng tạo ra doanh thu của năm 2005 ít hơn so với năm 2004. Năm 2004 một đồng nguyên giá TSCĐ tạo ra 3,55 đồng doanh thu còn năm 2005, kết quả đó chỉ còn 3,34 đồng, giảm 0,21 đồng. Hiệu quả sử dụng TSCĐ còn giảm nhanh hơn. Năm 2004, một đồng nguyên giá bình quân TSCĐ sinh lợi 0,025 đồng lợi nhuận nhưng sang năm 2004, nó chỉ tạo ra 0,017 đồng lợi nhuận, tốc độ giảm là 32%. Kết quả này có thể được giải thích như sau: Năm 2004, DN chưa sử dụng hết công suất TSCĐ, sang năm 2005 DN lại đầu tư mua thêm máy móc mới. Máy móc mới đưa vào sử dụng làm khấu hao tăng, qua đó làm chi phí SXKD tăng khiến cho doanh thu tăng 2,65% nhưng lợi nhuận lại giảm 24,79%. Tốc độ tăng doanh thu không bằng tốc độ tăng TSCĐ khiến hiệu suất sử dụng TSCĐ giảm. Hiệu quả sử dụng TSCĐ lại giảm mạnh hơn nữa vì lợi nhuận giảm ngoài ảnh hưởng của tốc độ giảm cuả doanh thu lại còn do chi phí SXKD gánh thêm một phần chi phí khấu hao mới phát sinh. Như vậy, về TSCĐ, DN sử dụng chưa hợp lý, chưa sử dụng hết công suất vào máy móc hiện có nhưng lại đầu tư mua thêm máy móc mới không làm doanh thu tăng nhanh mà lại làm tăng chi phí, ảnh hướng đến lợi nhuận đạt được. *Với VCĐ: Xem xét VCĐ hiệu quả hơn TSCĐ vì nó trừ ra khoản khấu hao TSCĐ đã thu hồi, chỉ xét giá trị thực của TSCĐ. Ta thấy hiệu suất sử dụng VCĐ giảm và hiệu quả sử dụng VCĐ (tỉ suất sinh lợi VCĐ) cũng giảm với tốc độ nhanh hơn cùng với đó là hệ số đảm nhiệm VCĐ tăng, cụ thể: Hiệu suất sử dụng VCĐ năm 2004 là 5,71 nghĩa là một đồng vốn cố định bình quân tạo ra 5,71 đồng doanh thu thuần. Sang năm 2005, hiệu suất này giảm xuống còn 5,67, một đồng vốn cố định bình quân chỉ tạo ra được 5,67 đồng doanh thu thuần giảm 0,7% so với lúc đầu. Cũng có thể nói hệ số đảm nhiệm VCĐ 2005 tăng sovới năm 2004. Năm 2004, một đồng doanh thu thuần cần 0,17 đồng VCĐ nhưng sang năm 2005, để tạo ra một đồng doanh thu thuần, DN cần dùng 0,176 đồng VCĐ, tăng 0,57%. Hiệu quả sử dụng VCĐ năm 2005 cũng giảm so với năm 2004. Năm 2004, một đồng vốn cố định tạo ra 0,04 đồng lợi nhuận còn năm 2005, nó chỉ tạo ra 0,029 đồng, giảm 27,5%. Nguyên nhân tốc độ giảm hiệu quả sử dụng VCĐ nhanh hơn tốc độ giảm hiệu suất sử dụng VCĐ cũng do chi phí khấu hao tăng khiến lợi nhuận giảm đi, tốc độ tăng doanh thu cũng chậm lại. Nếu so sánh hiệu suất và hiệu quả sử dụng TSCĐ với hiệu suất và hiệu quả sử dụng VCĐ thì hiệu suất và hiệu quả sử dụng VCĐ có phần hợp lý và hiệu quả hơn vì chúng đã trừ được phần chi phí khấu hao ở cả tử và mẫu. Tuy nhiên nếu không phát sinh phần chi phí khấu hao thì kết quả đạt được sẽ khả quan hơn nhiều. Vì vậy, Xí nghiệp nên khai thác thêm các thị trường tiêu thụđể tăng hiệu suất sử dụng máy móc, giảm các TSCĐ không dùng vào sản xuất và không sinh lợi như nhà văn phòng, máy móc phục vụ văn phòng không cần thiết và các TSCĐ phục vụ sản xuất còn thừa bằng cách cho thuê hoạt động hoặc thuê tài chính nếu khả năng sinh lợi của các hình thức này cao hơn. Đối với các TSCĐ không dùng sản xuất, đang cho thanh lý hoặc nhượng bán, DN cần nhanh chóng thành lập tổ thanh lý để giải phóng các loại tài sản này, thu vốn về hoạt động và giảm TSCĐ "chết". 2.2.4.2. Phân tích hiệu quả sử dụng vốn lưu động (VLĐ). Hiệu quả sử dụng VLĐ được đo lường bằng các chỉ tiêu sức sản xuất, sức sinh lợi. Nhưng để biết được nguyên nhân của sự tăng, giảm các chỉ tiêu đó ta cần phải phân tích thêm tốc độ luân chuyển VLĐ, tốc độ luân chuyển VLĐ càng cao, lợi nhuận tạo ra càng nhiều. Vì vậy, phân tích đồng thời chỉ tiêu tổng hợp và chi tiết sẽ cho ta cái nhìn tổng quát về tình hình sử dụng VLĐ. Việc phân tích được tiến hành qua bảng sau: Bảng phân tích tốc độ luân chuyển vốn lưu động Đơn vị tính: đồng Chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 Chênh lệch Mức Tỉ lệ (%) 1. Doanh thu thuần 99.971.158.644 102.619.555.514 +2.648.396.870 +2,65 2. Lợi nhuận từ SXKD 696.727.538 524.038.784 -172.688.754 -24,79 3. VLĐ bình quân 34.499.446.246,5 40.534.883.453,5 +6.035.437.207 +17,5 4. Sức sinh lợi của VLĐ (2/3) 0,02 0,013 -0,007 -35 5. Tốc độ chuchuyển VLĐ (1/3) 2,9 2,53 -0,37 -12,76 6. Thời gian một vòng luân chuyển (360/5) 124,14 142,3 18,16 14,63 7. Hệ số đảm nhiệm VLĐ (3/1) 0,345 0,395 +0,05 14,49 Bảng trên cho thấy sức sản xuất của VLĐ giảm 0,37 hay 12,76% (từ 2,9 năm 2004 xuống còn 2,53 năm 2005) và sức sinh lợi cũng giảm 0,007 hay 35% (từ 0,02 xuống 0,013). Như vậy, hiệu quả sử dụng VLĐ đã giảm đáng kể. Năm 2004, một đồng VLĐ bình quân tạo ra 2,9 đồng doanh thu và 0,02 đồng lợi nhuận. Năm 2005, một đồng VLĐ bình quân chỉ tạo ra 2,53 đồng doanh thu và 0,013 đồng lợi nhuận. Nguyên nhân là do tốc độ luân chuyển chậm: 2,9 vòng/năm xuống còn 2,53 vòng/năm, thời gian một vòng luân chuyển tăng từ 124,14 ngày lên 142,3 ngày, tăng 14,63%. Vì tốc độ luân chuyển giảm nên trong năm 2005, lượng doanh thu thuần tạo ra đã giảm đi một lượng là: (2,53-2,9) x 40.534.883.453,5 = -14.997.906.877,7 đồng và làm lãng phí một lợng vốn lưu động là: 102.619.555.514 360 x (142,3 -124,14) =+5.176.586.466,6 đồng Như vậy, DN đã sử dụng lãng phí một lượng VLĐ là 5.176.586.466,6 đồng. Nếu DN vẫn giữ nguyên tốc độ luân chuyển như năm 1999 thì lượng doanh thu thuần sinh ra sẽ tăng thêm 14.997.906.877,7 đồng. Tốc độ luân chuyển VLĐ giảm làm hiệu quả sử dụng VLĐ giảm. Nhưng VLĐ bao gồm VLĐ đầu tư cho khoản phải thu, hàng tồn kho và tiền. Vậy nguyên nhân chính làm giảm VLĐ là từ đâu? Từ việc hàng tồn kho luân chuyển chậm hay lâu thu tiền, để biết rõ, ta phân tích từng khoản sau: Khoản phải thu: Như đã đề cập ở phần phân tích tình hình thanh toán (III.4), vòng quay các khoản phải thu tăng 0,519 vòng (từ 7,329 lên 7,848) chứng tỏ tình hình thu nợ của DN rất tốt, kỳ thu tiền bình quân cũng giảm từ 49,12 ngày xuống còn 45,87 ngày, rút được hơn 3 ngày. Như vậy, nguyên nhân làm giảm tốc độ VLĐ không phải do các khoản phải thu. Hàng tồn kho (HTK): Để đánh giá tốc độ luân chuyển HTK ta tính toán một số chỉ tiêu: hệ số quay kho và thời gian một vòng quay qua bảng sau: Bảng phân tích tốc độ luân chuyển hàng tồn kho Đơn vị tính: đồng Chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 Chênh lệch Mức Tỉ lệ (%) 1. Giá vốn hàng tiêu thụ trong kỳ 93.641.383.809 94.240.643.398 +599.259.589 +0,64 2. Giá vốn SP hàng hoá tồnkho bp 9.002.731.360,5 10.781.340.337 +1.778.608.976,5 19,76 3. Hệ số quay kho sp hàng hoá (1/2) 10,401 8,741 -1,66 -15,96 4. Thời gian một vòng quay kho (365/3) 34,61 41,19 +6,58 19,01 Như vậy, giá vốn hàng tiêu thụ trong kỳ tăng 599.259.589 đồng (0,64%) nhưng tốc độ tăng của giá vốn sản phẩm, hàng hoá tồn kho bình quân lại tăng nhanh hơn (19,76%) làm giá vốn tồn kho tăng 1.778.608.976,5 đồng. Chính điều này làm cho hệ số quay kho sản phẩm, hàng hoá giảm 1,66 vòng 15.96%. Vậy nguyên nhân khiến tốc độ luân chuyển VLĐ giảm là do hàng hoá tồn kho nhiều thời gian quay kho chậm. Điều này cũng có thể giải thích rằng. Trong kỳ, do xu hướng tiêu thụ sản phẩm hàng hoá tăng, DN tập trung sản xuất để cung ứng ra thị trường. Nhưng đến cuối kỳ, tốc độ tiêu thụ chững lại (một phần cũng có thể do chính sách đòi nợ của DN chặt chẽ hơn) nên xí nghiệp chưa thể giải phóng toàn bộ lượng hàng tồn khối kinh doanh bị ứ đọng trong khâu này. Vấn đề đặt ra là DN phải có cách thức tiêu thụ nhanh lượng hàng tồn này, giải phóng vốn "chết" tăng hiệu quả hoạt động. Chương III Phương hướng nâng cao công tác quản trị tài chính tại CÔNG TY CƠ KHí Hà NộI 3.1. Đánh giá khái quát tình hình tài chính tại DN: Trong những năm gần đây, dưới ảnh hưởng dây chuyền của cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ khu vực và xu hướng suy thoái chung của toàn thế giới, nền kinh tế Việt Nam phát triển chậm lại và gặp phải một số khó khăn như qui mô đầu tư giảm, tình hình xuất nhập khẩu gặp khó khăn,…Những khó khăn chung của đất nước đã tác động không nhỏ đến Công ty cơ khí Hà Nội làm thị trường tiêu thụ thu hẹp, chi phí nhập khẩu NVL đầu vào tăng do tỉ giá ngoại tệ tăng. Ngoài những khó khăn chung, DN còn phải đương đầu với nhiều khó khăn riêng như sự cạnh tranh gay gắt của các doanh nghiệp cùng nghành. Nhờ năng lực quản lí và đội ngũ cán bộ công nhân viên năng động sáng tạo và có trình độ chuyên môn cao (hơn 1/5 có trình độ đại học, trên đại học và cao đẳng), DN đã vượt qua các khó khăn, thử thách, bảo đảm đời sống của cán bộ công nhân viên và tạo ra lợi nhuận để tái sản xuất. Hoạt động tài chính của DN trong năm 2005 đã đạt được những thành tựu sau: Trong quan hệ thanh toán với các tổ chức bên ngoài, DN đã tuân thủ các chính sách tín dụng, trả nợ đúng hạn cho các chủ nợ và các tổ chức mà DN chiếm dụng vốn. Các khoản nợ ngắn hạn, nợ dài hạn và khoản phải trả người bán giảm làm tình hình tài chính của DN lành mạnh hơn. Về các khoản phải thu, DN đã nỗ lực thu hồi công nợ, tăng nhanh tốc độ luân chuyển các khoản phải thu (từ 7,329 lên 7,848 vòng) làm tăng hiệu quả hoạt động của vốn lưu động. Với xu hướng giảm nợ., giảm thu, DNđã nâng cao khả năng độc lập tài chính của mình, giảm tình trạng chiếm dụng dây dưa lẫn nhau với các doanh nghiệp khác. Nguồn vốn lưu động thuần tăng cho tháy khả năng thanh toán của DN được nâng cao. Nguồn vốn lưu động thuần tăng trong khi qui mô tài sản giảm cho thấy DN đã ưu tiên đặc biệt cho việc phát triển nguồn vốn lưu động thuần, tăng khả năng nắm bắt thời cơ và làm cân bằng cấu trúc tài chính. Bên cạnh những thành tích đạt được, DN cũng còn tồn tại một số nhược điểm trong hoạt động tài chính như cơ cấu tài sản,nguồn vốn còn chưa hợp lí, khả năng thanh toán và hiệu quả sử dụng vốn chưa cao. Trong cơ cấu tài sản và nguồn vốn, mặc dù trong kì DN đã có những hành động tích cực để cải thiện tình hình nhưng những tồn tại vẫn chưa được khắc phục hoàn toàn. Tỉ suất đầu tư trong tổng tài sản còn thấp (xấp xỉ 0,3). Vào cuối năm, tỉ suất này giảm hơn khiến cho hiệu quả sử dụng TSCĐ thấp, tồn tại sự mất cân đối giữa TSCĐ và TSLĐ, TSCĐ chiếm quá ít, TSLĐ chiếm tỉ lệ nhiều nhưng phần lớn lại được đầu tư vào tài sản dự trữ, giảm năng lực hoạt động của vốn. Tỉ suất tự tài trợ tuy đã được tăng lên vào cuối kì nhưng vẫn còn ở mức thấp (32,76%) nghĩa là chỉ đủ tài trợ cho TSCĐ, toàn bộ TSLĐ phải dựa vào các nguồn tài trợ bên ngoài như vay dài hạn, vay ngắn hạn, các khoản đi chiếm dụng. Trong kì, mặc dù DN đã cố gắng trả các khoản nợ vay để giảm tỉ suất nợ nhưng nó vẫn còn ở mức cao (67,24%). Điều này thể hiện sự mất cân đối trong cơ cấu nguồn vốn . Mặc dù ở khía cạnh nào đó, việc vận dụng “đòn bẩy tài chính” mang lại lợi nhuận cao hơn cho DN thì ở khía cạnh khác, cơ cấu vốn như vậy thể hiện năng lực tự chủ về tài chính của DN yếu, những thay đổi của môi trường bên ngoài sẽ ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động của DN Về tình hình thanh toán và công nợ, nếu như DN đã áp dụng đúng đắn chính sách thu hồi công nợ với các đơn vị bên ngoài thì DN lại quản lí chưa tốt tình hình công nợ và thanh toán nội bộ. Khoản tạm ứng chưa thu hồi của công nhân viên trong DN còn lớn làm giảm hiệu quả hoạt động của vốn và làm khả năng thanh toán của DN giảm,DN không đáp ứng đủ khả năng thanh toán nhanh và thanh toán tức thời. Về hiệu quả sử dụng vốn, DN chưa sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn hiện tại.TSCĐ có tại DN tuy chiếm tỉ trọng còn ít nhưng chưa được sử dụng triệt để,hết công suất.Trong kì, DN lại đầu tư thêm TSCĐ làm cho chi phí tăng nhanh, giảm khả năng sinh lợi.Trong khi đó, vốn lưu động được đầu tư nhiều nhưng lại bị sử dụng lãng phí do đầu tư cho hàng dự trữ nhiều làm chậm tốc độ luân chuyển vốn. 3.2. Những kiến nghị và đề xuất nhằm tăng cường công tác quản trị tại DOANH NGHIệP 3.2.1. Kiến nghị về công tác kế toán: Trong mấy năm nay, do tình hình khó khăn chung của đất nước, việc tiêu thụ sản phẩm của DN gặp nhiều khó khăn: giá cả lên xuống thất thường, thị trường tiêu thụ bị thu hẹp,chi phí mua NVL nhập ngoại tăng cao vì tỉ giá ngoại tệ tăng…Tất cả những biến động thất thường đó khiến cho DN mặc dù trên danh nghĩa là bảo toàn và phát triển vốn nhưng nếu so sánh với chỉ số giá tiêu dùng thì lại không được khả quan. Tuy vậy, DN lại chưa áp dụng một hình thức bảo toàn vốn tương đối phổ biến là “dự phòng”. Các khoản dự phòng cho phép DN để lại một phần vốn dự trữ, bảo hiểm cho sự thay đổi thất thường của giá trị tài sản, đảm bảo bù đắp những tổn phí khi nó phát sinh. Việc lập dự phòng cũng cho phép bộ phận kế toán quản trị (đứng đầu là kế toán trưởng) nắm được giá trị thực của tài sản,từ đó có căn cứ để ra các quyết định quản lí như thời điểm nào nên dự trữ, thời điểm nào nên tung hàng ra bán,… Tại Công ty cơ khí Hà Nội, lượng hàng dự trữ là khá lớn, vậy nên chăng dn nên lập các khoản dự phòng để hạn chế những rủi ro có thể xảy ra,chủ động với những biến động của thị trường. Việc lập dự phòng trước hết cần áp dụng cho hàng tồn kho bởi vì nó chiếm tỉ trọng lớn còn việc lập “dự phòng phải thu khó đòi” là chưa cần thiết vì bạn hàng của dn đều là khách hàng lâu năm, có uy tín. Là một DN sản xuất nhưng công tác nghiên cứu, lao động chất xám lại là nhiệm vụ quan tâm hàng đầu của DN.Hiểu được tầm quan trọng của các sản phẩm có chất xám cao, đặc biệt là trong nền kinh tế tri thức ngày nay, DN đã đầu tư một lượng tiền không nhỏ để nghiên cứu, sản xuất ra các loại thuốc mới. Các chi phí này khi phát sinh đều được đưa trực tiếp vào chi phí sản xuất kinh doanh trong kì.Trong nhiều trường hợp, các chi phí này khá lớn ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh trong kì mà phải mất vài năm mới có thể cho ra đời một sản phẩm mới. Vì vậy, Công ty nên tập hợp chi phí đó thành các TSCĐ vô hình và tính khấu hao dần. Việc khấu hao dần có thể khiến cho vốn đầu tư thu hồi chậm, làm ảnh hưởng đến tốc độ luân chuyển vốn nhưng nó giúp cho hoạt động kinh doanh được tiến hành bình thường, ổn định,tránh tình trạng qui mô tài sản bị sụt giảm nghiêm trọng, cơ cấu tài sản và nguồn vốn thay đổi đột biến,ảnh hưởng đến tình hình hoạt động và cấu trúc tài chính của DN. 3.2.2. Những giải pháp nhằm tăng cường công tác quản trị tài chính tại Công ty 3.2.2.1. Một số giải pháp chung đảm bảo cho quá trình kinh doanh: Để nâng cao hiệu quả kinh doanh, doanh nghiệp cần có một cấu trúc tài chính bền vững, có cơ cấu tài sản và nguồn vốn hợp lí. Chính nó sẽ là nền tảng vững chắc thúc đẩy hoạt động kinh doanh có hiệu quả. Vì vậy, trước khi đề xuất những phương hướng thúc đẩy hiệu quả kinh doanh, tôi xin được mạnh dạn kiến nghị một số vấn đề liên quan đến tình hình tài chính nhằm nâng cao vai trò quản trị trong quản lí tài chính. Thứ nhất: Cơ cấu tài sản cần được cân đối lại cho hợp lí hơn. Hiện nay, lượng tiền tồn tại Công ty còn quá ít, chỉ chiếm 2,11%. Với lượng tiền này, hoạt động kinh doanh công ty sẽ gặp nhiều khó khăn bởi vai trò của tiền trong hoạt động kinh doanh của công ty rất quan trọng. Là một vật mang giá trị, tiền đóng vai trò như chiếc cầu nối để đưa các yếu tố đầu vào vào công ty. Sau quá trình sản xuất, tiền lại được thu về với một lượng lớn hơn, là điều kiện để tái sản xuất, đảm bảo cho chu kì kinh doanh được diễn ra liên tục. Vốn bằng tiền cũng là phương tiện thanh toán có tốc độ chu chuyển nhanh nhất. Một lượng vốn bằng tiền hợp lí sẽ đảm bảo thanh toán ngay các khoản nợ đến hạn, nợ ngắn hạn, không làm xáo trộn nhiều đến hoạt động kinh doanh trong công ty. Nhưng tại công ty, lượng tiền dự trữ quá ít không đảm bảo cho khả năng thanh toán nhanh và tức thời. Khi các khoản nợ đến hạn, xí nghiệp sẽ phải bán tháo hàng tồn kho hoặc phải tìm cách đi chiếm dụng vốn ở nơi khác, đi vay ngắn hạn để đảm bảo thanh toán đúng hạn.Nếu không, công ty sẽ vi phạm kỉ luật thanh toán. Để giải quyết vấn đề này, công ty nên tăng nhanh tốc độ thu hồi các khoản phải thu, đẩy mạnh tốc độ tiêu thụ sản phẩm để thu tiền về, thu hồi các khoản tạm ứng, nhận kí cược, kí quỹ… Các khoản dự trữ tại DN quá lớn cũng là nguyên nhân làm tốc độ luân chuyển vốn giảm và làm mất cân đối trong cơ cấu tài sản. Để khắc phục thực tế này, DN cần nhanh chóng quảng bá và phát triển sản phẩm, thâm nhập vào các thị trường mới, chiếm lĩnh những khoảng trống thị trường mà các doanh nghiệp khác chưa chiếm lĩnh. DN cần phân tích để biết rõ những sản phẩm nào mang lại lợi nhuận cao, tốc độ tiêu thụ mạnh để tập trung sản xuất, nhanh chóng giải toả những sản phẩm có tốc độ tiêu thụ chậm để giải phóng vốn, đầu tư vào các sản phẩm có lợi ích cao hơn. Thứ hai: Trong công tác thanh toán các khoản nợ và thu hồi các khoản phải thu, DN cần cố gắng thanh toán các khoản nợ, giảm tỉ suất nợ và tăng tỉ suất tự tài trợ, nâng cao năng lực bản thân. Nguồn trả nợ có thể được huy động từ lợi nhuận thu được, từ quỹ khấu hao và từ các nguồn lợi khác như tiền cho thuê tài sản, cho thuê mặt bằng…Việc trả nợ sẽ làm giảm tình trạng Xí nghiệp bị “tái chiếm dụng”. Thứ ba: Xí nghiệp cần cải thiện tỉ suất đầu tư và một số tỉ suất khác.Tỉ suất đầu tư tại DN tương đối thấp. Vì vậy, để tăng cường tỉ suất này, DNnên thu hút đầu tư của các nhà tài trợ bên ngoài, thành lập các quĩ liên doanh, liên kết để lấy vốn đầu tư vào TSCĐ. DN cũng có thể áp dụng hình thức “thuê tài chính” để giảm vốn đầu tư ban đầu và tăng tài sản. 3.2.2.2. Phương hướng nâng cao hiệu quả kinh doanh: Mục tiêu cuối cùng của việc phân tích hoạt động tài chính là nâng cao hiệu quả kinh doanh. Sử dụng có hiệu quả đồng vốn kinh doanh sẽ giúp doanh nghiệp tiết kiệm vốn, với chi phí thấp nhất nhưng mang lại hiệu quả cao nhất. Như vậy, phương hướng nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất phát từ việc sử dụng hợp lí, tiết kiệm các nguồn lực sẵn có để tạo ra kết qủa cao nhất. Cụ thể hơn, mục tiêu hiệu quả kinh doanh đạt được khi: - Với số vốn hiện có, lợi nhuận tạo ra cho doanh nghiệp phải lớn hơn lợi nhuận trong quá khứ. - Khi đầu tư thêm vốn phải đảm bảo tốc độ tăng của lợi nhuận phải cao hơn tốc độ tăng của vốn. a) Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định: Như đã phân tích ở phần II, hiệu quả sử dụng vốn cố định ở DN còn thấp và có xu hướng giảm là do Xí nghiệp đầu tư thêm TSCĐ trong khi TSCĐ cũ vẫn chưa sử dụng hết công suất, TSCĐ mới mua về lại có mức khấu hao lớn làm cho lợi nhuận trong kì giảm sút trong khi doanh thu tăng chậm. Vậy làm sao để giải quyết thực trạng này? Trên thực tế, TSCĐ của DN được trang bị khá hiện đại nhưng không đồng bộ.Chính sự không đồng bộ đó là nguyên nhân cản trở sự vận hành có hiệu quả của các loại máy móc. Vì vậy, biện pháp trước mắt cần được áp dụng là DN cần cho “thuê hoạt động”các loại TSCĐ không dùng đến hoặc sử dụng không có hiệu quả. Tiền cho thuê thu được sẽ giúp DN trang trải số khấu hao và có lãi, tạo nguồn để đầu tư cải tạo các máy móc thiết bị đang sử dụng. Với các loại máy móc cũ, lạc hậu và hiệu quả không cao nhưng không thể cho thuê hoạt động được (các loại máy tốn quá nhiêù nguyên liẹu, động lực nhưng tốc độ sản xuất sản phẩm chậm,hay bị hỏng hóc) thì DN cần nhanh chóng thành lập các đội thanh lí, tổ chức các cuộc đấu thầu để thanh lí, nhượng bán chúng ngay khi chúng còn hoạtđộng được, tránh làm tăng hao mòn vô hình hoặc đến khi chúng trở thành đống sắt vụn. Số tiền thu được sẽ được dùng để tái đầu tư mua các máy móc thiết bị mới. Sau khi thay thế TSCĐ không hiệu quả, DN cần tập trung mua thêm các thiết bị mới. Việc mua các máy móc, thiết bị cũ từ nước ngoài qua hình thức chuyển giao công nghệ hiện nay không còn bảo đảm nữa. Các máy móc, thiết bị đó có thể đã được sơn sửa lại từ đống các máy móc thiết bị phế liệu cũ. Việc mua các máy móc hiện dại từ các nước phát triển lại quá tốn kém,khả năng của xí nghiệp không đáp ứng được. Vì vậy, hai biện pháp khả thi nhất là liên doanh hoặc thuê tài chính. Liên doanh là hình thức Xí nghiệp liên kết với các đối tác nước ngoài cùng góp vốn để sản xuất kinh doanh. Lợi thế thương mại của Xí nghiệp khi có cơ sở đặt ở trung tâm Hà Nội, lại có vị thế mặt đường cùng với uy tín sản phẩm lâu năm là điều kiện thuận lợi giúp Xí nghiệp có thể dễ dàng thu hút các đối tác liên doanh. Tham gia liên doanh giúp DN có thêm các máy móc thiết bị hiện đại, có qui trình công nghệ mới và còn có thể học các kinh nghiệm quản lí từ những chuyên gia quản lí đầy kinh nghiệm của đối tác nước ngoài. Thuê tài chính là hình thức thuê tài sản phổ biến trên thế giới. Nó giúp cho các doanh nhân khi bắt đầu sự nghiệp kinh doanh có thể sở hữu các TSCĐ có giá trị lớn mà không phải bỏ ra quá nhiều tiền đầu tư. Tuy nhiên, ở Việt Nam, hình thức thuê tài chính chưa được sử dụng rộng rãi. Giống như hình thức mua trả góp nhưng chi phí lãi nhỏ hơn nhiều, DN có thể thuê TSCĐ hiện đại với một khoản tiền thuê phù hợp hàng năm. Nếu các tài sản đó phát huy hiệu quả cao, DN không những thu hồi được khấu hao, trả lãi thuê mà còn có thể tạo ra nhiều lợi nhuận từ các tài sản đi thuê. Việc thuê tài chính TSCĐ cũng có ích hơn việc vay dài hạn mua TSCĐ vì các thủ tục vay để mua TSCĐ khá phức tạp, lại cần thế chấp, hàng năm DN vẫn phải trả một khoản tiền lãi mà không chắc chắn rằng TSCĐ có tạo ra lợi nhuận không vì việc mua TSCĐ từ nước ngoài chứa đựng nhiều rủi ro. Sau khi có TSCĐ hiện đại, phù hợp, DN cần tổ chức, sắp xếp chúng cho phù hợp, hiệu quả, tạo thành một qui trình khép kín. Công suất máy nên được sử dụng ở mức tối đa nhằm giảm hao phí không cần thiết. Hàng năm, DN nên kiểm tra, trung tu lại máy móc để phát hiện và kịp thời sửa chữa những hỏng hóc. DN cũng cần phát động các sáng kiến cải tiến kĩ thuật, qui trình công nghệ trong công nhân để sử dụng hiệu quả hơn nữa những máy móc sẵn có. Đối với những tài sản không phải là máy móc, thiết bị phục vụ cho sản xuất như nhà cửa, văn phòng, máy văn phòng,… nếu hiệu quả hoạt động không cao mà chi phí lại quá lớn thì DN nên sắp xếp lại để sử dụng có hiệu quả hơn. b) Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động: Việc tăng cường tốc độ luân chuyển VLĐ sẽ góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ. Nhưng để tăng tốc độ luân chuyển VLĐ, Xí nghiệp cần hạn chế các vốn chết, vốn bị chiếm dụng. Ơ đây, vốn chết chính là vốn dùng để dự trữ tài sản. Theo kết quả phân tích, năm 2005, mặc dù DN đã cố gắng làm giảm hàng tồn kho nhưng tỉ lệ này vẫn khá cao. Vốn bị chiếm dụng tại DN cũng khá nhiều, chủ yếu là các khoản phải thu và tạm ứng. Như ta đã biết trong phần II, toàn bộ vốn CSH và vốn vay của Xí nghiệp đã đủ đảm bảo cho tài sản và phần còn thừa đã bị chiếm dụng. Đây là vấn đề bất hợp lí, trong khi DN phải đi vay và chịu chi phí lãi vay thì một phần khoản vay đó đã bị chiếm dụng bởi công nhân viên và khách hàng với lãi suất bằng không. Cuối năm 2005, DN đã cố gắng giảm khoản vay để giảm tình trạng bị chiếm dụng. Tuy nhiên, khoản vốn bị chiếm dụng vẫn chưa giảm nhiều mà phần lớn khoản vay được trả bằng tiền mặt làm cho lượng tiền giảm nghiêm trọng, ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của DN. Vì vậy, DN cần áp dụng các biện pháp chặt chẽ hơn nữa trong việc thu hồi công nợ, tăng khoản tiền. Đối với khoản vay ngắn hạn và dài đầu tư cho tài sản còn thừa, DN có thể tập trung trả bớt để giảm chi phí tiền lãi hoặc dùng số tiền này đầu tư vào các hoạt động tài chính sinh lời hơn, tránh tình trạng bị chiếm dụng. Như vậy, nguồn vốn lưu động của DN tưởng như thừa nhưng thực ra lại thiếu vì vốn tài trợ cho tài sản dự trữ và khoản phải thu quá nhiều. Đây là hai loại tài sản có tốc độ luân chuyển chậm vì khó chuyển thành tiền mặt, gây ra hiện tượng lãng phí vốn. Những biện pháp nêu trên có thể gợi ý phần nào giúp công tác quản trị của DN có hiệu quả hơn. c) Tăng cường khả năng sinh lợi của đồng vốn: Để tăng cường khả năng sinh lợi của đồng vốn, ngoài việc sử dụng có hiệu quả VCĐ vàVLĐ theo cơ cấu phù hợp như trên, DN cần tập trung giảm chi phí phát sinh. Chi phí tại DN tăng cao do cả nguyên nhân chủ quan lẫn nguyên nhân khách quan. Nguyên nhân chủ quan là do DN đã không sử dụng hợp lí VCĐ và VLĐ. Trong khi TSCĐ sử dụng chưa hết công suất, DN lại mua thêm TSCĐ mới làm chi phí khấu hao tăng, làm giảm hiệu quả sử dụng VCĐ. Biện pháp giảm chi phí khấu hao đã được đề cập ở phần a). VLĐ của DN cũng được sử dụng không hiệu quả,lượng hàng tồn kho quá lớn làm tăng chi phí bảo quản, chi phí hao hụt, những chi phí mà DN có thể loại trừ hoặc giảm bớt được. Khoản vốn vay thừa sau khi đầu tư cho tài sản đã bị chiếm dụng cũng làm giảm hiệu quả hoạt động của Xí nghiệp. Bên cạnh những nguyên nhân chủ quan, DN cũng gặp phải những khó khăn do khách quan đưa lại. Là DN sản xuất, chi phí NVL chiếm tỉ trọng khá lớn trong tổng chi phí. Nhưng phần lớn NVL lại phải nhập ngoại, trong nước không sản xuất được. Việc tỉ giá ngoại tệ tăng mạnh trong hai năm qua làm chi phí của DN cũng tăng theo. Trong khi đó, giá bán của DN lại không thể tăng được vì tình trạng cạnh tranh và thu nhập của người dân. Điều này là nguyên nhân chính khiến hiệu quả của DN giảm mạnh. Để khắc phục những khó khăn này, DN cần tìm kiếm nguồn hàng cung cấp mới có giá cả phải chăng hơn.nhưng chất lượng vẫn phải bảo đảm để thay thế. Nếu có thể được, DN nên tự đầu tư nghiên cứu các loại NVL mới thay thế nếu chi phí nghiên cứu thấp hơn. Ngoài ra, do chi phí NVL của một số sản phẩm tăng làm cho hiệu quả sinh lợi của nó giảm nên DN cần xem xét lại hiệu quả sinh lợi của từng sản phẩm, thay đổi kế hoạch sản xuất, tập trung sản xuất những loại sản phẩm mà nguồn nguyên liệu có thể được cung cấp với giá rẻ hơn hoặc lấy từ nguồn nguyên liệu trong nước có hiệu quả sinh lời cao hơn. 3.2.2.3.Một số kiến nghị với Nhà nước: Để hoạt động và phát triển tốt, bất kì một doanh nghiệp nào cũng cần có một lượng vốn cố định và vốn lưu động cần thiết. Là một Công ty TNHH Nhà nước 1Thành viên, sau khi có quyết định hạch toán độc lập, Công ty được giao một phần vốn và dựa vào đó để phát triển sản xuát kinh doanh và có lãi, chịu trách nhiệm trước nhà nước về số vốn được giao. Tuy nhiên, phần vốn nhà nước giao chủ yếu là các TSCĐ đã lạc hậu, cũ kĩ. Để phát triển, dn phải tự đầu tư mua sắm máy móc, thiết bị từ các nguồn vốn khấu hao và vốn vay. Nguồn vốn CSH của DN chỉ đảm bảo choTSCĐ và một phần nhỏ TSLĐ, phần còn lại phải dựoc tài trợ bằng nguồn vốn vay và vốn đi chiếm dụng. Các nguồn vốn này chỉ là nguồn vốn tạm thời, lại phát sinh chi phí lãi vay làm hiệu quả kinh doanh giảm sút. Vì vậy, để DN có thể phát triển hiệu quả hơn, Nhà nước cần tạo điều kiện cấp thêm vốn cho DN, giúp DN tăng khả năng tự tài trợ, lành mạnh hoá tình hình tài chính. Kết luận Trong công tác quản trị doanh nghiệp, phân tích tình hình tài chính đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Phân tích tình hình tài chính cho nhà quản lí đánh giá thực trạng tài chính và dự đoán những xu hướng trong tương lai. Để phân tích, nhà quản lí phải thu thập được những thông tin chính xác, phải biết vận dụng linh hoạt các phương pháp phân tích để hạn chế những rủi ro, làm nổi bật những trọng tâm phân tích, thu được những thông tin bổ ích. Dựa vào Bảng cân đối kế toán và một số tài liệu khác có liên quan, em đã tiến hành phân tích tình hình tài chính tại Công ty Cơ khí Hà Nội.Tuy nhiên, do những hạn chế về nguồn thông tin (thiếu tài liệu so sánh với các doanh nghiệp cùng nghành) nên việc phân tích chủ yếu được tập trung vào việc nhận xét thực trạng tài chính.Thông qua sự phân tích một cách khách quan thực trạng tài chính của Công ty, kết hợp với kiến thức tiếp thu được ở trường, tôi đã mạnh dạn đưa ra một số ý kiến, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, hoàn thiện công tác kế toán để nâng cao công tác quản trị của Công ty.. Vì thời gian có hạn, trình độ hiểu biết còn hạn chế, nên bản chuyên dề thực tập không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, em hi vọng nhận được những ý kiến đóng góp bổ ích của các thầy cô giáo, các cô chú Công ty Cơ Khí Hà Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn thầy giáo –TS. Đàm Văn Huệ và các cô chú trong Công ty Cơ Khí Hà Nội đã tận tình giúp đỡ tôi hoàn thành bài luận văn này. Hà Nội, ngày 24tháng 5 năm 2006 Sinh viên Nguyễn Thi Minh Chi Danh mục tài liệu tham khảo 1. Tài chính doanh nghiệp. Chủ biên PGS.TS Lưu Thị Hương và PGS.TS Vũ Duy Hào 2.Quản trị tài chính doanh nghiệp. Chủ biên Nguyễn Hải Sản. 3. Phân tích Báo cáo tài chính và hoạt động kinh doanh. Chủ biên PTS. Nguyễn Văn Công. NXB Thống Kê 1995. 4. Kế toán-kiểm toán và phân tích hoạt động kinh doanh. PTS.Ngô Thế Chi-Đoàn xuân Tiên-Vương Đình Huệ. NXB Tài Chính–Hà Nội 1995. 5.Kế toán quản trị doanh nghiệp. PTS Đặng Văn Thanh-PTS Đoàn Xuân Tiên. NXB Tài chính-Hà Nội 1998. 6.Kế toán quản trị. NXB TPHCM. Tập thể tác giả khoa Kế toán-Kiểm toán. Trường đại học Kinh tế. 7.Phân tích hoạt động tài chính ở các doanh nghiệp. Charles.J. VVoelfel.NXB Khoa học &Kĩ thuật. Hà Nội1991. 8. Phân tích kinh tế hoạt động kinh doanh. Đại Học KTQD. Bộ môn Hạch toán và phân tích kinh tế. Hà Nội 1991. 9. Kế toán tài chính (theo hệ thống kế toán Mỹ). Kermit.D.Larson. Người dịch Đặng kim Cương. NXB Thống Kê 1994. 10. Giáo trình Phân tích hoạt động kinh doanh. Chủ biên PGS.PTS Phạm Thị Gái. Khoa Kế Toán- Trường Đại học Kinh tế quốc dân.NXB Giáo Dục 1998. 12. Giáo trình Kế toán quản trị . Chủ biên PTS Nguyễn Minh Phương. Khoa Kế toán- Trường Đại học KTQD. NXB Giáo dục 1998. 13. Giáo trình Tài chính doanh nghiệp. Chủ biên PTS Lưu Thị Hương. Khoa Ngân hàng- Tài chính. Trường Đại học KTQD. NXB Giáo dục1998. 14.How to interpret financial statements for better business decisions. Barry.E.Miller & Donald.E. Miller.American Management asociation 1991. 15. Các chuyên đề khoá 43(ĐH KTQD) và luận văn khoá 10 (viện ĐH Mở). Tạp chí Tài chính số 4/98. Tạp chí kỷ niệm 40 năm hình thành và phảt triển Công ty cơ khí hà Nội. mục lục ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc5535.doc