Phát triển hoạt động tự doanh của Công ty chứng khoán Habubank

LỜI MỞ ĐẦU Năm 2006 được coi là một năm thành công đối với cả nền kinh tế Việt Nam từ trước đến nay. Với việc gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO (7/11), tổ chức thành công diễn đàn kinh tế Châu Á Thái Bình Dương (APEC)… đã và đang tạo dựng một hình ảnh rất đẹp của Việt Nam trong lòng bạn bè Quốc tế. Hoà chung với sự thành công đó thì sự phát triển mạnh mẽ của TTCK cũng đã tạo một kênh huy động vốn gián tiếp quan trọng cho nền kinh tế, do đó các Công ty chứng khoán (CTCK) cũng phải đầu tư

doc66 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1508 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Phát triển hoạt động tự doanh của Công ty chứng khoán Habubank, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mạnh mẽ về nhiều mặt cả về mặt số lượng nhân viên lẫn chất lượng để hoàn thiện chính mình và cạnh tranh cùng phát triển. Và để cạnh tranh nhau một cách lành mạnh thì các CTCK phải nhanh chóng phát triển các nghiệp vụ của mình bởi khi nhà đầu tư đánh giá về một công ty chứng khoán họ sẽ đánh giá xem nghiệp vụ của các CTCK đó có tốt hay không, dịch vụ ra sao và một trong những hoạt động thể hiện phần lớn điều đó là hoạt động tự doanh, nó mang lại một phần lợi nhuận cốt lõi cho CTCK. Hoạt động tự doanh nếu triển khai tốt sẽ giúp một CTCK nâng cao tiềm lực tài chính, song nếu hoạt động yếu kém thì có thể gây tổn thất nặng nề, nhất là đối với một CTCK còn non trẻ như HBBS. Trên cơ sở em đã thực tập tại CTCK Habubank và nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động tự doanh em quyết định chọn đề tài “Phát triển hoạt động tự doanh tại Công ty chứng khoán Habubank” làm chuyên đề tốt nghiệp của mình. Phạm vi nghiên cứu chuyên đề: nghiên cứu, phân tích hoạt động tự doanh của CTCK, và cụ thể là CTCK Habubank. CHƯƠNG I. TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG TỰ DOANH CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN I. Những vấn đề chung về Công ty chứng khoán 1. Khái niệm và phân loại Công ty chứng khoán 1.1.Khái niệm Công ty chứng khoán là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật của từng nước để thực hiện các hoạt động kinh doanh chứng khoán. Ví dụ: ở Nhật Bản quy định công ty chứng khoán là công ty cổ phần được cấp giấy phép hoạt động kinh doanh chứng khoán. Ở các nước EU thì công ty chứng khoán được hiểu là pháp nhân thực hiện các dịch vụ đầu tư cho bên thứ ba như là nghề nghiệp chính của mình.Tuy nhiên các nước thành viên EU có thể quy định công ty chứng khoán có thể thành lập dưới hình thức không có tư cách pháp nhân nếu địa vị pháp lý của công ty đó đủ để đảm bảo quyền lợi của bên thứ ba như khi công ty được thành lập dưới hình thức có tư cách pháp nhân. Theo quy định để được coi là công ty chứng khoán doanh nghiệp phải tham gia vào một hoặc một số loại hình kinh doanh sau: Môi giới chứng khoán Tự doanh Bảo lãnh phát hành chứng khoán Quản lý danh mục đầu tư Tư vấn đầu tư Ngoài các loại hình kinh doanh trên công ty chứng khoán chỉ được phép thực hiện một số hoạt động có liên quan đến chứng khoán như tư vấn tài chính, lưu kí chứng khoán … 1.2. Phân loại Công ty chứng khoán 1.2.1. Theo mô hình và tổ chức Công ty chứng khoán Mô hình đa năng Theo mô hình này các Ngân hàng thương mại hoạt động với tư cách là chủ thể kinh doanh chứng khoán, bảo hiểm và kinh doanh tiền tệ. Mô hình này chia thành hai loại: Mô hình đa năng một phần: theo mô hình này các Ngân hàng muốn kinh doanh chứng khoán, kinh doanh bảo hiểm phải lập công ty hoạt động tách rời. Mô hình đa năng toàn phần: Các Ngân hàng được kinh doanh chứng khoán, kinh doanh bảo hiểm bên cạnh kinh doanh tiền tệ. Ưu điểm của mô hình này là: Ngân hàng có thể kết hợp nhiều lĩnh vực kinh doanh nhờ đó giảm bớt rủi ro cho hoạt động kinh doanh chung và có khả năng chịu đựng các biến động của thị trường chứng khoán. Ngân hàng sẽ tận dụng được thế mạnh chuyên môn và vốn để kinh doanh chứng khoán. Nhược điểm của Mô hình này là: Không phát triển được thị trường cổ phiếu vì các ngân hàng có xu hướng bảo thủ và thích hoạt động cho vay hơn là hoạt động bảo lãnh phát hành cổ phiếu, trái phiếu. Đồng thời, các ngân hàng cũng rất dễ gây lũng đoạn thị trường và các biến động trên thị trường chứng khoán, nếu có sẽ ảnh hưởng mạnh tới hoạt động kinh doanh tiền tệ của ngân hàng do không tách bạch giữa hai loại hình kinh doanh này. Mô hình chuyên doanh Hoạt động chuyên doanh chứng khoán sẽ do các công ty độc lập, chuyên môn hoá trong lĩnh vực chứng khoán đảm nhận, các ngân hàng không được tham gia kinh doanh chứng khoán. Ưu điểm của mô hình Hạn chế rủi ro cho hệ thống ngân hàng. Tạo điều kiện cho thị trường chứng khoán phát triển Mô hình này được áp dụng ở rất nhiều nước. Tuy nhiên trong thời gian gần đây, các nước này có xu hướng xoá bỏ dần hàng rào ngăn cách hai loại hình kinh doanh là tiền tệ và chứng khoán và ngày nay các công ty chứng khoán lớn đã mở rộng kinh doanh cả trong lĩnh vực bảo hiểm và kinh doanh tiền tệ. 1.2.2. Theo hình thức tổ chức công ty chứng khoán Công ty hợp danh: - Định nghĩa: là loại hình kinh doanh từ hai chủ sở hữu trở lên. - Thành viên tham gia vào quá trình ra quyết định quản lý được gọi là thành viên hợp danh. Các thành viên hợp danh phải chịu trách nhiệm vô hạn, tức là phải chịu trách nhiệm với những khoản nợ của công ty hợp danh bằng toàn bộ tài sản của mình. - Còn đối với các thành viên không tham gia điều hành công ty được gọi là thành viên góp vốn, họ chỉ chịu trách nhiệm đối với những khoản nợ của công ty giới hạn trong số vốn góp của họ. - Thông thường khả năng huy động vốn của công ty hợp danh bị giới hạn trong số vốn mà các hội viên có thể đóng góp. Công ty trách nhiệm hữu hạn Đây là loại hình công ty đòi hỏi trách nhiệm của những thành viên giới hạn trong số vốn mà họ đã góp do đó điều này gây tâm lý nhẹ nhàng hơn đối với người đầu tư. Mặt khác về phương diện huy động vốn cũng đơn giản và linh hoạt hơn so với công ty hợp danh. Đồng thời vấn đề tuyển đội ngũ quản lý cũng năng động hơn, không bị bó hẹp trong một số đối tác như trường hợp công ty hợp danh. Vì những lý do đó rất nhiều công ty chứng khoán hiện nay hoạt động dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn. Công ty cổ phần Công ty cổ phần là một pháp nhân độc lập với các chủ sở hữu là các cổ đông. Đại hội cổ đông có quyền bầu hội đồng quản trị. Hội đồng này sẽ định ra các chính sách của công ty và chỉ định giám đốc cùng các chức vụ quản lý khác để điều hành công ty theo các sách lược kinh doanh đã đề ra. Giấy chứng nhận cổ phiếu không thể hiện một món nợ của công ty mà thể hiện quyền lợi của người sở hữu nó đối với tài sản của công ty. Công ty vẫn tồn tại khi quyền sở hữu của công ty bị thay đổi. Ưu điểm của công ty cổ phần Đây là một loại công ty tồn tại liên tục không phụ thuộc vào việc thay đổi cổ đông hoặc cổ đông nghỉ hưu hay qua đời. Rủi ro mà chủ sở hữu của công ty phải chịu được hạn chế ở mức nhất định. Nếu công ty thua lỗ và phá sản,cổ đông chỉ bị thiệt hại ở mức vốn đã đầu tư vào công ty. Quyền sở hữu được chuyển đổi dễ dàng thông qua việc mua bán cổ phiếu. Ngoài ra, đối với công ty chứng khoán nếu tổ chức theo hình thức công ty cổ phần và được niêm yết tại sở giao dịch thì coi như họ đã được quảng cáo miễn phí. Hình thức tổ chức quản lý chế độ báo cáo và công bố thông tin tốt hơn hai hình thức trên. 2. Điều kiện thành lập công ty chứng khoán 2.1. Điều kiện về vốn Vốn pháp định của công ty chứng khoán thường được quy định cụ thể cho từng loại hình kinh doanh. Một công ty càng tham gia vào nhiều loại hình thì càng cần phải có nhiều vốn trên cơ sở các yếu tố khác nhau như quy mô thị trường, giao dịch dự kiến, khả năng tài chính của các tổ chức tài chính tham gia thị trường…mỗi quốc gia khác nhau có các quy định khác nhau về mức vốn pháp định đối với các công ty chứng khoán. Ví dụ như các công ty chứng khoán Hàn Quốc muốn tham gia ba loại hình kinh doanh: môi giới, tự doanh, bảo lãnh phát hành chứng khoán phải có vốn pháp định tối thiểu là 50 tỷ Won, nếu chỉ tham gia hai loại hình môi giới và tự doanh thì chỉ cần mức vốn điều lệ tối thiểu là 30 tỷ Won…. 2.2. Điều kiện về nhân sự Nhân tố con người bao giờ cũng chiếm vị trí quan trọng nhất trong sự thành công của tất cả các ngành nghề kinh doanh khác nhau. Trong lĩnh vực thị trường chứng khoán cũng không phải là ngoại lệ vì đây là một ngành có kỹ thuật phức tạp, rủi ro cao, kiến thức thì phải sâu rộng mới có thể làm việc được nên đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ nhanh nhạy, tinh thông nghiệp vụ và có tư cách đạo đức nghề nghiệp. Các cá nhân trong công ty chứng khoán có vai trò đặc biệt quan trọng và có ảnh hưởng mạnh mẽ tới hoạt động của các công ty. Vì vậy điều kiện về nhân sự luôn được đặt ra trong quy định pháp luật của các nước khi xem xét cấp giấy phép hoạt động kinh doanh cho các công ty chứng khoán. Điều kiện đó là những người quản lý hay nhân viên của công ty chứng khoán phải có đầy đủ kiến thức và kinh nghiệm cũng như độ tín nhiệm tính trung thực. Thông thường tất cả các nước đều yêu cầu nhân viên của công ty chứng khoán phải có giấy phép hành nghề. Ví dụ pháp luật Trung Quốc quy định nhân viên quản lý chính và nhân viên nghiệp vụ phải có tư cách hành nghề chứng khoán, pháp luật cộng hoà Aó quy định một trong các điều kiện để được cấp giấy phép hoạt động cung cấp các dịch vụ đầu tư là người quản lý phải có trình độ nghề nghiệp, kinh nghiệm và phẩm chất để thực hiện các dịch vụ đầu tư… 2.3. Điều kiện về cơ sở vật chất kỹ thuật Trong lĩnh vực chứng khoán, để các nhà đầu tư có thể tiếp xúc nhau dễ dàng trong việc mua hay bán chứng khoán thì các công ty chứng khoán cần phải có sàn giao dịch để làm địa điểm tiếp xúc với nhà đầu tư, cần có địa điểm và thiết bị nhận lệnh, truyền lệnh, công bố thông tin liên quan đến chứng khoán và giao dịch chứng khoán nên để đảm bảo hiệu quả hoạt động của các công ty chứng khoán pháp luật các nước cũng quy định điều kiện về cơ sở vật chất, kỹ thuật khi cấp giấy phép hoạt động cho các công ty chứng khoán là một trong ba điều kiện không thể thiếu về điều kiện thành lập. Ví dụ một trong các điều kiện quan trọng để thành lập công ty chứng khoán ở Trung Quốc là công ty phải có địa điểm kinh doanh cố định và có thiết bị giao dịch đủ tiêu chuẩn, điều kiện về trụ sở kinh doanh và các điều kiện về kỹ thuật phù hợp với bản chất của các dịch vụ đầu tư cũng là một trong các điều kiện để uỷ ban về các công ty đầu tư và công ty tín dụng của Pháp xem xét khi cấp giấy phép hoạt động cho các công ty đầu tư của nước này. 3. Nguyên tắc hoạt động của công ty chứng khoán 3.1.Nhóm nguyên tắc mang tính đạo đức CTCK phải đảm bảo giao dịch trung thực và công bằng vì lợi ích của khách hàng. Kinh doanh có kỹ năng, tận tụy, có tinh thần trách nhiệm. - Ưu tiên thực hiện lệnh của khách hàng trước khi thực hiện lệnh của công ty. - Có nghĩa vụ bảo mật cho khách hành, không được tiết lộ các thông tin về tài khoản khách hành khi chưa được khách hành đồng ý bằng văn bản trừ khi có yêu cầu của cơ quan quản lý Nhà nước. - CTCK khi thực hiện nghiệp vụ tư vấn phải cung cấp đầy đủ thông tin cho khách hàng và giải thích rõ ràng về các rủi ro mà khách hàng có thể phải gánh chịu, đồng thời họ không được khẳng định về lợi nhuận các khoản đầu tư mà họ tư vấn. - CTCK không được phép nhận bất cứ khoản thù lao nào ngoài các khoản thù lao thông thường cho dịch vụ tư vấn của mình. - Ở nhiều nước, các công ty chứng khoán phải đóng góp tiền vào quỹ bảo vệ nhà đầu tư chứng khoán để bảo vệ lợi ích của khách hàng trong trường hợp CTCK mất khả năng thanh toán. - Nghiêm cấm thực hiện các giao dịch nội gián, các CTCK không được phép sử dụng các thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán cho chính mình, gây thiệt hại đến lợi ích của khách hàng. - Các CTCK không được tiến hành các hoạt động có thể làm cho khách hàng và công chúng hiểu lầm về giá cả, giá trị và bản chất của chứng khoán hoặc các hoạt động khác gây thiệt hại cho khách hàng. 3.2. Nhóm nguyên tắc mang tính tài chính Đảm bảo các yêu cầu về vốn, cơ cấu vốn và nguyên tắc hạch toán, báo cáo theo quy định của UBCKNN. Đảm bảo nguồn tài chính trong cam kết kinh doanh chứng khoán với khách hàng. CTCK không được dùng tiền của khách hàng làm nguồn tài chính để kinh doanh, ngoại trừ trường hợp số tiền đó dùng phục vụ cho giao dịch của khách hàng. CTCK phải tách bạch tiền và chứng khoán của khách hàng với tài sản của mình. CTCK không được dùng chứng khoán của khách hàng làm vật thế chấp để vay vốn trừ trường hợp được khách hành đồng ý bằng văn bản. 4. Vai trò của công ty chứng khoán 4.1. Đối với tổ chức phát hành Để có tiền đầu tư vào một dự án cần phải có một khoản vốn nhất đinh, để một doanh nghiệp đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh chưa cần nói đến đã có lãi hay chưa cũng cần phải có một khoản vốn nhất định…nhưng nếu các doanh nghiệp, các chủ đầu tư tự đi huy động vốn hoặc đi vay thì không phải là điều đơn giản, vì vậy cần phải có một một trung gian đứng ra đảm nhiệm vai trò này tròng nền kinh tế đó chính là các ngân hàng, các quỹ đầu tư, các công ty chứng khoán. Các tổ chức này có vai trò làm chiếc cầu nối và đồng thời là các kênh dẫn cho vốn chảy từ một hay một số bộ phận nào đó của nền kinh tế có dư thừa vốn (vốn nhàn rỗi) đến các bộ phận khác của nền kinh tế đang thiếu vốn (cần huy động vốn). Các công ty chứng khoán thường đảm nhiệm vai trò này qua các hoạt động bảo lãnh phát hành và môi giới chứng khoán. 4.2. Đối với thị trường chứng khoán Khi đầu tư chứng khoán các nhà đầu tư luôn muốn có được khả năng chuyển tiền mặt thành chứng khoán có giá và ngược lại trong một môi trường đầu tư ổn định. Các công ty chứng khoán đảm nhận được chức năng chuyển đổi này sẽ giúp cho nhà đầu tư phải chịu ít thiệt hại nhất khi tiến hành đầu tư. Ví dụ trong hầu hết các nghiệp vụ đầu tư ở sở giao dịch chứng khoán và thị trường OTC hiện nay một nhà đầu tư có thể hàng ngày chuyển đổi tiền mặt thành chứng khoán và ngược lại mà không chịu bất cứ thiệt hại đáng kể nào đối với giá trị khoản đầu tư của mình. Nói cách khác, một số nhân tố bên ngoài có thể ảnh hưởng đến giá trị của các khoản đầu tư chẳng hạn như tin đồn về một vấn đề nào đó trong nền kinh tế nhưng nói chung giá trị của một khoản đầu tư không giảm đi do cơ chế mua bán. Luôn tạo ra các sản phẩm mới Việt Nam đang bắt đầu bước vào thời kì hội nhập,do đó dung lượng các công ty thuộc tất các lĩnh vực các ngành trong nền kinh tế đang tăng vẫn tốc độ chóng mặt do đó chủng loại chứng khoán cũng phát triển theo với tốc độ rất cao do một số nguyên nhân là dung lượng thị trường tăng như nói ở trên, biến động thị trường ngày càng lớn và đặc biệt nhận thức rõ ràng hơn của khách hàng đối với thị trường tài chính và sự nỗ lực tiếp thị của các công ty chứng khoán. Ngoài cổ phiếu và trái phiếu đã được biết đến các công ty chứng khoán hiện nay còn bán trái phiếu chính phủ (TW&ĐP) chứng quyền, trái quyền, các hợp đồng tương lai, hợp đồng lựa chọn và các sản phẩm lai tạo đa dạng khác phù hợp với thay đổi trên thị trường và môi trường kinh tế. Thực hiện tư vấn đầu tư Các công ty chứng khoán với đầy đủ các nghiệp vụ không chỉ thực hiện mệnh lệnh của khách hàng mà còn tham gia vào nhiều dịch vụ tư vấn khác nhau thông qua nghiên cứu thị trường rồi cung cấp các thông tin đó cho các công ty và các cá nhân đầu tư. 4.3. Đối với Nhà quản lý Ngành công nghiệp chứng khoán nói chung và các công ty chứng khoán nói riêng thông qua các Sở giao dịch chứng khoán và thị trường OTC, có chức năng cung cấp một cơ chế giá cả nhằm giúp nhà đầu tư có sự đánh giá đúng đắn thực tế và chính xác giá trị khoản đầu tư của mình. Các sở giao dịch chứng khoán niêm yết giá cổ phiếu của các công ty từng ngày một trên các báo cáo tài chính, ngoài ra chứng khoán của nhiều công ty lớn không được niêm yết ở Sở giao dịch cũng có thể được công bố trên các tờ báo tài chính. Công ty chứng khoán còn có một chức năng quan trọng là can thiệp trên thị trường, góp phần điều tiết giá chứng khoán. Theo quy định của Nhà nước công ty chứng khoán bắt buộc phải giành ra một tỷ lệ nhất định giao dịch của mình để mua chứng khoán vào khi giá chứng khoán trên thị trường đang giảm và bán ra khi giá chứng khoán trên thị trường tăng cao. 4.4. Đối với nhà đầu tư Thông qua các hoạt động như môi giới, tư vấn đầu tư và quản lý danh mục đầu tư, CTCK có vai trò làm giảm chi phí và thời gian giao dịch, từ đó giúp nâng cao hiệu quả các khoản đầu tư. Đối với hàng hoá thông thường, mua bán qua trung gian sẽ làm tăng chi phí cho người mua và người bán. Tuy nhiên trên TTCK sự biến động thường xuyên của giá cả chứng khoán cũng như mức độ rủi ro cao sẽ làm cho những nhà đầu tư tốn kém chi phí, công sức và thời gian tìm hiểu thông tin trước khi quyết định đầu tư. Nhưng thông qua các CTCK, với trình độ chuyên môn cao và uy tín nghề nghiệp sẽ giúp các nhà đầu tư thực hiện các khoản đầu tư một cách hiệu quả. II. Các hoạt động của công ty chứng khoán 1. Hoạt động nghiệp vụ 1.1. Nghiệp vụ môi giới chứng khoán 1.1.1. Khái niệm Môi giới chứng khoán là một hoạt động kinh doanh chứng khoán trong đó một công ty chứng khoán đại diện cho khách hàng tiến hành giao dịch thông qua cơ chế giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán hay thị trường OTC mà chính khách hàng phải chịu trách nhiệm đối với hậu quả kinh tế của việc giao dịch đó. 1.1.2. Chức năng của hoạt động môi giới chứng khoán Cung cấp dịch vụ với hai tư cách: - Nối liền khách hàng với bộ phận nghiên cứu đầu tư - Nối liền những người bán với những người mua Đáp ứng những nhu cầu tâm lý của khách hàng khi cần thiết: trở thành người bạn, người chia sẻ những lo âu, căng thẳng và đưa ra những lời động viên kịp thời. - Khắc phục trạng thái xúc cảm quá mức mà điển hình là sợ hãi và tham lam để giúp khách hàng có những quyết định tỉnh táo - Đề xuất thời điểm bán hàng một cách hợp lý. 1.1.3. Những nét đặc trưng của nghề môi giới chứng khoán Lao động cật lực thù lao xứng đáng Những phẩm chất cần có: kiên nhẫn, giỏi phân tích tâm lý và ứng xử. Nỗ lực cá nhân là quyết định, đồng thời không thể thiếu sự hỗ trợ của công ty trong việc cung cấp thông tin và kết quả phân tích cũng như việc thực hiện các lệnh của khách hàng. 1.1.4. Các kỹ năng của người môi giới chứng khoán Kỹ năng truyền đạt thông tin: Phẩm chất hay thái độ của người môi giới đối với công việc, với bản thân và với khách hàng được truyền đạt rõ ràng tới hầu hết các khách hàng mà người môi giới thực hiện giao dịch. Để thành công trong việc bán hàng (cung ứng dịch vụ mua, bán) người môi giới phải đặt khách hàng lên trên hết và doanh thu của mình là yếu tố thứ yếu. Đây là điểm then chốt trong hoạt động dịch vụ tài chính và phải được thể hiện ngay từ khi tiếp xúc với khách hàng. Kỹ năng tìm kiếm khách hàng: Có nhiều phương pháp để tìm kiếm khách hàng, nhưng tựu chung có thể được gộp vào 6 phương cách sau: những đầu mối được gây dựng từ công ty hoặc các tài khoản chuyển nhượng lại; những lời giới thiệu khách hàng; mạng lưới kinh doanh; các chiến dịch viết thư; các cuộc hội thảo; gọi điện làm quen. Kỹ năng khai thác thông tin: Một trong những nguyên tắc trong nghề môi giới là phải tìm hiểu khách hàng, biết được khả năng tài chính, mức độ chấp nhận rủi ro của khách hàng. Ngoài ra nó còn giúp cho nhà môi giới tăng được khối lượng tài sản quản lý, có chiến lược khách hàng thích hợp. 1.2. Nghiệp vụ tự doanh Tự doanh là việc CTCK tự tiến hành các giao dịch mua bán chứng khoán cho mình. Hoạt động tự doanh của CTCK được thực hiện thông qua cơ chế giao dịch trên SGDCK hoặc thị trường OTC. Tại một số thị trường vận hành theo cơ chế khớp giá (quote driven) hoạt động tự doanh của CTCK được thực hiện thông qua hoạt động tạo lập thị trường. Lúc này, CTCK đóng vai trò là nhà tạo lập thị trường, nắm giữ một số lượng chứng khoán nhất định của một số loại chứng khoán và thực hiện mua bán chứng khoán với các khách hàng để hưởng chênh lệch giá. Mục đích của hoạt động tự doanh là nhằm thu lợi nhuận cho chính công ty thông qua hành vi mua, bán chứng khoán với khách hàng. Nghiệp vụ này hoạt động song hành với nghiệp vụ môi giới chứng khoán, vừa phục vụ lệnh giao dịch cho khách hàng đồng thời cũng phục vụ cho chính mình, vì vậy trong quá trình hoạt động có thể dẫn đến xung đột lợi ích giữa thực hiện giao dịch cho khách hàng và cho bản thân công ty. Do đó, luật pháp của các nước đều yêu cầu tách biệt rõ ràng giữa các nghiệp vụ môi giới và tự doanh, CTCK phải ưu tiên thực hiện lệnh của khách hàng trước khi thực hiện lệnh cho mình. Thậm chí luật pháp một số nước còn quy định có 2 loại hình CTCK là công ty môi giới chứng khoán chỉ làm chức năng môi giới và CTCK có chức năng tự doanh. Khác với nghiệp vụ môi giới, CTCK chỉ làm trung gian thực hiện lệnh cho khách hàng để hưởng hoa hồng, trong hoạt động tự doanh CTCK kinh doanh bằng chính nguồn vốn của công ty. Vì vậy, CTCK đòi hỏi phải có nguồn vốn rất lớn và đội ngũ nhân viên có trình độ chuyên môn, khả năng phân tích và đưa ra những quyết định đầu tư hợp lý, đặc biệt trong trường hợp đóng vai trò là các nhà tạo lập thị trường. Yêu cầu đối với CTCK Tách biệt quản lý: Các CTCK phải có sự tách biệt giữa nghiệp vụ tự doanh và nghiệp vụ môi giới để đảm bảo tính minh bạch, rõ ràng trong hoạt động. Sự tách biệt này bao gồm tách biệt về: Yếu tố con người Quy trình nghiệp vụ Vốn và tài sản của khách hàng và công ty. Ưu tiên khách hàng: CTCK phải tuân thủ nguyên tắc ưu tiên khách hàng khi thực hiện nghiệp vụ tự doanh. Điều đó có nghĩa là lệnh giao dịch của khách hàng phải được xử lý trước lệnh tự doanh của công ty. Nguyên tắc này đảm bảo sự công bằng cho khách hàng trong quá trình giao dịch chứng khoán. Do có tính đặc thù về khả năng tiếp cận thông tin và chủ động trên thị trường nên các CTCK có thể dự đoán trước được diễn biến của thị trường và sẽ mua hoặc bán tranh của khách hàng nếu không có nguyên tắc trên. Góp phần bình ổn thị trường: Các CTCK hoạt động tự doanh nhằm góp phần bình ổn giá cả thị trường. Trong trường hợp này, hoạt động tự doanh được tiến hành bắt buộc theo luật định. Luật các nước đều quy định các CTCK phải dành một tỷ lệ % nhất định các giao dịch của mình (ở Mỹ là 60%) cho hoạt động bình ổn thị trường. Theo đó, các CTCK có nghĩa vụ mua vào khi giá chứng khoán giảm và bán ra khi giá chứng khoán tăng lên nhằm giữ giá chứng khoán ổn định. Hoạt động tạo thị trường: Khi được phát hành, các chứng khoán mới chưa có thị trường giao dịch. Để tạo thị trường cho các chứng khoán này, các CTCK thực hiện tự doanh thông qua việc mua và bán chứng khoán, tạo tính thanh khoản trên thị trường cấp hai. Trên những TTCK phát triển, các nhà tạo lập thị trường (Market - Makers) sử dụng nghiệp vụ mua bán chứng khoán trên thị trường OTC để tạo thị trường. Theo đó, họ liên tục có những báo giá để mua hoặc bán chứng khoán với các nhà kinh doanh chứng khoán khác. Như vậy, họ sẽ duy trì một thị trường liên tục đối với chứng khoán mà họ kinh doanh. Các hình thức giao dịch trong hoạt động tự doanh: Giao dịch gián tiếp: Các CTCK đặt các lệnh mua và bán chứng khoán trên Sở giao dịch, lệnh của họ có thể thực hiện với bất kỳ khách hàng nào không được xác định trước. Giao dịch trực tiếp: Là giao dịch tay đôi giữa hai công ty chứng khoán hay giữa CTCK với một khách hàng thông qua thương lượng. Đối tượng của các giao dịch trực tiếp là các loại chứng khoán đăng ký giao dịch ở thị trường OTC. 1.3. Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành Để thực hiện thành công các đợt chào bán chứng khoán ra công chúng, đòi hỏi tổ chức phát hành phải cần đến các CTCK tư vấn cho đợt phát hành và thực hiện bảo lãnh, phân phối chứng khoán ra công chúng. Đây là nghiệp vụ bảo lãnh phát hành của các CTCK và là nghiệp vụ chiếm tỷ lệ doanh thu khá cao trong tổng doanh thu của các CTCK. Như vậy, nghiệp vụ bảo lãnh phát hành là việc CTCK có chức năng bảo lãnh (sau đây gọi tắt là tổ chức bảo lãnh - TCBL) giúp tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, tổ chức việc phân phối chứng khoán và giúp bình ổn giá chứng khoán trong giai đoạn đầu sau khi phát hành. Trên TTCK, tổ chức bảo lãnh phát hành không chỉ có các CTCK mà còn bao gồm các định chế tài chính khác như ngân hàng đầu tư, nhưng thông thường việc CTCK nhận bảo lãnh phát hành thường kiêm luôn việc phân phối chứng khoán, còn các ngân hàng đầu tư thường đứng ra nhận bảo lãnh phát hành (hoặc thành lập tổ hợp bảo lãnh phát hành) sau đó chuyển phan phối chứng khoán cho các CTCK tự doanh hoặc các thành viên khác. Khi một tổ chức muốn phát hành chứng khoán, tổ chức đó gửi yêu cầu bảo lãnh phát hành đến CTCK. CTCK có thể sẽ ký một hợp đồng tư vấn quản lý để tư vấn cho tổ chức phát hành về loại chứng khoán cần phát hành, số lượng chứng khoán cần phát hành, định giá chứng khoán và phương thức phân phối chứng khoán đến nhà đầu tư thích hợp. Để được phép bảo lãnh phát hành, CTCK phải đệ trình một phương án bán và cam kết bảo lãnh lên Uỷ ban chứng khoán. Khi các nội dung cơ bản của phương án phát hành được Uỷ ban chứng khoán thông qua. CTCK có thể trực tiếp ký hợp đồng bảo lãnh hoặc thành lập nghiệp đoàn bảo lãnh để ký hợp đồng bảo lãnh giữa nghiệp đoàn và tổ chức phát hành. Khi Uỷ ban chứng khoán cho phép phát hành chứng khoán và đến thời hạn giấy phép phát hành có hiệu lực, CTCK (hoặc nghiệp đoàn bảo lãnh) thực hiện phân phối chứng khoán. Các hình thức phân phối chứng khoán chủ yếu là: Bán riêng cho các tổ chức đầu tư tập thể, các quỹ đầu tư, quỹ bảo hiểm, quỹ hưu trí. Bán trực tiếp cho các cổ đông hiện thời hay những nhà đầu tư có quan hệ với tổ chức phát hành. Bán rộng rãi ra công chúng. Đến đúng ngày theo hợp đồng, công ty bảo lãnh phát hành phải giao tiền bán chứng khoán cho tổ chức phát hành. Số tiền phải thanh toán là giá trị chứng khoán phát hành trừ đi phí bảo lãnh. 1.4. Nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư Đây là nghiệp vụ quản lý vốn uỷ thác của khách hàng để đầu tư vào chứng khoán thông qua danh mục đầu tư nhằm sinh lợi cho khách hàng trên cơ sở tăng lợi nhuận và bảo toàn vốn cho khách hàng. Quản lý danh mục đầu tư là một dạng nghiệp vụ tư vấn mang tính chất tổng hợp có kèm theo đầu tư, khách hàng uỷ thác tiền cho CTCK thay mặt mình quyết định đầu tư theo một chiến lược hay những nguyên tắc đã được khách hàng chấp thuận hoặc yêu cầu (mức lợi nhuận kỳ vọng; rủi ro có thể chấp nhận…). Quy trình của nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư có thể được khái quát bao gồm các bước như sau: Bước 1: Xúc tiến tìm hiểu và nhận quản lý: CTCK và khách hàng tiếp xúc và tìm hiểu về khả năng tài chính, chuyên môn từ đó đưa ra các yêu cầu về quản lý vốn uỷ thác. Bước 2: Ký hợp đồng quản lý: CTCK ký hợp đòng quản lý giữa khách hàng và công ty theo các yêu cầu, nội dung về vốn, thời gian uỷ thác, mục tiêu đầu tư, quyền và trách nhiệm của các bên, phí quản lý danh mục đầu tư. Bước 3: Thực hiện hợp đồng quản lý: CTCK thực hiện đầu tư vốn uỷ thác của khách hàng theo các nội dung đã được cam kết và phải đảm bảo tuân thủ các quy định về quản lý vốn, tài sản tách biệt giữa khách hàng và chính công ty. Bước 4: Kết thúc hợp đồng quản lý: Khách hàng có nghĩa vụ thanh toán các khoản chi phí quản lý theo hợp đồng ký kết và xử lý các trường hợp khi công ty chứng khoán bị ngưng hoạt động, giải thể họ. 1.5. Nghiệp vụ tư vấn đầu tư chứng khoán Cũng như các loại hình tư vấn khác, tư vấn đầu tư chứng khoán là việc CTCK thông qua hoạt động phân tích để đưa ra những lời khuyên, phân tích các tình huống và có thể thực hiện một số công việc dịch vụ khác liên quan đến phát hành, đầu tư và cơ cấu tài chính cho khách hàng. Hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán được phân loại theo các tiêu chí sau: Theo hình thức của hoạt động tư vấn: Bao gồm tư vấn trực tiếp (gặp gỡ khách hàng trực tiếp hoặc thông qua thư từ, điện thoại) và tư vấn gián tiếp (thông qua các ấn phẩm, sách báo) để tư vấn cho khách hàng. Theo mức độ uỷ quyền của tư vấn: bao gồm tư vấn gợi ý (gợi ý cho khách hàng về phương cách đầu tư hợp lý, quyết định đầu tư là của khách hàng) và tư vấn uỷ quyền (vừa tư vấn vừa quyết định theo sự phân cấp, uỷ quyền thực hiện của khách hàng). Theo đối tượng của hoạt động tư vấn: Bao gồm tư vấn cho người phát hành (tư vấn cho tổ chức dự kiến phát hành: cách thức, hình thức phát hành, xây dựng hồ sơ, bản cáo bạch… và giúp tổ chức phát hành trong việc lựa chọn tổ chức bảo lãnh, phân phối chứng khoán) và tư vấn đầu tư (tư vấn cho khách hàng đầu tư chứng khoán trên thị trường thứ cấp về giá, thời gian, định hướng đầu tư vào các loại chứng khoán…). Nguyên tắc cơ bản của hoạt động tư vấn: Hoạt động tư vấn là việc người tư vấn sử dụng kiến thức, đó chính là vốn chất xám mà họ đã bỏ ra để kinh doanh nhằm đem lại lợi nhuận (hiệu quả) cho khách hàng. Nhà tư vấn đòi hỏi phải hết sức thận trọng trong việc đưa ra các lời khuyên đối với khách hàng, vì với lời khuyên đó khách hàng có thể thu về lợi nhuận lớn hoặc thua lỗ, thậm chí phá sản, còn người tư vấn thu về cho mình khoản thu phí về dịch vụ tư vấn (bất kể tư vấn đó thành công hay không). Hoạt động tư vấn đòi hỏi phải tuân thủ một số nguyên tắc cơ bản sau: Không đảm bảo chắc chắn về giá trị chứng khoán: Giá trị chứng khoán không phải là một số cố định, nó luôn thay đổi theo các yếu tố kinh tế, tâm lý và diễn biến thực tiễn của thị trường. Luôn nhắc nhở khách hàng rằng những lời tư vấn của mình dựa trên cơ sở phân tích các yếu tố lý thuyết và những diễn biến trong quá khứ, có thể là không hoàn toàn chính xác và khách hàng là người quyết định cuối cùng trong việc sử dụng các thông tin từ nhà tư vấn để đầu tư, nhà tư vấn sẽ không chịu trách nhiệm về những thiệt hại kinh tế do những lời khuyên đưa ra. Không được dụ dỗ, mời chào khách hàng mua hay bán một loại chứng khoán nào đó, những lời tư vấn phải được xuất phát từ những cơ sở khách quan là quá trình phân tích, tổng hợp một cách khoa học, logic các vấn đề nghiên cứu. 1.6. Các nghiệp vụ phụ trợ Lưu ký chứng khoán: Là việc lưu giữ, bảo quản chứng khoán của khách hàng thông qua các tài khoản lưu ký chứng khoán. Đây là quy định bắt buộc trong giao dịch chứng khoán, bởi vì giao dịch chứng khoán trên thị trường tập trung là hình thức giao dịch ghi sổ, khách hàng phải mở tài khoản lưu ký chứng khoán tại các CTCK (nếu chứng khoán phát hành dưới hình thức ghi sổ) hoặc ký gửi các chứng khoán (nếu chứng khoán phát hành dưới hình thức chứng chỉ vật chất). Khi thực hiện dịch vụ lưu ký chứng khoán cho khách hàng, CTCK sẽ được nhận các khoản thu phí lưu ký chứng khoán, phí gửi, phí rút và phí chuyển nhượng chứng khoán. Quản lý thu nhập của khách hàng (quản lý cổ tức): Xuất phát từ việc lưu ký chứng khoán cho khách hàng, CTCK sẽ theo dõi tình hình thu lãi, cổ tức của chứng khoán và đứng ra làm dịch vụ thu nhận và chi trả cổ tức cho khách hàng thông qua tài khoản của khách hàng. Nghiệp vụ tín dụng: Đối với các TTCK phát triển, bên cạnh nghiệp vụ môi giới chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng, CTCK còn triển khai dịch vụ cho vay chứng khoán để khách hàng thực hiện giao dịch bán khống (short sale) hoặc cho khách hàng vay tiền để khách hàng ._.thực hiện nghiệp vụ mua ký quỹ (margin purchase). Cho vay ký quỹ là hình thức cấp tín dụng của CTCK cho khách hàng của mình để họ mua bán chứng khoán và sử dung các chứng khoán đó làm vật thế chấp cho khoản vay đó. Khách hàng chỉ cần ký quỹ một phần, số còn lại sẽ do công ty chứng khoán ứng trước tiền thanh toán. Đến kỳ hạn thoả thuận, khách hàng phải hoàn trả đủ số gốc vay cùng với lãi cho CTCK. Trường hợp khách hàng không trả được nợ, thì công ty sẽ phát mãi số chứng khoán đã mua để thu hồi nợ. Nghiệp vụ quản lý quỹ: ở một số TTCK, pháp luật về TTCK còn cho phép công ty chứng khoán được thực hiện nghiệp vụ quản lý quỹ đầu tư. Theo đó, CTCK cử đại diện của mình để quản lý quỹ và sử dụng vốn và tài sản của quỹ đầu tư để đầu tư vào chứng khoán. CTCK được thu phí dịch vụ quản lý quỹ đầu tư. III. Hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán 1. Khái niệm hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán Khái niệm: Hoạt động tự doanh là việc công ty chứng khoán tự tiến hành các dịch vụ mua bán các chứng khoán cho chính mình bằng nguồn vốn của chính công ty chứng khoán. Hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán có thể được thực hiện trên các thị trường giao dịch tập trung hoặc thị trường OTC... Tại một số nước hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán còn được thực hiện thông qua hoạt động tạo lập thị trường (ví dụ ở Mĩ) 2. Mục đích của hoạt động tự doanh Mục đích của hoạt động tự doanh nhằm thu lợi cho chính mình, tuy nhiên để đảm bảo sự ổn định và tính minh bạch của thị trường pháp luật các nước đều yêu cầu các công ty chứng khoán khi thực hiện hoạt động tự doanh phải đáp ứng một số điều kiện cơ bản sau: Vốn: Để thực hiện hoạt động tự doanh các công ty chứng khoán phải có đủ số vốn nhất định theo quy định của pháp luật. Con người: kinh doanh chứng khoán là một lĩnh vực đặc thù có sự chi phối rất lớn của nhân tố con người và thông tin, nhân viên thực hiện nghiệp vụ tự doanh của công ty phải có một trình độ chuyên môn nhất định, có khả năng tự quyết cao và đặc biệt là tính nhạy cảm trong công việc. 3. Yêu cầu đối với công ty chứng khoán trong hoạt động tự doanh Tách biệt quản lý Các công ty chứng khoán phải có sự tách biệt giữa nghiệp vụ tự doanh và nghiệp vụ môi giới để đảm bảo tính minh bạch rõ ràng trong hoạt động của mình. Sự tách bạch này bao gồm cả yếu tố con người và quy trình nghiệp vụ. Ngoài ra các công ty chứng khoán còn phải đảm bảo tính minh bạch về tài sản của khách hàng và tài sản của công ty. Ưu tiên khách hàng Pháp luật hầu hết các nước đều yêu cầu cong ty chứng khoán phải tuân thủ nguyên tắc ưu tiên cho khách hàng khi thực hiện nghiệp vụ tự doanh điều đó có nghĩa là lệnh giao dịch của khách hàng phải được xử lý trước lệnh tự doanh của công ty. 4. Lợi ích của hoạt động tự doanh đối với công ty chứng khoán Tự doanh chứng khoán mang lại doanh thu không nhỏ cho CTCK. Bất cứ một CTCK nào hoạt động trên TTCK đều quan tâm tới nghiệp vụ này. Tự doanh chứng khoán đã tạo ra tính thanh khoản cho các chứng khoán. Việc mua đi bán lại các cổ phiếu của các CTCK trên TTCK đã giúp cho việc hoán chuyển từ chứng khoán ra tiền và ngược lại từ tiền ra chứng khoán một cách dễ dàng. Do đó đã tạo ra tính thanh khoản cho các chứng khoán. Nghiệp vụ tự doanh chứng khoán đã đem lại cho các CTCK thông tin về chứng khoán trên thị trường, biết được các diễn biến về tình hình biến động của các loại chứng khoán trên TTCK từ đó đưa ra các chiến lược kinh doanh hợp lý. Tự doanh chứng khoán còn tạo ra các mối quan hệ giữa CTCK và các bạn hàng từ đó nảy sinh các mối quan hệ tốt đẹp khác. 5. Quy trình hoạt dộng tự doanh của công ty chứng khoán Các công ty chứng khoán tuỳ vào cơ cấu tổ chức của mình sẽ có các quy trình nghiệp vụ riêng, phù hợp. Quy trình của nghiệp vụ có thể chia thành năm giai đoạn sau: Giai đoạn 1: Xây dựng chiến lược đầu tư. Trong giai đoạn này, công ty chứng khoán phải xác định được chiến lược trong hoạt động tự doanh của mình. Đó có thể là chiến lược đầu tư chủ động, thụ động hoặc đầu tư vào một số ngành nghề, lĩnh vực cụ thể nào đó. Giai đoạn 2: Khai thác tìm kiếm các cơ hội đầu tư. Sau khi xây dựng được chiến lược đầu tư của công ty, bộ phận tự doanh sẽ triển khai tìm kiếm các nguồn hàng hoá, cơ hội đầu tư trên thị trường theo mục tiêu đã định. Giai đoạn 3: Phân tích, đánh giá chất lượng cơ hội đầu tư. Trong giai đoạn này, bộ phận tự doanh có thể kết hợp với bộ phận phân tích trong công ty tiến hành thẩm định, đánh giá chất lượng của các khoản đầu tư. Kết quả của giai đoạn này sẽ là kết luận cụ thể về việc công ty có nên đầu tư hay không và đầu tư với số lượng, giá cả bao nhiêu là hợp lý. Giai đoạn 4: Thực hiện đầu tư. Sau khi đã đánh giá, phân tích các cơ hội đầu tư, bộ phận tự doanh sẽ triển khai thực hiện các hoạt động giao dịch mua, bán chứng khoán. Cơ chế giao dịch sẽ tuân theo các quy định của pháp luật và các chuẩn mực chung trong ngành. Giai đoạn 5: Quản lý đầu tư và thu hồi vốn. Trong giai đoạn này, bộ phận tự doanh có trách nhiệm theo dõi các khoản đầu tư, đánh giá tình hình và thực hiện những hoán đổi cần thiết, hợp lý. Sau khi thu hồi vốn, bộ phận tự doanh sẽ tổng kết, đánh giá lại tình hình thực hiện và lại tiếp tục chu kỳ mới. Sơ đồ 1: Quy trình hoạt động tự doanh của một CTCK Nghiên cứu đầu tư Phân tích rủi ro, lợi nhuận Mục tiêu đầu tư Phân bổ tài sản Lựa chọn chứng khoán Xây dựng danh mục đầu tư Đầu vào Đầu ra 6. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán 6.1. Nhân tố khách quan Môi trường pháp lý Yếu tố môi trường pháp lý có ảnh hưởng không nhỏ tới việc tự doanh của các CTCK. Tuỳ từng luật chứng khoán của các nước khác nhau mà các CTCK có sự khác biệt trong nghiệp vụ tự doanh chứng khoán. Ví dụ: ở nước quy định mức vốn pháp định đối với nghiệp vụ tự doanh thì các CTCK sẽ có các chiến lược khác nhau trong nghiệp vụ tự doanh. Nhân tố môi trường pháp lý còn ảnh hưởng tới sự thành bại trong nghiệp vụ tự doanh chứng khoán của các CTCK. Việc không chặt chẽ trong luật chứng khoán sẽ ảnh hưởng tới tự doanh chứng khoán của các CTCK. UBCKNN đã ban hành luật và chính thức có hiệu lực kể từ ngày 1/1/2007 với việc hạn chế các CTCK trong hạn mức tự doanh, các CTCK sẽ không được các Ngân hàng mẹ rót nhiều tiền vào hoạt động tự doanh như trước kia đã phần nào ảnh hưởng tới hoạt động tự doanh của các CTCK có ngân hàng mẹ đỡ đầu. Nhu cầu về cổ phiếu, trái phiếu Bên cạnh nhân tố môi trường pháp lý thì nhân tố nhu cầu về chứng khoán cũng là nhân tố quan trọng ảnh hưởng nghiệp vụ tự doanh của các CTCK. Một TTCK phát triển thật sự thì nhu cầu về cả cổ phiếu lẫn trái phiếu phải cao thì thị trường đó mới thực sự phát triển, ở Việt Nam hiện nay mới chỉ có nhu cầu về cổ phiếu là cao, còn nhu cầu về trái phiếu thì cũng chưa cao lắm, mà mới còn đang ở dạng tiềm năng, do thị trường chứng khoán có một bộ phận lớn coi đây là sân chơi cờ bạc nên trái phiếu cũng chưa được đưa vào danh mục đầu tư do có tính thanh khoản thấp hơn nhiều so với cổ phiếu Sự phát triển của TTCK Sự phát triển của TTCK là một yếu tố khách quan quan trọng nhất ảnh hưởng tới nghiệp vụ tự doanh chứng khoán của các CTCK. Đối với một TTCK phát triển thì hàng hoá để giao dịch trên thị trường sẽ phong phú và đa dạng do đó hoạt động tự doanh của các CTCK sẽ phát triển. Ngược lại, thì với một TTCK chậm phát triển tất yếu sẽ kéo theo sự chậm chễ của nghiệp vụ tự doanh trong các CTCK. 6.2. Nhân tố chủ quan Năng lực của các CTCK Một CTCK khi thực hiện nghiệp vụ tự doanh chứng khoán trên TTCK đòi hỏi phải có năng lực nhất định. Với một CTCK mà có đội ngũ kinh doanh giỏi, nắm bắt thông tin về chứng khoán trên thị trường tốt, hiểu được đối thủ cạnh tranh thì công ty đó sẽ thành công trong việc tự doanh chứng khoán trên TTCK. Năng lực về nhân sự Nguồn nhân lực của một CTCK sẽ quyết định tới việc tự doanh chứng khoán của các CTCK. Một CTCK với nguồn nhân lực nghèo nàn, trình độ hiểu biết về chứng khoán và TTCK hạn chế thì sẽ không thể tự doanh được trên thị trường và ngược lại với đội ngũ nhân lực đông đảo, có trình độ hiểu biết về chứng khoán và TTCK thì sẽ đảm bảo việc thành công trong việc tự doanh chứng khoán. Năng lực về tài chính Quy mô về vốn kinh doanh cũng là yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới nghiệp vụ tự doanh chứng khoán của các CTCK. Khi một CTCK muốn thực hiện các chiến lược tự doanh chứng khoán của mình thì đều phụ thuộc vào quy mô về vốn của công ty mình. Quy mô về vốn kinh doanh của một CTCK phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Nếu một CTCK được thành lập từ một ngân hàng mẹ thì sẽ có được một lượng vốn không nhỏ từ ngân hàng mẹ, lượng vốn kinh doanh cũng sẽ tăng qua từng năm nếu CTCK tự doanh có lãi. Ngược lại nếu một công ty chứng khoán thành lập mà không có một ngân hàng mẹ đứng đằng sau thì công ty chứng khoán chắc chắn sẽ không có một nguồn lực lớn về tài chính cũng như về nhân sự cho công ty và công ty sẽ gặp nhiều khó khăn hơn trong các vấn đề tổ chức, tìm kiếm khách hàng... và một khi công ty hoạt động không hiệu quả do thiếu vốn hoặc thiếu nhân sự rất có thể sẽ dẫn đến phá sản. Sự phát triển của các hoạt động khác Một CTCK tốt là một công ty chứng khoán phát triển được một cách toàn diện, một CTCK mà ở đó sự thành bại của khách hàng cũng chính là sự thành bại của công ty. Vì vậy tất cả các hoạt động của công ty phải phát triển một cách đồng đều chứ không phải chỉ chú trọng vào một vấn đề nào đó, một nghiệp vụ nào đó của công ty. Trong đó các hoạt động của công ty đều có sự tương hỗ với nhau. Một CTCK với nghiệp vụ môi giới chuyên nghiệp được sự tín nhiệm của khách hàng sẽ dễ dàng cho các cán bộ tự doanh cổ phiếu, trái phiếu thu thập thông tin và phân tích, đánh giá thị trường. Ví dụ thống kê thị trường chứng khoán Việt Nam mấy năm vừa qua cho thấy các công ty đạt tỷ suất lợi nhuận tự doanh cổ phiếu, trái phiếu cao trên thị trường là những công ty có hoạt động tư vấn cổ phần hoá phát triển. Đó cũng là một lẽ dễ hiểu bởi vì khi thực hiện tư vấn cổ phần hoá cho các doanh nghiệp thì chính CTCK là những người đầu tiên đánh giá được tiềm năng phát triển cũng như những thách thức mà doanh nghiệp đó sẽ phải đối mặt từ đó Công ty sẽ tiến hành đầu tư vào các doanh nghiệp và họ thấy có tiềm năng và triển vọng. Tỷ lệ cổ phiếu so với trái phiếu Các nhân tố chủ quan khác cũng là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới nghiệp vụ tự doanh chứng khoán của các CTCK. Tỷ lệ tự doanh cổ phiếu so với trái phiếu của các công ty chứng khoán cũng rất quan trọng để nói về tình hình tự doanh của công ty chứng khoán. Để có một tỷ lệ hợp lý giúp cho công ty có được nhiều lợi nhuận hơn, và phát triển bền vững hơn thì công ty chứng khoán phải có đội ngũ cán bộ giỏi và có năng lực. Thông thường tỷ lệ này nó phụ thuộc vào khả năng tài chính của công ty, nguồn thông tin có thể tìm kiếm được, khai thác và trình độ chuyên môn của nguồn nhân lực. Ngoài ra tỷ lệ này còn phụ thuộc vào từng thời kỳ phát triển của thị trường chứng khoán, nếu thời kì nền kinh tế đang thịnh vượng, chỉ số cổ phiếu đang lên ngôi thì tỷ lệ cổ phiếu cao sẽ đảm bảo cho công ty những khoản lợi nhuận kếch xù, nhưng nếu thời kì mà nền kinh tế suy thoái, chỉ số cổ phiếu xuống thấp thì đặt tỷ lệ cao cho trái phiếu sẽ giúp công ty bảo đảm an toàn nguồn vốn của mình. Do đó tầm nhìn của công ty chứng khoán lúc đó như thế nào sẽ được thể hiện rõ nét nhất. Quy trình tự doanh Quy trình tự doanh chứng khoán là một quy trình trong đó sự phân bổ công việc, trách nhiệm, quyền hạn và lợi ích của từng nhân viên thực hiện kinh doanh đầu tư cổ phiếu, trái phiếu và nhiều đối tượng khác có liên quan đồng thời cũng quy định chính sách giám sát, kiểm tra hoạt động đầu tư của công ty. Chỉ khi công ty xây dựng được một quy trình chặt chẽ và khoa học thì từng các bộ phận tự doanh cũng như các cấp ra quyết định ở trên mới nhận thức được rõ trách nhiệm của mình, từ đó hiệu quả của hoạt động tự doanh mới có hiệu quả nhất. Nếu quy trình tự doanh không logic, không chặt chẽ, bị trùng lắp thì rất dễ dẫn đến sự lãng phí nhân lực, thời gian và tiền bạc, ví dụ như trong quy trình tự doanh không quy định rõ những loại cổ phiếu nào thuộc thẩm quyền giao dịch của cán bộ tự doanh nào thì rất có thể các quyết định của họ sẽ xung đột nhau, một người thực hiện mua và người kia lại thực hiện bán cùng loại chứng khoán đó. CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TỰ DOANH TẠI CÔNG TY CHỨNG KHOÁN HABUBANK I. Giới thiệu chung về công ty chứng khoán Habubank 1. Qúa trình hình thành và phát triển của công ty chứng khoán Habubank Công ty chứng khoán TNHH Ngân hàng Thương mại cổ phần nhà Hà Nội (Habubank security) được thành lập ngày 04 tháng 11 năm 2005 theo quyết định số 14/UBCK-GPHĐKD của chủ tịch uỷ ban chứng khoán nhà nước, với số vốn điều lệ hiện có là 50 tỷ đồng. HBBS là công ty chứng khoán thứ 14 được thành lập và hoạt động trên thị trường chứng khoán Việt Nam. HBBS được ra đời trong bối cảnh thị trường chứng khoán Việt Nam đang trong giai đoạn sôi động nhất, là bước phát triển chiến lược của Ngân hàng mẹ HABUBANK. Với mục tiêu phải trở thành một trong 3 công ty chứng khoán dẫn đầu thị trường trong các phân khúc khách hàng của mình, cung ứng một cách toàn diện các dịch vụ và sản phẩm có tính sáng tạo cao và mang lại giá trị thực sự cho khách hàng, HBBS đã đầu tư lớn vào và không ngừng hoàn thiện cơ sở vật chất cũng như toàn thể đội ngũ cán bộ nhân viên trong công ty. Chú trọng khách hàng là mục tiêu đi đầu và xuyên suốt của HBBS trong mọi hoạt động của mình. Đầu tư xây dựng công ty với cơ sở vật chất hiện đại nhất hiện nay và một đội ngũ nhân viên với trình độ chuyên môn cao với đạo đức nghề nghiệp nổi trội là nền tảng để Công ty có thể mang đến cho các nhà đầu tư những thông tin cập nhật nhanh nhất từ thị trường cũng như thực hiện các giao dịch đạt độ chính xác với tốc độ cao, tạo cảm giác thoải mái cho các nhà đầu tư trong mỗi lần đến giao dịch tại Công ty. Làm vững chắc thêm tôn chỉ hoạt động của ngân hàng mẹ là "Giá trị tích luỹ niềm tin", HBBS luôn nhắm tới mục tiêu mang đến cho các nhà đầu tư những cơ hội đầu tư hiệu quả nhất xứng đáng với chi phí, thời gian và công sức, thông qua những dịch vụ mang tính chuyên nghiệp và có chất lượng cao. Trước mắt, kết hợp với HABUBANK, Công ty cung ứng các dịch sau: Về Dịch vụ đầu tư: Môi giới chứng khoán niêm yết; Môi giới chứng khoán chưa niêm yết (OTC); Tư vấn đầu tư chứng khoán; Lưu ký chứng khoán; Mua bán kỳ hạn chứng khoán chưa niêm yết (repo OTC); Đại lý phát hành chứng khoán; Ứng trước tiền bán chứng khoán, cổ tức; Cho vay mua chứng khoán Về Dịch vụ nghiên cứu phân tích: Nghiên cứu phân tích kinh tế vĩ mô của Việt Nam và thế giới, các ngành nghề kinh tế, doanh nghiệp, và về thị trường chứng khoán, các loại chứng khoán. HBBS sẽ tiến thêm 1 bước trong dịch vụ Tư vấn tài chính doanh nghiệp: Tư vấn cổ phần hoá, niêm yết, mua và sát nhập doanh nghiệp; Tư vấn và môi giới huy động vốn với quy mô lớn thông qua IPO hoặc các kênh khác. 2. Chức năng, nguyên tắc hoạt động, nhiệm vụ và quyền hạn của Công ty chứng khoán Habubank (HBBS) 2.1. Chức năng của HBBS HBBS cũng như chức năng của một CTCK thông thường có ba chức năng chủ yếu là: Tạo ra cơ chế huy động vốn bằng cách nối những người có tiền (nhà đầu tư) với những người muốn huy động vốn (người phát hành chứng khoán như các công ty cổ phần, Chính phủ..). Cung cấp một cơ chế giá cả cho giá trị của các khoản đầu tư. Cung cấp cơ chế chuyển ra tiền mặt cho các nhà đầu tư, tức là cung cấp một cơ chế chuyển chứng khoán ra tiền mặt một cách nhanh nhất và ngược lại. 2.2. Nguyên tắc hoạt động của HBBS Giao dịch trung thực và công bằng vì lợi ích của khách hàng trên cơ sở kết hợp hài hoà giữa lợi ích của công ty và lợi ích của khách hàng kinh doanh có kỹ năng tận tụy và có tinh thần trách nhiệm. Ưu tiên thực hiện lệnh của khách hàng trước khi thực hiện lệnh của công ty. Đảm bảo nguồn tài chính trong cam kết kinh doanh chứng khoán với khách hàng Tổ chức và thực hiện công tác thanh tra kiểm soát nội bộ để đảm bảo hoạt động của công ty và nhân viên của công ty phù hợp với các quy định của pháp luật. Không tiến hành các hoạt động có thể làm cho khách hàng và công chúng hiểu lầm về giá cả, giá trị và bản chất của chứng khoán hoặc các hoạt động khác gây thiệt hại cho khách hàng 2.3. Nhiệm vụ và quyền hạn của HBBS Có quyền chủ động tiến hành hoạt động kinh doanh và chịu trách nhiệm về các khoản nợ, cam kết của mình trong phạm vi số vốn và tài sản được Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội giao cho công ty quản lý và sử dụng. Ký hợp đồng bằng văn bản với khách hàng về mua bán chứng khoán, quản lý doanh mục đầu tư, bảo lãnh phát hành, thực hiện các nghĩa vụ lưu kí chứng khoán. Phải thu thập đầy đủ thông tin về tình hình tài chính và mục tiêu đầu tư của khách hàng. Quản lý tái sản chứng khoán của khách hàng tách biệt với tài sản chứng khoán của công ty. Chỉ nhận lệnh của khách hàng tại trụ sở chính và các chi nhánh có đăng ký. Bảo mật thông tin cho khách hàng. Thu phí cung cấp dịch vụ, mức phí do Uỷ ban chứng khoán Nhà nước quy định sau khi thoả thuận với bộ tài chính. Thực hiện chế độ kế toán, tài chính theo quy định của pháp luật. Trong khuôn khổ biên chế được Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội cho phép, công ty được quền tuyển chọn bố trí sử dụng hoặc cho thôi việc đối với cán bộ, nhân viên công tác trong bộ máy quản lý và kinh doanh của công ty. Công ty có trách nhiệm chăm lo phát triển nguồn nhân lực để đảm bảo thực hiện chiến lược phát triển và nhiệm vụ kinh doanh của công ty. 3. Cơ cấu tổ chức các phòng ban 3.1. Sơ đồ tổ chức HBBS bao gồm tất cả phòng ban là: phòng Môi giới chứng khoán, phòng Phân tích, phòng Tự doanh, và phòng Kế toán lưu ký. Ngoài ra công ty còn một số phòng đang trong quá trình chuẩn bị đưa vào hoạt động như phòng Tư vấn tài chính và tư vấn đầu tư chứng khoán, và Bảo lãnh phát hành. Sơ đồ 2: Sơ đồ tổ chức quản lý của HBBS NHTMCP NHÀ HN BAN GIÁM ĐỐC CÔNG TY CK HABUBANK ĐẠI DIỆN TẠI TTGDHCM ĐẠI DIỆN TẠI TTGDCKHN PHÒNG MÔI GIỚI PHÒNG TỰ DOANH PHÒNG TƯ VẤN ĐT PHÒNG PHÂN TÍCH PHÒNG KẾ TOÁN LƯU KÝ 3.2. Cơ cấu các phòng ban Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội: là cơ quan quyền lực cao nhất của Công ty. Là pháp nhân đầu tiên góp vốn sang lập ra HBBS. HBBS: là tổ chức đứng ra điều hành các hoạt động chứng khoán của công ty và trực thuộc NHTMCP Nhà Hà Nội. Ban giám đốc: Ban Giám đốc do Ngân Hàng TMCP Nhà Hà Nội bổ nhiệm, có nhiệm vụ tổ chức điều hành và quản lý mọi hoạt động kinh doanh của Công ty theo chiến lược và kế hoạch kinh doanh hàng năm đã được Ngân Hàng thông qua. Giám đốc là người đại diện trước pháp luật của Công ty, thành viên ban giám đốc có nhiệm kỳ 3 năm. Phòng Môi giới chứng khoán với hai chức năng cơ bản là: Cung cấp thông tin và tư vấn cho khách hàng: công ty thông qua các nhân viên bán hàng cung cấp cho khách hàng các báo cáo nghiên cứu những khuyến nghị đầu tư. Nguồn quan trọng nhất của các báo cáo nghiên cứu này là từ bộ phận nghiên cứu trong công ty. Cung cấp các sản phẩm và dịch vụ tài chính giúp khách hang thực hiện giao dịch theo yêu cầu và vì lợi ích của họ. Qúa trình này bao gồm hàng loạt các công việc sau: hướng dẫn khách hang mở tài khoản tại công ty, tiến hành giao dịch, xác nhận giao dịch, thanh toán và chuyển kết quả giao dịch cho khách hàng. Phòng phân tích Với chức năng cơ bản là đưa ra các sản phẩm phân tích tốt từ đó có thể giúp công ty kinh doanh và tư vấn cho khách hàng có hiệu quả. Phòng phân tích của công ty bao gồm hai chức năng cơ bản là: Phân tích cho hoạt động tự doanh của công ty. Phân tích để phục vụ các khách hàng chiến lược của công ty cũng như các khách hàng tiềm năng. Vì vậy phòng phân tích có vai trò đặc biệt quan trọng trong một công ty chứng khoán, nó không những tự đưa ra các sản phẩm cho chính mình mà còn là mắt xích quan trọng để kết nối khách hàng với công ty và hoạt động kinh doanh chứng khoán của công ty hoạt động có hiệu quả hay không có phụ thuộc rất lớn vào các sản phẩm từ phòng phân tích này. Phòng Tự doanh HBBS đầu tư kinh doanh cho chính Công ty bằng vốn của mình, vốn vay tín dụng và vì mục tiêu thu nhập. Hoạt động tự doanh là điều kiện song song bắt buộc phải có để công ty có thể triển khai thực hiện hoạt động bảo lãnh phát hành, một hoạt động quan trọng liên quan trực tiếp đến việc huy động vốn của các doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán mà hiện nay công ty đang triển khai rất mạnh mẽ. Hoạt động tự doanh được hỗ trợ rất nhiều từ hoạt động tư vấn, bảo lãnh phát hành cũng như dịch vụ tư vấn tài chính của công ty, những thông tin có được từ các hoạt động này là những yếu tố quan trọng giúp HBBS xây dựng được một danh mục đầu tư hợp lý, an toàn. Dựa vào những am hiểu sâu sắc về thị trường và sự lớn mạnh của hoạt động tư vấn, HBBS đang xây dựng cho mình một danh mục đầu tư tự doanh hợp lý và hiệu quả bao gồm các chứng khoán niêm yết, chưa niêm yết và trái phiếu, trên nguyên tắc đa dạng hóa danh mục đầu tư để phân tán rủi ro, đảm bảo cân bằng và tập trung vào các chứng khoán có tiềm năng tăng trưởng nhanh và ổn định. Phòng tư vấn đầu tư: là việc người tư vấn sử dụng kiến thức, đó chính là vốn họ bỏ ra để kinh doanh nhưng những báo cáo phân tích của họ lại có tác động tâm lý rât lớn đến người được tư vấn và có thể làm cho người được tư vấn hưởng lợi hay bị thiệt hại. Nhà tư vấn phải luôn là những người thận trọng khi đưa ra những lời bình luận về giá trị của các loại chứng khoán, nếu người đầu tư có lợi kiếm được tiền từ những lời tư vấn thì những người tư vấn sẽ được sự cảm ơn và có thể thêm một phần hoa hồng nhưng nếu nhà đầu tư bị thiệt hại từ những lời tư vấn đó thì chắc chắn nhà tư vấn sẽ bị phàn nàn, bị thiệt hại đến thanh danh và đặc biệt có thể bị bồi thường. Đại diện sàn tại thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội: là bộ phận đại diện cho CTCK Habubank để nhận lệnh giao dịch từ Trụ sở chính đến đưa lên Trung tâm giao dịch và đại diện cung cấp thông tin của hai TTGD về Trụ sở chính từ đó có thể thông báo kịp thời cho nhà đầu tư. 4. Kết quả hoạt động kinh doanh chung của HBBS năm 2006 4.1. Hoạt động môi giới 4.1.1. Kết quả mua bán của khách hàng 4.1.1.1. Người đầu tư trong nước Bảng 1: Số lượng tài khoản giao dịch của NĐT trong nước năm 2006 Địa điểm Tổng số tài khoản mở giao dịch chứng khoán Cá nhân Tổ chức Trụ sở chính 2450 15 Tổng 2450 15 Nguồn: HBBS 4.1.1.2. Người đầu tư nước ngoài Bảng 2: Số lượng tài khoản NĐT nước ngoài năm 2006 Địa điểm Tổng số tài khoản mở giao dịch chứng khoán Cá nhân Tổ chức Trụ sở chính 5 2 Tổng 5 2 Nguồn: HBBS 4.1.2. Tình hình thực hiện hoạt động môi giới 4.1.2.1 Đối với người đầu tư trong nước - Cổ phiếu Bảng 3: Tình hình hoạt động môi giới cổ phiếu cho NĐT trong nước Địa điểm Hình thức giao dịch Tổng mua cả năm Tổng bán cả năm Tổng mua Quý IV Tổng bán Quý IV Khối lượng (cổ phiếu) Giá trị (nghìn đồng) Khối lượng (cổ phiếu) Giá trị (nghìn đồng) Khối lượng (cổ phiếu) Giá trị (nghìn đồng) Khối lượng (cổ phiếu) Giá trị (nghìn đồng) Trụ sở chính K. lệnh 8,560,000 832,589,542 6,068,760 508,056,790 3,026,150 350,152,230 3,614,240 420,262,000 Thỏa thuận 3,605,900 398,069,566 2,980,000 368,096,210 1,250,000 140,521,120 1,520,000 130,098,757 Tổng 12,165,900 1,230,659,108 9,048,760 876,153,000 4,286,150 490,673,350 5,134,240 550,360,757 Tổng số 12,165,900 1,230,659,108 9,048,760 876,153,000 4,286,150 490,673,350 5,134,240 550,360,757 Nguồn: HBBS Trái phiếu Bảng 4: Tình hình hoạt động môi giới trái phiếu cho NĐT trong nước năm 2006 Địa điểm Hình thức giao dịch Tổng mua cả năm Tổng bán cả năm Tổng mua Quý IV Tổng bán Quý IV Khối lượng (trái phiếu) Giá trị (Nghìnđồng) Khối lượng (trái phiếu) Giá trị (nghìn đồng) Khối lượng (trái phiếu ) Giá trị (nghìn đồng) Khối lượng (trái phiếu) Giá trị (nghìn đồng) Trụ sở chính Thoả thuận 1,122,230 150,256,950 20,590 2,500,650 506,980 59,005,596 18,900 20,498,000 Tổng số 1,122,230 150,256,950 20,590 2,500,650 506,980 59,005,596 18,900 20,498,000 Nguồn: HBBS 4.1.2.2. Đối với người đầu tư nước ngoài Cổ phiếu Bảng 5: Tình hình hoạt động môi giới cổ phiếu cho NĐT nước ngoài năm 2006 Địa điểm Hình thức giao dịch Tổng mua cả năm Tổng bán cả năm Tổng mua Quý IV Tổng bán Quý IV Khối lượng (trái phiếu) Giá trị (nghìn đồng) Khối lượng (trái phiếu) Giá trị (nghìn đồng) Khối lượng (trái phiếu) Giá trị (nghìnđồng) Khố ilượng (trái phiếu) Giá trị (nghìn đồng) Trụ sở chính K. lệnh 1,800,500 130,500,980 500,600 41,056,000 445,000 37,560,900 105,560 13,506,530 Thỏa thuận 2,202,000 234,005,963 105,000 12,505,000 800,560 92,056,000 30,900 35,300,598 Tổng 4,002,500 364,506,943 605,600 53,561,000 1,245,560 129,616,900 136,460 48,807,128 Tổng số 4,002,500 364,506,943 605,600 53,561,000 1,245,560 129,616,900 136,460 48,807,128 - Trái phiếu Bảng 6: Tình hình hoạt động môi giới trái phiếu của NĐT nước ngoài năm 2006 Địa điểm Hình thức giao dịch Tổng mua cả năm Tổng bán cả năm Tổng mua Quý IV Tổng bán Quý IV Khối lượng (trái phiếu) Giá trị (nghìn đồng) Khối lượng (trái phiếu) Giá trị (nghìn đồng) Khối lượng (trái phiếu) Giá trị (nghìn đồng) Khối lượng (trái phiếu) Giá trị (nghìn đồng) Trụ sở chính Thỏa thuận 120,000 12,745,000 20,000 3,500,000 45,600 5,060,000 10,000 1,200,000 Tổng số 120,000 12,745,000 20,000 3,500,000 45,600 5,060,000 10,000 1,200,000 Nguồn: HBBS 4.1.3 Tổng phí môi giới thu được Phí môi giới thực thu của: - Cổ phiếu: 51,048,648 đồng - Chứng chỉ quỹ: 6,869,649,000 đồng - Trái phiếu: 5,860,000,000 đồng Phí môi giới chờ thu của: - Cổ phiếu: 7,890,000,000 đồng - Trái phiếu: 2,530,000,000 đồng Sở dĩ ở đây có phí chờ thu là do HBBS chưa thu 4.1.4. Tổng tiền gửi giao dịch chứng khoán - Cá nhân đầu tư: 38,521,808,200 đồng - Tổ chức đầu tư: 51,320,100,000,000 đồng 4.1.5. Tình hình sửa lỗi giao dịch - Thời gian mắc lỗi: 6 - Loại lỗi: nhập sai số tài khoản và chứng khoán giao dịch tại Công Ty. - Tình hình khắc phục: đã khắc phục. 4.2. Hoạt động tự doanh Sẽ đề cập cụ thể ở phần thực trạng hoạt động tự doanh của HBBS 4.3. Hoạt động tư vấn tài chính và đầu tư chứng khoán Tổng số hợp đồng tư vấn đầu tư trực tiếp ký trong năm: 50 hợp đồng Tên tổ chức được tư vấn niêm yết chứng khoán: công ty cổ phần vinashin,công ty TNHH Đam San,công ty TNHH Đô Thành,bà Nguyễn Thị Hiền Ba Đình –HN,ông Vũ Hà Kim Liên-HN,…và một số cá nhân tổ chức khác 4.4. Nhận xét chung về kết quả kinh doanh năm 2006 của HBBS Nhìn chung HBBS là một công ty chứng khoán thành lập khá muộn tuy nhiên thời gian đó cũng đã là đủ để công ty tạo dựng uy tín cũng như khẳng định được sự thành công rất nhiều của mình trong thời kì mới này. Do mới thành lập đội ngũ nhân viên còn non trẻ, chưa tạo được sức cạnh tranh về một số nghiệp vụ như Bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư… với các công ty đã có thâm niên lâu năm cũng như có nhiều kinh nghiệm về các nghiệp vụ đó đã làm cho doanh thu của công ty chưa được cao so với các công ty đã có thâm niên lâu năm như các công ty chứng khoán BVSC, ICBS, BSC, VCBS…. Tuy nhiên trong thời gian tới thì công ty đã có những định hướng phát triển cũng như tuyển dụng nguồn nhân lực chất lượng cao, đã qua các trường lớp đào tạo về chứng khoán cũng như đội ngũ học tập từ nước ngoài trở về thì tôi nghĩ công ty sẽ thực sự trở thành một trong những công ty chứng khoán mạnh của cả nước. Nói về hoạt động môi giới của công ty thì đã có những bước phát triển vượt bậc. Hồi đầu năm số lượng nhà đầu tư mới chỉ có vài trăm người, tổ chức cũng chỉ có một vài tổ chức quen biết nhưng đến nay mới chưa được một năm công ty đã có tới gần 2500 nhà đầu tư và 50 tổ chức, ngoài ra công ty cũng đã tiếp nhận nhiều nhà đầu tư cá nhân, tổ chức nước ngoài đến lập tài khoản và đầu tư tại công ty điều đó đã nói lên sự trưởng thành của đội ngũ môi giới trẻ của công ty. Đội ngũ môi giới cũng đã tạo sự thân quen, thân thiết với khách hàng, đưa ra những lời cảnh báo khi cần thiết và đã được khách hàng tin tưởng, những mâu thuẫn giữa khách hàng với môi giới ít khi xảy ra đã làm cho hình ảnh của công ty thật sự có tiếng trong giới đầu tư chứng khoán. Nói về hoạt động tư vấn đầu tư cũng đã thu được những bước tiến đáng kể đã tư vấn, bán bản quyền phân tích cho nhiều công ty, cũng như những cá nhân cần sự tư vấn trước khi đầu tư, tuy đội ngũ còn trẻ song họ nắm rất vững những kiến thức cơ bản và phân tích chuyên sâu đã đưa ra những sản phẩm tốt cho công ty. Nói về hoạt động tự doanh của công ty thì cũng đã thu được những thắng lợi nhất định, với sự nhận định đánh giá tình hình cũng như sự phân tích tâm lý thị trường, phân tích công ty sâu sắc đã mang lại những khoản lợi nhuận không nhỏ cho công ty. Tuy nhiên hoạt động tự doanh của công ty thì chủ yếu lại là đầu tư cổ phiếu Niêm yết, chưa chú trọng nhiều đến cổ phiếu OTC và Trái phiếu nên hoạt động tự doanh của công ty đã có những rủi ro nhất định, vì vậy để định hướng cho sự phát triển lâu dài và ổn định của công ty thì công ty cần có tỷ lệ đầu tư vào cổ phiếu Niêm yết cũng như OTC và Trái phiếu phải phù hợp… II. Thực trạng hoạt động tự doanh tại HBBS 1. Thực trạng nguồn vốn tự doanh của HBBS Với vốn điều lệ hiện có là 50 tỷ, là do Ngân hàng mẹ cung cấp để thành lập. HBBS đang có chiến lược tăng vốn điều lệ lên 300 tỷ từ nay đến năm 2008, vì vậy hoạt động tự doanh của công ty chỉ được tự doanh trên phần vốn tự có với hoạt động tự doanh là bảo lãnh phát hành trái phiếu mà đặc biệt công ty đã bảo lãnh phát hành trái phiếu Vinashin, công ty chưa thực hiện được hoạt động tự doanh trên phần vốn vay, từ nay đến năm 2008 công ty sẽ thực hiện nâng vốn điều lệ lên 300 tỷ đồng bằng cách phát hành thêm cổ phiếu, nên công ty sẽ thực hiện tự doanh trên phần vốn vay này khi nâng vốn điều lệ lên. Việc nâng vốn điều lệ lên 300 tỷ đồng và nâng hạn mức tự doanh cổ phiếu lên tương ứng sẽ làm tăng năng lực tài chính và nâng cao được nguồn vốn tự doanh vào cổ phiếu tự nguồn vốn phát hành thêm cổ phiếu này. 2. Hạn mức tự doanh của HBBS Tự doanh cổ phiếu Không vượt quá 20% vốn điều lệ của công ty. Tuy nhiên trong trường hợp đặc biệt để đảm bảo ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc5557.doc
Tài liệu liên quan