Phương pháp tài khoản Kế toán & việc vận dụng nó để xây dựng hệ thống tài khoản Kế toán

Mục LụC a.Phần mở đầu. Phần mở đầu Để quản lý quá trình sản xuất kinh doanh hay qúa trình vận hành nền kinh tế của mỗi quốc gia, cần phải sử dụng rất nhiều công cụ quản lý khác nhau. Một trong những công cụ quan trọng nhất là kế toán. Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về kế toán: ‘ Kế toán là nghệ thuật ghi chép phân loại và tổng hợp theo một cách riêng có bằng tiền các nghiệp vụ, sự kiện có tính chất tài chính và giải thích kết quả của nó ‘ theo liên đoàn quốc tế về kế toán hay “kế toán là

doc33 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1190 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Phương pháp tài khoản Kế toán & việc vận dụng nó để xây dựng hệ thống tài khoản Kế toán, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
công việc ghi chép, tính toán bằng con số dưới hình thức giá trị , hiện vật và thời gian lao động, chủ yếu dưới hình thức giá trị để phản ánh, kiểm tra tình hình vận động của các loại tài sản , quá trình và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, sử dụng vốn của nhà nước cũng như tổ choc xí nghiệp - . Các định nghĩa trên đều nhấn mạnh vào từng khía cạnh nhất định của kế toán để nêu nên đối tượng , chức năng đặc điểm của kế toán. Hạch toán kế toán được coi là một môn học cơ sở của kế toán vì qua môn học này đã cho chúng ta thấy được đặc điểm và vai trò của kế toán với sản xuất và đời sống. Hạch toán kế toán bao gồm các hoạt động quan sát đo lường tính toán và ghi chép của con người đối với các hoạt động kinh tế xảy ra trong quá trình tái sản xuất để thu nhận, xử lý và cung cấp thông tin về quá trình đó phục vụ công tác kiểm tra công tác chỉ đạo, đảm bảo cho quá trình tái sản xuất đem lại hiệu qủa cao, đáp ứng nhu cầu sản xuất, phục vụ đời sống xã hội. Những thông tin do hạch toán kế toán cung cấp đóng vai trò rất quan trọng đối với nhà quản lý, được coi là kim chỉ nam trong việc đưa ra quyết định quản lý. Nhằm phát huy vai trò và chức năng của hạch toán kế toán, bộ môn này đã vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng và kinh tế chính trị học cùng một số môn khoa học cơ bản khác để xây dựng một hệ thống các phương pháp khoa học: đó là phương pháp chứng từ kế toán, phương pháp tài khoản kế toán, phương pháp tính giá, phương pháp tổng hợp cân đối kế toán. Mỗi phương pháp với đặc trưng riêng và vai trò của mình đã giúp cho hạch toán kế toán có thể thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình. Phương pháp tài khoản kế toán được coi là một trong những phương pháp giữ vai trò quan trọng nhất. Nội dung cơ bản của phương pháp tài khoản này là tài khoản kế toán, hệ thống tài khoản và việc vận dụng hệ thống tài khoản trong công tác quản lý. Tuỳ thuộc vào đặc điểm sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp mà áp dụng các tài khoản khác nhau trong hệ thống tài khoản kế toán thống nhất của cả quốc gia. Cùng với sự phát triển sản xuất, yêu cầu đối với công tác kế toán cũng ngày càng nâng cao. Do đó phương pháp tài khoản cũng như các phương pháp khác đang từng bước được bổ sung và hoàn thiện để phát huy tác dụng cao hơn. Trên cơ sở những kiến thức về bộ môn lý thuyết hạch toán kế toán, mà cụ thể là về phương pháp tài khoản kế toán, em đã lựa chọn đề tài “Phương pháp tài khoản kế toán và việc vận dụng phương pháp tài khoản kế toán để xây dựng hệ thống tài khoản kế toán”. B. Phương pháp tài khoản kế toán và việc vận dụng phương pháp tài khoản kế toán để xây dựng hệ thống tài khoản kế toán. Chương I Phương pháp tài khoản kế toán. I.Phương pháp tài khoản kế toán – ý nghĩa và cơ sở phương pháp luận của phương pháp tài khoản kế toán. 1.1. Khái niệm phương pháp tài khoản kế toán và ý nghĩa phương pháp tài khoản kế toán. Trong quá trình hoạt động của một đơn vị nào, thì cũng cần phải có một nguồn tài chính hay chính là một lượng tài sản nhất định. Xét trên tầm vĩ mô đối với nền kinh tế quốc dân của mỗi quốc gia, nhà nước đó muốn tồn tại và phát triển được cũng phải cần có một nguồn ngân sách nhất định. Gắn liền với sự vận động và phát triển của một doanh nghiệp hay một nền kinh tế là các hoạt động kinh tế tài chính phát sinh ở những thời gian và địa điểm khác nhau. Những hoạt động đó diễn ra đã làm thay đổi quy mô, hình thái của tài sản trong đơn vị. Để có thể hệ thống hoá được thông tin toàn bộ hoạt động kinh tế nhằm phục vụ cho lãnh đạo và quản lý kinh tế tài chính, quản lý tài sản ở đơn vị, hạch toán kế toán đã xử dụng phương pháp tài khoản kế toán: Phương pháp tài khoản kế toán ‘ Hay còn gọi là phương pháp đối ứng tài khoản’ là một phương pháp kế toán được sử dụng để phân loại đối tượng chung của kế toán cụ thể, ghi chép, phản ánh và kiểm tra một cách thường xuyên liên tục có hệ thống tình hình hiện có và sự vận động của từng đối tượng kế toán cụ thể nhằm cung cấp thông tin có hệ thống về các hoạt động kinh tế tài chính ở đơn vị, phục vụ cho công tác lãnh đạo quản lý kinh tế tài chính để lập được các báo cáo kế toán định kỳ. Thông qua quá trình ra đời và phát triển của hạch toán kế toán ta có thể thấy hạch toán kế toán hình thành và phát triển gắn liền với sự hình thành và phát triển của nền kinh tế sản xuất hàng hoá. Hạch toán kế toán là cần thiết và tất yếu trong nền kinh tế sản xuất hàng hoá. Với chức năng và nhiệm vụ của mình hạch toán kế toán đã sử dụng một hệ thống các phương pháp khoa học nhằm thu nhận, sử lý và cung cấp cac thông tin về tài sản và sự vận động về tài sản ở đơn vị, qua đó kiểm tra giám sát toàn bộ tài sản và các hoạt động kinh tế tài chính ở đơn vị. Mỗi phương pháp khoa học đó có ý nghĩa và vai trò nhất định, chúng kết hợp với nhau, bổ sung những mặt khiếm khuyết của mỗi phương pháp giúp cho hạch toán kế toán có thể thực hiện tốt chức năng và nhiệm vụ của mình. Trong các phương pháp đó phương pháp tài khoản giữ một vai trò rất quan trọng. Xét trên góc độ các phương pháp hạch toán kế toán phương pháp tài khoản kế toán chính là cầu nối giữa phương pháp chứng từ kế toán và phương pháp tổng hợp cân đôí kế toán. Thật vậy các hoạt động kinh tế tài chính trong doanh nghiệp rất đa rạng nếu chỉ sử dụng phương pháp chứng từ kế toán để phản ánh các nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh thì số lượng chứng từ kế toán cần thiết để sử dụng là rất lớn, thông tin do chứng từ kế toán cung cấp lại mang tính rời rạc, phân tán do mỗi chứng từ chỉ phản ánh một nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh, chính vì thế phương pháp chứng từ kế toán chưa đáp ứng được yêu cầu về thông tin mang tính chất tổng hợp về tình hình và sự vận động tài sản của đơn vị nhằm phục vụ công tác quản lý kinh tế tài chính. Mặt khác nếu muốn sử dụng phương pháp tổng hợp cân đối kế toán thì cần có các số liệu cụ thể từ các sổ kế toán, các số liệu này không thể tự có được mà phải qua quá trình hệ thống hoá thông tin phân loại và tổng hợp thông tin tương ứng với từng nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh. Bên cạnh đó phương pháp tổng hợp cân đối kế toán phản ánh toàn bộ tài sản và nguồn vốn ở trạng thái tĩnh, còn phương pháp tài khoản kế toán phản ánh cụ thể từng loại tài sản, từng loại nguồn vốn ở trạng thái tĩnh và vận động, do đó hai phương pháp này bổ sung cho nhau trong việc cung cấp thông tin đáp ứng nhu cầu của các đối tượng sử dụng thông tin kể toán. Phương pháp tài khoản kế toán có ý nghĩa lớn trong công tác quản lý kinh tế tài chính nói chung cũng như trong công tác kế toán nói riêng, cụ thể là: Nhờ có phương pháp tài khoản kế toán, kế toán viên có thể hệ thống hoá được thông tin về tài sản và các hoạt động kinh tế tài chính ở các đơn vị phục vụ cho lãnh đạo và quản lý tài chính của nhà nước, của nghành, của đơn vị. Thông qua các tài khoản kế toán và việc ghi chép các nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh vào tài khoản kế toán mà các nhà quản lý có thể nắm bắt được các thông tin kinh tế tài chính, là cơ sở để đưa ra các giải pháp, phương pháp quản lý có hiệu quả. Nhờ có phương pháp tài khoản có thể hệ thống hoá các thông tin cụ thể chi tiết về tình hình tài sản và sự vận động của tài sản ở từng đơn vị phục vụ cho yêu cầu quản trị kinh doanh, yêu cầu phân cấp quản lý kinh tế trong đơn vị, cũng như yêu cầu quản lý tài sản trong đơn vị. Ví dụ: Để phản ánh tình hình hiện có và tình hình biến động tăng, giảm các tài khoản tiền gửi ngân hàng của doanh nghiệp tại ngân hàng hoặc kho bạc nhà nước, kế toán sử dụng tài khoản 112 (Tiền gửi ngân hàng ) và mở sổ chi tiết theo rõi từng loại tiền gửi (Tiền Đồng Việt Nam, ngoại tệ các loại và các loại vàng bạc, kim khí quý, đá quý ). Căn cứ vào các giấy báo có, báo nợ hoặc bản sao kê của ngân hàng kèm theo các chứng từ gốc (Uỷ nhiệm chi, Uỷ nhiệm thu, séc chuyển khoản… ) để hạch toán trên tài khoản 112. Và căn cứ vào số phát sinh bên nợ, bên có , số dư của tài khoản 112 và các điều khoản tương ứng của nó ta sẽ thấy được sự tăng giảm các khoản tiền gửi ngân hàng của doanh nghiệp. Nhờ có phương pháp tài khoản kế toán có thể hệ thống hoá được số liệu theo các chỉ tiêu kinh tế, tài chính để lập được báo cáo định kỳ. Ví dụ: Để phản ánh kết quả (lãi lỗ ) từ hoạt động kinh doanh và tình hình phân phối kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, kế toán sử dụng tài khoản 421(Lợi nhuận chưa phân phối ) và mở sổ chi tiết theo dõi kết quả hoạt động kinh doanh của từng niên đồ kế toán (Năm trước, năm nay)và từng nội dung phân phối lợi nhuận của doanh nghiệp. 1.2.Cơ sở phương pháp luận khoa học của phương pháp tài khoản kế toán. Trong qúa trình phát triển tri thức con người, chủ nghĩa duy vật biện chứng và kinh tế chính trị học được coi là cơ sở phương pháp luận khoa học và cơ sở lý luận của hầu hết của các môn khoa học - hạch toán kế toán cũng không nằm ngoài trường hợp này. Với đối tượng của hạch toán kế toán chủ yếu là tài sản với hình thức đa dạng (bao gồm nhiều loại, phần khác nhau)tính hai mặt, tính vận động, hạch toán kế toán phải nghiên cứu một cách liên tục, toàn diện có có hệ thống các đối tượng kế toán và phản ánh được mối liên hệ giữa các mặt, các loại tài sản trong mỗi nghiệp vụ kinh tế, phát sinh. Để đáp ứng những yêu cầu nhiệm vụ đó hạch toán kế toán đã vận dụng những thành tựu của chủ nghĩa duy vật biện chứng và kinh tế chính trị học xây dựng nên một phương pháp thích hợp - đó chính là phương pháp tài khoản. Phương pháp luận duy vật biện chứng đã vạch ra quy luật về sự vận động và biến đổi của vật chất – (Vật chất không tự nhiên sinh ra và cũng không tự nhiên mất đi nó chỉ chuyển hoá từ dạng này sang dạng khác ) – của hiện tượng về các mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng, giữa các bộ phận trong đơn vị hạch toán, giữa các mặt đối lập của sự vật, giữa cái chung và cái riêng. Kinh tế chính trị học cho ta biết những khái niệm định nghĩa các phạm trù của sản xuất hàng hoá như chi phí lợi nhuận…Bên cạnh đó kinh tế chính trị còn nêu lên các quy luật kinh tế có liên quan đến quá trình sản xuất, nội dung các chỉ tiêu. áp dụng những thành tựu của hai môn khoa học cơ bản này, phương pháp tài khoản kế toán đã phản ánh một cách có khoa học đối tượng kế toán ở bốn khía cạnh sau: Tính đa dạng, tính hai mặt , tính vận động, tính cân bằng thông qua hình thức biểu hiện và kết cấu của tài khoản kế toán và qua cách ghichép thường xuyên liên tục có hệ thống trên tài khoản kế toán các nghiệp vụ kinh tế phát sinh. 2. Nội dung kết cấu của tài khoản kế toán và tính khoa học của tài khoản kế toán . 2.1.Nội dung tài khoản kế toán. Biểu hiện cụ thể của phương pháp tài khoản kế toán là các tài khoản kế toán sử dụng và cách ghi phản ánh các nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh vào tài khoản kế toán. Như vậy tài khoản kế toán chính là hình thức biểu hiện của phương pháp kế toán. Tài khoản kế toán là cơ sở kế toán (bảng liệt kê) được sử dụng để phản ánh kiểm tra một cách thường xuyên liên tục có hệ thống tình hình hiện có và sự vận động của từng đối tượng kế toán cụ thể. Tuỳ vào mức độ cụ thể mà tài khoản kế toán có nhiều cấp khác nhau. Xét về mặt hình thức, tài khoản kế toán chính là một phương tiện của kế toán được dùng để ghi chép phản ánh sự tăng giảm của các khoản mục trên báo cáo tài chính . Xét về mặt bản chất, tài khoản kế toán chính là một công cụ phương pháp kế toán phân loại các đối tượng kế toán để phản ánh và kiểm tra thường xuyên liên tục có hệ thống tình hình hiện có và sự vận động của đối tượng kế toán Tuỳ theo yêu cầu thu thập thông tin, ghi sổ kế toán mà tờ sổ kế toán có thể bố trí một hoặc nhiều tài khoản để phản ánh nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh có liên quan đến một hoặc nhiều đối tượng kế toán .Tài khoản kế toán mở theo từng đối tượng kế toán có nội dung kinh tế riêng biệt nên ở một đơn vị có bao nhiêu đối tượng kế toán thì có bấy nhiêu tài khoản kế toán tương ứng. Tài khoản kế toán phản ánh tình hình hiện có và sự vận động của đối tượng kế toán mà nó phản ánh. Ví dụ: Đối tượng kế toán là “tài sản cố định” đ tài khoản mở tương ứng với nó là tài khoản “tài sản cố định” Tên gọi, nội dung kinh tế phản ánh của từng tài khoản kế toán do nội dung kinh tế của từng đối tượng kế toán mà tài khoản đó phản ánh quyết định . Ví dụ như tài khoản 111 “Tiền mặt ”, đối tượng mà tài khoản này phản ánh chính là tình hình thu chi tồn quỹ tại quỹ của doanh nghiệp bao gồm: Tiền Việt Nam, ngoại tệ, vàng bạc, kim khí đá quý. Do đó tên gọi của tài khoản là “tiền mặt” đồng thời nội dung phản ánh của tài khoản chính là phản ánh nội dung kinh tế của quỹ này tại doanh nghiệp. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, các hoạt động kinh tế tài chính diễn ra ngày càng phức tạp đa dạng, các nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh nhiều hơn và đối tượng kế toán liên quan tới nghiệp vụ kinh tế tài chính này cũng tăng thêm. Do đó tài khoản kế toán đang từng bước được điều chỉnh sao cho nội dung được phù hợp với đối tượng kế toán mà hạch toán kế toán cần phản ánh. Sản xuất phát triển gắn liền với sự ra đời của một số tài khoản mới đồng thời một số tài khoản cũ không còn phù hợp cũng mất đi. Ví dụ: Khi nước ta tiến hành phát triển kinh tế nhiều thành phần khoa học công nghệ ngày càng phát triển, được đánh dấu bởi dsự ra đời của nhiều phát minhđược ứng dụng thực tế trong sản xuất. Vì vậy sản xuất Tài khoản “Tài sản cố định vô hình ”, tài khoản “chứng khoán ngắn hạn ” Kể từ năm 2000 chúng ta tiến hành tính thuế giá trị gia tăng, do đó xuất hiện thêm tài khoản “Thuế giá trị gia tăng được khấu trừ ” – Trong điều kiện nền kinh tế mở cửa, hoạt động của các doanh nghiệp sẽ không ngừng mở rộng phạm vi. Để có thể quản lý tốt các đơn vị phải thường xuyên kiểm tra, giám sát các đối tượng kế toán một cách thường xuyênthông qua các tài khoản kế toán để có thể thu thập xử lý và cung cấp kịp thời các thông tin phục vụ cho việclãnh đạo điều hành đem lại kết quả cao. 2.2. Kết cấu của tài khoản kế toán. 2.2.1 Nội dung kết cấu của tài khoản kế toán. Các đối tượng kế toán cụ thể phản ánh ở các tài khoản kế toán có nội dung kinh tế khác nhau, mục đích sử dụng khác nhau, yêu cầu quản lý khác nhau…Nhưng xét về mặt vận động của chúng thì bất kỳ đối tượng kế toán cụ thể nào cũng luôn luôn vận động theo hai mặt đối lập sau: Tăng và giảm, thu và chi , nhập và xuất, vay và trả. Vì vậy để phản ánh liên tục, có hệ thống sự vận động của từng đối tượng kế toán cụ thể do các doanh nghiệp kinh tế tài chính phát sinh, tác động đến, đồng thời để thể hiện rõ tính hai mặt của vận động với từng đối tượng kế toán cụ thể tài khoản kế toán bao giờ cũng có kết cấu hai bên. Thông thường trang sổ tài khoản kế toán được xây dựng kiểu đối chiếu một bên. Để phản ánh sự vận động của tiền mặt bao gồm các hoạt động thu chi quỹ tiền mặt, tài khoản kế toán xây dựng kiểu đối chiếu một bên phản ánh đối tượng kế toán là quỹ tiền mặt có mẫu như sau: Tài khoản “Tiền mặt”. Tháng … Năm… Chứng từ Diễn giải Số tiền Số Ngày Nợ Có Dư đầu kỳ Phát sinh trong kỳ …. Cộng phát sinh Dư cuối kỳ Để thuận tiện trong học tập tài khoản kế toán được xây dựng theo hình thức kiểu chữ “T”, nó được chia thành hai bên để phản ánh riêng biệt từng mặt vận động của đối tượng kế toán. Kết cấu chung của tài khoản kế toán có dạng sau: Tài khoản ….. Nợ Có Bên trái của tài khoản là bên Nợ, phản ánh một mặt của vận động của đối tượng kế toán. Bên phải của tài khoản kế toán phản ánh mặt vận động đối lập với mặt vận động phản ánh ở bên nợ của đối tượng kế toán. Số lệu phản ánh sự vận động của đối tượng kế toán được phản ánh vào bên nợ , bên có của tài khoản kế toán được gọi là sổ phát sinh bên Nợ,bên Có của tài khoản.Số liệu của đối tượng kế toán phản ánh trên tài khoản kế toán vào thời điểm đầu kỳ, cuối kỳ hạch toán gọi là số dư đầu kỳ số dư cuối kỳ của tài khoản kế toán. Như vậy với kết cấu của tài khoản như trên giúp cho tài khoản kế toán có thể phản ánh được liên tục có hệ thống tình hình hiện có và sự vận động của từng đốitượng kế toán cụ thể. 2.2.2.Nguyên lý kết cấu của tài khoản cơ bản. Trên cơ sở kết cấu chung của tài khoản kế toán ta tiến hành xây dựng kết cấu và nội dung phản ánh của các tài khoản cơ bản phù hợp với đặc điểm của đối tượng kế toán mà nó phản ánh. Xét về đối tượng cơ bản của hạch toán kế toán bao gồm: vốn kinh doanh nguồn vốn kinh doanh và quá trình kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó tương ứng với từng đối tượng kế toán cụ thể có thể được phản ánh với từng loại cụ thể được phản ánh với từng loại tài khoản tương ứng với nó. Vì vậy có thể xem có 3 loại tài khoản chính sau: Kết cấu của tài khoản phản ánh vốn. Tài khoản :vốn kinh doanh Nợ Có Số dư đầu kỳ: (Phản ánh vốn kinh doanh hiện có đầu kỳ ) Số phát sinh tăng:(Phản ánh vốn kinh doanh tăng trong kỳ ) Số phát sinh giảm:(Phản ánh vốn kinh doanh giảm trong kỳ ) Tổng số phát sinh tăng Tổng số phát sinh giảm Số dư cuối kỳ: (Phản ánh vốn kinh doanh hiện có cuối kỳ ) Ví dụ: kết cấu của tài khoản “Tiền gửi ngân hàng”. Tài khoản 112 Số dư đầu kỳ: Số tiền mặt, ngoại tệ, Vàng đá quý.hiện gửi ngân hàng ở thời điểm đầu kỳ hạch toán . Số phát sinh tăng: - Các khoản tiền mặt, ngoại tệ,đá quý…gửi vào Ngân hàng. - Chênh lệch tỉ giá ngoại tệ tăng do đánh giá lại số dư ngoại tệ cuối kỳ(Đối với tiền gửi ngoại tệ). Số phát sinh giảm: - Các khoản tiền mặt, ngoại tệ, đá quý…rút ra từ Ngân hàng. - Chênh lệch tỉ giá ngoại tệ giảm do đánh giá lại số dư ngoại tệ cuối kỳ(Đối với tiền gửi ngoại tệ). Tổng số phát sinh tăng Tổng số phát sinh giảm Số dư cuối kỳ: Số tiền mặt ngoại tệ vàng ,đá quý hiện còn gửu tại ngân hàng ở thời điểm cuối kỳ hạch toán Kết cấu của tài khoản phản ánh nguồn vốn kinh doanh. Tài khoản: Nguồn vốn kinh doanh Số phát sinh giảm: - Phản ánh số nguồn vốn kinh doanh giảm trong kỳ. Số dư đầu kỳ: (Phản ánh nguồn vốn kinh doanh hiện có đầu kỳ). Số phát sinh tăng: - Phản ánh số nguồn vốn kinh doanh tăng trong kỳ. Tổng số phát sinh tăng Tổng số phát sinh giảm Số dư cuối kỳ: Phản ánh nguồn vốn kinh doanh hiện có cuối kỳ. Ví dụ: Kết cấu của tài khoản “Tài khoản vay ngắn hạn ”. Tài khoản 311 Số phát sinh giảm: - Số tiền đã trả về khoản vay ngắn hạn trong kỳ. - Số tiền giảm nợ vay do tỷ giá hối đoái giảm(Nợ ngoại tệ). Số dư đầu kỳ: Số tiền còn nợ về các khoản vay ngắn hạn chưa trả ở đầu kỳ hạch toán. Số phát sinh tăng: - Số tiền vay ngắn hạn phát sinh trong kỳ. - Số tiền tăng nợ vay do tỷ giá hốiđoái tăng(Nợ ngoại tệ). Tổng số phát sinh tăng Tổng số phát sinh giảm Số dư cuối kỳ : Số tiền còn nợ về khoản vay ngắn hạn chưa trả ở thời điểm cuối kỳ hạch toán . Số dư cuối kỳ của cả hai loại tài khoản trên được tính như sau: Số dư cuối kỳ = Số dư đầu kỳ + tổng số phát sinh tăng – tổng số phát sinh giảm. Sở dĩ hai loại tài khoản này có kết cấu như trên vì những nguyên nhân sau: Do vốn và nguồn vốn là hai mặt biểu hiện khác nhau của tài sảnở đơn vị, do vậy kết cấu phản ánh hai đối tượng kế toán vốn kinh doanh và nguồn vốn kinh doanh phải ngược nhau để phản ánh rõ các đối tượng kế toán nào thuộc vốn kinh doanh hay thuộc nguồn vốn kinh doanh. Số dư đầu kỳ của tài khoản vốn kinh doanh và nguồn vốn kinh doanh phản ánh số hiện có của hai đối tượng này ở thời điểm đầu kỳ vì kết cấu của hai loại tài khoản này ngược nhau nên số dư đầu kỳ của chúng phản ánh ở hai bên khác nhau. Nếu số dư tài khoản vốn kinh doanh phản ánh ở bên nợ thì số dư của tài khoản nguồn vốn ở bên có. Theo quy ước hiện nay, số dư đầu kỳ của tài khoản vốn ở bên Nợ, còn số dư tài khoản Nguồn vốn ở bên có. Số dư cuối kỳ này là số dư đầu kỳ sau nên số dư đầu kỳ và số dư cuối kỳ được phản ánh cùng bên. Số phát sinh tăng trong kỳ làm cho số dư của tài khoản vốn kinh doanh (hay tài khoản Nguồn vốn kinh doanh tăng lên) do đó để dễ nhận biết thì nó cùng phản ánh cùng với bên số dư. Số phát sinh giảm làm cho số dư giảm đi, đồng thời nó là sự vận độngđối lập với số phát sinh tăng, nên nó được phản ánh khác bên với số phát sinh tăng và số dư. Tài khoản phản ánh quá trình kinh doanh. Nợ Có - Phản ánh chi phí phát sinh - Phản ánh thu phát sinh - Lãi - Lỗ Ví dụ: Kết cấu tài khoản – Doanh thu bán hàng. Tài khoản – Doanh thu bán hàng - Số thuế tiêu thụ đặc biệt hoặc thuế xuất khẩu phải nộp tính trêndoanh thubán hàng thực tế của sản phẩm, hàng hoá dịch vụ đã cung cấp cho khách hàng và đã được xác định là tiêu thụ trong kỳ bằng kế toán . - Trị giá hàng hoá bị trả lại kết chuyển cuối kỳ . - Khoản giảm giá hàng bán kết chuyển cuối kỳ. - Kết chuyển doanh thu vào tài khoản “xác định kết quả kinh doanh” - doanh thu bán sản phẩm, hàng hoá và cung cấp dịch vụ của doanh nghiệp thực hiện trong kỳ kế toán . Do đối tượng kế toán là tài sản và sự vận động của tài sản đó trong đơn vị nên kết cấu của tài khoản kế toán phải được xây dựng dựa trên nội dung và đặc điểm của từng đối tượng hạch toán kế toán. Mặt khác tài sản trong đơn vị bao gồm nhiều loại được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, quá trình sản xuất kinh doanh của đơn vị bao gồm nhiều giai đoạn phức tạp, mỗi đơn vị kinh doanh khác nhau thì số tài sản cần thiết sử dụng cũng khác nhau , do đó cần tổ chức nhiều hệ thống tài khoản khác nhau để có thể đáp ứng nhu cầu thông tin quản lý, tiện lợi cho việc hạch toán hàng ngày cũng như quyết toán định kỳ. Đối với một số tài khoản kế toán chi tiết cần nắm số dư thường xuyên liên tục thì kết cấu tài khoản có thể xây dựng gồm 3 phần để phản ánh thường xuyên số hiện có và hai mặt vận động của đối tượng kế toán . Ví dụ: tài khoản chi tiết “phải thu khách hàng”. Diễn giải Số phải thu Số đã thu Số còn phải thu Số Ngày Dư đầu kỳ Phát sinh trong kỳ Cộng phát sinh Dư cuối kỳ 2.3 Tính khoa học của tài khoản kế toán. Tài khoản kế toán là hình thức biểu hiện, là công cụ của phương pháp tài khoản kế toán. Phương pháp tài khoản có phát huy được hiệu quả của mình là phản ánh các đối tượng kế toán, ghi chép, kiểm tra một cách thường xuyên liên tục có hệ thống tình hình hiện có và sự vận động của từng đối tượng kế toán nhằm cung cấp thông tin đầy đủ có hệ thống kịp thời phục vụ công tác quản lý, tất cả các yếu tố đó đều phụ thuộc vào việc xây dựng kết cấu tài khoản một cách hợp lý. Có nghĩa là phải đảm bảo tính khoa học của tài khoản kế toán. Tính khoa học của tài khoản thể hiện cụ thể ở các mặt như sau: + Tài khoản kế toán phản ánh đối tượng kế toán ở trạng thái tĩnh và sự vận động của từng đối tượng kế toán cụ thể trong mối quan hệ giữa các đối tượng kế toán với nhau một cách có hệ thống, thường xuyên liên tục, toàn diện. Đây là một trong những ưu điểm của phương pháp tài khoản kế toán so với phương pháp chứng từ kế toán. + Kết cấu của tài khoản kế toán thể hiện tính khoa học của tài khoản kế toán vì thông qua kết cấu này, tài khoản kế toán được chia làm hai bên do đó phản ánh được sự vận động của đối tượng kế toán theo hai mặt đối lập (tăng và giảm, thu va chi, nhập và xuất ) giúp cho việc ghi chép phản ánh số liệu của đối tượng kế toán ở mọi thời điểm cần thiết, thuận tiện khi tổng hợp số liệu. + Qua việc ghi chép các nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh, tài khoản kế toán cho phép nhận biết được số hiện có của đối tượng kế toán cụ thể ở từng thời điểm. Số phát sinh trong kỳ cho phép thấy được sự vận động của đối tượng kế toán. Số dư đầu kỳ và cuối kỳ cho biết tình hình hiện có của đối tượng kế toán ở các thời điểm đầu kỳ và cuối kỳ hạch toán. Đồng thời qua việc ghi chép một nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh vào tài khoản có liên quan tới nó, ta thấy được mối quan hệ lẫn nhau giữa các đối tượng kế toán. 3 .Cách ghi chép trên tài khoản kế toán và tính khoa học của cách ghi chép trên tài khoản kế toán . 3.1 Nội dung của cách ghi chép trên tài khoản kế toán . Căn cứ vào nội dung các nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh đã được phản ánh ở các chứng từ gốc, kế toán sử dụng phương pháp tài khoản kế toán để phản ánh các nghiệp vụ kinh tế tài chính đó vào các tài khoản kế toán.Cách ghi chép trên tài khoản kế toán là một trong những hình thức biểu hiện của phương pháp tài khoản kế toán. Có hai cách ghi phản ánh nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh vao tài khoản kế toán đó là : cách ghi đơn và cách ghi kép. + Cách ghi đơn: Cách ghi đơn là cách ghi phản ánh các nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh tác động đến đối tượng kế toán cụ thể nào thì ghi vào tài khoản kế toán phản ánh đối tượng kế toán cụ thể đó một cách độc lập, không có quan hệ với đối tượng kế toán cụ thể khác. Cùng với sự phát triển của sản xuất, cách ghi đơn của hạch toán kế toán được tiến hành lần đầu vào thời kỳ nên kinh tế xã hội đang ở hình thái kinh tế xã hội chiếm hữu nô lệ, sau đó nó ngày càng được cải tiến hợp lý hơn. Trong các doanh nghiệp cách ghi đơn được sử dụng phổ biến để ghi chép các hoạt động sản xuất, buôn bán, nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh ít. Ví dụ: Số dư đầu kỳ nguyên hiện vật hiện là 200 Xuất kho nguyên vật liệu 50 Nhập kho nguyên vật liệu 100 Các nghiệp vụ đó phản ánh vào Tài khoản “Nguyên liệu- Vật liệu” bằng cách ghi đó: Tài khoản 152 200. (2)100 50(1) 100 50 250 Trong công tác kế toán ở các doanh nghiệp hiện nay ghi đơn được thực hiện trong các trường hợp sau: - Ghi phản ánh các nghiệp vụ kinh tế phát sinh vào các tài khoản chi tiết nhằm cụ thể hoá số liệu đã ghi ở tài khoản tổng hợp. Ví dụ: Một doanh nghiệp tạm ứng cho cán bộ X 200.000 bằng tiền mặt, nợ tài khoản “tạm ứng” : 200.000 Sổ chứng từ : Tạm ứng cho cán bộ X * * * (1)200.000. ………. - Ghi phản ánh các nghiệp vụ kinh tế phát sinh vào tài khoản ngoài bảng các hoạt động kinh tế tài chính cóliên quan tới tài sản của các đơn vị khác mà đơn vị có trách nhiệm quản lý và sử dụng. Ví dụ: Thuê ngoài một thiết bị trị giá 100 (đơn vị triệu đồng) phản ánh vào tài khoản ngoài bảng đó là tài khoản “tài sản thuê ngoài”. + Cách ghi kép: Ghi kép là ghi phản ánh các nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh cùng một lúc vào các tài khoản có liên quan theo đúng nội dung của nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh và đúng mối quan hệ khách quan giữa các đối tượng kế toán mà nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh tác động đến. Có các loại nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh chủ yếu sau: Nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh làm tăng một loại vốn này và làm giảm một loại vốn khác. Ví dụ: Chuyển tiền gửi ngân hàng về quỹ tiền mặt 100 triệu. Nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh làm tăng một loại nguồn vốn này và làm giảm một loại nguồn vốn khác. Ví dụ: Vay ngắn hạn ngân hàng trả nợ người bán 20 triệu. Nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh làm tăng một loại vốn này đồng thời làm tăng một nguồn vốn cụ thể khác. Ví dụ: Nhà nước cấp một tài sản cố định trị giá 500 triệu làm tăng nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp Nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh làm giảm một loại vốn này đồng thời làm giảm một nguồn vốn cụ thể khác. Ví dụ: Trích tiền mặt trả lương công nhân 1triệu Nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh làm giảm nguồn vốn này nhưng không tăng nguồn vốn khác và cũng không giảm vốn khác. Ví dụ: Doanh nghiệp mua hàng hết 100 triệu trả tiền ngay được giảm 5 triệu đphát sinh thu nhập vì làm giảm khoản phải trả người bán, không tăng nguồn vốn khác, không giảm vốn khác. Nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh làm tài sản này không làm giảm tài sản khác,hay làm tăng khoản nợ phải trả khác. Ví dụ: Lãi do tiền gửi ngân hàng 3 triệuđphát sinh thu nhập do làm tăng tiền gửi ngân hàng trong khi không làm giảm tài sản khác hay làm tăng khoản nợ phải trả khác. Nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh làm tăng khoản nợ phải trả nhưng không làm giảm khoản nợ phải trả khác hay tăng tài sản khác . Ví dụ: Doanh nghiệp mua hàng nhưng trả trong thời gian 1năm do đó số tiền thực tế phải trả lớn hơn số tiền mua hàng hoá trả tiền ngay là 1 triệu đphát sinh chi phí vì khoản phải trả chongười bán hàng tăng Nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh làm giảm tài sản này nhưng không làm tăng tài sản khác, không giảm khoản nợ khác Ví dụ: Lấy tiền mặt trả công cho người làm thuê 500 nghìn đphát sinh chi phí. Nội dung của cách ghi sổ kép là: Nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh tác động đến tài sản của đơn vị bao giờ cũng đượcghi vào ít nhất 2 tài khoản kế toán có liên quan. Nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh bao giờ cũng đượcghi Nợ vào tài khoản này ghi Có vào tài khoản khác. Số tiền ghi vào bên Nợ và số tiền ghi vào bên Có của các tài khoản do nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh tác động đến bao giờ cũng bằng nhau Cơ sở để thực hiện việc ghi chép trên tài khoản là nội dung kinh tế của các nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh. Căn cứ vào chứng từ gốc kế toán tiến hành ghi nợ vào tài khoản nào và ghi có vào tài khoản nào và số tiền ghi vào mỗi bên . Công việc nàyđược gọi là định khoản kế toán. Có 2 loại định khoản kế toán là định khoản giản đơn và định khoản phức tạp Định khoản kế toán giản đơn là định khoản kế toán liên quan ít nhất đến 3 tài khoản tổng hợp Định khoản kế toán phức tạp có các dạng sau: ghi nợ 1 tài khoản này, ghi có nhiều tài khoản khác ghi có 1 tài khoản này, ghi nợ nhiều tài khoản khác ghi nợ nhiều tài khoản đồng thời ghi có nhiều tài khoản khác do cùng một nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh tác động đến. Ví dụ: Trích tiền gửu ngân hàng trả vay ngắn hạn 50 triệu, chuyển sang quỹ tiền mặt 10 triệu. Nợ tài khoản 311: 50 triệu Nợ tài khoản 111: 10 triệu Có tài khoản 112: 60 triệu Với cách đơn trên tài khoản kế toán chỉ phản ánh, kiểm tra, giám sát được sự vận động độc lập, riêng rẽ của bản thân từng đối tượng kế toán cụ thể. Nó chỉ phản ánh sự vận động nội tại bên trong đối tượng kế toán chứ không phải phản ánh được sự vận động của đối tượng kế toán trong mối liên hệ biện chứng với sự vận động của đối tượng kế toán. Nhưng với cách ghi kép đã khắc phục được những nhược điểm này, trên cơ sở vận dụng quan điểm của chủ nghĩa duy vật mỗi sự vật hiện tượng trong thế giới hiện tồn tại tác động qua lại lẫn nhau, và các đối tượng của hạch toán, kế toán không nằm ngoài các quy luật đó. Ghi kép trên tài khoản kế toán giúp phản ánh và kiểm tra giám sát các hoạt động kinh tế tài chính một cách khoa học chính xác do cách ghi chép này đã phản ánh được mối liên hệ giữa các đối tượng kế toán trong nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh . 3.2 Tính khoa học cách ghi chép trên tài khoản kế toán. Cách ghi chép trên tài khoản kế toán chín._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docK1169.doc
Tài liệu liên quan