Phát triển nông nghiệp hàng hóa ở đồng bằng sông Cửu Long - Thực trạng và giải pháp

Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Phát triển kinh tế - xã hội nông thôn chiếm vị trí quan trọng hàng đầu ở nhiều quốc gia không những ở các nước kém phát triển, mà ngay cả các nước có nền kinh tế phát triển cao. ở nước ta, nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, 80% dân số sống ở nông thôn, lao động nông nghiệp chiếm 75% lực lượng lao động xã hội và sản xuất nông nghiệp hiện nay vẫn chủ yếu là độc canh cây lúa, thuần nông, năng suất lao động thấp... do đó đời sống nông dân nói chung còn thấp. Ch

doc106 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1396 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Phát triển nông nghiệp hàng hóa ở đồng bằng sông Cửu Long - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ỉ có phát triển nền nông nghiệp hàng hóa có hiệu quả, đạt năng suất cao, chất lượng tốt, chủng loại hàng hóa nông sản phong phú thì mới cải thiện được đời sống dân cư ở nông thôn. Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là một trong hai vựa lúa lớn của cả nước. Đây là vùng có điều kiện thâm canh phát triển nông nghiệp, đặc biệt là lúa gạo để xuất khẩu, chăn nuôi... Nhưng sự phát triển của nền nông nghiệp hàng hóa còn bộc lộ nhiều yếu kém và khiếm khuyết. Cơ cấu kinh tế mang nặng tính chất thuần nông. Đồng bằng sông Cửu Long là vựa lúa lớn, song nông dân vẫn sống trong cảnh nghèo nàn và lạc hậu, tỷ lệ nghèo đói vẫn còn khá cao (khoảng 20%). Vấn đề cơ bản và cấp bách hiện nay là để đưa nông dân vùng Đồng bằng sông Cửu Long thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu thì phải đẩy mạnh phát triển nông nghiệp hàng hóa, một yêu cầu bức xúc cần được luận giải trên cả lý luận và thực tiễn. Do đó "Phát triển nông nghiệp hàng hóa ở đồng bằng sông Cửu Long - Thực trạng và giải pháp" được chọn làm đề tài nghiên cứu của luận án này. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Phát triển kinh tế hàng hóa nói chung, nền nông nghiệp hàng hóa nói riêng, tạo nhiều sản phẩm hàng hóa cho xã hội, nhằm thực hiện mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh" là một trong những nội dung cơ bản trong đường lối kinh tế của Đảng và Nhà nước ta. Vì thế đã có nhiều nhà khoa học nghiên cứu, nhiều công trình đã công bố, như: - Phát triển nông nghiệp hàng hóa trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước - Luận án tiến sĩ kinh tế, Hà Nội 1999. - Phát triển kinh tế hàng hóa ở tỉnh Ninh Thuận: Thực trạng và giải pháp - Luận án thạc sĩ khoa học kinh tế, của Nguyễn Bá Ninh, Hà Nội 2000. - Chính sách thị trường với phát triển nông nghiệp, nông thôn của Chu Hữu Quý và Nguyễn Kế Tuấn, Tạp chí cộng sản, (20) 10/1998. - Đẩy mạnh phát triển một số hàng nông sản xuất khẩu có sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế của Lê Huy Ngọ, Tạp chí Kinh tế nông nghiệp, số 2/1998. Và nhiều tác phẩm liên quan khác. Nhưng những công trình này chỉ mới đề cập đến những định hướng và một số chủ trương lớn hoặc cụ thể để phát triển kinh tế hàng hóa nói chung, nông nghiệp hàng hóa nói riêng chứ chưa đi sâu nghiên cứu một cách có hệ thống việc phát triển nông nghiệp hàng hóa ở ĐBSCL. Như vậy trên thực tế chưa có công trình nào trùng với tên đề tài nghiên cứu luận án. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu a) Mục đích: Mục đích của luận án là làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn và phương hướng, giải pháp đẩy mạnh phát triển nông nghiệp hàng hóa góp phần phát triển kinh tế - xã hội ĐBSCL nói riêng, cả nước nói chung. b) Nhiệm vụ: - Làm rõ sự cần thiết và vai trò việc phát triển nông nghiệp hàng hóa ở ĐBSCL. - Phân tích tiềm năng, đánh giá thực trạng phát triển nông nghiệp hàng hóa ở ĐBSCL, đồng thời xác định rõ những nguyên nhân của thực trạng. - Trình bày những phương hướng và giải pháp chủ yếu để đẩy mạnh phát triển nông nghiệp hàng hóa ở ĐBSCL. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp luận của đề tài - Luận án dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Sử dụng phương pháp nghiên cứu của khoa học kinh tế chính trị, chú ý vận dụng tổng hợp các phương pháp so sánh, phân tích, thống kê, tổng kết thực tiễn. 5. Phạm vi nghiên cứu của luận văn - Đối tượng nghiên cứu: là nông nghiệp hàng hóa. - Thời gian: từ 1986 đến nay, ở ĐBSCL. 6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn - Phân tích làm rõ những tiềm năng và những yếu tố chi phối sự phát triển nông nghiệp hàng hóa ở ĐBSCL. - Phân tích những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh phát triển nông nghiệp hàng hóa ở ĐBSCL. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài lời mở đầu và kết luận, luận án kết cấu gồm 3 chương 7 tiết. Chương 1 Nông nghiệp hàng hóa: Nội dung, vai trò và những tiềm năng điều kiện phát triển nó ở đồng bằng sông Cửu Long 1.1. Nông nghiệp hàng hóa: khái niệm, nội dung 1.1.1. Khái niệm Kinh tế tự nhiên và kinh tế hàng hóa, là hai hình thức kinh tế - xã hội đã hình thành và tồn tại trong quá trình lịch sử nhân loại. Hai hình thức này được hình thành và phát triển trên cơ sở phát triển của lực lượng sản xuất xã hội, trình độ phân công lao động xã hội, trình độ phát triển và phạm vi của quan hệ trao đổi khác nhau. Ai cũng biết rằng kiểu tổ chức kinh tế đầu tiên của loài người, là kinh tế tự nhiên, với đặc trưng chủ yếu là tự cung, tự cấp - tức sản phẩm lao động được sản xuất ra chỉ nhằm thỏa mãn nhu cầu của người sản xuất hoặc chỉ trong nội bộ đơn vị kinh tế. Nền kinh tế tự nhiên do nhiều đơn vị kinh tế thuần nhất hợp lại. Kinh tế nông dân kiểu gia trưởng, công xã nông thôn nguyên thủy, các điền trang thái ấp của địa chủ. Và mỗi đơn vị kinh tế ấy làm đủ các loại ngành nghề, sản xuất sản phẩm để tự tiêu dùng, sản xuất chủ yếu hướng vào giá trị sử dụng mang tính tự cung tự cấp. Trong nền kinh tế tự nhiên, con người dựa chủ yếu vào tự nhiên và khai thác tự nhiên, do đó có thể nói rằng trong nền kinh tế này, ruộng đất là tư liệu sản xuất chủ yếu của người lao động và nông nghiệp là ngành sản xuất chính, kỹ thuật, công cụ lao động, phương thức canh tác lạc hậu và thô sơ. Xã hội loài người "chìm đắm" trong nền kinh tế tự nhiên hàng nghìn năm rồi mới phát triển lên kinh tế hàng hóa. Kinh tế hàng hóa là loại hình tổ chức kinh tế - xã hội cao hơn kinh tế tự nhiên. Phân công xã hội là cơ sở chung của mọi nền kinh tế hàng hóa. Song, chỉ riêng phân công xã hội thì chưa đủ điều kiện cho sự xuất hiện kinh tế hàng hóa. Tính tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất là điều kiện thứ hai, cần và đủ cho sự ra đời kinh tế hàng hóa. Như vậy, rõ ràng là cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội, của sự phân công lao động xã hội và chuyên môn hóa sản xuất và tính độc lập tương đối về kinh tế của các chủ thể sản xuất, xã hội loài người bước vào giai đoạn phát triển kinh tế mới, cao hơn - kinh tế hàng hóa. Có nhiều quan niệm khác nhau về kinh tế hàng hóa do cách tiếp cận và khái quát không giống nhau. Tham khảo và kế thừa các quan niệm của các tác giả đi trước về phạm trù kinh tế hàng hóa, chúng tôi cho rằng nói đến kinh tế hàng hóa thì phải biểu đạt được các đặc trưng bản chất của nó, như: kinh tế hàng hóa là nền kinh tế sản xuất ra hàng hóa và dịch vụ để trao đổi, mua bán trên thị trường, tức là sản xuất theo nhu cầu của xã hội thể hiện trên thị trường; là một hình thức tổ chức kinh tế - xã hội trong đó các mối quan hệ kinh tế cơ bản được thể hiện thông qua quan hệ mua bán trên thị trường; chi phối các mối quan hệ kinh tế cơ bản ấy là các quy luật của kinh tế hàng hóa: quy luật giá trị, quan hệ cung - cầu, quan hệ cạnh tranh... Kinh tế hàng hóa có nhiều ưu thế, như: thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, mở rộng phân công lao động xã hội, thúc đẩy tăng năng suất lao động xã hội; là hình thức thể hiện và thực hiện xã hội hóa lao động và sản xuất; kích thích việc nâng cao số lượng, chất lượng hàng hóa và dịch vụ; kích thích tính năng động sáng tạo của các chủ thể sản xuất - kinh doanh và có tác dụng là khai thác có hiệu quả các tiềm năng kinh tế của xã hội... Tuy nhiên, kinh tế hàng hóa cũng có những hạn chế của nó như: do cạnh tranh dẫn đến tính tự phát, mất cân đối trong kinh tế, phân hóa người sản xuất, do chạy theo lợi nhuận tối đa nên có thể dẫn đến sự tàn phá, hủy hoại môi trường, môi sinh... Do đó, đòi hỏi phải có sự quản lý của Nhà nước để khắc phục hạn chế của kinh tế hàng hóa. Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định rõ ràng: "Sản xuất hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa xã hội, mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan cần thiết cho công cuộc xây dựng CNXH và cả khi CNXH đã xây dựng xong" [19, 97]. Kinh tế hàng hóa, nếu xét theo phạm vi hoạt động và tính chất khu vực thì ở mỗi quốc gia đều bao gồm các bộ phận hợp thành là kinh tế hàng hóa thành thị và kinh tế hàng hóa nông thôn. Kinh tế hàng hóa nông thôn bao gồm toàn bộ các hoạt động sản xuất hàng hóa nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ diễn ra trên địa bàn nông thôn. Nông nghiệp hàng hóa là một bộ phận của nền kinh tế hàng hóa nói chung, nó sản xuất ra nông sản phẩm (nông, lâm, ngư nghiệp) không phải để tự tiêu dùng của người sản xuất, mà là để trao đổi, để bán trên thị trường, nó là hình thức tổ chức kinh tế - xã hội, trong đó có mối quan hệ kinh tế giữa người với người, giữa các chủ thể với nhau được thể hiện thông qua trao đổi, mua bán trên thị trường, quan hệ hàng hóa - tiền tệ, quan hệ thị trường, quan hệ hạch toán... là những quan hệ kinh tế chủ yếu của loại hình này, chịu sự chi phối bởi trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, của quan hệ sản xuất, thiết chế kinh tế - xã hội, phong tục tập quán, văn hóa... trong đó trực tiếp và khách quan là sự tác động của các quy luật giá trị, quy luật cung - cầu, quy luật cạnh tranh. Nền nông nghiệp hàng hóa ra đời đối lập với nền nông nghiệp tự cung tự cấp. Nó có nhiều ưu thế so với nông nghiệp tự túc tự cấp. Vì vậy, trong lịch sử phát triển kinh tế của xã hội loài người thì sự ra đời và phát triển của nông nghiệp hàng hóa được coi là một bước tiến bộ của lịch sử, một nấc thang phát triển của nền văn minh nhân loại. 1.1.2. Nội dung phát triển nền nông nghiệp hàng hóa 1.1.2.1. Xây dựng cơ cấu sản phẩm, kinh tế nông nghiệp hàng hóa hợp lý Nông nghiệp hàng hóa hiểu theo nghĩa rộng sản phẩm của nó đa dạng bao gồm sản phẩm của các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp. Mỗi ngành lại chia thành những phân ngành nhỏ hơn, chẳng hạn như ngành nông nghiệp phân thành ngành trồng trọt, chăn nuôi. Đến lượt ngành trồng trọt lại chia thành cây lương thực, cây rau đậu ngắn ngày, cây công nghiệp, cây ăn quả... Đi liền với sự phân công lao động sâu sắc là sự phân ngành càng chi tiết, đa dạng hơn. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin không những đã coi phân công lao động là một trong hai điều kiện ra đời và tồn tại của nền kinh tế hàng hóa nói chung và nông nghiệp hàng hóa nói riêng, mà còn đặt nó trong mối quan hệ với cách mạng kỹ thuật, với quy mô trao đổi, với quy mô thị trường. Không phải ngẫu nhiên mà C.Mác và V.I.Lênin đã nói về quan hệ giữa phân công lao động xã hội với khái niệm thị trường nói chung và thị trường nông thôn nói riêng: "Thị trường của những hàng hóa đó phát triển nhờ sự phân công lao động" [34]. Xét thuần túy về mặt kỹ thuật của lao động thì phân công lao động là sự chuyên môn hóa lao động trong quá trình tái sản xuất xã hội. Phân công lao động xã hội là kết quả của sự phát triển lực lượng sản xuất và của việc ứng dụng những tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất và thị trường là hệ quả tất yếu của phân công lao động xã hội ngày càng trở nên sâu sắc. Phân công lao động xã hội càng phát triển, tiến bộ khoa học công nghệ càng được ứng dụng rộng rãi vào sản xuất, thì quy mô dung lượng của thị trường theo đó cũng được mở rộng. Hay nói một cách khác tổng quát, quy mô, dung lượng của thị trường do tác động của nền kinh tế quyết định. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, khoa học công nghệ nói chung và chuyên môn hóa lao động nói riêng, làm cho năng suất lao động xã hội ngày càng tăng, số lượng sản phẩm làm ra ngày càng nhiều, chất lượng ngày càng cao, chủng loại ngày càng đa dạng phong phú. Do đó quy mô trao đổi và thị trường sẽ được mở rộng ra. V.I.Lênin viết: "Trong nền kinh tế hàng hóa thị trường chẳng qua chỉ là một sự biểu hiện của phân công lao động xã hội" [34, 117]. Sản xuất hàng hóa phát triển "thị trường mở rộng, sự phân công lao động xã hội lại được một đà thúc đẩy mới làm cho nó phát triển thêm, sâu sắc thêm" [34, 145]. Nông sản phẩm được tạo ra trong sản xuất của ngành nông nghiệp được mang đi trao đổi trên thị trường với tư cách một hàng hóa thì thị trường nông phẩm cũng xuất hiện. ở đây, các yếu tố, các điều kiện, các phương tiện và môi trường... để thực hiện giá trị hàng hóa nông phẩm cũng giống như các thị trường hàng hóa thông thường khác. Cơ chế thị trường bắt buộc mọi người thực hiện ý chí của mình theo quy luật kinh tế khách quan vốn có của nó. Về mặt không gian vùng lãnh thổ, thì nông nghiệp hàng hóa bao gồm các vùng khác nhau. Những vùng kinh tế hình thành do phân công lao động theo lãnh thổ trên phạm vi nông thôn cả nước, chẳng hạn như vùng chuyên canh lúa, vùng cây công nghiệp, vùng chuyên canh cây ăn quả, vùng chăn nuôi... Sự chuyên môn hóa sản xuất theo vùng nhằm bố trí các ngành sản xuất trên các vùng lãnh thổ sao cho thích hợp để khai thác được mọi ưu thế về nguồn lực của mỗi vùng, căn cứ vào điều kiện kinh tế, kỹ thuật và tự nhiên của từng vùng. Xu thế phát triển của kinh tế vùng là ngày càng chuyên môn hóa và tập trung hóa, hình thành trên các vùng trọng điểm sản xuất hàng hóa có hiệu quả kinh tế cao, để từ đó mở rộng ra các ngành khác. Còn trong mỗi vùng, lại dựa vào ngành sản xuất chuyên môn hóa mà phát triển mạnh mẽ ngành chuyên môn hóa, đồng thời khai thác một cách đầy đủ nguồn tài nguyên, cơ sở vật chất kỹ thuật và lao động của từng vùng ở nông thôn. Về mặt kinh tế xã hội, kinh tế hàng hóa nói chung và nông nghiệp hàng hóa nói riêng ở nông thôn, tồn tại và phát triển được trên cơ sở nền kinh tế nông nghiệp nhiều thành phần. Do trình độ phát triển và trình độ xã hội hóa của lực lượng sản xuất không đều nhau, nên quan hệ sản xuất (bao gồm quan hệ sở hữu, quan hệ tổ chức quản lý và quan hệ phân phối) cũng mang tính đa dạng, bên cạnh đó thì thích ứng với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất đòi hỏi phải có những quan hệ sản xuất, thành phần kinh tế cũng như hình thức tổ chức kinh tế tương ứng. Mặc dù mỗi thành phần kinh tế có bản chất, lợi ích và đặc trưng riêng. Song chúng không biệt lập với nhau, mà ngược lại có mối quan hệ tác động với nhau, vì chúng cùng tham gia vào hệ thống phân công xã hội, chúng vừa cạnh tranh vừa hợp tác với nhau để cùng tồn tại và phát triển. Nhận thức đúng đắn sự tồn tại khách quan, tính đa dạng về hình thức sở hữu và thành phần kinh tế... là cơ sở để đa dạng hóa các hình thức tổ chức nông nghiệp hàng hóa. 1.1.2.2. Nâng cao tỷ suất và chất lượng nông sản hàng hóa Thực chất của việc phát triển kinh tế hàng hóa nói chung, nông nghiệp hàng hóa nói riêng là tạo ra sản phẩm hàng hóa ngày càng nhiều về số lượng, phong phú đa dạng về chủng loại và chất lượng hàng hóa tốt, giá cả được người tiêu dùng chấp nhận. Hiểu theo nghĩa đơn giản, tỷ suất hàng hóa là tỷ lệ phần trăm số lượng sản phẩm của một ngành được đem ra trao đổi, mua bán trên thị trường. Tỷ suất hàng hóa nông nghiệp hàng hóa thấp hơn trong kinh tế công nghiệp thành thị. Vì đặc điểm của sản phẩm nông nghiệp, về mặt tự nhiên có thể tiêu dùng trực tiếp và thiết yếu nên nó được giữ lại một phần cho tiêu dùng của người sản xuất, ở đây có tính chất hàng hóa, có tính tự cấp tự túc hòa trộn với nhau. Tất nhiên nông nghiệp hàng hóa nông thôn càng phát triển thì tính thứ nhất (hàng hóa) càng tăng lên. Lênin viết: "Ngay bản thân quá trình hình thành nền nông nghiệp thương phẩm đã diễn ra không hoàn toàn giống như trong nền công nghiệp nhà máy, trong nền công nghiệp quá trình ấy diễn ra dưới hình thức giản đơn và theo đường thẳng, còn trong nông nghiệp chúng ta thấy khác hẳn; ở đây hiện tượng chủ yếu là sự hỗn hợp giữa nông nghiệp có tính chất thương nghiệp với nông nghiệp không có tính chất thương nghiệp, ở đây những hình thức khác nhau đã được kết hợp lại. ở từng địa phương, chủ yếu mang ra thị trường là một thứ sản phẩm nào đó. Một mặt, nền sản xuất của địa chủ mà đặc biệt là của nông dân là nền sản xuất hàng hóa, mặt khác nền sản xuất đó còn giữ tính chất tiêu dùng" [33]. Phát triển phân công lao động trong nông nghiệp, mở mang ngành, nghề, tăng năng suất lao động, đất đai, cây trồng vật nuôi, đa dạng hóa sản phẩm, mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản hàng hóa, ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào sản xuất nông nghiệp... là con đường để nâng cao tỷ suất hàng hóa, chất lượng hàng hóa nông sản. 1.1.2.3. Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và phát triển dịch vụ hỗ trợ nông nghiệp, nông thôn Tạo ra được một kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và tổ chức tốt hệ thống dịch vụ hỗ trợ cho nông nghiệp, nông thôn là vấn đề có ý nghĩa hàng đầu đối với việc chuyển đổi và phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng sản xuất hàng hóa. Đó cũng là nội dung quan trọng của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội bao gồm hệ thống cơ sở vật chất phục vụ sản xuất và đời sống ở nông thôn như: điện, nước sạch, các công trình thủy lợi, đường giao thông nông thôn, trường học, các cơ sở y tế... có thể nói gọn trong mấy từ "điện, đường, trường, trạm". Hệ thống dịch vụ hỗ trợ nông nghiệp nông thôn nhằm hỗ trợ đầu vào, đầu ra cho sản xuất nông nghiệp, nó bao gồm hệ thống chợ, các cửa hàng, hệ thống dịch vụ kỹ thuật ở nông thôn, trong đó tổ chức khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư và công tác khuyến nông... đóng vai trò chủ lực, quan trọng. Đặc biệt là phải phát triển công nghiệp chế biến và bảo quản hàng nông lâm, thủy sản. Công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản làm tăng giá trị thương phẩm của nông, lâm nghiệp, thủy sản đáp ứng nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng. Phát triển công nghiệp chế biến và bảo quản hàng nông sản phẩm cho phép nâng cao số lượng và chất lượng nông sản hàng hóa, tăng sức cạnh tranh trên thị trường và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh nông nghiệp. 1.1.2.4. Phát triển đa dạng các chủ thể sản xuất - kinh doanh nông nghiệp Tham gia vào sản xuất kinh doanh nông nghiệp có nhiều chủ thể khác nhau thuộc các thành phần kinh tế, với các hình thức tổ chức kinh tế đa dạng, như: doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, công ty tư nhân, nông trại gia đình... Các hình thức tổ chức kinh tế này ra đời và phát triển tùy thuộc vào tính chất của mỗi ngành và do yêu cầu sản xuất. Trong nông nghiệp hàng hóa thì hộ nông dân là đơn vị sản xuất cơ bản và là tế bào của xã hội. Hộ nông dân đóng vai trò quyết định trong việc phát triển sản xuất và mở rộng thị trường. Phát triển hộ nông dân theo xu hướng sản xuất hàng hóa và ngày càng có nhiều hộ sản xuất kinh doanh giỏi trở thành trang trại là một tất yếu khách quan trong quá trình phát triển nông nghiệp hàng hóa. 1.1.2.5. Phát triển nông nghiệp hàng hóa tạo nên sự biến đổi đời sống kinh tế - xã hội nông thôn Ngày nay, khái niệm phát triển kinh tế nói chung, phát triển nông nghiệp hàng hóa nói riêng, chứa đựng một ý niệm về sự tiến bộ kinh tế - xã hội, về sự tăng thu nhập và cải thiện đời sống nông dân, và tăng cả phúc lợi kinh tế, phúc lợi xã hội của cộng đồng dân cư nông thôn. Đồng thời, phát triển kinh tế, phát triển nông nghiệp hàng hóa còn có ý nghĩa là sự gia tăng sản lượng của nền nông nghiệp... Theo ý tưởng trên, thì việc phát triển nông nghiệp hàng hóa còn bao hàm các vấn đề: - Đưa tiến bộ kinh tế - xã hội về cho nông dân và nông dân sản xuất hàng hóa được hưởng những tiến bộ kinh tế - xã hội tạo ra trong quá trình phát triển nền nông nghiệp hàng hóa. - Tạo thêm việc làm, tăng thu nhập và nâng cao đời sống nông dân. - Giảm khoảng cách giàu nghèo trong nông dân. - Nâng cao chất lượng cuộc sống vật chất, tinh thần cho nông dân. - Xây dựng nông thôn ngày càng phát triển theo con đường tiến bộ, văn minh. 1.2. Vai trò của nông nghiệp hàng hóa đối với phát triển kinh tế - xã hội ở đồng bằng sông cửu long Kinh tế nông nghiệp ở nông thôn là khu vực sản xuất vật chất duy nhất cung ứng cho xã hội những sản phẩm lương thực, thực phẩm thỏa mãn những nhu cầu thiết yếu nuôi sống con người, mà những nhu cầu này không gì có thể thay thế được. Trong tương lai, cùng với sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật, tỷ trọng của cải vật chất đóng góp cho xã hội của khu vực kinh tế nông thôn sẽ giảm dần, đây là xu hướng tất yếu, nhưng khối lượng sản phẩm tuyệt đối của nó vẫn không ngừng tăng lên. Trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước nói chung và ở ĐBSCL nói riêng, nông nghiệp hàng hóa vùng này đã đóng góp một vai trò không nhỏ: Một là, cung cấp cho xã hội phần lớn những sản phẩm lương thực, thực phẩm thỏa mãn nhu cầu thiết yếu nuôi sống con người, tăng dự trữ đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và phát triển xuất khẩu. Chỉ tính mặt hàng nông sản tiêu biểu là cây lương thực (lúa), thì ĐBSCL với diện tích tự nhiên 3,9 triệu ha, chỉ chiếm 12% diện tích tự nhiên cả nước, nhưng hàng năm ĐBSCL đã đóng góp trên 50% sản lượng lúa toàn quốc, trên 90% sản lượng gạo hàng hóa cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, tương ứng khoảng 6-7 triệu tấn lúa, quy ra 3 - 3,5 triệu tấn gạo, trong đó tham gia xuất khẩu trên dưới 2 triệu tấn gạo (không kể xuất tiểu ngạch), góp phần vào 1999 nước ta đã vươn lên với tổng sản lượng 31,8 triệu tấn và có kim ngạch xuất khẩu gạo khoảng 4 triệu tấn đứng hàng thứ hai trên thế giới trước Mỹ, ấn Độ và chỉ sau Thái Lan. Như vậy, phát triển sản xuất lúa - mặt hàng nông phẩm chủ lực ở ĐBSCL không chỉ có ý nghĩa cho vùng mà còn có ý nghĩa chiến lược về an toàn lương thực cho cả nước. Do lương thực dồi dào nên chăn nuôi ở ĐBSCL cũng phát triển và có điều kiện tác động đến các ngành khác phát triển theo, mở mang ngành nghề ở nông thôn, tăng thu nhập và cải thiện đời sống dân cư trong vùng. Nhờ đó mà đời sống chính trị - xã hội ở nông thôn được ổn định. Có thể nói rằng thành công trong vấn đề lương thực là cơ sở tiền đề để giải quyết các vấn đề khác trong nông nghiệp nông thôn. Khi năng suất lao động ngành trồng cây lương thực tăng lên, thì có thể rút bớt diện tích đất đai và lao động để phát triển cây công nghiệp, tăng thêm nguồn nguyên liệu cho công nghiệp chế biến. Cả sản xuất lương thực, chăn nuôi và cây công nghiệp phát triển làm cho nông sản hàng hóa nói chung và việc cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp tăng lên, thúc đẩy công nghiệp phát triển. Và khi nông nghiệp hàng hóa phát triển đến một mức nào đó nhất là sản xuất lương thực, năng suất lao động tăng lên thì sẽ rút bớt được lao động trồng cây lương thực để phát triển ngành nghề trong nông thôn và cung cấp lao động cho công nghiệp và các ngành dịch vụ. Nếu không có nguồn lao động từ nông thôn thì công nghiệp và dịch vụ không thể phát triển được, nhất là trong điều kiện nước ta hiện nay nông thôn ở khu vực ĐBSCL chiếm hơn 75% lực lượng lao động xã hội. Hồ Chủ tịch đã nói: "Muốn phát triển công nghiệp, phát triển kinh tế nói chung phải lấy việc phát triển nông nghiệp làm gốc, làm chính. Nếu không phát triển nông nghiệp thì không có cơ sở để phát triển công nghiệp, vì nông nghiệp cung cấp nguyên liệu, lương thực cho công nghiệp và tiêu thụ hàng hóa của công nghiệp làm ra" [38, 180]. Tất nhiên, khi nói đến lao động ở nông thôn cung cấp sức lao động cho công nghiệp điều đó là đúng, song không nhất thiết phải chuyển lao động từ nông thôn lên thành thị, nếu như công nghiệp chế biến và các ngành dịch vụ khác được phân bổ ở nông thôn gắn với nông nghiệp theo hướng "ly nông bất ly hương". ở ĐBSCL hiện nay, tỷ trọng hộ nông nghiệp khoảng 70%, hộ phi nông nghiệp 30%. Một điều kiện nữa để phát triển công nghiệp là vấn đề thị trường nông nghiệp, nông thôn. Công nghiệp càng phát triển thì nhu cầu thị trường càng phải được mở rộng, cả thị trường tư liệu sản xuất lẫn thị trường tư liệu tiêu dùng. Trong quá trình phát triển, công nghiệp sẽ tự tạo ra thị trường cho mình nhưng nó cũng phụ thuộc vào sự phát triển của các ngành kinh tế khác, trong đó có nông nghiệp nông thôn. Trong điều kiện nước ta hiện nay nói chung và khu vực ĐBSCL nói riêng, nền kinh tế còn chậm phát triển, nông thôn chiếm trên 80% dân số cả nước thì đây chính là thị trường rộng lớn để tiêu thụ sản phẩm của công nghiệp. Nhưng nông nghiệp, nông thôn chỉ trở thành thị trường rộng lớn cho công nghiệp thật sự khi dân cư ở đây có mức thu nhập bằng tiền tương đối ổn định, tức sức mua bằng tiền phải nâng lên không ngừng, cũng có nghĩa là sản xuất nông nghiệp phải thật sự được chuyển sang nền nông nghiệp hàng hóa phát triển. Ngoài ra, để phát triển công nghiệp và dịch vụ cần có vốn tích lũy, có cơ sở vật chất kỹ thuật phát triển ở một mức nhất định. Vốn tích lũy cho công nghiệp được huy động ở nhiều nguồn, trong đó có nông nghiệp. Nông nghiệp tích lũy cho công nghiệp một phần vốn đáng kể thông qua các hình thức thuế đóng góp vào ngân sách và qua việc cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp, nhưng phần chủ yếu để đạt cả hai nhu cầu trên thì phải chủ yếu thông qua việc xuất khẩu nông sản hàng hóa. Hai là, phát triển nông nghiệp hàng hóa tạo biến đổi sâu sắc đời sống kinh tế - xã hội ở nông thôn. Phát triển nông nghiệp hàng hóa thúc đẩy quá trình chuyển biến nền kinh tế nước ta từ một nền kinh tế mang nặng tính tự cấp tự túc với cơ cấu sản xuất đơn điệu, chủ yếu là độc canh cây lúa thành một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, với cơ cấu sản xuất và kinh doanh đa dạng, bao gồm cả trồng trọt và chăn nuôi, gắn trồng trọt và chăn nuôi với công nghiệp chế biến. Nông nghiệp hàng hóa phát triển, tất yếu thúc đẩy ngành dịch vụ và các ngành nghề phi nông nghiệp khác ở nông thôn phát triển, giải quyết tích cực việc làm cho lao động dư thừa ở nông thôn. Là điều kiện cơ bản để tiến hành phân công lao động ngày càng hợp lý, hình thành cơ cấu nông - công nghiệp - dịch vụ ở nông thôn, thúc đẩy kinh tế nông thôn phát triển, cơ sở vững chắc để giải quyết cơ bản vấn đề đời sống của đại bộ phận dân cư. Trên cơ sở kinh tế nói chung và nông nghiệp hàng hóa ở nông thôn nói riêng phát triển, làm cho bộ mặt xã hội ở nông thôn cũng thay đổi. Người nông dân có thêm việc làm, tăng thêm thu nhập, đời sống được cải thiện và từng bước nâng cao. Đôi điều minh họa: * Lương thực quy thóc bình quân/người/năm ở ĐBSCL: 1995 1996 1997 1998 808,7kg 854,3 kg 841,5 kg 1098,0kg * Thu nhập bình quân 1 người/1 tháng của dân cư vùng ĐBSCL: 1994 1995 1996 181,65đ 221,96đ 242,96đ [30, 33]. - Đời sống vật chất và tinh thần của nông dân trong vùng dần dần được cải thiện và nâng cao. Đặc biệt là việc nâng cao chất lượng cuộc sống đang được các cấp chính quyền quan tâm: như xây dựng hệ thống cung cấp nước sạch, phong trào xóa bỏ "cầu khỉ", xây dựng các tụ điểm văn hóa... Cùng với sự cải thiện đời sống vật chất, đời sống tinh thần dân cư nông thôn cũng thay đổi. Sản xuất hàng hóa vừa đòi hỏi vừa tạo điều kiện nâng cao trình độ mọi mặt của người nông dân, làm thay đổi nếp nghĩ, cách làm, phong tục, tập quán canh tác cũ kỹ, lạc hậu đã từng ăn sâu từ đời này sang đời khác. Nông nghiệp hàng hóa với môi trường cạnh tranh khơi dậy tính năng động sáng tạo của người nông dân, hướng hoạt động sản xuất kinh doanh của họ vào thị trường, thích ứng với sự biến động của cơ chế thị trường. Nông nghiệp hàng hóa còn góp phần xóa bỏ tình trạng chia cắt khép kín trong từng địa phương, từng đơn vị, hình thành và phát triển các mối quan hệ hợp tác và phân công giữa các vùng, thúc đẩy việc giao lưu kinh tế, văn hóa giữa thành thị và nông thôn ngày càng phát triển theo con đường văn minh tiến bộ theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong tư duy của Hồ Chí Minh, nông nghiệp có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển kinh tế cũng như đối với việc nâng cao đời sống của nhân dân Việt Nam. Trong thư gửi các điền chủ gia Việt Nam ngay sau ngày đất nước giành được độc lập (1946) Người viết: "Việt Nam là một nước sống về nông nghiệp. Nền kinh tế của ta lấy canh nông làm gốc. Trong công cuộc xây dựng nước nhà, Chính phủ trông mong vào nông dân, trông cậy vào nông nghiệp một phần lớn. Nông dân ta giàu thì nước ta giàu. Nông nghiệp ta thịnh thì nước ta thịnh" [49]. Tuy vậy, sự phát triển nông nghiệp hàng hóa cũng làm nảy sinh những vấn đề kinh tế - xã hội bức bách cần giải quyết, như: * Sự phân hóa giàu nghèo, sự khác nhau về mức thu nhập và mức sống giữa các hộ nông dân. "Chênh lệch thu nhập của nhóm cao nhất so với nhóm thấp nhất ở ĐBSCL: năm 1994 là: 6,1 lần; năm 1996 là: 6,4 lần [29, 44]. * Để phát triển nông nghiệp hàng hóa thì cần có sự tích tụ và tập trung ruộng đất vào số hộ có khả năng kinh doanh nông nghiệp. Song sự tích tụ, tập trung ruộng đất lại đưa đến hậu quả là số hộ nông dân không có đất hoặc quá ít đất nông nghiệp tăng lên. ở ĐBSCL là 5,6% [41, 85]. Do đó vấn đề đặt ra là phải có chính sách vừa khuyến khích được mọi người cùng làm giàu, tăng thu nhập chính đáng, đồng thời vừa có tác động đến xóa đói giảm nghèo, tạo điều kiện cho người giàu và người nghèo ở nông thôn cùng phát triển làm giàu nhằm tạo ra môi trường xã hội ổn định để phát triển nông nghiệp hàng hóa. 1.3. Tiềm năng, điều kiện phát triển nông nghiệp hàng hóa ở đồng bằng sông cửu long 1.3.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên - Vị trí địa lý: ĐBSCL là phần cuối của hạ lưu sông Mekong (một trong 9 con sông lớn nhất thế giới), trong đó phía Bắc giáp nước Cộng hòa nhân dân Campuchia. Phía Nam giáp biển Đông, phía Tây giáp vịnh Thái Lan và phía Đông giáp thành phố Hồ Chí Minh - một trung tâm kinh tế năng động nhất nước. ĐBSCL là vùng kinh tế nông nghiệp trọng điểm của nước ta, có diện tích tự nhiên hơn 3,9 triệu ha, chiếm 12% diện tích cả nước, diện tích sử dụng cho phát triển nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản khoảng 3 triệu ha, cho lâm nghiệp 0,5 triệu ha, và khả năng cho phép mở rộng đất nông nghiệp khoảng 0,2 triệu ha (chủ yếu ở các tiểu vùng Đồng Tháp Mười, tứ giác Long Xuyên và bán đảo Cà Mau) (phụ lục1). ĐBSCL với phạm vi hành chính gồm 12 tỉnh (phụ lục 2) các đơn vị trực thuộc được phân loại: 4 thành phố (thuộc tỉnh), 13 thị xã, 90 huyện và 1.416 xã, phường, thị trấn. Trong đó thành phố Cần Thơ là trung tâm kinh tế văn hóa của vùng này. Vị trí địa lý rất thuận về giao thông đường sông, đường biển. Qua con đường này, từ lâu đời đã hình thành mối quan hệ giao lưu trao đổi hàng hóa giữa ĐBSCL với các tỉnh trong nước và các quốc gia như Campuchia, Thái Lan, Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapor, Nhật Bản... Nhờ vậy, nó đã kích thích sản xuất nông nghiệp hàng hóa phát triển. - Địa hình đất đai: So với đồng bằng sông Hồng, ĐBSCL về cơ bản tương đối bằng phẳng, rộng, thổ nhưỡng tốt. Có 3 loại đất chính: Đất phù sa khoáng 1.200.000 ha, có độ phì nhiêu rất cao, nằm trải dọc theo sông và các nhánh sông, rất thích hợp cho nhiều loại cây trồng; Đất nhiễm phèn các loại khoảng 1.600.000 ha, được phân bổ ở những vùng đất trũng xa sông, đang ngày càng được ngọt hóa và được phù sa tự nhiên bồi đắp hàng năm, thích h._.ợp cho trồng lúa; Đất nhiễm mặn khoảng 750.000 ha nằm ở rìa ven biển, trong đó có 150.000 ha nhiễm mặn thường xuyên và 600.000 ha nhiễm mặn định kỳ vào mùa khô. Loại đất này trồng lúa 1 vụ vào mùa mưa, nuôi 1 vụ tôm nước lợ vào mùa khô và thích hợp cho cây dừa, xoài, chuối, mía... khi được cải tạo. Ngoài ba loại đất chính trên, ĐBSCL còn có khoảng 350.000 ha đất than bùn, rừng tràm, rừng ngập mặn, đất trên phù sa cổ, đất đồi núi, đất dòng cát... thích hợp cho trồng cây công nghiệp dài ngày như cây điều, cây tiêu và cây lạc... Nhìn chung, cấu trúc địa hình đất đai ở ĐBSCL có đặc trưng là những sống đất ven sông và đất vùng duyên hải cao ráo, với mạng lưới kênh rạch dày đặc kết nối với thượng nguồn sông Mêkông thông ra biển... tạo thành vùng kinh tế hỗn hợp nông - lâm - ngư nghiệp rất hiếm có. Từ đặc điểm đất đai như vậy, cùng một vùng châu thổ nhưng đất đai có nhiều loại khác nhau, được phù sa bồi đắp hàng năm, thích hợp cho nhiều loại cây trồng. Song muốn cho sản xuất nông nghiệp phát triển có hiệu quả kinh tế cao, đòi hỏi việc bố trí cây trồng thích hợp với điều kiện đất đai ở từng tiểu vùng. - Thời tiết khí hậu: Do ảnh hưởng của chế độ gió mùa khiến cho thời tiết ở ĐBSCL chia thành hai mùa rõ rệt. Mùa mưa với gió mùa Tây Nam từ tháng 5 đến tháng 11, mùa nắng (khô) từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau. Lượng mưa trong mùa thường chiếm trên 80% tổng lượng mưa cả năm. ĐBSCL là vùng ít chịu tác động của bão, tần suất thiên tai khác thấp so với các vùng khác trong nước. - Nguồn nước, sông rạch và thủy văn: ĐBSCL có nguồn nước ngọt dồi dào được cung cấp bởi lượng nước mưa và nước sông Mêkông đổ về, rất thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp. Hệ thống sông rạch ở ĐBSCL dày đặc, trải rộng khắp vùng (gồm 37 con sông chính và sông nhánh với tổng chiều dài 1.708 km, 137 kênh rạch lớn với tổng chiều dài 2.780 km và kênh rạch nhỏ thì nhiều không kể hết), rất thuận lợi cho việc dẫn thủy nhập điền tưới tiêu, xổ phèn, rửa mặn và lưu thông hàng hóa. Do nguồn nước dồi dào, hệ thống sông rạch dày đặc và vùng biển rộng, ĐBSCL là vùng có tiềm năng nuôi trồng và đánh bắt thủy hải sản lớn nhất nước. Tuy nhiên, ĐBSCL cũng có những hạn chế rất lớn như: thường vào đầu vụ 2, mùa hạn kéo dài, mặn xâm nhập sâu (khoảng 1,7 triệu ha) việc tưới tiêu trở nên cấp bách. Sang giữa vụ 2 phải đương đầu với nạn nhiễm phèn rộng trên 1,5 triệu ha và cuối vụ 2 thường rơi vào mùa mưa, mưa thường kéo dài cộng với lũ lớn từ thượng nguồn sông Mêkông đổ về, thường gây tình trạng ngập úng trên phạm vi rộng (khoảng 1,9 triệu ha) làm cho việc thu hoạch, phơi sấy chạy lũ cho vụ hè thu hết sức khó khăn... với hạn chế như thế, đã làm cho giá thành sản phẩm cao hơn các vùng khác, gây tổn thất lớn và giảm chất lượng các loại hàng nông phẩm, đồng thời cũng ảnh hưởng không ít đến đời sống của người nông dân. Để khắc phục tốt những hạn chế từ điều kiện tự nhiên, phải có sự nghiên cứu cơ bản có hệ thống, đầu tư đồng bộ, chủ động hệ thống tưới tiêu, thoát lũ, đồng thời với phát triển công nghiệp chế biến nông sản và công nghiệp bảo quản sau thu hoạch nhằm hạn chế những thiệt hại có thể xảy ra thì việc sản xuất nông nghiệp hàng hóa ở khu vực này sẽ rất ổn định và cho hiệu quả cao. 1.3.2. Về kinh tế - xã hội - Dân số và lao động: Dân số ĐBSCL hiện nay khoảng 16,2 triệu người, chiếm 23% dân số cả nước (phụ lục 2). Trong đó 13,3 triệu người (chiếm 82%) ở nông thôn, 2,75 triệu người (chiếm 18%) ở thành thị. Dân số trong độ tuổi lao động trung bình một hộ nông dân ở ĐBSCL có 5,1 nhân khẩu, cao hơn mức bình quân chung của cả nước 0,5 nhân khẩu/hộ. ở ĐBSCL dân cư phân bố không đều; sự chênh lệch giữa các tỉnh khá rõ nét. Hiện nay, mật độ dân số bình quân của vùng là 410 người/km2, trong khi đó ở phía Đông thì dân số tập trung khá đông, Tiền Giang 692 người/km2, Vĩnh Long 687 người/km2, ở phía Tây dân số lại thưa hơn Cà Mau, Bạc Liêu và Kiên Giang dưới 240 người/km2. Chính sự phân bố không đều về dân cư gây ra hiện tượng thừa, thiếu lao động giữa các địa phương trong vùng. So với năm 1989, cơ cấu lao động ở ĐBSCL chuyển dịch không đáng kể, tỷ trọng lao động trong ngành nông, lâm và công nghiệp giảm nhẹ, lao động ngành dịch vụ tăng chậm. - Cơ cấu kinh tế ở ĐBSCL có sự thay đổi theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp. Năm 1999, cơ cấu kinh tế vùng (theo giá trị sản xuất, giá thực tế) nông nghiệp chiếm 67,24% GDP, công nghiệp 11,72% GDP, dịch vụ 21,01% GDP, điều này nói lên cơ cấu kinh tế vùng này tuy có chuyển biến nhưng vẫn phản ánh hiện trạng kinh tế với nông nghiệp là cơ bản, công nghiệp và dịch vụ chiếm tỷ trọng nhỏ, xu hướng tăng chậm. Nhiều vùng nông thôn sản xuất còn mang nặng tính thuần nông, kinh tế tự cấp, tự túc còn chiếm tỷ trọng khá lớn trong nền kinh tế. Sản xuất ở nông thôn phân tán theo quy mô hộ gia đình, với lao động thủ công là phổ biến. Do vậy phần lớn dân cư và lao động vẫn tập trung ở khu vực nông nghiệp, nông thôn, giờ lao động trong ngày thấp, còn mang nặng tính mùa vụ. Lao động thừa ở nông thôn tràn ra thành thị làm gay gắt thêm tình trạng thừa lao động ở thành thị. Vấn đề đặt ra đối với ĐBSCL hiện nay là tỷ trọng lao động trong nông nghiệp còn quá cao trên 75%. Do đó, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao chất lượng, hiệu quả sử dụng lao động nông nghiệp tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động ở nông thôn trong thời gian tới là hết sức cần thiết. - Kinh tế kỹ thuật chủ yếu liên quan đến phát triển nông nghiệp hàng hóa. Một là, ĐBSCL có điều kiện tự nhiên ưu đãi, nguồn lao động dồi dào và đã biết phát huy lợi thế so sánh của vùng (lao động, đất đai, nguồn nước, giao thông) trong việc sản xuất ra những nông phẩm hàng hóa lớn cung cấp cho tiêu dùng tại chỗ, cho thị trường trong nước và xuất khẩu như: lúa, dứa, dừa, mía, trái cây, cá, tôm, gia súc, gia cầm... trong đó cây lương thực (chủ yếu là cây lúa nước) có khối lượng hàng hóa lớn nhất nước (90% kim ngạch xuất khẩu của ngành hàng), chiếm 94,8% đất trồng cây hàng năm của vùng. Đặc điểm này chỉ rõ, thu nhập chủ yếu của nông dân ĐBSCL từ cây lúa. Vì vậy, giá lúa tăng, giảm đều ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập, sức mua, tình hình sản xuất và đời sống của nông dân trong vùng. Hai là, tham gia sản xuất nông phẩm hàng hóa ở ĐBSCL hiện nay là một lực lượng hùng hậu, đa thành phần bao gồm kinh tế Nhà nước, kinh tế hợp tác và kinh tế hộ gia đình nông dân. Kinh tế Nhà nước sản xuất nông phẩm hàng hóa và giống cây trồng, con nuôi ở ĐBSCL là các doanh nghiệp nhà nước được tổ chức dưới hình thức là những nông trường, viện, trung tâm, trạm trại như: nông trường sông Hậu, Cờ đỏ, Viện lúa Ô Môn (Cần Thơ); trung tâm giống cây ăn quả Long Định (Tiền Giang), các trạm trại giống Kế Sách (Sóc Trăng), Bình Đức (An Giang), An Phong (Đồng Tháp), Giao Long (Vĩnh Long)... Ngoài ra, Nhà nước còn có vai trò hướng dẫn, định hướng, hỗ trợ khoa học kỹ thuật và công nghệ, phát triển hệ thống thủy lợi, giao thông, cung ứng phân bón, tín dụng, tìm kiếm thị trường nông phẩm cho nông dân. Kinh tế hợp tác trong sản xuất nông nghiệp ở ĐBSCL được tổ chức dưới hình thức là các hợp tác xã, các tập đoàn sản xuất và các tổ chức liên kết kinh tế khác nhau mà hoạt động của nó chủ yếu là một vài khâu dịch vụ hộ nông dân trong quá trình sản xuất như: bảo lãnh vay vốn tín dụng, làm đất, bơm nước, tuốt lúa... Lực lượng sản xuất nông phẩm hàng hóa lớn nhất, chủ yếu ở ĐBSCL hiện nay là kinh tế hộ gia đình nông dân, lực lượng này chiếm tới 99,10% lao động nông nghiệp, 99,51% máy kéo, 99,89% máy bơm nước, 99,95% máy tuốt lúa và 99,75% phương tiện vận tải; đã sản xuất ra 98,66% sản lượng lúa, 99,20% sản lượng lợn và hơn 80% lượng lúa giống toàn vùng. Về sử dụng điện cho sản xuất và sinh hoạt. Mức sử dụng điện ở ĐBSCL hiện nay chỉ đạt khoảng 38 kwh/đầu người/năm (thấp nhất nước), tỷ lệ hộ dùng điện 24,8% (bằng 50% mức trung bình toàn quốc), tỷ lệ xã có điện lưới 67% (chỉ đứng hàng thứ tư trong 7vùng kinh tế cả nước). Trong tương lai, việc cung cấp điện cho phát triển sản xuất, chế biến hàng nông phẩm và sinh hoạt ở ĐBSCL được xem là một trong những chiến lược ưu tiên hàng đầu. Nhìn chung, khả năng sản xuất ra nông phẩm hàng hóa ở vùng này đã có một bước phát triển đáng kể, cả về trình độ, kinh nghiệm sản xuất, về kỹ thuật canh tác và cả về tiềm lực... Tuy nhiên, công cụ sản xuất của các doanh nghiệp quốc doanh, hợp tác xã và của hộ nông dân ở những khâu làm lao động nặng nhọc hầu hết được thao tác bằng máy móc như: 90% khâu tưới tiêu và tách hạt, 80% khâu làm đất và vận chuyển... Còn các khâu khác của sản xuất nông nghiệp đến nay chủ yếu vẫn là công cụ thủ công dựa vào sức người là chính. 1.3.3. Lưu thông (thị trường và giao thông) Vấn đề thị trường. Cũng như sản xuất thành phần tham gia vào thị trường nông sản cũng hết sức phong phú, đa thành phần kinh tế. Tham gia thị trường nông phẩm ở ĐBSCL hiện nay có những chủ thể là người bán, người lưu thông và người tiêu dùng thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Người bán hầu hết là hộ nông dân thuộc thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ và một số ít thành phần kinh tế khác. Họ tham gia thị trường với tư cách là người bán sản phẩm do mình làm ra như lúa, mía, trái cây, cá, tôm, gia súc, gia cầm... Người lưu thông bao gồm những người hàng xáo mua gom, những người bán lẻ, chủ cơ sở xay xát, chế biến thuộc mọi thành phần kinh tế, mua đi bán lại nhỏ, lẻ giữa các khu vực lân cận hầu hết là của thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ; mua với khối lượng lớn qua xử lý bảo quản, sơ chế, chế biến luân chuyển trong cả nước và xuất khẩu thường là các doanh nghiệp có vốn lớn như là: Các công ty trách nhiệm hữu hạn Hữu Tài - Thốt Nốt (Cần Thơ), Việt Thành - Sa Đéc (Đồng Tháp), Sơn Hùng - Long Xuyên (An Giang), Mỹ Châu (Bạc Liêu...; doanh nghiệp liên doanh thuộc thành phần kinh tế tư bản nhà nước Việt Mỹ (Cần Thơ), Hồng Kông - Tiền Giang, ấn Độ - Long An; Các doanh nghiệp Nhà nước như: Tổng Công ty lương thực miền Nam với hơn 30 công ty thành viên hoạt động khắp các tỉnh thành phố từ Đà Nẵng đến Cà Mau làm nhiệm vụ xuất khẩu lương thực và các nông sản khác và cùng tham gia với các đơn vị kinh tế trên còn có các công ty, xí nghiệp kinh doanh lương thực của các nông trường lớn và công ty lương thực của 12 tỉnh trong khu vực. Thị trường tiêu thụ nông sản là thị trường đầu ra của sản phẩm nông nghiệp, thị trường này mang tính chất thời vụ rõ rệt, khiến cho cung cầu, cạnh tranh và giá cả về nông phẩm hàng hóa trên thị trường thường xuyên biến động. Khi đến vụ thu hoạch, cung nông phẩm hàng hóa tăng lên, trái lại vào thời kỳ giáp hạt, giáp vụ, trái vụ lượng cung sẽ giảm. Ngoài ra việc cung nông phẩm hàng hóa còn chịu ảnh hưởng bởi điều kiện tự nhiên (nắng hạn, bão, lũ, sâu bệnh). Khi điều kiện tự nhiên thuận lợi, sản xuất được mùa, lượng sản phẩm cung cho thị trường tăng lên và ngược lại. Vấn đề giao thông. Đối với cây trồng, vật nuôi có khối lượng sản phẩm lớn thì giao thông có ý nghĩa to lớn trong việc giảm chi phí sản xuất và chi phí lưu thông sản phẩm. Theo Lênin, hệ thống giao thông vận tải thông suốt sẽ liên kết được các ngành, các vùng, các địa phương, các cơ sở sản xuất kinh doanh trong nước và giữa nước này với nước khác. Do đó điều kiện cần thiết để phát triển kinh tế, nâng cao năng suất lao động xã hội, Người viết: "Kết quả đó, một phần là do vấn đề vận tải, có lẽ vận tải là cơ sở chủ yếu, hay là một trong những cơ sở nhất của toàn bộ nền kinh tế..." [35]. Hệ thống giao thông thủy lợi ở ĐBSCL hết sức thuận lợi, ngoài các tuyến sông chính (sông Hậu, sông Tiền) còn có hàng chục kênh rạch lớn như: kênh Cái Sắn (Rạch Giá - Long Xuyên), kênh Vĩnh Tế (Hà Tiên - Châu Đốc), rạch Cái Tàu, Quản Lộ Phụng Hiệp... cho phép các loại tàu thuyền 200 - 300 tấn lưu thông dễ dàng. ĐBSCL có 7 cảng lớn như cảng Cần Thơ, Mỹ Thới, Vĩnh Thái, Cao Lãnh, Mỹ Tho... với tổng công suất trên 1,5 triệu tấn/năm hàng hóa ra vào. Đặc biệt cảng Cần Thơ có thể tiếp nhận tàu có trọng tải 20.000 tấn. Mạng lưới giao thông đường bộ rất yếu kém, khó khăn. Toàn bộ tuyến giao thông đường bộ vùng này bao gồm cả đường quốc lộ, đường liên tỉnh, liên huyện và liên xã... chỉ với tổng chiều dài 30.044 km, thì đã có 20.107 chiếc cầu lớn nhỏ, chiếm 51% tổng số cầu cả nước. Hệ thống đường bộ chưa được phát triển, lại bị tàn phá nặng nề sau mỗi mùa lũ lớn. Tỷ lệ đường ô tô đến được UBND xã chưa đạt 75%, thấp nhất trong 7 vùng kinh tế của cả nước. Các tuyến giao thông nông thôn liên các ấp với nhau trong xã hầu như chưa có. Điều đáng mừng tháng 4/2000 đã thông xe cầu Bắc Mỹ Thuận bắc qua sông Tiền, điều này đã cải thiện đáng kể tình hình giao thông vận tải trong vùng. Trong khi đó, nông sản phẩm hàng hóa, đặc biệt là các sản phẩm tươi sống có một đặc tính đặc thù là thời gian bảo quản chất lượng sản phẩm sau thu hoạch rất ngắn. Từ đó cho ta thấy ngoài phát huy thế mạnh về hệ thống bến cảng và tuyến giao thông đường thủy, để đáp ứng cho nhu cầu phát triển kinh tế nông nghiệp hàng hóa ở ĐBSCL, đòi hỏi phải có kế hoạch khả thi khắc phục tốt tình trạng yếu kém của giao thông đường bộ. Đồng thời giải quyết tốt vấn đề này không chỉ là điều kiện, là cơ sở nhằm đảm bảo thông suốt, nhanh chóng quá trình lưu thông của đầu vào lẫn đầu ra của ngành nông nghiệp nông thôn, mà còn mang một ý nghĩa to lớn góp phần cải thiện đời sống của dân cư nông thôn, làm thay đổi bộ mặt nông thôn, từng bước xóa dần khoảng cách giữa nông thôn và thành thị. 1.3.4. Ngoài 3 điểm nêu trên về tiềm năng có tính chất điều kiện, để phát triển nông nghiệp hàng hóa ở ĐBSCL nói riêng, cả nước nói chung, thì điều kiện cơ bản và bao trùm có tính quyết định là đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước ta. ở đây cụ thể và trực tiếp là sự thay đổi quan điểm về phát triển đối với nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Mấu chốt của vấn đề "tam nông" là giải quyết mối quan hệ giữa quyền sở hữu đất đai thuộc về nhà nước và quyền sử dụng đất cho nông dân. Chuyển nền nông nghiệp quản lý tập trung dựa trên nền tảng tập thể hóa triệt để tư liệu sản xuất chủ yếu của hộ nông dân, chế độ phân phối thu nhập mang nặng tính chất bao cấp, bình quân theo kinh tế hiện vật sang thực hiện nguyên tắc mới, phát huy động lực lợi ích của người lao động, của nông dân, kết hợp đúng đắn lợi ích của nhà nước và nông dân. Từ đó thay đổi chế độ quản lý ruộng đất như là yếu tố tiền đề để hình thành nền nông nghiệp hàng hóa nhiều thành phần, xác lập vai trò đơn vị cơ sở của kinh tế hộ. Khẳng định quyền tự chủ của kinh tế hộ, tạo hành lang pháp lý cho kinh tế hộ nông dân phát triển. Đi đôi với đổi mới và phát triển các hình thức hợp tác mới đa dạng ở nông thôn. Đó chính là tạo ra điều kiện để đưa nông nghiệp phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước. 1.3.5. Về trình độ người sản xuất kinh doanh Người sản xuất phải dám chuyển sang phương thức sản xuất hàng hóa, người nông dân phải từ bỏ được tập quán và thói quen sản xuất trước hết là để phục vụ cho nhu cầu bản thân. Họ dám bỏ tiền và sức lực vào sản xuất cái gì mà họ có khả năng nhất, còn những sản phẩm mà khả năng sản xuất của họ kém hơn, họ dám quyết định mua từ thị trường. Người sản xuất nông sản phẩm phải biết sản phẩm nào có lợi nhất đối với người tiêu dùng. Có nghĩa là họ phải biết lựa chọn những cây con nào được người tiêu dùng đánh giá cao, tức phải tính đến thị trường tiêu thụ. Thực tiễn phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa ở nước ta nói chung, ở ĐBSCL nói riêng đã chứng minh tính đúng đắn của các điều nói trên. Sự thay đổi cơ chế kinh tế, thực hiện tự do lưu thông hàng hóa, tự do sản xuất và bán sản phẩm, lấy tiền tệ làm thước đo, công cụ hạch toán, nông dân hoàn toàn tự chủ lựa chọn phương án nào đem lại thu nhập bằng tiền nhiều nhất, lựa chọn phương án sản xuất, chọn cây trồng, vật nuôi có năng suất, hiệu quả... Tất cả những điều đó đã làm chấn hưng sản xuất nông nghiệp, làm biến đổi nền nông nghiệp hiện vật sang nông nghiệp hàng hóa. 1.3.6. Đặt sự phát triển nông nghiệp hàng hóa trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân Nông nghiệp hàng hóa ở nước ta nói chung và ĐBSCL nói riêng. Muốn phát triển có hiệu quả không thể không đặt nó trong mối quan hệ gắn bó với sự phát triển của các ngành trong nền kinh tế, đây là vấn đề mang tính tất yếu khách quan. Đó là mối quan hệ giữa nông nghiệp với công nghiệp, hiểu theo nghĩa rộng đó là các mối quan hệ giữa nông nghiệp với công nghiệp và dịch vụ; giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và trí thức; quan hệ giữa nông dân, cư dân nông thôn với Đảng, Nhà nước thông qua việc thực hiện các chính sách của Đảng và Nhà nước trong quá trình phát triển nông nghiệp hàng hóa với công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn. Thực chất các mối quan hệ nói trên được biểu hiện ở các nội dung sau: Một là, gắn phát triển nông nghiệp hàng hóa với phát triển công nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến nông sản ở nông thôn. Trong thực tế lịch sử cho thấy, công nghiệp ra đời từ cái nôi của nông nghiệp, nhưng khi trở thành ngành kinh tế độc lập thì mối quan hệ giữa chúng đã có sự biến đổi về chất, nghĩa là công nghiệp và nông nghiệp đã trở thành những thực thể kinh tế độc lập gắn bó mật thiết với nhau và quan trọng hơn là chúng tác động qua lại và quyết định sự phát triển của nhau. Khi đề cập về mối quan hệ giữa nông nghiệp với công nghiệp, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao ý nghĩa to lớn của việc kết hợp đúng đắn sự phát triển của nông nghiệp với sự phát triển của công nghiệp. Người luôn đặt nông nghiệp và công nghiệp trong mối quan hệ hữu cơ, tác động qua lại và thúc đẩy lẫn nhau, Người nói: "Công nghiệp và nông nghiệp như hai chân của nền kinh tế. Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì hai ngành đó đồng thời phát triển như hai chân đi khỏe và đi đều thì tiến bước sẽ nhanh và nhanh chóng đến mục đích" và Người thường nhắc nhở: "Muốn phát triển công nghiệp, phát triển kinh tế nói chung phải lấy việc phát triển nông nghiệp làm gốc, làm chính" [49]. Lịch sử đã chứng minh chỉ khi công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp phát triển, thì mới nâng dần được giá trị hàng nông sản do nông nghiệp sản xuất ra, kể cả phần dành cho xuất khẩu. Đến lượt nó, sự phát triển nông nghiệp góp phần làm tăng thêm thu nhập cho nông dân, nâng cao năng lực tích lũy, cải thiện đời sống, tạo thêm việc làm cho người lao động ở nông thôn, chuyển dịch một phần lao động thuần nông sang lao động công nghiệp theo tinh thần tuy làm việc ở khu vực phi nông nghiệp nhưng vẫn không rời bỏ quê hương; Hình thành những cụm kinh tế lao động công - nông nghiệp, thương mại, du lịch, thị trấn, thị tứ... góp phần thực hiện công nghiệp hóa, đô thị hóa nông thôn, nông dân tiến dần lên văn minh hiện đại. Bằng cách đó giảm chi phí vận chuyển nguyên liệu, giảm giá thành sản phẩm, bảo quản tốt chất lượng nông sản phẩm sau thu hoạch, tăng cường cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Tóm lại, nông nghiệp hàng hóa chỉ thật sự phát triển ổn định, bền vững khi quá trình phát triển nông nghiệp gắn liền với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Không có công nghiệp hóa, hiện đại hóa không thể có một nền nông nghiệp hàng hóa phát triển. Song đến lượt nó, khi nông nghiệp hàng hóa phát triển là điều kiện để thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa phát triển. Hai là, gắn phát triển nông nghiệp hàng hóa với phát triển các ngành dịch vụ nông nghiệp nông thôn. Cùng với và nhằm tạo điều kiện phát triển nông nghiệp và công nghiệp là phải phát triển mạnh dịch vụ nông thôn. Nông nghiệp phát triển thì nhu cầu về thương nghiệp dịch vụ ngày càng tăng. Thương nghiệp, dịch vụ đáp ứng các yếu tố, điều kiện cho đầu vào, đầu ra và cả quá trình sản xuất. Tuy nhiên, ở mỗi giai đoạn có những yêu cầu dịch vụ khác nhau. Đó là chưa kể đến các vùng các loại cây trồng, vật nuôi và thời vụ thường xuyên cũng rất khác nhau. Chỉ có mở rộng, phát triển dịch vụ thì mới đáp ứng được nhu cầu của người nông dân ngày càng muốn tối đa hóa lợi nhuận. Sản xuất nông nghiệp hàng hóa gắn chặt với dịch vụ nông thôn, tạo ra sự phân công lao động mới hình thành cơ cấu kinh tế nông - công nghiệp - dịch vụ. Tức là kết hợp chuyên môn hóa với phân công lao động trong sản xuất nông nghiệp và kinh doanh tổng hợp nhằm sử dụng hết năng lực sản xuất. Dịch vụ phát triển sẽ là nhân tố quan trọng thúc đẩy sản xuất nông nghiệp hàng hóa phát triển, tạo nên sự biến đổi tích cực trong nông nghiệp, nông thôn. Mối quan hệ hữu cơ giữa các ngành nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ trong vùng càng gắn bó chặt chẽ, tạo ra mối liên kết kinh tế giữa vùng ĐBSCL với kinh tế trong nước và kinh tế quốc tế càng được tăng cường, là điều kiện thuận lợi cho nông nghiệp hàng hóa vùng này không ngừng phát triển. Sự phát triển kinh tế - xã hội ở ĐBSCL trong những năm qua, chứng tỏ sự kết hợp sản xuất chuyên môn hóa gắn với kinh doanh tổng hợp, vừa là điều kiện và phương tiện, vừa là mục đích và động lực của sản xuất. Nó cho phép khai thác các tiềm năng, thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, tăng cường mối quan hệ gắn bó giữa thành thị với nông thôn; giữa sản xuất - chế biến - tiêu thụ, thúc đẩy sản xuất phát triển đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và tăng nguồn hàng cho xuất khẩu. Phát triển nông nghiệp hàng hóa gắn với các ngành nghề khác ở ĐBSCL là yêu cầu cấp bách đối với sự phát triển một nền nông nghiệp hàng hóa toàn diện của vùng và mở rộng sự hội nhập của nền kinh tế nước ta với nền kinh tế khu vực và thế giới. Chương 2 Thực trạng phát triển nông nghiệp hàng hóa ở đồng bằng sông cửu long và những vấn đề đặt ra cần giải quyết 2.1. Thực trạng phát triển nông nghiệp hàng hóa ở đồng bằng sông Cửu Long 2.1.1. Vài nét về nông nghiệp hàng hóa thời kỳ trước 1975 Từ lâu đời, ĐBSCL vốn là một trung tâm sản xuất nông nghiệp, tuyệt đại bộ phận dân cư sống bằng nghề nông. Nơi đây có lợi thế so sánh hơn các khu vực địa phương khác: đất - nước - khí hậu khá thích hợp cho việc canh tác cây lương thực, cây ăn quả, khai thác và nuôi trồng thủy sản. Ngay trong thời kỳ Pháp thuộc, đã có một bộ phận nông dân khá giả ngoài việc sản xuất ra lúa gạo để ăn, đã có thừa một số để bán. Việc trồng cây ăn quả để cung cấp cho thị trường cũng đã bắt đầu xuất hiện. Nhưng nhìn chung sản xuất nông nghiệp trong thời kỳ này vẫn mang nặng tính tự nhiên, tự cung, tự cấp và độc canh cây lúa. Việc trao đổi mua bán hàng nông sản trong vùng chủ yếu là ở thị trường nông thôn địa phương nhỏ hẹp, sản phẩm được làm ra đem trao đổi trên thị trường cốt để đổi lấy sản phẩm cần thiết cho tiêu dùng gia đình. Ngoại trừ một số ít địa chủ, điền chủ có chức sắc ở địa phương canh tác lúa với diện tích, sản lượng khá lớn, cung cấp cho thị trường trong nước và xuất khẩu ra nước ngoài (hầu hết lượng nông sản này đã trở thành hàng hóa đều thông qua chính sách xâm lược của thực dân Pháp ở châu á lúc bấy giờ), nhưng cũng không làm thay đổi tình hình ấy. Đến thời kỳ thống trị dưới chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ, một số tỉnh ở ĐBSCL ven đô Sài Gòn, nơi xa vùng chiến sự, gần thị trường tiêu thụ đã bước đầu hình thành vùng sản xuất lương thực thực phẩm, cây ăn quả... các loại hàng nông sản ấy chỉ trở thành hàng hóa, chủ yếu thông qua đáp ứng nhu cầu dân sống ở của nội ô Sài Gòn và bộ máy phục vụ chiến tranh của Mỹ và chính quyền ngụy quân, ngụy quyền Sài Gòn. Tuy nhiên, vùng hàng hóa tập trung đã hình thành nhưng chưa nhiều lắm. Một số hộ nông, do chủ trương trung lưu hóa của chính quyền Sài Gòn cũ và của đế quốc Mỹ, đã vươn lên là những nhà sản xuất hàng hóa. Nông dân vùng ĐBSCL đã làm quen và bị lôi cuốn vào guồng máy sản xuất hàng hóa. 2.1.2. Nông nghiệp hàng hóa Đồng bằng sông Cửu Long thời kỳ 1975 - 1988 Giai đoạn 1975 - 1985, do mới trải qua cuộc chiến tranh kéo dài nên cơ sở hạ tầng của ĐBSCL hết sức yếu kém: đất đai hoang hóa, nhiễm phèn, nhiễm mặn còn cao, còn nhiều nơi chưa được khai thác cải tạo; đường, lộ, phương tiện giao thông hết sức nghèo nàn, thậm chí có đến trên 70 vùng sâu, vùng xa, vùng kháng chiến cũ bị ách tắc hoàn toàn tuyến giao thông đường bộ nối với trung tâm thị trấn, thị xã. Phương tiện đi lại ở khu vực nông thôn này lúc bấy giờ chủ yếu là một số lượng rất ít xuồng ghe máy cũ kỹ; thiết chế nông thôn lỏng lẻo, tâm lý sản xuất kinh doanh của đa số nông dân những năm đầu sau giải phóng còn bị lúng túng, xáo trộn. Trong giai đoạn này Đảng ta đã hết sức quan tâm đến vấn đề phát triển kinh tế trong đó phải đẩy mạnh phát triển nông nghiệp. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV (1976), trong đường lối phát triển kinh tế, Đảng ta đã đề ra: "Phát triển sản xuất nông nghiệp toàn diện theo hướng sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, với mục tiêu sớm bảo đảm đủ lương thực thực phẩm cho toàn xã hội, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp tăng nhanh nguồn hàng xuất khẩu" [16]. Song chính hậu quả của cơ chế kinh tế tập trung bao cấp kéo dài đã thể hiện rõ xu hướng quan liêu, đặc biệt trong chính sách cải tạo nông nghiệp nông thôn ở Nam Bộ, chính sách giá cả, chính sách thuế... trở thành trở lực làm cho người nông dân không an tâm đầu tư khai hoang, phục hóa, thâm canh, tăng vụ, dẫn tới diện tích canh tác, năng suất lúa trong thời kỳ này không ổn định, thậm chí bị sụt giảm (năm 1978 diện tích 2.061 nghìn ha bằng 99%, năng suất 1,6 tạ/tấn bằng 80%, sản lượng 3.417 nghìn tấn chỉ bằng 73,2% so năm 1976). Đặc biệt vào những năm 1979 - 1980 hàng loạt hợp tác xã nông nghiệp có nguy cơ tan rã. Do đặc điểm hạn chế của phương tiện giao thông vận tải đã làm cho chi phí vận chuyển tăng cao, giá thành sản phẩm cao... hầu hết việc trồng lúa, cây ăn trái, chăn nuôi gia súc, gia cầm, khai thác thủy sản... chủ yếu được sản xuất ra nhằm mục tiêu tiêu dùng cho gia đình là chính. Chỉ một số ít địa phương với thế mạnh rất lớn hay có phương tiện giao thông thuận lợi mới có khả năng sản xuất hàng hóa tập trung như: lúa gạo ở (Cần Thơ, An Giang, Long An); trái cây (Tiền Giang, Cửu Long, Bến Tre, Cần Thơ); thịt lợn (Bến Tre, Tiền Giang, Cần Thơ, An Giang, Kiên Giang); thịt gà, vịt và trứng (Cửu Long, Cần Thơ, An Giang, Kiên Giang); khai thác thủy, hải sản (An Giang, Cần thơ, Kiên Giang, Minh Hải)... Tất cả nông phẩm thật sự trở thành hàng hóa cung cấp qua thị trường chỉ một phần nhỏ, còn lại chủ yếu mua bán, giao nộp qua hệ thống ngành thương nghiệp hoặc ngành lương thực quốc doanh. Giai đoạn 1986 - 1988, là giai đoạn khởi đầu của tiến trình đổi mới kinh tế đất nước. Sản xuất lương thực là một trong những nội dung quan trọng trong 3 chương trình kinh tế lớn do Đại hội Đảng lần thứ VI đề ra. Và do vậy đã được các cấp, các ngành, địa phương quan tâm đúng mức: cả nước vốn đâu tư xây dựng cơ bản giành cho nông nghiệp trong giai đoạn 1986 - 1990 chiếm 21,9% tổng số vốn đầu tư cho các ngành sản xuất vật chất, riêng thủy lợi chiếm 10,9%. Ngoài ra, trong giai đoạn này nông nghiệp đã được trang bị thêm 1 vạn máy kéo, 1.5000 máy bơm nước các loại; diện tích tưới nước bình quân hàng năm tăng 70 nghìn ha, bằng 113,7% mức bình quân thời kỳ 1981 - 1985; phân bón không chỉ tăng về số lượng mà còn đảm bảo đúng chủng loại phù hợp với các loại đất, loại cây trồng; việc chuyển giao kỹ thuật đã được tiến hành tương đối khẩn trương, đáng chú ý là đã đưa vào gieo trồng hàng loạt các loại giống mới có khả năng kháng sâu bệnh, phù hợp với sinh thái từng vùng, cho năng suất cao... Trong giai đoạn này, ĐBSCL có diện tích khai hoang phục hóa bình quân 15 nghìn ha/năm chiếm tỷ lệ cao nhất so với 7 vùng kinh tế; diện tích lúa nổi vụ mùa năng suất thấp được thu hẹp, diện tích gieo cấy lúa Đông Xuân, Hè Thu được mở rộng. Nếu như năm 1985 diện tích lúa Đông Xuân mới chiếm 20,4% diện tích lúa cả năm thì năm 1990 đã chiếm 29,8%, tương tự diện tích lúa Hè Thu từ 25,8% lên 34,8%, lúa mùa từ 53,7% chỉ còn 27,1%... Với cơ chế quản lý trong nông nghiệp từng bước được đổi mới, từ "khoán 100" đến "khoán 10" đã giải quyết tốt hơn lợi ích của người lao động, do vậy đã khuyến khích nông dân đầu tư thêm lao động, tiền vốn để phát triển sản xuất. Tổng hợp các yếu tố nỗ lực chủ quan trên cùng với điều kiện thuận lợi đã đưa sản lượng lương thực toàn vùng dao động trên dưới 7 triệu tấn trong suốt những năm 1985 - 1987 vượt lên 7,7 triệu tấn năm 1988 chiếm 40,52% sản lượng cả nước. Góp phần cùng cả nước từng bước thoát khỏi nạn khủng hoảng về lương thực. Cây ăn trái bước đầu hình thành tiểu vùng sản xuất hàng hóa tập trung. Một bộ phận nông dân chuyên trồng cây ăn trái đã mạnh dạn loại bỏ vườn cây tạp bao gồm cả những cây trồng lâu năm, chất lượng, năng suất thấp, thay vào đó là vườn cây chuyên canh, giống mới chất lượng, năng suất cao và kháng sâu bệnh như: các vườn chôm chôm, xoài cát, nhãn vải ở Cù Lao An Bình (Cửu Long) vườn nhãn da bò Vĩnh Châu (Sóc Trăng), vườn cam, quýt đường, bưởi Năm Roi Ô Môn (Cần Thơ), vườn sầu riêng Cái Mơn (Bến Tre). Trong giai đoạn này, chăn nuôi vẫn chiếm tỷ trọng nhỏ, chủ yếu nuôi nhỏ, lẻ, nuôi thời vụ... Chăn nuôi lợn, chủ yếu nuôi theo phương thức lấy công làm lời, tận dụng các thức ăn có sẵn như cặn cơm, rau, bèo, chuối cây... chưa quan tâm đến con giống và cách phòng bệnh, hầu hết còn chăn nuôi thả lan chưa chú trọng đến chuồng trại... là căn nguyên dẫn đến nhiều năm liên tiếp đàn heo chỉ trên dưới 2 triệu con không vượt lên được. Chăn nuôi gia cầm, cũng chưa phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa ổn định, còn ảnh hưởng truyền thống chăn dắt theo mùa vụ. Tóm lại, thời kỳ 1975 - 1988 là thời kỳ nền kinh tế nước ta nói chung và vùng ĐBSCL nói riêng hoạt động trong cơ chế quản lý tập trung, bao cấp. Trong giai đoạn này để giúp cho kinh tế nông thôn phát triển, Nhà nước đã đầu tư vốn và đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào nông nghiệp. Việc khai hoang phục hóa, xây dựng các công trình thủy lợi, đặc biệt là thủy lợi nội đồng ở ĐBSCL được xúc tiến mạnh mẽ. Kết quả là diện tích canh tác, diện tích gieo trồng tăng lên, diện tích ruộng được tưới tiêu khoa học cũng tăng lên. Khu vực kinh tế quốc doanh được xây dựng và phát triển, một loạt các nông, lâm trường được thành lập, kinh tế hợp tác phát triển mạnh mẽ... thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển đạt được những thành tựu nhất định, cả về diện tích, năng suất và sản lượng; đưa sản lượng bình quân đầu người về lúa tăng cao. Theo đó, một số ngành nghề khác bước đầu phát triển. ._.tố thiên nhiên, thêm vào đó nhà nước ta chưa có chính sách ưu đãi thỏa đáng, thủ tục hành chính còn nhiều phiền hà, nên nông, lâm, ngư nghiệp kém sức hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Vì vậy, đã đến lúc cần nghiên cứu và hoàn thiện chính sách nông nghiệp để thu hút các nhà đầu tư, nhất là các nhà đầu tư nước ngoài một cách mạnh mẽ hơn. 3.2.4.3. Chính sách khoa học công nghệ và khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư Khoa học công nghệ rất cần thiết đối với sản xuất nông nghiệp. Chính sách khoa học công nghệ cần được chú trọng vào các mặt sau đây; - Chú trọng đầu tư phát triển công nghệ sau thu hoạch, bao gồm: chế biến, bảo quản sản phẩm nông nghiệp. - Tập trung nghiên cứu lai tạo, tuyển chọn các giống cây trồng, vật nuôi có năng suất cao, chất lượng tốt thích nghi với các vùng sinh thái khác nhau và đáp ứng được yêu cầu xuất khẩu. - Đầu tư có trọng điểm cho khoa học ứng dụng nhanh các thành tựu của công nghệ sinh học. - Tổ chức đào tạo thêm, đào tạo lại cán bộ khoa học phục vụ nông nghiệp. Tổ chức đưa cán bộ khoa học về giúp nông thôn, nông dân ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ. Đổi mới chính sách sử dụng và đãi ngộ thỏa đáng cán bộ khoa học kỹ thuật trong nông nghiệp, nông thôn, nhất là đối với những sáng tạo về khoa học công nghệ, các ứng dụng khoa học công nghệ có hiệu quả vào thực tiễn sản xuất. Có chính sách thu hút cán bộ khoa học kỹ thuật giỏi ở các địa phương khác đến công tác và làm việc tại ĐBSCL. Song song với hoạt động nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất kinh doanh, hoạt động khuyến nông cũng đóng vai trò quan trọng, có thể xem nó là cầu nối giữa nghiên cứu khoa học công nghệ và ứng dụng nó vào thực tiễn. Thực chất đó là quá trình dịch vụ thông tin, truyền bá kiến thức và đào tạo dạy nghề cho nông dân giúp họ có khả năng tự giải quyết các vấn đề đặt ra trong sản xuất kinh doanh. Trong thời gian tới, chính sách khuyến nông, lâm, ngư cần tập trung làm tốt các mặt: + Truyền bá những tiến bộ kỹ thuật thâm canh cây trồng vật nuôi, công nghệ chế biến, bảo quản nông sản... cả tiếp thị, tiêu thụ. + Đa dạng hóa các hoạt động khuyến nông, lâm, ngư: xây dựng mô hình trình diễn, phổ biến kinh nghiệm của điển hình sản xuất giỏi, mở lớp về kỹ thuật canh tác, tổ chức các câu lạc bộ nghề nghiệp, câu lạc bộ nông dân sản xuất giỏi... + Cần dành nguồn vốn thỏa đáng cho chương trình khuyến nông, đồng thời có chính sách thu hút của các ngành ngân hàng, các cơ sở kinh doanh nông sản và các nguồn tài trợ quốc tế tham gia đầu tư vào công tác khuyến nông. + Đào tạo đội ngũ cán bộ khuyến nông, lâm, ngư có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, nhiệt tình công tác... Có chính sách tiền lương và phụ cấp hợp lý cho cán bộ khuyến nông... 3.2.4.4. Chính sách trợ giá nông sản hợp lý Hiện nay sản xuất và lưu thông sản phẩm nông nghiệp vẫn còn nhiều biến động gây bất lợi cho nông dân, do đó, nhà nước có chính sách trợ giá hợp lý là nhằm hạn chết bớt khó khăn của sản xuất nông nghiệp, khắc phục tính tự phát của thị trường, chủ động tạo điều kiện cho nông dân yên tâm đầu tư phát triển sản xuất tạo ra nhiều nông phẩm hàng hóa cung cấp cho thị trường. Kinh nghiệm của nhiều quốc gia cho thấy, những nước thành công trong đường lối ổn định và phát triển nông nghiệp nông thôn đạt hiệu quả, thông qua chính sách bảo trợ hàng nông phẩm theo 2 phương pháp: Phương pháp bảo trợ trực tiếp, Nhà nước dùng ngân sách của mình can thiệp vào quá trình sản xuất, lưu thông các loại nông phẩm hàng hóa được bảo trợ trên thị trường bằng cách trực tiếp quy định giá để hướng dẫn thị trường. Điều kiện để áp dụng mô hình này là Nhà nước phải có nguồn tài chính dồi dào để bù lỗ cho sản xuất, tiêu dùng và điều khiển thị trường. Mô hình này đầu tiên được áp dụng ở các nước công nghiệp phát triển (OECD) như Nhật, Tây Âu và Mỹ, đến nay châu á một số nước như Đài Loan, Hồng Kông, Hàn Quốc, Thái Lan và Malaysia cũng đang thực hiện phương pháp này (Thái Lan trợ giá cho mỗi tấn lúa là 300 bạt; Malaysia quỹ nâng đỡ phát triển nông nghiệp chiếm 20% ngân sách của Liên bang; Phương pháp bảo trợ gián tiếp, Nhà nước thông qua hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô để tác động vào quá trình sản xuất và lưu thông nông phẩm nhằm khuyến khích, định hướng và bảo trợ hàng nông phẩm để đạt sự ổn định và phát triển. Những biện pháp trợ giá gián tiếp chủ yếu gồm: bảo trợ giá, hỗ trợ về vốn, ưu đãi về thuế, giúp nông dân tìm thị trường tiêu thụ... trong đó việc bảo trợ giá là quan trọng nhất. Bởi lẽ giá cả là tính hiệu quả quan trọng nhất đối với sản xuất nông phẩm. Giá cả hợp lý ổn định thì sản xuất nông phẩm và thị trường tiêu thụ nông phẩm cũng ổn định và phát triển, lợi ích của nông dân, người lưu thông và người tiêu thụ nông phẩm cũng được thực hiện thỏa đáng. ở nước ta, do ngân sách nhà nước còn hạn hẹp, nên Nhà nước thực hiện bảo trợ hàng nông phẩm cho ĐBSCL bằng phương pháp bảo trợ gián tiếp, nhất là giá đầu ra theo tinh thần bảo hộ có chọn lọc, có điều kiện và có thời hạn. Thực hiện bảo trợ hàng nông phẩm bằng phương pháp gián tiếp, Nhà nước không trực tiếp quy định giá, mà chỉ điều hành giá thông qua hệ cung cầu trên thị trường. Chính sách này đòi hỏi Nhà nước phải xây dựng mức giá tín hiệu (giá tín hiệu = chi phí sản xuất + lợi nhuận) ở 2 cực, tối đa và tối thiểu (giá trần và giá sàn); đồng thời xây dựng được hệ thống kho đệm, quỹ dự trữ lưu thông để tạo điều kiện vật chất cho việc điều tiết cung, cầu trên thị trường theo hai phương thức: Thứ nhất, là bảo trợ giá đầu vào của hàng nông phẩm, phương thức này được nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng, nhất là các nước đang phát triển, vì nó ít tốn kém cho ngân sách hơn bảo trợ giá đầu ra. Bảo trợ giá đầu vào của hàng nông phẩm chủ yếu là bảo trợ giá bán vật tư nông nghiệp cho nông dân. Tuy nhiên về nguyên tắc, đối với vật tư nhập khẩu thì giá bán vật tư bằng giá vật tư nhập khẩu nhân cho tỷ giá hối đoái và cộng thêm các khoản chi phí thị trường chấp nhận; đối với vật tư sản xuất trong nước, giá bán vật tư bằng chi phí sản xuất cộng với lợi nhuận bình quân. Trong điều kiện bình thường, các tổ chức thương mại thực hiện việc mua bán hàng hóa theo giá cả thị trường, chỉ khi nào có dấu hiệu giá vật tư nông nghiệp trên thị trường tăng đột biến, thì Nhà nước phát giá tín hiệu định hướng, đồng thời đưa lực lượng dự trữ ra bán theo giá định hướng để bình ổn giá. Mặt khác tiến hành kiểm tra, đánh thuế tồn kho đối với các công ty có dự trữ hàng lớn mà không chịu đưa hàng ra bán. Mở rộng hạn ngạch nhập khẩu, miễn thuế nhập khẩu vật tư nông nghiệp trong thời gian nhất định. Khi giá cả vật tư nông nghiệp cơ bản đã xuống xoay quanh giá tín hiệu, thì Nhà nước dừng can thiệp và các doanh nghiệp thực hiện việc mua bán theo giá thị trường. Trước mắt, để thực hiện được điều trên, Nhà nước cần có chính sách ưu đãi về vốn, lãi suất, thuế cho các tổ chức lưu thông vật tư nông nghiệp, bảo đảm hình thành hệ thống kho "đệm", tăng cường dự trữ lưu thông để đủ sức điều hòa cung, cầu, bình ổn giá vật tư cho nông dân. Quản lý tốt nguồn vật tư nhập khẩu, hạn ngạch nhập khẩu (quota), nhất là đối với những đơn vị doanh nghiệp Nhà nước đầu mối, chấm dứt tình trạng các tổ chức này bán quota cho tư nhân hoặc vay trả chậm của nước ngoài (phân bón) để bán lại cho tư thương thu lợi bất chính. Về lâu dài, Nhà nước cần khuyến khích phát triển các cơ sở sản xuất vật tư nông nghiệp trong nước bằng cách hỗ trợ vốn vay dài hạn với lãi suất ưu đãi, giảm miễn thuế có thời hạn cho các cơ sở này, để công nghiệp hỗ trợ cho nông nghiệp nhằm chủ động nguồn cung. Giá cả vật tư nông nghiệp là biện pháp cơ bản, lâu dài của việc trợ giá đầu vào cho sản xuất nông nghiệp ở ĐBSCL. Thứ hai, bảo trợ giá đầu ra của hàng nông phẩm. Trong nền kinh tế thị trường, nỗi lo lớn nhất của nông dân là giá đầu ra của nông phẩm. Bảo trợ giá đầu ra của nông phẩm là nhằm giúp nông dân trong vùng giảm bớt nỗi lo ấy theo hướng: khi giá thị trường hàng nông phẩm xuống thấp, thậm chí dưới giá thành sản xuất, nhà nước phát ra tín hiệu và tiến hành mua vào với khối lượng lớn theo giá thị trường trong một thời gian ngắn dự trữ phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu để kích thích giá thị trường tăng lên, khi xoay quanh giá tín hiệu thì dừng lại. Đồng thời, nhà nước mở rộng hạn ngạch xuất khẩu, giúp nông dân tìm kiếm thị trường tiêu thụ, đàm phán ký kết hợp đồng trả nợ bằng nông phẩm và tạm thời giảm hoặc miễn thuế xuất khẩu, tạm dừng việc thu thuế, thu nợ tín dụng đối với nông dân. Để xác định đúng đối tượng cần bảo trợ và bảo trợ hợp lý, Nhà nước cần căn cứ vai trò, từng loại nông phẩm trong nền kinh tế và khả năng về tài chính của Nhà nước để lựa chọn loại nông phẩm cần bảo trợ, hiệu quả sản xuất của mỗi loại nông phẩm; xu hướng biến động của thị trường trong nước và ngoài nước. Đối với ĐBSCL hiện nay, do khả năng tài chính, ngân sách của Nhà nước có hạn, nên Nhà nước cần tập trung bảo trợ một số mặt hàng nông phẩm có vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân và có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống dân cư trong vùng như lúa gạo, mía, trái cây, tôm cá nuôi. Đối với mặt hàng nông phẩm xuất khẩu của ĐBSCL, đặc biệt là gạo, Nhà nước thực hiện trên nguyên tắc "lấy lúc xuất khẩu được giá cao, bù cho lúc xuất khẩu giá thấp" trong đó, bảo trợ giá tối thiểu (giá sàn) là quan trọng nhất, nhằm ổn định nguồn cung cấp nguồn xuất khẩu thu ngoại tệ cho quốc gia. Đồng thời, cùng với trợ giá, Nhà nước cần thực hiện hàng rào thuế quan và phi thuế quan để bảo trợ sản xuất nông nghiệp trong vùng, nhất là khi nước ta hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. 3.2.4.5 Tăng cường hiệu quả các chính sách xã hội ở nông thôn Để phát triển nông nghiệp hàng hóa ở ĐBSCL, cần phải kết hợp chặt chẽ việc thực hiện chính sách kinh tế với chính sách xã hội, phải kết hợp ngay từ đầu tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội (như vấn đề việc làm, phân hóa giàu - nghèo, phát triển y tế, giáo dục, chống tệ nạn xã hội và tội phạm...). Vì vậy, khi hoạch định chính sách kinh tế cho việc đẩy nhanh sự phát triển nền nông nghiệp hàng hóa, cần phải tính đến các chính sách xã hội. Bởi vì, việc tạo ra những yếu tố xã hội, khung cảnh xã hội thích hợp, thuận lợi sẽ có tác động tích cực tới phát triển nông nghiệp hàng hóa. Để thực hiện chính sách xã hội ở nông thôn, phải quán triệt quan điểm "dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh" đi đôi với xóa đói giảm nghèo, người nghèo thì đủ ăn; người đủ ăn thì khá giầu; người khá, giàu thì giầu thêm. Chính sách xã hội ở nông thôn cần phải nhấn mạnh một số nội dung chủ yếu sau: Thứ nhất, thực hiện tốt chương trình quốc gia về xóa đói giảm nghèo. Thứ hai, chính sách dân số, lao động và việc làm: thực hiện sinh đẻ có kế hoạch, đi đôi với việc vận động, giáo dục cần có sự đầu tư và những biện pháp nhằm hạn chế tỷ lệ sinh đẻ ở nông thôn, góp phần xóa đói giảm nghèo. Nghiên cứu thị trường lao động nông thôn, tính quy luật hoạt động của nó, dự báo nguồn lao động, việc làm và thất nghiệp ở nông thôn. Tạo nhiều ngành nghề mới để thu hút lao động, thực hiện phân công lao động trên phạm vi toàn xã hội, giữa các vùng và phân công lao động tại chỗ. Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ nghề nghiệp cho người lao động ở nông thôn. Thứ ba, phát huy dân chủ và bảo đảm công bằng xã hội ở nông thôn: quan tâm hơn nữa những đối tượng thuộc diện chính sách ở nông thôn (các gia đình liệt sĩ, gia đình có công với cách mạng); đối tượng hưởng chế độ bảo hiểm xã hội (hưu trí, mất sức lao động), đặc biệt là ở vùng kinh tế khó khăn, vùng sâu, vùng xa. Trợ giúp xã hội đối với những người có nhiều thiệt thòi, rủi ro trong cuộc sống ở nông thôn, giúp họ có cơ hội và kinh doanh hòa nhập vào cộng đồng. Thực hiện chế độ bảo hiểm tuổi già cho nông dân. Khuyến khích nông dân lập quỹ bảo trợ tuổi già (bằng góp từ một phần thu nhập hàng vụ, hàng năm), quỹ tương trợ, quỹ bảo thọ, các hội từ thiện... với nhiều hình thức đa dạng phù hợp với từng vùng. Thứ bốn, xây dựng kết cấu hạ tầng (công trình thủy lợi, nước sinh hoạt, giao thông, điện...) để phục vụ yêu cầu của sản xuất, đời sống, giao lưu hàng hóa thuận lợi, làm cho nông thôn trở thành thị trường rộng lớn của công - nông nghiệp. Phát triển các công trình phúc lợi công cộng, cải thiện điều kiện ăn ở, đi lại, học tập, chữa bệnh của cư dân nông thôn. Cần có những biện pháp mạnh mẽ, tin cậy để nâng cao dân trí, xóa nạn mù chữ và tái mù chữ, nhất là ở miền núi và hải đảo... Phát huy những truyền thống tốt đẹp, tính cộng đồng, bài trừ những hủ tục mê tín dị đoan, tệ nạn xã hội... xây dựng nông thôn văn minh, dân chủ, công bằng. Thứ năm, tạo mọi điều kiện để các hộ nông dân đều có cơ hội tiếp cận nhanh hơn và rộng hơn với sản xuất hàng hóa và kinh tế thị trường. Đó không chỉ là các biện pháp nhằm phát triển cơ sở hạ tầng vật chất, mà còn cần phải mở rộng hệ thống đào tạo kỹ thuật và hoạt động khuyến nông, khuyến khích các hộ nông dân tham gia các tổ chức, hiệp hội, như nhóm tín dụng, các hội ngành nghề. Phải triệt để khắc phục tâm lý trông chờ, ỷ lại, hẹp hòi, đố kỵ, bảo thủ, cầu toàn quá đáng, tạo ra một phong cách dân chủ, kỷ cương, thói quen dám nghĩ, dám làm, năng động và sáng tạo, nhanh nhạy nắm bắt thị trường, biết tận dụng lợi thế tuyệt đối và lợi thế so sánh trong phát triển kinh tế, từ đó mà quan tâm hơn đến năng suất, chất lượng, hiệu quả, sử dụng hợp lý các nguồn lực cho sự phát triển toàn diện kinh tế - xã hội nông nghiệp, nông thôn. Thực tiễn sản xuất luôn luôn biến động, điều kiện kinh tế - xã hội không ngừng thay đổi, các chính sách của nhà nước đối với sản xuất nông sản hàng hóa cũng phải thường xuyên bổ sung và hoàn thiện, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho sản xuất và lưu thông nông sản hàng hóa phát triển. Cuối cùng, điều quan trọng hơn cả là phải quan tâm tổ chức thực hiện tốt các chính sách, biến nó thành hiện thực. Đây cũng chính là mặt yếu của ta trong thời gian qua, cần được khắc phục sớm. Kết luận 1. Phát triển nông nghiệp hàng hóa ở nước ta nói chung, ĐBSCL nói riêng là vấn đề quan trọng không những trong nhận thức lý luận mà còn có ý nghĩa lớn trong thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam, cả trước mắt và lâu dài. Phát triển nông nghiệp hàng hóa sẽ đáp ứng tốt nhu cầu lương thực, thực phẩm cho đời sống toàn xã hội, nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, nông sản hàng hóa xuất khẩu, làm tăng dự trữ của nhà nước, nâng cao thu nhập và mức sống cho nông dân, làm thay đổi phong cách, tạo ra sự khôn ngoan, năng động của người nông dân, góp phần to lớn vào sự ổn định kinh tế - xã hội. Ngoài ra, trên cơ sở phát triển nông nghiệp hàng hóa mà dần dần nâng cao năng suất lao động, năng suất đất đai, tạo điều kiện cho phát triển và chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, làm cho phân công lao động xã hội trong nông nghiệp sâu sắc hơn, từ đó, rút bớt một lượng lao động đáng kể cho phát triển ngành nghề và dịch vụ nông thôn. 2. ĐBSCL có nhiều tiềm năng, thế mạnh để phát triển nông nghiệp hàng hóa theo hướng chuyên canh, đa canh, đa dạng hóa sản phẩm gắn với đặc điểm các vùng sinh thái. Nhưng suốt một thời gian dài trước thời kỳ đổi mới, nền nông nghiệp tuy có sự chuyển biến nhất định, song về cơ bản vẫn là nền nông nghiệp mang nặng tính chất thuần nông và độc canh lương thực. Tình hình này do nhiều nguyên nhân nhưng nguyên nhân chủ yếu là do bị kìm hãm bởi cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, người nông dân - chủ thể tích cực và năng động của sản xuất hàng hóa - trên thực tế về kinh tế, không được tự chủ sản xuất và trao đổi nông sản, nên không phát huy được thế mạnh, sức sản xuất bị kìm hãm, sản lượng nông nghiệp tăng chậm... Chỉ sau đổi mới trở lại đây, sản xuất nông sản hàng hóa mới có một bước tiến đáng kể. Điều này được thể hiện trên nhiều mặt, nhưng nét nổi bật là tỷ suất và khối lượng nông sản hàng hóa ngày càng tăng lên, góp phần to lớn vào đảm bảo được an ninh lương thực quốc gia và lương thực xuất khẩu. Thu nhập của dân cư tăng lên, đời sống được cải thiện hơn. Nguồn nguyên liệu cho công nghiệp chế biến cũng dồi dào hơn, bước đầu chúng ta đã tạo được một số mặt hàng nông sản mũi nhọn (gạo, thủy hải sản, xuất khẩu...) đã và đang chiếm lĩnh được thị trường thế giới và khu vực. Song nhìn chung, nông nghiệp ĐBSCL còn có những hạn chế ở cơ sở vật chất kỹ thuật cho sản xuất nông nghiệp còn yếu kém, đầu tư của nhà nước cho nông nghiệp còn hạn hẹp, chất lượng hàng hóa nông sản chưa cao, thị trường và giá cả có những diễn biến phức tạp bất lợi cho nông dân. Nhìn chung nông nghiệp ĐBSCL phát triển chưa ngang tầm với nhiệm vụ và yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 3. Vấn đề cấp bách đặt ra là phải đẩy nhanh quá trình phát triển nền nông nghiệp hàng hóa. Để đẩy nhanh nhịp độ phát triển nền nông nghiệp hàng hóa trong những năm tới ở ĐBSCL cần phải thực hiện đồng bộ các giải pháp chủ yếu: phải xây dựng hộ nông dân thật sự trở thành đơn vị sản xuất hàng hóa, gắn liền với đổi mới triệt để nội dung và hình thức của kinh tế hợp tác và HTX, nâng cao hiệu quả phục vụ nông nghiệp của các doanh nghiệp nông nghiệp nhà nước; nâng cao và hoàn thiện cơ sở vật chất kỹ thuật trong nông nghiệp và kết cấu hạ tầng sản xuất ở nông thôn; mở rộng và phát triển đồng bộ các loại thị trường ở nông thôn và tiếp tục hoàn thiện và chỉ đạo tốt chính sách kinh tế, kích thích phát triển sản xuất nông sản hàng hóa (như chính sách về ruộng đất, chính sách đầu tư và tín dụng, chính sách trợ giá nông sản, chính sách khoa học kỹ thuật công nghệ, nâng cao hiệu quả chính sách xã hội ở nông thôn...). Đó là những vấn đề đặt ra và được giải quyết trong luận án này. danh mục tài liệu tham khảo Nguyễn Thanh Bạch, Chính sách và giải pháp phát triển nông nghiệp, nông thôn hiện nay. Tạp chí Phát triển kinh tế, số 101, 3/1999. Nguyễn Thanh Bạch, Một số vấn đề phát triển nông nghiệp, nông thôn hiện nay. Tạp chí Phát triển kinh tế, số 99, 1/1999. Mai Văn Bảo, Phát triển nông nghiệp hàng hóa trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Luận án tiến sĩ. Nguyễn Văn Chiển, Về việc giải quyết vấn đề ruộng đất cho kinh tế hộ nông dân ở đồng bằng sông Cửu Long hiện nay. Tạp chí Cộng sản, số 13 (7-1999). Nguyễn Sinh Cúc, Nông nghiệp đồng bằng sông Cửu Long 25 năm sau giải phóng (1995 - 2000). Tạp chí Nông thôn mới, số 45 (4-2000). Nguyễn Sinh Cúc, Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn Việt Nam là một đòi hỏi bức bách hiện nay. Tạp chí Cộng sản, số 14 (7-1998). Trần Kim Cúc, Một số luận điểm của C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lênin về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số 10-1999. Cục Thống kê tỉnh Cần Thơ, Số liệu kinh tế xã hội các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, biên soạn tháng 4/1998. Cục Thống kê tỉnh Cần Thơ, Số liệu kinh tế xã hội các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, biên soạn tháng 4/1999. Phan Xuân Dũng, Khoa học - công nghệ cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn. Tạp chí Cộng sản, số (6-1999). Đảng Cộng sản Việt Nam, Chiến lược ổn định phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1999. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (khóa IV), tháng 3/1979. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (khóa VI) về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp, tháng 4/1988. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị Trung ương lần thứ 2 và lần thứ 5 (khóa VII), năm 1992 và 1993. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ (khóa VII), ngày 25/1/1994. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1976. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI. Nxb Sự thật Hà Nội, 1987. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII. Nxb Sự thật Hà Nội, 1991. Đảng Cộng sản Việt Nam, Một số Văn kiện của Đảng về phát triển nông thôn. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết 06 của Bộ Chính trị (khóa VIII) về một số vấn đề phát triển nông nghiệp và nông thôn. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998. Lê Khả Đấu, Quản lý, sử dụng đất nông trường quốc doanh - vấn đề và giải pháp. Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 250. Tạp chí Cộng sản, số 10 (5-1999). Trần Đức, Sau mấy chuyến đi tìm hiểu những nông trường quốc doanh nông - lâm nghiệp. Tạp chí Cộng sản, số 10 (5-1999). Võ Văn Đức, Nghị quyết 10/BCT khởi nguồn của sự đổi mới kinh tế nông nghiệp. Tạp chí Kinh tế nông nghiệp, số 12/1999. Đoàn Thị Mỹ Hạnh, Những giải pháp mở rộng thị trường cây ăn quả. Tạp chí Phát triển kinh tế, số 105, 7/1999. Ngô Đức Hồng, Phát triển nông nghiệp hàng hóa trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Cần Thơ. Luận văn thạc sĩ. Nguyễn Mạnh Huấn, Suy giảm năng lực nội sinh phát triển nông thôn nước ta hiện nay và một số giải pháp cấp bách. Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 255, 8/1999. Lê Mạnh Hùng cùng tập thể, Kinh tế xã hội Việt Nam - thực trạng, xu thế và giải pháp. Nxb Thống kê, Hà Nội, 1996. Lê Mạnh Hùng (Chủ biên), Kinh tế xã hội Việt Nam 3 năm (1996 -1998) và dự báo năm 2000. Nxb Thống kê, Hà Nội, 1999. Lâm Quang Huyên, Trang trại là xu hướng phát triển tất yếu của nông nghiệp nước ta. Tạp chí Phát triển kinh tế, số 102, 4/1999. Nguyễn Đình Hương (chủ biên), Sản xuất và đời sống của hộ nông dân không có đất hoặc thiếu đất ở đồng bằng sông Cửu Long - thực trạng và giải pháp. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999. Đặng Trọng Khánh, Về vấn đề an toàn lương thực ở nước ta. Tạp chí Cộng sản, số 6 (3-1999). V.I. Lê-nin, Toàn tập, tập 22, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1963. V.I. Lê-nin, Toàn tập, tập 3, Nxb Tiến Bộ, Mát-xcơ-va, 1976. V.I. Lê-nin, Toàn tập, tập 44, Nxb Tiến Bộ, Mát-xcơ-va, 1978. Nguyễn Đình Long, Sản xuất nông nghiệp những giải pháp trong thời gian tới. Tạp chí Kinh tế nông nghiệp, số 12/1999. Nguyễn Đình Long và tập thể, Một số giải pháp về phát triển sản xuất và nhập khẩu nông sản. Tạp chí Kinh tế nông nghiệp, số 10/1999. Nguyễn Thiện Luân - Bùi Tất Tiếp, Vai trò "Bà đỡ" của doanh nghiệp nhà nước là động lực phát triển hợp tác xã nông nghiệp. Tạp chí Kinh tế nông nghiệp, số 11/1999. Bùi Danh Lưu, Tiềm năng đất đai - nguồn nội lực quan trọng. Tạp chí Cộng sản, số 10 (5-1999). Các Mác, Góp phần phê phán KTCT. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1971. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 10. Nxb Chính trị quốc gia, 1996. Lê Huy Ngọ, Đẩy mạnh phát triển một số hàng nông sản xuất khẩu có sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Tạp chí Kinh tế nông nghiệp, số 2/1998. Lê Huy Ngọ, Sản xuất và tiêu thụ nông sản. Tạp chí Kinh tế nông nghiệp, số 12/1999. Lê Huy Ngọ, Khoa học - công nghệ phải là động lực mạnh mẽ đưa nông nghiệp, nông thôn sang bước phát triển mới. Tạp chí Cộng sản, số 3 (2-1999). Chu Tuấn Nhạ, Khoa học - công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Tạp chí Cộng sản, số 2 (1-1999). Nguyễn Thiện Nhân, Suy nghĩ về con đường của Việt Nam công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhanh với chi phí thấp. Tạp chí Phát triển kinh tế, số 101, 3/1999. Quang Nhận, Cây lúa Kiên Giang hành trình đi lên 2 triệu tấn. Tạp chí Thông tin khuyến nông Việt nam, số 2-2000. Nguyễn Nhiệm, Đồng bằng sông Cửu Long thiên nhiên và con người. Tạp chí Kinh tế nông nghiệp, số 4/1998. Nguyễn Huy Oánh, Tìm hiểu tư tưởng của Hồ Chí Minh về nông nghiệp. Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 252, 5/1999. Vũ Văn Phúc, Một số vấn đề về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Tạp chí Cộng sản, số 7 (4-1999). Chu Hữu Quý - Nguyễn Kế Tuấn, Chính sách thị trường với phát triển nông nghiệp và nông thôn. Tạp chí Cộng sản, số 20 (10-1998). Lê Cao Thanh, Vấn đề tiêu thụ một số sản phẩm chăn nuôi chủ yếu hiện nay. Tạp chí Phát triển kinh tế, số 105, 7/1999. Nguyễn Hữu Thảo, Đầu ra cho sản phẩm, những vấn đề cần giải quyết trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn hiện nay ở Việt Nam. Tạp chí Phát triển kinh tế, số 101, 3/1999. Thông tin những vấn đề kinh tế phục vụ cán bộ lãnh đạo Viện TTKT, Học viện CTQG, số 20-21, 1998, tr.5. Lê Trọng - Ngô Huy Liêm, Làm thế nào để hộ nông dân xóa đói, giảm nghèo có hiệu quả. Tạp chí cộng sản số 8 (4-1999). Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê 1980. Nxb Thống kê, Hà Nội, 1980. Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê 1990. Nxb Thống kê, Hà Nội, 1990. Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê 1995. Nxb Thống kê, Hà Nội, 1996. Tổng cục Thống kê, Thực trạng CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn Việt Nam. Nxb Thống kê, 1998. Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê 1998. Nxb Thống kê, Hà Nội, 1999. Tổng cục Thống kê, Tình hình kinh tế - xã hội 5 năm 1986 - 1990. Nxb Thống kê, Hà Nội, 6/1990. Tổng cục Thống kê, Số liệu thống kê nông - lâm nghiệp - thủy sản Việt Nam 1985 - 1995. Nxb Thống kê, Hà Nội, 1996. Tổng cục Thống kê, Số liệu thống kê tình hình cơ bản và cơ sở hạ tầng nông thôn Việt Nam. Nxb Thống kê, Hà Nội, 1995. Nguyễn Văn Tư, Đôi điều suy nghĩ từ thực tiễn phát triển ở tỉnh Cần Thơ và Đồng bằng sông Cửu Long. Tạp chí Cộng sản, số 15 (8-1999). Viện Nghiên cứu Hành chính - Học viện Hành chính Quốc gia, Xây dựng và phát triển nông nghiệp nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tài liệu Hội thảo, 1998. Phụ lục 1 Diện tích sản xuất nông nghiệp của các tỉnh ĐBSCL TT Địa phương Diện tích tự nhiên (km2) Diện tích đất nông nghiệp (nghìn ha) Diện tích lúa cả năm (nghìn ha) Dịe tích cây ăn quả lâu năm (nghìn ha) Diện tích rừng tập trung (nghìn ha) Diện tích nuôi thủy sản (nghìn ha) 39.582,6 2.709,0 4.009,8 208,9 29,8 375,5 1 Long An 4.448,0 237,0 441,2 2,7 1,2 3,5 2 Đồng Tháp 3.227,0 212,2 442,7 17,5 4,5 2,0 3 Tiền Giang 2.327,9 169,0 477,0 36,7 0,9 9,5 4 Bến Tre 2.46,9 154,1 285,5 28,2 0,9 24,6 5 Trà Vinh 2.373,0 164,8 224,2 12,0 1,0 50,0 6 Vĩnh Long 1.473,5 118,3 234,2 22,1 - 1,8 7 Cần Thơ 2.965,0 144,5 101,0 30,8 0,8 11,9 8 An Giang 3.406,0 241,2 521,2 6,3 2,9 9,0 9 Kiên Giang 6.222,0 335,4 466,6 11,3 7,6 29,3 10 Sóc Trăng 3.199,7 226,9 356,5 11,9 1,5 37,3 11 Bạc Liêu 2.482,6 252,3 206,2 7,3 0,5 35,1 12 Cà Mau 5.211,0 320,3 252,9 8,1 8,0 161,5 Nguồn: - Niên giám thống kê toàn quốc, Nxb Thống kê 1999. - Số liệu kinh tế xã hội 12 tỉnh ĐBSCL (1995 - 1999), của Cục Thống kê tỉnh Cần Thơ, tháng 4/2000. Phụ lục 2 Dân số và đơn vị hành chính của các tỉnh ĐBSCL TT Địa phương Đơn vị hành chính Số dân (ngàn người) Số TP, thị xã, huyện thuộc tỉnh Số xã, phường và thị trấn Tổng số dân ở thành thị ở nông thôn 107 1.416 16.132,0 2.752,6 13.379,4 1 Long An 14 183 1.306,2 215,0 1.091,1 2 Đồng Tháp 11 139 1.576,9 226,9 1.338,0 3 Tiền Giang 09 163 1.605,1 213,3 1.391,8 4 Bến Tre 08 159 1.299,5 109,8 1.187,0 5 Trà Vinh 08 088 965,7 125,1 841,0 6 Vĩnh Long 07 107 1.012,8 145,2 865,2 7 Cần Thơ 08 105 1.815,2 385,3 1.425,8 8 An Giang 11 140 2.097,4 403,3 1.645,7 9 Kiên Giang 13 111 1.517,9 330,1 1.164,2 10 Sóc Trăng 07 098 1.178,7 210,0 963,8 11 Bạc Liêu 04 048 736,3 108,6 555,7 12 Cà Mau 07 076 1.124,0 207,8 910,0 Nguồn: Số liệu kinh tế xã hội 12 tỉnh ĐBSCL (1995 - 1999) của Cục Thống kê tỉnh Cần Thơ, tháng 4/2000. Phụ lục 3 Giá trị sản xuất nông, lâm và thủy sản ở Đồng bằng sông Cửu Long (Giá cố định năm 1994) Triệu đồng 1995 1996 1997 1998 1999 So với cả nước năm 1999 đạt 1. Giá trị sản xuất nông nghiệp 35.251.767 37.318.531 37.161.901 39.431.938 40.690.824 39,5% - Giá trị sản xuất nông nghiệp phần trồng trọt 29.944.724 31.532.605 30.968.898 29.934.882 20.483.068 24,7% - Giá trị sản xuất nông nghiệp phần chăn nuôi 3.443.333 3.752.183 3.934.797 3.527.572 2.929.714 16,8% 2. Giá trị sản xuất lâm nghiệp 638.665 751.182 880.893 964.100 954.000 16,1! 3. Giá trị sản xuất thủy sản 7.980.800 9.435.900 9.952.600 10.481.5000 10.981.000 62,1% Nguồn: - Niên giám thống kê toàn quốc, Nxb Thống kê năm 1999. - Số liệu kinh tế xã hội 12 tỉnh ĐBSCL (1995 - 1999) của Cục Thống kê tỉnh Cần Thơ, tháng 4/2000. Phụ lục 4: Diện tích đất sản xuất nông nghiệp ở Đồng bằng sông Cửu Long Nghìn ha 1978 1985 1989 1990 1995 1996 1997 1998 1999 So với cả nước năm 1999 Diện tích các loại cây trồng - 2.402,8 3.031,0 2.317,5 3.872,3 4.104,1 4.103,7 4.363,8 4.599,0 37% Diện tích cây hàng năm - 2.130,0 2.662,4 1.969,8 3.582,1 3.792,0 3.762,5 4.022,5 4.289,4 41% Diện tích cây lâu năm - - - - 289,3 312,1 314,2 341,2 318,4 17% 105 Diện tích cây lương thực - 2.298,8 2.493,3 2.846,3 3.347,5 3.562,1 3.533,8 3.775,9 4.046,4 46% Diện tích lúa cả năm 2.061,7 2.250,8 2.444,8 2.580,0 3.302,5 3.515,9 3.493,0 3.736,3 4.009,8 52% Diện tích màu lương thực 48,6 49,6 39,3 45,0 46,1 40,7 39,5 36,5 - Diện tích rừng tập trung - - - - 39,5 37,0 27,7 23,8 29,8 - Diện tích nuôi trồng thủy sản 309,3 290,1 322,6 348,3 375,5 70% Nguồn: - Số liệu thống kê nông - lâm nghiệp - thủy sản Việt Nam năm 1985 - 1995, Nxb Thống kê Hà Nội, 1996. - Số liệu kinh tế xã hội 12 tỉnh ĐBSCL (1995 - 1999) của Cục Thống kê tỉnh Cần Thơ, tháng 4/2000. Phụ lục 5: Sản lượng sản xuất nông nghiệp và thủy sản ở Đồng bằng sông Cửu Long Tấn 1978 1985 1989 1990 1995 1996 1997 1998 1999 So với cả nước năm 1999 1. Sản lượng lương thực quy thóc 3.611,0 7.200,7 9.022,3 10.350,9 14.017,8 14.665,9 14.049,3 15.822,0 16.820,9 49% - Sản lượng lúa cả năm 3.417,3 6.859,5 8.883,1 10.350,9 13.853,5 14.484,1 13.906,7 15.686,9 16.699,5 53% 2. Sản lượng thủy, hải sản - - - - 814.313 885.602 865.840 957.080 937.319 52% 106 -Sản lượng hải sản đánh bắt - - - - 396.337 442.804 451.529 542.769 608.374 - Sản lượng thủy sản đánh bắt - - - - 142.790 160.878 172.949 159.070 162.404 - Sản lượng thủy sản nuôi trồng - 127.400 164.917 241.500 275.186 281.920 255.037 255.241 252.741 3. Sản lượng trái cây - - - - - - - - 2.000.000 Nguồn: - Số liệu thống kê nông - lâm nghiệp - thủy sản Việt Nam năm 1985 - 1995, Nxb Thống kê Hà Nội, 1996. - Số liệu kinh tế xã hội 12 tỉnh ĐBSCL (1995 - 1999) của Cục Thống kê tỉnh Cần Thơ, tháng 4/2000. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLA2688.DOC