Quản lý Nhà nước về đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội

LỜI NÓI ĐẦU Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đặt ra những yêu cầu to lớn đối với công tác quản lý Nhà nước về mọi mặt của đời sống kinh tế -xã hội, trong đó quản lý nhà nước về đất đai là một nội dung quan trọng nghiên cứu các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình sử dụng đất của các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các mối quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực đất đai ngày càng nóng bỏng phức tạp liên quan trực tiếp tới lợi íc

doc104 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1420 | Lượt tải: 4download
Tóm tắt tài liệu Quản lý Nhà nước về đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h của từng đối tượng sử dụng đất. Các quan hệ đất đai chuyển từ chỗ là quan hệ khai thác chinh phục tự nhiên chuyển thành các quan hệ kinh tế xã hội về sở hữu và sử dụng một loại tư liệu sản xuất đặc biệt quan trọng. Để phù hợp với quá trình đổi mới kinh tế, Đảng và nhà nước luôn quan tâm đến vấn đề đất đai và đã ban hành nhiều văn bản pháp luật để quản lý đất đai, điều chỉnh các mối quan hệ đất đai theo kịp với tình hình thực tế. Bên cạnh đó Đảng và nhà nước luôn khuyến khích động viên các đối tượng sử dụng đất đúng mục đích, tiết kiệm đạt hiệu quả cao theo pháp luật. Tuy vậy đất đai là sản phẩm của tự nhiên và nó tham gia vào tất cả các hoạt động kinh tế xã hội do đó các quan hệ đất đai luôn chứa đựng trong nó mhững vấn đề phức tạp, đòi hỏi phải có sự giải quyết kịp thời đảm bảo đươc các lợi ích của người sử dụng đất. Luật đất đai năm 1993 và bộ luật dân sự năm 1995 cũng đã có những quy định đối với công tác quản lý Nhà nước về đất đai. Nhưng sau khi luật đất đai năm 1993 ban hành cùng với luật sửa đổi bổ sung năm 1998 và 2001 đặc biệt là do tác động của cơ chế thị trường, công tác quản lý nhà nước về đất đai vẫn còn bị buông lỏng chưa được quan tâm đúng mức. Thêm vào đó, ý thức pháp và hiểu biết pháp luật đất đai của các đối tượng sử dụng còn hạn chế dẫn đến những vi phạm pháp luật trong việc sử dụng đất gây nhiều hậu quả xấu về mặt kinh tế xã hội. Nhất là đối với thủ đô Hà Nội, với vai trò là trung tâm kinh tế – chính trị – văn hoá xã hội của cả nước, yêu cầu đặt ra đối với công tác quản lý và sử dụng một cách hiệu quả đầy đủ, hợp lý đất đai là mục tiêu quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Mục tiêu đó đã và đang được Đảng bộ và nhân dân thành phố Hà Nội quyết tâm thực hiện và đã đạt được những kết quả không nhỏ, góp phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của Hà Nội. Để có thể đạt được mục tiêu mà thành phố Hà Nội đề racần phải có sự phối hợp chặt chẽ của các cấp chính quyền, các bộ ngành có liên quan. Vì những lý do trên, em đã chọn đề tài:”Quản lý Nhà nước về đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội” làm chuyên đề tốt nghiệp. Mục đích của việc nghiên cứu đề tài này là: Tổng kết khái quát cơ sở lý luận về quản lý Nhà nước về đất đai. Phân tích thực trạng của công tác quản lý nhà nước về đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội. Đề xuất một số giải pháp kiến nghị để nâng cao hiệu quả quản lý đất đai, làm cho đất đai được sử dụng một cách hợp lý hơn. Phương pháp nghiên cứu đề tài này dựa trên cơ sở lý luận Mác –Lênin về nhà nước và pháp luật, các quan điểm đổi mới của Đảng trong cơ chế thị trường nhất là trong lĩnh vực quản lý đất đai, quan điểm xây dựng và phát ttiển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Phương pháp chủ yếu để nghiên cứu đề tài này là phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp thông kê, phương pháp kết hợp lý luận và thực tiễn để làm rõ những vấn đề nghiên cứu. Ngoài lời nói đầu và kết luận, đề tài gồm 3 chương: ChươngI: Cơ sở lý luận về quản lý Nhà nước về đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội. ChươngII: Thực trạng của công tác quản lý Nhà nước về đất đai trên địa bàn thành phố. ChươngIII: Giải pháp để nâng cao hiệu quả quản lý đất đai trên địa bàn thành phố. Quá trình nghiên cứu đề tài này không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong được sự góp ý của thầy cô và các bạn để đề tài này được hoàn thiện hơn. Để hoàn thiện đề tài này em xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ của cô giáo- thạc sĩ Vũ Thị Thảo, cán bộ hướng dẫn- Kĩ sư Nguyễn Ttrọng Lễ cùng toàn thể cô chú phòng QLĐC- NĐ, Sở địa chính nhà đất Hà Nội. CHƯƠNGI: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẤT ĐAI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI. I. VAI TRÒ CỦA ĐẤT ĐAI TRONG SẢN XUẤT, ĐỜI SỐNG VÀ PHÂN LOẠI ĐẤT. Vai trò của đất đai trong sản xuất và đời sống. Đất đai do tự nhiên tạo ra, có trước con người và là cơ sở để tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người cho thấy đất đai là một tài nguyên vô giá và chứa đựng sẵn trong đó các tiềm năng của sự sống, tạo điều kiện cho sự sống của thực vật, động vật và con người trên trái đất. Chính vì vậy,đất đai có vai trò ngày càng quan trọng. Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt, tham gia vào hoạt động của đời sống Kinh tế xã hội, có vị trí có định, không di chyển được cũng không thể tạo ra thêm tuy nhiên đất đai lại có khả năng tái tạo thông qua độ phì của đất. Con người không thể tạo ra đất đai nhưng bằng lao động của mình con người tác động vào đất, cải tạo đất để tạo ra các sản phẩm cần thiết phục vụ cho cuộc sống của con người. Vì thế đất đai vừa là sản phẩm của tự nhiên lại vừa là sản phẩm của lao động. Luật đất đai năm 1993 đã khẳng định vai trò to lớn của đất đai như sau: “ Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành phàn quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố khu dân cư, xây dựng các cơ sở hạ tầng xã hội, an ninh quốc phòng…” Đối với mỗi lĩnh vực, đất đai lại có vai trò quan trọng khác nhau. Trong ngành nông nghiệp, đất đai có vai trò đặc biệt quan trọng, nó vừa là đối tượng lao động, vừa là tư liệu lao động. Con người khai phá đất hoang để chăn nuôi trồng trọt, cũng nhờ có đất mà cây trồng mới có thể sinh trưởng và phát triển được, cung cấp lương thực thực phẩm để nuôi sống con người. Cho nên nếu không có đất, các hoạt động sản xuất nông nghiệp sẽ không thể tiến hành được. Trong công nghiệp và các ngành khai khoáng, đất được khai thác để làm gạch ngói, đồ gốm phục vụ cho ngành xây dựng. Đất còn làm nền móng, là địa điểm để tiến hành các hoạt động thao tác, là chỗ đứng cho công nhân trong sản xuất công nghiệp. Trong cuộc sống, đất đai còn là địa bàn phân bố khu dân cư, là nơi để con người xây dựng nhà ở, hệ thống đường sá giao thông, các toà nhà cao tầng, các công trình văn hoá kiến trúc tạo nên bộ mặt tổng thể của một quốc gia. Ngoài ra, đất đai còn là nơi để xây dựng các tụ điểm vui chơi giải trí, thể dục thể thao, xây dựng các di tích lịch sử, các danh lam thắng cảnh để thoả mãn nhu cầu cuộc sống hàng ngày của con người. Mặt khác, đất đai còn là bộ phận lãnh thổ quốc gia. Nói đến chủ quyền của một quốc gia là phải nói đến sự toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia đó. Để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, nhà nước phải sử dụng quyền lực của mình để bảo vệ đất đai, ngăn chặn sự xâm lấn của các thế lực bên ngoài. Trải qua các cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước, đất đai của nước ta ngày nay là thành quả của bao thế hệ đã hi sinh xương máu, dày công vun đắp mới có được. Từ đó đất đai trở thành giá trị thieng liêng và vô cùng quý giá, đòi hỏi chúng ta phải giữ gìn, sử dụng hợp lý đất đai. Vai trò to lớn của đất đai chỉ có thể phát huy một cách đầy đủ khi mà có sự tác động tích cực của con người một cách thường xuyên. Nếu như con người sử dụng, khai tháckiệt quệ độ phì nhiêu của đất mà không bồi dưỡng cải tạo đất thì vai trò to lớn của đất đai sẽ không thể được phát huy. Sự hạn chế về mặt diện tích đất cùng với sự hạn chế trong việc khai thác tiềm năng đất do tiến bộ khoa học kỹ thuật đòi hỏi con người phải biết tính toán đánh giá đầy đủ về đất đai để có thể khai thác hiệu quả nhất. 2. Phân loại đất: Phân loại đất để phục vụ cho mục tiêu quản lý, khai thác sử dụng cho từng mục đích cụ thể. Mục đích của phân loại là nắm vững tính chất đặc điểm của từng loại đấ, thực trạng khai thác quản lý sử dụng đất để tìm ra những biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng từng loại đất. Đất đai ở nước ta bao gồm nhiều loại. Điều 11 luật đất đai năm 1993 quy định: Căn cứ vào mục đích sử dụng chủ yếu, đất được phân thành các loại sau đây: Đất nông nghiệp. Đất lâm nghiệp. Đất khu dân cư nông thôn. Đất đô thị. Đất chuyên dùng. Đất chưa sử dụng. Mỗi loại phải được bảo vệ, bồi dưỡng để không ngừng nâng cao giá trị của đất và nhà nước đều phải quản lý theo từng loại để tránh việc chuyển đổi mục đích sử dụng một cách tuỳ tiện. a. Đất nông nghiệp: Đất nông nghiệp là đất được xác định chủ yếu để sử dụng vào sản xuất nông nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản hoặc nghiên cứu thí nghiệm về nông nghiệp. Đất nông nghiệp vừa là đối tượng lao động vừa là tư liệu lao động cho nên nó có vai trò hết sức quan trọng để tạo ra lương thực thực phẩm nuôi sống con người. Trên địa bàn thành phố Hà Nội, đất nông nghiệp chủ yếu tập trung ở năm huyện ngoại thành là Gia Lâm, Đông Anh, Thanh Trì, Sóc Sơn, Từ liêm. Đất nông nghiệp cũng hình thành một loại quỹ đất và có sự biến động theo hướng sau: Do quá trình đô thị hoá, do sự phát triển cả hệ thống kết cấu hạ tầng nông thôn, sự hình thành các trung tâm công nghiệp mới làm cho quỹ đất nông nghiệp ngày càng thu hẹp lại. Đây là xu hướng diễn ra phổ biến hiện nay, không chỉ ở trên địa bàn thàmh phố Hà Nội mà còn diễn ra trên phạm vi toàn quốc. Nhưng vấn đề đặt ra là cần phải bố trí sắp xếp địa điểm xây dựng đô thị và các khu công nghiệp như thế nào để không ảnh hưởng đến việc sản xuất nông nghiệp. Mặt khác, do sức ép về lao động và việc làm, do dân số ngày càng tăng nên phải cung cấp một lượng nông sản đủ lớn trong khi đó quỹ đất nông nghiệp ngày càng giảm. Chính vì vậy việc khai khẩn đất hoang, đất chưa sử dụng là mọt việc làm tích cực để mở rộng diện tích đất nông nghiệp. Quỹ đất nông nghiệp được cấu thành từ các loại đất khác nhau tuỳ theo mục đích sử dụng. Khi mục đích sử dụng đất nông nghiệp thay đổi làm cho số lượng loại đất này tăng lên, loại đất kia giảm đi. Vì vậy quỹ đất nông nghiệp cũng có sự biến dộng trong nội bộ của nó theo hướng: Giảm dần diện tích trồng cây lương thực để chuyển sang trồng các loại cây trồng khác. Diện tích đất nông nghiệp sẽ được tăng cường cho ngành sản xuất nào đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn. Sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật đã tác động đến vấn đề này. Trước đây do trình độ sản xuất thấp cho nên người ta đã phải trồng cây lương thực trên trên hầu hết quỹ đất nông nghiệp để đáp ứng nhu cầu luơng thực cho mọi tầng lớp nhân dân. Nhưng khi áp dụng khoa học kĩ thuật, người ta có thể tạo ra những cây trồng vật nuôi có giá trị kinh tế cao, thay thế cho những cây trồng có giá trị thấp. Đất nông nghiệp được phân thành các loại sau: Theo thời hạn canh tác của từng loại cây trồng: + Đất trồng cây hàng năm. + Đất trồng cây lâu năm. Theo công dụng của đất: + Đất trồng cây lương thực. + Đất trồng cây thực phẩm. + Đất trồng cây công nghiệp. + Đất trồng cây dược liệu,cây cảnh. + Đất đồng cỏ. + Đất trồng cây ăn quả. + Đất chăn nuôi. Theo tiêu chuẩn phân hạng đất: + Đất trồng cây hàng năm được phân ra làm 6 hạng. + Đất trồng cây lâu năm được phân ra làm 5 hạng. + Căn cứ phân hạng đất theo nghị định 73CP là: iChất đất. iVị trí. iĐịa hình. iĐiều kiện tưới tiêu. Nông nghiệp vẫn là ngành kinh tế quan trọng tronng nền kinh tế quốc dân. Chính vì thế quản lý đất nông nghiệp phải được chú trọng và quan tâm chặt chẽ để nhằm phát triển một nền nông nghiệp bền vững. Thực hiện đa canh, đa dạng hó a sản phẩm, kết hợp nông nghiệp, lâm nghiệp và công nghiệp chế biến để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu đạt hiệu quả cao. b. Đất lâm nghiệp: Đất lâm nghiệp là đất được xác định chủ yếu để sử dụng vào sản xuất lâm nghiệp, gồm đất có rừng tự nhiên, đất đang có rừng trồng và đất để sử dụng vào mục đích lâm nghiệp như trồng rừng, khoanh nuôi bảo vệ rừng để phuc hồi tự nhiên, nuôi dưỡng làm giàu rừng, nghiên cứu thí nghiệm về lâm nghiệp. Rừng không những tạo môi trường sinh thái cân bằng, điều hoà khí hậu dòng chảy mà còn cung cấp cho con nguời những loại gỗ quý, những cây dược liệu có giá trị cao, các loài động vật quý hiếm và hệ thực vật đa dạng phong phú. Ở thành phố Hà Nội, đất lâm nghiệp còn chiếm một tỉ lệ nhỏ trong diện tích đất tự nhiên của toàn thành phố và chủ yếu phân bố ở huyện Sóc Sơn. Ở khu vực nội thành còn có hệ thốngcông viên cây xanh, cây xanh sinh thái ở các đường phốcó tác dụng làm giảm bớt sự ô nhiễm của thành phố. Trong những năm gần đây, việc khai thác sử dụng đất lâm nghiệp trên toàn địa bàn thành phố đã có nhiều tiến bộ theo trào lưu chung của công cuộc đổi mới. Sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật đã có tác dụng tích cực đến việc khai thác đất lâm nghiệp, việc nhân giống cây trồng, lựa chọn cây trồng phù hợp với từng vùng đã đem lại nhứng hiệu quả to lớn trong việc trồng rừng. Nhưng diện tích rừng vẫn có xu hướng giảm xuống nhất là ở khu vực có đất lâm nghiệp điển huyện là ở huyện Sóc Sơn. Xu hướng biến đổi tích cực như chuyển một bộ phận đất lâm nghiệp sang trồng rừng, cây công nghiệp lâu năm và cây ăn quả, thúc đẩy việc hình thành những vùng nông thôn mới, hình thành quan hệ chặt chẽ giữa nông nghiệp với lâm nghiệp. Sự biến đổi tiêu cực của đất lâm nghiệp như diện tích đất trống đồi trọc ngày càng tăng, khai thác rừng bừa bãi làm trữ lượng các cây gỗ quý và các loài động vật quý hiếm ngày càng giảm, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường sinh thái. Quỹ đất lâm nghiệp có đặc điểm: Phân bố ở vùng trung du miền núi, dân cư thưa thớt, cơ sở hạ tầng kém phát triển gây khó khăn cho việc khai thác đất lâm nghiệp. Địa hình phức tạp, độ dốc lớn, chất đất không đồng đều. Nhiều vùng vẫn còn đất trống đồi trọc trơ sỏi đá chưa được phủ xanh. Bình quân diện tích đất lâm nghiệp / đầu người thấp. Đất lâm nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội chủ yếu do ban Quản lý rừng phòng hộ, rừng đăc dụng và UBND huyện Sóc Sơn quản lý. c. Đất khu dân cư nông thôn: Đất khu dân cư nông thôn là đất thuộc vùng nông thôn được sử dụng để xây dựng nhà ở và các công trình phục vụ cho sinh hoạt ơ nông thôn. Ngoài ra một bộ phận đáng kể đất khu dân cư nông thôn dùng cho chăn nuôi như gà, lợn, trâu bò… Đất ở của hộ gia đình nông dân là đất để làm nhà ở, chuồng trại chăn nuôi, kho tàng nhà xưởng. Đất khu dân cư nông thôn có vai trò quan trọng trong sản xuất và đời sống của người dân. + Đối với sản xuất: Đất khu dân cư nông thôn là địa điểm để chăn nuôi và trồng trọt trong phạm vi diện tích của mỗi gia đình nông thôn. Đất khu dân cư nông thôn còn là nơi để xây dựng nhà ở đảm bảo các yêu cầu cuộc sống của người nông dân, để có thể tái sản xuất sức lao động phục vụ cho các quá trình sản xuất tiếp theo. + Đối với đời sống: Đất khu dân cư nông thôn là địa điểm để xây dựng các công trình văn hoá vui chơi giải trí, thoả mãn các nhu cầu sinh hoạt của người dân. Quá trình đô thị hoá cùng với những tác động của cơ chế thị trường cũng làm cho đất khu dân cư nông thôn có nhiều biến động. Một bộ phận diện tích đất khu dân cư nông thôn chuyển sang đất đô thị để xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng như đường sá giao thông, các khu công nghiệp, khu chế xuất, các khu nhà cao tầng. Điều đó làm cho bộ mặt khu dân cư nông thôn có nhiều thay đổi tích cực, làm rút ngắn khoảng cách giữa nông thôn và thành thị. Nhưng nó cũng mang lại những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường. Đó là do quá trình đô thị hoá làm cho giá đất ngày càng tăng dẫn đến người dân ở khu vực nông thôn bán nhà bán đất, làm xáo trộn cuộc sống của họ, làm nảy sinh các cuôc tranh chấp đất đai ở nông thôn. Đất khu dân cư nông thôn phải được quy hoạch để sử dụng một cách hợp lý, sắp xếp địa điểm không gian cho phù hợp với từng mục đích sử dụng. Hệ thống đường sá, trường học, bệnh viện … phải được bố trí gần nơi ở của người dân. Để sử dụng một cách hợp lý đất khu dân cư nông thôn, công tác quản lý nhà nước về đất khu dân cư nông thôn phải được tăng cường từ cấp xã để ổn định đời sống xã hội nông thôn. Nhà nước có chính sách tạo điều kiện cho những người ở nông thôn có chỗ ở trên cơ sở tận dụng những khu dân cư sẵn có. Mỗi hộ gia đình ở nông thôn được sử dụng khônng quá 400m2 theo quy định của chính phủ tuỳ theo từng vùng. d. Đất đô thị: Đất đô thị là đất nội thành, nội thị xã, thị trấn được quy hoạch sử dụng để xây dựng nhà ở, trụ sở cơ quan, tổ chức, cơ sở sản xuất kinh doanh, cơ sở hạ tầng phục vụ lợi ích công cộng, an ninh quốc phòng và các mục đích khác. Ngoài ra theo quy định tại nghị định 88CP ngày 17/8/1994 của chính phủ về quản lý đất đô thị và đất ngoại thành, ngoại thị xã, những loại đất này nếu đã có quy hoạch của cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt để phát triển đô thị cũng được tính vào đất đô thị. Quá trình đô thị hoá làm tăng thêm các đô thị, sự phát triển của các đô thị là do yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của từng vùng để phù hợp với sự phát triển chung của cả nước. Sự phát triển tất yếu nay làm cho đất đô thị tăng lên và đất nông lâm nghiệp giảm đi. Đất đô thị có những đặc điểm sau: Nguồn gốc đất đô thị là từ đất tự nhiên hoặc đất nông nghiệp được chuyển đổi mục đích sử dụng sau khi có dự án quy hoạch và dự án đầu tư, phải được xây dựng cơ sở hạ tầng trước khi sử dụng. Muốn chuyển đổi mục đích sử dụng đất phải được UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương cho phép. Từng lô đất, từng khu đất trong đô thị có vị trí cố định, mỗi vị trí có đặc thù riêng, không giống với bất cứ một vị trí nào. Đất đô thị là tài sản đặc biệt có giá trị cao, giá trị từng lô đất phụ thuộc vào mục đích sử dụng của chúng. Đất đô thị đan xen nhiều hình thức sử dụng. Giá trị sử dụng và mục đích sử dụng từng lô đất có ý nghĩa quan trọng trong việc đánh giá đất đô thị. Theo mục đích sử dụng, đất đô thị được phân thành các loại sau: Đất sử dụng vào mục đích công cộng:như đường giao thông, bến xe, công viên, các công trình giao thông tĩnh, cấp thoát nước, đương dây tải điện. Đất sử dụngcho quốc phòng an ninh, các cơ quan ngoại giao và các khu hành chính đặc biệt. Đất ở dân cư. Đất chuyên dùng. Đất nông, lâm ngư nghiệp đô thị. Đất chưa sử dụng đến. Trong đô thị, đất đai được sử dụng vào mục đích quốc phòng an ninh, chuyên dùng, đất ở chiếm một tỉ lệ cao. Vì đây chính là đất để xây dựng các công trình tạo nên bộ mặt của đô thị. Ngoài ra còn có một số diện tích đất được sử dụng vào sản xuất nông, lâm nghiệp. Việc sử dụng đất nông, lâm nghiệp trong khu vực đô thị phải tuân theo các quy định về bảo vệ mỹ quan đô thị và các quy định về quản lý – quy hoạch sử dụng đất đô thị. Đất đô thị được phân thành các loại sau: - Căn cứ vào quy hoạch xây dựng dô thị, đất đô thị gồm: + Đất dân dụng: bao gồm đất để xây dựng các khu ở, các trung tâm phục vụ công cộng, cây xanh, giao thông, cơ sở hạ tầng kĩ thuật đô thị. + Đất ngoài khu dân dụng: bao gồm đất xây dựng công nghiệp, kho tàng bến bãi, các trung tâm đối ngoại, an ninh quốc phòng, các cơ quan ngoài đô thị và các loại đất khác. - Căn cứ vào nghĩa vụ tài chính của người sử dụng đất: + Đất cho thuê, chủ yếu để xây dựng các công trình sản xuất kinh doanh dịch vụ và giao đất sử dụng có thời hạn. + Đất giao có thu tiền sử dụng đất. + Đất giao không thu tiền sử dụng. Trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước, các đô thị ngày càng mở rộng về quy mô dân số và diện tích. Hà Nội là thủ đô của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là một trung tâm kinh tế – chính trị- văn hoá xã hội của cả nước, Hà Nội là một đô thị lớn. Thành phố đang mở rông theo hướng phát triển không gian hợp lý, các chùm đô thị vệ tinh đang hình thành xung quanh Hà Nội. e. Đất chuyên dùng: Đất chuyên dùng là đất được xác định sử dụng vào mục đích không phải là nông nghiệp, lâm nghiệp, làm nhà ở bao gồm: Đất xây dựng các công trình công nghiệp khoa học kĩ thuật, hệ thống giao thông, hệ thống thuỷ lợi, đê điều, văn hoá xã hội, an ninh quốc phòng, y tế, thể dục thể thao, đất dùng cho thmă dò khai thác khoáng sản, đá cát, đất làm muối, gạch ngói, vật liệu xây dựng khác, đất di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh, đất nghĩa trang, nghĩa địa, đất có mặt nước sử dụng vào các mục đích không phải là sản xuất nông nghiệp. Đất chuyên dùng có thể phân thành các loại sau: Đất tham gia trực tiếp của các ngành ngoài nông – lâm nghiệp: Đất xây dựng công trình, viện nghiên cứu khoa học, trạm trại thí nghiệm, đất xây dựng các cơ sở dịch vụ như nhà hàng, khách sạn, cửa hàng, siêu thị … Đất đai hoạt động trong lĩnh vực này đóng vai trò nền móng địa điểm để xây dựng nên những công trình đó nhằm tạo ra các sản phẩm vật chất phục vụ cho các nhu cầu của toàn xã hội. Đất xây dựng cơ sở hạ tầng: Xây dựng các công trình thuỷ lợi giao thông đê điều… Đất cho các hoạt động văn hoá xã hội: Xây dựng các công trình văn hoá như nhà hát, viện bảo tàng, trường học các cấp, thư viện. Cac cơ sở y tế như phòng khám, bệnh viện, các cơ sở thể thao như sân vận động, nhà thi đấu, bể bơi… Đất khai thác nguyên liệu: Làm gạch ngói đồ gốm đá cát, phục vụ cho xây dựng. Việc khai thác đất cho mục đích này làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến đất cũng như môi trường sinh thái, bởi vậy cần gắn việc khai thác đất với bảo vệ môi trường. Đất sử dụng cho quốc phòng an ninh: bao gồm đất xây dựng các trụ sở công an, cảnh sát, đất sử dụng làm căn cứ an ninh quốc phòng, xây dựng các công trình phòng thủ quốc gia, trận địa và các tuyến phòng thủ đặc biệt, đất sử dụng làm ga, cảng quân sự, đất sử dụng làm các công trình công nghiệp, khoa học kĩ thuật phục vụ an ninh quốc phòng, đất sử dụng làm trường bắn thao trường thử vũ khí. Các loại đất chuyên dùng khác: gồm đất làm nghĩa địa nghĩa trang, đất có mật nước không sử dụng vào các mục đích sản xuất nông- lâm nghiệp. Đất sử dụng làm nghĩa trang, nghĩa địa là nơi chôn cất những người đã mất, nhu cầu sử dụng các loại đất này ngày càng cao. Việc sử dụng đất nghĩa trang nghĩa địa phải theo quy hoạch, bảo vệ môi trường sinh thái để không ảnh hưởng đến cuộc sống của người dân. f. Đất chưa sử dụng : Đất chưa sử dụng là đất chưa được sử dụng vào mục đích nào cả. Nó đồng nghĩa với đất hoang theo nghĩa chưa có chủ cụ thể và chưa được đưa vào khai thác sử dụng, nó bao hàm đất có khả năng nông nghiệp – lâm nghiệp thuỷ sản hoặc đất có thể đưa hoặc đã đưa vào hoạt động nhưng còn đang trong quá trình chuyển giao hoặc xác lập quyền sử dụng hợp pháp tạm thời còn chưa sử dụng. Đất chưa sử dụng dùng để bổ sung cho các loại đất khác, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội. Tuy vậy hiện nay đất chưa sử dụng vẫn còn nhiều. Chính sách giao đất cho các nông – lâm trường trước đây không cân đối giữa điều kiện khai thác với đất đai làm cho đất đai bị bỏ hoang hoá. Ngay tại các trung tâm công nghiệp, các thành phố cũng để đất đai không sử dụng do chính sách cho không đất cho các xí nghiệp, do chưa có sự đầu tư một cách hợp lý. Ở thành phố Hà Nội, đất chưa sử dụng chủ yếu phân bố ở các huyện ngoại thành, những vùng khó khăn dân cư thưa thớt. Việc khai thác đất chưa sử dụng đòi hỏi phải tập trung nhân lực vật lực một cách đầy đủ và hợp lý đảm bảo các mục tiêu đề ra, tiến hành điều tra khảo sát, đánh gía đúng thực trạng của đất chưa sử dụng để có phương hướng khai thác đất một cách hợp lý. II. SỰ CẦN THIẾT PHẢI QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẤT ĐAI: 1- Khái niệm: Ở nước ta, đất đai thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước thống nhất quản lý. Nhà nước đại diện cho nhân dân để quản lý toàn bộ quỹ đất đai trong phạm vi lãnh thổ của nhà nước. Nhà nước là chủ thể duy nhất có quyền định đoạt số phận của đất đai thông qua việc nhà nước giao đất, cho thuê, thu hồi đất khi cần thiết. Các đối tượng sử dụng đất chỉ có quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật. Quản lý đất đai là một biện pháp cách thức quan trọng mà nhà nước sử dụng quản lý đất đai nhằm hạn chế hoặc ngăn chặn những hành vi xâm phạm chế độ công hữu đất đai, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người chủ sở hữu đất đai và người sử dụng đất, ổn định phương thức sử dụng đất đai xã hội chủ nghĩa. Nói tóm lại đó là toàn bộ các quy phạm pháp luật mà nhà nước sử dụng để điều chỉnh các quan hệ xã hôi phát sinh trong quá trình quản lý nhà nước đối với đất đai. Các quan hệ xã hội đối với đất đai bao gồm quan hệ về sở hữu đất đai, quan hệ về sử dụng đất đai, quan hệ về phân phối các sản phẩm tạo ra do sử dụng đất. Trên cơ sở sở hữu toàn dân đối với đất đai thì quyền năng thống nhất quản lý dối với đất đai được thực hiện trực tiếp bằng việc xác lập các quy phạm pháp luật về quản lý đất đai của các cơ quan quyền lực, được thực hiện thông qua hệ thống các cơ quan nhà nước do nhà nước lập ra. Các quy phạm pháp luật về đất đai được thực hiện thông qua tổ chức, hộ gia đình cá nhân sử dụng đất theo những quy định giám sát của cơ quan nhà nước. Nước ta từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước, Đảng và nhà nước ta đã xây dựng chế độ sở hữu cho phù hợp với cơ chế mới. Theo đó đất đai ở nước ta thuộc sở hữu toàn dân, ruộng đất được giao cho người dân để sử dụng ổn định lâu dài. Rừng biển, hầm mỏ, nguồn nước, nguồn tài nguyên trong lòng đất đều thuộc sở hữu toàn dân. Vấn đề sử dụng đất đai được thực hiện thông qua hình thức Nhà nước giao đất cho thuê đất cho các đối tượng sử dụng đất. Nhà nước luôn có chính sách đảm bảo cho mọi đối tượng đều có đất để đầu tư sản xuất kinh doanh, sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản… Vấn đề tổ chức hợp lý việc sử dụng đất đai là cốt lõi của công tác quản lý và được xác định theo cơ cấu, vị trí không gian của diện tích đất sử dụng. Nó đòi hỏi phải nghiên cứu các yêu cầu khách quan của sản xuất xã hội đối với việc sử dụng đất đai, nghiên cứu vai trò chi phối của phương thức sản xuất xã hội đói với đất đai mà còn nghiên cứu các đặc trưng tính chất cả đất. Chỉ có nhận thức đúng đắn, nắm vững các quy luật khách quan của tự nhiên và kinh tế mới có thể đạt mục đích sử dụng triệt để và hợp lý đất đai. Việc bố trí sử dụng đất đai còn liên quan tới quy hoạch hợp lý các công trình kiến trúc, cụm dân cư, hệ thống giao thông, kênh rạch thuỷ lợi nhằm đem lại hiệu quả cao nhất. Vì vậy mục tiêu cơ bản của công tác quản lý đất đai là sự kết hợp hữu cơ giữa hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội trong việc sử dụng đất một cách triệt để nhất. Việc phân phối các sản phẩm làm ra từ đất liên quan đến nghĩa vụ tài chính cả người sử dụng đất. Trong sản xuất nông nghiệp, sản phẩm làm ra được phân phối đén tay người tiêu dùng.Trong sản xuất công nghiệp, kinh doanh… thì người sử dụng đất sẽ cung cấp các sản phẩ vật chất được tạo ra từ đất dến người tiêu dùng và phải nộp thuế sử dụng đất. Người nào sử dụng nhiều đất đai, ở vi trí thuận lợi thì phải nộp thuế nhiều hơn và ngược lại. Sự cần thiết phải quản lý nhà nước về đai: Trong nền kinh tế nói chung, nhu cầu bản thân các doanh nghiệp đòi hỏi phải có sự quản lý của nhà nước. Quá trình sản xuất kinh doanh làm nảy sinh mối quan hệ giữa các doanh nghiệp với nhau. Các doanh nghiệp đều có lợi ích riêng của mình và họ luôn tìm mọi cách để tối đa hoá lợi ích đó. Họ có thể thấy rõ hoặc không thấy rõ để đạt được mục đích của mình thì họ đã vi phạm đến lợi ích của người khác. Từ đó tất yếu nảy sinh ra hiện tượng: lợi ích của cá nhân hay bộ phận này tăng lên làm thiệt hại đến lợi ích của cá nhân khác xét trên phạm vi tổng thể nền kinh tế quốc dân. Biểu hiện về mặt xã hội của xu hướng này là các hoạt động kinh tế chồng chéo cản trở nhau, sự phân bố nguồn lực không hợp lý, các vấn đề chính trị xã hội phát sinh. Bởi vậy phải có một người đứng ra làm trung gian giải quyết, cân bằng mối quan hệ giữa các doanh nghiệp với nhau. Trong nền kinh tế thị trường, các doanh ngiệp đóng vai trò quyết định nền kinh tế, góp phần tạo ra tích luỹ, sự phát triển của doanh nghiệp thể hiện sự phát triển của quan hệ sản xuất. Doanh nghiệp đầu tư nguồn vốn, lao động, áp dụng công nghệ khoa học để tạo ra năng suất chất lượng sản phẩm ngày càng cao, giá thành hạ đáp ứng cho nhu cầu của xã hội. Các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh tham gia vào môi trường cạnh tranh, cạnh tranh là động lực thúc đẩy sản xuất, thúc đẩy tăng năng xuất lao động và tăng hiệu quả sản xuất. Nền kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường khônng thể tách rời môi trường Chính trị- xã hội. Nếu môi trường không ổn định thường xuyên có các xung đột chính trị giữa các tầng lớp, giai cấp trong xã hội, các quan hệ buôn bán trên thị trường không lành mạnh mang tính chất lừa đảo thì cơ chế thị trường sẽ không phát huy tác dụng. Từ đó dẫn đến các sai lệnh và những khuyết tật của cơ chế thị trường khó có thể khắc phục được làm cho xã hội rối ren trở nên khủng khoảng. Bởi vậy đòi hỏi phải có vai trò quản lý của nhà nước, một tổ chức, một doanh ngiệp dù có lớn đến đâu cũng không thể thay thế được vai trò đó. Trong hoạt động thực tế của doanh nghiệp có rất nhiều vấn đề nảy sinh như cơ sở hạ tầng, môi trường… mà bản thân doanh nghiệp cũng không thể giải quyết được. Mặt khác, các doanh nghiệp luôn tối đa hoá lợi nhuận làm cạn kiệt tài nguyên môi trường bởi vậy cũng cần phải có sự quản lý của nhà nước. Đối với nước ta, xuất phát từ mục tiêu của cách mạng Việt Nam là xây dựng Việt Nam thành một nước Xã hội chủ nghĩa theo cơ chế thị trường. Với mục tiêu như vậy, trong những cuộc đại hội Đảng đã xác định nước ta đi theo con đường Công nghiệp hoá- hiện đại hoá nhưng xuất phát điểm của nước ta là từ một nước nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu. Chúng ta phải xây dựng nhà nước pháp quyền để quản lý mọi lĩnh vực đặc biệt là trong lĩnh vực đất đai. Nhà nước giao đất cho các hộ gia đình sử dụng lâu dài ổn định, nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở. Khi tham gia vào nền kinh tế thị trường, đất đai có sự thay đổi căn bản về bản chất kinh tế xã hội: Từ là tư liệu sản xuất, điều kiện sống chuyển sang là tư liệu sản xuất chứa đựng yếu tố sản xuất hàng hoá, phương diện kinh tế của đất trở thành yếu tố chủ đạo quy định sự vận động của đất đai theo hướng ngày càng nâng cao hiệu quả. Đặc biệt ttrong tình hình hiện nay, giá đất cũng như lợi nhuận khi đầu tư vào đất tăng cao vùn vụt đã khiến cho tình trạng tranh chấp lấn chiếm đất đai xảy ra, làm ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội. Trong sản xuất nông nghiệp, khi tham gia vào cơ chế thị trường đất đai cũng chứa đựng nguy cơ quay về sản xuất tự cấp tự túc nếu người sử dụng đất không đủ năng lực, nếu thị trường bất lợi kéo dài. Hơn nữa, đất đai cũng là một nguồn vốn tham gia vào sản xuất hàng hoá, việc sử dụng đất lại rất cần có vốn cho nên hình thành thị trường đất đai là một là một động lực quan trọng để góp phần hoàn thiện hệ thống thị trường quốc gia. Chính vì vậy việc quản lý nhà nước về đất đai là hết sức cần thiết nhằm phát huy những ưu thế của cơ chế thị trường và hạn chế những khuyết tật của thị trường khi sử dụng đất đai, ngoài ra cò._.n làm tăng tính pháp lý của đất đai. Tóm lại việc khai thác những các ưu điểm và hạn chế những khuyết tật của cơ chế thị trường đặc biệt là các quan hệ đất đai vận động theo cơ ché thị trường thì không thể thiếu được sự quản lý của nhà nước với tư cách là chủ thể của nền kinh tế quốc dân. Như vậy nhà nước thực hiện chức năng quản lý là một đòi hỏi khách quan, là nhu cầu tất yếu trong việc sử dụng đất đai. Nhà nước không chỉ quản lý bằng công cụ pháp luật, các công cụ tài chính mà nhà nước còn kích thích khuyến khích đối tượng sử dụng đất hiệu quả bằng biện pháp kinh tế. Biện pháp kinh tế tác động trực tiếp đến lợi ích của người sử dụng đất và đây là một biện pháp hữu hiệu trong cơ chế thị trường, nó làm cho các đối tượng sử dụng đất có hiệu quả hơn, làm tốt công việc của mình, vừa bảo đảm được lợi ích cá nhân cũng như lợi ích của toàn xã hội. Vai trò quản lý nhà nước về đất đai : Cơ chế quản lý kinh tế mới hiện nay ở nước ta là cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước bằng các công cụ kế hoạch, pháp luật, chính sách…Nhà nước đóng vai trò điều tiết vĩ mô nhằm phát huy những mặt tích cực hạn chế những mặt tiêu cực của cơ chế thị trường. Cơ chế thị trường không làm giảm nhẹ vai trò quản lý của nhà nước mà đòi hỏi tăng cường quản lý. Hơn nữa chúng ta đang thực hiện quá trình đổi mới, mở rộng quan hệ quốc tế trong xu thế gia nhập AFTA và hướng tới trở thành thành viên của WTO thì càng đòi hỏi tăng cường vai trò quản lý của nhà nước đặc biệt là trong lĩnh vực đất đai vì những vai trò to lớn và quan trọng của đất đai như đã nói. Vấn đề đăt ra là nhà nước phải có phương thức quản lý đẻ phù hợp với sự vận dộng của lực săn xuất và quan hệ sản xuất, phương thức quản lý như thế nào để có thể vận dụng đầy đủ các quy luật khách quan của nền kinh tế như quy luật giá cả, quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu. Trong điều kiện kinh tế bao cấp, các mối quan hệ về sử dụng đất thật sự chưa gắn bó với kết quả sản xuất, hiệu quả sử dụng đất. Giá trị to lớn của đất đai chưa được phát huy đầy đủ, sản phẩm làm ra là tự cấp tự túc, chưa có sự trao đổi hàng hoá. Sau khi chuyển đổi cơ chế kinh tế, do chú trọng gắn lợi ích với trách nhiệm của người sử dụng đất cho nên đất đai được sử dụng ngày càng hiệu quả hơn. Đất đai là một tư liệu sản xuất đặc biệt, là phương tiện để phát triển sản xuất liên quan mật thiết đến các hoạt động kinh tế xã hội và liên quan đến quy hoạch tổng thể chung của cả nền kinh tế. Vai trò của nhà nước trong quản lý đất đai là một yêu cầu cần thiết để điều hoà các mối quan hệ giữa chủ thể quản lý là nhà nước và người sử dụng đất. Vai trò quản lý của nhà nước về đất đai như sau: Thông qua hoạch định chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phân bổ đất đai có cơ sở khoa học nhằm phục vụ cho các mục đích kinh tế xã hội của đất nước. Bằng các côn cụ đó, nhà nước sẽ đảm bảo cho việc sử dụng đất đúng mục đích, đạt hiệu quả cao, giúp cho nhà nước quản lý chặt chẽ đất đai, giúp cho người sử dụng đất có biện pháp hữu hiệu để khai thác đất. Nhờ có quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, từng miếng đất, lô đất sẽ được giao cho các đối tượng cụ thể để thực hiện các mục tiêu qaun trọng của nhà nước ví dụ như quy hoạch khu xóm Liều Thanh Nhàn để xây dựng vông viên Tuổi Trẻ. Đó là mục đích được hoạch định từ trước, thông qua quy hoạch, đất đai sẽ không bị bỏ hoang, xoá bỏ được các tụ điểm tệ nạn xã hội để xây dựng thành khu vui chơi gải trí. Thông qua công tác đánh giá phân hạng đất, nhà nước nắm chắc toàn bộ quỹ đất đai cả về số lượng và chất lượng làm căn cứ cho các bịên pháp kinh tế xã hội có hệ thống, có căn cứ khoa học nhằm sử dụng đất đai hiệu quả và hợp lý. Thông qua việc ban hành và tổ chức thực hiện pháp luật đất đai, nhà nước tạo cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các tổ chức kinh tế, doanh nghiệp, cá nhân trong quan hệ về đất đai. Bằng hệ thóng pháp luật và các văn bản pháp quy, nhà nước xác định địa vị pháp lý cho các đối tượng sử dụng. Trên cơ sở đó nhà nước điều chỉnh hành vi của các đối tượng sử dụng đất, hành vi nào là hợp pháp, hành vi nào là không hợp pháp. Thông qua việc ban hành và thực hiện hệ thống chính sách về đất đai như chính sách giá cả, chính sách thuế, đầu tư, chính sách tiền tệ, tín dụng… nhà nước kích thích các chủ thể kinh tế, các cá nhân sử dụng đầy đủ hợp lý đất đai, tiết kiệm đất nhằm nâng cao khả năng sinh lời cuả đất, để góp phần thực hiện mục tiêu kinh tế xã họi của cả nước và để bảo vệ môi trường. Các chính sách đất đai là những công cụ để nhà nước thực hiện vai trò quản lý trong từng giai đoạn nhất định. Nhà nước tạo môi trường thông thoáng, cải cách các thủ tục đầu tư, điều chỉnh các công cụ quản lý đó để tăng đầu tư vào đất. Thông qua việc kiểm tra, giám sát quản lý và sử dụng đất, nhà nước nắm chắc tình hình diễn biến về sử dụng đất đai, phát hiện những vi phạm và giải quyết nhũng vi phạm đó. Với vai trò này, nhà nước đảm bảo cho các quan hệ sử dụng đất đai được vân hành theo đúng quy định của nhà nước. Với việc kiểm tra giám sát, nhà nước có nhiệm vụ phát hiên kịp thời các sai sót ách tắc, các vi phạm trong sử dụng đất của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân. Vai trò này được nhà nước tiến hành với nhiều nội dung khác nhau: + Kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch của các ngành các cấp. + Kiểm tra giám sát việc chấp hành thực hiện các văn bản pháp lý, chủ trương chính sách của nhà nước. + Kiểm tra kiểm soát việc sử dụng đất của cả nước cũng như của từng hộ gia đình cá nhân. + Kiểm tra các công cụ và chính sách quản lý. + Kiểm tra việc thực hiện các vai trò, chức năng quản lý của các cơ quan nhà nước trong lĩnh vực quản lý đất đai. III- NỘI DUNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẤT ĐAI. Điều tra, khảo sát, đo đạc, đánh giá, phân hạng đất lập bản đồ địa chính. Điều tra, khảo sát, đo đạc, đánh giá, phân hạng đất là côn việc đàu tiên của công tác quản lý đất đai. Thông qua công tác này nhà nước mới nắm chắc được toàn bộ vốn đất đai cả về số lượng lẫn chất lượng trong lãnh thổ quốc gia. Mặt khác nhà nước mới có thể đánh giá được khả năng đất đai ở từng vùng, từng địa phương để có mục đích sử dụng đất phù hợp. Đối với đất có tiềm năng lớn cho sản xuất nông nghiệp, thông qua công tác này nhà nước sẽ quy hoạch đất để sử dụng vào mục đích nông nghiệp. Cũng nhờ công tác này mà nhà nước mới có biện pháp và phương hướng sử dụng các loại đất có khoa học và hệ thống. Để nắm được diện tích đất đai, nhà nước phải tiến hành khảo sát đo đạc. Công tác này thuộc về Cục đo đạc trong bộ máy quản lý. Việc đo đạc được tiến hành trên phạm vi cả nước cũng như từng vùng, địa phương. Từ đó cho phép đánh giá về mặt kinh tế của đất đai. Yếu tố kinh tế cả đất được thể hiện thông qua độ phì của đất. Độ phì làm cho cây trồng sinh trưởng và phát triển đem lại hiệu quả cao. Chính vì vậy, trong quá trình sử dụng đất đai đòi hỏi con người phải cải tạo nâng cao chất lượng đất đai. Điều 14 luật đất đai quy định : Chính phủ chỉ đạo UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung điều tra, khảo sát đo đạc đánh giá và phân hạng đất. UBND chỉ đạo cơ quan quản lý theo dõi sự biến động về diện tích, loại đất, người sử dụng đất, kịp thời chỉnh lý các tài liệu về đất đai cho phù hợp với hiện trạng sử dụng đất ở địa phương mình. Việc đánh giá và phân hạng đất là một công việc rất phức tạp. Định giá đất đòi hỏi phải phân hạng đất. Đối với phân hạng đất, nhà nước phải căn cứ vào 5 yếu tố đó là: Điều kiện địa hình, khí hậu, chất đất, điều kiện tưới tiêu, vị trí của khu đất so với đường giao thông hoặc nơi tiêu thụ sản phẩm. Điều 12 luật quy định : Nhà nước xác định giá đất để tính thuế chuyển quyền sử dụng đất, thu tiền khi giao đất, tính giá trị tài sản giao đất, bồi thường thiệt hại về đất khi thu hồi đất. Chính phủ quy định khung giá đối với từng vùng và theo từng thời gian. Để quy định giá đất, Chính phủ đã ban hành nghị định 87CP. Giá đất được xác định cho từng hạng đất, tính thuế sử dụng đất nông nghiệp chia theo ba loại xã: đồng bằng, trung du, miền núi. Giá đất khu dân cư nông thôn được xác định cho từng hạng đất và chia theo ba loại xã. Đối với đất đô thị, giá đất được xác định căn cứ vào từng loại đô thị, trong từng loại đô thị lại chia ra từ 3 đến 4 loại đường phố, trong từng loại đô thị lại chia ra từ 4 đến 5 loại vị trí đất khác nhau. Vị trí này được căn cứ vào điều kiện sinh lời, mức độ hoàn thiện của cơ sở hạ tầng và giá đất của từng vùng trong đô thị. Việc định giá đất còn chịu ảnh hưởng của các yếu tố không gian, thời gian, môi trường, tính pháp lý và yếu tố tâm lý xã hội, quan hệ cung cầu đất. Luật đất đai năm 1993 khẳng định : đất đai thuộc sở hữu toàn dân, nhà nước thống nhất quản lý. Bởi vậy việc định giá đất ở nước ta là xác định gía trị của quyền sử dụng đất, còn quyền chiếm hữu và quyền định đoạt không được xác định gá trị. Chuyển nhượng quyền sử dụng đất đòi hỏi phải xây dựng giá cả quyền sử dụng đất một cách hợp lý phù hợp với giá thị trường và được cả hai bên chấp nhận đó là một yêu cầu cơ bản của công tác định giá đất. Từ đó làm cho giá đất là cầu nối của quan hệ đất đai trên thị trường với sự quản lý của nhà nước. NHà nước có thể điều tiết đất đai thông qua giá cảvà khi đó giá đất mới thật sự phản ánh được tiềm năng kinh tế to lớn của đất đai. Trong cơ chế thị trường, tiềm năng đó phải được tiền tệ hoá. Hơn nữa việc hình thành giá đất còn góp phần hình thành thị trường bất động sản hoạt động lành mạnh trong quan hệ sở hữu toàn dân về đất đai. Nhà nước là người có đủ điều kiện huy động các nguồn lực của xã hội để khai thác đất đai và đất đai lại trở thành phương tiện để nhà nước tạo vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng. Đánh giá tiềm năng đất đai bằng việc định giá đất rất thuận lợi trong điều kiện nền kinh tế thị trường, đòi hỏi người định giá phải có đủ kiến thức về thị trường cũng như về lĩnh vực đất đai mới có thể thực hiện tốt công tác này. Công tác lập bản đồ địa chính được quy định trong điều 15 của luật đất đai. Chính phủ chỉ đạo và tổ chức việc lập bản đồ địa chính thống nhất trên phạm vi cả nước. Cơ quan quản lý đất đai ở trung ương ban hành quy trình kĩ thuật quy phạm xây dựng bản đồ địa chính. UBND tỉnh thành phố trực thuộc trung ương chỉ đạo và tổ chức việc lập bản đồ địa chính ở địa phương mình. Bản đồ địa chính đươc lập theo đơn vị hành chính xã phường, thj ttrấn và là căn cứ để có thể hạn chế, ngăn chặn các hiện tượng tranh chấp đất đai hiện nay. Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất là hệ thống các biện pháp kinh tế, kĩ thuật và pháp lý của nhà nước về tổ chức sử dụng quản lý đất đai một cách đầy đủ hợp lý khoa học và có hiệu quả cao nhất, thông qua việc tính toán phân bổ quỹ đất cho các ngành, các mục đích sử dụng, các tổ chức và cá nhân sử dụng đất nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội và tạo điều kiện bảo vệ đất đai môi trường sinh thái. Thông qua quy hoạch, căn cứ vào những thuộc tính tự nhiên của đất như vị trí, diện tích mà các loại đất được sử dụng theo từng mục đích nhất định và hợp lý. Các thành tựu khoa học công nghệ không ngừng được áp dụng để nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất. Hiệu quả sử dụng đất được thể hiện ở hiệu quả kinh tế xã hội và môi trường mà quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất là cơ sở để đạt được hiệu quả đó. Chính vì vậy cho nên quy hoạch sử dụng đất có vai trò rất quan trọng và được thể hiện như sau: +Quy hoạch sử dụng đất đảm bảo sự quản lý thống nhất của nhà nước, nó không chỉ có ý nghĩa trước mắt mà còn lâu dài. Nhờ có quy hoạch, tính chủ động sáng tạo trong sử dụng đất của các tổ chức, hộ gia đình cá nhân được nâng cao khi họ giao quyền sử dụng đất. + Quy hoạch sử dụng đất tạo cơ sở pháp lý cho việc giao đất, cho thuê đất để đầu tư phát triển kinh tế xã hội, góp phần chyển dịch cơ cấu kinh tế, đảm bảo an ninh lương thực, thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.Thông qua quy hoach, đất đai từng bước được hoạch định chiến lược để sử dụng cho mục đích nông nghiệp, lâm nghiệp, phát triển công nghiệp, đô thị, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội pphù hợp với quỹ đất của một quốc gia, một vùng hay một địa phương nào đó. + Quy hoạch sử dụng đất là công cụ hữu hiệu giúp cho nhà nước nắm chắc được quỹ đất mà xây dựng chính sách sử dụng đất một cách đồng bộ, hạn chế sự chồng chéo trong quản lý đất đai, ngăn chặn các hiện tượng chuyển mục đích sử dụng tuỳ tiện. Kết quả của công tác quy hoạch phải đảm bảo 3 điều kiện : Kỹ thuật, kinh tế và pháp lý. Điều kiện về mặt kinh tế được thể hiện ở hiệu quả của việc sử dụng đất, điều kiện về mặt kỹ thuật thể hiện ở các công việc chuyên môn như điều tra, khảo sát đo đạc, xây dựng bản đồ dịa chính, điều kiện về mặt pháp lý là quy hoạch phải tuân theo các quy định của pháp luật, theo sự phân công phân cấp của nhà nước đối với công tác quy hoạch. Công tác quy hoạch sử dụng đất đã được khẳng định trong Hiến pháp 1992, theo đó nhà nước thông nhất quản lý đất đai theo quy hoạch. Luật đất đai năm 1993 cũng quy định : Căn cứ để nhà nước giao đất cho thuê đất là quy hoạch sử dụng đất. Về thẩm quyền lập quy hoạch : Chính phủ lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất trong cả nước trình quốc hội quyết định. UBND các cấp lập quy hoạch kế hoạch sử dụng đất trong địa phương mình. Bộ quốc phòng, bộ Công an căn cứ vào nhiệm vụ quyền hạn của mình lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất do bộ mình phụ trách và trình chính phủ xét duyệt. Quy hoạch sử dụng đất bao gồm quy hoạch tổng thể sử dụng đất trên phạm vi cả nước, quy hoạch sử dụng đất cấp tỉnh, quy hoạch sử dụng đất cấp huyện và quy hoạch sử dụng đất cấp xã. Quy hoạch sử dụng đất cấp trên là căn cứ để lập quy hoạch sử dụng đất của cấp đơn vị hành chính cấp dưới trực tiếp. Nội dung của công tác quy hoạch là: Khoanh định các loại đất trong từng địa phương và trong phạm vi cả nước, điều chỉnh việc khoanh định nói trên cho phù hợp với giai doạn phát triển kinh tế xã hội. Vấn đề chú ý khi lập quy hoạch là quy hoạch phải đảm bảo tính thống khoa học và dự báo, quy hoạch phải được công bố rộng rãi cho công chúng biết. Kế hoạch sử dụng đất là chỉ tiêu cụ thể hoá quy hoạch. Công tác kế hoạch tập trung những nguồn lực hạn hẹp vào giải quyết có hiệu những vấn đề trọng tâm của kế hoạch trong từng thời kì. Nội dung của kế hoạch sử dụng đất là : Khoanh định việc sử dụng từng loại đất trong từng thời kì kế hoạch và điều chỉnh kế hoạch sử dụng đất cho phù hợp với quy hoạch. Vấn đề cần chú ý khi lập kế hoạch sử dụng đất là: +Đẩy mạnh thực hiện kế hoạch theo chương trình của dự án. +Giải quyết tốt mối quan hệ giữa kế hoạch và thị trường. +Coi trọng công tác kế hoạch, nâng cao trách nhiệm của người làm công tác kế hoạch. +Tăng cường chất lượng công tác kế hoạch. Ban hành văn bản pháp luật và hướng dẫn thực hiện văn bản đó: Văn bản pháp luật về quản lý sử dụng đất là những văn bản không chỉ cung cấp thông tin mà còn thể hiện ý chí mệnh lệnh của các cơ quan quản lý đối với người sử dụng đất nhằm thực hiện các quy định luật lệ của nhà nước. Công tác xây dựng văn bản pháp luật về quản lý sử dụng đất là một nội dung quan trọng không thể thiếu trong hoạt động quản lý nhà nước về đất đai. Dựa trên việc ban hành các văn bản pháp luật này, nhà nước buộc các đối tượng sử dụng đất phải thực hiện các quy định về sử dụng theo một khuôn khổ do nhà nước đặt ra. Văn bản pháp luật quản lý sử dụng đất biểu hiện quyền lực của các cơ quan quản lý nhà nước về đất đai, nhằm lập lại một trật tự pháp lý theo mục tiêu của các cơ quan quản lý. Văn bản pháp luật nói chung và văn bản pháp luật quản lý sử dụng đất nói riêng mang tính chất nhà nước. Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Vì vậy văn bản pháp luật đất đai vừa thể hiện được ý chí của nhà nước vừa thể hiện được nguyện vọng của đối tượng sử dụng đất đai Thông tin quản lý có thể được truyền tải dưới dạng vô tuyến, fax… nhưng văn bản vẫn giữ một vị trí quan trọng. Nó là phương tiện truyền đạt thông tin chính xác và bảo đảm các yêu cầu về mặt pháp lý chặt chẽ nhất. Ngoài ra, văn bản pháp luật đất đai còn là cơ sở để giúp cho các cơ quan quản lý tiến hành kiểm tra, thanh tra giám sát hoạt động của các cơ quan Nhà nước, các tổ chức, hộ gia đình cá nhân sử dụng đất. Kiểm tra là một khâu tất yếu để đảm bảo cho việc sử dụng đất đạt hiệu quả. Nếu không có kiểm tra thì các Nghị quyết, nghị định, chỉ thị được ban hành chỉ là hình thức. Văn bản quản lý nhà nước về đất đai có hai loại hình: Văn bản quy phạm pháp luật. Văn bản quy phạm pháp quy. Văn bản quy phạm pháp luật bao gồm các văn bản luật và dưới luật. Các văn bản Luật bao gồm Luật, Hiến pháp, pháp luật. Các quy định của Hiến pháp là căn cứ cho tất cả các ngành luật. Còn luật là các văn bản có giá trị sau Hiến pháp nhằm cụ thể hoá các quy định của Hiến pháp. Văn bản pháp quy là các văn bản dưới luật, chứa đựng các quy tắc sử sự chung được áp dụng nhiều lần do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo một trình tự thủ tục nhất định nhằm cụ thể hoá luật, pháp lệnh. Văn bản pháp quy được ban hành nhằm đưa ra các quy phạm pháp luật thể hiện quyền lực của nhà nước được áp dụng vào thực tiễn. Đó là phương tiện để quản lý nhà nước, để thể chế hoá và thực hiện sự lãnh đạo của Đảng, quyền làm chủ của nhân dân. Mặt khác nó còn cung cấp các thông tin quy phạm pháp luật mà thiếu nó thì không thể quản lý được. Văn bản pháp quy bao gồm: Nghị định, quy định, chỉ thị, thông tư… nhằm hướng dẫn thực hiện các quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, giải thích các chủ trương chính sách và đề ra các biện pháp thi hành các chủ trương đó. Giao đất, cho thuê, thu hồi đất. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các mối quan hệ xã hội trong lĩnh vực đất đai phát triển đa dạng hơn, phức tạp hơn. Mối quan hệ đó được xây dựng trên cơ sở sự phát triển cả lực lượng sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Thực hiện chủ trương chính sáchcủa Đảng, nhà nước đã giao đất đén từng hộ gia đình cá nhân sử dụng lâu dài và ổn định để sản xuất nông nghiệp theo nghị đinh số 85/1999/NĐ-CP, sản xuất lâm nghiệp theo nghị định số 163/1999/NĐ-CP( thay thế cho nghị định 64CP và nghị định 02CP). Hộ gia đình cá nhân được nhà nước giao đất có quyền chuyển đỏi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp giá trị quyền sử dụng đất. *Chính sách giao đất của nhà nước thể hiện như sau: Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất : + Các tổ chức trồng rừng và bảo vệ rừng phòng hộ, rừng đặc dụng. + Các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị xã hội sử dụng đất để xây dựng trụ sở làm việc, sử dụng vào mục đích an ninh quốc phòng, xây dựng các công trình thuộc các ngành và lĩnh vực sự nghiệp về kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học, kĩ thuật, ngoại giao. + Hộ gia đình cá nhân trực tiếp lao động nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản, làm muối mà nguồn sống chủ yếu là thu nhập có được từ các hoạt động sản xuất đó. + Tổ chức sử dụng đất vào mục đích công cộng. Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất: + Hộ gia đình cá nhân có nhu cầu sử dụng đất làm nhà ở. + Tổ chức kinh tế sử dụng đất đầu tư xây dựng nhà ở để bán và cho thuê. +Tổ chức kinh tế đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng để chuyển nhượng hoặc cho thuê quyền sử dụng đất gắn với kết cấu hạ tầng đó. +Giao đất có thu tiền sử dụng đất đối với một số trường hợp để tạo vốn xây dựng cơ sở hạ tầng theo dự án. Nhà nước cho thuê đất: +Tổ chức kinh tế sử dụng đất để sản xuất kinh doanh theo dự án đã được phê duyệt trừ các doanh nghiệp nhà nước đang sử dụng đất vào sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản làm muối. + Các tổ chức và cá nhân người nước ngoài. Thẩm quyền giao đất, cho thue đất được quy định theo điều 23,24 của luật đất đai. Thẩm quyền gao đất cho thuê đất không phải sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, làm muối được quy định như sau: Chính phủ: FGiao đất có thu tiền sử dụng đất để tạo vốn xây dựng cơ sở hạ tầng theo dự án FGiao đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng an ninh. UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giao đất cho thuê đất cho các tổ chức sử dụng đất, hộ gia đình cá nhân tại nội thành, nội thị. UBND quận huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh quyết định giao đất, cho thuê đất cho hộ gia đình, cá nhân. Đối với đất sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, làm muối thì thẩm quyền giao quy định như sau: +UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giao đất cho thuê đất cho tổ chức kinh tế sử dụng đất, UBND quận huyện, thị xã,thành phố thuộc tỉnh giao đất cho thuê đất cho hộ gia đình cá nhân. Hạn mức giao đất do Chính phủ quy định đối với từng vùng và từng loại đất. *Thu hồi đất: Nhà nước thu hồi một phần hoặc toàn bộ đất đã giao sử dụng trong những trường hợp sau: Tổ chức sử dụng đất bị giải thể phá sản, chuyển đi nơi khác, giảm nhu cầu sử dụng đất, cá nhân người sử dụng đất đã chết mà không có người được quyền tiếp tục sử dụng đất đó. Người sử dụng đất tự nguyện trả lại đất dược giao. Đất không sử dụng trtong 12 tháng liền mà không được cơ quan có thẩm quyền cho phép. Người sử dụng đất không thực hiện các nghĩa vụ đối với nhà nước. Đất giao không đúng thẩm quyền. Trong trường hợp thu hồi đất để phục vụ mục đích công cộng, lợi ích quốc gia, xây dựng các cơ sở hạ tầng nhằm mục đích phát triển kinh tế xã hội, nhà nước có chính sách đảm bảo cuộc sống cho những người có đất bị thu hồi, có các chính sách đền bù hỗ trợ theo các quy định của chính phủ. Đăng ký đất, lập và quản lý sổ địa chính, quản lý hợp đồng sử dụng đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thống kê đất. Đăng ký đất là một thủ tục hành chính do cơ quan nhà nước thực hiện đối với các đối tượng sử dụng đất là tổ chức, hộ gia đình, cá nhân. Vì đất đai là một tư liệu sản xuất đặc biệt, có giá trị cao bởi vậy việc sử dụng đất của bất kỳ đối tượng nào cũng phải đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Việc đăng ký đất được thực hiện đối với mọi loại đất trên phạm vi cả nước trong những trường hợp sau: Khi nhà nước giao quyền sử dụng đất. Khi chuyển đổi mục đích sử dụng đất. Khi thực hiện chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế quyền sử dụng đất. Khi thực hiện các hợp đồng về sử dụng đất. Tóm lại, đăng ký đất có hai hình thức đó là đăng ký ban đầu và đăng ký biến động. Thông qua đăng ký đất, xác lập mối quan hệ pháp lý đầy đủ giữa nhà nước với người sử dụng đất làm cơ sở để quản lý đất đai một cách chặt chẽ theo pháp kuật vầ cũng là để bảo vệ quyền lợi của người sử dụng. Đăng ký đất thực chất là quá trình thiết lập hồ sơ địa chính và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho những người có đủ điều kiện từ đó nó tạo ra cơ sở pháp lý để phat huy các quyền của người sử dụng đất. Đăng ký đất phải được thực hiện thương xuyên liên tục để có thể phản ánh kịp thời cập nhật những biến động đất đai. Đăng ký đất thường được tiến hành ở cấp xã, do xã là đơn vị cơ sở, là đầu mối tiếp xúc với người dân ngay tại địa phương mìmh quản lý. Mặt khác, cấp xã cũng là nơi truyền tải trực tiếp những quy định của nhà nước về sử dụng đất đến người dân và cấp xã cũng là đơn vị nắm rõ nhất được tình hình đất đai cũng như biến động đất đai dựa trên hệ thống hồ sơ địa chính do xã quản lý. Hồ sơ địa chính và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cung cấp thông tin đầy đủ nhất, là cơ sở để bảo vệ các quyền của người sử dụng đất khi xảy ra tranh chấp cũng như xác định nghĩa vụ tài chính mà họ phải tuân thủ theo pháp luật. Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do cơ quan quản lý đất đai ở trung ương phát hành. UBND tỉnh, thành phố thuộc trung ương cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho tổ chức và đối tượng được chính phủ quyết định giao đất. UBND quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình cá nhân. Quá trình đổi mới kinh tế đã làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đây chính là nguyên nhân làm cho đất đai bị biến động cả về diện tích cũng như đối tượng sử dụng đất. Vì vậy phải tổ chức công tác thống kê, kiểm kê đất đai để có thể nắm rõ được những biến động đó. Thống kê đất đai được tiến hành hàng năm và kiểm kê đất đai được tiến hành 5 năm một lần. Đơn vị thống kê, kiểm kê đất đai là đơn vị lập sổ địa chính, đó là UBND xã phường, thị trấn. UBND các cấp có trách nhiệm tổ chức thực hiện việc thống kê, kiểm kê đất đai ở địa phương mình. Thanh tra việc chấp hành các văn bản về quản lý sử dụng đất. Quản lý nhà nước về đất đai không thể thiếu được hoạt động này. Điều 37 luật đất đai quy định : Chính phủ tổ chức việc thanh tra đất đai trong cả nước, UBND các cấp tổ chức thanh tra đất đai trong địa phương mình. Nội dung thanh tra đất đai đươc quy định như sau: Thanh tra việc quản lý Nhà nước về đất đai của UBND các cấp. Thanh tra việc chấp hành luật đất đai của người sử dụng đất. Giải quyết các khiếu nại tố cáo đối với hành vi vi phạm luật đất đai. Về xử lý các sai phạm trong việc quản lý sử dụng đất tùy theo tính chất nghiêm trọng, mức độ tác hại và hậu quả của các trường hợp sai phạm mà các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện phương sách cho phù hợp. Giải quyết các tranh chấp về đất đai, giải quyết các khiếu nại tố cáo các vi phạm trong quản lý và sử dụng đất: Quá trình sử dụng đất không thể không xảy ra các tranh chấp, khiếu nại, kiện tụng giữa các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân với nhau. Việc này xảy ra khi các đối tượng sử dụng đất bị xâm phạm đến lợi ích cuả mình. Chính vì vậy, vai trò của nhà nước là rất lớn trong việc giải quyết những vấn đề này. Nhà nước khuyến khích việc hòa giải các tranh chấp đất đai trong nhân dân, đảm bảo trật tự công bằng xã hội đôi bên cùng có lợi. Công tác giải quyết các tranh chấp được quy định theo chức năng thẩm quyền của cơ quan quản lý từ UBND quận, huyện đến UBND thành phố trực thuộc trung ương. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẤT ĐAI. Nhân tố pháp luật: Thực tiễn và kết quả của công cuộcđổi mới mang lại ngày càng chứng minh không thể thiếu được pháp luật trong đời sống xã hội. Bởi vì đường lối của Đảng không thể thực hiện được nếu đường lối đó không được nhà nước thể chế thành pháp luật. Nhà nước không thể tổ chức thực hiện đường lối của Đảng và quản lý xã hội một cách có hiệu quả nếu không thực hiên quản lý bằng pháp luật, các quyền tự do dân chủ của công dân không thể thưc hiện nếu không có pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Đảng ta xác định nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Chính vì thế cho nên pháp luật sẽ có tác động mạnh mẽ đến công tác quản lý. Một hệ thống pháp luật đồng bộ, rõ ràng, cụ thể làm cho công tác quản lý được hiệu quả và thuân lợi. Vì các cơ quan quản lý theo đúng pháp luật quy định mà thực hiện, không gặp những vướng mắc trở ngại nào nếu như văn bản pháp luật đó mang tính khoa học và cụ thể. Pháp luật có ý nghĩa quan trọng đối với mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Cơ cấu kinh tế hàng hoá nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh đa dạng cùng với các mối quan hệ sử dụng đất đai phức tạp đòi hỏi pháp luật nói chung và luật đất đai nói riêng phải tạo nên một môi trường pháp lý thuận lợi cho hoạt động tự do kinh doanh phát triển, tạo cơ hội cho mọi người làm ăn sinh sống theo pháp luật. Bên cạnh đó, pháp luật còn tạo điều kiện để nhà nước thực hiện được vai trò người điều hành nền kinh tế thị trường, pháp luật còn là công cụ để nhà nước kiểm tra các hoạt động kinh doanh, trừng trị các hành vi vi phạm pháp luật. Ngoài ra, pháp luật còn xác lập, củng cố và hoàn thiện những cơ sở pháp lý của nhà nước, đặc biệt là trong lĩnh vực quản lý nhà nước về đất đai nhằm phát huy cao nhất hiệu lực của cơ quan quản lý. Để đạt được điều đó, pháp luật phải xác định rõ các nguyên tắc tổ chức và hoạt động cũng như thẩm quyền của cơ quan Nhà nước. Pháp luật của nhà nước ta hiện nay phải là cơ sở để hoàn thiện bộ máy nhà nước phù hợp với cơ chế mới mà trước hết phải cải cách một bước nền hành chính quốc gia. Nhưng thực tế luật đất đai hiện nay cho thấy vẫn còn có một số hạn chế làm giảm hiệu lực của cơ quan nhà nước. Đó là do luật đất đai được xây dựng trong điều kiện kinh tế đang từng bước hoàn thiện, chưa lường trước được sự chuyển biến tình hình vì vậy luật còn quy định chung chung, mặt khác việc hướng dẫn thực hiện luật còn chậm, thiếu đồng bộ và cụ thể làm cho các cấp lúng túng trong việc thi hành bởi vậy hiệu quả quản lý nhà nước về đất đai vẫn còn thấp. Từ đó ta có thể thấy nhân tố pháp luật có tác động mạnh đến công tác quản lý đất đai. Nó có thể làm nâng cao hiệu quả hoặc làm giảm hiệu lực quản lý. Chính vì thế kiện toàn hệ thống pháp luật là vấn đề cấp bách hiện nay. Nhân tố xã hội: Nhân tố xã hội có vai trò đặc biệt quan trọng trong tổ chức điều hành quản lý xã hội và tăng cường chức năng quản lý của nhà nước về mọi lĩnh vực nói chung cũng như về lĩnh vực đất đai nói riêng. Một chính sách quản lý đất đai đúng đắn phải đề cập đến các yếu tố xã hội, từ đó nó không những làm ổn định xã hội mà còn tăng cường vai trò quản lý của nhà nước và cơ quan quản lý. Các yếu tố xã hội như việc làm, xoá đói giảm nghèo, chăm sóc bảo vệ cho nhân dân, ưu đãi người có công với cách mạng, văn hoá, y tế, dân tộc … cũng ảnh hưởng đến công tác quản lý nói chung và quản lý đất đai nói riêng. Giải quyết được việc làm sẽ góp phần đảm bảo trật tự an ninh trong xã hội, giảm bớt các tệ nạn xã hội do thiếu việc làm gây ra, điều đó sẽ thể hiện rõ bản chất của một chế độ do con người vì con người và tạo mọi điều kiện để con người tự do sáng tạo nuôi sống mình, đóng góp cho sự tiến bộ của xã hội. Yếu tố này làm cho công tác quản lý đất đai được nhẹ nhàng hơn và hiệu lực quản lý từng bước được nâng cao. Bởi vì các tệ nạn xã hội đã bị giảm bớt, công bằng xã hội được thiết lập và đảm bảo cho cơ quan quản lý thực hiện trách nhiệm quản lý dễ dàng hơn. Việc thực hiện chính sách người có công với cách mạng như tặng nhà tình nghĩa, không phải nộp tiền thuê đất … là công việc quản lý thể hiện truyền thống uống nước nhớ nguồn của dân tộc ta. Tập trung đầu tư cho giáo dục, văn hoá để nâng cao nhận thức về pháp luật cho mọi người là việc làm quan trọng, để cho mọi người thấy rõ được chủ trương, đường lối chính ssách của Đảng trong công tác quản lý. Sự ổn định về mặt xã hội là yếu tố để nâng cao hiệu quả quản lý đất đai. Một yếu tố quan trọng khác cũng có ảnh hưởng đến quản lý đất đai đó là phon._. những tồn tại trên và nhiều hiện tượng vi phạm pháp luật vẫn xảy ra. Sự quan tâm chỉ đạo của các cáp quận uỷ địa phương còn chưa thường xuyên và sâu sát, công tác quản lý và hiệu lực của chính quyền các cấp một số nơi chưa chặt chẽ, chưa theo kịp với yêu cầu trong quản lý cũng là nguyen nhân không nhỏ gây khó khăn khi tién hành thanh tra, kiểm tra xử lý v phạm. Tổ chức quản lý Nhà nước về đất đai có nhiều khâu, nhiều việc còn chồng chéo giữa cơ quan chức năng, gây ách tắc trong quá trình chỉ đạo thực hiện. Việc quy hoạch xây dựng mở rộng đô thị ảnh hưởng rất lớn đến tiến độ và kết quả giao đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp theo nghị định 64 CP. Bên cạnh đó phương pháp giao đất không thống nhất của các cơ quan từ trung ương đến địa phương cũng là nguyên nhân làm cho cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chậm, làm cho công tác quản lý đất chưa thực sự hiệu quả. Quản lý các cấp các ngành còn chưa đồng bộ từ trung ương đến xã phường, làm hạn chế việc chỉ đạo thực hiện những vấn đề mang tính chất chính trị và cấp bách của thành phố. Một số ngành có liên quan của thành phố chưa tích cực tham gia, tham gia không thường xuyên trong công tác đôn đốc, hướng dẫn, kiểm tra các quy định quận, huyện thực hiện các quyết định của thành phố Những kết quả đạt được của công tác quản lý đất đai tạo tiền đề quan trọng để thực hiện các nhiệm vụ đặt ra cho những năm tiếp theo, đồng thời cũng khuyến khích động viên cán bộ địa chính phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Việc tìm ra những nguyên nhân của những hạn chế nhằm khắc phục, giải quyết triệt để những hạn chế đó góp phần đưa công tác quản lý đất đai trên địa bàn thành phố vào nề nếp theo quy định của pháp luật. CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA CÔNG TÁC QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI I. Quan điểm của việc quản lý Thực tiễn của hơn 15 năm tiến hành công cuộc đổi mới cho thấy quan điểm đúng đắn của Đảng về giải phóng mọi tiềm năng của lực lượng sản xuất đã tạo ra những động lực to lớn trong phát triển kinh tế xã hội. Đường lối kinh tế, các giải pháp đúng đắn đã nâng cao năng lực sản xuất, phát huy cao độ tiềm lực của nhân dân, tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế, mọi người dân ra sức làm ăn để làm giàu cho mình và cho đất nước. Những năm qua, đường lối, cơ chế chính sách pháp luật của Đảng và nhà nước ta về vấn đề đất đai là đúng đắn sáng tạo. Việc giao đất ổn định lâu dài cho hộ gia đình cá nhân đã giải quyết được vấn đề lương thực và dành một phần cho xuất khẩu. Các nguồn thu từ đất như giao đất có thu tiền, cho thuê đất, thuế chuyển quyền sử dụng đất… đã tạo ra một nguồn thu ổn định cho ngân sách nhà nước. Mặt khác, quan hệ đất đai luôn luôn biến đổi và để cho đất đai trở thành một hàng hoá đặc biệt hình thành nên thị trường bất động sản đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước thì đòi hỏi phải có những quan điểm quản lý đúng đắn phù hợp với sự thay đổi về cơ chế quản lý kinh tế của nhà nước ta hiện nay. 1. Quan điểm kết hợp giữa quyền sở hữu với quyền sử dụng và đảm bảo sự quản lý tập trung thống nhất của nhà nước Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước thống nhất quản lý, quan điểm này đã được khẳng định trong các văn kiện đại hội Đảng và được ghi nhận trong hiến pháp 1992. Đây là quan điểm cực kì quan trọng và đúng đắn của Đảng ta bởi vì đất đai của nước ta ngày nay là kết quả của quá trình chế ngự thiên nhiên và chống giặc ngoại xâm của dân tộc với hàng nghìn năm dựng và giữ nước, trải qua nhiều thế hệ nhân dân ta đã đổ nhiều sức lực và xương máu để giữ gìn từng tấc đất. Chính vì vậy đất đai phải thuộc sở hữu toàn dân, nhà nước là người thay mặt nhân dân đứng lên quản lý toàn bộ đất đai, nhà nước là chủ sở hữu đối với đất đai, có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt số phận pháp lý của đất đai. Sự kết hợp giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng chính là sự gắn bó thống nhất giữâ hai quyền này. Từ đó trách nhiệm của chủ sở hữu cũng như hiệu quả sử dụng đất của các đối tượng sử dụng được nâng cao. Sự kết hợp giữa hai quyền này đảm bảo cho quyền sở hữu vẫn không hề thay đổi còn quyền sử dụng được thực hiện bằng hình thức nhà nước giao đất cho các hộ gia đình cũng như tổ chức kinh tế sử dụng lâu đài ổn định, ngoài ra nhà nước còn cho thuê đất, có quyền thu hồi đất khi cần thiết. Việc sử dụng đất của các đối tượng được nhà nước bảo đảm bằng pháp luật và từ đó mở rộng các quyền của người sử dụng đất như chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp giá trị quyền sử dụng đất. Từ đó cho thấy nhà nước quan tâm đến lợi ích của những người sử dụng đất và nhà nước công nhận quyền và nghĩa vụ của họ nhất là các hộ gia đình, cá nhân đã tạo ra động lực thúc đẩy quá trình sử dụng đất đai hợp lý hơn, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp ngày càng phát triển. Đất đai là tài sản quốc gia vô cùng quan trọng và quý giá của mỗi dân tộc. Không có một tổ chức hay một tập đoàn nào có thể đứng ra quản lý đất đai. Chỉ có nhà nước, người đại diện hợp pháp của mọi tầng nhân dân mới có quyền tối cao để quản lý đất đai. Và cũng chỉ có nhà nước mới có khả năng biến mọi đường lối chủ trương của Đảng thành kế hoạch để có thể quản lý đất đai. Nhà nước phải nắm giữ quyền thống nhất quản lý những vấn đề cơ bản trong tay mà đại diện là các cơ quan như chính phủ, các bộ, đồng thời nhà nước giao quyền cho các địa phương, các ngành tức là thực hiện phân cấp quản lý, nhà nước giao quyền được sáng tạo và linh hoạt trong tổ chức quản lý điều hành để thực hiện luật và các văn bản pháp quy của trung ương cho các cấp, các ngành. Quyền quản lý tập trung thống nhất của nhà nước được quy định là cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng trung ương, thực hiện chế độ một thủ trưởng ở tất cả các đơn vị, các cấp, đảm bảo mối quan hệ chặt chẽ và tối ưu giữa các hoạt động trong quá trình quản lý sử dụng đất. Nhà nước phải dùng quyền lực của mình để hoàn chỉnh hệ thống pháp luật đất đai, làm cho pháp luật đất đai được thực hiện nghiêm minh. Quyền quản lý tập trung thống nhất được thực hiện ở việc nhà nước thông qua công tác quy hoạch kế hoạch để điều chỉnh các hoạt động sử dụng đất và cũng dựa vào đó nhà nước giao đất cho thuê đất cho các đối tượng sử dụng đất. Thông qua hệ thống văn bản pháp lý về quyền quản lý mà văn bản có tính chất pháp lý cao nhất là Luật đất đai để thực hiện quyền thống nhất quản lý. Để đảm bảo quyền này, nhà nước phải sử dụng các công cụ quản lý và phương pháp quản lý thích hợp. Nếu sử dụng tốt các công cụ quản lý và phương pháp quản lý thì quyền quản lý tập trung thống nhất của nhà nước sẽ được duy trì và vai trò quản lý nhà nước về đất đai sẽ được phát huy đầy đủ. Ngược lại, nếu công cụ quản lý sử dụng không tốt, không có sự kết hợp một cách hiệu quả giữa công cụ và phương pháp quản lý đặc biệt là trong cơ chế thị trường thì quyền quản lý tập trung thống nhất bị giảm đi, đất đai sử dụng không hiệu quả và vi phạm luật đất đai ngày càng tăng. 2. Quan điểm kết hợp quản lý đất đai với vấn đề bảo vệ môi trường và các vấn đề xã hội.. Vấn đề rất lớn đặt ra trong quản lý đất đai khi đẩy mạnh công ngiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là sử dụng đất đai, các tài nguyên thiên nhiên từ lòng đất có hiệu quả và phải bảo vệ môi trường. Đây là vấn đề thách thức đối với các cơ quan quản lý nhà nước về đất đai. Mỗi hoạt động của con người đều làm biến đổi môi truờng một cách mạnh mẽ. Vấn đề ô nhiễm đất, lạm dụng các chất hoá học, xác sinh vật, động vật, các chất thải công nghiệp … sẽ làm giảm năng suất chất lượng cây trồng, huỷ diệt sự sống của một số sinh vật khác và đe doạ dến sức khoẻ con người. Sự ô nhiễm không khí do sử dụng các phương tiện vận tải, của các nhà máy công nghiệp cùng quá trình đô thị hoá làm cho môi trường sinh thái bị mất cân bằng. Nguồn nước sạch đang ngày càng khan hiếm, các tài nguyên thiên nhiên cũng đang trong quá trình cạn kiệt dần. Đặc biệt là tài nguyên đất bị khai thác tuỳ tiện. Sự mất cân bằng sinh thái làm biến đổi khí hậu và làm tăng các thiên tai dồn dập gây hậu quả to lớn. Tất cả những thách thức về môi trường đó đòi hỏi chúng ta phải khai thác giư gìn đất đai, phát huy tiềm năng của rừng, mặt khác phải chăm sóc bảo vệ rừng, bảo vệ nguồn nước, phủ xanh đất trống, đồi trọc, bảo vệ các di tích lịch sử, các công trình văn hoá… Vì vậy phải có kế hoạch sử dụng đất một cách hợp lý, khoa học và trong quá trình sử dụng phải kết hợp với các vấn đề xã hội, bảo vệ môi trường. Đó là sự đảm bảo hạnh phúc lâu dài cho các thế hệ. Do đó phải thực hiện quan điểm này trong quá trình quản lý đất đai. 3. Quan điểm quản lý đảm bảo tính hệ thống và đồng bộ. Có thể nói, đất đai là tài nguyên quý giá của đất nước và vấn đề quản lý, sử dụng đất đai đã được nhà nước ta phân cấp cụ thể cho các cơ quan quản lý từ trung ương cho đến địa phương. Việc quản lý đất đai bao gồm 7 nội dung mà các nội dung quản lý đều có liên quan đến nhau, thực hiện quản lý theo 7 nội dung này phải đảm bảo tính hệ thống từ nội dung thứ 1 cho đến nội dung thứ 7, từ việc xác định ranh giới diện tích đất để xác định chủ sử dụng cụ thể của mảnh đất đó, đến việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho họ và đăng kí cập nhật biến động đất đai … Công tác quản lý này liên quan đến nhiều cơ quan quản lý : quản lý chuyên môn và quản lý hành chính. Cụ thể về đất đai liên quan đến UBND thành phố, Sở địa chính nhà đất, UBND quận- Phòng ĐC-NĐ quận, UBND phường- cán bộ địa chính nhà đất phường. Nội dung quản lý nhà nước về đất đai cũng được quy định trong các văn bản nghị định, quy định, quyết định, chỉ thị, thông tư hướng dẫn …của nhà nước và các cơ quan liên quan. Để thực hiện tốt công tác quản lý đất đai, bảo vệ chế độ sở hữu đất đai thì quản lý phải được triển khai một cách đồng bộ, đảm bảo tính hệ thống trong suốt quá trình thực hiện nội dung, trong việc ra quyết định của các cơ quan quản lý cấp trên cho đến các cơ quan cấp dưới, giữa các cơ quan liên ngành với nhau. Tính đồng bộ được thể hiện ở việc ban hành các văn bản, văn bản được ban hành phải đảm bảo cho việc áp dụng dễ dàng, không chồng chéo và mâu thuẫn với nhau. Nội dung quy định về quản lý hay hướng dẫn thực hiện các quy định, quyết định … do các cơ quan quản lý chuyên môn và quản lý hành chính phải nhất quán với nhau. Trong trường hợp một số các quy định do cơ quan quản lý ban hành không phù hợp với thực tế cần phải rà soát và bổ sung, sửa đổi để đảm bảo cho nội dung được ban hành không bị lạc hậu giúp cho công tác quản lý được thực hiện tốt. 4. Chủ động xây dựng và quản lý tốt thị trường bất động sản Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng đã nêu rõ : “ Tổ chức quản lý tốt thi trường bất động sản. “. Trong bộ luật dân sự cũng đã quy định :” Đất đai là một yếu tố bất động sản “. Như vậy chủ trương, đường lối chính sách pháp luật của nhà nước về thị trường bất động sản đã được hình thành. Tuy vậy trong thực tế vẫn còn có những ý kiến khác nhau về vấn đề đất đai có phải là hàng hoá không, đất đai tham gia thị trường bất động sản như thế nào. Mặt khác chủ trương về thị trường bất động sản của Đảng và nhà nước đã được thể hiện nhưng các quy định cụ thể của pháp luật đất đai đối với vấn đề này còn chưa rõ. Thực tế cho thấy, kể cả từ trước khi pháp luật đất đai cho phép, thị trường bất động sản ngầm đã từng tồn tại và hoạt động. Việc buông lỏng quản lý thị trường, để thị trường ngầm phát triển vừa làm mất đất, mất tiền và sự công bằng trong xã hội không được thực hiện tốt, khoảng cách giàu nghèo ngày càng tăng. Trong thời gian vừa qua, thị trường bất động sản ở Hà Nội đã trở nên sôi động, đã xảy ra những cơn sốt đất nằm ngoài sự kiểm soát của nhà nước, gây khó khăn cho công tác quản lý đất đai. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này mà nguyên nhân cơ bản là các quy định của pháp luật về bất động sản còn thiếu và không kịp thời với yêu cầu thực tế. Chính vì vậy để có thể xây dựng một thị trường bất động sản hoạt động hiệu quả và lành mạnh thì phải coi đất đai là một tư liệu hàng hoá đặc biệt, là yếu tố quan trọng để phát triển sản xuất và phải chủ động xây dựng thị trường bất động sản, tiến tới xoá bỏ thị trường phi chính thức trên địa bàn thành phố. II. Các giải pháp chủ yếu để nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước về đất đai trên địa bàn Hà Nội: Việc đảm bảo cho đất đai được sử dụng theo đúng pháp luật, nhằm tạo được trật tự kỉ cương trong quản lý sử dụng, thúc đẩy sự phát triển của các quan hệ đất đai, hình thành thị trường bất động sản trên phạm vi cả nước nhất là ở các đô thị lớn trong đó có Hà Nội là vấn đề hết sức bức xúc hịên nay. Từ thực trạng của công tác quản lý nhà nước về đất đai trên địa bàn trong thời gian qua và các quan điểm quản lý, căn cứ vào pháp luật đất đai hiện hành, em xin đề xuất một số giải pháp sau: Đào tạo đội ngũ cán bộ địa chính: -Đổi mới công tác cán bộ, nâng cao trình độ năng lực của người làm công tác địa chính. Bởi vì cán bộ là nguyên nhân của mọi nguyên nhân cho nên cần phải đào tạo, nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ địa chính là yêu cầu cấp bách. + Xây dựng quy hoạch đội ngũ cán bộ làm công tác địa chính, trong đó chú trọng cả hai phẩm chất đạo đức chính trị và trình độ năng lực chuyên môn. Việc xây dựng và tiêu chuẩn hoá cán bộ có ý nghĩa lớn đối với việc đào tạo bồi dưỡng, lựa chọn và sử dụng có hiệu quả cán bộ công chức địa chính trong quản lý nhà nước về đất đai, góp phần nâng cao hiệu quả của công tác quản lý. + Đào tạo và đào tạo lại cán bộ địa chính, trang bị kiến thức quản lý đất đai trên bình diện rộng, làm cho cán bộ địa chính thấy vai trò vô cùng quan trọng của đất đai đối với nền kinh tế - chính trị - xã hội. + Đặc biệt chú trọng công tác địa chính ở cấp xã phường, nâng cao trình độ năng lực chuyên môn của đội ngũ cán bộ địa chính ở cấp này bởi vì họ là những người hiểu sâu sắc các vấn đề quản lý và sử dụng đất đai trong quá khứ cũng như ở hiện tại, các tâm tư nguyện vọng của người sử dụng đất, các trường hợp lấn chiếm đất đai, tranh chấp đất đai, vi phạm pháp luật đất đai trong địa phương mình quản lý. Cán bộ địa chính cấp xã còn là người đầu tiên xử lý các vấn đề phát sinh trong quá trình quản lý và sử dụng đất đai nên nếu trình độ của họ yếu kém thì công tác quản lý đất đai sẽ không đạt hiệu quả. Mặt khác cần phải xác định họ là những công chức nhà nước và làm việc lâu dài trong ngành địa chính, vừa chịu sự quản lý của cơ quan địa chính vừa chịu sự quản lý của UBND xã. Điều đó sẽ đảm bảo tính hệ thống và tính khách quan trong quản lý đất đai tại địa bàn cấp xã. Thường xuyên bồi dưỡng trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho các cán bộ địa chính xã về khoa học quản lý và sử dụng đất, về pháp luật đất đai trong cơ chế thị trường. Đào tạo đội ngũ cán bộ địa chính, nâng cao năng lực của họ sẽ làm cho việc giải quyết các quan hệ đất đai được hiệu quả hơn, góp phần nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước về đất đai hiên nay. Đẩy mạnh cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Quản lý chặt chẽ đất đai trên địa bàn thành phố theo pháp luật quy định đảm bảo mục tiêu quản lý đến từng thửa đất, từng chủ sử dụng đất thông qua việc cấp giấy chứng nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, đồng thời theo dõi cập nhật thường xuyên biến động về đất đai là một trong những nhiệm vụ chiến lược của ngành địa chính và công tác quản lý đất đai của chính quyền địa phương các cấp. Hiện nay việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên địa bàn thành phố Hà Nội vẫn chưa được hoàn thành, một số xã thuộc các huyện ngoại thành vãn chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp, đặc biệt là cấp giấy chứng nhậ quyền sử dụng đất theo nghị định 60CP vẫn còn chậm, gây lực cản trong giao dịch dân sự về mua bán nhà đất của các chủ thể trong thị trường bất động sản. Bởi vậy để đẩy mạnh việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cần thực hiện những giải pháp sau: - Cần phải đơn giản hoá căn cứ và thủ tục cấp giấy chứng nhận theo hướng coi trọng hiện trạng sử dụng đất hơn là tìm hiểu về ngọn ngành về lịch sử hình thành và phát triển của nó. Thực tế sử dụng đất ổn định, không tranh chấp, hoà thuận với xóm giềng, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tài chính với nhà nước là một cơ sở quan trọng chứng nhận quyền sử dụng đất chính đáng của người đó. Để làm được điều này nên đẩy mạnh hơn nữa vai trò của đơn vị chính quyền nhỏ nhất là UBND xã, phường, thị trấn cùng với hệ thống cụm dân cư và tổ dân phố cũng như cảnh sát khu vực, những người hàng ngày lăn lộn với cuộc sống và biết rõ nhất tình hình sử dụng đất đai ở khu vực mình. Mặt khác trong thời kỳ chuyển đổi nền kinh tế, để có thể đẩy nhanh cấp giấy chứng nhận thì không nên trông chờ vào sự hoàn hảo ngay từ đầu, nôn nóng muốn đạt thành tích cao mà phải đi từng bước một và đảm bảo thực hiện đúng tiến độ đề ra. - Về chính sách truy thu các loại thuế: Chính sách thu tiền sủ dụng đất khi hợp thức hoá để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất còn quá cao. Tuy Thủ tướng chính phủ đã cho phép chậm nộp các khoản thu theo quy định của nhà nước khi xét hợp thức hoá để cấp gíây đến nay vẫn được duy trì nhưng vẫn còn tồn tại những điều bất hợp lý, để được cấp giấy, người dân phải nộp đầy đủ các khoản thu cho ngân sách như tiền sử dụng đất, thuế chuyển quyền sử dụng đất, phạt tiền xây dựng không phép, sai phép, truy thu các loại thuế đất, lệ phí trước bạ... Chính sách thu này không phù hợp vơí khả năng tài chính của người dân và khó có thể đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận được. Bởi vậy giải pháp đặt ra là nhà nước cần nghiên cứu các chế độ nhằm giảm bớt mức thu của từng khoản, nhà nước xem xét cho người dân chậm nộp các khoản thu theo quy định của nhà nước khi được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. - Về tài chính để phục vụ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: Để kê khai đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhằm phục vụ công tác quản lý đất đai được tốt cần phải đưa công nghệ thông tin vào trong quá trình kê khai đăng ký. Để hoàn thiện hệ thống hồ sơ quản lý về đất đai thì công tác cấp giấy chứng nhận phải được tiến hành trên quy mô lớn, khối lượng hồ sơ sẽ tăng lên rất nhiều và quản lý hồ sơ cũng gặp nhiều khó khăn. Do đó đầu tư tài chính vào công tác này là rất cần thiết, nó vừa đáp ứng được khối lượng công việc và nhu cầu quản lý được nhanh gọn, thông tin được lưu trữ an toàn. Bởi vậy để đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận, các cơ quan quản lý địa chính cũng như UBND các quận, huyện cần tập trung tài chính cho công tác này và xin hỗ trợ về tài chính của cấp trên. - Ngoài ra phải có sự phối hợp, giúp đỡ của cơ quan địa chính với UBND các quận, huyện về chuyên môn, thủ tục cấp giấy chứng nhận nhằm giải quyết nhanh các thủ tục, đơn giản hoá các thủ tục để đẩy nhanh tiến độ cấp giấy. Sở Địa chính - Nhà đất phải tập trung chỉ đạo tới cấp cơ sở, đôn đốc các cơ sở thực hiện công tác này, tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn để có thể thực hiện được mục tiêu hoàn thành công tác cấp giấy chứng nhận trên toàn địa bàn thành phố Hà Nội. Thực hiện giải pháp này sẽ giúp cho cơ quan địa chính hoàn thành được công tác kê khai đăng ký cấp giấy chứng nhận, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về đất đai, làm ổn định tình hình kinh tế chính trị xã hội và cuộc sống của người sử dụng đất. Nâng cao ý thức pháp luật đất đai của các đối tượng sử dụng đất. Hiện nay, ý thức pháp luật của cán bộ và nhân dân tham gia vào hoạt động quản lý và sử dụng đất còn nhiều hạn chế làm ảnh hưởng tới quản lý nhà nuớc về đất đai. Do đó phải nâng cao ý thức pháp luật đất đai cho các chủ thể này. Việc nâng cao ý thức pháp luật đất đai của các cán bộ quản lý nhà nước về đất đai và người sử dụng đất có tác dụng tạo lập môi trường pháp lý thuận lợi, đảm bảo các quy phạm pháp luật đất đai được thực hiện tốt hơn từ giai đoạn ban hành quy phạm pháp luật đất đai cho tới lúc áp dụng các quy phạm này. Để nâng cao ý thức pháp luật đất đai, đảm bảo cho ý thức pháp luật đất đai trở thành nhân tố tác động có hiệu quả tới công tác quản lý thì cần phải tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật đất đai cho toàn thể cán bộ và nhân dân qua các phương tiện thông tin đại chúng. Đây là một biện pháp rất ưu việt vì nó có ưu thế về mặt không gian, thời gian và liên tục, đưa pháp luật đất đai đến các đối tượng trong xã hội làm cho mọi người hiểu sâu sắc pháp luật đất đai, các nghị định của chính phủ, các quy định quản lý đất đai, các quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất từ đó làm cho người sử dụng đất nhận thức rõ được vai trò quan trọng của pháp luật đất đai trong việc bảo vệ quyền và lợi ích của họ. Nâng cao chất lượng giảng dạy môn pháp luật đất đai trong các trường đại học. Với biện pháp này sẽ chuyển tải được một lượng lớn kiến thức về pháp luật đất đai cho sinh viên, làm cho họ hiểu được cả chiều rộng cũng như chiều sâu của pháp luật đất đai. Đây là biện pháp có tính chiến lược để nâng cao ý thức pháp luật đất đai bởi sinh viên là những cán bộ tương lai của đất nước. Mặt khác để nâng cao ý thức pháp luật đất đai, góp phần quản lý đất đai có hiệu quả thì cũng phải đổi mới và tăng cường công tác hoà giải các vụ tranh chấp đất đai ở cấp phường xã thị trấn. Bởi vì thông qua hoà giải mà các cán bộ hoà giải đã vận dụng các quy phạm pháp luật đất đai để thuyết phục phân tích đúng sai. Trên cơ sở đó làm cho người sử dụng đất hiểu sâu hơn và có thái độ đúng đắn đối với pháp luật đất đai từ đó nâng cao ý thức pháp luật đất đai của họ. Giải pháp về quy hoạch kế hoạch sử dụng đất: Quy hoạch kế hoạch sử dụng đất là công cụ để nhà nước quản lý đất đai, đảm bảo cho đất đai được sử dụng có hiệu quả và tiết kiệm. Công tác quy hoạch – kế hoạch sử dụng đất đã được các ngành quan tâm và đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên vấn đề quy hoạch kế hoạch vẫn còn nhiều hạn chế như quy hoạch sử dụng đất chưa gắn với chiến lược phát triển kinh tế xã hội, tiến hành quy hoạch chậm lại thiếu công bố rộng rãi nên có một số đối tượng nắm được quy hoạch, kế hoạch đã lợi dụng để làm giàu. Quy hoạch, kế hoạch thiếu nghiên cứu một cách đồng bộ nên chắp vá sửa đi sửa lại nhiều lần … Những khiếm khuyết này đòi hỏi phải có những giải pháp cụ thể về quy hoạch - kế hoạch sử dụng đất nhằm nâng cao hiệu quả quản lý đất đai. Bổ sung thêm một số quy định vào luật đất đai hiện hành để xác định rõ hơn trách nhiệm và nghĩa vụ lập và thực hiện quy hoạch – kế hoạch của UBND các cấp. Bổ sung những quy định pháp lý để đảm bảo cho quy hoạch kế hoạch sử dụng đất được công khai hoá, thực hiện được nguyên tắc dân chủ công khai trong quản lý và sử dụng đất. Quy định cụ thể chi tiết việc lập quy hoạch – kế hoạch sử dụng đất trên toàn địa bàn thành phố, từng quận, huyện và đối với từng loại đất trong đó chú trọng đất nông nghiệp, lâm nghiệp và đô thị, quy định chi tiết hơn trình tự và thủ tục các bước tiến hành trong việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Xác định nghĩa vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước quản lý đất đai và các cá nhân được trao quyền trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện lập quy hoạch – kế hoạch sử dụng đất. Xác định ranh giới cụ thể giữa các vùng để có quy chế đối với việc quy hoạch các vùng, các quận, huyện của thủ đô. Từ đó có sự kết hợp giữa các thành phố với các quận huyện để có thể thực hiện tốt công tác quy hoạch tổng thể trên toàn địa bàn thành phố cũng như quy hoạch từng vùng trên địa bàn. Có sự phân cấp mạnh hơn trong việc sử dụng các công cụ điều tiết như hạn ngạch, thuế, lệ phí và nghĩa vụ tài chính để đảm bảo cho Hà Nội có một chế độ thực hiện quy hoạch. Sự phân cấp hợp lý sẽ đảm bảo được sự lựa chọn việc sử dụng đất đúng đắn và thực hiện có kết quả các chiến lược phát triển của thành phố Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra của các cơ quan quản lý nhà nước. - Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc quản lý sử dụng đất đai của chính quyền địa phương các cấp và các cơ quan chuyên môn của thành phố. Kiểm tra việc giao đất sản xuất nông, lâm nghiệp, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để giải quyết các khiếu nại tố cáo đất đai, đồng thời đẩy nhanh tiến độ giải quyết các vụ việc tranh chấp đất đai kéo dài nhằm ổn định tình hình chính trị xã hội. Tăng cường và tạo chuyển biến mới trong công tác giải quyết khiếu kiện, khiếu nại về lĩnh vực đất đai, góp phần quản lý trật tự đô thị, thống kê và phân loại các vụ tranh chấp đất đai để giải quyết các vụ nổi cộm, điểm nóng. Đẩy mạnh việc phân cấp và làm rõ trách nhiệm của các cấp các ngành trong công tác giải quyết tranh chấp khiếu nại đất đai. Tiến hành kiểm tra thanh tra về các hoạt động nghiệp vụ như đo đạc, quy hoạch, thực hiện các chế độ chính sách, quy trình quy phạm kĩ thuật thống nhất của Tổng cục Địa chính ban hành về công tác này. Kiên quyết xử lý các vi phạm trong quản lý đất đai để tăng cường pháp chế, thi hành nghiêm luật đất đai đối với các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân và đối với cả cán bộ công chức trong bộ máy quản lý, làm trong sạch bộ máy quản lý đất đai. Mặt khác khi thanh tra kiểm tra cần phải xây dựng kế hoạch cụ thể, xây dựng nội dung thanh tra rõ ràng, đẩy mạnh sự phối hợp giữa các cấp chính quyền một cách chặt chẽ đồng bộ. Cần phải tổ chức các đợt thanh tra, kiểm tra thường xuyên, toàn diện, phát huy được vai trò của pháp luật, vai trò quản lý cua nha nước đối với các vi phạm trong quản lý sử dụng đất. Xây dựng củng cố, kiện toàn tổ chức thanh tra từ Sở ĐCNĐ đến các phòng ĐC ở các quận huyện để cán bộ thanh tra có đủ khả năng, năng lực hoàn thành nhiệmvụ. Thực hiện giải pháp này, sẽ làm cho hoạt động quản lý và sử dụng đất được trong sạch theo đúng các quy định của pháp luật, lấp kín được những kẽ hở trong pháp luật đất đai mà các đối tượng xấu có thể lợi dụng để đầu cơ trục lợi, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả quản lý đất đai hiện nay. III. Một số kiến nghị. Từ những giải pháp trên, để góp phần làm cho đất đai được sử dụng có hiệu quả và ổn định, em xin đề xuất một số kiến nghị sau: - Luật đất đai năm 1993 đã hai lần được sửa đổi bổ sung một số điều vào các năm 1998và 2001dẫn đến việc phổ biến và thực hiện luật đất đai còn gặp nhiều khó khăn đăc biệt là đối với những đối tượng sử dụng đất. Đề nghị chính phủ cần thay thế bằng luật mới, luật này lớn hơn luật cũ về các điều và có bổ sung các chế tài xử lý hành vi vi phạm luật đất đai để đảm bảo tính khả thi của pháp luật. - Quản lý và sử dụng đất đô thị có đặc thù riêng và phức tạp nhất, đặc bịêt ở các đô thị phát triển nhanh. Cũng ở khu vực đô thị, ngân sách bổ sung từ các nguồn thu về đất là nhiều nhất vì vậy chính phủ cần tập trung nghiên cứu, bổ sung chính sách về quản lý sử dụng đất đô thị. - Để quản lý chặt chẽ quỹ đất đai và ngăn chặn các vi phạm sử dụng đất có hiệu quả, chính phủ nên nghiên cứu các phương án định giá các loại đất và thành lập tổ chức định giá thống nhất để xác định giá trị tài sản đất mà nhà nước giao cho các chủ sử dụng đất. Các vấn đề tài chính liên quan đến đất đề nghị nhà nước phải nghiên cứu ban hành luật thuế về đất đai trong đó bao gồm tất cả các quy định về nghĩa vụ tài chính của người sử dụng đất với nhà nước thay thế cho luật thuế sử dụng đất nông nghiệp và pháp lệnh thuế nhà đất, luật thuế chuyển quyền sử dụng đất … - Luật đất đai cần được thực hiện đồng bộ với việc ban hành các nghị định mới của chính phủ, bổ sung hoặc thay thế các nghị định trước đây để phát huy hiệu lực của pháp luật vào cuộc sống thực tế. Đề nghị chính phủ chỉ đạo cho các bộ ngành liên quan khẩn trương nghiên cứu trình chính phủ ban hành nghị định mới thay thế nghị định số 87CP về quy định khung giá đất và nghị định 22CP về đền bù thiệt hại khi nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích an ninh, quốc phòng, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng mà đây là những vấn đề bức xúc trong thực tế. - Đề nghị UBND thành phố chỉ đạo tiếp tục thực hiện cải cách hành chính, giảm bớt thủ tục phiền hà để thu hút đầu tư, tập trung theo hướng một đầu mối quản lý : Sở địa chính nhà đất là đầu mối quản lý nhà đất, Kiến trúc sư trưởng thành phố là đầu mối quản lý về quy hoạch – kiến trúc, Sở Kế hoạch đầu tư là đầu mối về quản lý đầu tư. Quận huyện là đầu mối thoả thuận địa phương về phương án bồi thường giải phóng mặt bằng. - Đề nghị chính phủ và UBND thành phố Hà Nội rà soát lại các văn bản quản lý đất đai trên phạm vi cả nước cũng như trên địa bàn thành phố nhằm cắt bỏ các văn bản trùng lặp, mâu thuẫn giữa các văn bản với luật đất đai, xử lý kịp thời những bất hợp lý của các văn bản đó làm cho các quy phạm pháp luật đất đai được gọn nhẹ, điều chỉnh các quan hệ đất đai có hiệu quả. KẾT LUẬN Đất đai có vị trí hết sức quan trọng về nhiều mặt đối với đời sống một dân tộc, quốc gia, với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Đất cũng là vấn đề nhạy cảm đối với sự duy trì trật tự và tâm lý của mỗi người dân. Chính vì thế, quản lý nhà nước về đất đai luôn là sự chú ý của nhà nước. ở nước ta, trong những năm đổi mới, do hậu quả của cơ chế quan liêu bao cấp, sự buông lỏng trong quản lý của nhiều cấp chính quyền nên vấn đề quản lý và sử dụng đất đai vẫn còn nhiều yếu kém mà cụ thể là tình trạng lấn chiếm đất đai vẫn xảy ra thường xuyên, mua bán đất đai diễn ra dưới hình thức trao tay là chủ yếu. Trong tình hình đó, việc nhà nước chú ý hoàn thiện hệ thống pháp luật đất đai, tăng cường quản lý đã làm cho việc sử dụng đất có nhiều chuyển biến tích cực. Điều này thể hiện khá rõ trên địa bàn thủ đô Hà Nội. Thực hiện đường lối công nghiệp hoá- hiện đại hoá, xây dựng thủ đô văn minh lịch sự, có nền kinh tế phát triển, duy trì trật tự xã hội và tiến tới kỉ niệm 1000 năm Thăng Long Hà Nội thì vấn đề đảm bảo cho mọi người dân, mọi cơ quan, tổ chức chấp hành nghiêm pháp luật trong đó có luật đất đai là điều hết sức quan trọng. Một số giải pháp đã được đặt ra để có thể đạt được mục tiêu đó như đẩy mạnh cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, tăng cường công tác thanh tra kiểm tra, nâng cao ý thức pháp luật đất đai của người sử dụng đất…đã được đề cập trong bài để có thể khắc phục những yếu kém đó. Dưới ánh sáng của nghị quyết IX của Đảng và nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ XIII thì các cơ quan quản lý đất đai cũng như người dân Hà Nội đã và đang phát huy sự năng động sáng tạo, tíêp tục thực hiện những giải pháp đặt ra để làm cho công tác quản lý ngày càng hiệu quả, xoá bỏ những bức xúc vẫn còn tồn tại để đóng góp một phần không nhỏ vào sự nghiệp phát triển của thủ đô, để Hà Nội xứng đáng là thủ đô anh hùng trong thời kì đổi mới. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docV0101.doc
Tài liệu liên quan