Phát triển hoạt động môi giới chứng khoán tại Công ty Chứng khoán Châu Á – Thái Bình Dương (apecs)

LỜI NÓI ĐẦU Môi giới chứng khoán là một nghiệp vụ cơ bản của các công ty chứng khoán. Nó có ảnh hưởng rất lớn tới quá trình hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán nói chung và của công ty chứng khoán nói riêng. Môi giới chứng khoán không chỉ mang lại lợi ích cho khách hàng, cho nhà đầu tư, cho bản thân các công ty chứng khoán mà còn mang lại lợi ích phát triển cho cả thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán Việt Nam chính thức đi vào hoạt động bằng việc đi vào hoạt động TTG

doc79 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1187 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Phát triển hoạt động môi giới chứng khoán tại Công ty Chứng khoán Châu Á – Thái Bình Dương (apecs), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
DCK TP Hồ Chí Minh (7/2000) và Sở GDCK Hà Nội (3/2005). Tính đến nay đã thị trường đã hoạt động được hơn 7 năm, hầu hết các công ty chứng khoán đã thực hiện nghiệp vụ này nhưng và đã thu được một số kết quả nhất định, nhưng vẫn còn nhiều hạn chế cần khắc phục. Những hạn chế này không chỉ xuất phát từ phía các công ty chứng khoán mà còn bắt nguồn từ phía thị trường chứng khoán nói chung cũng như những hạn chế trong các văn bản pháp quy. Những vấn đề này làm cho hoạt động môi giới chứng khoán tại các công ty chứng khoán tại Việt Nam và công ty chứng khoán Châu Á – Thái Bình Dương (APECs) đạt hiệu quả chưa được như mong muốn. Chính vì vậy em chọn đề tài: “Phát triển hoạt động môi giới chứng khoán tại công ty Chứng khoán Châu Á – Thái Bình Dương (APECs) “ làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp. Nội dung chính của chuyên đề gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề chung về hoạt động môi giới ở công ty chứng khoán. Chương 2: Thực trạng hoạt động môi giới tại công ty chứng khoán APECs Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động môi giới tại công ty chứng khoán APECs Mặc dù đã cố gắng nhưng do hạn chế về kiến thức thực tế và thời gian nghiên cứu nên bài viết cũng không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong được sự quan tâm và đóng góp ý kiến của thầy cô giáo và các bạn bè để bài viết được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG MÔI GIỚI CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN 1.1. CÔNG TY CHỨNG KHOÁN 1.1.1. Khái niệm công ty chứng khoán. Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các giao dịch, mua bán, trao đổi các loại chứng khoán, là một bộ phận của thị trường tài chính. Thị trường chứng khoán có vai trò hết sức quan trọng trong việc huy động vốn và sử dụng vốn của nền kinh tế thị trường. Để hình thành và phát triển thị trường chứng khoán, một yếu tố không thể thiếu được là các chủ thể tham gia kinh doanh trên thị trường. Bởi thị trường là nơi mua bán các loại chứng khoán và giấy tờ có giá, là nơi đầu tư để huy động vốn trung, dài hạn. Các chủ thể này bao gồm cả công chúng đầu tư, các doanh nghiệp, các tổ chức và chính quyền. Để tạo thuận lợi cho việc huy động vốn, các nhà đầu tư mua bán chứng khoán thì cần thiết có sự tham gia của các trung gian tài chính, các công ty chứng khoán – một định chế tài chính sẽ giúp thúc đẩy thị trường hoạt động có trật tự, công bằng và hiệu quả. Đây là một tổ chức chuyên nghiệp trong lĩnh vực chứng khoán, họ sẽ giúp đỡ các chủ thể khác thực hiện công việc mà không tốn kém nhiều thời gian, công sức, tiền bạc nếu họ tự mình làm. Như vậy, có thể hiểu một cách chung nhất thì “công ty chứng khoán là một tổ chức tài chính trung gian thực hiện các nghiệp vụ trên thị trường chứng khoán’’. Ở Việt Nam, theo quyết định 04/1998/QĐ - UBCK3 ngày 13 tháng 10 năm 1998 của UB CKNN thì: ’’công ty chứng khoán là công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn thành lập hợp pháp tại Việt Nam, được Uỷ ban chứng khoán Nhà nước cấp giấy phép thực hiện một hoặc một số loại hình kinh doanh chứng khoán’’. Tại điều 65 Nghị định 144/2003 NĐ – CP thì giấy phép kinh doanh chứng khoán được UBCKNN cấp cho công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn được thành lập để hoạt động kinh doanh, dịch vụ chứng khoán đáp ứng nhu cầu điều kiện được quy định ở điều 66 Nghị định này. Như vậy công ty chứng khoán thực chất là một doanh nghiệp kinh doanh chứng khoán vớí các lĩnh vực hoạt động chính là tự doanh, môi giới, quản lý danh mục đầu tư, bảo lãnh phát hành, và tư vấn. Trên thực tế, một công ty chứng khoán không nhất thiết phải thực hiện đầy đủ các nghiệp vụ trên, tùy theo loại hình nghiệp vụ mà công ty chứng khoán được cấp phép có đáp ứng được các tiêu chuẩn quy định của loại hình nghiệp vụ đó không. Tuy nhiên nghiệp vụ môi giới vẫn được coi là nghiệp vụ cơ bản quan trọng mà hầu hết công ty chứng khoán nào cũng tham gia. Sự phát triển của công ty chứng khoán luôn gắn liền với sự phát triển của thị trường chứng khoán. Nhiều nước trên thế giới đã xem công ty chứng khoán là hạt nhân cơ bản của nghành công ghiệp chứng khoán, nó góp phần thúc đẩy nền tài chính quốc gia phát triển. 1.1.2. Các mô hình tổ chức kinh doanh chứng khoán của CTCK Là một tổ chức tài chính đặc biệt nên hoạt động của công ty chứng khoán rất đa dạng và phức tạp, khác hẳn với các doanh nghiệp sản xuất hay thương mại thông thường. Việc xác định mô hình tổ chức kinh doanh cho công ty chứng khoán cũng có nhiều điểm khác nhau và vận dụng cho các thị trường có mức độ phát triển khác nhau sẽ khác nhau. Tuy nhiên, có hai loại mô hình cơ bản hiện nay là: Mô hình ngân hàng đa năng Theo mô hình này, công ty chứng khoán được tổ chức dưới hình thức một tổ hợp dịch vụ tài chính tổng hợp. Theo đó các ngân hàng thương mại sẽ hoạt động với tư cách là chủ thể kinh doanh chứng khoán, bảo hiểm, và kinh doanh tiền tệ. Mô hình này được biểu hiện dưới hai hình thức sau: Loại đa năng một phần: các ngân hàng lúc này sẽ phải thành lập các công ty con riêng hạch toán động lập khi kinh doanh chứng khoán và hoạt động phải tách rời với họat động kinh doanh tiền tệ của ngân hàng mẹ. Hiện nay, công ty chứng khoán của Việt Nam phần lớn được thành lập và họat động theo mô hình này. Loại đa năng toàn phần: các ngân hàng lúc này được phép trực tiếp kinh doanh trên thị trường chứng khoán, bảo hiểm, tiền tệ cũng như các dịch vụ tài chính khác. Theo mô hình này các ngân hàng có thể kết hợp nhiều lĩnh vực kinh doanh để giảm bớt rủi ro trong họat động kinh doanh nhờ đa dạng hóa đầu tư, tăng khả năng chịu đựng của ngân hàng trước những biến động của thị trường tài chính; cũng nhờ đó mà ngân hàng có thể tận dụng được những lợi thế của mình như nguồn vốn lớn, cơ sở vật chất hiện đại, hiểu biết về khách hàng để kinh doanh chứng khoán. Tuy nhiên, mô hình cũng bộc lộ những hạn chế. Vì bản chất là tổ chức tín dụng hoạt động đa năng nên khả năng chuyên môn không sâu như các công ty chứng khoán chuyên doanh khác. Mô hình chuyên doanh chứng khoán Theo mô hình này, hoạt động kinh doanh chứng khoán sẽ do các công ty độc lập và chuyên môn hóa trong lĩnh vực chứng khoán đảm nhiệm không liên quan gì tới các ngân hàng. Mô hình này cũng bộc lộ rõ ưu điểm như hạn chế được rủi ro cho hệ thống ngân hàng, tạo điều kiện cho các công ty chứng khoán chuyên môn hóa sâu trong lĩnh vực chứng khoán từ đó thúc đẩy thị trường phát triển. Nhưng trong thời gian tới với xu hướng hình thành những tập đoàn tài chính sẽ có nhiều nước cho phép hoạt động kinh doanh đa năng cả bên lĩnh vực tiền tệ, bảo hiểm,… song song với chứng khoán. 1.1.3. Phân loại công ty chứng khoán 1.1.3.1. Dựa vào loại hình tổ chức Hiện nay có ba loại hình tổ chức cơ bản của công ty chứng khoán đó là: Công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh Công ty cổ phần Công ty cổ phần là một pháp nhân độc lập, với các chủ sở hữu là các cổ đông. Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty. Giấy chứng nhận cổ đông của công ty không thể hiện trách nhiệm trả nợ của công ty mà thể hiện quyền lợi của người sở hữu đối với các tài sản của công ty. Người sở hữu giấy chứng nhận được gọi là cổ đông của công ty. Đại hội đồng cổ đông có quyền bầu bầu hội đồng quản trị của công ty. Hội đồng này sẽ đề ra các chính sách của công ty và chỉ định giám đốc cùng các chức vị quản lý khác để điều hành, quản lý công ty theo các chiến lược kinh doanh đã đề ra. Công ty vẫn tồn tại bình thường khi quyền sở hữu của công ty bị thay đổi Công ty hợp danh Là loại hình kinh doanh có từ hai chủ sở hữu trở lên Thành viên được tham gia vào quá trình ra quyết định tổ chức quản lý là các thành viên hợp danh. Các thành viên này chịu trách nhiệm vô hạn về những nghĩa vụ tài chính của công ty bằng toàn bộ tài sản của mình. Còn lại, các thành viên không tham gia quản lý công điều hành công ty gọi là thành viên góp vốn, họ chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn về các khoản nợ của công ty trong số vốn góp vào công ty trong giới hạn vốn góp của họ vào công ty. Công ty trách nhiệm hữu hạn Đây là loại hình công ty đòi hỏi trách nhiệm của các thành viên giới hạn trong số vốn mà họ đã góp vào công ty. Xét về phương tiện huy động vốn cũng đơn giản và linh hoạt hơn so với công ty hợp danh. Hơn nữa vấn đề tuyển đội ngũ quản lý cũng năng động hơn, không bị giới hạn bó hẹp trong một số đối tác như công ty hợp danh. 1.1.3.2. Phân loại theo hình thức kinh doanh Theo hình thức này thì có 6 loại công ty chứng khoán: Công ty đầu tư ngân hàng: Loại hình công ty này phân phối mới được phát hành qua công chúng thông qua việc mua chứng khoán do công ty cổ phần phát hành và bán lại cho công chúng theo giá tính gộp cả lợi nhuận của công ty. Vì vậy công ty còn được gọi là nhà bảo lãnh phát hành. Công ty môi giới: Hay còn được gọi là công ty thành viên vì nó là thành viên của sở giao dịch chứng khoán. Công việc chủ yếu của công ty môi giới chứng khoán là mua và bán chứng khoán cho khách hàng trên sở giao dịch mà công ty đó là thành viên. Công ty buôn bán chứng khoán không nhận hoa hồng: Công ty này nhận chênh lệch giá qua việc mua bán chứng khoán nên họ còn được gọi là nhà tạo lập thị trường. Công ty giao dịch phi tập chung: Công ty này mua bán chứng khoán trên thị trường phi tập chung ( OTC ). Hiện nay nhiều công ty có vốn lớn được nhà nước cho phép hoạt động trên cả ba lĩnh vực. Công ty buôn bán chứng khoán: Là công ty đứng ra mua bán chứng khoán với chi phí công ty tự chịu. Như vậy để có lãi công ty phải bán chứng khoán với giá cao hơn giá mua vào. Do đó công ty này hoạt động với vai trò là người uỷ thác chứ không phải là đại lý nhận uỷ thác. Công ty dịch vụ đa năng : Loại hình công ty này không bị giới hạn hoạt động ở một lĩnh vực nào của ngành công nghiệp chứng khoán. Ngoài các dịch vụ cơ bản họ còn cung cấp cho khách hàng dịch vụ niêm yết chứng khoán trên sở giao dịch chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán, uỷ nhiệm giao dịch chứng khoán cho khách hàng trên thị trường OTC. 1.1.4. Vai trò công ty chứng khoán Công ty chứng khoán là một nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế nói chung và của thị trường chứng khoán nói riêng. Nhờ các công ty chứng khoán mà thị trường hoạt động liên tục, hàng hóa của thị trường (cổ phiếu, trái phiếu, chứng khoán phái sinh,…) được lưu thông buôn bán trao đổi từ nhà phát hành tới các nhà đầu tư. Theo cơ chế này mà lượng vốn khổng lồ đã được huy động từ nguồn nhàn rỗi của công chúng để đem đầu tư sinh lời 1.1.4.1. Đối với thị trường chứng khoán: Thị trường chứng khoán hoạt động theo nguyên tắc trung gian, người mua và người bán không được gặp nhau trực tiếp để trao đổi về giá cả, hàng hóa mà phải tiến hành giao dịch thông qua công ty chứng khoán. Do đó, giá cả chứng khoán là do thị trường quyết định. Công ty chứng khoán là thành viên của thị trường cũng sẽ góp phần tạo lập giá cả. Khi các công ty phát hành chứng khoán lần đầu tiên, giá của chứng khoán sẽ do tổ chức phát hành và công ty chứng khoán bàn bạc, thống nhất. Trên thị trường thứ cấp, công ty chứng khoán với vai trò tạo lập thị trường cũng tham gia điều tiết giá. Chính vì vậy, giá cả của mỗi loại chứng khoán đều có sự can thiệp của công ty chứng khoán. Công ty chứng khoán góp phần tạo lập giá, điều tiết thị trường. Đôi khi để bảo vệ quyền lợi cho khách hàng, cho các nhà đầu tư hay cho chính bản thân mình, công ty chứng khoán dùng vốn của mình theo tỷ lệ nhất định để tiến hành giao dịch với mục đích là để bình ổn thị trường như khi giá chứng khoán giảm quá nhiều có thể gây ảnh hưởng xấu tới thị trường thì công ty mua vào và bán chứng khoán ra khi giá chứng khoán lên quá cao. Công ty chứng khoán làm tăng tính thanh khoản cho các tài sản tài chính. Dựa vào hoạt động bảo lãnh phát hành trên thị trường sơ cấp, công ty chứng khoán đã đưa vào thị trường lượng chứng khoán lớn và nó sẽ được giao dịch trên thị trường thứ cấp, chuyển đổi chứng khoán thành tiền mặt và ngược lại nhờ hoạt động mua đi bán lại của nhà đầu tư, tổ chức. Ngoài cổ phiếu (thường và ưu đãi) và trái phiếu, các công ty chứng khoán còn mua bán trái phiếu Chính phủ, chứng quyền, trái quyền, các hợp đồng tương lai, hợp đồng lựa chọn và các sản phẩm lai tạo đa dạng chủng loại; từ đó làm đa dạng lượng hàng hóa giao dịch cho thị trường. 1.1.4.2. Đối với các tổ chức phát hành: Các tổ chức phát hành khi tham gia vào thị trường chứng khoán đều với mục đích là huy động vốn từ việc phát hành chứng khoán. Mặc dù, các ngân hàng, các quỹ đầu tư… đều là các trung gian tài chính với vai trò huy động nhưng công ty chứng khoán với các nghiệp vụ của mình như môi giới, bảo lãnh phát hành đã tạo ra chiếc cầu nối, đồng thời là kênh dẫn cho vốn chảy từ nơi thừa vốn của nền kinh tế đến nơi thiếu vốn mà độ an toàn cao hơn. Bởi qua hoạt động bảo lãnh phát hành, nếu số chứng khoán không được bán hết thì công ty chứng khoán sẽ mua lại toàn bộ số chứng khoán còn để giao dịch sau, đảm bảo cho đợt phát hành thành công. Khi đó, tổ chức phát hành không phải lo lắng. Công ty chứng khoán còn giúp bình ổn giá của những chứng khoán mới phát hành qua việc mua vào hay bán ra chứng khoán. Tổ chức phát hành có thêm kênh huy động vốn chủ động mà không còn phụ thuộc nhiều vào các tổ chức tín dụng khác nữa, không còn lo lắng khi muốn huy động vốn mà không có tài sản đảm bảo nữa. Như vậy, công ty chứng khoán đã tạo ra cơ chế huy động vốn cho nền kinh tế thông qua thị trường chứng khoán. Nhờ các dịch vụ mà công ty chứng khoán cung cấp như tư vấn xác định giá trị doanh nghiệp, tư vấn cổ phần hóa… doanh nghiệp đã có những cách tiếp cận với phương thức quản lý mới, đánh giá được giá trị của doanh nghiệp mình từ đó có chiến lược phát triển mới cho phù hợp với nhu cầu của thị trường. 1.1.4.3. Đối với nhà đầu tư: Các nhà đầu tư luôn muốn có khả năng chuyển đổi chứng khoán có giá thành tiền mặt và ngược lại trong môi trường ổn định. Công ty chứng khoán bằng các nghiệp vụ của mình như môi giới, tư vấn, quản lý danh mục đầu tư đã làm giảm chi phí, thời gian giao dịch từ đó nâng cao hiệu quả đầu tư. Công ty chứng khoán với đầy đủ các dịch vụ tiện ích không chỉ nhận lệnh mà còn tư vấn, nghiên cứu, phân tích thị trường rồi cung cấp thông tin để khách hàng biết mà có quyết định đúng trong đầu tư; giảm thiểu rủi ro, nâng cao lợi nhuận. Với nghiệp vụ lưu ký chứng khoán của mình,công ty chứng khoán đã giúp đỡ nhà đầu tư rất nhiều trong việc nắm giữ và bảo quản chứng khoán. Nhà đầu tư đã giảm thiểu được những khả năng như bị mất cắp, mối mọt, rách nát hay cháy xém…Chứng khoán được cất giữ an toàn, tiện lợi cho nhà đầu tư. Công ty chứng khoán cũng cung cấp cho thị trường cơ chế xác lập giá thông qua hệ thống khớp giá hoặc khớp lệnh. Nhà đầu tư hoàn toàn có thể chủ động đặt giá một cách khách quan. Với các nguồn thông tin có được về thị trường, về tình hình kinh doanh của các công ty, về cơ chế giao dịch,…nhà đầu tư sẽ đánh giá được chính xác giá trị của các khoản đầu tư. 1.1.4.4. Đối với các cơ quan quản lý thị trường: Công ty chứng khoán có vai trò cung cấp đầy đủ thông tin về thị trường chứng khoán cho cơ quan quản lý. Việc cung cấp thông tin này là theo quy định của pháp luật, vừa là nguyên tắc nghề nghiệp của công ty chứng khoán vì công ty chứng khoán cần hoạt động minh bạch. Nguồn thông tin này công ty chứng khoán có được nhờ tư vấn phát hành cho các tổ chức, là trung gian mua bán chứng khoán, thực hiện các giao dịch trên thị trường chứng khoán. Dựa vào thông tin do công ty chứng khoán cung cấp, các cơ quan quản lý thị trường có thể kiểm soát, chống hiện tượng thao túng, lũng đoạn, bóp méo thị trường. Như vậy, công ty chứng khoán với tư cách là trung gian tài chính đóng vai trò quan trọng và cần thiết đối với các nhà đầu tư, tổ chức phát hành, cơ quan quản lý,và đối với thị trường chứng khoán nói chung. Những vai trò này được thể hiện rõ nét qua các nghiệp vụ hoạt động của công ty chứng khoán. 1.1.5. Khái quát những nghiệp vụ chính của một công ty chứng khoán 1.1.5.1. Nghiệp vụ môi giới chứng khoán Môi giới chứng khoán là hoạt động trung gian hoặc đại diện mua, bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng. Theo đó, công ty chứng khoán đại diện cho khách hàng tiến hành giao dịch thông qua cơ chế giao dịch tại SGDCK hay thị trường OTC mà chính khách hàng là người chịu trách nhiệm đối với kết quả giao dịch của mình. Thông qua hoạt động môi giới, công ty chứng khoán cung cấp các sản phẩm, dịch vụ tư vấn đầu tư và kết nối giữa nhà đầu tư bán chứng khoán với nhà đầu tư mua chứng khoán. Do đó môi giới chứng khoán cần có nhiều phẩm chất đạo đức, kỹ năng nghề nghiệp trong công việc; thái độ quan tâm tới khách hàng 1.1.5.2. Tự doanh chứng khoán Tự doanh là việc công ty chứng khoán tự tiến hành các giao dịch mua bán các chứng khoán cho chính mình. Hoạt động tự doanh của các công ty chứng khoán có thể được thực hiện trên thị trường OTC, trên thị trường giao dịch tập trung,…Đối với những thị trường vận hành theo cơ chế khớp giá, công ty chứng khoán đóng vai trò là nhà tạo lập thị trường nhờ hoạt động tự doanh. Mục đích của hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán là nhằm thu lợi cho chính mình. Tuy nhiên để đảm bảo tính minh bạch, sự ổn định của thị trường, các nước đều yêu cầu công ty chứng khoán phải đáp ứng một số yêu cầu sau: Do hoạt động tự doanh là công ty mua bán chứng khoán cho chính mình nên cần có nguồn vốn nhất định theo quy định của pháp luật. Ở Việt Nam vốn pháp định với hoạt động này là 12 tỷ đồng. Tự doanh họat động song hành cùng môi giới, vừa phục vụ lệnh cho khách hàng đồng thời phục vụ lệnh cho chính mình nên rất có thể dẫn đến xung đột về lợi ích. Do đó, cần tách biệt rõ ràng hai hoạt động này, cần ưu tiên thực hiện lệnh cho khách hàng trước. Nhân viên tự doanh cần có trình độ chuyên môn nhất định, có khả năng tự quyết cao và đặc biệt có tính nhạy cảm trong công việc. Bởi con người cũng là yếu tố quyết định đến sự thành công của hoạt động tự doanh. Bên cạnh đó, các công ty chứng khoán còn phải tuân thủ một số quy định khác như các giới hạn về đầu tư, lĩnh vực đầu tư,.. nhằm đảm bảo độ an toàn nhất định cho các công ty trong quá trình hoạt động, tránh đổ vỡ. 1.1.5.3. Đại lý phát hành, bảo lãnh phát hành chứng khoán Hoạt động bảo lãnh phát hành là việc công ty chứng khoán có chức năng bảo lãnh giúp tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, tổ chức việc phân phối chứng khoán và giúp bình ổn giá chứng khoán trong giai đoạn đầu sau khi phát hành Bảo lãnh phát hành bao gồm cả việc tư vấn đầu tư tài chính và phân phối chứng khoán. Tổ chức bảo lãnh được hưởng phí bảo lãnh hoặc một tỷ lệ hoa hồng nhất định trên số tiền thu được. Nên hoạt động này chiếm tỷ lệ doanh thu khá cao trong tổng doanh thu của các công ty chứng khoán. Việc bảo lãnh phát hành thường thực hiện theo một trong các phương thức sau: bảo lãnh với cam kết chắc chắn, bảo lãnh với cố gắng cao nhất, bảo lãnh theo phương thức tất cả hoặc không, bảo lãnh theo phương thức tối thiểu hoặc tối đa, bảo lãnh theo phương thức dự phòng. 1.1.5.4. Quản lý danh mục đầu tư Đây là một dạng hoạt động tư vấn của công ty chứng khoán nhưng ở mức độ cao hơn vì trong hoạt động này khách hàng ủy thác cho công ty chứng khoán thay mặt mình quyết định đầu tư theo một chiến lược hay những nguyên tắc đã được khách hàng chấp thuận. Đầu tư trên vốn ủy thác của khách hàng nhằm sinh lợi cho khách hàng trên cơ sở tăng lợi nhuận và bảo toàn vốn cho khách hàng. Thực hiện hoạt động này công ty chứng khoán vừa bảo quản hộ chứng khoán, vừa đầu tư hộ chứng khoán. Thông thường công ty chứng khoán nhận được phí quản lý bằng một phần trăm nhất định trên một số lợi nhuận thu về cho khách hàng. Họ cũng có thể nhận được những khoản tiền thưởng nhất định khi hoàn thành tốt nhiệm vụ. Trong khi quản lý tài sản cho khách hàng, công ty chứng khoán phải tuân thủ các điều kiện trong hợp đồng ký kết với khách hàng. Công ty chứng khoán xác định rõ với khách hàng là họ không đảm bảo về lợi nhuận đầu tư, mọi rủi ro của hoạt động đầu tư sẽ do khách hàng gánh chịu. Trong hợp đồng luôn xác định mức độ ủy quyền của khách hàng cho công ty. 1.1.5.5. Tư vấn và đầu tư chứng khoán Tư vấn và đầu tư chứng khoán là quá trình phân tích các cổ phiếu và đưa ra các lời khuyên liên quan đến chứng khoán, phân tích các tình huống và có thể thực hiện một số công việc liên quan đến phát hành, đầu tư và cơ cấu lại nguồn tài chính cho khách hàng. Trong hoạt động tư vấn, công ty chứng khoán cung cấp thông tin, cách thức đầu tư và loại chứng khoán nên đầu tư đối với từng đối tượng khách hàng của mình. Hoạt động này đòi hỏi người môi giới phải chuyên nghiệp và có nhiều kiến thức, kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ cũng như kinh nghiệm. Mặt khác, tính trung thực của công ty chứng khoán có tầm quan trọng rất lớn trong việc thu hút khách hàng. Thông thường hoạt động tư vấn đầu tư luôn đi kèm với các hoạt động khác như lưu ký chứng khoán, môi giới, bảo lãnh phát hành… 1.1.5.6. Các hoạt động phụ trợ Hoạt động lưu ký chứng khoán Đây là hoạt động lưu giữ và bảo quản chứng khoán của khách hàng thông qua các tài khoản lưu ký chứng khoán. Giao dịch chứng khoán trên thị trường tập trung là hình thức giao dịch ghi sổ, khách hàng phải mở tài khoản lưu ký chứng khoán tại các công ty chứng khoán hoặc ký gửi các chứng khoán. Công ty chứng khoán khi cung cấp dịch vụ này thì sẽ thu được một khoản phí lưu ký chứng khoán, phí gửi, phí rút và phí chuyển nhượng chứng khoán. Hoạt động quản lý thu nhập chứng khoán cho khách hàng Xét về bản chất thì đây chính là hoạt động quản lý cổ tức cho khách hàng, nó xuất phát từ hoạt động quản lý hộ chứng khoán cho khách hàng. Công ty chứng khoán lưu ký chứng khoán cho khách hàng, theo dõi tình hình thu lãi, cổ tức của khách hàng sau đó đứng ra cung cấp dịch vụ thu nhận và chi trả cổ tức cho khách hàng thông qua tài khoản của khách hàng. Công ty đều có báo cáo gửi khách hàng. Trên thực tế, các công ty chứng khoán thường không trực tiếp quản lý, không trực tiếp lưu ký một số loại chứng khoán tại chính mình mà lưu ký tại trung tâm lưu ký chứng khoán. Hoạt động tín dụng Đây là hoạt động thông dụng trên thị trường chứng khoán phát triển. Đối với thị trường mới nổi hoạt động này bị hạn chế khá nhiều. Công ty chứng khoán bên cạnh hoạt động môi giới chứng khoán để hưởng hoa hồng còn triển khai dịch vụ cho vay chứng khoán để khách hàng thực hiện giao dịch bán khống, cho cầm cố chứng khoán, cho vay tiền để thực hiện mua ký quỹ, ứng trước tiền bán chứng khoán cho khách hàng; giúp khách hàng có được tiền để kinh doanh chứng khoán. Hoạt động này cũng mang lại một nguồn thu nhập cho công ty chứng khoán; làm đa dạng hơn về các sản phẩm dịch vụ cung ứng giúp thị trường chứng khoán phát triển. Hoạt động quản lý quỹ Đối với hoạt động này thì tùy theo mỗi thị trường khác nhau có cho phép hay không. Công ty chứng khoán cử đại diện của mình để quản lý quỹ và sử dụng vốn và tài sản của quỹ đầu tư để đầu tư vào chứng khoán. Khi đó, công ty chứng khoán được thu khoản phí dịch vụ quản lý quỹ đầu tư. 1.2. Hoạt động môi giới của công ty chứng khoán 1.2.1. Khái niệm Hoạt động môi giới của công ty chứng khoán được hiểu là” họat động trung gian hoặc đại diện mua bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng phí hoặc hoa hồng”. Thông qua hoạt động môi giới, công ty chứng khoán sẽ chuyển đến khách hàng của mình các sản phẩm, dịch vụ tư vấn và kết nối giữa nhà đầu tư bán chứng khoán với nhà đầu tư mua chứng khoán. Trong nhiều trường hợp, hoạt động môi giới sẽ trở thành những người bạn, người chia sẻ những lo âu, căng thẳng và đưa ra những lời động viên kịp thời cho nhà đầu tư, giúp nhà đầu tư có những quyết định tỉnh táo. Và đôi khi nhân viên môi giới còn là những người bạn của khách hàng không chỉ trong đầu tư chứng khoán mà còn trong các lĩnh vực khác nữa. Hoạt động môi giới chứng khoán cũng hàm nghĩa nhiều nghiệp vụ khác nhau. Môi giới thông thường là hoạt động mà nhân viên môi giới sẽ thực hiện lệnh cho khách hàng và chỉ nhận phần phí hay hoa hồng được hưởng. Ở đây, chúng ta sẽ xem xét hoạt động môi giới là một giao dịch kinh doanh của một công ty chứng khoán, trong đó công ty chứng khoán đại diện cho khách hàng tiến hành giao dịch thông qua cơ chế giao dịch tại sở giao dịch chứng khoán hay trên thị trường OTC mà chính khách hàng phải chịu trách nhiệm về kết quả khi đưa ra quyết định giao dịch đó. 1.2.2. Đặc điểm hoạt động môi giới chứng khoán Môi giới là nghiệp vụ cơ bản của công ty chứng khoán. Nghiệp vụ môi giới có ý nghĩa quan trọng trong việc thu hút khách hàng và tạo dựng hình ảnh cho công ty chứng khoán. Nghiệp vụ này có những đặc điểm cơ bản sau: - Để thực hiện lệnh của khách hàng nhanh, đầy đủ và chính xác nhất, đòi hỏi công ty phải có một đội ngũ hỗ trợ cả về người và máy móc lớn. Người môi giới phải là người trải qua kỳ thi sát hạch, có tầm hiểu biết sâu rộng và giầu kinh nghiệm và được uỷ ban chứng khoán nhà nước cấp giấy phép hành nghề. Công ty chứng khoán là nơi đảm bảo các điều kiện vật chất bao gồm địa điểm, hệ thống máy móc nối mạng với sở giao dịch… - Độ rủi ro sẽ thấp vì khách hàng phải chịu trách nhiệm về kết quả giao dịch đem lại. Rủi ro mà nhà môi giới thường gặp là nhà môi giới khác hay khách hàng thường không thực hiện đúng nghiệp vụ, không thanh toán đúng thời hạn. - Thu nhập và chi phí khá ổn định: Với tư cách đại lý, công ty chứng khoán hưởng một tỷ lệ hoa hồng tính trên tổng giá trị giao dịch. Khoản hoa hồng này sau khi đã trừ đi các khoản chi phí giao dịch chính của công ty phần còn lại là thu nhập chính của công ty. Nhìn chung nguồn thu nhập này khá ổn định và chiếm một tỷ lệ khá cao trong tổng thu nhập của công ty. Ở các thị trường chứng khoán phát triển tỷ lệ hoa hồng này do mỗi công ty chứng khoán ấn định. Do vậy nó làm tăng tính cạnh tranh của các công ty chứng khoán trên thị trường. 1.2.3. Vai trò của hoạt động môi giới chứng khoán 1.2.3.1. Đối với nhà đầu tư Góp phần làm giảm chi phí giao dịch: Trên các thị trường khác, để tiến hành giao dịch người mua và người bán phải có cơ hội để gặp nhau để thẩm tra lại chất lượng hàng hoá và thoả thuận giá cả. Và để thực hiện được công việc này nhà môi giới phải bỏ ra một khoản chi phí nhất định tuỳ vào điều kiện thực tế. Tuy nhiên trên thị trường chứng khoán thì khoản chi phí đó là một con số hết sức khổng lồ về thu thập xử lý thông tin, đào tạo kỹ năng phân tích vầ tiến hành giao dịch trên một thị trường đấu giá tập chung nhưng hiệu quả của giao dịch là không chắc chắn và rủi ro cao. Sự có mặt của trung gian tài chính và sự chuyên môn hoá làm cầu nối cho bên mua và bên bán gặp nhau sẽ làm giảm đáng kể về chi phí. Như vậy, vai trò môi giới chứng khoán tiết kiệm chi phí giao dịch trên từng khâu và trên toàn bộ tổng thể thị trường giúp nâng cao tính thanh khoản của thị trường. Cung cấp thông tin và tư vấn cho khách hàng Công ty chứng khoán thông qua các nhân viên môi giới cung cấp cho khách hàng các báo cáo và khuyến nghị đầu tư. Mặc dù tư vấn đầu tư có thể là một nghiệp vụ riêng, với những yêu cầu về pháp lý và nghiệp vụ riêng song trong khuân khổ hoạt động môi giới chứng khoán với tư cách là một nguồn cung cấp dịch vụ đầy đủ, khả năng vấn là rất đáng kể. Nhà môi giới sử dụng những thông tin phân tích từ bộ phận nghiên cứu của công ty cung cấp cho khách hàng theo yêu cầu. Nếu không có những nhà môi giới người đầu tư sẽ phụ thuộc rất lớn vào các báo cáo thường niên, báo cáo hàng quý về các cổ phiếu mà mình nắm giữ, đôi khi thông tin có thể chậm chễ hoặc không chính xác. Cũng nhờ những nguồn thông tin thu thập và được xử lý công phu và tốn kém này, nhà tư vấn có đủ kiến thức và trở thành nhà tư vấn riêng cho khách hàng. Khi thị trường đã phát triển, hàng hoá phong phú và đa dạng, những chứng khoán phái sinh là công cụ đem đến cho khách hàng các sản phẩm được cải thiện và khi đó vai trò của nhà môi giới ngày càng quan trọng. Ngoài việc đề xuất cho khách hàng các chứng khoán và dịch vụ đơn thuần, nhà môi giới còn giới thiệu cho khách hàng các trái phiếu cổ phiếu mới phát hành, chứng chỉ quỹ đầu tư và các công cụ khác quan trọng hơn đề xuất các giải pháp kết hợp những chứng khoán đơn lẻ trong một danh mục đầu tư để có thể giảm thiểu rủi ro, tối đa hoá lợi nhuận cho khách hàng. Như vậy, mặc dù môi giới chứng khoán và tư vấn đầu tư chứng khoán là hai nghiệp cụ tách rời nhau theo nghĩa chúng được cấp chứng chỉ hành nghề riêng biệt, song trong hoạt động môi giới chứng khoán hàm lượng tư vấn đầu tư là khá cao. Người đầu tư hy vọng vao những người môi giới làm cho họ các công việc sau: Cho họ biết khi nào cần mua chứng khoán Cho họ biết khi nào cần bán chứng khoán Cho họ biết những gì đang diễn ra trên thị trường Từ các biểu đồ, các báo cáo tài chính và các số liệu nghiên cứu nhà môi giới phải quyết định những khoản đầu tư nào phù hợp nhất cho từng khách hàng của mình. Một nhà môi giới được xem là môi giới giỏi khi người đó có khả năng biến các thông tin thành các khuyến nghị đầu tư một cách hợp lý cho từng mục tiêu cụ thể của các khách hàng của mình. Mặt khác, người môi giới không chỉ là người đưa ra các lời khuyên về cách thức phân bổ tài sản để đáp ứng mục tiêu tài chính; hơn nữa tuỳ từng lúc nhà môi giới có thể là người bạn tin cậy, nhà tâm lý lắng nghe những câu hỏi liên quan đến tình trạng tài chính của khách hàng, trong một chừng mực có thể đưa ra các lời khuyên chính đáng. Đối với khách hàng ngoài nhu cầu được tư vấn về tài chính, những nhu cầu tâm lý liên quan đến vấn đề tài chính cũng quan trọng không kém, đôi khi họ gọi điện cho nhà môi giới chỉ là để chia sẻ, giải toả những căng thẳng về tâm lý. Cung cấp những sản phẩm và dịch vụ tài chính, giúp khách hàng thực hiện được những giao dịch theo yêu cầu và vì lợi ích của họ: Nhà môi giới nhận lệnh từ khách hàng và thực hiện giao dịch của họ. Quá trình này gồm hàng loạt các công việc: nhận lệnh từ khách hàng, thực hiện lệnh giao dịch của họ, xác định giao dịch và chuyển kết quả giao dịch cho khách hàng. Không những vậy khi giao dịch được hoàn tất nhà môi giới phải tiếp tục theo dõi tài khoản của khách hàng, đưa ra các khuyến cáo và cung cấp thông tin; theo dõi tài khoản để nắm bắt những thay đổi từ đó kịp thời thông báo cho khách hàng mà có thể dẫn ._.đến tình trạng thay đổi tài chính và mức độ chấp nhận rủi ro của khách hàng để từ đó đưa ra những khuyến cáo hay những chiến lược phù hợp. 1.2.3.2. Đối với công ty chứng khoán Bất kỳ công ty chứng khoán nào cũng có đội ngũ nhân viên đông đảo. Hoạt động của các nhân viên môi giới cũng đem lại nguồn thu nhập đáng kể cho các công ty chứng khoán. Các kết quả nghiên cứu cho thấy, ở những thị trường phát triển, 20% trong tổng số những nhà môi giới đã tạo ra 80% nguồn thu từ hoa hồng cho ngành. Nguồn thu của người bán hàng gồm: hoa hồng, các khoản tín dụng bán hàng, các khoản chênh lệch giá mua bán, các khoản chi phí cho các dịch vụ hoặc sản phẩm đặc biệt, các khoản thu do nỗ lực bán hàng của họ. Chính đội ngũ nhân viên này đã nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty, thu hút khách hàng và đa dạng hoá sản phẩm của công ty với sự lao động nghiêm túc để nâng cao kiến thức và phục vụ cho khách hàng. Trong lĩnh vực môi giới bất kể nó liên quan đến một công cụ tài chính nào, thường là mối quan hệ giữa một nhân viên môi giới với một khách hàng. Bởi vậy vai trò của nhà môi giới đối với bản thân công ty chứng khoán là rất quan trọng. Nhà môi giới làm việc trong công ty tạo nên uy tín, hình ảnh tốt của công ty nếu họ được khách hàng tín nhiệm và uỷ thác tài sản của mình. Từ đó góp phần đem lại thành công cho công ty. 1.2.3.3. Đối với thị trường Phát triển dịch vụ và sản phẩm trên thị trường: Nhà môi giới chứng khoán khi thực hiện vai trò làm trung gian giữa người mua ( khách hàng ) và người bán ( nhà phát hành ) có thể nắm bắt được nhu cầu của khách hàng và có thể phản ánh với người cung cấp sản phẩm và dịch vụ. Có thể nói hoạt động môi giới là một trong những nguồn cung cấp ý tưởng thiết kế sản phẩm và dịch vụ theo yêu cầu của khách hàng kết quả đó xét trong dài hạn là cải thiện đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ; nhờ đó đa dạng hoá được khách hàng từ đó thu hút được ngày càng nhiều nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội phục vụ cho chiến lược đầu tư phát triển của đất nước. Trong những thị trường mới phát triển, hàng hoá còn ít về số lượng và kém chất lượng, nếu tổ chức phát triển tốt, môi giới chứng khoán sẽ góp phần cải thiện đáng kể môi trường này. Cải thiện môi trường kinh doanh: - Góp phần hình thành nên nền văn hoá đầu tư: Trong những nền kinh tế mà môi trường đầu tư còn thô sơ thì người dân chưa có thói quen sử dụng số tiền nhàn rỗi của mình vào để đầu tư vào các tài sản tài chính trong khi đó nguồn vốn cần cho phát triển kinh tế lại thiếu trầm trọng. Để thu hút được đông đảo công chúng đầu tư, nhà môi giới tiếp cận với những khách hàng tiềm năng và đáp ứng nhu cầu của họ bằng các tài sản tài chính phù hợp cung cấp cho họ những kiến thức thông tin cập nhật để thuyết phục khách hàng mở tài khoản. Khi đó người có tiền nhàn rỗi sẽ thấy được lợi ích từ sản phẩm đem lại, họ sẽ tham gia đầu tư. Hoạt động môi giới chứng khoán đã thâm nhập sâu vào cộng đồng các doanh nghiệp và nhà đầu tư sẽ là một yếu tố quan trọng góp phần tạo nên văn hoá đầu tư 1) Ý thức và thói quen đầu tư trong cộng đồng vào các tài sản tài chính 2) Thói quen và kỹ năng sử dụng các dịch vụ đầu tư phổ biến là các dịch vụ môi giới chứng khoán 3) Môi trường pháp luật, sự hiểu biết và tuân thủ pháp luật - Tăng chất lượng và hiệu quả dịch vụ nhờ cạnh tranh: để thành công trong nghề môi giới chứng khoán, điều quan trọng là phải ngày càng thu hút được nhiều khách hàng tìm đến mở tài khoản tại công ty, giữ chân khách hàng đã có và quan trọng hơn cả là việc gia tăng tài sản cho khách hàng trên số vốn mà khách đã uỷ thác cho công ty. Từ đó có sự cạnh tranh giữa các nhà môi giới khiến cho họ không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trau dồi kiến thức, kỹ năng hành nghề; nghiêm chỉnh chấp hành các quy định của pháp luật và của công ty. Quá trình này đã nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động môi giới xét trên toàn cục. Đồng thời cũng do áp lực cạnh tranh nên công ty không ngừng cung cấp các sản phẩm, dịch vụ tốt cho khách hàng. 1.2.4. Quy trình của hoạt động môi giới chứng khoán Bước 1: mở tài khoản cho khách hàng Trước khi mua và bán chứng khoán qua hoạt động môi giới, khách hàng phải mở một tài khoản giao dịch tại công ty chứng khoán. Khách hàng được hướng dẫn thủ tục mở tài khoản: điền thông tin vào “ Giấy mở tài khoản ” bao gồm các thông tin theo luật pháp quy định và các thông tin khác tuỳ theo yêu cầu của công ty chứng khoán. Bộ phận quản lý tài khoản khách hàng của công ty phải kiểm tra tính chính xác của thông tin, đồng thời trong quá trình hoạt động của tài khoản những thay đổi của thông tin cũng cần được cập nhật. Tài khoản giao dịch hiện nay có thể chia thành nhiều loại khác nhau như: - Tài khoản tiền mặt là loại tài khoản thông dụng nhất, giống như tài khoản tiền gửi thanh toán của các ngân hàng thương mại. Khách hàng có thể mua bán bất kỳ loại chứng khoán nào qua tài khoản này. Tuy nhiên loại tài khoản này yêu cầu khách hàng phải trả đủ tiền trước khi nhận được chứng khoán. - Tài khoản ký quỹ hay tài khoản bảo chứng: là loại tài khoản dùng để mua bán chứng khoán có ký quỹ. Theo đó, để mua chứng khoán, khách hàng chỉ cần ký quỹ một tỷ lệ % tiền trên giá trị chứng khoán muốn mua, số còn lại khách hàng có thể vay công ty chứng khoán thông qua tài khoản bảo chứng. Trong dịch vụ này, khách hàng phải chịu một lãi xuất khá cao, thường là cao hơn lai xuất cho vay của ngân hàng, ngược lai khách hàng có thể mua số lượng chứng khoán có giá trị lớn hơn nhiều so với số tiền đã ký quỹ. Sau khi mở tài khoản, công ty chứng khoán sẽ cung cấp cho khách hàng một mã số tài khoản và một mã số truy cập vào tài khoản để kiểm tra khi cần thiết. Bước 2: Nhận lệnh của khách hàng: Mỗi lần giao dịch, khách hàng phải phát lệnh theo mẫu in sẵn. Lệnh giao dịch khách hàng phải điền đầy đủ các thông tin quy định trong mẫu có sẵn. Đó là những điều kiện bảo đảm an toàn cho công ty chứng khoán cũng như tạo điều kiện cho khách hàng yên tâm khi phát lệnh. Việc phát lệnh có thể theo hình thức trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua điện thoại, telex, fax, hay hệ thống máy tính điện tử… tuỳ thuộc vào mức độ phát triển của thị trường. Mẫu lệnh phải bao gồm các thông tin sau: Lệnh mua hay lệnh bán: thông thường từ “mua” hay “bán” không được viết ra mà người ta dùng chữ cái “B” hay “S” để thể hiện. Hầu hết các thị trường chứng khoán sử dụng các lệnh mua bán được in sẵn. Hai mẫu lệnh này được in bằng hai mầu mực khác nhau hay trên hai mầu giấy khác nhau để dễ phân biệt. Số lượng các chứng khoán: số lượng này được thể hiện bằng các con số. Một lệnh có thể thực hiện kết hợp giữa giao dịch một lô chẵn và một lô lẻ Mô tả chứng khoán được giao dịch (tên hay ký hiệu): Tên của chứng khoán có thể được viết ra hoặc viết tắt hay thể hiện bằng ký hiệu, biểu hiện được mã hoá và đăng ký trước. Số tài khoản của khách hàng, tên tài khoản, ngày giao dịch và đưa ra lệnh. Giá các loại lệnh giao dịch mà khách hàng yêu cầu (lệnh thị trường, lệnh giới hạn, lệnh dừng, lệnh dừng giới hạn…). Nếu là lệnh bán công ty chứng khoán sẽ yêu cầu khách hàng đưa ra số chứng khoán muốn bán để kiểm tra trước khi thực hiện lệnh hoặc đề nghị khách hàng ký quỹ một phần số chứng khoán cần bán theo một tỷ lệ nhất định do Uỷ ban chứng khoán quy định. Trong trường hợp chứng khoán của khách hàng đã được lưu ký, công ty sẽ kiểm tra trên số tài khoản của khách hàng đã lưu lý. Nếu là lệnh mua, công ty chứng khoán sẽ yêu cầu khách hàng phải ký quỹ một số tiền nhất định trên tài khoản của khách hàng ở công ty. Khoản tiền này được tinh trên một tỷ lệ % giá trị mua theo lệnh. Bước 3: Thực hiện lệnh: Trên cơ sở của khách hàng công ty sẽ kiểm tra các thông tin trên lệnh, kiểm tra thị trường thực hiện, kiểm tra số tiền ký quỹ. Sau đó công ty chuyển lênh tới sở giao dịch để thực hiện. Trên thị trường tập chung, lệnh giao dịch của khách hàng sẽ được chuyển đến Sở giao dịch chứng khoán. Các lệnh được khớp với nhau dểd hình thành giá cả cạnh tranh của thị trường tuỳ theo phương thức đấu giá của thị trường. Trên thị trường OTC, việc mua bán chứng khoán sẽ được dựa trên cơ sở thoả thuận giữa khách hàng và công ty chứng khoán nếu côn ty này là nhà tạo lập thị trường. Bước 4: Xác nhận kết quả thực hiện lệnh Sau khi thực hiện lệnh xong công ty chứng khoán gửi cho khách hàng một bản xác nhận những lệnh nào của khách hàng được thực hiện. Xác nhận này giống như một hoá đơn thanh toán tiền của khách hàng. Bước 5: Thanh toán bù trừ giao dịch: Việc thanh toán bù trừ chứng khoán được thực hiện dựa trên cơ sở tài khoản của các công ty chứng khoán tại các ngân hàng. Đối với việc đối chiếu bù trừ chứng khoán do trung tâm lưu ký chứng khoán thực hiện thông qua hệ thống tài khoản lưu ký chứng khoán. Việc bù trừ kết quả giao dịch chứng khoán sẽ được kết thúc bằng việc in ra các chứng từ thanh toán. Các chứng từ này được gửi cho các công ty chứng khoán là cơ sở để thực hiện thanh toán và giao nhận giữa các công ty chứng khoán. Bước 6: Thanh toán và nhận chứng khoán: Đến ngày thanh toán, công ty chứng khoán sẽ thanh toán tiền cho khách hàng thông qua hệ ngân hàng chỉ định thanh toán và giao chứng khoán thông qua hình thức chuyển khoản tại trung tâm lưu ký chứng khoán. Sau khi hoàn tất các thủ tục giao dịch tại Sở giao dịch, công ty chứng khoán sẽ thanh toán tiền cho khách hàng thông qua hệ thống tài khoản giao dịch của khách hàng mở tại công ty chứng khoán 1.2.5. Nguyên tắc hoạt động môi giới chứng khoán Bất kỳ một ngành nghề nào hoạt động cũng đều có nguyên tắc riêng. Môi giới chứng khoán là hoạt động trong nền kinh tế thị trường phát triển, là sản phẩm của thị trường bậc cao với nhiều nét đặc trưng riêng lại càng cần có nguyên tắc áp dụng khi thực hiện. Ta có thể kể đến những nguyên tắc chung sau: Hoạt động môi giới phải tuân thủ theo các quy định của pháp luật hiện hành về chứng khoán và thị trường chứng khoán, phải tuân thủ các quy định của công ty và tuân thủ quy tắc ứng xử và đạo đức nghề nghiệp. Người lãnh đạo công ty chứng khoán phải chỉ đạo thực hiện họat động môi giới trong phạm vi, quy mô phù hợp với tình hình thị trường, tiềm lực tài chính và năng lực, trình độ của nhân viên môi giới, nhân viên giao dịch, đảm bảo an toàn, hiệu quả, kiểm soát được rủi ro. Phải có sự quản lý tách bạch tiền và chứng khoán của từng khách hàng, sử dụng tiền và chứng khoán trên tài khoản của khách hàng theo đúng hợp đồng đã ký. Người môi giới là đại diện của khách hàng khi thực hiện giao dịch nên: + Hoạt động môi giới của công ty chứng khoán chỉ được thực hiện khi công ty ký hợp đồng bằng văn bản với khách hàng. + Chỉ được thực hiện lệnh của khách hàng, khi khách hàng có đủ các điều kiện về tiền hoặc chứng khoán ký quỹ theo quy định. + Phải ưu tiên thực hiện lệnh của khách hàng trước lệnh của công ty và của nhân viên môi giới. Người môi giới là đại diện của công ty khi tiếp xúc khách hàng nên phải luôn thận trọng khi tư vấn và nhắc nhở khách hàng. + Giá trị cuả chứng khoán luôn thay đổi theo các yếu tố kinh tế và tâm lý; + Những lời tư vấn có thể là hoàn toàn không chính xác; + Khách hàng cần được biết công ty chứng khoán không chịu trách nhiệm về những lời tư vấn; + Phải cung cấp đầy đủ, kịp thời, chính xác thông tin thị trường cho khách hàng, bảo mật thông tin cho khách hàng, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Người môi giới cần phải tuân theo các quy tắc ứng xử và đạo đức nghề nghiệp trong hoạt động môi giới: + Phải cẩn trọng khi hành nghề: phải hiểu rõ khách hàng về thông tin cá nhân cơ bản, về tình hình tài chính, mục tiêu đầu tư; trên cơ sở đó phải tư vấn phù hợp cho khách hàng; + Phải trung thực, công bằng trong họat động môi giới: phải ưu tiên lợi ích của khách hàng; phải tôn trọng tài sản của khách hàng, bảo vệ quyền lợi của khách hàng; phải cung cấp thông tin đầy đủ và chính xác cho khách hàng, đặc biệt không gợi ý khách hàng mua bán vì lợi ích riêng, không thúc giục khách hàng mua bán quá nhiều một loại chứng khoán; không đưa ra những lời hứa hẹn đảm bảo lợi ích của khách hàng sẽ nhận được; không có hành vi và biểu hiện có thể gây ra sự hiểu lầm về sự trung thực, độ tin cậy cho khách hàng; + Hoạt động phải mang tính chuyên nghiệp: nhân viên thực hiện theo đúng yêu cầu của khách hàng, tuân theo quy định về nghiệp vụ, quy định khác của công ty. Đặc biệt người môi giới cần phải thường xuyên học tập nâng cao kiến thức về chuyên môn nghiệp vụ; + Phải bảo mật: bảo quản hồ sơ, tài liệu của khách hàng; không được thảo luận bất kỳ thông tin nào về khách hàng với người không có liên quan; không sử dụng thông tin của khách hàng dưới bất cứ hình thức nào để tác động tới các giao dịch vì lợi ích của nhân viên môi giới, của công ty hay của khách hàng khác. Bên cạnh đó, hoạt động môi giới chứng khoán còn có quy định rõ về hành vi bị cấm không được thực hiện. Đó là: Chỉ những người đã được cấp giấy phép hành nghề hay được công ty cho phép mới được thực hiện các giao dịch cho khách hàng. Không được sử dụng những thông tin nội bộ để mua, bán chứng khoán cho chính mình hoặc cho bên thứ ba; Không được tiết lộ, cung cấp thông tin nội bộ hoặc tư vấn cho bên thứ ba mua, bán chứng khoán trên cơ sở thông tin nội bộ; Không được giao dịch chứng khoán mà không thay đổi quyền sở hữu chứng khoán; Không được thông đồng để thực hiện việc mua, bán chứng khoán nhằm tạo cung cấp giả tạo; Không được tham gia lôi kéo người khác liên tục mua, bán thao túng giá chứng khoán; Không được tạo dựng truyền bá thông tin sai sự thật, gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới các họat động giao dịch chứng khoán; Không được làm trái lệnh của khách hàng hoặc không cung cấp xác nhận giao dịch theo quy định hay tự ý mua, bán chứng khoán trên tài khoản của khách hàng; Không được có quan hệ tài chính cá nhân với khách hàng, nếu có phải công khai báo cáo với công ty; Không được nhận ủy quyền của khách hàng để quyết định lựa chọn chủng loại, số lượng, giá cả chứng khoán và thực hiện các giao dịch mua bán trên tài khoản giao dịch chứng khoán của khách hàng mở tại công ty chứng khoán đó; Không được nhận bất cứ khoản thù lao nào ngoài việc thu phí môi giới của khách hàng theo quy định của công ty; Không được có hành vi nào có thể gây hiểu lầm về giá cả, giá trị và bản chất của bất kỳ loại chứng khoán nào; Không được mượn danh nghĩa của khách hàng để mua, bán chứng khoán hoặc có hành vi khác làm thiệt hại đến lợi ích của khách hàng; Không được lợi dụng vị trí, công việc, quyền hạn và nhiệm vụ của mình để làm lợi cá nhân, gây thiệt hại về uy tín, tài sản của công ty chứng khoán, thực hiện các hành vi bị cấm khác theo quy định của công ty và của pháp luật có liên quan hiện hành 1.2.6. Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động môi giới chứng khoán 1.2.6.1. Nhân tố chủ quan Đây là những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả hoạt động môi giới của công ty chứng khoán. Những nhân tố này xuất phát từ chính bản thân công ty; nó thúc đẩy hay cản trở sự phát triển của hoạt động môi giới Vốn Để tiến hành hoạt động kinh doanh, bất cứ doanh nghiệp nào cũng cần phải có vốn. Riêng kinh doanh chứng khoán thì ngoài các điều kiện về chuyên môn còn có điều kiện về tài chính. Ở Việt Nam quy định phải có vốn tối thiểu là bằng vốn pháp định. Đối với họat động môi giới của công ty chứng khoán vốn pháp định là 3 tỷ đồng. Tuy nhiên, nếu công ty mà có nhiều vốn đầu tư cho hoạt động này thì hiệu quả chắc chắn sẽ cao hơn nhiều. Bởi hoạt động môi giới đòi hỏi khá nhiều chi phí khi hoạt động. Đó là: Chi phí cho máy móc thiết bị về công nghệ thông tin vì hệ thống giao dịch của toàn thị trường diễn ra liên tục, thay đổi trên diện rộng. Hay máy móc phục vụ cho tìm kiếm, phân tích thông tin,… Chi phí để đào tạo và duy trì đội ngũ nhân viên môi giới lành nghề. Chi phí nghiên cứu thị trường, khách hàng để xây dựng các sản phẩm, dịch vụ cung cấp cho phù hợp. Chi phí cho hoạt động Marketing, quảng cáo, tìm kiếm khách hàng,… Ngoài ra, vốn điều lệ cũng là một vấn đề bất cứ ai cũng quan tâm đến. Bởi vốn này lớn sẽ tạo niềm tin cho khách hàng là công ty hay họat động đó mới có thể thực hiện tốt được, mới có thể mở rộng mạng lưới chi nhánh thu hút khách hàng. Khi nhà đầu tư tìm đến với công ty có vốn lớn họ cũng kỳ vọng rằng nhu cầu của họ cũng được đáp ứng hiệu quả nhất. Yếu tố con người Một công ty có đội ngũ nhân viên với số lượng phù hợp, chuyên môn cao, tận tâm với công việc thì chắc chắn doanh nghiệp đó sẽ thành công. Còn đối với hoạt động môi giới chứng khoán mang nhiều nét đặc trưng như vậy thì đòi hỏi về yếu tố con người càng cao hơn. Người môi giới chứng khoán không chỉ nắm vững kiến thức chuyên môn, kiến thức xã hội mà cả những kỹ năng làm việc, những phẩm chất khác nữa. Hoạt động môi giới không chỉ đòi hỏi số lượng lao động lớn hơn các hoạt động nghiệp vụ chứng khoán khác mà còn đòi hỏi về chất lượng, về tư cách đạo đức, tác phong làm việc…Tuy không nhất thiết phải là người được đào tạo với bằng cấp chuyên môn về chứng khoán nhưng đòi hỏi họ phải say mê với chứng khoán, thích tìm hiểu về chứng khoán và đặc biệt phải nắm vững và thuần thục bốn kỹ năng cơ bản. Vì những kỹ năng đó họ vận dụng thường xuyên khi hành nghề. Công ty chứng khoán có đội ngũ nhân lực mạnh tất yếu sẽ góp phần không nhỏ tạo nên thành công lớn. Cơ sở hạ tầng, vật chất kỹ thuật Cơ sở vật chất có ý nghĩa rất quan trọng trong hoạt động của các công ty chứng khoán. Là trung gian mua bán chứng khoán cho khách hàng. Các công ty chưng khoán phải có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, để đảm bảo việ tiếp nhận và thực hiện các yêu cầu của khách hàng một cách nhanh tróng và chính xác. Vì thị trường chứng khoán luôn nhạy cảm với sự biến đổi của nền kinh tế xã hội trong nước và quốc tế, do đó nếu công ty chứng khoán không có đủ trang thiết bị cần thiết để thu thập và xử lý thông tin thì không thể bảo vệ quyền lợi cho khách hàng.Các nhân viên môi giới sẽ không có đủ các thông tin cần thiết để thực hiện tư vấn và cung cấp các sản phẩm dịch vụ tốt nhất cho khách hàng. Môi giới chứng khoán tuy có thể môi giới tại bất cứ địa điểm nào nhưng nếu công ty chứng khoán mà có cơ sở hạ tầng tốt, trụ sở đẹp cũng thu hút được khách hàng, tạo nên sự thành công. Sự phát triển của các hoạt động khác Không có một hoạt động nào hoạt động độc lập một mình mà thành công. Nó luôn cần có sự hỗ trợ từ các hoạt động khác nữa. Đối với lĩnh vực chứng khoán cũng vậy. Hoạt động môi giới không thể tách dời với các họat động khác trong công ty. Hoạt động marketing, quảng cáo của công ty sẽ tăng cường hình ảnh của công ty, sẽ có nhiều người biết đến thương hiệu đó. Dẫn đến làm gia tăng lượng khách hàng cho bộ phận môi giới. Bộ phận phân tích cũng có thể cung cấp nguồn thông tin đã qua xử lý cho nhân viên môi giới hay họ có thể nghiên cứu những sản phẩm, dịch vụ mới cung cấp cho bộ phận môi giới để làm việc với khách hàng. Khách hàng đến với công ty nhiều phần lớn là nhờ vào sản phẩm, dịch vụ cung cấp đa dạng, phong phú, đáp ứng được nhu cầu của đông đảo khách hàng. Vì vậy, hoạt động môi giới làm được tốt là nhờ vào các bộ phận khác. Bên cạnh đó, hoạt động môi giới cũng tác động làm cho bộ phận khác phát triển. Hoạt động môi giới sẽ chính là nơi cung cấp ý tưởng cho hoạt động nghiên cứu dịch vụ mới. Bởi chính họ trực tiếp tiếp xúc với khách hàng nhiều nhất, hiểu về nhu cầu cũng như mục tiêu của khách hàng. Như vậy, các hoạt động luôn tác động trở lại lẫn nhau để tạo điều kiện cho nhau phát triển. 1.2.6.2 Nhân tố khách quan Đây là những nhân tố ảnh hưởng gián tiếp đến hoạt động môi giới. Những nhân tố này công ty chứng khoán không thể kiểm soát được. Hầu hết hoạt động môi giới của tất cả các công ty đều phải chịu tác động của nó. Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng lớn hay nhỏ tùy thuộc khả năng điều chỉnh của chính công ty. Sự phát triển của thị trường chứng khoán Thị trường chứng khoán phát triển thì công ty chứng khoán, hoạt động môi giới cũng mới phát triển theo được. Bởi đây là những bộ phận con nằm trong tổng thể chung là thị trường chứng khoán. Thị trường phát triển thể hiện ở những mặt như: hàng hóa phong phú, đa dạng cả về mặt lượng lẫn chất; số lượng nhà đầu tư tham gia thị trường đông đảo; cơ cấu và tổ chức thị trường đã hoàn chỉnh… Thị trường có phát triển thì mới có môi trường tốt cho môi giới phát triển, mới có cơ sở, nguồn thông tin phong phú cho nhân viên môi giới cung cấp cho khách hàng, hoàn thành tốt công việc. Hệ thống pháp luật Bất cứ một hoạt động nào cũng cần tuân theo các quy định của pháp luật, đều chịu sự điều chỉnh của hệ thống pháp luật. Đặc biệt, môi giới chứng khoán ngay từ bản chất của nó đã thể hiện là nghề với những tranh chấp lợi ích không thể tránh khỏi. Bởi hoạt động môi giới có ảnh hưởng tới lợi ích của nhiều người, liên quan tới nhiều vấn đề khó có thể nhìn nhận bằng mắt thường. Do đó, hoạt động này cần có sự điều chỉnh lớn của hệ thống pháp luật, có sự nhất quán của các văn bản luật. Có như vậy thì hoạt động môi giới mới phát triển lành mạnh được. Trình độ, sự hiểu biết về chứng khoán của công chúng đầu tư Khi nhà đầu tư hiểu biết về chứng khoán, về cách thức giao dịch, ưu và nhược điểm của thị trường chứng khoán họ sẽ tham gia thị trường tích cực hơn. Họ sẽ tìm đến đầu tư vào chứng khoán chứ không phải là loại hình đầu tư nào khác. Người môi giới cũng dễ dàng hơn khi tìm kiếm khách hàng, khi tư vấn và giới thiệu về thị trường, về chứng khoán. Mặt khác, khi nhà đầu tư có trình độ người môi giới có giải thích, tư vấn cũng sẽ được tiếp nhận một cách nhanh chóng, họ cũng dễ dàng tạo nên được sự đồng cảm ở nhau. Sự cạnh tranh của các công ty chứng khoán khác Các công ty chứng khoán đều có nghiệp vụ môi giới chứng khoán. Hoạt động này đã được triển khai từ những ngày đầu của thị trường chứng khoán. Công ty chứng khoán cũng không chỉ cung cấp những hoạt động thông thường như nhận lệnh của khách mà còn cung ứng rất nhiều dịch vụ tiện ích khác. Tất cả đều có sự cạnh tranh lẫn nhau: về mức độ tiện ích, về chi phí để hưởng dịch vụ, về sự đa dạng phong phú ở mỗi công ty… Khách hàng là một yếu tố có giới hạn về số lượng. Khách hàng đã tìm đến công ty này sẽ không thể tìm đến công ty khác nữa. Do đó, hoạt động môi giới của công ty chứng khoán luôn không ngừng cải thiện, nâng cao chất lượng để cạnh tranh với các công ty khác. Các nhân tố khác Bên cạnh ảnh hưởng của những nhân tố trên, hoạt động môi giới của công ty chứng khoán còn chịu sự tác động của các yếu tố khác như hoạt động của các cơ quan quản lý Nhà nước, cơ quan quản lý thị trường, các hiệp hội chứng khoán, hiệp hội nhà đầu tư… Các chính sách, quy định của mỗi tổ chức này cũng ít nhiều ảnh hưởng đến hoạt động môi giới. CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG MÔI GIỚI CHỨNG KHOÁN TẠI CÔNG TY CHỨNG KHOÁN APECs 2.1. Khái quát về CTCK APECs 2.1.1. Giới thiệu chung về CTCK APECs Công ty Cổ phần Chứng khoán APEC được thành lập theo quyết định số 37/UBCK-GPHĐKD ngày 26/12/2006 của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước. Đi vào hoạt động với vốn điều lệ 60 tỷ đồng và hoạt động trên thị trường Việt Nam. APEC ra đời trong bối cảnh thị trường chứng khoán đang phát triển mạnh mẽ. Trụ sở chính đặt tại số 66, Ngô Thì Nhậm, Quận Hai Bà Trưng, Thành phố Hà Nội. Ngày 02 tháng 01 năm 2007: Công ty Chứng khoán Châu Á- Thái Bình Dương chính thức là thành viên lưu ký của Trung tâm Lưu ký Chứng khoán thuộc Ủy ban Chứng khoán Nhà nước Ngày 23 tháng 01 năm 2007: Công ty Chứng khoán Châu Á- Thái Bình Dương trở thành thành viên của Trung tâm giao dịch Chứng khoán Hà Nội Ngày 26 tháng 02 năm 2007: Công ty Chứng khoán Châu Á- Thái Bình Dương trở thành thành viên của Trung tâm giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh Ngày 19 tháng 07 năm 2007: Công ty Cổ phần Chứng khoán Châu Á- Thái Bình Dương thay dời Trụ sở chính đến tầng 8, Tòa nhà Trung tâm thương mại Quốc tế, số 9 Đào Duy Anh, Phường Phương Liên, Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội . Ngày 01 tháng 10 năm 2007: Công ty Cổ phần Chứng khoán Châu Á- Thái Bình Dương tăng vốn điều lệ lên 80.000.000.000 đồng Ngày 12 tháng 11 năm 2007: Công ty Cổ phần Chứng khoán Châu Á- Thái Bình Dương chính thức khai trương đại lý nhận lệnh thứ 15 tại VP3 Hoàng Đạo Thúy, Trung Hòa Nhân Chính, Thành phố Hà Nội. Tên công ty : Công ty cổ phần chứng khoán Châu á – Thái Bình Dương Tên tiếng Anh : Asia-Pacific Securities Joint Stock Company. Viết tắt : APEC Securities Slogan : Đối tác tin cậy Địa chỉ :Tầng 8 tòa nhà VCCI, số 9 Đào Duy Anh, Đống Đa, Hà Nội Điện thoại : (84-04) 5730200 Fax: (84-04) 5771966 Website : www.apec.com.vn Vốn điều lệ : 80.000.000.000 VNĐ (đến ngày 30/10/2007) 2.1.1.2. Chi nhánh và đại lý nhận lệnh APEC Securities – Hội sở chính Tầng 8 tòa nhà VCCI, số 9 Đào Duy Anh, Quận Đống Đa, Hà Nội, Việt Nam ĐT: 84.4 5730200 Fax: 84.4 5771966 APEC Chi nhánh Hà Nội 66 Ngô Thì Nhậm, Hà Nội, Việt Nam ĐT: 84.4 9446240 Fax: 84.4 9446239 Email: apecntn@apec.com.vn APEC Chi nhánh Hồ Chí Minh 6B Lê Quý Đôn, TP Hồ Chí Minh, Việt Nam ĐT: 84.8 9306568 Fax: 84.8 9306543 Email: Hcm@apec.com.vn  APEC Huế Sai Gon Morin Hotel, 30 Lê Lợi, Huế, Việt Nam ĐT: 84.54 882882 Fax: 84.54 882881 Email :Apechue@apec.com.vn APEC Hải Phòng Tầng 4, số 09 Nguyễn Tri Phương, Hải Phòng, Việt Nam ĐT: 84.313 569968 Fax: 84.313 569967 Email: apechp@apec.com.vn APEC Việt Trì Khách sạn Hà Nội, 2191 Đại lộ Hùng Vương, Việt Trì, Phú Thọ, Việt Nam ĐT: 84.210 816123 Fax: 84.210 816367 Email: dailyviettri@apec.com.vn APEC Thanh Hóa Tầng 3 Thanh Hoa Plaza JSC, 27-29 Lê Đại Hành, Thanh Hóa, Việt Nam ĐT: 84.373 754224 Fax: 84.373 252336 Email: apecthanhhoa@apec.com.vn APEC Thái Nguyên 133 Bắc Kạn, Thái Nguyên, Việt Nam ĐT: 84. 0280-854045 Email: apecthainguyen@apec.com.vn APEC Vinh Tầng 3, số 33 Lê Mao, Vinh, Nghệ An, Việt Nam ĐT: 84.383 583799 Fax: 84.383 583798 Email : apecvinh@apec.com.vn APEC Đà Nẵng 03 Đống Đa, Đà Nẵng, Việt Nam ĐT: 84.5113 898666 Fax: 84.5113 898667 Email: apecdanang@apec.com.vn APEC Quy Nhơn 115 Nguyễn Du, Quy Nhơn, Bình Định, Việt Nam Tel: 84.56 252426 Fax: 84.56 252427 Email : apecquynhon@apec.com.vn APEC Gia Lâm 15 Nguyễn Văn Cừ, Long Biên, Hà Nội ĐT: 84.4 8736192 Fax: 84.4 2613192 Email : apecgialam@apec.com.vn APEC Hải Dương 02 Hoàng Hoa Thám, Hải Dương, Việt Nam ĐT: 84.320 3843333 Fax: 84.320 3844644 Email : apechaiduong@apec.com.vn APEC Vũng Tàu 36 Quang Trung, Vũng Tàu, Việt Nam ĐT: 84.64 512930 Fax: 84.64 512933 Email : apecvungtau@apec.com.vn APEC Trung Hòa – Nhân Chính VP3 Hoàng Đạo Thúy, Trung Hòa Nhân Chính, Hà Nội, Việt Nam ĐT: 84.4 2815331 Fax: 84.4 2815336 Email : apectrunghoa@apec.com.vn APEC Móng Cái Khách sạn Móng Cái, Móng Cái, Việt Nam ĐT: 84.33 772306 Email : apecmongcai@apec.com.vn APEC Gia Lai Chuhrong, Pleiku, Gia Lai, Việt Nam ĐT: 84.59 820288 Fax: 84.59 211726 Email : apecgialai@apec.com.vn APEC Dak Nông 12 Hai Bà Trưng, Gia Nghĩa, Dak Nông ĐT: 84.978838379 Email : apecdaknong@apec.com.vn APEC 3 Tháng 2 Số 03 đường 3 Tháng 2, Quận 10, Thành phố HCM, Việt Nam ĐT: 84 8 2906289 Fax: 84 8 2906249 Email : apec3thang2@apec.com.vn 2.1.2. Các dịch vụ chủ yếu Môi giới: Giúp nhận lệnh giao dịch mua bán cổ phiếu, trái phiếu cho khách hàng; cung cấp các dịch vụ phụ trợ cho khách hàng như dịch vụ cho vay cầm cố, dịch vụ ứng trước tiền bán chứng khoán, dịch vụ ứng tiền cổ tức, dịch vụ trả lời tự động qua điện thoại, dịch vụ tư vấn đầu tư…Hoạt động này cũng đều được thực hiện ở cả TP Hồ Chí Minh và Hà Nội. Tự doanh: Đây là hoạt động đem lại nguồn thu nhập và là hoạt động chủ yếu của công ty. Công ty thực hiện tự doanh trái phiếu và cổ phiếu ở cả trụ sở chính và chi nhánh; còn các đại lý chỉ giúp tìm kiếm khách hàng là các doanh nghiệp cổ phần hoá có tiềm năng phát triển để từ đó công ty có hướng đầu tư; giúp nhận lệnh…Hoạt động này công ty cũng có quy trình tự doanh riêng để đảm bảo an toàn và hiệu quả. Công ty thực hiện mua trái phiếu Chính phủ, công trái, trái phiếu công ty, các loại cổ phiếu niêm yết và chưa niêm yết với giá cả hợp lý, thủ tục nhanh gọn. Hoạt động tự doanh trái phiếu được thực hiện ở 2 hình thức là mua bán đứt và mua bán có kỳ hạn. Hoạt động có quy mô lớn thường vài chục đến vài trăm tỷ đồng. Đại lý, bảo lãnh phát hành: Giúp khách hàng lựa chọn hình thức phát hành, xây dựng phương án phát hành, thủ tục,thực hiện việc chào bán cổ phiếu, trái phiếu phát hành và phân phối đến các nhà đầu tư… Quản lý danh mục đầu tư: Công ty nhận vốn của khách hàng để đầu tư vào cổ phiếu, trái phiếu hay các hình thức đầu tư khác theo yêu cầu của khách hàng nhằm mục đích làm cho tài sản của khách hàng sinh lời tối ưu nhất. Tư vấn tài chính doanh nghiệp: Đã xây dựng và triển khai 7 loại hình dịch vụ bao gồm xác định giá trị doanh nghiệp; tư vấn xây dựng phương án cổ phần hoá; bán đấu giá cổ phần; tư vấn phát hành và tư vấn chuyển nhượng phần vốn góp; tư vấn niêm yết, đăng ký giao dịch; tư vấn chuyển đổi doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; tư vấn thành lập, giải thể, sáp nhập, mua bán công ty Tư vấn định giá chứng khoán: lựa chọn thời điểm mua bán, giúp khách hàng theo đuổi chiến lược đầu tư hợp lý… Lưu ký: Nhận, lưu giữ và bảo quản an toàn chứng khoán của khách hàng tại kho két; cung cấp các thông tin về tài khoản lưu ký cho khách hàng… 2.1.3. Mô hình tổ chức của công ty Công ty chứng khoán APEC được tổ chức theo mô hình công ty cổ phần. DỊCH VỤ CHỨNG KHOÁN CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TƯ VẤN TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP PHÂN TÍCH & NGHIÊN CỨU ĐẦU TƯ & BẢO LÃNH PHÁT HÀNH HÀNH CHÍNH TÀI CHÍNH KẾ TOÁN TƯ VẤN ĐẦU TƯ VÀ QUẢN LÝ VỐN PHÁT TRIỂN KINH DOANH HỘI SỞ CHI NHÁNH HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ BAN KIỂM SOÁT BAN GIÁM ĐỐC ĐẠI HỘI ĐỒNG CỔ ĐÔNG VP TRỢ LÝ HĐQT 2.1.3.1 Chức năng nhiệm vụ các phòng ban. Đại hội đồng cổ đông: Là cơ quan có thẩm quyền cao nhất, quyết định những vấn đề thuộc nhiệm vụ và quyền hạn được Luật pháp và Điều lệ APEC Securities quy định. Hội đồng quản trị: Là cơ quan quản trị của APEC Securities, có toàn quyền quyết định các vấn đề liên quan đến mục đích, quyền lợi của APEC Securities, trừ những vấn đề thuộc thẩm quyền của ĐHĐCĐ. Hội đồng quản trị APEC Securities hiện có 04 người bao gồm 01 Chủ tịch và 03 thành viên. Ban kiểm soát: Ban kiểm soát do ĐHĐCĐ bầu ra. Vai trò của Ban kiểm soát là đảm bảo các ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc5941.doc
Tài liệu liên quan