Quan hệ giữa Tín dụng ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn với Nông hộ ở khu vực miền núi phía Bắc tỉnh Quảng Nam

mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Thực hiện đường lối của Đảng và Nhà nước ta về phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhiều năm qua nền kinh tế nước ta không ngừng tăng trưởng ổn định, sự cách biệt giữa các vùng miền, khu vực được rút ngắn, tỷ lệ và diện hộ đói nghèo giảm đáng kể, kinh tế nông nghiệp và nông thôn đã có những chuyển biến hết sức to lớn và tích cực. Phong trào nông dân sản xuất giỏi đang được mở rộng, nhiều hộ sản

doc90 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1165 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Quan hệ giữa Tín dụng ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn với Nông hộ ở khu vực miền núi phía Bắc tỉnh Quảng Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
xuất đã mạnh dạn bỏ vốn đầu tư phát triển kinh tế vườn, kinh tế trang trại mang lại hiệu quả cao. Những chuyển biến tích cực cả về mặt kinh tế và xã hội đã góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn nói chung và nông nghiệp, nông thôn miền núi nói riêng, từng bước nâng cao đời sống của người dân ở các khu vực vùng 2 vùng 3. Vai trò kinh tế hộ đã trở thành nhân tố động lực trong phát triển kinh tế hàng hóa tại khu vực, mối quan hệ giữa kinh tế hộ với các thành phần kinh tế khác tăng lên. Chính sách điều tiết hỗ trợ của Nhà nước đối với kinh tế hộ đan xen với mục tiêu lợi ích kinh tế chung đã giải phóng được sức sản xuất, xác lập đủ điều kiện để phát triển một ngành nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH, đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, nông thôn. Trong mối quan hệ đó với chức năng của mình tín dụng ngân hàng đã có những tác động thúc đẩy sự phát triển của kinh tế hộ thông qua các hình thức thu hút vốn nhàn rỗi từ dân cư, tổ chức kinh tế để cấp vốn tập rung vao các mục tiêu xoá dói, giảm nghèo, kích thích sản xuất phát triển tín dụng ngân hàng đã tạo được đầu ra giúp hộ sản xuất đủ nguồn lực để tổ chức sản xuất, mở rộng quy mô sản xuất theo hướng phát triển kinh tế hàng hóa gắn với nhu cầu của thị trường. Bên cạnh đó, tín dụng ngân hàng còn là một trong những đầu mối hỗ trợ Nhà nước thực hiện có hiệu quả các chính sách, cơ chế khuyết khích ưu đãi về kỹ thuật và hỗ trợ lãi suất sau đầu tư cho phát triển kinh tế hộ thông qua kỹ năng kiểm tra trước trong và sau khi cho vay của ngân hàng. Nhờ tính chất ưu việt của mình đã làm cho, mối quan hệ của tín dụng ngân hàng với nông hộ được cải thiện, trong đó tín dụng giữ vai trò động lực cho phát triển kinh tế tại khu vực nông thôn. Bằng các nghiệp vụ chuyên môn, nhất là công tác huy động vốn và thực hiện đầu tư tín dụng của Ngân hàng cho hộ sản xuất nông nghiệp tại địa bàn đã góp phần thực hiện tốt nhất định hướng cơ cấu kinh tế tại địa phương thúc đẩy tăng trưởng, tăng được thu nhập của kinh tế hộ. Với ý nghĩa đó tác giả chọn đề tài "Quan hệ giữa Tín dụng ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn với Nông hộ ở khu vực miền núi phía Bắc tỉnh Quảng Nam" làm luận văn tốt nghiệp Cao học chuyên ngành Kinh tế chính trị. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Qua 5 năm thực hiện chiến lược về phát triển kinh tế vườn, kinh tế trang trại ở ku vực miền núi Quảng Nam. Các mô hình kinh tế hộ đã thật sự đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế tại địa bàn. Tuy nhiên, những thành tựu đạt được mới chỉ mang tính khởi đầu, khẳng định tính đúng đắn trong xác định cơ cấu kinh tế với bước đi cụ thể. Việc còn phải làm là rất lớn, nhất là yêu cầu về vốn đầu tư, trong đó không thể thiếu được mối quan hệ giữa hoạt động tín dụng của ngân hàng với phát triển kinh tế hộ. Liên quan đến đề tài nghiên cứu đã có một số công trình về hoạt động ngân hàng với phát triển kinh tế hộ nhưng phạm vi nghiên cứu rộng, có thể thấy ở một số đề tài cụ thể sau: - Đề tài: "Phát triển tín dụng nông thôn ở đồng bằng sông Cửu Long" của tác giả: Phạm Văn On (Khoa Kinh tế chính trị, HVCTQG Hồ Chí Minh) - Đề tài: "Tín dụng ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn nhằm phát triển ngành nông nghiệp ở tỉnh Thanh Hoá" của tác giả: Đặng Ngọc Ba (Khoa Phát triển kinh tế, HVCTQG Hồ Chí Minh). - Đề tài: "Đổi mới hoạt động tín dụng ngân hàng nông nghiệp nhằm phát triển nông nghiệp nông thôn trên địa bàn tỉnh Quảng Nam" của tác giả: Võ Văn Lâm (Khoa Quản lý kinh tế, HVCTQG Hồ Chí Minh). - Đề tài: "Mở rộng tín dụng ngân hàng đối với kinh tế tư nhân trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn" của tác giả: Hoàng Xuân Hùng (Khoa Quản lý kinh tế, HVCTQG Hồ Chí Minh). Để thực hiện đề tài của luận văn này tác giả đã kế thừa những ý tưởng về cơ sở lý luận và một số nội dung liên quan để phục vụ cho quá trình khảo sát thực trạng và đề xuất giải pháp. 3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài 3.1. Mục đích - Nghiên cứu mối quan hệ giữa tín dụng ngân hàng nói chung và tín dụng của NHNo&PTNT nói riêng với mục tiêu phát triển kinh tế của các hộ trồng trọt và chăn nuôi tại khu vực. Đề xuất các giải pháp phù hợp nhằm phát huy hiệu quả của tín dụng ngân hàng. - Chỉ rõ mục tiêu lợi ích của các bên và lợi ích xã hội trong mối quan hệ đó. 3.2. Nhiệm vụ: Luận văn có gắng luận giải vai trò của tín dụng ngân hàng, đăc biệt là tìm kiếm giải pháp để nâng cao hiệu quả mối quan hệ giữa tín dụng ngân hàng nói chung và tín dụng NHNo&PTNT nói riêng đối với việc phát triển kinh tế hộ tại khu vực nghiên cứu. Trong đó kinh tế hộ ngày càng được chuyển giao nhiều ứng dụng kỹ thuật, tư vấn tổ chức sản xuất thông qua tác động của tín dụng ngân hàng. Đáp ứng phát triển đúng định hướng kinh tế xã hội theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng X và Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp ở địa phương. Phân tích, đánh giá thực trạng quan hệ tín dụng ngân hàng, những mặt đạt được, những hạn chế, nguyên nhân. Chú trọng những yếu kém, đề xuất biện pháp chủ yếu thiết thực. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng: Nghiên cứu mối quan hệ hỗ trợ vốn, thực hiện uỷ thác đầu tư và chuyển giao các ứng dụng kỹ thuật đến phát triển kinh tế hộ trồng trọt và chăn nuôi tại khu vực nghiên cứu. 4.2. Phạm vi: Đề tài tập trung nghiên cứu quan hệ giữa tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn với nông hộ ở 3 huyện miền núi phía bắc Quảng Nam (huyện Đông Giang, huyện Tây Giang, huyện Nam Giang) từ năm 2001 đến nay. 5. Cơ sở lý luận và Phương pháp nghiên cứu - Cơ sở lý luận: Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. - Phương pháp nghiên cứu: Luận văn được nghiên cứu theo phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp duy vật lịch sử, các phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp và phương pháp toán học. 6. Đóng góp mới của luận văn Luận văn đã đánh giá, phân tích thực trạng mối quan hệ, chỉ ra những thành tựu đạt được và bài học thành công, những hạn chế khiếm khuyết trong hoạt đông tín dụng của ngân hàng thương mại trên địa bàn. Trình bày các giải pháp tổng thể nhằm phát huy tốt hơn mối quan hệ của hoạt động tín dụng ngân hàng với phát triển kinh tế hộ. Đưa ra những kiến nghị với ngân hàng cấp trên, các cấp uỷ, chính quyền, các ngành, các đoàn thể tại địa phương để có chính sách đúng hơn trong đầu tư phát triển kinh tế hộ, tạo lập cơ sở sát thực hơn trong tổng kết và đánh giá vai trò kinh tế hộ trong chiến lược phát triển kinh tế chung của địa phương. 7. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn kết cấu gồm 3 chương, 8 tiết. Chương 1 Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về quan hệ giữa tín dụng ngân hàng trong phát triển kinh tế hộ 1.1. Một số vấn đề lý luận cơ bản về quan hệ giữa ngân hàng thương mại với kinh tế hộ 1.1.1. Khái niệm về tín dụng ngân hàng và vai trò của nó 1.1.1.1. Khái niệm về tín dụng Ngân hàng Tín dụng ngân hàng là tín dụng do ngân hàng làm trung gian vừa đại diện cho người đi vay để vay tiền của người gửi tiền, vừa đại diện cho người gửi tiền để đem cho vay sao cho có hiệu quả. Tín dụng ngân hàng linh hoạt hơn, quy mô rộng hơn, phong phú hơn vì nguồn vốn không chỉ là tư bản tạm thời nhàn rỗi, mà còn gồm cả thu nhập của người lao động, tuy nhỏ nhưng tập trung thành nguồn tư bản lớn. Chính vì vậy, đã nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong xã hội, vì biến vốn tạm thời nhàn rỗi, biến tiền để dành thành tư bản hoạt động. Ngân hàng thương mại với tính tạo tiền, có thể nhân nguồn vốn tiền gửi lên theo số nhân tiền, kể cả tạo ngoại tệ khi tập trung được tiền gửi ngoại tệ. NHTM ra đời là một kết quả tất yếu của sự phát triển nền kinh tế, nhưng mặt khác, hệ thống NHTM với tư cách là “kênh dẫn vốn chủ yếu” của nền kinh tế, cũng tác động trở lại, đóng vai trò là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. NHNo&PTNT Việt Nam được thành lập theo nghị định 53/HĐBT (26-3-1988), đến tháng 11/1990 đổi tên là Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam và được thành lập lại theo Quyết định 282/QĐ-NHT (15-10-1996) của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam lấy tên là NHNo&PTNT Việt Nam, là một NHTM nhà nước hoạt động kinh doanh chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Biểu hiện rõ nét là trực tiếp đầu tư cho phát triển kinh tế, xã hội trong khu vực kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng CNH, HĐH. Với vị trí đó, hoạt động của NHNo&PTNT Việt Nam chủ yếu thực thi các chính sách của Đảng, Nhà nước và của ngành như: - Chính sách tín dụng đối với hợp tác xã và các hình thức kinh tế hợp tác khác: Nhà nước có chính sách tín dụng tạo điều kiện về vốn, điều kiện vay nhằm hỗ trợ cho hợp tác xã và các hình thức kinh tế hợp tác khác đổi mới và phát triển; bảo đảm kinh tế nhà nước cùng kinh tế hợp tác trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. - Chính sách tín dụng đối với nông nghiệp, nông thôn và nông dân: Nhà nước có chính sách tíng dụng ưu đãi về vốn, lãi suất, điều kiên, thời hạn vay vốn đối với nông nghiệp, nông thôn và nông dân nhằm góp phần xây dựng cơ sở vật chất, kết cấu hạ tầng, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp, phát triển sản xuất hàng hoá, thực hiện CNH-HĐH nông nghiệp và nông thôn. - Chính sách tín dụng đối với miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng có điều kiện linh tế - xã hội khó khăn: Nhà nước có chính sách tín dụng ưu đãi về vốn, lãi suất, thời hạn vay vốn để mở rộng đầu tư phát triển kinh tế hàng hoá và đẩy mạnh giao lưu kinh tế giữa các vùng. 1.1.1.2. Vai trò của tín dụng trong phát triển Kinh tế hộ ở nông thôn miền núi Trong quá trình tổ chức thực thi các chính sách nêu trên, đã hình thành mối quan hệ tín dụng của NHNo&PTNT Việt Nam với kinh tế hộ và mối quan hệ này chiếm thị phần chủ yếu trong hoạt động cung ứng vốn ngắn - trung - dài hạn cho phát triển kinh tế tại địa bàn nói chung và kinh tế hộ nói riêng. Vai trò của KTH trong quá trình phát triển nền sản xuất hàng hoá rất lớn, những hình thái sản xuất hàng hoá có hiệu quả đã xuất hiện và hình thành như kinh tế vườn, kinh tế trang trại, làng nghề… trên quy mô sản xuất ngày càng lớn, khả năng tích tụ, tập trung đất đai ngày càng mở rộng. Sự tồn tại các hình thức tổ chức trên đã tạo điều kiện ứng dụng công nghệ mới, tạo động lực giải phóng sức sản xuất ở nông thôn và chuyển dịch lao động ở khu vực miền núi, từ đó phát sinh nhu cầu mới về lao động, vốn đầu tư, thị trường và các mối quan hệ liên doanh, liên kết giữa sản xuất nông nghiệp với ngân hàng trong đó quan hệ ín dụng sẽ được phát triển khởi sắc hơn. Với vai trò là trung gian tài chính “đi vay để cho vay” tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy sự liên kết trong sản xuất, kinh doanh, xoá đi tập quán sản xuất kinh doanh theo kiểu tự cấp, tự túc mang tính cục bộ theo từng khu vực, thôn bản. Hơn nữa tín dụng còn thúc đẩy thị trường hàng hoá phát triển ngày càng đa dạng và sống động ở các khu vực kinh tế tập trung như thị trấn, thị xã, nơi giao lưu hàng hoá mạnh hơn. ở đây tín dụng là cầu nối điều hoà vốn giữa nơi thừa đến nơi thiếu, giữa người thừa vốn đến người thiếu vốn cần vay để phục vụ sản xuất cũng như các nhu cầu đời sống khác. Tín dụng ngân hàng càng năng động, tạo lập trung gian tài chính giữa các chủ thể sản xuất - kinh doanh- tiêu thụ thông qua việc huy động vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế đầu tư cho các nhu cầu để mở rộng sản xuất, kinh doanh và giao lưu hàng hoá. Từ đó đẩy nhanh sự phát triển của thị trường tiền tệ ở nông thôn, tạo nên dòng lưu chuyển vốn nhanh và kịp thời thúc đẩy thị trường hàng hoá phát triển. Đối với KTH tín dụng có vai trò cơ bản sau: Một là, tín dụng ngân hàng tích cực tham gia góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp nông thôn nhờ đó thúc đẩy KTH phát triển. Nội dung quan trọng của CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn là giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân, thực hiện chuyển dịch mạnh cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng tạo ra giá trị gia tăng ngày càng cao, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường. Muốn vậy, trong tiến trình CNH, HĐH phải thực hiện cơ khí hoá, điện khí hoá, thuỷ lợi hoá, đưa nhanh tiến bộ kỹ thuật và công nghệ sinh học vào sản xuất, nâng cao năng suất chất lượng và sức cạnh tranh, phù hợp đặc điểm từng vùng từng địa phương. Quá trình chuyển dịch cơ cấu phải tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng sản phẩm và lao động nông nghiệp. Để thực hiện cần sớm khắc phục tình trạng manh mún về đất đai canh tác của các hộ nông dân, khuyến khích việc dồn điền đổi thửa, cho thuê, góp vốn cổ phần bằng đất; phát triển các khu nông nghiệp công nghệ cao, vùng trồng trọt và chăn nuôi tập trung. ở nông thôn cần phát triển các doanh nghiệp công nghiệp và dịch vụ gắn với sự hình thành các ngành nghề, làng nghề, hợp tác xã, trang trại, tạo ra những sản phẩm đáp ứng nhu cầu thị trường và hiệu quả kinh tế cao. Trong tiến trình này tín dụng ngân hàng đã và đang thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá lớn, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường, hỗ trợ kinh tế hộ đưa các thiết bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại vào các khâu sản xuất nông nghiệp, thực hiện cơ giới hoá, hiện đại hoá, thuỷ lợi hoá…, ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ, nhất là công nghệ sinh học và công nghệ thông tin nhằm nâng cao năng suất, chất lượng hiệu quả, sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá nông nghiệp. Trong quá trình CNH-HĐH NNNT, cần khuyến khích phát triển công nghiệp quy mô vừa và nhỏ ở nông thôn. Tín dụng ngân hàng cũng đã chuyển dịch đầu tư, tăng cường nguồn vốn trung - dài hạn nhằm đáp ứng cơ cấu đầu tư phù hợp với yêu cầu khôi phục, phát triển ngành nghề, thực hiện CNH- HĐH NNNT. Hai là, tín dụng ngân hàng góp phần thiết thực trong việc giải phóng nguồn nhân lực, khai thác tiềm năng đất đai, mặt nước và khôi phục phát triển ngành nghề, tạo công ăn việc làm ở nông thôn thúc đẩy KTH phát triển. Nước ta là một nước nông nghiệp với tiềm năng đất, nước, rừng, biển và khoáng sản còn rất lớn chưa được quản lý và sử dụng, khai thác tốt. Nếu Nhà nước có những chính sách quản lý vĩ mô thích hợp như quy hoạch, đầu tư…hợp lý sẽ thúc đẩy việc khai thác có hiệu quả các nguồn tài nguyên nông nghiệp nông thôn, trong đó tín dụng ngân hàng là đòn bẩy góp phần động viên các nguồn lực vào sản xuất hàng hoá ở nông thôn. Mặt khác, nước ta với nguồn lao động dồi dào, hàng năm có từ 5-6 triệu người ở nông thôn không có đủ việc làm nên áp lực về nhu cầu giải quyết việc làm trong quá trình CNH-HĐH sẽ rất lớn. Cùng với việc chuyển dịch cơ cấu đầu tư của tín dụng ngân hàng để phát triển diện tích rừng trồng cây nguyên liệu gỗ, giấy, phát triển chăn nuôi gia súc tập trung gắn với công nghiệp chế biến đã thu hút số lao động dôi thừa ở nông thôn miền núi, tạo công ăn việc làm tại chổ, dần dần sắp xếp lại lao động từ chổ tự phát, du canh, du cư tiến tới lao động tự giác có tổ chức và chuyên môn cao. Đây chính là vai trò quan trọng của tín dụng ngân hàng thông qua cho vay kinh tế hộ nhằm thúc đẩy quá trình khai thác nguồn lực trong nông nghiệp và phát triển ngành nghề ở nông thôn, tạo thêm nhiều công ăn việc làm ở nông thôn miền núi và phát triển quy mô sản suất hàng hoá trong nông nghiệp. Ba là, tín dụng ngân hàng góp phần đẩy nhanh quá trình tích tụ, tập trung ruộng đất, phát triển hàng hoá đối với KTH ở nông thôn. Sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp ngày càng phát triển, nhiều hộ biết tính toán đầu tư vào nhiều lĩnh vực sản xuất mang lại hiệu quả cao như: đầu tư cho phát triển theo mô hình kinh tế vườn-ao-chuồng-rừng. Vốn tín dụng đã hỗ trợ cho kinh tế hộ trong việc bố trí lại sản xuất, cải tạo đất đai…đồng thời, vốn tín dụng ngân hàng tăng đầu tư vào khoa học công nghệ, giảm chi phí sản xuất, hỗ trợ kinh tế hộ tận dụng tốt các cơ chế ưu đãi về phát triển kinh tế vườn, kinh tế trang trại. Theo quy luật phát triển, khi quy mô sản xuất hàng hoá càng tăng, việc tích tụ tập trung đất đai càng lớn, vốn tín dụng càng tăng lên theo yêu cầu đầu tư đồng thời thúc đẩy nhanh tăng trưởng sản lượng hàng hoá trong nông nghiệp ở nông thôn. Bốn là, tín dụng ngân hàng góp phần xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn, tạo điều kiện ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất hàng hoá. Thực hiện phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng như: hệ thống giao thông nông thôn, mạng lưới điện, hệ thống nước sạch…vốn tín dụng đã đầu tư hỗ trợ bổ sung vào vốn tự có của bà con nông dân và sự hỗ trợ đầu tư của nhà nước. Nhờ đó các công trình kết cấu hạ tầng đã được xây dựng và đưa vào sử dụng, góp phần cải thiện đời sống người dân nông thôn tạo điều kiện để họ tiếp thu và ứng dụng công nghệ mới vào sản xuất. Nhiều mô hình thử nghiệm tại chổ nhờ sự giúp đỡ của tín dụng đã mang lại hiệu quả cao như: tạo giống bò lai F1 từ giống bò vàng tại chỗ, ứng dụng kỹ thuật chăm sóc cây trồng, vật nuôi... tạo ra sản phẩm hàng hoá có chất lượng tốt, năng suất cao được thị trường chấp nhận. Bộ mặt nông thôn cũng được cải thiện, đời sống văn hoá ngày càng nâng cao, thực hiện chủ trương xoá đói giảm nghèo ngày càng đem lại hiệu quả thiết thực. Năm là, tín dụng ngân hàng góp phần hạn chế nạn cho vay nặng lãi ở nông thôn tháo gỡ những khó khăn cho các hộ nông dân khi giáp vụ hoặc gặp rủi ro trong cuộc sống. Từ những năm 1990 trở về trước, khi mà kinh tế hộ chưa được khuyến khích bằng chính sách đầu tư tín dụng của ngân hàng thương mại nhà nước, các hộ sản xuất phải đi vay lãi suất cao từ 15 đến 20%/tháng trên thị trường cho vay nặng lãi ở nông thôn đã làm nhiều hộ nông dân phá sản, gia đình li tán hoặc đau khổ. Sau năm 1990, khi có chính sách cho hộ nông dân vay vốn, tín dụng ngân hàng ngày càng mở rộng với cơ chế thông thoáng và thủ tục đơn giản đã góp phần đáng kể vào việc hạn chế nạn cho vay nặng lãi ở nông thôn. Việc cho vay đối với kinh tế nông hộ của ngân hàng thương mại đã bổ sung kịp thời khoản vốn thiếu cho các dự án sản xuất kinh doanh có tính chất khả thi đã thực sự góp phần thiết thực thúc đẩy sản xuất phát triển, đời sống nông dân ngày càng được cải thiện. Vốn tín dụng ngân hàng đã được chuyển tải đến hộ vay có sức lao động, có đất đai, có phương án sản xuất kinh doanh khả thi nhưng thiếu vốn sản xuất không phân biệt giàu nghèo trên tinh thần khuyến khích làm giàu chính đáng. Chính vì vậy đã có nhiều hộ mạnh dạn vay vốn mở mang trang trại, chuyển đổi giống mới, thu hút thêm lao động nông nhàn trên tinh thần hộ giàu có kinh nghiệm giúp hộ nghèo cùng vươn lên làm giàu. Vốn tín dụng tạo ra cơ hội cho các xí nghiệp nông nghiệp nhỏ ở nông thôn ra đời và phát triển, góp phần cơ bản giải quyết nạn thất nghiệp cũng như các vấn đề xã hội khác ở nông thôn Việt Nam. 1.1.2. Kinh tế hộ và đặc trưng các mối quan hệ kinh tế phát sinh của nó Trong quá trình phát triển kinh tế hộ ở nông thôn việt nam đã nảy sinh không ít vấn đề về lý luận và thực tiễn, đặc biệt cho đến nay còn không ít những ý kiến khác nhau chung quanh khái niệm hộ, đồng thời sự phát triển của kinh tế hộ còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc ở tầm vĩ mô cũng như vi mô. Để hiểu về KTH và những quan hệ khách quan nẩy sinh giữa KTH với tín dụng ngân hàng, cần phải nhận dạng về KTH. 1.1.2.1. Nhận diện về kinh tế hộ Thoạt tiên có thể tưởng rằng những khái niệm như: “hộ”, “gia đình”, “hộ gia đình”, “kinh tế hộ”… là những khái niệm đơn giản mọi người ai cũng có thể hiểu bình thường trong đời sống xã hội. Song trong nghiên cứu khoa học thì việc tiếp cận các khái niệm này còn những ý kiến khác nhau [1, tr.15]. Giáo sư Raul lturna, Trường đại học tổng hợp Lisbon nghiên cứu cộng đồng nông dân ở một số nước châu á đã khái quát “hộ là một tập hợp những người cùng chung huyết thống, có quan hệ mật thiết với nhau trong quá trình sáng tao ra vật phẩm để bảo tồn chính bản thân họ và cộng đồng” [20, tr.10]. Về phương diện thống kê thì Liên Hiệp quốc cho rằng: "hộ là những người cùng sống chung dưới một mái nhà, cùng ăn chung và có chung một ngân quỹ” [20, tr.8]. Tiến sỹ Nguyễn Văn Lịch cho rằng: Hộ là một đơn vị kinh tế mà các thành viên đều dựa trên cơ sở kinh tế chung, các nguồn thu nhập do các thành viên tạo ra được sử dụng chung. Quá trình sản xuất của hộ được tiến hành một cách độc lập (Một điều quan trọng là các thành viên của hộ thường cùng huyết thống, cùng chung sống trong một ngôi nhà và cùng ăn chung). Hộ cũng là đơn vị để tổ chức lao động, hộ gia đình sống ở nông thôn làm nông nghiệp được gọi là nông hộ. Mỗi hộ là một đơn vị kinh tế của xã hội, do đó hộ cũng có nền kinh tế đặc trưng đó là kinh tế nông hộ. Nói cách khác kinh tế nông hộ là kinh tế hộ gia đình nông dân [11, tr.9-10]. Tuy nhiên đối với hộ vẫn còn một số ý kiến khác nhau [1, tr.17]. - Có quan niệm hộ gồm những người cùng sống dưới một mái nhà, khái niệm này thường gặp trong quản lý hành chính nhân khẩu. - Một quan niệm khác xem hộ là đơn vị gồm những người cùng sống chung cùng ăn chung như: Hộ tập thể mà thành viên là những người cùng làm việc ở cơ quan, không có cùng thu chi chung. - Một quan niệm khác xem hộ gồm các thành viên có chung nguồn thu nhập và chi tiêu, cùng tiến hành sản xuất chung, quan niệm này có thể phù hợp với những hộ nông dân có kinh tế “tự túc, tự cấp” trình độ phát triển thấp, khi trình độ xã hội phát triển cao lên thì thành viên trong hộ có thể không còn làm chung và ăn chung, mặc dầu họ có thể cùng chung sống. Xu hướng này đang trở thành thực tế trong sinh hoạt hộ ở đô thị, ở các vùng đồng bằng ven biển. Có thể nhìn nhận rằng “hộ” là một khái niệm đã tồn tại ở Việt Nam ngay từ thời phong kiến. Nó được xem như là một tế bào của xã hội cũng như khái niệm “gia đình”. Tuy nhiên giữa “hộ” và “gia đình” không phải bao giờ cũng hoàn toàn thống nhất với nhau về nội dung. Hiện nay, trong các văn bản pháp luật, hộ được xem như là chủ thể trong các quan hệ dân sự do pháp luật quy định và được xác lập như là một đơn vị mà các thành viên có cùng hộ khẩu, chung tài sản và có hoạt động sản xuất làm ăn kinh tế chung. Còn gia đình là những người cùng huyết thống, cùng thân tộc hoặc có quan hệ hôn nhân, cùng sống chung hoặc không cùng sống chung. Có 3 tiêu thức chính để phân biệt hộ và gia đình: [1, tr.16] a. Quan hệ hôn nhân, huyết thống và thân tộc. b. Cư trú chung. c. Có chung cơ sở kinh tế. Thông thường gia đình dựa trên tiêu thức (a) không nhất thiết phải có 2 tiêu thức (b) và (c) vì khi trưởng thành họ có thể làm ăn xa, có nhà cửa riêng… nhưng vẫn cùng chung gia đình. Trong Tiếng Việt trước đây cũng như hiện nay người ta sử dụng từ ghép “hộ gia đình” mà không cần đến khái niệm riêng về sự giống nhau hoặc khác nhau giữa “hộ” và “gia đình”. Do vậy, sự gắn bó gần như đồng nhất giữa “hộ” và “gia đình” là khái niệm kép đang được dùng phổ biến ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên qua khảo sát thực tế cho thấy, do quá trình phát triển kinh tế xã hội càng cao làm cho chức năng của hộ không nhất thiết là các thành viên phải làm chung, ăn chung, song cũng cho thấy các thành viên trong gia đình sống chung dưới một mái nhà, có hoặc không làm chung, có hoặc không có ăn chung và có đăng ký trước chính quyền là một hộ. Đa số các dân tộc sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam có thiết chế hình thành hộ như vậy, chỉ riêng một số dân tộc sống vùng Tây nguyên theo chế độ mẫu hệ thì họ được hình thành theo huyết thống lấy theo người phụ nữ. Xét về mặt kinh tế, hộ là một trong những loại hình đơn vị kinh tế cơ sở mà quá trình lao động được phân công theo tinh thần tự giác, hộ chịu trách nhiệm chung về chi phí sản xuất, tiêu thụ, thu nhập và phân phối tiêu dùng trong hộ. Quan điểm hộ là đơn vị kinh tế trong đó các thành viên “làm chung, ăn chung, ở chung” [1, tr.22]. Trong xã hội chậm phát triển, kinh tế hộ mang tính tự cấp, tự túc, hộ đồng thời giữ 3 chức năng: Sản xuất - kinh doanh, tiêu dùng và đầu tư tái sản xuất mở rộng. Trong xã hội phát triển cao thì tỷ lệ hộ sản xuất tự cấp, tự túc ngày càng thấp, kinh tế hộ mang tính sản xuất hàng hoá ngày càng tăng cao. ở Việt Nam, hầu như từ trước đến nay mặc nhiên thừa nhận “kinh tế hộ” dựa trên tiêu thức chung, đó là một cơ sở kinh tế, là quan hệ huyết thống, quan hệ hôn nhân, tình trạng cư trú…Tuy nhiên, trong thực tiễn khái niệm “kinh tế hộ” được coi là gia đình khi các thành viên của gia đình đó có tài sản chung để hoạt động kinh tế chung trong quan hệ sử dụng đất, trong hoạt động sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp và trong một số lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác do pháp luật quy định, là chủ thể trong các quan hệ dân sự đó (theo điều 116 bộ luật dân sự). Hộ gia đình này có chung hộ khẩu được hưởng quyền lợi và trách nhiệm chung do chủ hộ làm chủ gia đình. Kinh tế hộ là đơn vị kinh tế có sự kết hợp hài hoà giữa sản xuất với xã hội, giữa phương hướng sản xuất, quy mô sản xuất, điều kiện sản xuất với lực lượng lao động cụ thể của từng gia đình. Kinh tế hộ thực chất đã có từ lâu, song ở mỗi hình thái kinh tế, mỗi giai đoạn phát triển nhất định thì có biểu hiện khác nhau. Trong các phương thức sản xuất trước chủ nghĩa tư bản, kinh tế nông hộ được xem là kinh tế tiểu nông, cá thể, là mô hình sản xuất nhỏ trong nông nghiệp. Họ tiến hành sản xuất bằng các công cụ lạc hậu, thô sơ trên những mảnh đất nhỏ của mình. Cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, ruộng đất ngày càng tích tụ, tập trung, những nông hộ nhỏ bị phân hoá trở thành những người làm thuê do không đủ sức cạnh tranh hoặc trở thành những nông trang, những trang trại sản xuất nông nghiệp. Qua nghiên cứu thực tiễn về kinh tế hộ nhiều vùng trong cả nước cũng như ở vùng miền núi phía bắc tỉnh Quảng Nam, thì quan niệm về kinh tế hộ tại địa bàn nghiên cứu được khái quát như sau: Hộ là một tập hợp người cùng huyết thống, sống chung hoặc có thể không sống chung với những người khác huyết thống trong cùng một mái nhà, cùng ăn chung và cùng ngân quỹ chi tiêu. Và thực tế chứng minh cho thấy rằng gia đình là cơ sở nòng cốt của hộ và kinh tế gia đình là cơ sở của kinh tế hộ. Hộ với tư cách là đơn vị kinh tế, hoạt động kinh tế của hộ tập trung vào những nội dung sau: - Hộ làm chủ sỡ hữu các nguồn lực kinh tế được pháp luật thừa nhận và được sử dụng các nguồn lực đó vào hoạt động sản xuất kinh doanh của kinh tế hộ như: đất đai, lao động, vốn liếng (bằng tiền, bằng hiện vật…). - Tham gia vào các hoạt động kinh tế theo các chương trình, dự án kinh tế, theo ngành nghề, theo các vùng miền và quan hệ với các ngân hàng thương mại trong đó có NHNo&PTNT bình đẳng như các tác nhân kinh tế khác trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Hộ gia đình cũng được hưởng nguồn lợi từ các chính sách của Đảng, Nhà nước, vừa thực thi đầy đủ các nghĩa vụ đối với nhà nước như một thực thể kinh tế có tư cách pháp nhân khác. - Trình độ phát triển của kinh tế hộ được đánh giá từ khả năng tích tụ tập trung ruộng đất, tích luỹ vốn để mở rộng sản xuất. Nếu sản xuất để tự tiêu dùng và trang trải cho nhu cầu hàng ngày của hộ, thì trình độ phát triển ở dạng tự cung tự cấp, nếu hộ sản xuất mang mục tiêu lợi nhuận thì đó là hộ sản xuất hàng hoá, là một chủ thể của thị trường. - Hiệu quả hoạt động của kinh tế hộ được hạch toán chi phí với giá trị thu được từ kết quả sản xuất, kinh doanh. Tuy vậy, để nhận diện đầy đủ hơn về kinh tế hộ như là một loại hình tổ chức sản xuất đặc biệt, thì ngoài các yếu tố nêu trên, còn yếu tố tự nhiên và xã hội cũng rất quan trọng, bởi vì hộ còn là tế bào của xã hội. 1.1.2.2. Những đặc trưng và các mối quan hệ cơ bản của kinh tế hộ Thứ nhất: Kinh tế hộ là tổ chức sản xuất mà trong đó mỗi thành viên là những người có quan hệ huyết thống hoặc quan hệ hôn nhân gồm:ông bà, cha mẹ, anh chị em, vợ chồng, con cái, vừa là chủ thể sản xuất, vừa là người lao động trực tiếp. Quá trình sản xuất, kinh doanh chủ yếu dựa vào lao động gia đình là chính và kết hợp quan hệ đổi công theo tính cộng đồng ở thôn, bản, xóm. Các thành viên trong hộ có sự kết hợp quan hệ mật thiết trên cơ sở cùng cộng đồng sở hữu sản xuất và cùng cộng đồng trách nhiệm trên tinh thần tự nguyện, tự giác với nội dung, mục đích đóng góp sức mình để làm tăng thu nhập của hộ, đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của mọi thành viên. Tính huyết thống cũng làm cho hoạt động lao động của hộ được hình thành trên nguyên tắc hoàn toàn tự nguyện chứ không chỉ là sự ép buộc lao động như đã từng diễn ra trong lịch sử. Quan hệ phân phối cũng mang tính ước lệ, không tuân thủ theo nguyên tắc kinh tế dựa vào kết quả lao động hay mức độ đóng góp của mỗi thành viên như ở một số hình thức tổ chức kinh tế khác mà dựa vào nhu cầu tiêu dùng cần thiết của mỗi thành viên và khả năng đáp ứng nhu cầu đó của hộ. Thứ hai: KTH là một mô hình kinh tế có cấu trúc đa dạng, có thể tiến hành các khâu của quá trình sản xuất, phân phối, dự trữ, trao đổi, tiêu dùng… cũng có thể hoạt động sản xuất trong mọi lĩnh vực như trồng trọt, chăn nuôi, đánh bắt, nuôi trồng thuỷ hải sản, khai thác chế biến sản phẩm nông lâm nghiệp và thực hiện các dịch vụ phục vụ nông nghiệp, vừa thích ứng với các hình thức sở hữu khác nhau để khai thác mọi nguồn lực tài chính phục vụ sản xuất kinh doanh. Thứ ba: KTH có khả năng tự điều chỉnh các hoạt động sản xuất kinh doanh một cách linh hoạt, khi gặp khó khăn giá cả thị trường, hộ gia đình có thể chuyển hướng sản xuất với các đối tượng phù hợp, lấy thu nhập từ nguồn này bù vào nguồn khác. Chính vì vậy, mà kinh tế hộ có sức sống bền bỉ, dẻo dai qua các thời kỳ cũng như qua các phương thức sản xuất xã hội. Thứ tư: KTH là hình thức tổ chức kinh tế rất phù hợp với ngành sản xuất nông nghiệp, bởi vì đối tượng của ngành này là cây trồng, vật nuôi, tức là những cơ thể sống, nhạy cảm với sự chăm sóc của con người không những bằng sức lao động mà còn bằng tình cảm và sự cần mẫn từ khi bắt đầu sản xuất cho đến khi thu hoạch sản phẩm. Thứ năm: quy mô sản xuất của kinh tế hộ nông nghiệp thường khép kín trong phạm vi gia đình là chủ yếu, sản xuất thường manh mún, phân tán, đa số là canh tác thuần nông mà tập trung là trồng trọt lúa nước, hoa màu, kết hợp chăn nuôi. Tư liệu sản xuất nhỏ của hộ gia đình chủ yếu là công cụ sản xuất thô sơ, kỹ thuật canh tác dựa vào kinh nghiệm dân gian và chịu sự chi phối mạnh mẽ bởi thời tiết và môi trường tự nhiên. Trình độ canh tác của hộ còn ở mức thấp, người nông dân chưa mạnh dạn khi tiếp cận ứng dụng khoa học kỹ thuật vào canh tác nếu không có sự tác động bằng kết quả cụ thể mà hộ nhìn thấy tr._.ước. Do vậy, năng suất lao động trong KTH thường không ổn định, mặt khác còn phụ thuộc vào thái độ lao động của họ, trong khi đó thái độ lao động bị chi phối bởi tình cảm, đạo đức, truyền thống và phong tục tập quán, lề thói… của từng địa phương. Song bản chất cơ bản của họ luôn luôn gắn bó với đồng ruộng, bản làng, quê hương, dòng tộc của họ. Thứ sáu: chi phí đầu tư sản xuất kinh tế hộ thường là thấp và rải đều cho nhiều đối tượng, ngược lại khi có nhu cầu đầu tư tập trung thì dẫn đến thiếu vốn, do vậy muốn mở rộng quy mô sản xuất, thực hiện thâm canh v.v… thông thường hộ phải vay vốn của những người thân quen, hàng xóm, hoặc vay nặng lãi và vay ngân hàng. Do đó, mối quan hệ giữa ngân hàng thương mại mà chủ yếu là NHNo&PTNT với kinh tế hộ nếu được xác lập thường xuyên và dựa trên nguyên tắc đôi bên cùng có lợi thì có tác dụng to lớn. Nó cơ thể định hướng KTH phát triển và tồn tại vững chắc trong nền kinh tế thị trường. Trong mối quan hệ này, KTH là đối tượng chủ yếu trong hoạt động của tín dụng ngân hàng và là người thườg xuyên và bền vững mang lại lợi ích lâu dài cho các Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Do đó quan hệ giữa KTH với ngân hàng là quan hệ tương hỗ và biện chứng và là cơ sở tồn tại của nhau. Tóm lại: KTH có thể thực hiện cùng một lúc nhiều chức năng thích hợp với đối tượng sản xuất là các cơ thể sống có chu kỳ sản xuất khác nhau mà các đơn vị kinh tế khác khó có thể tiến hành một cách có hiệu quả, mặt khác các thành viên của kinh tế hộ vừa là người chủ vừa là người lao động với thái độ tự nguyện trên cơ sở ràng buộc chặt chẽ về nhận thức trách nhiệm tuyệt đối trong việc quản lý, sở hữu tài sản, tập trung cho các quá trình sản xuất, trao đổi, phân phối và tiêu dùng trong một đơn vị kinh tế tự chủ. Mặt khác, KTH còn là sự thống nhất chặt chẽ với xã hội, là tế bào cấu thành nền kinh tế - xã hội với nhiều chức năng, nhiều nghĩa vụ gắn kết cộng đồng làng xã, tạo lập và lưu giữ truyền thống văn hoá mang bản sắc đặc thù của từng địa phương, đồng thời KTH là cơ sở giáo dục, tôn vinh truyền thống gia đình, dòng họ, thôn bản…của mỗi gia đình mà các đơn vị kinh tế khác không thể có được [22]. Bản thân sự tồn tại của KTH đã tạo ra nhiều mối quan hệ kinh tế xã hội, trong đó quan hệ giữa KTH với tín dụng NHNo&PTNT là mối quan hệ biện chứng là cơ sở tồn tại của nhau. 1.2. Quan hệ giữa tín dụng ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn với kinh tế hộ và các nhân tố ảnh hưởng 1.2.1. Sự hình thành các mối quan hệ giữa tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn với kinh tế hộ và các hình thức tồn tại Sự hình thành và phát triển mối quan hệ giữa ngân hàng với kinh tế hộ luôn luôn gắn liền với những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước qua các thời kỳ, gắn liền với sự vận dụng sáng tạo của các cấp, ngành ở từng địa phương cũng như thoả mãn nhu cầu lợi ích của các bên. Trong mối quan hệ này được xác lập trên cơ sở đảm bảo thực hiện đúng các quy định về cho vay đối với kinh tế hộ của NHNo&PTNT Việt Nam ban hành theo quyết định 72/QĐ-HĐQT của Chủ tịch Hội đồng quản trị Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam. Thông qua cho KTH vay vốn Ngân hàng Nông nghiệp &phát triển nông thôn Việt Nam đã xây dựng và hoàn thiện cơ chế chính sách của mình. Để thực hiện Ngân hàng cần đa dạng hoá đối tượng vay vốn, cải tiến và hoàn thiện thủ tục hồ sơ theo hướng đơn giản, thuận lợi cho người vay, tạo mọi điều kiện để hộ gia đình thoả mãn các nhu cầu về vốn phục vụ sản xuất kinh doanh, phục vụ tiêu dùng và đời sống. Có thể khẳng định rằng: Điều kiện, hồ sơ thủ tục, cơ chế bảo đảm tiền vay…đã được đơn giản hoá cũng cần tiếp tục cải tiến cho phù hợp với từng đối tượng và địa phương. Cơ chế tín dụng nói chung, tín dụng cho kinh tế hộ nói riêng đã được hoàn thiện tương đối phù hợp với từng cây, con-đối tượng vay vốn và trình độ dân trí; thoả mãn cơ bản các yêu cầu của thông lệ quốc tế. Không chỉ có vậy, thông qua cho kinh tế hộ vay, chất lượng tín dụng không ngừng được cải thiện, nâng lên, tỷ lệ nợ quá hạn/nợ xấu thấp;Nếu như tỷ lệ nợ quá hạn cuối năm 1991 là 22%, thì qua các năm và đến cuối năm 2005, tỷ lệ nợ xấu ở mức dưới 3%. Đạt tỷ lệ nợ xấu ở mức thấp trong điều kiện sản xuất nông, lâm nghiệp ở nước ta thường gặp những rủi ro bất khả kháng là một thành công to lớn của NHNo&PTNT Việt Nam [13, tr.22]. Mặt khác, xét về vai trò tác dụng, thì KTH cũng là thị trường rộng lớn đối với ngành kinh tế khác: Kinh tế hộ cùng với việc cung ứng cho thị trường những nông sản hàng hoá thiết yếu cho đời sống xã hội, đồng thời cũng chính họ là lực lượng tiêu thụ chủ yếu của ngành nghề khác như: hàng hoá cần thiết cho tiêu dùng, vật tư, máy móc thiết bị, công cụ lao động cho sản xuất. Do vậy, kinh tế hộ được coi là thị trường quan trọng của nền kinh tế trên cả hai phương diện: một là, do yêu cầu mở rộng sản xuất nông nghiệp, kinh tế hộ cần phải đổi mới thiết bị, ứng dụng công nghệ mới để tăng năng suất, tăng sản lượng đòi hỏi phải mua sắm nhiều tư liệu sản xuất mới, hiện đại hơn. Hai là nhờ sản xuất phát triển, thu nhập kinh tế hộ ngày càng tăng, nhu cầu tiêu dùng, cải thiện chất lượng đời sống cũng đòi hỏi kinh tế hộ cần mua sắm những sản phẩm hàng hoá công nghệ cao ngày càng nhiều hơn, nhiều chủng loại hơn…làm cho thị trường sống động hơn. Chính từ những mối quan hệ kinh tế phát sinh này mà chức năng trung gian tài chính của tín dụng Ngân hàng trở nên phong phú đa dạng, vòng quay của vốn tín dụng ngân hàng nhanh và trở thành yếu tố thiết yếu của toàn bộ nền kinh tế nói chung và trong lĩnh vực kinh tế nông nghiệp, nông thôn nói riêng. * Các hình thức tồn tại của quan hệ tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn với kinh tế hộ Quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với KTH thường tồn tại dưới các hình thức sau: Thứ nhất: Căn cứ vào thời hạn tín dụng ta có: 1) Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn cho vay đến 12 tháng, thường được sử dụng để cho vay bổ sung vốn lưu động trong quá trình sản xuất như: các khoản chi phí vật tư, nhân công, nguyên vật liệu và 2) Tín dụng trung dài hạn: loại tín dụng có thời hạn cho vay trên 12 tháng đến 60 tháng là tín dụng trung hạn, từ 60 tháng trở lên là tín dung dài hạn, thường được sử dụng cho các nhu cầu mua sắm tài sản cố định, đổi mới thiết bị kỹ thuật mở rộng sản xuất hoặc xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng, cải tiến và mở rộng sản xuất quy mô lớn, thời gian thu hồi vốn chậm. Thứ hai: Căn cứ vào bảo đảm vốn vay ta có: 1)Tín dụng có bảo đảm: Là loại tín dụng áp dụng trong trường hợp ngân hàng chưa thật sự tin tưởng vào khả năng kinh doanh và tình hình tài chính người vay nên đòi hỏi người vay phải có tài sản đảm bảo cho khoản vay. Việc bảo đảm vốn vay được thực hiện dưới 3 hình thức: Tài sản thế chấp, tài sản cầm cố và bảo lãnh của bên thứ ba; và 2) Tín dụng không có bảo đảm: Là loại tín dụng áp dụng đối với khách hàng có uy tín trong quan hệ vay trả đối với ngân hàng, có năng lực tài chính để trả nợ ngân hàng, có phương án sản xuất kinh doanh khả thi đảm bảo trả nợ ngân hàng theo thoả thuận. Tín dụng không có bảo đảm cũng áp dụng đối với các khoản vay theo quy định của chính phủ cho phép theo Quyết định số 67/CP ngày 30/3/1999 về một số chính sách tín dụng ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn và Thông tư 03/TT-NHNN ngày 24/3/2003 của ngân hàng nhà nước hướng dẫn việc cho vay không phải đảm bảo bằng tài sản của tổ chức tín dụng đối với khách hàng như: hộ nông dân, chủ trang trại sản xuất nông, lâm, ngư diêm nghiệp mang tính sản xuất hàng hoá được vay đến 30 triệu, hợp tác xã làm dịch vụ cung ứng vật tư, cây con giống để sản xuất nông, lâm, ngư diêm nghiệp được vay đến 100 triệu, hợp tác xã sản xuất hàng xuất khẩu, làm nghề truyền thống được vay đến 500 triệu không áp dụng biện pháp bảo đảm bằng tài sản. Thứ ba: Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn vay: gồm 2 hình thức: 1)Tín dụng đầu tư sản xuất kinh doanh:là tín dụng sử dụng cho vay mà mục đích sử dụng vốn vay vào việc mua sắm vật tư, nguyên liệu thiết bị máy móc dùng cho mục đích sản xuất kinh doanh; và 2)Tín dụng phục vụ nhu cầu đời sống:là tín dụng sử dụng cho vay đáp ứng nhu cầu đời sống của người vay như: phương tiện đi lại, phương tiện nghe nhìn, sửa chữa nhà cửa. Thứ tư: Căn cứ vào tính chất nguồn vốn và lãi suất cho vay, thì có các hình thức sau: 1) Tín dụng thương mại:là loại tín dụng thực hiện theo phương thức “đi vay để cho vay” với lãi suất thoả thuận theo quan hệ cung cầu vốn trên thị trường. Các ngân hàng cho vay tự chịu trách nhiệm về hoạt động huy động vốn và cho vay của mình, đây là loại tín dụng chủ yếu trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại; 2)Tín dụng chỉ định của Chính phủ: Là loại tín dụng do Chính phủ chỉ định đối tượng cho vay, khách hàng vay theo lãi suất quy định trước như:cho vay khắc phục lũ lụt, hạn hán, cho vay làm nhà trên cọc; và 3) Tín dụng uỷ thác: Là loại tín dụng do các tổ tài chính trong hoặc ngoài nước uỷ thác cho ngân hàng thương mại cho vay theo quy định của bên uỷ thác về điều kiện cho vay, thủ tục cho vay, lãi suất cho vay. Ngân hàng nhận uỷ thác cho vay được hưởng phí uỷ thác theo thoả thuận trước. Thứ năm: Căn cứ vào tính chất pháp lý; được chia làm 2 hình thức: 1) Hình thức tín dụng chính thức: Là hình thức cho vay của các tổ chức tín dụng được luật pháp cho phép hoạt động như: Các Ngân hàng thương mại, Ngân hàng cổ phần, các quỹ tín dụng… đây là loại hình tín dụng chủ yếu đang cho vay ở nông thôn; và 2) Hình thức tín dụng không chính thức: là hình thức tín dụng không được luật pháp cho phép hoạt động hay còn gọi là tín dụng ngầm, là loại hình cho vay nặng lãi ở nông thôn như:cho vay lãi suất 10 - 20%/tháng, hụi họ, đề đám…hiện nay nông thôn vẫn còn tồn tại loại hình này, mặc dù hoạt động tín dụng chính thức đang chiếm lĩnh tuyệt đại bộ phận thị trường tín dụng ở nông thôn. Trên đây là một số hình thức tín dụng thường sử dụng trong quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và kinh tế hộ mà luận văn đề cập để làm cơ sở cho việc nghiên cứu tác động của tín dụng ngân hàng đối với phát triển kinh tế hộ trồng trọt và chăn nuôi tại địa bàn. 1.2.2. Các nhân tố tác động đến mối quan hệ tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn với kinh tế hộ nông nghiệp trong nền kinh tế thị trường Với các cơ chế chính sách của Đảng, Nhà nước, NHNN và hệ thống các cơ chế nghiệp vụ của Ngân hàng NHNo&PTNT Việt Nam đã tạo ra một sức mạnh tổng hợp và thành công to lớn trong cho KTH vay vốn. Sự thành công của mối quan hệ này luôn chịu tác động của các nhân tố nẩy sinh từ các phía. 1.2.2.1. Các nhân tố tác động nẩy sinh từ phía Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tới kinh tế hộ thông qua điều chỉnh các cơ chế chính sách từ nhà nước Ta biết rằng, vai trò quan trọng của hoạt động tín dụng trên thị trường vốn có thể được lý giải: Trước hết bởi NHTM là những trung gian tài chính lớn nhất, hoạt động đa dạng và chức năng cơ bản của nó là đi vay để cho vay. Thứ hai là tính kinh tế do những lợi thế về quy mô cũng như khả năng đa dạng trong hoạt động của NHTM nên tiết kiệm được các chi phí giao dịch và hạn chế được rủi ro trong kinh doanh. Bằng khả năng chuyên nghiệp nó đã trở thành người trung gian về thông tin, tức là có thể kiểm soát tốt hơn vấn đề thông tin không cân xứng. Bằng những nghiệp vụ tín dụng của mình, ngân hàng đã tập trung được một khối lượng vốn lớn từ những nguồn tiền tiết kiệm nhàn rỗi, dù là rất nhỏ, ở mọi ngõ ngách trong nền kinh tế để đưa chúng vào hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc đáp ứng nhu cầu chi tiêu của những người cần vốn. Trong khi đó, phần đông các cá nhân đều là những người có khoản tiền tiết kiệm nhỏ và không tập trung, do đó khó có thể tiếp cận với thị trường tài chính. Một vấn đề khác là sự linh hoạt giữa huy động và cho vay sẽ cho phép hoạt động tín dụng điều chuyển nguồn vốn trong nền kinh tế một cách có hiệu quả mà không bị phụ thuộc vào giới hạn địa lý. Nguồn vốn có thể được ngân hàng huy động ở nơi này nhưng cho vay ở nơi khác nếu hiệu quả đầu tư tốt hơn, chứ không nhất thiết là huy động ở đâu cho vay ở đó hoặc ngược lại. Điều này thể hiện cụ thể từ việc đưa Chỉ thị 202/CT vào cuộc sống: Ngày 12/7/1991, Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam đã ban hành Văn bản 499/TDNN “Qui định về cho vay Hộ sản xuất, Nông-Lâm-Ngư-Diêm nghiệp”. Nội dung kết cấu qui định tương đối cụ thể và chặt chẽ hơn, sát thực tế hơn. Tuy vậy, văn bản 499/TDNN vẫn còn mang tính chất truyền thống về nghiệp vụ, chưa đa dạng về nội dung, chi tiết hơn để theo kịp với diễn biến của cuộc sống đang biến đổi hàng ngày lúc bấy giờ, lại trong hoàn cảnh nhà nước chưa ban hành đầy đủ luật và các văn bản dưới luật…nên kết quả triển khai về nghiệp vụ tín dụng còn bị hạn chế. Để tháo gỡ hạn chế, trên cơ sở Nghị định 14/CP của Thủ tướng Chính phủ và Thông tư hướng dẫn số 01/TT-NH1 của NHNN. Ngân hàng Nông nghiệp đã ban hành văn bản 499A/TDNT ngày 02/9/1993 “Về biện pháp nghiệp vụ cho hộ sản xuất vay vốn để phát triển Nông-Lâm-Ngư-Diêm nghiệp và kinh tế nông thôn”. Nội dung cơ bản của văn bản là: Khái niệm “Hộ sản xuất” được chia thành 2 loại: hộ loại I (hộ chuyên sản xuất nông, lâm, ngư, diêm nghiệp, có tính chất tự sản tự tiêu do một cá nhân làm chủ hộ;hộ cá thể tư nhân làm kinh tế gia đình;hộ là thành viên nhận khoán của các tổ chức kinh tế) và hộ loại II (hộ sản xuất kinh doanh theo luật định). Việc phân chia này là nhằm giảm bớt hồ sơ, thủ tục vay vốn, phù hợp với trình độ dân trí, giảm bớt phiền hà trong quá trình đi lại, làm thủ tục vay của người dân. Đây là bước cải tiến quan trọng, “đột phá” của Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam đã được hàng triệu hộ nông dân áp dụng và đồng tình rất cao. + Về hình thức cho vay được chia thành 2 loại: 1) Cho vay “bán lẽ”-Ngân hàng cho vay trực tiếp, phát tiền vay đến tay người vay; và 2)Cho vay”Bán buôn”-các tổ chức tự nguyện của cộng đồng dân cư, các tổ chức đoàn thể, xã hội có thể được ngân hàng chọn làm đại lý dịch vụ uỷ thác đầu tư đến hộ vay vốn. Đây cũng là biện pháp để Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam thực hiện “xã hội hoá” hoạt động ngân hàng, tạo thêm kênh dẫn vốn nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu vốn của nền kinh tế nói chung, kinh tế hộ nói riêng. + Về bảo đảm tiền vay: Đối tượng cho vay cũng được phân định và cụ thể hoá đối với từng mức vay. Đặc biệt là đối với hộ nông dân chuyên canh trồng lúa, NHNo&PTNT Việt Nam áp dụng hình thức cho vay lưu vụ. Đây là phương thức cho vay “riêng có”, được áp dụng đối với những hộ chuyên canh trồng lúa, đến mùa thu họach nhưng do rớt giá, nếu bán ngay để trả nợ ngân hàng sẽ bị thua thiệt, cần dự trữ chờ lên giá nhưng vẫn có vốn để tiếp tục sản xuất và quay vòng. - Phát huy thành công trong cho kinh tế hộ vay, tiếp tục lĩnh hội những nội dung cơ bản của Quyết định 67/QĐ-TTg ngày 30/3/1999 của Thủ tướng Chính phủ “Về một số chính sách tín dụng ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn”. Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam đã triển khai chỉ đạo toàn hệ thống phối hợp với Uỷ ban nhân dân xã lập “Hồ sơ kinh tế địa phương”; xây dựng mô hình đầu tư theo đối tượng, trước hết cho một số cây con chủ yếu, xác định suất đầu tư trên cơ sở định mức kinh tế kỹ thuật. Nắm thực trạng các doanh nghiệp nhà nước, các hợp tác xã trên địa bàn, trên cơ sở đó phân loại và xác định hướng đầu tư tín dụng để đạt hiệu quả và tránh rủi ro. Thực tiễn hoạt động năm 1999 cho thấy việc triển khai quyết định 67/1999/QĐ-TTg tại các địa phương là rất kịp thời, đồng bộ và hiệu quả. Do có sự quan tâm ủng hộ rất cao của cấp uỷ, chính quyền địa phương, sự phấn khởi của hàng triệu hộ nông dân trên cả nước đón nhận một chủ trương mới của Chính phủ nên mối quan hệ tương hỗ giữa NHNo&PTNT với KTH được hình thành bền vững và ngày càng phát triển trên cơ sở đôi bên cùng có lợi trong nền kinh tế thị trường XHCN. 1.2.2.2. Các nhân tố tác động tới quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn với kinh tế hộ nẩy sinh từ phía hộ gia đình Thời kỳ trước Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng ngày 13/6/1981, KTH trong cả nước ta chưa định hình rõ trước sự dổi mới của chính sách nhà nước. Năm 1958, phong trào vận động đưa nông dân ở nông thôn đi vào làm ăn hợp tác hoá nông nghiệp, kinh tế cá thể và kinh tế gia đình của nông dân bị lu mờ đi. Cuối năm 1960, sau 3 năm vận động xây dựng xây dựng hợp tác xã từ bậc thấp đi lên, nông thôn miền Bắc đã cơ bản hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa với trên 4 vạn hợp tác xã ra đời. Đời sống của nông dân gắn liền với hợp tác xã, thu nhập chủ yếu của hộ gia đình từ phân phối của hợp tác xã. Đất 5% chỉ dùng để sản xuất rau xanh và trồng cây chăn nuôi cải thiện thêm cho gia đình. Gần như toàn bộ trí lực sản xuất của hộ nông dân đều góp vào hợp tác xã. KTH vào thời kỳ này hầu như không được chú ý, quan tâm đầu tư và mất đi vai trò ngay từ những năm 1958-1960. Với quan điểm cho rằng, kinh tế cá thể là mầm mống của CNTB, hằng ngày hằng giờ tự phát để hình thành TBCN, do vậy tìm cách ngăn cấm kinh tế gia đình, kinh tế nông hộ phát triển. Còn có quan điểm cực đoan hơn cho rằng kinh tế cá thể là kẻ thù của CNXH. Chính vì vậy, hầu như các hoạt động của thành phần kinh tế này bị chèn ép, kìm hãm bởi kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể mà hai thành phần này được xác định là hai thành phần trụ cột, nền tảng của CNXH. Bị ràng buộc bởi quan điểm trên, nên từ ngân sách nhà nước đến tín dụng ngân hàng không có chính sách đầu tư khuyến khích phát triển thành phần kinh tế này. Trong khi đó cùng với phong trào hợp tác hoá trong sản xuất, thì hợp tác xã mua bán, hợp tác xã tín dụng…được tự phát xây dựng ở hầu hết các xã ở nông thôn. Từ thực tế đó, Đảng ta đã sớm nhận ra sai lầm về chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế, đặc biệt là chưa có quan điểm đúng đắn trong việc thúc đẩy phát triển KTH. Do đó, từ những năm 1980, sau khi có chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương khoá V về “Cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp” được coi là điểm đột phá bằng những giải pháp tình thế chặn đà suy thoái của kinh tế nông nghiệp. Tiếp đến, Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị ngày 05/4/1988 về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp được đánh giá là bước ngoặt quan trọng về sự nghiệp đổi mới toàn diện kinh tế nông nghiệp và nông thôn nước ta. Tháng 3/1989, Nghị quyết Trung ương 6 khoá VI chính thức khẳng định hộ xã viên là đơn vị kinh tế tự chủ trong nền sản xuất hàng hoá theo cơ chế thị trường, từ đó nhà nước đã có nhiều chính sách quản lý vĩ mô, chính sách đầu tư từ ngân sách nhà nước, đầu tư tín dụng nhà nước và tín dụng ngân hàng, tạo môi trường thuận lợi cho KTH phát triển. Bằng thiết lập quan hệ giao lưu hàng hoá, hình thành các chợ nông thôn để tiêu thụ nông sản, mở ra thị trường xuất khẩu nông sản, khuyến khích bà con nông dân phấn đấu làm giàu bằng lao động, trí tuệ, và bằng sự cần mẫn, chăm chỉ của mình. Nhờ vậy kinh tế hộ phấn khởi bỏ vốn liếng, sức lao động để khai thác đất đai, mặt nước, các tài nguyên thiên nhiên tiềm tàng đưa vào sản xuất nông nghiệp. Với quan điểm đổi mới, nhận thức đúng vai trò, vị trí của KTH, các chính sách về ruộng đất, thuế, đầu tư của nhà nước là đòn bẩy quan trọng kích thích phát triển sản xuất nông nghiệp chuyển sang nền nông nghiệp hàng hoá. Trong đó chính sách đầu tư tín dụng của ngân hàng đã được đổi mới tạo thuận lợi cho KTH phát triển, phát huy vai trò quan trọng của thành phần kinh tế này trong quá trình đổi mới quản lý nông nghiệp, nông thôn ở nước ta, góp phần tích cực vào sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. 1.2.2.3. Những nhân tố tác động tới quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn với kinh tế hộ xuất phát từ chính sự đổi mới chính sách của Nhà nước Có thể thấy, bắt đầu từ sự ra đời của Chỉ thị số 202/CT-HĐBT (28/6/1991) của Chủ tịch HĐBT “V/v cho vay vốn sản xuất Nông nghiệp, Lâm nghiệp, Ngư nghiệp đến hộ sản xuất” đã làm cho mối quan hệ giữa NHNo&PTNT với KTH khởi sắc. Nội dung chủ yếu của chỉ thị có thể tóm tắt ở mấy điểm sau: 1) NHNo Việt Nam thực hiện việc cho vay vốn trực tiếp đến Hộ sản xuất nhằm tao điều kiện cho hộ thực sự là “Đơn vị kinh tế tự chủ” trong sản xuất; chủ yếu cho vay ngắn hạn đáp ứng nhu cầu chi phí sản xuất thời vụ và khi có điều kiện sẽ từng bước mở rộng cho vay trung, dài hạn; 2) Mức cho vay, thời hạn cho vay, phương thức cho vay và trả nợ, lãi suất cho vay đối với từng hộ phải căn cứ vào đặc điểm và hiệu quả sản xuất của từng vùng, từng loại cây, con, ngành nghề; 3) Ngoài trực tiếp cho vay đến hộ sản xuất, tuỳ điều kiện cụ thể Ngân hàng cho các tổ chức kinh tế vay ứng trước vật tư kỹ thuật, hoặc đặt tiền cho các hộ sản xuất vay và thu hồi sản phẩm khi có thu hoạch; 4)Vốn vay nói chung phải có tài sản thế chấp, đối với hộ sản xuất nghèo không có tài sản thế chấp có thể áp dụng hình thức “Tín chấp”; 5)Nguồn vốn cho các hộ sản xuất vay chủ yếu là vốn huy động từ dân cư. Hàng năm và những lúc cần thiết, Nhà nước có thể hỗ trợ một phần cho ngân hàng để hình thành quỹ cho vay đối với Hộ sản xuất Nông - Lâm - Ngư - Diêm nghiệp…; 6)Ngân hàng phải đổi mới mạnh mẽ về tổ chức và nghiệp vụ, bám sát địa bàn sản xuất, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp, tạo điều kiện cho các hộ nông dân sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn được vay vốn sản xuất có hiệu quả; 7) Ngân hàng phối hợp với chính quyền địa phương có kế hoạch và biện pháp củng cố, chấn chỉnh hợp tác xã tín dụng ở nông thôn. Như vậy, với Chỉ thị 202/CT, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã bước đầu khẳng định việc cho vay kinh tế hộ là nhu cầu cấp thiết, là xu hướng phát triển tất yếu đối với nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Người dân muốn phát triển kinh tế hàng hoá, chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi…không thể không có vốn đầu tư, trong đó có vốn của các Tổ chức tín dụng. Chỉ thị cũng yêu cầu các Tổ chức tín dụng trong đó NHNo&PTNT Việt Nam giữ vai trò chủ lực, cùng với hợp tác xã tín dụng ở nông thôn phải lo tạo lập nguồn vốn, đáp ứng cho nền kinh tế, cho nông dân. Thêm vào đó, sự ra đời Nghị định số 14/CP chính phủ: từ kết quả sơ kết thực hiện Chỉ thị 202/CT, sau một thời gian nghiên cứu, khảo sát và hội thảo, ngày 2/3/1993 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 14/CP về “Chính sách cho hộ sản xuất vay vốn để phát triển nông, lâm, ngư, diêm nghiệp và kinh tế nông thôn” do Thủ tướng Võ Văn Kiệt ký. Cùng với pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng, công ty tài chính. Nghị định 14/CP đã nâng tầm hoạt động của Ngân hàng Nông nghiệp và xác lập tư cách của một ngân hàng có vị thế ở thị trường tài chính nông thôn. Tiếp sau đó, ngày 26/3/1993 NHNN ban hành Thông tư số 01/TT-NH1 hướng dẫn thực hiện nghị định, đã giúp cho ngân hàng nông nghiệp lần đầu tiên có đầy đủ một bộ văn bản dưới luật trong cho vay đối với hộ sản xuất. Cùng với luật đất đai được chủ tich Quốc hội ký ngày 24/7/1993, Nghị định 14/CP từng bước đồng bộ hoá cơ chế chính sách đối với địa bàn nông nghiệp, nông thôn tạo điều kiện cho ngân hàng nông nghiệp có những căn cứ pháp lý để ra các quyết định, qui định về chính sách, biện pháp nghiệp vụ tín dụng cụ thể sau này sát với cuộc sống hơn. - Sự ra đời của Quyết định số 67/1999/QĐ-TTg ngày 30/3/1999 của Thủ tướng Chính phủ: từ những thành công trong cho vay và từ những đòi hỏi vốn của KTH; những khó khăn trong việc thế chấp tài sản đã được tháo gỡ. Qua đề xuất, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 67/1999/QĐ-TTg “Về một số chính sách tín dụng ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn”. Đây là chính sách lớn của chính phủ liên quan đến nông nghiệp, nông thôn nói chung và các chính sách KTH nói riêng, chính sách này mang tính đột phá quan trọng, liên quan trực tiếp đến sự phát triển KTH, ở đây có sự thông thoáng cởi mở; phù hợp với quá trình chuyển đổi của nền kinh tế thị trường, thúc đẩy kinh tế hàng hoá phát triển. Nhờ sự điều chỉnh của các chính sách của Nhà nước đã tạo vùng nguyên liệu để phát triển công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm, xây dựng cơ sở hạ tầng, mở rộng hoạt động ngân hàng và quan hệ kinh tế với thế giới. 1.2.2.4. Những nhân tố tác động tới quan hệ tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn với kinh tế hộ từ phía thị trường Thực tế cho thấy, để tạo ra sự phát triển của một hướng sản xuất trong nông nghiệp có hiệu quả đã khó, nhưng để duy trì sự phát triển đó còn khó hơn, vì nó đòi hỏi phải tiêu thụ được nông sản phẩm. Chỉ có giải quyết tốt việc tiêu thụ sản phẩm mới kích thích được sản xuất nông nghiệp phát triển, đặc biệt là khuyến khích KTH đổi mới cây trồng, vật nuôi theo hướng sản xuất hàng hoá có hiệu quả. Sau 20 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, nông, lâm, ngư nghiệp nước ta đã có bước phát triển rõ rệt. Sản xuất tăng trưởng liên tục với nhịp độ cao, cơ cấu đang chuyển dịch theo hướng phát huy có lợi thế so sánh của các vùng, các địa phương cũng như trong cả nước. Nhờ đó đã hình thành nhiều vùng sản xuất hàng hoá tập trung tương đối lớn. Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá 5 năm(2001-2005) đạt gần 111 tỉ USD tăng 17, 5%/năm (kế hoạch 16%/năm) [4, tr.105], kinh tế nông thôn có những bước chuyển dịch khá. Đời sống nhân dân ở nhiều vùng được cải thiện. Tuy nhiên, vấn đề nổi cộm trong sản xuất nông nghiệp hiện nay là chất lượng sản phẩm còn thấp, tổ chức tiêu thụ nông sản còn nhiều yếu kém. Mặc dù khối lượng hàng hoá chưa nhiều, nhưng thường xuyên xảy ra tình trạng ứ đọng, nhiều khi không tiêu thụ kịp, nhất là trong vụ thu họach, giá cả xuống thấp gây thua thiệt cho nông dân. Trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp nước ta nếu nhiều vùng trước đây chỉ sản xuất tự cung, tự cấp, thì nay nông dân tự bỏ công sức tiền của đầu tư phát triển thành sản xuất hàng hoá. Nhiều khu trồng các cây công nghiệp dài ngày, trồng cây theo dạng cây lâm nghiệp tạo thành rừng, che phủ đất chống xói mòn, tạo môi sinh môi trường bền vững, góp phần hạn chế lũ lụt cho đồng bằng ra đời và phát triển. Bộ mặt nông thôn nhiều nơi đã thay đổi, đời sồng nhân dân được nâng lên…Tuy vậy, những nơi xây dựng thành vùng sản xuất hàng hoá tập trung lớn đang nổi lên nhiều vấn đề bức xúc, trong đó đáng lo ngại và khó khăn nhất là vấn đề tiêu thụ hàng hoá cho nông dân. Vì không giải quyết trọn vẹn vấn đề tiêu thụ hàng hoá cho nông dân cho nên đã dẫn đền tình trạng tồn đọng 8.000 tấn chè búp khô như năm 1995. Giá chè búp tươi bán bằng hoặc thấp hơn giá thành, (giá thành phổ biến 1.400-1.500 đ/kg, giá bán phổ biến 1.500 đ/kg, có nơi chỉ được 1.000-1.100 đ/kg), Ngô hàng hoá vùng núi giá thành sản xuất phổ biến từ 1.300-1.500đ/kg, có lúc chỉ bán được 700-800đ/kg dẫn đến người sản xuất bị thua lỗ. Tình trạng này nếu liên tục lặp lại sẽ buộc nông dân phải chuyển sang trồng cây khác, hoặc quay về cách sản xuất tự cung, tự cấp hoặc bỏ đất hoang hoá để kiếm sống bằng nghề khác. Trong những hoàn cảnh như vậy vai trò hỗ trợ của tín dụng NHNo&PTNT trở nên cần thiết. Tín dụng có thể cung cấp vốn vay giúp nông dân tiếp tục sản xuất hoặc chuyển hướng sản xuất thành công. Hơn nữa, trong những điều kiện cho phép, tín dụng sẽ hỗ trợ nông dân mua máy móc thiết bị sơ chế hoặc chế biến nông phẩm để tiêu thụ ở thị trường xa hoặc xất khẩu. Giải quyết vấn đề bức xúc này chính là tìm ra giải pháp đúng, hữu hiệu, bền vững để tiêu thụ hàng hoá cho nông dân. 1.3. Kinh nghiệm duy trì và phát triển quan hệ tín dụng ngân hàng với kinh tế hộ ở một số khu vực điển hình có điều kiện tương đồng trong nước 1.3.1. Kinh nghiệm xây dựng và phát triển quan hệ tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn với kinh tế hộ ở khu vực Tây Nguyên ở Tây Nguyên quan hệ cho vay và huy động vốn giữa NHNo&PTNT với KTH đều xuất phát từ lợi ích kinh tế mang tính cộng đồng trách nhiệm và cùng phát triển. Cụ thể, vốn cho vay từng hộ phải phù hợp chi phí sản xuất kinh doanh của hộ. Các hoạt động tín dụng phải có quan hệ đồng bộ với hộ sản xuất nông, lâm nghiệp, hộ sản xuất tiểu thủ công nghiệp và hộ làm dịch vụ phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn. Vốn tín dụng của NHNo&PTNT khi đầu tư đến hộ phải thật sự góp phần khai thác tiềm năng đất đai, tạo nên vùng chuyên canh cây công nghiệp có lợi thế như: cà phê, cao su, tiêu, đào lộn hột… luôn phải giữ vững, ổn định màng lưới hoạt động ở địa bàn nông thôn, nhất là các chi nhánh ở vùng sâu, vùng xa, cần ưu tiên vốn cho hộ nông dân. Trong mối quan hệ giữa tín dụng NHNo&PTNT với KTH đã hình thành được sự phối hợp với các đoàn thể từ tỉnh đến huyện, xã như Hội Nông dân, Hội Phụ nữ. Thông qua mối quan hệ này để tuyên truyền phổ biến các chính sách, chủ trương của nhà nước, thủ tục vay vốn của ngân hàng đến bà con nông dân và hội viên. Đồng thời, thực hiện uỷ thác từng phần cho các hội đoàn thể đối với những món vay dưới 10 triệu đồng thông qua các hợp đồng dịch vụ. Để xây dựng tốt mối quan hệ này NHNo&PTNT đã tăng cường đạo tạo cán bộ, đầu tư trang thiết bị điều kiện làm việc để tăng năng suất lao động, cải tiến phương pháp lề lối làm việc của cán bộ. Thường xuyên làm tốt công tác tư tưởng, nâng cao tinh thần trách nhiệm, ý thức kỷ luật và đạo đức cán bộ, có thái độ giao tiếp khách hàng tốt, không gây nhũng nhiễu, phiền hà với khách hàng. Thực hiện phân giao khoán theo tháng, quý và trách nhiệm địa bàn cho từng cán bộ tín dụng, tổ chức hội nghị cán bộ tín dụng giỏi, gắn việc thực hiện nhiệm vụ được giao với công tác thi đua khen thưởng. Có thể nói, cho vay hộ nông dân ở vùng Tây Nguyên đã và đang đi vào cuộc sống, đây là một là bước tiến lớn trong hoạt động của ngân hàng nông nghiệp. Với phương châm “đi vay để cho vay” luôn hướng phát triển mở rộng nhiều hơn, nhanh hơn vào thị trường nông nghiệp, nông thôn. Coi nông dân là người bạn đồng hành chung thuỷ của mình. Từ chỗ tín dụng chỉ là kênh dẫn vốn tới doanh nghiệp nhà nước, đến nay đã mở rộng tới cho vay hộ sản xuất, gắn đầu tư của tín dụng ngân hàng với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển kinh tế xã hội ở địa phương. Nhờ đó trong khó khăn đã trụ vững, cũng cố được vị thế và ngày càng phát triển. 1.3.2. Kinh nghiệm về phát triển quan hệ tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn với kinh tế hộ ở khu vực miền núi phía Bắc Trên cơ sở ổn định lương thực bằng con đường thâm canh, sản xuất hàng hoá ở các tỉnh miền búi phía bắc đã từng bước phát triển. Nền sản xuất đang chuyển dần từ nền sản xuất tự nhiên, tự cung, tự cấp, phân tán ._. hiện cam kết bán sản phẩm, trả nợ ngân hàng theo thoả thuận, mức cho vay tuỳ thuộc vào nhu cầu vay, tuỳ thuộc vào việc chấp hành cam kết và uy tín thực hiện hợp đồng của hộ vay nhưng tối đa không quá 70% giá trị hợp đồng.Việc cho vay này phù hợp với mô hính kinh tế trang trại đang có xu hướng phát triển tại khu vực, giúp hộ vay đủ vốn tổ chức sản xuất và yên tâm ở đầu ra của sản phẩm, song ngân hàng phải kiểm soát chặt chẽ tiến độ thực hiện hợp đồng của hộ vay vốn. - Đa dạng hoá các hình thức cho vay đến kinh tế hộ Các hình thức cho vay có vai trò quan trọng đến việc chuyển tải vốn từ ngân hàng đến hộ sản xuất kinh doanh và ngược lại, xây dựng kênh phân phối đa dạng hợp lý sẽ làm cho đồng vốn luân chuyển nhanh hơn, lưu thông tiền tệ phục vụ tốt, làm cho lưu thông hàng hoá nâng cao được hiệu quả sử dụng vốn của nền kinh tế. Hiện nay tuy quy mô sản xuất kinh doanh tại khu vực còn khá nhỏ so với các khu vực khác, tuy nhiên với sự tăng trưởng trong những năm qua, kinh tế hộ đang trong giai đoạn phát triển. Việc đa dạng kênh phân phối tín dụng phụ thuộc rất nhiều yếu tố như trình độ và quy mô sản xuất kinh doanh của kinh tế hộ, điều kiện cơ sở hạ tầng, viễn thông, mức độ hiện đại hoá của ngân hàng…để tạo thuận lợi hơn nữa về vốn cho kinh tế hộ phát triển, Ngân hàng cần đa dạng hoá các kênh phân phối tín dụng đó là: + Cũng cố và phát triển hình thức cho vay qua tổ vay vốn thông qua sự hỗ trợ của nhiều đầu mối như của Hội nông dân, Hội phụ nữ, Hội cựu chiến binh, Đoàn thanh niên…đặc biệt là xây dựng các tổ nhóm mang tính tự nguyện của một số hộ có nhu cầu vay vốn. + Kết hợp phát triển mạng lưới với đào tạo cán bộ, ngoài các hình thức thanh toán và các phương thức cho vay đang áp dụng cần mở rộng các công cụ thanh toán như thẻ, cho vay theo hạn mức thấu chi…để phục vụ các nhu cầu tín dụng trực tiếp. + Đẩy mạnh dự án hiện đại hoá ngân hàng, tiến tới thực hiện giao dịch một cửa…tạo điều kiện cho kinh tế hộ tham gia hội nhập khu vực và quốc tế một cách hiệu quả nhất. Tuỳ theo quy hoạch phát triển kinh tế của vùng mà mỗi địa phương, mỗi chi nhánh ngân hàng có thể tài trợ vốn phát triển có tính đến yếu tố khép kín các hoạt động sản xuất, các cơ sở chế biến tương ứng với mức sản xuất trong tương lai, có thể tài trợ tín dụng cho đơn vị cung ứng vật tư nguyên liệu, thu mua tiêu thụ hàng hoá xuất khẩu, chăn nuôi…tạo sự cân đối bền vững giữa cung cầu, sản xuất và lưu thông.., gắn kết giữa sản xuất với thị trường trong và ngoài nước. - Giải pháp về nâng cao hiệu quả và an toàn trong cho vay đối với kinh tế hộ. Xét về góc độ ngân hàng, hiệu quả cho vay được đánh giá dựa trên khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi của số vốn đầu tư trên cơ sở hiệu quả mang lại từ hoạt động sản xuất kinh doanh của kinh tế hộ. Có thể trong một số trường hợp ngân hàng thu đầy đủ cả nợ gốc và lãi của số vốn đã cho vay như thu hồi nợ từ bán tài sản thế chấp, từ bảo lãnh của người thứ ba, trường hợp này được đánh giá như là khả năng thu hồi nợ vay hơn là hiệu quả cho vay mang lại, như vậy hiệu quả cho vay ngân hàng được xem xét trên góc độ hiệu quả đầu tư của kinh tế hộ mà mục tiêu cuối cùng là ngân hàng vừa thu đầy đủ cả nợ gốc, lãi, hộ vay sản xuất kinh doanh có lãi, đồng thời góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển theo đúng định hướng.Vơí những lập luận đó, thì ngân hàng có thể sử dụng các giải pháp để tác động nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của kinh tế hộ, để làm tiền đề nâng cao hiệu quả cho vay ngân hàng dưới đây: Thứ nhất: Sớm thiết lập mối quan hệ đồng bộ giữa việc xử lý thông tin ở trụ sở chính với tổ chức thẩm định dự án vay vốn ở chi nhánh địa phương. Kinh tế thị trường phát triển đa dạng trong đó các quan hệ cung cầu do thị trường tự điều tiết. Tuy nhiên do tác động của quy luật cạnh tranh, bên cạnh sự điều tiết của bàn tay vô hình thì mặt trái của kinh tế thị trường cũng có nhiều cơ hội để bùng phát, đó là hiện tượng đầu cơ, găm giữ hàng hoá chèn ép giá..làm cho thị trường rối loạn..dẫn đến nguy cơ xảy ra thiếu hàng tạm thời, tình trạng các doanh nghiệp đua nhau lao vào sản xuất những mặt hàng nhất định có lợi nhuận cao, làm cho giá cả giảm xuống, cung lớn hơn cầu hàng hoá, có thể dẫn đến khủng hoảng thừa… Trong điều kiện quy hoạch phát triển các vùng cây con chưa được định hình một cách rõ ràng như tại miền núi bắc Quảng nam, thông tin về thị trường thiếu, sự biến động trên thị trường hết sức phức tạp, việc dự đoán định hướng sản xuất kinh doanh của kinh tế hộ là hết sức khó khăn, thậm chí có nhiều may rủi, trông chờ thiên thời, vào tương lai…do vậy khả năng thành công của kinh tế hộ cũng rất lớn và rủi ro xảy ra cũng rất nhiều, điển hình như đầu tư trồng cây quế, trẩu phục vụ xuất khẩu ở khu vực miền núi bắc Quảng nam trong những năm vừa qua. Để giúp kinh tế hộ hoạt động hiệu quả, với vai trò đòn bẩy của hoạt động tín dụng, ngân hàng có thể quyết định tham gia đầu tư vốn vào những ngành nghề, những đối tượng có triển vọng phát triển nhất, để đảm bảo hiệu quả mang lại cao nhất.Tuy nhiên điều này chỉ có hiệu quả thật sự khi ngân hàng làm tốt công tác nghiên cứu, phân tích và dự báo thị trường để đầu tư cho những đối tượng nhất định, theo từng mùa vụ nhất định, mà kết quả thẩm định được đánh giá là có hiệu quả nhất. Để giải pháp này có hiệu quả ngân hàng cần thực hiện một số nội dung sau: + Hình thành bộ phận thu nhập và xử lý thông tin ở tầm vĩ mô (tất cả mọi thông tin liên quan đến thị trường thế giới và trong nước).Tổng hợp phân tích và đưa ra những dự báo, sau đó chuyển tải theo định kỳ đến tất cả cán bộ tín dụng nhằm có cơ sở tham khảo lựa chọn đối tượng đầu tư nào có hiệu quả nhất. + Bám sát quy hoạch phát triển kinh tế từng vùng, miền để bố trí vốn đầu tư đúng quy hoạch và định hướng phát triển. + Xây dựng và hình thành đội ngũ cán bộ tín dụng lành nghề, có trình độ đa ngành để nâng cao năng lực thẩm định, có kỹ năng trong tiếp xác, phân tích xếp loại khách hàng và kiểm soát được chất lượng tín dụng. + Thường xuyên mở các lớp tập huấn về quy trình thẩm định để kịp thời giúp cán bộ tín dụng nắm bắt được những yêu cầu thẩm định mới phù hợp tình hình thực tế và những bổ sung của quy trình thẩm định đã ban hành. Thứ hai: cần hiện đại hoá nhanh công nghệ ngân hàng tại các chi nhánh trong khu vực. Hiện nay, các chi nhánh NHNo&PTNT tại địa bàn yêu cầu hiện đại hoá công nghệ ngân hàng vẫn chưa được quan tâm, tiện ích trong thanh toán chỉ mới thực hiện với dịch vụ chuyển tiền điện tử nội tỉnh.Tuy nhiên vấn đề ở đây là để nâng cao hiệu quả trong quan hệ tín dụng với kinh tế hộ, một trong những giải pháp quan trọng đó là bố trí vốn đầu tư khép kín kết hợp với đáp ứng kịp thời các dịch vụ mới, hiện đại của Ngân hàng, cụ thể: + Các chi nhánh NHNo cần xây dựng kế hoạch trang bị, sớm hiện đại hoá các tiện ích phục vụ khách hàng như:thanh toán điện tử khác hệ thống, chi trả tiền bằng ATM, thanh toán thẻ vừa phải mở ra các hoạt động thu hộ, chi hộ, các hoạt động môi giới. + Sớm đa dạng hoá các sản phẩm, các dịch vụ ngân hàng đảm bảo cung ứng đủ các dịch vụ cho khách hàng, nhằm tăng thu dịch vụ cho ngân hàng, có như vậy tuỳ theo điều kiện mà khách hàng là hộ sản xuất có cơ hội để tiếp cận ngân hàng và cũng là cơ hội để ngân hàng trở thành thủ quỹ tin cậy của nhà nông. Thứ ba: Sử dụng biện pháp cho vay gắn với biện pháp đề phòng rủi ro Lãi suất cho vay trong nền kinh tế thị trường được hình thành dựa trên quan hệ cung cầu quỹ cho vay, nếu nhu cầu vay tăng thì lãi suất tăng và ngược lại. Tuy là lãi suất thị trường, nhưng xét về kết cấu lãi suất có thể phân tích lãi suất cho vay của ngân hàng thành những bộ phận sau đây: Lãi suất ngân hàng = lãi suất đầu vào+chi phí + rủi ro + lợi nhuận. Về nguyên tắc do sự điều tiết của thị trường nên lãi suất bình quân đầu vào ở các ngân hàng thương mại là gần tương đương nhau, như vậy hiệu quả tín dụng mang lại và tính cạnh tranh của mỗi ngân hàng thương mại phụ thuộc rất nhiều mức độ chi phí và khả năng xảy ra rủi ro ở mỗi ngân hàng, nếu ngân hàng nào tiết giảm được chi phí và rủi ro thấp thì khả năng mang lại lợi nhuận sẽ cao. Như vậy có thể thấy mức lãi suất cho vay một khách hàng có liên quan đến rất nhiều vào dự báo khả năng xảy ra rủi ro đối với khách hàng đó.Tức là lãi suất cho vay cần phải xác định trên cơ sở mức độ rủi ro đối với từng đối tượng khách hàng. Trên thực tế, mặt dù nhà nước đã chuyển sang điều hành lãi suất theo cơ chế thoả thuận và không áp đặt mức trần lãi suất như trước nhưng do nhiều quan điểm cạnh tranh khác nhau nên hầu hết các ngân hàng thương mại đều áp dụng lãi suất cho vay cho mọi khách hàng mà không tách bạch cụ thể mức lãi suất theo mức độ rủi ro cho từng khách hàng.Điều này, từng đối tượng vay riêng biệt có thể biết chắc rủi ro ngay từ khi cho vay và ngược lại những đối tượng khác thì quá bị thệt thòi khi phải vay vốn với lãi suất cao hơn vì phải chịu bù đắp rủi ro cho đối tượng khác, tạo nên một sự không bình đẳng trong cạnh trên thương trường. Trong lĩnh vực kinh tế nông hộ, mặc dù ngân hàng thương mại, đặc biệt là NHNo&PTNT có nhiều cơ chế tạo thuận lợi cho việc chuyển tải vốn đến bà con nông dân song lãi suất cho vay của ngân hàng thương mại ở nông thôn luôn cao hơn hệ số cho vay đối với khu vực thành thị với lý do: món vay nhỏ, chi phí cao và rủi ro nhiều trong sản xuất nông nghiệp.Mặt khác hầu như lãi suất chưa có cơ chế khuyến khích mà chỉ thực hiện theo lãi suất ưu đãi của nhà nước, tạo tâm lý làm hộ vay thiếu gắn bó với ngân hàng và cũng thiếu động viên để xây dựng khách hàng truyền thống, bởi vì dù họ vay lần đầu hay vay trả sòng phẳng có uy tín..thì cũng áp dụng cơ chế lãi suất như nhau tuỳ thuộc vào mức độ cạnh tranh trên địa bàn. Do vậy, đối với kinh tế nông hộ cần có lãi suất cho vay có phân biệt cụ thể: + Hộ vay lần đầu có thể áp dụng lãi suất cao nhất trên địa bàn cho vay như: 1, 05%/tháng (theo lãi suất cho vay ngắn hạn hiện nay). +Hộ đã vay trả sòng phẳng từ lần thứ ba trở đi có lãi suất khuyến khích như:1%/tháng. + Hộ vay có tính chất thường xuyên, khách hàng truyền thống của ngân hàng thì nên có lãi suất khuyến khích hơn, có thể là 0, 95%/tháng. Việc phân loại hộ theo tiêu chí uy tín trong quan hệ vay trả tạo được sự đồng thuận cao đối với khách hàng truyền thống và động viên khách hàng mới muốn có lãi suất khuyến khích thì phấn đấu làm ăn tốt, vay trả sòng phẳng để có lãi suất thấp hơn. Thứ tư: Nâng cao năng lực quản trị điều hành kinh doanh cho cán bộ nhân viên ngân hàng. Nền kinh tế nước ta đang phát triển theo khuynh hướng thị trường có sự quản lý của nhà nước. Trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay với khuynh hướng thị trường không biên giới, thì sự biến động của thị trường thường xuyên xảy ra, rất phức tạp và tiềm ẩn nhiều rủi ro. NHNo&PTNT là một doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng và ngân hàng và mục tiêu cuối cùng là lợi nhuận, do vậy hoạt động cuả NHNo&PTNT phải đặt trên nền tảng của sự an toàn và hiệu quả nhằm đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển về lâu dài.Một trong những yêu cầu cấp thiết để đảm bảo sự an toàn trong kinh doanh là phải nhanh chóng khắc phục các bất cập về trình độ chuyên ngành, kiến thức hỗ trợ của các ngành kinh tế khác, nhất là các kỹ năng, kỹ xảo và các hình thức quản trị điều hành hoạt động kinh doanh ngân hàng, phù hợp với sự hình thành và phát triển nhanh nhạy của cơ chế thị trường. Vì vậy, nhằm nâng cao tính an toàn trong cho vay hộ, NHNo&PTNT cần chú trọng những nội dung sau: + Thường xuyên đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ để bổ sung những kinh nghiệm, cập nhật thông tin về thị trường, về sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật…nhằm nâng cao năng lực thẩm định đầu tư, đồng thời có đủ khả năng để tư vấn cho kinh tế hộ hoạt động đúng hướng, có hiệu quả. + Đào tạo về kinh doanh ngân hàng cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo(quản trị nguồn vốn, rủi ro trong kinh doanh…)nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực hiện có để hoạch định có khả thi các chiến lược về huy động vốn, về cho vay trong từng thời kỳ của từng chi nhánh NHNo&PTNT trên địa bàn. + Định hướng vốn đầu tư cho các khu vực cụ thể, tương ứng với nó là phái xác định các mức trích lập rủi ro theo loại cho vay, theo ngành nghề để bù đắp đủ rủi ro khi có xảy ra. + Cần tính toán cân đối giữa tỷ lệ cho vay không có bảo đảm và cho vay có bảo đảm, các hình thức bảo lãnh, bảo hiểm…đảm bảo sự an toàn cần thiết trong hoạt động kinh doanh. Mặc dù hiện nay, NHNo&PTNT là ngân hàng kinh doanh, nhưng đồng thời là ngân hàng thực hiện vai trò điều chỉnh thị trường theo chức năng của một ngân hàng thương mại nhà nước, phục vụ cho phát triển kinh tế theo định hướng của nhà nước, song đối với ngân hàng thương mại, thì hoạt động không chỉ thuần tuý là phục vụ, thực hiện chính sách mà phải kinh doanh, phải an toàn vốn và có lợi nhuận. Do vậy, NHNo&PTNT cần thiết phải tăng cường năng lực quản trị điều hành kinh doanh để hoạt động của NHNo&PTNT tồn tại, phát triển lâu dài và trở lại phục vụ tốt hơn cho phát triển kinh tế NNNT. Thứ năm: Nâng cao vị thế và uy tín của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam trên thương trường. Trong nền kinh tế thị trường nhiều biến động thì uy tín, vị thế của ngân hàng có vai trò rất lớn trong phát triển, mở rộng hoạt động kinh doanh.Thực tế tại khu vực cho thấy có nhiều ngân hàng, tổ chức tài chính chào mời với lãi suất cao hơn các chi nhánh NHNo&PTNT nhưng khách hàng vẫn ưa chuộng gửi tiền vào NHNo&PTNT nhiều hơn, điều này cho thấy uy tín là động lực quan trọng để thu hút khách hàng. Vì vậy để khơi tăng nguồn vốn huy động vào NHNo&PTNT phục vụ cho phát triển kinh tế thì NHNo&PTNT nhất nhất cần cũng cố, nâng cao vị thế của mình trong suốt quá trình hoạt động. Các chi nhánh NHNo&PTNT cần chú ý một số nội dung sau: + Tăng cường cơ sở vật chất, huấn luyện kỹ năng giao tiếp cho cán bộ nhân viên, thực hiện trang phục thống nhất, phong cách giao tiếp lịch sự, thân thiện, tạo sự đa dạng trong tuyên truyền quảng cáo gắn với giữ gìn phát huy văn hoá doanh nghiệp “Trung thực, kỷ cương, sáng tạo, chất lượng, hiệu quả” nhằm tạo ra những đặc trưng riêng đối với khách hàng khi đến giao dịch với NHNo&PTNT. + Đẩy mạnh công tác kế hoạch hoá nguồn vốn, thực hiện dự trữ bắt buộc, bảo hiểm tiền gửi, dự trữ thanh toán, đảm bảo tính thanh khoản cao trong hoạt động, đảm bảo thanh toán và chi trả kịp thời đầy đủ nhu cầu của khách hàng gửi tiền để người gửi yên tâm và tin tưởng vào hoạt động của ngân hàng. 3.2.2. Nhóm giải pháp để phát triển kinh tế hộ 3.2.2.1. Giải pháp về tạo điều kiện kinh hộ tế tiếp cận nguồn vốn tín dụng tại các tổ chức tín dụng Từ những hạn chế và nguyên nhân chưa phát huy tốt mối quan hệ tín dụng giữa các chi nhánh NHNo&PTNT với kinh tế hộ trong thời gian qua tại địa bàn, trong đó có phần nguyên nhân từ phía ngân hàng, nhưng đồng thời những nguyên nhân hạn chế về điều kiện để tiếp xúc với vốn vay ngân hàng từ phía khách hàng cũng là vấn đề cần được tổ chức tháo gỡ để phát huy tốt hơn mối quan hệ đã có; đó là giải pháp tháo gỡ những tồn tại để kinh tế trang trại phát triển và hộ nông dân có quyền thật sự đối với tài sản thuộc sỡ hữu của mình như: + Tiếp tục giao đất và cấp quyền sử dụng đất ổn định lâu dài cho các hộ nông dân một cách kịp thời theo hướng: chuyển nhanh các hộ du canh, du cư, phá rừng làm nương rẫy sang nhận đất rừng để quản lý kinh doanh và khoanh nuôi bảo vệ rừng;nơi nào có điều kiện về quỹ đất, nhất là khu vực có đất trống đồi núi trọc thì có thể giao vượt mức hạn điền cho những hộ có khả năng và có đề án sản xuất-kinh doanh đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt;đối với các nông lâm trường còn diện tích chưa sử dụng thì bàn giao lại cho hộ nông dân trực tiếp khai thác để phát triển kinh tế trang trại. Hướng dẫn hộ nông dân phát huy có hiệu quả và tự chịu trách nhiệm đối với các quyền sử dụng đất đai đã được ban hành. Khuyến khích họ ngoài việc dồn đổi ruộng đất kể cả trên đất đồi, tích cực hợp tác liên gia, liên kết góp vốn góp đất mở rộng sản xuất kinh doanh để hình thành khu vực có khối lượng nông sản hàng hoá lớn. + Ưu tiên cấp đất cho những hộ có khả năng xây dựng các cơ sở sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ có quy mô hiện đại ở vùng nông thôn và được trả tiền thuê đất trong nhiều năm.Tuy nhiên phải duy trì quỹ đất sản xuất nông nghiệp, nhất là diện tích trồng cây lương thực. + Khẩn trương tiến hành công tác quy hoạch phát triển KTV, KTTT theo nguyên tắc phát triển bền vững, từng bước hình thành các vùng KTV, KTTT tập trung n.hư chăn nuôi, cây công nghiệp dài ngày (cao su, điều…)cây ăn quả bán địa.Gắn phát triển các vùng sản xuất rau, làng chăn nuôi với quy hoạch các nhà máy chế biến, chợ nông sản ở nông thôn và du lịch sinh thái. Đây chính là những điều kiện cần và đủ để ngân hàng tiếp cận tư vấn giúp hộ nông dân xây dựng các dự án đầu tư và tính toán được hiệu quả khi triển khai thực hiện, bên cạnh đó hộ nông dân có đủ điều kiện để vay nhu cầu vốn cao hơn khi phải áp dụng biện pháp đảm bảo tiền vay. 3.2.2.2. Vai trò nhà nước về hạn chế sự cách biệt giữa các vùng, miền, khu vực Nhà nước cần ưu tiên ngân sách và huy động các nguồn lực khác để tiếp tục và tăng cường thực hiện tốt hơn chủ trương đầu tư phát triển cho vùng dân tộc và miền núi để rút ngắn sự cách biệt giữa khu vực miền núi so với khu vực khác, nhất là các chương trình đầu tư cho Ytế, Giáo dục-Đào tạo, đặc biệt là đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn khu vực miền núi. Thực tế cho thấy vùng nào, khu vực nào có sự đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng sản xuất như xây dựng hệ thống giao thôn vận tải, hệ thống công trình thuỷ lợi, thuỷ nông, phát triển mạng lưới điện, trạm trại sản xuất và cung ứng giống vật nuôi cây trồng, dịch vụ thương mại đầu vào-đầu ra cho kinh tế hộ, thì vùng đó có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhanh hơn vùng khác và sự cách biệt về đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội của người dân địa phương sẽ được rút ngắn đáng kể, trong đó nhất thiết kinh tế hộ cũng sẽ được cải thiện. 3.2.2.3. Giải pháp về đào tạo nghề, tạo lập thị trường đầu ra ổn định Với sự ít hiểu biết về cách thức tổ chức làm ăn của hộ nông dân tại khu vực do hạn chế về trình độ văn hoá nên trong một thời gian dài mặc dù nhà nước đã đầu tư tiền của rất nhiều, nhưng tốc độ phát triển kinh tế-xã hội vẫn thấp so với các vùng miền khác. Để tiếp tục tháo gỡ hạn chế này, nhà nước cần quan tâm hơn nữa giải pháp về tăng cường bồi dưỡng kiến thức văn hóa, nâng cao kinh nghiệm, khả năng tổ chức sản xuất kinh doanh cho các hộ nông dân tại địa bàn. Vì nâng cao trình độ văn hoá được xem là cơ sở nâng cao trình độ quản lý sản xuất-kinh doanh, nhờ đó mà góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế xã hội tại địa phương, để làm được điều đó, cần giải quyết các vấn đề sau: + Thông qua các hình thức đào tạo đa dạng, bồi dưỡng kiến thức văn hoá, kiến thức khoa học - kỹ thuật canh nông và kiến thức làm giàu cho các chủ thể hộ nông dân, cần nghiên cứu và kết hợp với trung tâm giáo dục cấp huyện để biên soạn tài liệu và có kế hoach đào tạo bồi dưỡng theo chương trình chuẩn cho kinh tế hộ nông dân làm tròn vai trò của một đơn vị kinh tế tự chủ. + Chính quyền địa phương cần có kế hoạch đào tạo thế hệ trẻ làm nghề nông lâm nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, làm dịch vụ nông nghiệp, làm trang trại ở vùng nông thôn, đây là lực lương kế tục và thuận lợi cho áp dụng các tiến bộ kỹ thuật, công nghệ mới vào sản xuất.Họ sẽ là những người sáng tạo ra khối lượng của cải to lớn, giải quyết được việc làm, bảo vệ và khai thác nguồn tài nguyên rộng lớn tại khu vực mà không một lực lượng nào có thể thay thế họ được. Việc đào tạo thế hệ trẻ có trình độ văn hoá, khoa học kỹ thuật, quản lý kinh tế gắn bó với sản xuất nông lâm nghiệp ngay trên quê hương mình, tuy có tốn kém nhiều về kinh phí, song xét về lâu dài thì mang lại hiệu quả kinh tế-xã hội không nhỏ.Vấn đề này cần được tính đến trong quá trình phát triển kinh tế hộ nông dân tại khu vực miền núi Quảng Nam. + Tiến hành quy hoạch đào tạo cán bộ quản lý kinh tế cho kinh tế hộ nông dân, thực hiện đãi ngộ và ưu tiên quy hoạch cán bộ người dân tộc.Động viên con em các hộ nông dân trúng tuyển vào các trường trung cấp, cao đẳng, đại học sau khi tốt nghiệp trở về góp sức làm giàu cho quê hương. Song song với ưu tiên đào tạo nguồn nhân lực, một giải pháp cần thiết cho phát triển kinh tế hộ nông dân đó là giải pháp tạo lập thị trường đầu ra cho hàng hoá sản xuất tại khu vực. Cho đến nay thị trường nông thôn tại khu vực đã được hình thành, nhưng chưa đồng bộ, còn nhiều hạn chế đối với hoạt động sản xuất-kinh doanh của kinh tế hộ bởi những lý do sau đây: + Do sản xuất của hộ nông dân mang nặng tính chất sản xuất nhỏ, năng suất chất lượng kém, sản phẩm tiêu thụ hầu hết dưới dạng thô nên không đủ sức cạnh tranh trên thị trường, khó tránh khỏi bị ép giá, nhất là khi khai thác thu hoạch theo mùa vụ tập trung. Chính vì vậy cùng với phát triển sản xuất hàng hoá, không thể không mở rộng các loại thị trường đa dạng ở các vùng nông thôn trong khu vực để phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh của kinh tế nông hộ từ thị trường tư liệu sản xuất đến thị trường sản phẩm nông lâm nghiệp và các ngành nghề ở nông thôn miền núi. Trong quá trình đi lên sản xuất hàng hoá, phát triển kinh tế trang trai, kinh tế hộ nông dân là lực lượng đông đảo nhất tham gia vào thị trường. Muốn tạo được thị trường đầu ra là nông sản hàng hoá thì đương nhiên các yếu tố đầu vào cũng phải là hàng hoá, kể cả đất đai, bởi vì người nông dân có quyền tự chủ ruộng đất với 5 quyền sử dụng đất theo luật đất đai, tức là có quyền sử dụng đất như một thứ hàng hoá.Mặt khác nền nông nghiệp hàng hoá tất yếu sẽ hình thành các loại hình lao động như lao động của hộ nông dân tự sản xuất, lao động vừa tự sản xuất vừa tranh thủ đi làm thuê, lao động đi làm thuê theo vụ hoặc làm thuê thường xuyên trông nông lâm nghiệp và trong các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ theo quy luật phân công lao động xã hội, nên sức lao động của hộ nông dân cũng có thể coi là hàng hoá. Để thị trường nông thôn phát triển thúc đẩy kinh tế nông hộ phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá và CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn cần giải quyết tốt các vấn đề sau: + Gắn sản xuất -kinh doanh của kinh tế nông hộ với thị trường, tìm kiếm thị trường để tổ chức sản xuất.Kinh tế nông hộ cần phải nhạy bén năng động trong tìm hiểu thông tin, thị trường, giả cả. Chính quyền địa phương cần từng bước tạo lập các thị trường, như thị trường vốn, thị trường sức lao động, thị trường tư liệu sản xuất, thị trường khoa học - công nghệ…để kinh tế nông hộ chuyển nhanh sang sản xuất hàng hoá. + Khuyến khích mở các chợ nông thôn, các cửa hàng đại lý khai thông luồng hàng hoá vật tư, máy móc thiết bị công cụ, nông sản từ sản xuất trên thị trường. Động viên khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư mọi nguồn lực vào phát triển thị trường ở nông thôn. + Đối với thị trường đầu ra tiêu thụ nông sản, cần mở rộng và phát triển đồng bộ bảo đảm vừa giữ vai trò quyết định đối với thị trường đầu vào kích thích hoạt động sản xuất kinh doanh của kinh tề nông hộ. Muốn vậy cần nâng cao năng lực tiếp thị, dự báo và xử lý thông tin về thị trường trong và ngoài nước của các cơ quan hoạch định chiến lược phát triển sản xuất-kinh doanh nông nghiệp.Cũng cố và mở rộng thị trường truyền thống, tìm kiếm thị trường mới. Lấy sức mua của thị trường để định hướng đầu tư, xác định qui mô sản xuất. Phát triển các cơ sở công nghiệp chế biến nông lâm sản với tư cách là thị trường đầu ra cho kinh tế hộ nông dân, đồng thời chính sản phẩm của kinh tế hộ nông dân là nguyên liệu đầu vào của công nghiệp chế biến. 3.2.3. Quan hệ tác động của hai nhóm giải pháp đến lợi ích của nông hộ và Ngân hàng ở khu vực miền núi phía bắc tỉnh Quảng Nam Quan hệ tác động của 2 nhóm giải pháp nêu trên sẽ là điều kiện góp phần thúc đẩy nền sản xuất hàng hoá tại khu vực miền núi phía bắc Quảng nam phát trển nhanh hơn, mối quan hệ giữa các chi nhánh NHNo&PTNT và nông hộ qua đó sẽ được cũng cố bền chặt hơn trong mối quan hệ lợi ích, hộ vay vốn sẽ có đủ điều kiện để tiếp cận nguồn vốn tín dụng của ngân hàng và họ thấy rằng nguồn vốn tín dụng sẽ giúp họ thực hiện được dự án hoặc phương án sản xuất kinh doanh, sau khi trả nợ cho ngân hàng cả gốc và lãi thì họ vẫn còn được hưởng một khoản lợi tức nhất định và họ cho rằng có thể chấp nhận được; còn đối với các chi nhánh NHNo thì có đủ điều kiện để tính toán thẩm định đối tượng vay vốn, chủ động lựa chọn và ra quyết định cho vay khi các điều kiện tín dụng kèm theo đã đảm bảo để có thể bù đáp chi phí huy động vốn, các khoản chi phí quản lý của ngân hàng, chi phí dự phòng rủi ro và có lãi. Tuy nhiên mặt đạt được lớn nhất đó là giải phóng được sức sản xuất xã hội của nông nghiệp nông thôn khu vực miền núi vốn từ lâu nay đã bị “bỏ quên”, người nông dân được hưởng lợi từ các tiềm năng từ đất, rừng, các cơ chế đầu tư…nông nghiệp nông thôn có sự “thay da đổi thịt” rõ rệt tạo nên sự phát triển bền vững, đời sống tinh thần vật chất được nâng cao, thu hẹp khoảng cách giữa miền núi với đồng bằng và thành thị;từ đó tạo lập sự gắn kết giữa Đảng-Nhà nước-Nông dân và ngược lại ngày càng thêm bền chặt sâu đậm;thể hiện đúng tính ưu việt về một Nhà nước “Của dân, Do dân và Vì dân”. Niềm tin của người dân đối với chủ trương chính sách của nhà nước, Chính phủ ngày càng được củng cố và nâng cao.Vai trò vị thế của đất nước trên trường quốc tế không ngừng được cũng cố mở rộng. Kết luận Từ nghiên cứu mối quan hệ giữa tín dụng NHNo&PTNT với kinh tế nông hộ tại khu vực miền núi phía bắc tỉnh Quảng Nam, bản thân rút ra được những kết luận sau đây: - Quan hệ tín dụng nêu trên của các chi nhánh NHNo&PTNT tại khu vực là mối quan hệ có tính hiệu quả về kinh tế-xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy hoạt động ngân hàng và kinh tế hộ cùng phát triển, góp phần cho chuyển dịch thật sự kinh tế nông nghiệp, nông thôn tại địa bàn. Qua từng mốc thời gian mối quan hệ được phát triển cao hơn, sự tin tưởng và tìm đến nhau giữa ngân hàng và người nông dân ngày càng nhiều hơn, người nông dân thật sự là “khách hàng truyền thống” và NHNo&PTNT thật sự là “bạn đồng hành” của nhau trong xu thế tiến tới phát triển nền sản xuất nông nghiệp hàng hoá tại địa bàn. - Qua đánh giá đúng thực trạng và nhìn nhận được xu thế phát triển tất yếu khách quan của KTH tại khu vực, có thể nói với tổ chức mạng lưới và trang bị công nghệ như hiện tại, thì hoạt động của các chi nhánh NHNo&PTNT tại khu vực chưa có đủ các tiện ích đáp ứng cho nhu cầu phát triển của KTH, chưa tương xứng là một chi nhánh NHTM nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong phục vụ phát triển NNNT. Luận văn đặt ra yêu cầu: Trên cân đối năng lực tài chính; công nghệ Ngân hàng của toàn hệ thống, các chi nhánh NHNo&PTNT tại khu vực cần sớm hoàn thiện để trở thành một NHTM hiện đại, đủ khả năng đáp ứng tốt hơn yêu cầu cho phát triển kinh tế-xã hội tại địa bàn nói chung và yêu cầu phát triển kinh tế của hộ nông dân nói riêng. Danh mục tài liệu tham khảo Vũ Tuấn Anh, Trần Thị Vân Anh (1997), Kinh tế hộ: Lịch sử và triển vọng phát triển, Nxb Khoa học và xã hội, Hà Nội. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2001), Báo cáo chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp,chế biến nông,lâm sản và ngành nghề nông thôn. Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Quảng Nam (10/2004), Tìm hiểu con người xứ Quảng: Một số vấn đề dân tộc và miền núi ở Quảng Nam, tháng 10/2004. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng bộ Tỉnh Quảng Nam (2005), Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Nam lần thứ XIX, Tam Kỳ. Đảng bộ huyện Đông Giang (2006), Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ lần thứ XIVnhiệm kỳ 2006-2010. Đảng bộ huyện Nam Giang (2006), Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ lần thứ XIV nhiệm kỳ 2006-2010. Đảng bộ huyện Tây Giang (2006), Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ lần thứ XIVnhiệm kỳ 2006-2010. Lê Mạnh Hùng- Nguyễn Sinh Cúc- Hoàng Vĩnh Lê (1998), Thực trạng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn Việt Nam, Nxb Thống kê, Hà Nội. Võ Văn Lâm (1999), Đổi mới hoạt động tín dụng NHNo&PTNTnhằm phát triển Nông nghiệp,nông thôn trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Nguyễn Văn Lịch (2002), "Cơ chế lãi suất đổi mới hình thức nông nghiệp, nông thôn”, Tạp chí Ngân hàng, (số 12). Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, Báo cáo tổng kết 15 năm (1991-2005) cho vay kinh tế hộ. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Quảng Nam (2005), Báo cáo tổng kết 15 năm (1991-2005) cho vay kinh tế hộ. Phòng Thống kê huyện Đông Giang (4/2006), Niên Giám thống kê năm 2005. Phòng Thống kê huyện Nam Giang (4/2006), Niên Giám thống kê năm 2005. Phòng Thống kê Tây Giang (4/2006), Niên Giám thống kê năm 2005. Thủ tướng Chính phủ (1991), Chỉ thị 202/CT (1991) ngày 08/6/1991 về mức cho vay vốn để sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp đến hộ sản xuất, Hà Nội. Thủ tướng Chính phủ (1993), Nghị định 14/CP ngày 02/3/1993 về chính sách cho hộ sản xuất vay vốn để phát triển nông, lâm, ngư nghiệp và kinh tế nông thôn. Lê Đức Thuý (1998), Tín dụng cho Nông nghiệp,nông thôn những vướng mắc cần được tháo gỡ, Nghị quyết TW 6 khoá VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Tuấn (1999), “Làm gì cho nền nông nghiệp 12 triệu hộ”, Báo Lao động, (số 42, 49). Nguyễn Ngọc Tuấn (1998), Giải pháp hữu hiệu cho vấn đề tiêu thụ sản phẩm nông, lâm, ngư nghiệp và chính sách hỗ trợ tại chính đối với sản xuất nông nghiệp, Nghị quyết TW 6 khoá VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Phạm Văn Thực (1995), NHNo&PTNT Việt Nam và vấn đề cho vay hộ sản xuất ở nông thôn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Nam (2006), Quyết định 48/2006/QĐ-UBND v/v Ban hành chương trình hành động thực hiện Nghị quyết 53/2006/NQ-HĐND (04/5/2006) về tiếp tục phát triển KTV,KTTT trên địa bàn tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2006-2010, Tam Kỳ 10/2006. Uỷ ban nhân dân huyện Đông Giang (2005), Báo cáo tổng kết 5 năm (2001-2005) thực hiện đề án phát triển KTV, KTTT. Uỷ ban nhân dân huyện Nam Giang (2005), Báo cáo tổng kết 5 năm (2001-2005) thực hiện đề án phát triển KTV, KTTT. Uỷ ban nhân dân huyện Tây Giang (2005), Báo cáo tổng kết 5 năm (2001-2005) thực hiện đề án phát triển KTV, KTTT. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLA2457.doc
Tài liệu liên quan