Quan hệ thương mại Việt - Mỹ sau khi ký kết Hiệp định thương mại giữa hai nước - Triển vọng & Giải pháp

Lời mở đầu Qúa trình quốc tế hoá đã tạo nên những quan hệ nhiều mặt, nhiều chiều, phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia, tạo ra những thay đổi lớn lao trên thế giới. Trong bức toàn cảnh đó, hoạt động thương mại quốc tế đã và đang nổi lên như một vấn đề trọng tâm. Mặc dù thương mại quốc tế ra đời từ cách đây rất lâu song chưa bao giờ lịch sử lại chứng kiến tác động to lớn của nó trên phạm vi toàn cầu như hiện nay. Nó có thể biến một nước nghèo nàn, lạc hậu thành một nước công nghiệp phát triển,

doc30 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1346 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Quan hệ thương mại Việt - Mỹ sau khi ký kết Hiệp định thương mại giữa hai nước - Triển vọng & Giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đồng thời có thể làm cho một quốc gia độc lập trở nên bị phụ thuộc... Ngày nay, khi không một quốc gia nào có thể phát triển tách biệt khỏi quỹ đạo chung của nền kinh tế thế giới, thương mại quốc tế lại càng đóng một vai trò quan trọng hơn bao giờ hết. Thương mại quốc tế với xu thế tự do hoá trên toàn cầu chính là cái nôi sản sinh ra các Hiệp định Thương mại đa phương ,khu vực và song phương. Đặc biệt, Hiệp định Thương mại song phương đã góp phần không nhỏ vào việc thúc đẩy quan hệ kinh tế, thương mại giữa các quốc gia. Trong các Hiệp định Thương mại Việt Nam ký kết với hơn 60 nước trên thế giới, Hiệp định song phương Việt-Mỹ gồm 150 trang, được xem là có quy mô lớn nhất. Đây cũng là một Hiệp định toàn diện nhất từ trước đến nay giữa Mỹ và các nước đang phát triển. Cộng đồng doanh nghiệp Mỹ rất lạc quan về bản Hiệp định này với niềm tin tưởng rằng Hiệp định sẽ mang lại cho họ những cơ hội chưa từng có trong việc tiếp cận với thị trường Việt Nam.Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ đã mở ra một chương mới trong quan hệ kinh tế, thương mại giữa hai nước. Đây là cơ sở pháp lý ban đầu để hai bên buôn bán, quan hệ trực tiếp với nhau. Song đây cũng là một cuộc chơi mà cơ hội và thách thức đan xen phức tạp. Các doanh nghiệp non trẻ Việt Nam liệu có thể thích ứng ngay được với thị trường Mỹ hay không? Hơn nữa, thương trường là chiến trường, khi cuộc cạnh tranh giữa doanh nghiệp thuộc các quốc gia khác nhau đang ngày càng trở nên gay gắt nhằm chiếm lĩnh thị trường Mỹ thì các doanh nghiệp Việt Nam lại càng phải đối đầu với nhiều thách thức hơn. Vì vậy, việc đưa ra các giải pháp nhằm thúc đẩy quan hệ thương mại hàng hoá Việt-Mỹ chính là chiếc chìa khoá để tháo gỡ phần nào những khó khăn trên. Với lý do đó, người viết đã lựa chọn đề tài: “Quan hệ thương mại hàng hoá Việt-Mỹ sau khi ký kết Hiệp định Thương mại giữa hai nước: Triển vọng và giải pháp ”. Trong khuôn khổ một đề án, người viết xin đề cập tới vấn đề trên trong ba chương. Chương I. Một số vấn đề chung về thương mại quốc tế và sự cần thiết phải phát triển quan hệ thương mại Việt -Mỹ. Chương II. Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ và triển vọng phát triển quan hệ giữa hai nước. Chương III. Một số giải phápvà kiến nghị nhằm thúc đẩy quan hệ thương mại với Mỹ. Đây là một đề tài đòi hỏi phải có sự nghiên cứu sâu sắc, tỉ mỉ mối quan hệ thương mại hàng hoá cũng như các quy định pháp luật về thương mại của cả hai nước, từ đó đề ra các giải pháp phát triển. Mặc dù đã có nhiều nỗ lực nhưng do kinh nghiệm thực tiễn còn hạn hẹp nên đề án khó tránh khỏi những thiếu sót. Người viết mong nhận được sự đóng góp ý kiến của thày cô và các bạn. ¯ Chương I MộT Số VấN Đề CHUNG Về THƯƠNG MạI QUốC Tế Và Sự CầN THIếT PHảI PHáT TRIểN QUAN Hệ THƯƠNG MạI VIệT-Mỹ 1.Khái niệm thương mại quốc tế. Lịch sử phát triển xã hội loài người gắn liền với sự phát triển của nền sản xuất xã hội. Trải qua các chế độ nhà nước khác nhau, từ chế độ chiếm hữu nô lệ đến chế độ phong kiến, đến chế độ TBCN và kể cả chế độ XHCN mới hình thành từ đầu thế kỷ XX, quan hệ sản xuất và trao đổi hàng hoá tiền tệ phát triển không ngừng. Nó không chỉ giới hạn trong lãnh thổ một quốc gia mà còn mở rộng trên phạm vi toàn thế giới. Số nước tham gia vào các hoạt động trao đổi mua bán hàng hoá ngày càng tăng. Các hoạt động mua bán hàng hoá giữa các nước được gọi là các hoạt động xuất khẩu-nhập khẩu. “Toàn bộ hoạt động xuất khẩu-nhập khẩu giữa các nước trên thế giới được gọi là thương mại quốc tế”. Các nước tham gia vào thương mại quốc tế với lý do cơ bản liên quan đến lợi ích thu được từ thương mại. Chính do sự khác biệt giữa các quốc gia đã tạo cho họ có những lợi thế nhất định về một số loại hàng hoá. Thay vì sản xuất ra tất cả mọi thứ, nếu chuyên môn hoá vào một số mặt hàng với quy mô lớn, họ có thể đạt hiệu quả cao hơn. Đây chính là tiền đề cho sự phát triển của thương mại quốc tế. Cho tới nay, thương mại quốc tế đã trở thành một hoạt động cơ bản, phản ánh tính chất, trình độ và quy mô phát triển của một nền kinh tế hướng ngoại của mỗi quốc gia. 2. Vai trò của thương mại quốc tế. Trong xu huớng toàn cầu hoá và khu vực hoá ngày càng gia tăng mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới hiênj nay, việc mở rộng các mối quan hệ kinh tế là một tất yếu khách quan. Thương mại quốc tế đóng một vai trò ngày càng quan trọng đối với nền kinh tế của mỗi quốc gia cũng như nền kinh tế toàn cầu. Trước hết, thương mại quốc tế làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế và nâng cao hiệu quả nền kinh tế của mỗi quốc gia khi tham gia vào các hoạt động này. Tại sao tự do hoá thuơng mại lại có thể tác động vào việc nâng cao hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế. Thương mại quốc tế với các quan hệ hợp tác đòi hỏi mỗi quốc gia muốn hội nhập có hiệu quả vào nền kinh tế thế giới đều phải có sự thay đổi cơ cấu các sản phẩm hàng hoá xuất nhập khẩu. Chính sự thay đổi này sẽ thể hiện khả năng, trình độ của mỗi quốc gia và chỉ ra triển vọng tăng trưởng trong kim ngạch ngoại thương, góp phần không nhỏ vào sự tăng trưởng chung của nền kinh tế. Các quốc gia dù ở trình độ phát triển khác nhau, thông qua cầu nối thương mại quốc tế, đều có thể tiến hành hợp tác theo hướng chuyên môn hoá ngày càng sâu, rộng trong tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh về cùng một loại sản phẩm hay nhiều loại sản phẩm, nhiều chi tiết khác nhau. Điều đáng lưu ý là chính trong quá trình này, các quốc gia đã hỗ trợ nhau mọi điều kiện nhằm đẩy nhanh quá trình cấu trúc lại nền kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá sao cho phù hợp với việc phát huy các tiềm năng, thế mạnh của mình. Qúa trình này đã góp phần tạo ra tiền đề vật chất và môi trường để hình thành một thị trường thế giới thống nhất, nơi diễn ra mọi hoạt động kinh tế quốc tế, trong đó thương mại quốc tế đóng vai trò trung tâm. Thương mại quốc tế có quan hệ chặt chẽ với hợp tác quốc tế và đầu tư. Bất kỳ một nước nào trước khi quyết định hợp tác đầu tư với ai, về lĩnh vực gì đều phải căn cứ vào một số tiêu chí nhất định, trong đó xuất khẩu và nhập khẩu là hai vấn đề thường được các bên đối tác đặc biệt quan tâm. Ngược lại, hợp tác về đầu tư lại là một trong những nhân tố cơ bản thúc đẩy sự phát triển của thương mại quốc tế. Bên cạnh đó, thương mại quốc tế còn đóng vai trò cầu nối tích cực cho quá trình chuyển giao giữa các nước với nhau về những kết quả, thành tựu phát triển khoa học công nghệ. Ví dụ rõ rệt nhất là sự chuyển giao thông tin và vi điện tử vào khu vực Châu á-Thái Bình Dương trong vài thập niên gần đây. Khởi đầu là Nhật Bản, mặc dù đi sau nhiều nước công nghiệp phát triển trong lĩnh vực này, nhưng ngay từ đầu những năm 70, Nhật Bản đã nhanh chóng chiếm vị trí hàng. Song song với việc tích cực nhập khẩu các kỹ thuật công nghệ sẵn có của Mỹ, Nhật Bản còn đẩy mạnh quá trình nghiên cứu triển khai, phát minh, sáng chế để đưa vào sản xuất. Tiếp đó, Hàn Quốc lại nhập khẩu kỹ thuật công nghệ của Nhật Bản và cũng nhanh chóng vượt lên trên nhiều nước công nghiệp phát triển khác, đứng thứ ba sau Mỹ và Nhật Bản. Như vậy có thể thấy rằng thương mại quốc tế với các hoạt động xuất nhập khẩu vẫn là những mục tiêu cơ bản cần hướng tới của các quan hệ hợp tác quốc tế về khoa học công nghệ. Nó không chỉ giúp thúc đẩy việc chuyển giao kỹ thuật công nghệ, nguyên vật liệu... mà còn chuyển giao trình độ, năng lực người lao động, kinh nghiệm quản lý kinh doanh..., tạo điều kiện cho sự ra đời của các ngành khoa học mới như điều khiển học, tin học, tâm lý học... với tư cách là những công cụ đắc lực cho việc quản lý nền kinh tế. Cuối cùng là các hoạt động dịch vụ thu ngoại tệ như du lịch quốc tế, giao thông vận tải quốc tế, thông tin liên lạc quốc tế, xuất nhập khẩu sức lao động kể cả các chuyên gia khoa học kỹ thuật, bảo hiểm quốc tế... Các dịch vụ này được coi là hàng hoá vô hình. Cùng với hàng hoá hữu hình, hàng hoá vô hình ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc tăng hiệu quả của các hoạt động kinh tế đối ngoại khác. Và nếu các hoạt động này đạt hiệu quả cao sẽ quay trở lại tác động để thương mại quốc tế phát triển tốt hơn. Bên cạnh những tác động tích cực của thương mại quốc tế, vẫn còn có không ít những khó khăn cho các quốc gia. Khi tham gia vào một cuộc chơi không cân sức, các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước chậm phát triển thường phải chịu thua thiệt hơn so với các nước phát triển. Do mỗi quốc gia đều có những đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội, chế độ chính trị khác biệt, vì thế, tuỳ thuộc vào từng thời kỳ lịch sử cụ thể, bối cảnh trong nước và thế giới, mỗi quốc gia cần tham gia một cách linh hoạt, sáng tạo vào quá trình này thì mới đạt được hiệu quả cao. 3.Lợi ích của quan hệ thương mại Việt Nam-Mỹ. Việt Nam và Mỹ đều có chung một mục tiêu cơ bản là thúc đẩy thương mại phát trriển ,tạo dựng cơ hội tham gia vào thị trương của nhau trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi . Đối với Mỹ : Việt Nam theo đánh giá của Mỹ ,là một nước đang hướng nhanh tới nền kinh tế thị trường .Mỹ không còn con đường nào khác là nhannh chóng xác lập sự có măt của họ trên thị trường Việt Nam. Bên cạnh đó,Việt Nam còn nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng, trong đó nhiều loại có giá trị kinh tế lớn lại có một nguồn nhân lực dồi dào, một thị trường tiêu thụ cũng lớn. Việt Nam lại là nước nằm trong một khu vực phát triển năng động nhất thế giới, có thời cơ thuận lợi để hội nhập và giao lưu kinh tế khu vực cũng như sẽ tham gia vào các tổ chức kinh tế quan trọng. Nhận thấy được cơ hội đó, Việt Nam cũng đang ưu tiên đẩy mạnh quan hệ kinh tế với hiệp hội các quốc gia Đông Nam á (ASEAN) và các nước trong khu vực Châu á -Thái Bình Dương. Nền kinh tế Việt Nam thành công nằm trong sự quan tâm của Mỹ bởi họ có thêm thị trường mới để tăng cường buôn bán đầu tư,tăng cường ảnh hưởng của mình đối với khu vực Châu á -Thái Bình Dương cũng như tạo dựng một hình ảnh mới của Mỷ khu vực Đông Nam á -Việt Nam đã và đang từng bước trở thành một nhân tố đáng kể để Mỹ phải tính đến trong chiến lược kinh tế Châu á-Thái Bình Dương. * Đối với việt nam : Hợp tác sâu, rộng hơn nữa về kinh tế, thương mại với Mỹ cũng là một trong những mục tiêu của Việt Nam. Bởi có thể nói Mỹ là một nền kinh tế hùng hậu và hiệu quả nhất. Sản xuất công nghiệp của Mỹ chiếm 20% sản lưọng công nghiệp thế giới. Lao động nông nghiệp tuy chỉ chiếm 2% dân số nhưng xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp mỗi năm đạt 50 tỷ USD. Hiện nay, Mỹ là một trong số những thị trường xuất khẩu lớn nhất thế giới chiếm 13,5% thị trường xuất khẩu thế giới. Mặc dù là một nước công nghiệp phát triển với nền công nghiệp hiện đại điện tử – tin học – viễn thông phát triển mạnh, Mỹ vẫn là nước xuất khẩu thuỷ sản lớn thứ hai trên thế giới, xuất khẩu gạo lớn thư ba thế giới và nông sản Mỹ chiếm 21% khối lượng nông sản nói chung của thế giới. Tuy vậy, Mỹ cũng là nước nhập khẩu chiếm thị phần lớn trên thế giới khoảng 15% kim ngạch của thế giới. Mỹ hiện vẫn là nuớc nhập khẩu thuỷ sản và hàng dệt may lớn nhất thế giới. Bên cạnh đó, Mỹ là một quốc gia chi phối hầu hết các tổ chức kinh tế quốc tế như: Tổ chức Thương mại thế giới ( WTO), Ngân hàng thế giới (WB), Tổ chức tiền tệ quốc tế (IMF) ... bởi Mỹ là nước có tiềm lực về tài chính, đóng góp nhiều. Như vậy ta thấy, thị trường Mỹ to lớn, công nghệ hiện đại và trí thức quản lý tiên tiến là yếu tố đẩy sự tăng trưởng của nhiều quốc gia trên thế giới.Việt Nam sẽ có được một thị trường xuất khẩu mới, một thị trường công nghệ và quản lý có ý nghĩa đặc biệtđối với quá trình công nghiệp hoá -hiện đại hoá đất nước. Chương II. hiệp định thương mại việt nam -mỹ và triển vọng quan hệ thương mại giữa hai nước 1 Thực trạng quan hệ thương mại Việt Nam - Mỹ thời gian qua A. Giai đoạn trước khi Mỹ bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam. Trước năm 1975. Vào thời kỳ này, Mỹ có quan hệ với chính quyền Sài Gòn cũ. Kim ngạch buôn bán không lớn, chủ yếu là hàng nhập khẩu bằng viện trợ của Mỹ để phục vụ cho cuộc chiến tranh xâm lược. Xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ chỉ bao gồm một số mặt hàng như cao su, gỗ, hải sản, đồ gốm... với số lượng ít ỏi. Từ tháng 5/1964, Mỹ thực thi lệnh cấm vận đối với miền Bắc nước ta. Khi Việt Nam thống nhất đất nước, Mỹ đã mở rộng lệnh cấm vận đối với toàn bộ lãnh thổ Việt Nam trong tất cả các lĩnh vực thương mại, tài chính, tín dụng ngân hàng... Mỹ còn khống chế các nước đồng minh và các tổ chức quốc tế nhằm ngăn cản, thao túng các mối quan hệ kinh tế thương mại của họ với Việt Nam. Mặc dù vậy, thông qua con đường trực tiếp hoặc gián tiếp, Việt Nam vẫn có quan hệ kinh tế và viện trợ phát triển với nhiều nước, nhiều tổ chức kinh tế và tổ chức phi chính phủ, trong đó có Mỹ. Nhiều công ty Mỹ vẫn gián tiếp xuất hàng vào nước ta. Theo số liệu thống kê của Việt Nam, xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ thời kỳ 1986-1990 hầu như không có gì. Còn kim ngạch nhập khẩu trị giá khoảng 5 triệu USD Những năm đầu thập kỷ 90. Trong những năm này, quan hệ hai nước đã có nhiều nét khởi sắc cả về lĩnh vực ngoại giao cũng như lĩnh vực thương mại, hai bên cùng hướng tới các mối quan hệ hữu nghị và hợp tác vì lợi ích của cả hai bên. Bắt đầu từ năm 1990, Việt Nam đã xuất được một lượng hàng trị giá khoảng 5.000 USD sang Mỹ. Con số này tăng lên đến 9.000 USD vào năm 1991, 11.000 USD vào năm 1992 và 58.000 USD vào năm 1993. Nhập khẩu của Việt Nam bị cấm vận vô cùng chặt chẽ đến mức những chiếc máy tính IBM 360/50 do Mỹ trang bị cho chính quyền Sài Gòn cũ cũng không thể kiếm được phụ tùng thay thế, phần lớn phải nhập tạm của Liên Xô. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn nhập khẩu từ Mỹ một lượng hàng trị giá gần 7 triệu USD thời kỳ 1991-1993. Cũng trong thời kỳ này, lệnh cấm vận của Mỹ vẫn không ngăn được một số nước Châu Mỹ có quan hệ với Việt Nam như Canada, Cuba... Giá trị kim ngạch nhập khẩu từ các nước này của Việt Nam 1991-1993 là 65,2 triệu USD. Giá trị xuất khẩu của Việt Nam sang các nước này còn lớn hơn, đạt 73,2 triệu USD. Bắt đầu từ tháng 4/1992, Mỹ thực hiện dỡ bỏ một loạt các hạn chế đối với Việt Nam. Mỹ cho phép lưu thông bưu chính viễn thông Mỹ-Việt Nam, cho phép xuất sang Việt Nam những mặt hàng phục vụ cho nhu cầu cơ bản của con người và bãi bỏ hạn chế đối với việc các tổ chức phi chính phủ Mỹ viện trợ nhân đạo cho Việt Nam. Đặc biệt Mỹ còn cho phép các công ty Mỹ được lập văn phòng đại diện và ký các hợp đồng kinh tế ở Việt Nam, nhưng chỉ được giao dịch kinh doanh sau khi bỏ lệnh cấm vận. Tháng 7/1993, Mỹ tuyên bố không can thiệp vào các tổ chức tài chính quốc tế, trước hết là IMF, WB, ADB (Ngân hàng phát triển Châu á). Tháng 10/1993, quan hệ giữa ta với các tổ chức tài chính quốc tế đã được nối lại. B. Giai đoạn sau khi lệnh cấm vận bị huỷ bỏ. Ngày 3/2/1994, Tổng thống Mỹ B. Clinton chính thức tuyên bố bãi bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam. Sau đó, Bộ Thương mại Mỹ đã chuyển Việt Nam từ nhóm Z (gồm Bắc Triều Tiên, Cuba và Việt Nam) lên nhóm Y - ít hạn chế thương mại hơn (gồm Liên Xô cũ, các nước thuộc khối Vacsava cũ, Anbani, Mông Cổ, Lào, Campuchia và Việt Nam). Bộ Vận tải và Bộ Thương mại Mỹ cũng bãi bỏ lệnh cấm tàu biển và máy bay Mỹ vận chuyển hàng hoá sang Việt Nam, cho phép tàu biển mang cờ Việt Nam được vào cảng Mỹ nhưng phải thông báo trước 3 ngày. Hơn một năm sau, ngày 11/7/1995, Tổng thống B. Clinton tuyên bố công nhận ngoại giao và bình thường hoá quan hệ với Việt Nam. Các giới chức Việt Nam cũng nêu rõ quan điểm của mình về những vấn đề đặt ra trong quan hệ Việt-Mỹ. Tiếp đó là chuyến viếng thăm chính thức Việt Nam của Ngoại trưởng Mỹ W. Christopher ngày 5/8/1995. Chuyến viếng thăm đã mở ra một trang mới trong quan hệ giữa hai nước. Hai bên nhất trí đẩy mạnh quan hệ kinh tế thương mại và xúc tiến những biện pháp cụ thể để tiến tới ký kết Hiệp định Thương mại làm nền tảng cho các hoạt động buôn bán song phương. Tháng 10/1995, nhân dịp sang Mỹ để dự lễ kỷ niệm 50 năm ngày thành lập Liên Hợp Quốc, Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã tiếp xúc với nhiều quan chức cao cấp trong “Hội nghị về bình thường hoá quan hệ”, bước tiếp theo trong quan hệ Việt-Mỹ do Hội đồng Thương mại Mỹ tổ chức. Một chủ đề lớn được thảo luận tại Hội nghị này là xem xét khả năng Mỹ dành cho Việt Nam quy chế MFN trong buôn bán. Năm 1997, quan hệ Việt-Mỹ tiếp tục ghi nhận những bước tiến quan trọng. Hai nước đã thoả thuận thiết lập quan hệ song phương về bản quyền. Kim ngạch xuất khẩu hàng năm của Mỹ về các mặt hàng cần được bảo hộ bản quyền lên tới hơn 200 tỷ USD. Trong khi đó loại hàng này vẫn chưa tìm được chỗ đứng trên thị trường Việt Nam do hai nước chưa có Hiệp định về bản quyền. Ngày 7/4/1997, trong chuyến thăm Việt Nam của Bộ trưởng Tài chính Mỹ Robert Robin, hai nước đã xử lý được số nợ 145 triệu USD từ thời Chính quyền Sài Gòn. Đây là bước đi quan trọng tiến tới ký kết Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ. Ngày 9/5/1997, Đại sứ đầu tiên của Việt Nam tại Mỹ cũng như Đại sứ đầu tiên của Mỹ tại Việt Nam đã tới thủ đô hai nước để thực hiện nhiệm kỳ của mình. Việc này đã thể hiện nỗ lực của cả hai Chính phủ trong việc cải thiện hơn nữa quan hệ hai nước. Ngoài ra, hàng trăm đoàn đại biểu Mỹ bao gồm rất nhiều thương gia lần lượt đến Việt Nam với mong muốn tìm hiểu thị trường và thiết lập quan hệ làm ăn lâu dài tại Việt Nam. Những thành quả ban đầu trong quan hệ thương mại giữa hai nước. Cuộc triển lãm Vietexport ’94 - San Francisco là triển lãm hàng xuất khẩu đầu tiên của Việt Nam được tổ chức tại Mỹ. Triển lãm đã gây ra một tiếng vang lớn trong dư luận Mỹ. Tham gia triển lãm có 70 doanh nghiệp Việt Nam để giới thiệu về các mặt hàng nông sản, thủ công mỹ nghệ, hàng may mặc, da giày, thuỷ sản, đồng thời giới thiệu về các luật lệ kinh doanh và tập quán buôn bán của hai bên. Kết quả của cuộc triển lãm không chỉ là các thoả thuận hợp tác kinh doanh, khối lượng hàng hoá giao dịch, số lượng hợp đồng, mà còn tạo ra một cơ hội tốt cho các doanh nghiệp và nhân dân Mỹ hiểu thêm về tiềm năng kinh tế của Việt Nam. Việt Nam và Mỹ đều có chung một mục đích là hợp tác để thúc đẩy hơn nữa sự phát triển nền kinh tế thương mại. Do vậy, Mỹ hướng tới Việt Nam như hướng tới một thị trường đông dân đầy tiềm năng trong việc tiêu thụ các mặt hàng công nghiệp, đặc biệt là hàng điện tử, tin học, viễn thông. Còn Việt Nam hướng tới Mỹ như một thị trường tiêu thụ khổng lồ có nền công nghệ kỹ thuật hiện đại và có nguồn vốn dồi dào vào bậc nhất thế giới. Mặc dù chưa có con số thống kê chính xác hàng hoá của Mỹ chiếm bao nhiêu thị phần ở Việt Nam, song có thể thấy hầu hết các hãng nổi tiếng như Microsoft, Nikon, Kodak, Caltex, Esso, Pepsi, Coca-Cola... đều có mặt tại Việt Nam. Mặc dù đặt chân đến thị trường Việt Nam muộn hơn các nước khác, song Mỹ đã nhanh chóng chiếm được cảm tình của người dân Việt Nam nhờ vào chiến lược Marketing độc đáo, chất lượng sản phẩm cao. Theo số liệu của Bộ Thương mại Mỹ, kim ngạch buôn bán Việt-Mỹ đã tăng trưởng đáng kể từ năm 1994 đến năm 2000, duy chỉ có năm 1997 là giảm sút so với năm 1996 do hàng hoá không được hưởng MFN rất khó xâm nhập sâu hơn vào thị trường Mỹ. Về xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ. Về hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ, mãi đến cuối năm 1994, EPCO là hãng đi tiên phong với 2.150 triệu USD tôm, cà phê xuất sang California. Năm 1996, doanh số hàng xuất sang Mỹ của EPCO đạt xấp xỉ 8 triệu USD. Cùng với EPCO, bia Sài Gòn đã xuất được sang Mỹ 13.455 thùng bia chai ngay từ năm đầu tiên khi bỏ cấm vận. Bia Sài Gòn hiện đã có mặt ở các tiểu bang Colorado, Washington, Oregon, Kansas, Virginia... với chất lượng được đánh giá cao hơn hẳn bia Trung Quốc vốn đã có mặt từ lâu. Năm 1995, hãng Biti’s cũng đã đặt văn phòng đại diện tại New York để mở rộng buôn bán hàng giày dép sang Mỹ. Cho dù chưa được hưởng quy chế MNF mà nay gọi là Quan hệ thương mại bình thường (NTR), xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ vẫn tăng nhanh chóng từ hơn 50 triệu USD năm 1994 đến 609 triệu USD năm 1999 và ước tính năm 2000 là hơn 683 triệu USD. Năm 1994 và 1995, hàng nông nghiệp Việt Nam xuất sang Mỹ chiếm 76% tổng kim ngạch xuất khẩu, còn lại là hàng phi nông nghiệp. Như vậy, cơ cấu mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam là nhóm hàng nông, lâm, thuỷ sản. Trong nhóm này, cà phê chiếm phần lớn kim ngạch xuất khẩu. Hàng công nghiệp nhẹ cũng bắt đầu xâm nhập vào thị trường này, chủ yếu là hàng dệt, may. Những năm tiếp sau, hàng nông nghiệp xuất khẩu giảm dần, nhường chỗ cho các mặt hàng khác. Nhóm hàng giày dép nổi lên như một điểm sáng với kim ngạch vượt cả nhóm hàng dệt may. Nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản đã có bước chuyển biến tích cực. Từ năm 1996, ta bắt đầu xuất khẩu dầu thô sang Mỹ và đạt trị giá hơn 80 triệu USD, báo hiệu sự tăng mạnh mặt hàng này trong tương lai. Tuy xuất hiện muộn nhưng giá trị mặt hàng này nhanh chóng chiếm vị trí thứ hai, chỉ sau cà phê. Bên cạnh đó, mặt hàng hải sản cũng tỏ ra ngày càng có triển vọng tại thị trường Mỹ với tốc độ tăng nhanh và ổn định qua các năm. Kỹ thuật chế biến cũng ngày càng được nâng cao, góp phần làm tăng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này. Những năm trở lại đây, quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Mỹ đã có bước phát triển vượt bậc. Khối lượng hàng hoá trao đổi tăng lên nhiều, chất lượng hàng hoá Việt Nam do phải cọ xát với sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường Mỹ nên đã được cải thiện đáng kể. Cho tới nay, Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ chủ yếu là 5 mặt hàng chủ lực sau Bảng 1: 5 mặt hàng xuất khẩu chính từ Việt Nam sang Mỹ. Đơn vị: triệu USD. Mặt hàng 1994 1995 1996 1997 1998 1999 8 tháng đầu năm 2000 Cá và thuỷ hải sản 5,8 19,6 33,9 46,4 80,5 108,1 161,6 Hạt tiêu, gia vị, cà phê, chè 31,2 146,5 110,9 108,5 147,6 117,7 99,4 Năng lượng, khoáng sản, dầu 1,1 0,0 93,4 36,7 104,7 100,6 37,8 Quần áo len 2,4 15,1 20,0 21,0 21,3 24,9 22,7 Giày dép 0,1 3,3 39,1 97,7 114,9 145,8 86,4 Tổng cộng 40,6 184,5 297,3 310,3 469 496,6 407,9 Nguồn: Cơ quan thông tin thương mại toàn cầu. Nhập khẩu của Việt Nam từ Mỹ. Ngay từ năm đầu tiên sau khi Mỹ huỷ bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam, hàng nhập khẩu của Việt Nam từ Mỹ đã tăng mạnh về số lượng và phong phú, đa dạng về chủng loại. Nếu năm 1993 chỉ có 4 nhóm hàng của Mỹ được phép xuất sang Việt Nam thì ngay năm sau đó, con số này đã tăng lên 35 nhóm hàng. Các mặt hàng Mỹ xuất khẩu chủ yếu sang Việt Nam là máy móc, thiết bị, phân bón, máy móc xây dựng, ô tô, thiết bị viễn thông. Xét về cơ cấu hàng nhập khẩu, nhóm hàng máy móc, thiết bị nói chung chiếm phần lớn tổng kim ngạch nhập khẩu từ Mỹ. Điều này phản ánh đúng định hướng nhập khẩu của ta cũng như định hướng xuất khẩu của Mỹ. Nhóm mặt hàng nguyên nhiên vật liệu cũng chiếm phần kim ngạch đáng kể, chủ yếu là phân bón, bông, sợi, xăng dầu, sắt thép, một số loại hoá chất..., những mặt hàng mà trong nước chưa sản xuất được hay sản xuất chưa đáp ứng được nhu cầu tiêu thụ. Hàng tiêu dùng, các mặt hàng nông sản thực phẩm... cũng được nhập từ Mỹ nhưng với kim ngạch thấp hơn nhiều. Như vậy, chỉ trong vòng hơn 5 năm sau khi Mỹ chính thức bãi bỏ lệnh cấm vận Việt Nam, quan hệ thương mại giữa hai nước đã có sự thay đổi lớn cả về số lượng và cơ cấu xuất nhập khẩu. Buôn bán giữa hai nước gia tăng nhanh chóng do Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng được miễn thuế vào Mỹ như cà phê, hay các mặt hàng có thuế suất rất thấp như hàng may mặc... Còn Mỹ xuất khẩu nhanh chóng vào thị trường Việt Nam cũng một phần nhờ vào chính sách thương mại mở cửa bình đẳng, không phân biệt đối xử của Việt Nam. Biểu thuế nhập khẩu của Việt Nam chỉ có một loại thuế suất duy nhất đánh vào mỗi loại hàng hoá không phân biệt xuất xứ. Chính vì vậy, Mỹ đã có ngay sự cạnh tranh bình đẳng với các bạn hàng truyền thống của Việt Nam. 2. Lộ trình đi tới Hiệp định Thương mại Việt Mỹ. Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ được ký kết là kết quả của một quá trình đàm phán lâu dài và phức tạp. Nguyên nhân cơ bản của quá trình đàm phán lâu dài này là do những khác biệt giữa hai nước về chế độ chính trị, xã hội, cơ chế kinh tế... Hiệp định đã thể hiện quyết tâm và nỗ lực của cả hai bên trong việc tìm ra một tiếng nói chung đối với vấn đề hợp tác thương mại. Các bên đã trải qua tất cả 11 vòng đàm phán diễn ra tại Hà nội và Washington. Trong ba vòng đàm phán đầu tiên, các bên chỉ tìm hiểu về cơ chế, chính sách, luật định của nhau. Việt Nam và Mỹ đều đưa ra những thông tin về khung luật pháp có liên quan đến quan hệ thương mại mà các bên cần xem xét và nghiên cứu. Như vậy, cả hai sẽ có điều kiện để hiểu thêm về “luật chơi” của phía đối tác. Trong các vòng đàm phán từ vòng thứ 4 đến vòng thứ 7, hai bên đã trao đổi tổng thể quan điểm của mình về vấn đề thương mại hàng hoá, sở hữu trí tuệ, thương mại dịch vụ và đầu tư. Những vấn đề nêu lên trong dự thảo Hiệp định phù hợp với GATT năm 1994, trừ một số vấn đề liên quan đến quan hệ song phương và có một số vấn đề cao hơn GATT. Ví dụ như đầu tư không hề dược đề cập tới trong GATT. Trong vòng đàm phán thứ 8 Việt Nam đã đưa ra một số đề xuất được xây dựng trên cơ sở các nguyên tắc của WTO, đồng thời đưa ra một lộ trình hợp lý để thực hiện các nguyên tắc của WTO trong bối cảnh Việt Nam là một nước đang phát triển và đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế. Vòng 9 là cuộc gặp mặt cấp Bộ trưởng. Hiệp định đã được thoả thuận về mặt nguyên tắc. Trong vòng đàm phán thứ 10, các bên thảo luận về các vấn đề kỹ thuật. Vòng 11 các bên hoàn tất Hiệp định và đến ngày 13/7/2000 diễn ra lễ ký chính thức Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ. Một số nội dung quan trọng liên quan đến thương mại được đề cập trong hiệp định: Thuế: Ngay sau khi Hiệp định có hiệu lực, mỗi bên dành ngay lập tức và vô điều kiện cho hàng hoá có xuất xứ hoặc được xuất khẩu từ lãnh thổ của bên kia sự đối sử dành cho hàng hoá tương tự từ bất kỳ nước thứ ba nầo khác trong tất cả các vấn đề liên quan tới thuế xuất khẩu hay nnhập khẩu. Phí:Không bên nào, dù trực tiếp hay gián tiếp, được quy định bất kỳ một loại thuế hay phí nội địa nào đối với hàng hoá của bên kia nhập khẩu vào lãnh thổ nước mình cao hơn mức áp dụng cho hàng hoá tương tự trong nước. Các biện pháp phi thuế: Các quy định về kỹ thuật không được soạn thảo, ban hành hoặc áp dụng để tạo ra những trở ngại không cần thiết cho thương mại quốc tế. Những quy định này chỉ được đưa ra trong trường hợp : -Do yêu cầu về an ninh quốc gia. -Ngăn ngừa những hành vi lừa đảo. -Bảo vệ sức khoẻ và an toàn cho con người,đời sống và sức khoẻ động thực vật hoặc môi trường. Quyền kinh doannh :Mỗi bên theo quy định của Hiệp định, phải dành cho công nhân và công ty bên kia quyền sản xuất, quyền kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá theo lộ trình mà hai bên đã thoả thuận . Vấn đề trị giá tính thuế hải quan: Trong vòng hai năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, các bên áp dụng hệ thống định giá hải quan trên cơ sở giá giao dịch của hàng nhập khẩu để tính thuế hoặc của hàng hoá tương tự, chứ không dựa vào giá trị của hàng hoá theo nước xuất xứ, hoặc giá trị được xác định một cách võ đoán, không có cơ sở. Giá trị giao dịch ở đây là thực tế đã thanh toán hoặc phải thanh toán cho hàng hoá kkhi được xuâts khẩu sang nước nhập khẩu. Quyền tự vệ trong kinh doanh: Đây là một công cụ quan trọng để bảo vệ thị trường trong nước.Trong trường hợp hàng hoấ nước ngoài ồ ạt và thị trường,giảm giá, bán phá giá hanngf hoá lầm suy sụp nền kinh tế thì mỗi bên có thể đưa ra các biện pháp để tự vệ. 3. Triển vọng quan hệ thương mại hàng hoá Việt-Mỹ sau khi ký kết Hiệp định thương mại Việt - Mỹ A. Nhu cầu của thị trường Mỹ. Là một cường quốc về kinh tế với số dân trên 271,8 triệu người, Mỹ là một thị trường khổng lồ và đầy tiềm năng. Chính sách thương mại của Mỹ rất rộng mở, chỉ trừ một số ít mặt hàng có hạn ngạch, còn lại các công ty của Mỹ đều được quyền xuất nhập khẩu trực tiếp các mặt hàng. Chính vì vậy, họ luôn tìm kiếm những cơ hội kinh doanh mới nhằm mở rộng hợp tác kinh tế-thương mại với các quốc gia trên thế giới. Việt Nam, một đất nước có số dân gần 80 triệu người với nguồn lao động rẻ và dồi dào được họ xem như một địa chỉ dừng chân đáng tin cậy. Xu thế nhập siêu hàng năm của Mỹ ngày càng lớn, chủ yếu là do sự tăng trưởng kinh tế đều qua các năm và sự thay đổi cơ cấu kinh tế của Mỹ. Có thể thấy Mỹ là một thị trường có dung lượng lớn và đa dạng. Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Mỹ gồm máy móc, thiết bị, các mặt hàng công nghiệp, thiết bị vận tải các loại, hoá chất, nông sản và các hàng hoá khác. Trong cơ cấu hàng nhập khẩu của Mỹ, hàng tiêu dùng chiếm một vị trí quan trọng, khoảng 20% tổng kim ngạch nhập khẩu. Theo dự báo chiến lược của Mỹ, nền kinh tế Mỹ sẽ còn phát triển mạnh trong những năm đầu của thế kỷ XXI. Tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm khoảng 3%-4% và xuất nhập khẩu khoảng 5%-10%. Như vậy, Mỹ là một thị trường lý tưởng cho tất cả các nước trên thế giới, từ các nước phát triển như Châu âu, Nhật Bản đến các nước đang phát triển như ấn Độ, Trung Quốc và các nước nghèo như Campuchia, Banglades đều có thể xuất khẩu hàng vào Mỹ. Theo báo cáo của thương vụ Việt Nam tại Mỹ, hiện Việt Nam đang đứng hàng thứ 76 về tổng kim ngạch buôn bán với Mỹ và đứng thứ 71 trong tổng số 229 nước xuất khẩu vào Mỹ. Tuy nhiên, tỷ trọng hàng hoá Việt Nam mới chỉ chiếm 0,05% tổng giá trị nhập khẩu của Mỹ, một con số còn rất khiêm tốn. Chất lượng hàng hoá xuất khẩu vào Mỹ cũng rất linh hoạt, không quá khắt khe như ở Châu âu hay Nhật BảnTuy nhiên, hàng hoá chất lượng cao của các nước này cũng có thể bày bán ở các cửa hàng đắt tiền và trung bình. Đây thực sự là một thuận lợi cho hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam, đặc biệt là khi Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ vừa được ký kết và sắp tới sẽ được phê chuẩn. B. Dự báo khả năng xuất nhập khẩu của Việt Nam sang thị trường Mỹ trong tương lai. B.1. Triển vọng xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ. Thị trường Mỹ là đích đến của hàng hoá tất cả các nước trên thế giới. Nhiều nước trên thế giới đã tích cực khai thác thị trường này một cách có hiệu quả. Theo dự đoán của các chuyên gia nghiên cứu về thương mại, đến hết năm 2000, tổng kim ngạch Việt-Mỹ có thể lên tới 2 tỷ USD (tăng hơn hai lần năm 1999) trong đó Việt Nam xuất khẩu 1,2 tỷ USD và nhập khẩu 0,8 tỷ USD. Trong những năm tiếp theo, buôn bán giữa Việt Nam và Mỹ sẽ tiếp tục tăng trưởng cao, đặc biệt là Việt Nam có thể phát huy được thế mạnh của mình trong việc xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực, tận dụng những lợi thế do hiệp định Việt-Mỹ đem lạ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docR0148.doc