Quan hệ văn hóa Pháp - Việt trong lĩnh vực giáo dục ở Nam Kỳ (1867 - 1945)

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH TRƯƠNG THỊ MỸ NHI QUAN HỆ VĂN HÓA PHÁP – VIỆT TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC Ở NAM KỲ ( 1867 – 1945) Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam Mã số: 60 22 54 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. TRẦN THỊ THANH THANH Thành phố Hồ Chí Minh - 2010 MỤC LỤC 1TMỤC LỤC1T ........................................................................................................................................... 2 1TMỞ Đ

pdf98 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1886 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Quan hệ văn hóa Pháp - Việt trong lĩnh vực giáo dục ở Nam Kỳ (1867 - 1945), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ẦU1T .............................................................................................................................................. 4 1T ) Mục đích nghiên cứu1T................................................................................................................................. 4 1T2) Đối tượng và phạm vi nghiên cứu1T ............................................................................................................. 4 1T3)Lịch sử nghiên cứu vấn đề1T ......................................................................................................................... 4 1T4) Phương pháp nghiên cứu1T ........................................................................................................................... 6 1TCHƯƠNG 1: NAM KỲ TRƯỚC SỰ XÂM LƯỢC CỦA THỰC DÂN PHÁP1T ................................ 7 1T .1. Những con đường tiếp xúc văn hóa với Pháp và phương Tây1T.................................................................. 7 1T .1.1. Con đường truyền giáo1T .................................................................................................................... 7 1T .1.1.1. Các cuộc phát kiến địa lí – tiền đề cho công cuộc truyền giáo1T .................................................. 7 1T .1.1.2 Cuộc truyền bá đạo Thiên Chúa vào Việt Nam1T ...................................................................... 10 1T .1.2.Con đường buôn bán1T ...................................................................................................................... 21 1T .2. Thực dân Pháp đánh chiếm Nam Kỳ1T ..................................................................................................... 24 1T .3. Nội dung văn hóa trong chính sách đô hộ của Pháp đối với Nam Kỳ1T .................................................... 29 1T .3.1 Giai đoạn 1867-18971T ...................................................................................................................... 29 1T .3.2 Giai đoạn 1897 – 19141T ................................................................................................................... 31 1T .3.3 Giai đoạn 1914-19181T ...................................................................................................................... 33 1T .3.4 Giai đoạn 1918-19391T ...................................................................................................................... 34 1T .3.5 Giai đoạn 1939-19451T ...................................................................................................................... 36 1TCHƯƠNG 2: QUAN HỆ VIỆT-PHÁP TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC Ở NAM KỲ ( 1867 – 1945)1T ................................................................................................................................................... 38 1T2.1. Yếu tố văn hóa tác động đến nền giáo dục1T ............................................................................................ 38 1T2.1.1 Đạo Thiên Chúa1T ............................................................................................................................. 38 1T2.1.2 Chữ quốc ngữ1T ................................................................................................................................ 40 1T2.1.3 Văn học1T ......................................................................................................................................... 42 1T2.1.4 Báo chí1T .......................................................................................................................................... 44 1T2.1.5 Nội dung giáo dục trong các trào lưu canh tân, cải cách1T ................................................................. 50 1T2.1.5.1 Các cuộc canh tân cuối thế kỷ XIX1T ......................................................................................... 50 1T2.1.5.2 Các cuộc canh tân ở đầu thế kỷ XX1T ........................................................................................ 54 1T2.2. Quan hệ Việt – Pháp trong lĩnh vực giáo dục ở Nam Kỳ1T ....................................................................... 59 1T2.2.1 Giáo dục Nho học ở Nam Kỳ1T ......................................................................................................... 59 1T2.2.2 Tác động của giáo dục Nho học đến mọi lĩnh vực xã hội ở Nam Kỳ1T ............................................... 62 1T2.2.3 Các yếu tố Pháp và Việt trong lĩnh vực giáo dục1T ............................................................................ 65 1T2.2.4 Chính sách giáo dục và hệ thống giáo dục của Pháp tại Nam Kỳ1T .................................................... 67 1T2.2.4.1 Từ 1867 – 18971T ...................................................................................................................... 67 1T2.2.4.2 Từ 1897 đến 19181T ................................................................................................................... 73 1T2.2.4.3 Từ 1918 - 19451T ....................................................................................................................... 75 1T2.2.5 Ảnh hưởng văn hóa Pháp đến văn hóa Việt trong lĩnh vực giáo dục1T .............................................. 78 1T2.2.6. Vai trò của chính quyền thực dân trong nền giáo dục ở Nam Kỳ1T ................................................... 81 1TKẾT LUẬN1T ........................................................................................................................................ 89 1T ÀI LIỆU THAM KHẢO1T ................................................................................................................. 90 1TPHỤ LỤC1T........................................................................................................................................... 94 MỞ ĐẦU 1) Mục đích nghiên cứu Đất nước ta bước vào thế kỷ XXI trong bối cảnh một thế giới văn minh và xu hướng toàn cầu hóa (globalisation). Các quốc gia có xu hướng hòa nhập vào một cộng đồng, “một nền kinh tế toàn cầu không biên giới”. Những thành tựu về khoa học kỹ thuật, sự phát triển của kinh tế thế giới làm tăng cường sự liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia, các dân tộc. Những tiến bộ của trao đổi quốc tế, sự bùng nổ thông tin cùng với những ưu việt của hệ thống truyền thông sẽ tạo điều kiện cho tính toàn cầu của nền văn hóa nhân loại. Xu thế đó đặt mỗi quốc gia trước yêu cầu phải kết hợp hài hòa yếu tố toàn cầu của văn hóa thế giới với yếu tố bản sắc của văn hóa dân tộc. Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa thế giới (UNESCO) đã ra tuyên bố toàn cầu về đa dạng văn hóa vào tháng 11 năm 2001 và lấy ngày 21 tháng 5 hằng năm là “Ngày đa dạng văn hóa vì đối thoại và phát triển”. Nghị quyết năm 1998 của UNESCO lấy năm 2001 là năm đối thoại giữa các nền văn minh. Sự giao lưu văn hóa giữa các quốc gia, dân tộc là một vấn đề thuộc lịch sử của tất cả các nước trên thế giới. Trong nhiều nội dung của lịch sử Việt Nam, đề tài “Quan hệ văn hóa Việt - Pháp trong lĩnh vực giáo dục ở Nam Kỳ (1867-1945)” là một vấn đề có ý nghĩa khoa học, thực tiễn và thời sự trong bối cảnh Việt Nam hội nhập với thế giới. Việc nghiên cứu đề tài này còn góp phần hệ thống hóa, bổ sung, nâng cao nhận thức về lịch sử Việt Nam nói chung và lịch sử vùng đất Nam Kỳ thời Cận đại nói riêng, góp phần phục vụ cho công tác giáo dục và đào tạo. 2) Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Như tên đề tài đã chỉ rõ, đối tượng nghiên cứu và phạm vi về nội dung, không gian, thời gian của đề tài nghiên cứu là: Quan hệ văn hóa Việt - Pháp trong lĩnh vực giáo dục ở Nam Kỳ từ khi Nam Kỳ trở thành thuộc địa của thực dân Pháp (1867) đến khi Cách mạng tháng Tám thành công (1945). 3)Lịch sử nghiên cứu vấn đề Trước đây những công trình của các nhà hoạt động chính trị và các nhà hoạt động nghiên cứu khoa học – xã hội tiến bộ chỉ tập trung vào đối tượng là những người da trắng đi khai thác thuộc địa và tội ác dã man của họ, gần đây có một khuynh hướng nghiên cứu mới lấy đối tượng là những người da màu, những người dân tộc thuộc địa qua ứng xử với nền văn hóa đô hộ đã tiếp biến văn hóa phương Tây để tạo ra những giá trị mới có nghĩa là không đặt trọng tâm vào tác động phá hoại và dã man của chế độ thực dân nhưng chắc chắn vấn đề không phải đặt ra theo kiểu ca ngợi “sứ mệnh truyền bá văn minh” hay “gánh nặng nhiệm vụ của người da trắng đối với da màu”, các công trình nghiên cứu nhằm phát hiện về mặt văn hóa, những phản ứng đa dạng và phức tạp của dân tộc bị trị đối với nền văn hóa của kẻ đi chinh phục như David Marr, Pierre, Brocheux, Daniel Hémery, Trịnh Văn Thảo, Nguyễn Văn Ký,…(thời Pháp thuộc) hay tác phẩm của giáo sư Heinz Schuette “Nguồn gốc dao và rìu”. Bài viết của Lương Thị Thoa đăng trên tạp chí nghiên cứu lịch sử số 4/1998 cũng đã nêu lên một vài ý kiến về giao lưu văn hóa Đông – Tây trong tình hình hiện nay hay Sakurai Kiyohiko trong bài viết ở tạp chí “Xưa và Nay” số 71B, 1/2000 cũng đã nêu vấn đề về giao lưu văn hóa Đông – Tây qua con đường tơ lụa trên biển,… Tác phẩm “Những sự gặp gỡ của Đông phương và Tây phương trong ngôn ngữ và văn chương” của Vũ Bội Liêu (một liệt sĩ hy sinh vào đầu kháng chiến chống Pháp) sách in lần đầu năm 1944 và mới vừa được tái bản và trong tác phẩm Vũ Bội Liêu cũng đã rất thích thú về sự gặp gỡ văn chương Việt – Pháp, trong mỹ từ Pháp, sự đối ngẫu của người Pháp và văn biền ngẫu của ta. Tác giả cũng đưa ra nhiều ví dụ so sánh giống nhau như “nhanh như chớp”, “nói như vẹt”, “ngọt như mật”,…Tác phẩm của ông cũng là một minh chứng cho sự gặp gỡ giữa văn hóa Đông – Tây. Đã có nhiều bài viết của các học giả liên quan đền nội dung về giáo dục Việt từ khi Pháp xâm lược đến sau cách mạng tháng Tám như “ Chính sách giáo dục của Pháp ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Trọng Hoàng, khởi đăng trên tạp chí nghiên cứu lịch sử số 96 năm 1967 và “ Vài nét về giáo dục Việt Nam từ khi Pháp xâm lược đến cuối chiến tranh thế giới lần thứ nhất” của Ngyễn Anh, đăng trên tạp chí nghiên cứu lịch sử số 98 ( tháng 5 – 1967) đã nêu một cách khái quát những bước đi của thực dân Pháp trong lĩng vực giáo dục ở Việt Nam từ những ngày đầu cho đến khi Pháp bỏ hẳn nền giáo dục cũ với chế độ khoa cử của nó và thay thế bằng nền giáo dục thực dân. Tác giả Nguyễn Q. Thắng với tác phẩm “Khoa cử và giáo dục ở Việt Nam” đề cập đến hệ thống giáo dục Việt Nam từ thời phong kiến sang đến thời Pháp thuộc và khi Việt Nam được độc lập. “Lịch sử giáo dục Việt Nam trước cách mạng tháng Tám năm 1945” Nguyễn Đăng Tiến chủ biên là công trình nghiên cứu giá trị, khái quát toàn bộ nền giáo dục Việt Nam từ cách mạng tháng Tám trở về trước. “Giáo dục Việt Nam thời Cận đại của Phan Trọng Báu” nghiên cứu hai hệ thống giáo dục chính: nền giáo dục của Pháp trên đất nước ta và dòng giáo dục yêu nước và cách mạng do những nhà yêu nước tổ chức. Tiếp theo những bài trên diễn đàn văn hóa thế giới và một số nghiên cứu riêng biệt về ảnh hưởng của văn hóa Pháp lên văn hóa Việt, nội dung của luận văn này cũng muốn góp phần tìm hiểu thêm quá trình quan hệ văn hóa Việt - Pháp trong lĩnh vực giáo dục ở Nam Kỳ (1867- 1945) để thấy sự đa dạng trong văn hóa Việt Nam và thế giới vì trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay sự đa dạng hóa về văn hóa là chìa khóa cho sự hòa bình. 4) Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình làm đề tài, tôi đã sử dụng những phương pháp sau: - Phương pháp tiếp cận hệ thống: trong hoàn cảnh nước ta bị thực dân Pháp đô hộ, trong sự giao lưu với văn hóa Pháp, văn hóa Việt nói chung và văn hóa Việt ở Nam Kỳ nói riêng trong lĩnh vực giáo dục là quá trình vừa đối đầu, đề kháng vừa tiếp thu, tiếp biến, vừa mang tính áp đặt - “Tây hóa”, vừa mang tính chọn lọc - “Việt hóa”… Lĩnh vực giáo dục được đặt trong hệ thống các yếu tố văn hóa được tiếp thu từ phía văn minh phương Tây nói chung và Pháp nói riêng. - Phương pháp lịch sử và phương pháp logic: Nghiên cứu vấn đề theo nội dung lịch sử và trình tự thời gian, nêu những nhận định khái quát về bản chất của các sự kiện lịch sử. CHƯƠNG 1: NAM KỲ TRƯỚC SỰ XÂM LƯỢC CỦA THỰC DÂN PHÁP 1.1. Những con đường tiếp xúc văn hóa với Pháp và phương Tây 1.1.1. Con đường truyền giáo 1.1.1.1. Các cuộc phát kiến địa lí – tiền đề cho công cuộc truyền giáo Ở Tây Âu từ thế kỷ XV, trong lòng nền phong kiến suy yếu đã manh nha kinh tế tư bản chủ nghĩa. Nền kinh tế manh nha ấy đang đòi hỏi phải có sự tích lũy tư bản nguyên thủy. Sự tước đoạt tư liệu sản xuất tại chỗ cũng như lợi nhuận thương mại trong vùng chỉ đáp ứng một cách chậm trể nhu cầu trên. Thương nhân phương Tây muốn vươn đến những vùng đất mới hơn giàu tài nguyên, hàng hóa quí hiếm để đưa đến lợi nhuận cao và nhanh nhằm xúc tiến sự định hình của tư bản chủ nghĩa và nâng cao địa vị chính trị của giai cấp tư sản. Đúng thời điểm này các nước sớm phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa ở Tây Âu, đặc biệt là Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha có công nghệ đóng tàu và kỹ thuật hàng hải đã có những tiến bộ lớn. Những tiến bộ trong kỹ thuật hàng hải cho phép các nhà thám hiểm tổ chức những chuyến đi xa nhằm đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế mới. Đó là các cuộc thám hiểm của Bồ Đào Nha như thám hiểm của Vax – co đơ Ga - ma năm 1497, của Tây Ban Nha như cuộc thám hiểm của C. Cô – lôm - bô vào các năm 1492,1493,1498,1502…Những cuộc thám hiểm trên đã khẳng định sự tồn tại của tân lục địa “ America” và phát hiện nhiều con đường khác nhau để đi tới tân lục địa đó, cũng như các con đường ngắn nhất để đi đến vùng Viễn Đông xa xôi. Cuộc phát kiến đó đã thúc đẩy các nhà chinh phục, các thương nhân đi tìm thị trường mới béo bở và trong các cuộc thám hiểm và chạy đua xâm lược thuộc địa đó còn có mặt thường xuyên và đông đảo của các giáo sĩ của nhiều dòng tu lớn của các nước phương Tây được phái đi theo để thực hiện sứ mạng truyền bá đạo Thiên Chúa khiến cho Đạo thiên Chúa cùng với sự hình thành hệ thống thuộc địa của Phương Tây đã có mặt ở những mức độ khác nhau ở hầu khắp hệ thống thuộc địa nói trên. Như vậy những phát kiến địa lí đã tạo điều kiện cho việc truyền bá đạo Thiên Chúa ra bên ngoài. Về động cơ của việc mở rộng việc truyền bá đạo Thiên Chúa ra bên ngoài thì phần lớn các nhà Thiên chúa cho rằng chỉ có một động cơ tôn giáo và coi đó như một sự tiếp nối tự nhiên của sứ mạng truyền giáo của đạo Thiên Chúa từ khi nó mới ra đời. Còn nếu một lúc nào đó, ở nơi nào đó chịu sự tác động của động cơ ngoài tôn giáo thì đó cũng là những trường hợp bất thường và nhất thời mà thôi. Không ai phủ nhận động cơ nói trên , mỗi tôn giáo sau khi định hình phải truyền bá tôn giáo khi có cơ hội và điều kiện. Đó cũng là lý do khiến tôn giáo tồn tại và phát triển. Sự mở rộng truyền bá đạo Thiên Chúa ra phạm vi toàn thế giới từ những phát kiến địa lý cũng nằm trong thông lệ đó. Cuộc truyền giáo từ phát kiến địa lý ( thế kỷ XV đến thế kỷ XIX) nằm trong bối cảnh tư bản đã thắng thế ở Tây Âu, giai cấp tư sản ngày càng lớn mạnh, đóng vai trò quyết định trên chính trường. Quyền lực chính trị và kinh tế của Giáo hội Thiên Chúa giáo La Mã bị hạn chế nhưng giai cấp tư sản không thể thủ tiêu giáo hội nhưng không thể vì chính quyền của tư sản vẫn cần có sự quy phục của nhân dân ở chính quốc cũng như các thuộc địa và Thiên Chúa giáo là công cụ tích cực để duy trì sự quy phục đó.Vì lý do đó mà chính quyền mới đã thỏa hiệp với Giáo hội. Không những vẫn để cho giáo hội tự do hành đạo ở chính quốc mà còn tài trợ cho các tổ chức truyền giáo ra bên ngoài. Theo ý kiến của nhiều giáo sĩ thừa sai thì tôn giáo cùng ngôn ngữ ( sự thay thế ngôn ngữ bản địa bằng ngôn ngữ chính quốc) là phương thức hữu hiệu nhất để đồng hóa và biến những vùng đất này trở thành những vùng đất vĩnh viễn của chính quốc. Đó cũng là lý do vì sao các cuộc thám hiểm, xâm lược thuộc địa cũng như cuộc thực dân ở vùng đất bên ngoài bao giờ cũng gắn liền mật thiết với việc truyền bá đạo Thiên Chúa. Thêm nữa từ phát kiến địa lý, giáo hội Thiên Chúa mà cơ quan đầu não là tòa thánh La Mã thấy được tiềm năng của việc mở rộng nước Chúa. Nếu những vùng đất này được Thiên Chúa giáo hóa, các vua chúa ở đây được cải giáo và phục tùng tòa thánh La Mã thì đó sẽ là hậu thuẫn vô cùng to lớn cho địa vị của giáo hội Thiên Chúa, có tác dụng như một đối trọng trước sức ép ngày càng lớn của giai cấp tư sản phương Tây. Song cuộc truyền giáo ra nước ngoài lại chỉ có thể được thực hiện với sự hỗ trợ vật chất của các quốc gia có nền kinh tế phát triển như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha ở thế kỷ XV, XVI đầu thế kỷ XVII và sau đó là Pháp ở giữa thế kỷ XVII. Các quốc gia này đã chủ động đứng ra tổ chức và tài trợ cho các đoàn truyền giáo, chuyên chở các giáo sĩ thừa sai đến những vùng đất xa xôi để truyền đạo, nuôi dưỡng, bảo vệ họ, cung cấp cho họ tiền bạc, những tặng phẩm quý để lấy lòng các vua bản địa. Để đáp lại, các giáo sĩ thừa sai, dù muốn hay không vẫn phải làm một số việc cho quốc gia đã cử họ đi và tài trợ cho họ như làm môi giới buôn bán cho thương nhân nước đó với bản địa, cung cấp thông tin cho nhà chức trách về miền đất truyền đạo qua thư từ, báo cáo hoặc các tập du ký, hồi ký, tạo ra trong giáo dân lòng biết ơn và cảm tình đối với quốc gia đã cử họ tới và trong nhiều trường hợp trong đó có Việt Nam tạo cớ cho cuộc xâm lược vũ trang. Như vậy cuộc truyền đạo Thiên Chúa ngoài động cơ thiêng liêng là truyền giảng Phúc Âm còn có những động cơ xuất phát từ lợi ích của tòa thánh La Mã muốn củng cố thế lực của mình và lợi ích của các quốc gia đã tổ chức cho cuộc truyền giáo này. Việc mở rộng truyền giáo ra phạm vi thế giới từ phát kiến địa lí đã ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng thực dân chủ nghĩa tư bản vừa mới hình thành ở phương Tây, đó là tư tưởng của giai cấp tư sản tự cho mình có nhiệm vụ khai hóa văn minh. Mặc dù Giáo hội Thiên Chúa giáo La Mã đã nhắc nhở các giáo sĩ thừa sai tôn trọng các nền văn hóa bản địa và phong tục địa phương, thực hiện phương thức truyền đạo mềm dẻo, kiên trì , không dính đến chính trị nhằm tránh sự chống trả của dân bản địa và chính quyền nhưng lời nhắc nhở không có hiệu quả vì cuộc truyền giáo đã không tránh khỏi sự chi phối của yếu tố lịch sử và thời đại. Thiên chúa giáo ngay khi trở thành quốc giáo trong Đế quốc La Mã đã mang nặng tính tự cao được thể hiện ở thái độ miệt thị đối với các niềm tin của tôn giáo khác và coi đó là mê tín. Ở Châu Mỹ và châu Phi dân bản xứ khi được cải giáo bắt buộc phải đoạn tuyệt với tất cả hệ thống tôn giáo tín ngưỡng truyền thống, thậm chí cả nếp sống văn hóa cổ truyền, khiến họ trở nên xa lạ với cộng đồng đã sinh ra họ. Ở Châu Á thì cuộc “ xâm lược văn hóa” gặp nhiều khó khăn hơn. Phần lớn các quốc gia ở đây là các quốc gia phong kiến đã định hình từ nhiều thế kỷ với những thể chế kinh tế, chính trị cùng với đời sống văn hóa tinh thần tương đối ổn định. Để có thể xâm nhập vào các quốc gia này các giáo sĩ dòng Jésuites của Bồ Đào Nha có lúc chủ trương mềm dẻo, chấp nhận một số lễ tục như cho phép một số người cải giáo quỳ lại trước bàn thờ tổ tiên…nhưng chủ trương này bị giáo hội Thiên Chúa giáo La Mã phản đối. Phương thức truyền giáo phổ biến là là các giáo sĩ thừa sai dùng nguồn vật chất để quyến rũ người bản xứ chủ yếu là dân nghèo theo đạo gây cho họ niềm hi vọng sẽ đổi đời khi theo tôn giáo một quốc gia giàu mạnh phương Tây. Cùng lúc dùng lễ vật lấy lòng vua chúa để được tự do truyền đạo, thậm chí cải giáo các vua chúa với hi vọng các vua chúa sau khi cải giáo sẽ đưa Thiên Chúa giáo lên địa vị độc tôn. Khi chính quyền các quốc gia này cản trở cuộc “ xâm lược văn hóa” thì các giáo sĩ sẽ nắm lấy cơ hội đó nêu ra vấn đề bảo vệ giáo dân cũng như bảo vệ sự an toàn của công dân các nước phương Tây thành cái cớ cho cuộc xâm lược. Như vậy việc mở rộng truyền bá Thiên Chúa giáo ra phạm vi thế giới từ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX đã có sự gắn kết chặt chẽ với sự bành trướng của chủ nghĩa thực dân phương Tây, thể hiện ở động cơ của nó và vai trò của nó trong sự hợp thức hóa chủ nghĩa thực dân và có phần đóng góp quan trọng vào sự bành trướng thực dân này. Sự truyền đạo Thiên Chúa giáo vào Việt Nam nằm trong một bộ phận truyền bá đạo Thiên Chúa ra phạm vi thế giới cũng phải tuân thủ quy luật lịch sử, thời đại đã chi phối cuộc truyền giáo đó. 1.1.1.2 Cuộc truyền bá đạo Thiên Chúa vào Việt Nam 1.1.2.1 Thời kỳ của các giáo sĩ dòng Tên ( Jésuites ) Từ thế kỷ XV nhất là thế kỷ XVI, vùng Viễn Đông là nơi lui tới của nhiều nhà thám hiểm, thương nhân và các giáo sĩ phương Tây để buôn bán, truyền đạo và qua đó chiếm đất đai vùng này làm thuộc địa. Ấn Độ rơi vào vòng kiểm soát của Anh, Philippin thành thuộc địa của Tây Ban Nha, Inđônêxia bị Hà Lan chiếm….Bồ Đào Nha lúc này suy yếu chỉ chiếm được một vài thương điếm quan trọng nhất là Goa ( Ấn Độ) và Ma Cao. Cùng lúc Nhật bản và Trung Quốc là hai quốc gia mà các nước phương Tây đặc biệt quan tâm và tìm cách xâm nhập. Song song với quá trình bành trướng nói trên là sự mở rộng việc truyền bá đạo Thiên Chúa vào các vùng đất này. Các giáo sĩ Bồ Đào Nha chủ yếu thuộc dòng Jésuites đã thâm nhập Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản mà Goa, Ma Cao là nơi đặt bộ phận điều hành. Việt Nam tuy nằm trong vùng Viễn Đông nhưng ít được chú ý đến thỉnh thoảng các giáo sĩ Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha có dừng chân giảng đạo nhưng chưa đạt kết quả gì đáng kể. Từ năm 1615 trở đi khi trung tâm truyền giáo của Bồ Đào Nha cử hai giáo sĩ Francois Bujomi và Diego Carvalho sang Hải Phố, thuộc Quảng Nam ( Đàng Trong), việc truyền bá đạo Thiên Chúa mới thực sự bắt đầu. Vào thời điểm nói trên nhiều giáo sĩ Jésuites truyền giáo ở Nhật Bản đang phải dừng chân ở Ma Cao vì ở Nhật đang có sự cấm đạo rất gắt gao. Trong khi đó Hải Phố nơi buôn bán sấm uất ở Đàng Trong với nước` ngoài có mặt nhiều thương nhân Nhật Bản có đạo và cùng với họ là nhiều giáo dân Nhật Bản đến cư trú để tránh bắt đạo trong nước. Họ đang cần sự có mặt của các giáo sĩ thừa sai để duy trì đời sống đạo của mình, hai giáo sĩ trên thuộc biên chế các thừa sai đi Nhật Bản, được cử sang Hải Phố trước hết để đáp ứng yêu cầu này sau đó là có nhiệm vụ khai thác các cơ hội thuận lợi để tiến hành cuộc truyền giáo ở đây. Ngay sau khi đến hai giáo sĩ đã làm một Thánh lễ với một số giáo dân Nhật Bản. Một năm sau họ cải giáo được 300 người Việt các vùng xung quanh. Tiếp đó Ma Cao lại cử hai giáo Francois Barreto và Francois de Pina sang tăng viện và mở rộng địa bàn truyền giáo. Họ rất được quan trấn thủ Bình Định tại Qui Nhơn quan tâm nên các giáo sĩ đi lại truyền giáo được dễ dàng. Số giáo dân cứ tăng dần. Trước sự thuận lợi đó, 1624 Ma Cao gửi tiếp sang Đàng Trong thêm 6 giáo sĩ do Gabriel de Mattos đứng đầu, trong đó có giáo sĩ Alexandre de Rhodes, người có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc xây dựng nền móng cho giáo hội Thiên Chúa giáo La Mã ở Việt Nam trong nữa đầu thế kỷ XVII. A. de Rhodes có mặt ở Việt nam từ tháng 12 năm 1624 đến 1645P0F1P song lại có tác dụng đặc biệt trong việc mở mang việc đạo ở đây. 1 Nguyễn văn Kiệm, Sự du nhập của đạo Thiên Chúa giáo vào Việt Nam từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX, Hội khoa học lịch sử Việt Nam – Trung tâm Unesco bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc Việt Nam, trang 52 A. de Rhodes có năng khiếu đặc biệt trong việc học các thứ tiếng nước ngoài. Sau sáu tháng đến Đàng Trong đã có thể giảng đạo bằng tiếng Việt. Sau đó A. de Rhodes kế tục các giáo sĩ đến trước hoàn chỉnh dạng chữ viết tiếng Việt bằng mẫu tự La Tinh và trong thời gian ở Việt Nam A. de Rhodes đã hoàn chỉnh cuốn từ điển Việt – Bồ Đào Nha – La Tinh. A. de Rhodes cũng là giáo sĩ áp dụng thành công phương pháp tiếp cận vua chúa, qua lại bằng lễ vật quí, nhất là những người thân thích của vua chúa, quan lại để được tự do truyền đạo và lôi kéo thêm nhiều người theo đạo. Sau khi đến Hội An A. de Rhodes đã tiếp xúc với Sãi Vương và cải giáo cho một người bà con của chúa có tên thành là Maria Madeleine, Maria Madeleine đã thuyết phục những người xung quanh theo đạo và che chở cho các giáo sĩ, lại lập một nhà nguyện tại nhà của mình. Vào năm 1627, ở Đàng Ngoài A. de Rhodes cũng dùng lễ vật quí dâng Trịnh Tráng ở cửa Bạng ( Thanh Hóa) và được phép về Hà Nội giảng đạo và được chúa Trịnh cho dựng ngôi nhà lớn ở gần dinh mình để vừa làm nhà ở vừa làm nhà thờ. A. de Rhodes cải giáo cho người chị của chúa và kéo thêm 17 người trong gia đình theo đạo. Song song với truyền đạo A. de Rhodes quan tâm đến việc đào tạo tầng lớp cốt cán để hổ trợ cho mình trong việc truyền đạo và giúp duy trì đời sống cho giáo dân khi vắng thừa sai hay linh mục. Cho đến trước khi rời khỏi Việt Nam A. de Rhodes cùng với các cộng sự gây dựng nền móng đầu tiên cho giáo hội Thiên Chúa giáo ở Việt Nam. Ở Đàng Trong Thiên Chúa giáo được truyền bá rộng rãi ở các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Thuận Hóa, Quảng Bình với số giáo dân khoảng 50.000 người. Thành tích của A. de Rhodes không chỉ dừng lại đó. Khi rời Ma Cao về Châu Âu A. de Rhodes còn nhận nhiệm vụ trọng đại do các cha bề trên không phải quốc tịch Bồ Đào Nha giao cho nhiệm vụ là vận động tòa thánh La Mã chọn một nước bảo trợ mới, đủ sức phục vụ cho việc phát triển đạo đang thuận lợi ở Viễn Đông, nhất là ở Việt Nam để thay thế cho Bồ Đào Nha không còn đủ sức đảm đương. Cuộc vận động này đã dẫn đến việc Tòa thánh La mã cử các Thế diện Tông tòa người Pháp đảm đương việc điều hành truyền giáo ở Viễn Đông và sự ra đời của Hội Thừa sai Pari nhằm đào tạo các thừa sai Pháp làm nhiệm vụ truyền giáo ở vùng này. 1.1.2.2 Thời kỳ các thế diện Tông tòa Pallu, Lambert. Cuộc vận động tòa thánh Vatican tìm một quốc gia khác thay thế Bồ Đào Nha ở Viễn Đông gặp nhiều khó khăn vì bị nước này phản đối. Đến 1658 với áp lực và nhiệt tình của nước Pháp, Giáo hoàng đồng ý cho giáo sĩ Pháp sang Viễn Đông với điều kiện tự lo liệu chi phí và phương tiện đi lại. Các giáo sĩ quốc tịch Pháp là Pallu, Lambert, Cotolendi được cử làm thế diện Tông tòa ở Viễn Đông. Các giáo sĩ thuộc quốc tịch Pháp nếu hoạt động ở Viễn Đông đều phải phục tùng giám mục Pháp. Trước khi sang Viễn đông Pallu đã cùng giáo sĩ Pháp nhiệt tình với cuộc truyền giáo ở Viễn Đông, đứng ra thành lập tổ chức lấy tên là Hội thừa sai Pari lo việc đào tạo các giáo sĩ để gửi sang Viễn Đông. Hội được vua Louis XIV và các quý tộc nhiệt liệt ủng hộ cả về vật chất lẫn tinh thần, chính thức ra mắt vào ngày 27/10/1663, trụ sở đặt tại phố Bac, Paris “ Người ta khâm phục lòng nhiệt thành của các vị yếu nhân này cho việc Chúa đồng thời cũng là cho sự bành trướng thế lực Pháp” và “ nước Pháp sang Á Châu, mang theo đạo Thiên Chúa giống như người Tây Ban Nha hay người Bồ Đào Nha trước đây”P1F1 Hai sự kiện lớn trên đã đánh dấu bước ngoặt lớn của cuộc truyền bá Thiên Chúa giáo vào Việt Nam. Kể từ đây, nước Pháp nắm độc quyền truyền giáo cũng như bành trướng thế lực ở đây. Hai phương diện đó không tách rời trong nhận thức và hành động của các giáo sĩ thừa sai Pháp đến truyền giáo ở Việt Nam. Năm 1662, Pallu cùng 9 đạo sĩ lên đường sang Viễn Đông và tới Juthia thủ đô cũ của Thái Lan năm 1664. Tại đây Pallu cùng với Lambert tổ chức cuộc với các giáo sĩ thừa sai Pháp tổ chức họ thành giáo đoàn, đề ra một qui chế hoạt động nghiêm ngặt. Một chủng viện cũng được lập ở đây thu nhận chủng sinh người Việt và người Trung Hoa, Pallu cũng định ra cho các giáo sĩ Pháp phương hướng ứng xử hòa nhã đối với các giáo sĩ Bồ Đào Nha. Do có khó khăn không 1 Nguyễn văn Kiệm, Sự du nhập của đạo Thiên Chúa giáo vào Việt Nam từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX, Hội khoa học lịch sử Việt Nam – Trung tâm Unesco bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc Việt Nam, trang 57 thể ra Đàng Ngoài làm nhiệm vụ, năm 1665 Pallu ủy nhiệm cho thừa sai Deydier ra Bắc làm Cố chính điều hành việc đạo, rồi trở về Châu Âu, đến Rô -ma vận động Giáo hoàng xác định quyền hành của giám mục Pháp đối với thừa sai thuộc các quốc tịch khác. Năm 1681, Pallu cử hai giáo sĩ Lefebre và Geffrard đem lễ vật và thư đến Đàng Ngoài yêu cầu cho phép công ty Ấn Độ được phép lập thương điếm ở Bắc Kỳ cho phép được tự do truyền đạo, giáo dân được tự do theo đạo và mong mỏi nhà vua cải giáo. Trong khi Pallu lo việc truyền đạo thì ở Pháp một công ty thương mại lấy tên công ty Ấn Độ được thành lập năm 1664 với quy mô và hoạt động đúng như dự kiến của Pallu đã phác thảo trước khi đi Viễn Đông. Công ty này sau đó đã hỗ trợ đắc lực cho các giáo sĩ Pháp trong cuộc truyền giáo ở Viễn Đông nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Sau Pallu là Lambert. Tháng 6 – 1664, Lambert cử thừa sai Chevreuil sang thăm dò mang theo thư ủy nhiệm và một tiền khá lớn cùng với một thông ngôn người Nhật đến Hải Phố rồi lên huế. Nhân buổi lễ Đức Mẹ lên trời do giáo sĩ Dòng tên tổ chức, Chevreuil tuyên bố là giám mục chính thức của địa phận rồi sau đó trở lại cửa Hàn. Tại nơi này, Chevreuil bị các giáo sĩ Dòng Tên tẩy chay và làm khó dễ. Năm 1665, có lệnh cấm đạo của Hiền Vương cả các giáo sĩ Dòng Tên và Chevreuil bị trục xuất. Tháng 8 năm 1665 Chevreuil cùng với thừa sai Hainques mang theo giấy xác nhận của Lambert cử hai người làm giám mục Đàng Trong. Chevreuil bị ốm nằm ở Bà Rịa rồi sau đó về Thái Lan. Hainques cùng Brindeau ra miền Trung ra sức hoạt động truyền giáo bất chấp sự cấm đạo của chính quyền. Vào thời điểm này Hainques gửi hai thầy giảng là Trang và Bền sang Thái chịu chức linh mục và trở về cùng Hainques tham gia truyền đạo. Năm 1670 cả hai linh mục Hainqueus và Brindeau mất. Hai linh mục Trang và Bền trốn sang Thái Lan. Đàng Trong trong một thời gian dài không có linh mục. Cũng vào năm này Lambert đi kinh lý Đàng Ngoài. Trước đó vào năm 1665, Pallu cử thừa sai Deydier ra Bắc với tư cách là Cố chính. Deydier giả làm lái buôn, ẩn náu trong nhà các giáo dân và làm việc đạo rất tích cực, có hiệu quả. Deydier triệu tập._. các thầy giảng ngày ngày bồi dưỡng thêm về giáo lý. Năm 1669, Lambert cùng thừa sai Bourges và một thừa sai khác ra kinh lý Đàng Ngoài, đến Phố Hiến trốn lên đất liền gặp Deydier tiến hành một số việc quan trọng, trước hết Lambert truyền chức thêm 7 thầy cả, 20 thầy bổn, 20 thầy chịu phép cắt tóc, được coi như hàng giáo sĩ khởi đầu cho Đàng Ngoài. Ngày 14/2/1670, Lambert triệu tập Công đồng Nam Định nhằm lập lại kỹ luật địa phận. Cùng lúc Lambert lập một dòng nữ tu bản xứ lấy tên là dòng chị em mến Câu Rút sau đổi tên Dòng chị em mến Thánh giá. Chính những nữ tu của Dòng chị em mến Thánh giá trong suốt thời kỳ truyền giáo đã có những đóng góp hết sức to lớn cho việc củng cố, phát triển đạo và gây dựng uy tín với người dân. Ngoài việc ngắm nguyện, đọc kinh, tự kiểm và sám hối, các nữ tu còn hoạt động xã hội nhất là chữa bệnh cho dân, tự nguyên phục vụ trong cô nhi viện, các trại hủi do giáo hội mở. Tháng 4 năm 1670 Lambert trở về Thái sau đó cùng các thừa sai khác vào Đàng Trong để thực hiện chức vụ giám mục của mình. Sau khi đi kinh lí ở các tỉnh phía nam, Lambert lập tu viện Dòng chị em mến Thánh giá ở Quảng Ngãi rồi về Hải Phố. Ở đây Lambert kêu gọi sự hòa hợp trong giáo hội và. Tháng 2 năm 1672 Lambert về Thái Lan mang theo 12 học dinh người Việt và trở lại Đàng Trong gặp chúa Hiền Vương nhưng không gặp được vì có tang. Lambert gữi lễ vật cho chúa rồi về Hải Phố. Năm 1679 qua đời tại Thái Lan. Lambert là giám mục tiền khởi của Tòa thánh La Mã và giáo sĩ thừa sai Paris có những đóng góp cụ thể và thiết thực cho cuộc truyền bá của Thiên Chúa giáo ở Việt Nam. Bằng những hành động của mình, Lambert khẳng định quyền truyền giáo của pháp ở Việt Nam trước sự kháng cự bền bỉ của Thừa sai dòng Tên. Với hai công đồng Nam Định và Hải Phố, Lambert đã củng cố đội ngũ các thừa sai Pháp, đội ngũ các linh mục và thầy giảng bản xứ đưa cuộc truyền giáo vào nề nếp, tạo đà cho các giám mục địa phận sau đó đẩy mạnh việc phát triển đạo.Ngoài ra việc lập dòng chị em Mến Thánh giá càng tô điểm thêm công lao của Lambert trong công cuộc truyền giáo ở Việt Nam. Nhờ công lao của Pallu và Lambert, việc truyền giáo ở Việt Nam vào nề nếp và có tổ chức. Từ thế kỷ XVII – XVIII là thời kì truyền giáo của các giám mục địa phận. mặc dù bối cảnh Việt Nam thời kỳ này là chiến tranh, nội chiến và cấm đạo nhưng việc truyền giáo vẫn duy trì khi có cớ hội. Ở Đàng Trong, năm 1670 khi Lambert mất ở Thái Lan, thừa sai Mahot được cử làm giám mục địa phận Đàng Trong. Thời gian tại chức, Mahot triệu tập công đồng Hải Phố để chỉnh đốn việc đạo và bàn việc đào tạo linh mục bản xứ. Năm 1684, giám mục Mahot mất, thừa sai Joseph Duchêne thay thế nhưng cũng qua đời sau hai ngày nhậm chức. Từ 1684 đến 1691, Đàng Trong không có giám mục. Pérez thừa sai Tây Ban Nha được cử làm giám mục Đàng Trong năm 1891 nhưng không được thừa sai Pháp chấp nhận. Pérez chết năm 1727, Alexander ( Thừa sai người Ý) thay thế nhưng gặp nhiều khó khăn về tranh chấp quyền hành và bất đồng về lễ nghi tôn giáo. Trong khi các giáo sĩ Dòng Tên muốn tha cấm việc thờ cúng tổ tiên thì các giáo sĩ Thừa sai Paris kiên quyết phản đối và xung đột xảy ra. Alexander mất năm 1728, Đàng Trong lại một thời gian dài không có giám mục. Trong khi đó sự xung đột các dòng kéo dài và căng thẳng tới mức Tổng hội truyền giáo cử cha Achards de la Baume với cương vị Khâm sai Tòa thánh đến để dàn xếp. Tháng 5 năm 1739, Baume đi thẳng đến Hải Phố rồi Huế triệu tập giáo sĩ các dòng kí giấy hoàn toàn tuân thủ các quyết định của Khâm sai Tòa thánh, tiếp đó phân chia Đàng Trong làm các địa phận nhỏ và giao cho mỗi dòng cai quản một địa phận . Tuy có những rắc rối nội bộ trên nhưng giáo hội Đàng Trong may mắn được hưởng 10 năm tha cấm dưới thời chúa Ninh Vương ( 1721 – 1737) nên việc đạo vẫn tiến triển. Năm 1743 địa phận Đàng Trong có 300 nhà thờ, 70.000 bổn đạo với 29 linh mục ngoại quốc và 200 thầy giảng. Riêng ở Huế có 5 nhà thờP2F1 Năm 1743, thừa sai Lefebre được cử làm giám mục Đàng Trong. Theo lệnh Giáo hoàng, Lefebre triệu tập công đồng Huế bàn về việc thống nhất quan điểm về lễ nghi tôn giáo tồn tại dai dẳng nhưng không đi đến kết quả. Năm 1750 Võ Vương ban hành việc cấm đạo, có 26 thừa sai bị bắt rồi trục xuất. Lefebre trốn qua Cao Miên rồi mất ở đó năm 1760. Việc đạo ở Đàng Trong phó mặc trong tay 3 linh mục và các thầy giảng bản xứ. Thừa sai Piguel được cử thay thế Lefebre, nhưng không đến Đàng Trong được do chính sách cấm đạo. Đến khi Võ Vương mất, Huệ Vương lên ngôi việc cấm đạo có phần nới lỏng, Piguel mới đến Đàng Trong, đi thăm các xứ đạo sau 15 năm không có giám mục. Do sức yếu Piguel trở về Cao Miên và mất năm 1771. Trước khi mất đã chỉ định thừa sai Pigneau de Béhaine ( Bá Đa Lộc) làm phó giám mục Đàng Trong. Pigneau đến Đàng Trong từ 1767, được cử làm giám đốc chủng viện Hòn Đất. Đầu năm 1770 tình hình Hà Tiên bất ổn, Pigneau đem 1 Nguyễn văn Kiệm, Sự du nhập của đạo Thiên Chúa giáo vào Việt Nam từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX, Hội khoa học lịch sử Việt Nam – Trung tâm Unesco bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc Việt Nam, trang 67 chủng viện qua Pondicheri ( Ấn Độ). Năm 1774 được phong làm giám mục rồi trở về Hà Tiên năm 1775. Thời gian này ở Đàng Trong bùng nổ phong trào nông dân Tây Sơn, tình hình khá hỗn loạn, Pigneau đã cứu thoát hậu duệ duy nhất của chúa Nguyễn là Nguyễn Ánh và từ đó giữa Pigneau và Nguyễn Ánh có mối quan hệ khắng khít cho đến khi Pigneau từ trần 1899. Trong khoảng 20 năm đó Pigneau có vai trò đặc biệt trong việc tồn tại và trở lại ngôi vua của Nguyễn Ánh Cuộc truyền giáo trong ba thập kỷ cuối thế thế kỷ XVIII không được tiến triển nhiều vì trong thực tế với khởi nghĩa Tây Sơn Đàng Trong bị chia cắt làm hai phần: miền Nam ( Nam Kỳ sau này) và Bắc ( Trung Kỳ sau này). Từ 1775 Pigneau phong cho Labartette làm giám mục phó phụ trách miền Trung. Song việc đạo không tiến triển do ở những vùng Tây Sơn kiểm soát đều bị cấm đạo. Tuy nhiên từ 1789 trở đi khi Nguyễn Ánh chiếm lại được Gia Định thì việc đạo được khôi phục ở những vùng đất Nguyễn Ánh kiểm soát. Tính đến năm 1800, ở Đàng Trong có: 1 giám mục Thế diện Tông Tòa, 5 thừa sai, 15 linh mục bản xứ, 50.000 giáo dânP3F1 Khi chủ động cứu vớt Nguyễn Ánh vào khoảng 1777 và sau đó tích cực giúp đỡ Nguyễn Ánh, Pigneau nuôi hi vọng Nguyễn Ánh sẽ cải giáo và Thiên chúa giáo hóa Việt Nam. Nhưng điều mong đợi của Pigneau không hề xảy ra vì dù chịu ơn Pigneau nhưng Nguyễn Ánh không thích đạo Thiên chúa, không chấp nhận đạo này vì những tín ngưỡng truyền thống của dân tộc nhất là việc thờ cúng ông bà tổ tiên không được duy trì ở Thiên chúa giáo.. Trong nhiều lần tranh luận Nguyễn Ánh cũng đã bày tỏ thái độ kiên quyết của mình với Pigneau. Trong sắc lệnh về tôn giáo năm 1804 Gia Long công khai Thiên Chúa giáo là thứ dị đoan và ra lệnh “ …từ nay trong các tổng , các làng có nhà thờ của Thiên chúa giáo cấm sửa chữa hoặc xây lại những ngôi nhà thờ bị hư nát, còn cất nhà thờ mới ở những nới chưa có tuyệt nhiên cấm hẳn”. 1 Nguyễn văn Kiệm, Sự du nhập của đạo Thiên Chúa giáo vào Việt Nam từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX, Hội khoa học lịch sử Việt Nam – Trung tâm Unesco bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc Việt Nam, trang 67 Tuy nhiên trong suốt thời gian ở ngôi Gia Long không hề ra một sắc chỉ cấm đạo nào và Thiên Chúa giáo được bình yên. Tuy nhiên ở những năm này Giáo hội Pháp vừa trải qua cơn bão táp của cách mạng tư sản nên không đủ sức cung cấp cho Việt Nam những giáo sĩ thừa sai cần thiết. Năm 1812, ở phía Nam chỉ còn giám mục Labartette, cha chính địa phận Jarot và thừa sai Audemar. Vì thế trong thời gian dài ấy việc truyền đạo không phát triển mà chỉ là thời gian để Giáo hội Việt Nam củng cố và ổn định tổ chức để đối phó với những đợt cấm đạo ngày càng gay gắt từ thời Minh Mạng trở đi. Khoảng thời gian 20 năm dưới thời Minh Mạng, lực lượng truyền giáo được tăng cường. Các giám mục như Labartette mất năm 1822 rồi Taberd nhận chức giám mục 1827 ở Trung và Nam Kỳ, Havard nhận chức năm 1829, Retord được phong giám mục 1839, đều là những người có năng lực và tận tụy. Cùng thời gian này nhiều giáo sĩ thừa sai được cử đến tăng cường nhất là cho miền Trung và miền Nam. Nhưng cũng trong thời gian này giáo hội ở Việt Nam chịu nhiều tổn thất do các đợt cấm đạo của Minh Mạng. Là người có học vấn và có những đóng góp trong việc trị nước, Minh Mạng coi việc đi đến hạn chế Thiên chúa giáo cũng là cách để bình ổn trật tự xã hội và phòng ngừa sự dòm ngó của phương Tây nhất là thực dân Pháp. Ngày 12 – 02 – 1825 Minh Mạng cấm tất cả thương nhân nước ngoài để các giáo sĩ ở lại Việt Nam sau mỗi lần đến buôn bán “Phải canh chừng mọi nẻo cửa khẩu trên núi, trên đường bộ cũng như đường thủy, không cho một Tây Dương đạo trưởng nào có thể lén lút xâm nhập rồi trà trộn trong dân, rao giảng những điều tà giáo ở trong nước”. Cuối năm 1832 nhân vụ án Lê Văn Duyệt – nhân vật trước đó dám công khai lên tiếng bảo vệ một số giáo sĩ mà ông cho là đã ít nhiều có công với triều đình. Minh Mạng liền hạ lệnh bắt kế khai tất cả những người lính nào là tín đồ Thiên Chúa giáo. Kết quả có 12 ngưới bị bắt. Ngày 6 – 1 – 1833 lần đầu tiên Minh Mạng ban chiếu chỉ cấm đạo với lời lẽ rất kiên quyết: “Trẫm truyền cho tất cả những ai đã theo tà đạo, từ quan lại cho đến thứ dân, nếu còn biết sợ uy quyền của Trẫm thì phải thật lòng cải tà quy chính. Các khanh đều phải kiểm soát đạo này trong địa hạt của mình xem chúng có tuân thượng lệnh hay không và bắt chúng phải đạp lên cây thập tự. Các nhà và quán của đạo này đều phải triệt hạ hết. Sau này nếu còn ai theo đạo thì phải nghiêm trị. Trẫm muốn tiêu diệt tận gốc tà đạo. Đó là thành ý của Trẫm, thần dân phải nghe theo và thi hành”. Ngày 15-7-1834, nhân cuộc nổi dậy của Lê Văn Khôi (1832-1835) và của Nông Văn Vân ( 1833-1835), Minh Mạng đã ban hành Thập điều huấn dụ. Trong đó điều thứ bảy có nội dung phê phán rất gay gắt với Thiên Chúa giáo: “ Thứ đạo ấy quy tụ rất nhiều điều sai trái mà ta không nên làm theo, đạo ấy phi lý và vô luân hơn mọi thú đạo xấu xa khác, vì đàn ông và đàn bà chung sống như thú vật, đua nhau phạm tội ác, gieo rắc sự bất hòa, ngu muội đâm đầu vào chốn cực hình và vào chổ chết, phá hoại lời giáo huấn chân chính và gây thương tổn cho nhân bản” Ngày 25 – 01 – 1836, Minh Mạng lại ban chỉ dụ cấm đạo lần thứ hai và lần này việc cấm đạo còn có vẻ nghiêm ngặt hơn lần trước: “Trẫm cấm việc mở cửa biển cho tàu bè của bọn mọi rợ vào, trừ cửa Hàn. Hễ bắt được bọn đạo trưởng của Tây Dương theo tàu vào nước thì phải đem xử tử ngay. Hễ bắt được đạo trưởng nào của Tây Dương lén lút ở lại trong nước thì củng phải đưa đi xử tử. Xử tử luôn những kẻ đã chứa chấp bọn đạo trưởng ấy trong nhà mình. Địa phương nào có bọn đạo trưởng ẩn náo thì quan lại của địa phương ấy cũng bị xử tử vì đã không cố sức tìm hết cách để bắt” Ngày 18 – 01 – 1839, một lần nữa Minh Mạng lại ban chiếu cấm đạo. Lần này Minh Mạng ra sức đốc thúc các quan địa phương phải ráo riết thực hiện những tờ chiếu cấm đạo mà Min h Mạng đã ban hành trước đó Thời Thiệu Trị (1841-1847) thái độ chung của triều Nguyễn đối với Thiên Chúa giáo có phần dễ chịu hơn. Trong một giới hạn nhất định nào đó hiện tượng bài xích tuy vẫn tiếp tục nhưng không khí căng thẳng đã giảm bớt rất nhiều. Thời Tự Đức (1848-1883)là thời triều đình nhà Nguyễn ban hành nhiều chiếu chỉ cấm đạo nhất. Hiện tượng này cò lẽ xuất phát từ hai nguyên nhân khác nhau. Một là thực dân Pháp đã đi từ chỗ dòm ngó đến can thiệp rồi cuối cùng là nổ súng xâm lược nước ta. Giáo sĩ và cả giáo dân bị nghi ngờ là lực lượng đã cam tâm hợp tác với thực dân Pháp nên bị triều đình trấn áp. Hai là ngoài sự thiếu tỉnh táo và sâu sắc của triều đình, Tự Đức còn chịu áp lực mạnh mẽ của lối tư duy cực đoan trong một bộ phận những giáo sĩ yêu nước. Chính họ là nhưng người đã hô ban khẩu hiệu “Bình Tây sát tả” và một số chủ trương vội vã khác. Tất nhiên là còn có rất nhiều nguyên nhân khác nữa nhưng người chịu trách nhiệm cao nhất và trước hết vẫn là Tự Đức. Chiếu chỉ cấm đạo của Tự Đức ban hành khá nhiều nhưng tinh thần và mức độ cấm đạo thì cũng tương tự nhau. Từ năm 1848 đến 1861 Tự Đức đã ban hành 6 chiếu chỉ cấm đạo Với những sắc lệnh này đã làm các địa phận Thiên chúa giáo trong cả nước phải trải qua giai đoạn sóng gió và thiệt hại lớn. Sóng gió chỉ tạm yên khi triều đình Huế ký điều ước 1862, trong đó có hai khoản quy định “ Những thần dân của hai quốc gia Pháp và Tây Ban Nha được phép truyền bá đạo Thiên chúa trong vương quốc An Nam và các thần dân của vương quốc này, bất kể ai, muốn đi theo đạo Thiên chúa giáo thì đều tự do và không có sự ép buộc, nhưng cũng không ai được ép buộc mọi người đi theo đạo này nếu họ không muốn.” Từ sau điều ước 1862, thái độ của vua Tự Đức đối với Thiên Chúa giáo có phần bớt gay gắt. Một phần do thấy không đủ sức chống đối với Pháp ở Nam Kỳ, lại lo Bắc Kỳ rơi vào tay các cuộc khởi nghĩa nên Tự Đức và đa số các đình thần chủ trương hòa hoãn với Pháp để tập trung đàn áp các cuộc khởi nghĩa ở Bắc Kỳ, mặc khác dùng biện pháp thương lượng với Pháp để Pháp không mở rộng việc chiếm đóng sang các tỉnh Miền Tây Nam Kỳ. Do đó, vào dịp sinh nhật của mình ngày 4 tháng 7 năm 1862 Tự Đức ra lệnh ân xá cho các giáo dân đang bị giam cầm nhất là những người già, phụ nữ và trẻ em, trả lại cho họ nhà cửa, ruộng vườn, cho miễn thuế thân, đồng thời vẫn còn giữ lại một số điều lệnh quản thúc các giáo sĩ thừa sai. Năm 1863, Tự Đức cử phái đoàn Phan Thanh Giản sang Pháp để thương lượng chuộc lại ba tỉnh miền Đông. Được chính phủ Pháp tiếp đón hứa sẽ cử người sang thương lượng ngay tại Huế. Đại tá Aubaret được cử cầm đầu phái đoàn của Pháp. Ngày 15 tháng 7 năm 1864, hai bên đã tạm thời nhất trí một dự thảo điều ước mới thay thế cho điều ước 1862. Trong khi điều ước mới đang chờ chính phủ Pháp phê duyệt thì ở kinh thành Huế, nhân kì thi năm đó đã nổ ra cuộc phản đối kịch liệt của văn thân, sĩ tử, chống lại sự nhượng bộ của triều đình với Pháp. Sợ rằng hành động của văn thân ảnh hưởng đến cuộc điều đình, Tự Đức ra lệnh đàn áp họ và ngay sau đó ra chỉ dụ kêu gọi sự bình tĩnh của văn thân và sự hòa hợp lương giáo. Tháng 4 năm 1865, Tự Đức ra chỉ dụ chính thức cho phép các giáo sĩ được tự do truyền giáo và dân chúng được tự do theo đạo. Sự nhượng bộ của Tự Đức và triều đình đã khuyến khích cho dã tâm xâm lược của thực dân Pháp, sau khi quân đội Pháp chiếm nốt ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ, củng cố lực lượng tấn công ra Bắc, ép triều đình ký điều ước 1874, thừa nhận chủ quyền của pháp ở Nam Kỳ và công khai thừa nhận Thiên chúa giáo được truyền bá tự do và được bảo vệ. Trong thời gian này, tại giáo phận Sài Gòn do Lefebre làm gám mục và sau đó là giám mục Miche được hoàn toàn yên tĩnh và phát triển. Giáo phận mở chủng viện Sài Gòn, trại cô nhi, nhà thương Chợ Quán, mở trường dạy học ở Sài Gòn, Mỹ Tho, Vĩnh Long, phát huy thanh thế của đạo. Riêng các giáo phận ở Bắc và Trung Kỳ còn gặp khó khăn do sự chống đối của văn thân, những người chủ chiến chống lại sự nhượng bộ của triều đình và cho đến khi phong trào Cần Vương bị đàn áp hoàn toàn mới được bình an. Mặc dù trải qua rất nhiều sóng gió, cuộc truyền bá đạo Thiên chúa giáo vào Việt Nam cho đến những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX vẫn đạt được những thành tựu. Các địa phận lớn được hình thành, ở địa phận Sài Gòn ( Biên Hòa, Sài Gòn, Mỹ Tho, Vĩnh Long, Cần Thơ, Sa Đéc, Long Xuyên, một phần Châu Đốc) do Hội thừa sai Paris cai quản, tòa giám mục đặt ở Sài Gòn. Sự truyền bá đạo Thiên chúa giáo đến thế kỷ XIX đã hoàn thành cơ bản, nó đã trở thành một bộ phận của tôn giáo Việt Nam. Qua cuộc truyền đạo của Thiên chúa giáo đã chuyển tới Việt Nam nhiều thành tựu của văn minh phương Tây, là con đường giao lưu của hai nền văn minh Đông – Tây nhất là trong lĩnh vực văn hóa – giáo dục. Sẽ thiếu công bằng và khách quan nếu chúng ta phủ nhận hoặc không đề cập đến những đóng góp của cuộc truyền bá đạo Thiên chúa giáo vào Việt Nam 1.1.2.Con đường buôn bán Ngoài truyền giáo, việc buôn bán giữa Việt Nam với các nước phương Tây cũng đã mở ra con đường tiếp xúc với phương Tây từ rất sớm. Vào đầu thế kỷ XVI, nhất là sau khi Lê Hiến Tông mất, xã hội Đại Việt mất dần sự thịnh trị, kinh tế sa sút, nhân dân sống cực khổ, các thế lực phong kiến tranh chấp lẫn nhau mở đầu cho một giai đoạn mới của chế độ phong kiến Việt Nam. Năm 1572, Mạc Đăng Dung lập ra nhà Mạc mở ra thời kỳ chia cắt đất nước, tình trang Nam – Bắc triều kéo dài Đến cuối thế kỷ XVI, tiếp đó từ năm 1627 đến năm 1672 chiến tranh Trịnh – Nguyễn không phân thắng bại, cuối cùng hai bên giảng hòa lấy sông Gianh làm ranh giới, đất nước tiếp tục bị chia cắt là Đàng Ngoài và Đàng Trong cho đến cuối thế kỷ XVIII. Sự sụp đố của nhà Lê và cuộc chiến tranh giữa các thế lực phong kiến đã làm thay đổi khá nhiều tình hình kinh tế và đời sống của nhân dân. Trong khi Đại Việt bị chia cắt thì trên thế giới có nhiều biến động mới: sự phát triển của công thương nghiệp ở Tây Âu dẫn đến sự kiện “phát kiến lớn về địa lý”, thương nhân Châu Âu bắt đầu mở rộng buôn bán với các nước phương Đông. Đồng thời thương nhân các nước Đông Á như Trung Quốc, Nhật Bản,…cũng hoạt động rầm rộ. Vì vậy hình thành sự giao lưu buôn bán quốc tế giữa Đại Việt với các nước. Nhu cầu hàng hóa tăng lên. Tác động nhiều mặt của nông nghiệp cũng tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất thủ công và trao đổi buôn bán. Trong lĩnh vực thương nghiệp do nhu cầu thoát khỏi sự gò bó của nông nghiệp cũng như do sự phát triển tự thân của nó (chủ yếu là ở Đàng Trong), do điều kiện giao thông đi lại thuận tiện hơn trước, do nhu cầu của cuộc sống hằng ngày tăng lên nên sự trao đổi hàng hóa là cần thiết. Mặt khác sự hình thành của luồng giao lưu buôn bán quốc tế cũng tác động mạnh đối với Đại Việt. Thế kỷ XVI – XVIII việc buôn bán với nước ngoài phát triển rầm rộ. Bên cạnh các thương nhân Giava, Trung quốc, Xiêm quen thuộc thì có sự xuất hiện ngày càng đông đảo của thuyền buôn Nhật Bản, đặc biệt là thuyền buôn Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh, Pháp. Đông Ấn công ty Hà Lan được thiết lập ở Amsterdam vào năm 1602. Vào năm 1605, các thương gia Hà Lan đã đặt chân lên cửa khẩu quan trọng ở miền Đông Nam Á và đã lập thương quán trong quần đảo Nam Dương, trung tâm hoạt động của họ là Batavia tức là Giacacta ngày nay. Ngay từ đầu thế kỷ XVII đã có sự tiếp xúc giữa công ty Đông Ấn Hà Lan đã có sự tiếp xúc với chúa Nguyễn. Năm 1617, chúa Nguyễn có gửi thư mới các công ty ở Patani và Ligor ( Mã Lai) tới buôn bán trong các thị trường thuộc lãnh thổ Đàng Trong. Song các sự tiếp xúc đầu tiên đã không được hòa hảo, các phương pháp buôn bán gần như cướp bóc của các con buôn Hà Lan đã gây nên sự bất bình. Vì những sự xung đột đó mà mãi tới sau 1633 chúa Nguyễn mới cho phép công ty đặt thương quán tại Qui Nhơn và tự do buôn bán ở Hội An. Tuy nhiên thương quán này bị nghi ngờ của quan lại và sự cạnh tranh dữ dội bởi các nhà buôn Bồ Đào Nha và Nhật Bản. Công ty đã muốn tìm một lĩnh vực hoạt động dễ dãi hơn. Vào năm 1637, công ty được chúa Trịnh cho phép mở thương quán ở Phố Hiến, sau đó là Kẻ Chợ. Các điều kiện buôn bán thuận lợi ở Đàng Ngoài đã khiến các công ty Hà Lan tuyệt giao với chúa Nguyễn vào năm 1638. Công ty còn giúp thuyền chiến cho chúa Trịnh trong cuộc chiến tranh với chúa Nguyễn vào năm 1642. Đến 1700 công ty Đông Ấn chỉ còn buôn bán với Đàng Ngoài. Đông Ấn công ty Anh được thiết lập ở Luân Đôn vào năm 1600 và có độc quyền buôn bán ở Ấn Độ, Trung quốc và cả Viễn Đông. Trong quần đảo Nam Dương vì sự cạnh tranh quyết liệt với thương nhân Hà Lan để kiểm soát những vùng sản xuất gia vị. Công ty đặt căn cứ ngay bên cạnh Batavia. Các bước đầu của công ty Anh ở Việt Nam gặp thất bại: nhân vật được công ty phái tới Hội An là Richard Carwarden để xin chúa Nguyễn cho phép thông thương vào năm 1613 đã bị dân chúng giết chết. Vài năm sau các sự cố gắng buôn bán với Đàng Ngoài cũng bị cản trở bởi người Hà Lan và Bồ Đào Nha. Đến năm 1672, công ty Đông Ấn Anh mới được phép mở một thương quán ở Phố Hiến, 5 năm sau công ty được buôn bán ở Kẻ Chợ nhưng thương quán của công ty không được thịnh vượng lắm và các sự khó khăn buộc công ty đóng cửa thương quán này vào năm 1697. Trước đó công ty cũng tìm cách thông thương với Đàng Trong nhưng bị chúa Nguyễn từ chối. Công ty Đông Ấn Pháp tới Việt Nam chậm nhất, Người Pháp đến buôn bán với Đại Việt khá muộn. Cho đến giữa thế kỷ XVII, Viễn Đông đối với Pháp là lĩnh vực truyền bá Thiên Chúa mà thôi. Nhưng để đưa các nhà truyền đạo tới đây, Pháp không thể nhờ thuyền của Anh hay Bồ Đào Nha, còn đường bộ thì quá dài và đầy nguy hiểm. Vì thế sau khi hội Ngoại quốc truyền giáo được thiết lập vào năm 1660 mới nẩy ra ý kiến thành lập một công ty buôn bán Pháp, có mục đích trước tiên là để che chở các cố đạo tới nơi truyền đạo, sau là để buôn bán, nhưng công ty này đã chết yểu và độc quyền của nó được giao phó cho công ty Đông Ấn Pháp. Năm 1671 Đông Ấn công ty phái một thuyền buôn tới Đàng ngoài nhưng vì thiếu phương tiện, đã không muốn lập thương quán, tuy được chúa Trịnh cho phép cất nhà ở Phố Hiến và ban cho những đặc quyền giống như đặc quyền của các thương gia Hà Lan. Năm 1681, thuyền trưởng Sappolanh được chúa Trịnh cho phép lập thương điếm và buôn bán ở phố Hiến. Năm 1682 một chiếc tàu khác sang nhưng không được đón tiếp niềm nở như trước, nhân đó công ty Đông Ấn Pháp tạm đình chỉ việc buôn bán với Đàng Ngoài, chỉ để lại các giáo sĩ truyền đạo ở Đàng Trong, Năm 1740, Pháp mới chở thương nhân kiêm giáo sĩ Roavrơ đến thăm dò, Roavro đã gởi về nước một bản báo cáo khá tỉ mĩ về chính trị, kinh tế, văn hóa của Đàng Trong rồi được bộ Hải quân Pháp giao nhiệm vụ liên lạc buôn bán với Đàng Trong, xin làm một số việc, xin thuê người, mua nô lệ và mua các thứ tơ lụa, lâm sản chở đi. Nếu nhìn váo các hoạt động của các công ty Đông Ấn ở thế kỷ XVII thì chỉ có công ty Đông Ấn Hà Lan là tương đối thành công. Tới sớm hơn công ty Hà Lan đã lợi dụng được tình trạng phân tranh giữa Bắc Hà và Nam Hà. Cả chúa Trịnh và chúa Nguyễn. Qua con đường truyền giáo và buôn bán Việt Nam đã có những tiếp xúc đầu tiên với phương Tây, sự tiếp xúc này đã đặt Việt Nam trước thách thức thức rất lớn của thời đại đó là đảm bảo nền độc lập của quốc gia, bởi vì mục đích chính của cả hai con đường trên là nhằm thăm dò thị trường, tạo tiền đề cho cuộc xâm lược của thực dân Pháp ở Việt Nam sau này. 1.2. Thực dân Pháp đánh chiếm Nam Kỳ Thế kỷ XIX đã đánh dấu sự thắng lợi chủa chủ nghĩa tư bản ở Châu Âu và châu Mĩ. Ở Pháp đầu thế kỉ XIX đã tiến hành cách mạng công nghiệp sau khi cuộc chiến tranh với các nước Châu Âu kết thúc vào năm 1815. Vào khoảng thời gian từ 1850 – 1870 cách mạng công nghiêp phát triển mạnh và đưa nền kinh tế Pháp vươn lên mạnh mẽ, công nghiệp đứng hàng thứ hai trên thế giới sau nước Anh. Bộ mặt Pari và các thành phố ở Pháp thay đổi rõ rệt. Ở Đức cách mạng công nghiệp diễn ra vào những năm 40 của thế kỷ XIX. Đến giữa thế kỷ XIX tốc độ phát triển của Đức đạt mức kỷ lục. Cách mạng công nghiệp đã làm thay đổi bộ mặt các nước tư bản: nhiều trung tâm công nghiệp mới và thành thị đông dân xuất hiện. Sản xuất bằng máy đã nâng cao năng suất lao động và ngày càng xã hội hóa trình độ lao động của các nước tư bản. Trong thập niên 50 – 60 của thế kỷ XIX nhiều cuộc cách mạng tư sản đã diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau ở Châu Âu và Bắc Mỹ như thống nhất ở Đức, Italia. Cải cách nông nô ở Nga, nội chiến ở Mĩ… Điều này cũng khẳng định sự toàn thắng của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, tạo điều kiện cho chủ nghĩa tư bản phát triển mạnh mẽ. Đến khoảng 30 năm cuối thế kỷ XIX, lực lượng sản xuất ở các nước tư bản phương Tây đã đạt đến trình độ phát triển cao. Nhờ những phát minh trong lĩnh vực Vật lí, Hóa học, Sinh học…Cùng với những phát minh khoa học những sáng kiến về kỹ thuật trong thời kỳ này mở ra khả năng rộng lớn trong việc thúc đẩy sản xuất. Nhờ ứng dụng những thành tựu mới, sản xuất công nghiệp đã tăng lên nhanh chóng ở các nước tư bản. Những thành tựu khoa học – kỹ thuật cuối thế kỷ XIX đã tạo điều kiện cho chủ nghĩa thực dân cũ chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc. Việc sử dụng các nguồn năng lượng mới cùng với những tiến bộ kỹ thuật tạo ra khả năng xây dựng các ngành công nghiệp trên quy mô lớn. Để tập trung nguồn vốn lớn đủ sức cạnh tranh, các nhà tư bản thành lập các công ti độc quyền. Các công ti nhỏ bị thu hút vào công ti lớn. Nhiều tổ chức độc quyền ra đời, ngày càng lũng đoạn đời sống kinh tế ở các nước tư bản. Sự tập trung sản xuất cũng diễn ra trong lĩnh vực ngân hàng. Một vài ngân hàng lớn khống chế mọi hoạt động kinh doanh trong cả nước. Với số vốn khổng lồ, nhiều chủ ngân hàng không chỉ là người cho vay mà còn có thể tham gia vào hoạt động của các xí nghiệp, tạo nên tầng lớp tư bản tài chính. Các nhà tư bản tài chính còn đẩy mạnh việc xuất khẩu tư bản, bằng cách chuyển vốn ra đầu tư sang các nước kém phát triển hoặc thuộc địa để khai thác nguyên liệu, sử dụng nhân công giá rẻ hoặc cho vay để thu được nhiều lãi. Nhu cầu mở rộng thị trường khiến chủ nghĩa thực dân đẩy mạnh xâm lược thuộc địa. Các thuộc địa có vai trò đặc biệt đối với các nước đế quốc, là nơi đầu tư và tiêu thụ hàng hóa của chính quốc, nguồn cung cấp nguyên liệu và nhân công rẽ mạt, cung cấp binh lính cho các cuộc chiến tranh…và với sự chuẩn bị từ trước đó qua công cuộc truyền giáo và buôn bán chính quyền thực dân đã vươn tầm mắt đến các nước Châu Á, châu Phi và Mỹ La Tinh – nơi mà phương thức sản xuất phong kiến lạc hậu hơn các nước phương Tây và Việt Nam giữa thế kỷ XIX cũng nằm trong bối cảnh nhạy cảm đó. Trước khi bị thực dân Pháp xâm lược, Việt Nam là một quốc gia độc lập, có chủ quyền, đạt được một số thành tựu nhất định về kinh tế, văn hóa. Tuy nhiên, ở giai đoạn này, chế độ phong kiến đang có những biểu hiện khủng hoảng. Từ Gia Long đến Minh Mạng đều duy trì bộ máy chính quyền nhà nước quân chủ chuyên chế tuyệt đối, tập trung cao độ với một chế độ chính trị lạc hậu. Mọi quyền hành đều tập trung vào tay nhà vua, thực chất là tiếp tục thiết chế quân chủ thời Lê sơ nhưng được nâng lên mức cao hơn, Mỗi tỉnh đều có Tổng đốc, tuần phủ cai quản cùng hai ti, hoạt động theo kiểu điều hành của triều đình. Các phủ, châu, huyện xã vẫn như cũ. Chia cả nước thành nhiều tỉnh, mỗi tỉnh đều có Tổng đốc, tuần phủ cai quản cùng hai ti, hoạt động theo kiểu điều hành của triều đình. Các phủ, châu, huyện xã vẫn như cũ. Về kinh tế, đầu thế kỉ XIX, khi đất nước tạm trở lại yên bình trong thống nhất. Nền kinh tế tuy có nhiều điều kiện thuận lợi nhưng cũng gặp khômg ít khó khăn. Nông nghiệp lạc hậu, không có gì đổi mới, ruộng đất hoang hóa nhiều. Ngay từ năm 1804, nhà nước đã ban hành lại chính sách quân điền nhưng ruộng đất công chỉ còn khoảng 20 % tổng diện tích ruộng đất. Hơn nữa, theo chính sách, việc chia ruộng phải ưu tiên cho quan lại, quý tộc và binh lính. Nhà nước khuyến khích khai hoang bằng nhiều hình thức làm diện tích ruộng đất có tăng thêm nhưng không nhiều. Người nông dân ra sức tăng gia sản xuất, duy trì cuộc sống làng quê , hầu hết đều không có hoặc ít ruộng đất và chịu bóc lột nặng nề. Thủ công nghiệp cũng có khởi sắc nhưng do sự khắc khe của chế độ công tượng nên bị hạn chế nhiều. Việc buôn bán trong nước phát triển chậm chạp và mang tính địa phương. Thuyền buôn đi xa bị đánh thuế nhiều lần. Hơn nữa, hàng năm nhà nước trưng dụng một số thuyền tư nhân để chuyên chở. Nhà nước giữ độc quyền về ngoại thương. Các đô thị như Hội An, Phố Hiến, Thanh Hà đều tàn lụi. Thăng Long vẫn còn giữ các phố phường nhưng buôn bán sút kém. Với việc duy trì chế độ chuyên chế với mức độ tập trung cao, quyền lực tập trung cao độ vào tay hoàng đế cùng với duy trì quan hệ sản xuất phong kiến, chính sách bế quan tỏa cảng đã làm cho tiềm lực quốc gia bị suy yếu nghiêm trọng, giảm sức đề kháng trước sự dòm ngó của chủ nghĩa thực dân phương Tây. Tạo điều kiện cho thực dân phương Tây xâm lược nước ta, mở màng bằng chiến cuộc ở Đà Nẵng năm 1858 của thực dân Pháp. Người Phương Tây, đầu tiên là các giáo sĩ Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, đã biết đến Việt Nam từ thế kỷ XVI. Đến thế kỷ XVII, người Anh đã định chiếm đảo Côn LônP4F1P nhưng không thành. Trong cuộc chạy đua thôn tính phương Đông, tư bản Pháp đã lợi dụng việc truyền đạo Thiên Chúa để chuẩn bị tiến hành xâm lược. Trong lịch sử, đã từng có sự dính líu giữa Nguyễn Ánh và người Pháp thông qua một cố đạo người Pháp đó là giám mục Bá Đa Lộc (Pigneau de Béhaine ), Nguyễn Ánh cầu cứu các thế lực nước ngoài để khôi phục thế lực. Giám mục Bá Đa Lộc đã nắm cơ hội đó, tạo điều kiện cho tư bản Pháp vào Việt Nam. Đến thế kỷ XIX nước Pháp phát triển mạnh trên con đường tư bản chủ nghĩa, càng ráo riết tìm cách đánh chiếm Việt Nam để tranh giành ảnh hưởng với Anh ở khu vực Châu Á. Năm 1857, Napôlêông III lập ra Hội đồng Nam Kì để bàn cách can thiệp vào nước ta, tiếp đó cho sứ quán tới Huế đòi được tự do buôn bán và truyền đạo. Cùng lúc, Bộ trưởng Bộ Hải quân và Thuộc địa tăng viện cho hạm đội Pháp ở Thái Bình Dương và ra lệnh cho Phó đô đốc hải quân Pháp đành Việt Nam ngay sau khi chiếm được Quảng Châu ( Trung Quốc) Sau nhiều lần đưa quân tới khiêu khích, chiều 31/8/1858 liên quân Pháp – Tây Ban Nha với khoảng 3000 binh lính và sĩ quan, bố trí trên 14 chiến thuyền, kéo tới dàn trận trước cửa biển Đà Nẵng. Âm mưu của Pháp là đánh chiếm Đà Nẵng làm căn cứ, rồi tấn công ra Huế, nhanh chóng buộc nhà Nguyễn đầu hàng. Sáng 1/9/1858, Pháp gởi tối hậu thư, đòi Trấn thủ thành Đà Nẵng trả lời trong vòng 2 giờ. Nhưng không đợi hết hạn, liên quân Pháp – Tây Ban Nha đã nổ súng rồi đổ bộ lên bán đảo Sơn Trà. Quân dân ta đã anh dũng đánh trả quyết li._.g quê. Điều này, một mặt, tạo điều kiện gìn giữ được nền văn hóa dân gian quý báu của người Việt, nhưng mặt khác, lại kìm giữ nông thôn Việt trong mối quan hệ phong kiến tối tăm, cổ hủ, bảo lưu tình trạng bùn lầy nước đọng ở làng quê. Về giáo dục, ban đầu ở Nam Kỳ người Pháp bảo lưu chế độ giáo dục và thi cử theo Nho Giáo vì nghĩ rằng, với mục đích trị bình, Nho Giáo sẽ nhanh chóng ổn định nhanh chóng vùng đất vừa mới bình định xong. Nhưng chẳng bao lâu sau, trước nhu cầu cần viên chức hành chính, thông ngôn, thư ký cho các cơ quan, xí nghiệp, công ty..., họ đã bãi bỏ chế độ khoa cử và xây dựng hệ thống giáo dục theo kiểu phương Tây: từ tiểu học, trung học tới đại học. Ngoài ra, người Pháp còn mở một số cơ sở nghiên cứu khoa học như Viện Pasteur ỏ Sài Gòn (1891). Chữ quốc ngữ tuy xuất hiện đã lâu, nhưng chỉ tồn tại trong một phạm vi hẹp là cộng đồng Kitô giáo. Mãi đến giữa thế kỷ XIX ở Nam Kỳ và đầu XX ở Bắc Kỳ, chữ quốc ngữ mới có cơ hội phát triển tăng tốc. Điều tưởng như nghịch lý là bấy giờ người hô hào học chữ quốc ngữ lại chính là những nhà nho, những người trước đây ghét cay ghét đắng thứ chữ không phải của thánh hiền này. Có điều họ là những nhà nho duy tân, thấy quốc ngữ dễ học, dễ truyền bá tư tưởng canh tân đất nước, nên họ nhảy qua được bóng của mình, dẹp được thành kiến cố hữu của mình. Mặt khác, người Pháp cũng thấy sự tiện lợi này trong việc truyền bá tư tưởng của họ. Thế là, các trường dạy tiếng quốc ngữ bắt đầu được thành lập, và chữ quốc ngữ được dùng trong văn bản giấy tờ chính thức, được sử dụng trên báo chí ấn phẩm. Chữ quốc ngữ, vì thế, đã trở thành phổ thông, một phương tiện hữu hiệu để lưu trữ và phát triển tiếng Việt hiện đại. Chữ quốc ngữ ra đời cũng thúc đẩy sự phát triển của báo chí. Đầu tiên chỉ là những tờ công báo in bằng chữ Pháp và chữ Hán, sau đó xuất hiện các tờ bằng chữ quốc ngữ ở Nam Kỳ như Gia định báo (1865), Phan Yên báo, Nông cổ mín đàm (1901), Lục tỉnh tân văn (1907)... Rồi báo chí phát triển ở tất cả các địa phương, các ngành nghề, các giới. Trong đó những tờ báo có đóng góp lớn vào xây dựng văn hóa dân tộc như Đông Dương tạp chí, Nam Phong tạp chí, Phụ Nữ tân văn, Hữu Thanh, Thực nghiệp dân báo, Phong Hóa, Ngày Nay v.v... Sự phát triển của báo chí đã thúc đẩy sự phát triển của tiếng Việt, khiến nó trở nên hoàn thiện hơn về ngữ pháp, được bổ sung thêm những từ mới, nhất là những thuật ngữ khoa học, biến tiếng Việt thành một ngôn ngữ hiện đại vừa mềm dẻo, tinh tế để có thể diễn tả được mọi sắc thái tình cảm tinh vi của nội tâm con người, vừa đủ sáng sủa, khúc chiết để diễn đạt một cách logic những vấn đề khoa học, triết học. Tiếng Việt, nhờ thế, sau cách mạng tháng Tám đã có thể được dùng để giảng dạy ở cấp đại học. Đây là một điều hết sức kỳ lạ so với các nước ở Châu Phi sau khi dành độc lập mà vẫn phải dùng tiếng Anh hoặc tiếng Pháp để viết văn, làm thơ và dạy học. Những giá trị văn hóa phương Tây mang đến cho Việt Nam những giá trị mới như tự do bình đẳng, dân chủ…là những giá trị nhân văn thuộc về con người mà tư tưởng triết học Ánh sáng đã nêu ra. Nó giúp người Việt ý thức được giá trị cá nhân. Sự phát triển của cá nhân không đối lập mà hỗ trợ cho sự phát triển xã hội. Chính sự thức tỉnh của ý thức cá nhân đã là một trong những động lực phát triển của văn hóa – xã hội. Cuối cùng, sự phát triển của báo chí và tiếng Việt đã thúc đẩy sự phát triển của văn học nghệ thuật. Văn học nghệ thuật giai đoạn này ra đời như là kết quả của sự giao thoa văn hóa Đông và Tây, Việt Nam và Pháp. Nó đã tiến một bước dài trên con đường hiện đại hóa, thế giới hóa. Tất nhiên, đây chỉ là bước khởi đầu cho một cuộc "hành quân xa" của văn học nghệ thuật Việt Nam. Nhưng thế nào là hiện đại hóa - thế giới hóa? Nói một cách thô thiển thì thế giới hóa, hiện đại hóa là người ta có gì thì mình có nấy. Người có thiểu thuyết thì ta cũng có tiểu thuyết, người có kịch nói thì ta cũng có kịch nói, người có điện ảnh thì ta cũng có điện ảnh. Rồi thì tân nhạc, vẽ sơn dầu, sơn mài, thể thao, thời trang v.v... Tuy nhiên, một điều quan trọng khác là chất lượng thẩm mỹ. Có thể nói, văn hóa nghệ thuật giai đoạn này đạt đến một chất lượng thẩm mỹ rất cao. Nhiều tác phẩm văn học, hội họa, âm nhạc sẽ sống mãi với thời gian, nhiều tên tuổi nhà văn, nhạc sĩ, họa sĩ sẽ lưu danh trong lịch sử văn hóa nước nhà như những nhà cách tân tiên phong. Tóm lại, khi Pháp đến xây dựng một hệ thống giáo dục mới ở Nam Kỳ sau đó thành một nền giáo dục hoàn chỉnh ở khắp cả nước đã góp phần mang đến cho văn hóa Việt Nam những giá trị mới như tự do, bình đẳng, dân chủ... là những giá trị tư tưởng Ánh sáng nêu ra. Sau đó, nó giúp người Việt phát triển được ý thức cá nhân, coi cá nhân như một giá trị. Sự phát triển của cá nhân không đối lập mà hỗ trợ cho sự phát triển của xã hội. Chính sự thức tỉnh của ý thức cá nhân đã là một trong những động lực phát triển của văn hóa giai đoạn này. Cuối cùng, thông qua giáo dục, những nội dung của những giá trị văn hóa phương Tây góp phần đưa văn hóa Việt Nam chuyển từ quỹ đạo văn hóa khu vực sang quỹ đạo văn hóa thế giới. Từ đây, văn hóa Việt Nam bắt đầu tham gia vào quá trình hội nhập thế giới. 2.2.6. Vai trò của chính quyền thực dân trong nền giáo dục ở Nam Kỳ Giáo dục, hiểu theo nghĩa xã hội, là cách thức xã hội hóa con người. Giáo dục có nhiệm vụ dạy cho con người biết cách sống trong xã hội, biết nền văn hóa mà con người được sinh ra trong đó để sống cho thích hợp. Cách ăn uống, lễ phép, cách đối xử, các nghề nghiệp sinh sống, phong tục tập quán v v ... tất cả đều có trong xã hội đương thời và nhiệm vụ của giáo dục (từ giáo dục trong gia đình đến giáo dục ngoài xã hội) là tập luyện cho con người thích nghi vào trong xã hội văn hóa đó. Pháp xâm lược Việt Nam và biến Nam Kỳ thành thuộc địa đầu tiên. Mục đích của chúng ở vùng đất này là nô dịch. Nam Kỳ là thuộc địa nên thuộc quyền trực trị của Pháp, đứng đầu là viên thống đốc đóng ở Sài Gòn và muốn đô hộ một dân tộc, nhất là một dân tộc có nền văn minh lâu đời hơn nước Pháp thì chỉ có chinh phục đất đai thì chưa đủ mà cần phải chinh phục tâm hồn nữa Và trong cuộc chinh phục tâm hồn đó, giáo dục là một công cụ mạnh nhất. Thực dân Pháp cũng hiểu rõ pháp luật thì chỉ chinh phục trong thời gian ngắn, chỉ có giáo dục mới chinh phục con người mãi mãi. Trước tình hình mới của đất nước ta lúc đó, trước sự phát triển của khoa học và nền văn hóa, giáo dục tiến bộ trên thế giới thì nền giáo dục phong kiến lúc đó đã đi vào con đường lạc hậu và phản động, trở thành một trở ngại to lớn cho sự phát triển trí tuệ của dân tộc. Trước khi Pháp sang xâm lược các nho sĩ thức thời như Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch, Phạm Huy Thứ… đã nhiều lần lên tiếng phản ánh và đề nghị cải cách giáo dục nhưng các vua Nguyễn đã không nghe theo, họ vẫn duy trtì nền giáo dục cũ. Đến khi Pháp hoàn thành xâm lược Nam Kỳ, biến vùng này thành thuộc địa, tiến hành vơ vét thì nền giáo dục phong kiến đã trở nên lạc hậu không thể nào đáp ứng được nhu cầu của Pháp. Bởi vì tiếng nói và chữ viết của ta không giúp Pháp giao dịch và tìm hiểu Việt Nam để Pháp đi sâu vào công cuộc khai thác và bóc lột được. Từ năm 1868 – 1885, khi Pháp mở rộng chiến tranh ra toàn quốc, thì ở Nam Kỳ, Pháp đã đầu tư vào công thương nghiệp, khai thác một phần tài nguyên lúa gạo, nhân công dồi dào ở địa phương. Về giáo dục, Pháp đã có những thay đổi về tổ chức và nội dung giáo dục. Pháp bằng nhiều thay đổi đã cố gắng tổ chức một nền giáo dục phổ cập để truyền bá chữ quốc ngữ và chữ Pháp đồng thời xóa bỏ chữ Hán. Người Pháp đã tập trung vào hai mục tiêu cơ bản: một là đào tạo thông dịch viên và nho sĩ phục vụ cho đội quân xâm lược và bộ máy chính quyền . Từ năm 1886 – 1905 ở ba kỳ tồn tại ba chế độ giáo dục khác nhau: Nam Kỳ đa số các tổng xã đều có trường tiểu học Pháp – Việt dạy chữ Pháp và quốc ngữ, chữ Hán bị bãi bỏ hoàn toàn hoặc chỉ là môn phụ. ở Bắc và trung Kỳ thì số trương dạy chữ Pháp và quốc ngữ còn ít, riêng Trung Kỳ thì việc dạy chữ Hán vẫn còn tồn tại khắp nơi, sự khác biệt đó đã làm cho Pháp gặp khó khăn trong việc chỉ đạo. Tuy nhiên những tiền đề cho cuộc cải cách đã xuất hiện đó là chính trị dần đi vào ổn định, sự phát triển kinh tế - xã hội đòi hỏi phải có một đội ngũ công nhân và cán bộ kỹ thuật có trình độ cao hơn nên về giáo dục Pháp cũng cần có sự thể nghiệm đường lối giáo dục cao hơn sao cho phù hợp với đất nước có nền văn hóa lâu đời bước đầu tiếp xúc với nền văn minh phương Tây. Toàn quyền Paul Beau ký nghị định thành lập hội đồng nghiên cứu cải cách giáo dục và sau ba năm hoạt động, đến 1906 một nghị định công bố nội dung cải cách ra đời. Ở cuộc cải cách giáo dục lần thứ nhất 1906, có sự tồn tại song song hai nền giáo dục phong kiến và Pháp – Việt. Cuộc cải cách này tác động vào những đối tượng chính là hệ thống trường Pháp – Việt, hệ thống trường dạy chữ Hán và hệ thống trường chuyên nghiệp. Nhìn chung cuộc cải cách này có những ưu điểm nổi bật đó là sự xâm nhập mạnh mẽ của nền giáo dục Pháp – Việt vào hệ thống giáo dục phong kiến. Cải cách này mang tính chất toàn diện vì nó tác động đến cả hai hệ thống giáo dục phong kiến và Pháp – Việt. Mục đích là cố dung hòa hai nền giáo dục nhưng kết quả vẫn không như Pháp mong đợi, chất lượng giáo dục sau cải cách không đáp ứng được yêu cầu Pháp đề ra vì thực dân Pháp hy vọng sau thời gian ngắn có thể đào tạo một số công nhân kỹ thuật và viên chức giúp việc, đó là hướng của các trường Pháp – Việt, còn đối với hệ thống giáo dục phong kiến sẽ có được một tầng lớp quan lại tuy vẫn lấy cựu học làm chính nhưng đã ít nhiều có thể làm cầu nối giữa nhân dân với nước bảo hộ. tuy nhiên các trường Pháp – Việt với 14 môn dạy bằng tiếng Pháp trong tổng số 20 môn ngay từ những lớp đầu tiên của bậc tiều học đã cho thấy sự mô phỏng hầu như hoàn toàn theo chương trình của bậc tiểu học bên Pháp nên đã gây ra nhiều khó khăn về thầy, sách giáo khoa và cơ sở vật chất nên cuối cùng chất lượng và hiệu quả không thể cao. Còn nội dung dạy chữ Hán và quốc ngữ ở hệ thống trường chữ Hán thì tập trung nhiều về luật pháp, phong tục, đơn từ…đối với thi Hội vẫn chưa có gì thay đổi, thí sinh vẫn phải làm thơ phú, riêng về chữ Pháp và quốc ngữ là thứ chữ còn xa lạ nên học sinh phải mất rất nhiều thời gian mới có thể lọt qua kỳ thi hương, đến khi thi hội lại phải trình bày những vấn đề nóng bỏng của xã hội mà họ chưa được học hỏi nhiều nên bài làm nông cạn và hời hợt do lý giải chủ quan.. Chương trình giáo dục năm 1906 có thể nói là thời kỳ quá độ trên chặn đường phát triền của giáo dục nước ta lúc đó, sự tồn tại song song hai nền giáo dục là điều bất đắc dĩ, khi chưa có điều kiện xóa bỏ nền giáo dục phong kiến, hơn nũa kết quả giáo dục không như yêu cầu đề ra. Lúc này chiến tranh thế giới thứ nhất sắp kết thúc, Pháp có nhiều triển vọng thắng trận nhưng tổn thất rất nhiều về người và của nên cần phải chuẩn bị cho một đợt khai thác lớn nhằm bù đắp thiệt hại cho chiến tranh. Việtc mở rộng kinh tế đòi hỏi phải có thêm công nhân nhất là công nhân kỹ thuật và nhiều nhân viên có trình độ chuyên môn vững vàng. Trong bối cảnh đó thì nền giáo dục nữa củ nũa mới không đáp ứng được yêu cầu, họ đã quyết định bãi bỏ nền giáo dục bản xứ với những thể chế của nó. Năm 1917 Pháp đề ra chương trình cải cách giáo dục lần thứ hai, xóa bỏ nền giáo dục phong kiến, xác lập và củng cố nền giáo dục Việt Nam. Cải cách lần này được thực hiện khá tích cực, làm có trọng điểm không chạy theo tuyên truyền chính trị như trước kia. Mặt khác Pháp đã gấp rút đào tạo được đội ngũ công nhân và cán bộ kỹ thuật phục vụ cho các đồn điền và xí nghiệp đang được được mở rộng. Với cải cách này Pháp đã làm được hai việc lớn là xóa bỏ nền gaió dục phong kiến là một việc làm cần thiết và phù hợp với việc phát triển của xã hội. nền giáo dục được cũng cố và mở rộng từng bước nền giáo dục, bằng những hình thức phù hợp như tổ chức các loại trường phổ cập giáo dục ở nông thôn, phát triển giáo dục trong các cộng đồng dân tộc ít người, tăng cường chương trình và thời gian cho bậc trung học và công nhận giá trị bằng cấp của nó, cũng cố các trường cao đẳng, tất cả khá đồng bộ làm chất lượng giáo dục tăng lên rõ rệt. Sang giai đoạn 1930 -1945 nước ta có nhiều biến động như ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới, các phong trào cách mạng lớn nhất là các phongtrào cách mạng do Đảng Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo đã làm cho Pháp phải tìm cách đối phó, Khi Nhật vào cuộc cách cách mạng ở nước ta đang ở cao trào tiền khởi nghĩa. Pháp đã đưa ra một số cải cách để đối phó với những biến cố nghiêm trọng nói trên. Giáo dục trong thời kỳ này cũng có nhiều thay đổi tuy không nhiều nhưng bậc tiểu học được thể chế hóa, bậc trung học được bổ sung chương trình, bậc đại học được mở rộng và củng cố đã làm cho nền giáo dục Việt Nam đã hoàn chỉnh hơn trước và một số mặt đã đạt được trình độ hiện đại lúc đó. Như vậy chúng ta thấy mặc dù với mục đích không lấy gì làm tốt đẹp nhưng qua những chính sách giáo dục ở từng thời kỳ thực dân Pháp đã có vai trò lớn trong việc hoàn chỉnh nền giáo dục Việt Nam thời Cận đại, trong chính sách giáo dục đầu tiên ngay khi Pháp chiếm xong Nam Kỳ là tổ chức các trường học để đào tạo thông dịch viên và tai sai phục vụ cho công cuộc viễn chinh, giải quyết bất đồng về ngôn ngữ và đào tạo thư ký làm việc trong các cơ quan hành chính, kinh tế. Giai đoạn này giáo dục của Pháp chưa phát huy tác dụng nhiều nhưng ở các giai đoạn sau nhất là qua hai cuộc cải cách thì giáo dục đã từng bước củng cố phát triển và hoàn chỉnh ở mức độ nhất định, làm cho nền giáo dục Việt Nam thực sự là động lực thúc đẩy xã hội tiến lên. Vai trò tổ chức đó của Pháp không thể chối cãi. Trong chương trình học việc đưa chữ quốc ngữ vào bậc tiểu học mặc dù chỉ là ba năm lớp dưới đã là một cải cách đối với trẻ em khi đến tuổi đến trường. Trước kia ta học chữ Hán là chữ đã khó mà nghĩa càng khó nhớ hơn, đó là chưa nói đến những nội dung hết sức xa lạ với đầu óc ngây thơ của lứa tuổi làm cho học trò trở thành những con vẹt. Với những chương trình chữ quốc ngữ trẻ em sau ba năm đã có một số kiến thức tối thiểu bổ ích cho cuộc sống. Những điều này trong nền giáo dục Nho học không có hoặc nếu có chỉ rải rác, thiếu hệ thống mà người học đền độ tuổi nhất định mới có thể nhận thức được. Từ ba lớp trên bậc tiểu học trở đi, học trò dùng hoàn toàn chữ Pháp, tiếng Việt bị coi như một ngoại ngữ và phải thừa nhận với việc tổ chức và nội dung chương trình, nhất là các môn khoa học tự nhiên thì chương trình này mang tính hệ thống cao và càng lên cao càng được mở rộng. Song song với các trường tiểu học và trung học còn có các trường dạy nghề, đó cũng là điều mà nền giáo dục Nho giáo không có. Đối với nền giáo dục mới học trò nếu chỉ học xong tiểu học đã có thể vào học nghề ở các xưởng máy, còn học sinh trung học nếu không có điều kiện học hết tú tài có thể tạt ngang ở bất cứ năm nào họ cũng có thể tìm bất cứ việc làm để kiếm sống. Tiểu kết chương 2 Ngay từ khi bắt đầu công cuộc xâm lược nước ta, thực dân Pháp đã tính đến việc mở trường, nhằm đào tạo những nhân viên phục vụ cho việc chiếm đóng của Pháp như: thông dịch viên, thư ký… Nhưng phải đến khi Pháp làm chủ được toàn bộ Nam Kỳ, việc thiết lập một mạng lưới trường học mới được tiến hành một cách chính thức và bài bản. Việc thành lập các trường trung học ở Nam Kỳ tiêu biểu là Collège Mỹ Tho, Collège Cần Thơ… cũng nhằm thực hiện mục đích giáo dục của thực dân Pháp trên toàn cõi Việt Nam. Đó là: chủ trương xoá bỏ nền Nho học cũ ở Việt Nam (theo Pháp, nền Nho học cũ ấy chỉ nhằm tạo ra lớp người trung thành với chế độ quân chủ Việt Nam, không hề có lợi cho sự cai trị của Pháp), mà thay thế vào đó bằng nền “Pháp học” để đào tạo nên một tầng lớp trí thức “Tây học”, phục vụ cho sự vận hành của guồng máy thống trị của Pháp ở Đông Dương. Thông qua nội dung giáo dục trong trường học là những tác động về mặt tư tưởng: gây cho người học tâm lý nể phục văn hoá Pháp, ngưỡng mộ “nền văn minh” mà Pháp đem lại cho Việt Nam, dẫn đến sự biết ơn công lao “khai hoá” của Pháp, từ đó sẽ hợp tác với Pháp, ủng hộ cho chủ nghĩa “Pháp-Việt đề huề”… Thực tế lịch sử khách quan cho thấy rằng, về cơ bản, thực dân Pháp đã đạt được mục đích về đào tạo nhân lực khi các trường học do họ lập nên, các trường học dã liên tục “cho ra lò” những trí thức “Tây học”, phục vụ hữu hiệu cho guồng máy cai trị thực dân. Nhưng cũng không thể phủ nhận rằng bên cạnh đó, từ nền giáo dục thực dân mà Pháp áp đặt trên đất nước ta đã nảy sinh những tác động hoàn toàn trái lại với sự mong đợi của họ. Để nghiên cứu một hiện tượng văn hóa nào vào thời kỳ thực dân phải xét đến nhiều yếu tố như chủ nghĩa thực dân, sự tiếp biến văn hóa và vai trò của nhân dân, con người có thể làm tăng hay giảm hai yếu tố trên. Những yếu tố ấy gắn với nhau rất hữu cơ. Cụ thể trong vấn đề giáo dục Pháp – Việt ở Nam Kỳ. Mục đích của chủ nghĩa thực dân đề ra ở vùng đất đầu tiên bị chiếm đóng hoàn toàn không phải là để khai hóa( vì sau khi thết lập hệ thống giáo dục ở Nam Kỳ thì số người mù chữ vẫn nhiều và tính chung cả nước sau 80 năm đô hộ, 95% dân số nước ta bị mù chữ) mà để phục vụ cho công cuộc khai thác là chủ yếu. Công cụ giáo dục là chữ quốc ngữ và chữ Pháp, nó tác động đến tiếp xúc ngôn ngữ - văn hóa Đông – Tây. Chữ quốc ngữ do các giáo sĩ đặt ra với mục đích truyền giáo được chính quyền thực dân dùng thay cho chữ Hán để việc cai trị dễ dàng hơn. Những nhà cách mạng ở nam Kỳ nói riêng và Việt Nam nói chung đã sử dụng chữ quốc ngữ để nâng cao dân trí. Nha học chính Đông Pháp cho soạn bộ Quốc Văn giáo khoa thư làm sách tập đọc cho trẻ em, nhằm truyền bà tư tưởng biết ơn Chính phủ bảo hộ. Nhưng những trí thức Nam Kỳ Tây học có vốn quốc học đã đưa vào trong những bộ sách những giá trị văn hóa truyền thống, dân tộc, quê hương, cùng với những kiến thức phương Tây và cách hành văn, tư duy khúc chiết phương Tây.Thành tựu chữ quốc ngữ được nhân dân sử dụng làm cơ sở hoạt động xã hội, chính trị, văn học, khoa học. Tiếng Pháp được dạy ở trung học và đại học nhằm đào tạo những công chức trung và cao cấp cho chế độ thực dân. Nhưng qua sử Pháp dạy ở nhà trường những học sinh ta đã áp dụng tư tưởng Tự do – Bình đẳng – Bác ái của cách mạng Pháp vào hoàn cảnh của đất nước. Vai trò của không ít giáo sư Pháp gieo rắc tư tưởng tiến bộ không phải là không có. Qua văn chương Pháp, các nhà văn ta đưa khái niệm cá nhân vào văn học. Một số trí thức đã kết hợp chữ quốc ngữ, chữ Pháp, chữ Hán …để tạo ra danh từ khoa học, đặt cơ sở cho nền khoa học hiện đại… Điều đặc biệt là không như các thuộc địa khác của Pháp, ở Nam Kỳ và Việt Nam nói chung, tiếng Pháp chưa bao giờ trở thành ngôn ngữ của toàn thể dân ta,mặc cho Pháp dùng nhiều biện pháp, nhiều cuộc cải cách dùng tiếng Pháp như ngôn ngữ chính thức trong công văn, giấy tờ, trong giáo dục nhà trường để bắt ta học chữ Pháp, ảnh hưởng văn hóa Pháp và đồng hóa ta. Cũng như ở những trường học khác trên đất nước Việt Nam, học sinh Nam Kỳ tuy được học hành theo chương trình “Pháp học” song đa phần họ vẫn không quên cội nguồn. Vốn cần cù, hiếu học, lại được tiếp cận với kiến thức khoa học tự nhiên, xã hội, các thế hệ học sinh Nam Kỳ đã một mặt say sưa học tập, nâng cao trình độ kiến thức của bản thân mình. Mặt khác, họ vẫn hun đúc trong trái tim lòng yêu nước, căm thù giặc, vốn đã trở thành truyền thống bao đời nay của dân tộc. Lớn lên trong cảnh nước mất, nhà tan, tận mắt chứng kiến tội ác của bọn thực dân thống trị gieo rắc trên quê hương, lòng căm thù quân cướp nước trong học sinh nói riêng và trí thức trẻ Việt Nam nói chung lại càng sôi sục. Những kiến thức đã được trang bị trong nhà trường trở thành hành trang quý báu của những cựu học sinh ở Nam Kỳ trên con đường hoạt động cách mạng và họ đã có những đóng góp không nhỏ vào sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước sau này. Trong số những cựu học sinh Collège My Tho, có những người đã trở thành những nhà hoạt động cách mạng lỗi lạc, những nhà khoa học thực tài, những nhà giáo dục lớn như: Đồng chí Phạm Hùng, nguyên Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng; kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát, nguyên Phó chủ tịch Hội đồng Nhà nước; Giáo sư-Viện sĩ Trần Đại Nghĩa, Anh hùng lực lượng vũ trang; bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng, nguyên Bộ trưởng Bộ Y tế… Tóm lại, việc chính quyền thuộc địa cho xây dựng những trường trung học đầu tiên của Việt Nam, cũng nằm trong mục đích giáo dục chung mà Pháp đã dày công áp đặt ở Việt Nam. Nhưng nằm ngoài mong muốn của giới cầm quyền Pháp, các thế hệ học sinh đã biết hấp thu có chọn lọc những tinh hoa của nền văn minh phương Tây, tự trang bị sức mạnh tri thức cho mình từ nền giáo dục thâm độc của kẻ thù. Những cựu học sinh, vốn yêu nước, căm thù giặc, lại được trang bị kiến thức khoa học tiến bộ, đã trở thành những hạt nhân của phong trào yêu nước kháng Pháp, có những đóng góp đáng kể trong phong trào Cách Mạng Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. KẾT LUẬN Chiến tranh Pháp - Việt kết thúc với Điện Biên Phủ đã qua được nữa thế kỷ. quan hệ Việt – Pháp đã nối lại tốt đẹp, nhất là khi ta vào Cộng đồng các nước nói tiếng Pháp. Vì vậy ta có thể đánh giá quan hệ văn hóa Việt- Pháp một cách khách quan. Có thể khẳng định ngay văn hóa Pháp là một nhân tố của văn hóa Việt Nam, cũng như văn hóa Trung Quốc và cả phần nào văn hóa Ấn Độ. Trong nhiều thế kỷ , dân tộc Việt Nam luôn tiếp thu văn hóa bên ngoài và sự hấp thu văn hóa bên ngoài được tiến hành thông qua một công trình tinh luyện chuyển hóa làm cho nó thích nghi và đồng thời những nét dân tộc chủ yếu không hề bị giản lược, đất nước ta đến nay vẫn giữ nguyên được bản sắc văn hóa của mình. Dưới góc độ này, ta có thể hiểu được ảnh hưởng quan trọng của văn hóa Pháp đối với văn hóa Nam Kỳ trong lĩnh vực giáo dục từ khi Pháp bắt đầu đặt ách đô hộ ở vùng này và dĩ nhiên loại trừ ảnh hưởng tai hại của chủ nghĩa thực dân nằm trong một phạm trù khác. Tìm hiểu giao lưu văn hóa Pháp – Việt trong đề tài này chỉ mới đề cập đến lĩnh vực giáo dục. Còn rất nhiều mảng trong lĩnh vực văn hóa chưa được đề cập đến như văn học, kiến trúc, nghệ thuật. Những nghiên cứu tiếp theo của sự giao lưu văn hóa Pháp - Việt cần nghiên cứu ở những mảng trên. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Thế Anh, “ Việt Nam và các Đông Ấn công ty”, Tập san Sử - Địa, trang 3 – 11. 2. Nguyễn Thế Anh( 1970),” Việt Nam dưới thời Pháp đô hộ”, Nhà xuất bản Lửa Thiêng, Sài Gòn. 3. Hoài Anh, Thành Nguyên, Hồ Sĩ Nghiệp ( 1989), “ Văn học Nam Bộ từ đầu thế kỷ XX – 1954”, NXB TPHCM. 4. Nguyễn Anh, “Vài nét về giáo dục Việt Nam từ khi Pháp xâm lược đến cuối chiến tranh thế giới thứ nhất”, NCLS số 98, tháng 5 năm 1967. 5. Đỗ Bang ( 1999), “ Tư tưởng canh tân đất nước dưới triều Nguyễn”, NXB Thuận Hóa. 6. J. Barrow ( 2008), “ Một chuyến du hành đến Nam Hà ( 1792 – 1793)”, NXB Thế Giới, Hà Nội. 7. Trương Bá Cần, “Nguyễn Trường Tộ:con người và di thảo”, NXB TPHCM, 1988 8. Đỗ Quang Chính ( 1972), “ Lịch sử chữ quốc ngữ 1620 – 1659”, Tủ sách ra khơi, Sài Gòn. 9. Đỗ Quang Chính ( 1972), “Trình độ chữ Quốc ngữ mới của linh mục Đắc Lộ, từ năm 1625 đến năm 1644”, Báo Phương Đông, số 7. 10. Nguyễn Văn Dương, “ Tuyển tập Phan Châu Trinh”, NXB Đà Nẵng, 1995, trang 787 11. Nhiều tác giả ( 2008), “ 100 năm Đông Kinh nghĩa thục”, NXB Tri Thức, Hà Nội. 12. Nhiều tác giả ( 2006), “Nho giáo ở Việt Nam”. Kỷ yếu Hội thảo quốc tế.. Viện Nghiên cứu Hán Nôm và Viện Harvard-YenChing tổ chức.Nxb. KHXH. Hà Nội. 13. Lê Văn Giạng ( 2003), “Lịch Sử Giản Lược, Hơn 1000 năm Nền Giáo Dục Việt Nam”, NXB Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội. 14. Mai Cao Chương, Đoàn Lê Giang ( 1995), “ Nguyễn Lộ Trạch điều trần và thơ văn”, NXB KHXH, Hà Nội. 15. Dương Quảng Hàm ( 1951), “ Việt Nam Văn học sử yếu”, Bộ QGGD, Hà Nội. 16.Đỗ Quang Hưng ( 1991), “Một số vấn đề Lịch sử Thiên Chúa giáo ở Việt Nam”, Tủ sách Đại học tổng hợp, Hà Nội. 17.Vũ Ngọc Khánh ( 1985), “ Tìm hiểu nền giáo dục Việt Nam trước năm 1945”, NXB Giáo Dục. Hà Nội. 18. Phan Khoang ( 1971), “Việt Nam Pháp thuộc sử”, Phủ QVKĐTVH xuất bản. Sài Gòn. 19. Nguyễn Văn Kiệm, Viện nghiên cứu tôn giáo, “Sự Du nhập của Đạo Thiên Chúa vào Việt Nam từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX”. Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam. Trung tâm UNESCO bảo tồn và phát triển Văn hóa dân tộc Việt Nam. 20. Lương Kiêm Toàn, Vũ Lân( 1960), “ Hội Truyền bá chữ quốc ngữ”, NXBGD. 21. Thanh Lãng, “Những chặng đường của chữ viết quốc ngữ”, báo Đại học, Năm thứ IV, số 1, tháng 2 – 1961, trang 6 – 36. 22. Nguyễn Hiến Lê ( 1968), “ Đông Kinh nghĩa thục”, NXB Lá Bối, Sài Gòn. 23. Bằng Giang, “Văn học Quốc Ngữ ở Nam Kỳ 1865 – 1930”, NXB Trẻ TPHCM, 1992. 24. Nhóm nghiên cứu Sử Địa Việt Nam ( 1972), “ Quốc triều chính biên toát yếu”, NXB Sài Gòn. 25. Hữu Ngọc ( 2007), “Lãng du trong văn hóa Việt Nam”, Nhà xuất bản Thanh Niên, TPHCM. 26. Quốc sử quán triều Nguyễn ( 1978) “ Đại Nam thực lục”, tập 38, KHXH, Hà Nội 27. Léopold Pallu, Hoàng Phong dịch ( 2008), “ Lịch sử cuộc viễn chinh Nam Kỳ năm 1961 ”, Nhà xuất bản Phương Đông, TPHCM. 28. Đào Trinh Nhất ( 1938), “Đông kinh nghĩa thục”, NXB Mai Linh, Hà Nội. 29. Hồ Hữu Nhựt (1999), “Lịch sử giáo dục Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh 1698 – 1998)”, NXB Trẻ. 30. Vương Hồng Sển ( 1960), “Sài Gòn năm xưa”, NXB TPHCM. 31. Nguyễn Q. Thắng ( 1993), “Khoa cử và giáo dục Việt Nam”, NXB Văn hóa thông tin. 32. Chương Thâu, “Đông kinh nghĩa thụcvà phong trào cải cách văn hóa đầu thế kỷ XX”, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội, 1997. 33. Cao Tự Thanh ( 1996), “ Nho giáo ở Gia Định”, NXB TPHCM. 34. . Lương Thị Thoa, “Vài ý kiến về giao lưu văn hóa Đông- Tây trong tình hình hiện nay”, Tạp chí nghiên cứu lịch sử, số 4, năm 1998, trang 59 – 64. 35. Nguyễn Tài Thư chủ biên ( 1997). “Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với con người Việt Nam hiện nay”. NXB Chính trị quốc gia. 36. .Nguyễn Khắc Thuần ( 2 – 2006), “ Tiến trình văn hóa Việt Nam từ khởi thủy đến thế kỷ XIX”, Nhà xuất bản Giáo dục, TPHCM. 37. Cao Huy Thuần, “Giáo sĩ thừa sai và chính sách thuộc địa của Pháp tại Việt Nam ( 1857- 1914)”. Nhà xuất bản Tôn giáo - Hà Nội. 38. Hoàng Tiến ( 2003), “ Chữ quốc ngữ và cuộc cách mạng chữ viết đầu thế kỷ XX , Nhà xuất bản Thanh Niên, Hà Nội. 39. Lê Ngọc Trụ ( 1961), “Chữ quốc ngữ từ thế kỷ XVII đến cuối thế kỷ XIX”, Việt Nam khảo cổ tập san, số 2, Sài Gòn. 40. Nguyễn Văn Trung ( 1987), “ Những án văn chương quốc ngữ đầu tiên”, Trường Đại học Tổng hợp, TPHCM. 41. Trung tâm KHXH và NV Quốc gia – Viện ngôn ngữ học, “Giao lưu văn hóa và ngôn ngữ Việt – Pháp”, NXB TPHCM. 42. Nguyễn Phước Tương, “Giáo sĩ Bồ Đào Nha Francisco de Pina – người tiên phong sáng tạo ra Chữ quốc ngữ”. Tạp chí nghiên cứu lịch sử, số 5 – 2001. 43. Đặng Huy Vận, Chương Thâu – “Những đề nghị cải cách của Nguyễn Trường Tộ”, NXB Giáo dục Hà Nội, 1961, trang 212 44. Viện Văn học ( 2002), “Trương Vĩnh Ký và việc khơi dòng quốc ngữ ở Việt Nam”, Hà Nội. 45. Nguyễn Văn Xuân ( 1970), “ Phong trào Duy Tân ở Sài Gòn”, NXB Lá Bối, Sài Gòn. 46. Nguyễn Khắc Xuyên ( 1960), “Chung quanh vấn đề thành lập chữ quốc ngữ. Chữ quốc ngữ vào năm 1645”, Văn hóa Nguyệt San, số 48, tháng 1 -2 , 47. Nguyễn Khắc Xuyên, “Giáo sĩ Đắc Lộ với công việc xuất bản”, Việt Nam khảo cổ tập san, số 2, Sài Gòn, 1961, trang 183 – 196 PHỤ LỤC TRƯỜNG CHỮ QUỐC NGỮ VÀ CHỮ HÁN ( 1883 ) - Nam Địa hạt (Arrondissement) Số tổng Số làng Học chữ quốc ngữ Học chữ Hán Số trường Số thầy giáo Số học sinh Số trường Số thầy giáo Số học sinh Bà Rịa Bến Tre Biên Hòa Cần Thơ Châu Đốc Chợ Lớn Gò Công Hà Tiên Long Xuyên Mỹ Tho Rạch Giá Sa Đéc Sài Gòn Sóc Trăng Tân An Tây Ninh Thủ Dầu Một Trà Vinh Vĩnh Long Bạc Liêu Phú Quốc 4 21 16 11 10 12 4 4 8 15 7 9 18 11 10 10 10 13 13 2 1 44 183 192 119 99 207 50 15 63 202 99 88 58 134 120 72 102 200 183 29 3 4 31 20 25 10 13 70 8 27 27 19 9 76 13 61 10 8 25 26 3 1 4 31 20 25 10 13 70 8 27 27 19 9 76 13 61 10 8 25 32 3 1 63 1640 450 1500 599 400 901 272 1047 787 526 435 1828 745 1733 227 306 800 815 252 7 4 18 7 3 47 23 58 15 18 2 4 11 52 8 4 18 7 3 47 23 58 15 18 2 4 11 52 8 58 346 173 51 600 201 635 223 250 32 70 65 419 100 TRƯỜNG CHỮ QUỐC NGỮ VÀ CHỮ HÁN ( 1883 ) – Nữ Địa hạt (Arrondissement) Số tổng Số làng Học chữ quốc ngữ Học chữ Hán Số trường Số thầy giáo Số học sinh Số trường Số thầy Số học giáo sinh Bà Rịa Biên Hòa Châu Đốc Long Xuyên Sài Gòn Sóc Trăng Tây Ninh Thủ Dầu Một Trà Vinh Vĩnh Long 4 16 10 8 18 11 10 10 13 13 44 192 99 63 58 134 72 102 200 183 1 1 1 1 3 1 2 3 1 2 1 1 1 1 3 1 2 3 1 6 15 91 40 51 126 19 65 223 100 128 CÁC TRƯỜNG PHÁP (NAM) NĂM 1883 Địa hạt ( Arrondissement) Số trường Số giáo sư Số học sinh Pháp Việt Sài Gòn: Trường thành phố - Collège Chasseloup Laubat - Collège d P,P Adran - Trường Taberd Trường Bình Hòa ( hạt Sài Gòn) Collège Mỹ Tho Trường Vĩnh Long Trường Biên Hòa Trường Sóc Trăng Trường Bến Tre Trường Hoa ở Chợ Lớn ( ngoại trú) Trường Chợ Lớn 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 2 12 5 2 3 8 3 2 2 3 3 3 10 6 2 4 8 5 4 4 5 4 3 98 293 151 58 143 284 141 82 51 215 135 212 TRƯỜNG COLLÈGE CHASSELOUP LAUBAT NĂM1925 TRƯỜNG COLLÈGE MỸ THO BẢN ĐỒ SÀI GÒN THỜI PHÁP THUỘC ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA5497.pdf
Tài liệu liên quan