Sự tương đồng và sự khác biệt của chính thể Việt Nam Hiến pháp 1946 với chính thể của một số nước trên thế giới

Mục lục Phần mở đầu . Chương 1. chính thể nhà nước - nội dung cơ bản của hiến pháp. 1.1. Khái quát về chính thể nhà nước . 1.2. Phân loại hình thức chính thể 1.3. Việc quy định chính thể trong các hiến pháp. 1.4. Sự biến dạng của chính thể. Chương 2. Chính thể Việt Nam Hiến pháp 1946 so sánh với chính thể một số nước trên thế giới 2.1. Khái quát về chính thể Nhà nước Việt Nam Hiến pháp 1946 2.1.1. Tư tưởng về các mô hình chính thể Nhà nước ở Việt Nam trước cách mạng tháng Tám

doc130 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2350 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Sự tương đồng và sự khác biệt của chính thể Việt Nam Hiến pháp 1946 với chính thể của một số nước trên thế giới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1945 2.1.2. Cơ sở lý luận, thực tiễn và đặc điểm của chính thể cộng hoà dân chủ nhân dân Hiến pháp 1946 2.2. Sự giống nhau và khác nhau của chính thể Hiến pháp 1946 với chính thể cộng hoà (quân chủ) đại nghị và chính thể cộng hoà tổng thống . 2.2.1. Về Nguyên thủ quốc gia 2.2.2. Về Quốc hội 2.2.3. Về Chính phủ 2.2.4. Về Tư pháp Chương 3. Sự kế thừa, phát triển chính thể hiến pháp 1946 trong các hiến pháp việt nam và một số kiến nghị về hoàn thiện cơ sở hiến định của mô hình tổ chức nhà nước việt nam hiện nay. 3.1. Sự kế thừa và phát triển chính thể Hiến pháp 1946 trong các Hiến pháp Niệt Nam 3.1.1. Về tính chất của nhà nước . 3.1.2. Về các quyền tự do, dân chủ của công dân. 3.1.3. Về cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước . 3.2. Một số kiến nghị về hoàn thiện cơ sở hiến định của mô hình tổ chức Nhà nước Việt Nam hiện nay. 3.2.1. Hình thành một hệ thống lý luận độc lập về mô hình tổ chức nhà nước. 3.2.2. Xác định chính thể Việt Nam hiện nay. 3.2.3. Nhận thức đúng đắn nguyên tắc cả quyền lực thuộc về nhân dân, quyền lực nhà nước là thống nhất. 3.2.4. Hoàn thiện tổ chức và cơ chế phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp Kết luận . Danh mục tài liệu tham khảo Lời mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong lịch sử tồn tại lâu đời của nhà nước, vấn đề trọng tâm của bất cứ nhà nước nào là việc tổ chức và thực hiện quyền lực của nhà nước như thế nào. Lý luận và thực tiễn đã chứng mình rằng, một nhà nước mà có cơ chế tổ chức và thực hiện quyền lực dựa trên những luận cứ khoa học và phù hợp với những đòi hỏi khách quan thì nhà nước đó sẽ tồn tại và phát triển bền vững. Ngược lại, việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước nếu chỉ dựa trên ý chí chủ quan không có căn cứ khoa học thì sớm hay muộn chế độ nhà nước đó cũng sẽ bị diệt vong. Chính vì vậy, vấn đề tìm ra một mô hình tổ chức nhà nước khoa học phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh trong nước và quốc tế là công việc chính yếu của bất kỳ một nhà nước nào trong quá khứ, hiện tại cũng như tương lai. Trong tiến trình lịch sử, ở các quốc gia khác nhau, việc nghiên cứu, tìm tòi, sáng tạo ra các mô hình, cơ chế tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước tối ưu, có hiệu qủa đã thúc đẩy mạnh mẽ sự hình thành và phát triển của hiến pháp - một đạo luật cơ bản của quốc gia, có vị trí tối cao, mà chỉ trong giai đoạn phát triển của nhà nước hiện đại thì mới hội đủ các điều kiện để hiến pháp xuất hiện. Trong một bản hiến pháp bao gồm nhiều chế định khác nhau quy định những vấn đề cơ bản của việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước và những vấn đề cơ bản khác. Trong đó, vấn đề cơ bản và quan trọng nhất của bất cứ một bản hiến pháp nào là vấn đề hình thức chính thể nhà nước. Hình thức chính thể nhà nước là hình thức tổ chức các cơ quan quyền lực nhà nước tối cao, cơ cấu, trình tự thành lập và mối liên hệ của chúng với nhau cũng như mức độ tham gia của nhân dân vào việc thiết lập các cơ quan này. ở trên thế giới, sự xuất hiện của hiến pháp đã có bề dày lịch sử, có nhiều quốc gia đã có lịch sử lập hiến hàng trăm năm, đã có những đóng góp to lớn cho nhân loại, đặc biệt là việc tìm ra các mô hình tổ chức quyền lực nhà nước có hiệu qủa. So với thế giới, lịch sử lập hiến Việt Nam còn non trẻ. Ngày 2/9/1945 tại quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập - một áng văn lập quốc vĩ đại, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam á, mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam - kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội. Ngày 6/1/1946, toàn thể quốc dân đồng bào Việt Nam đã đi bầu cử Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Ngày 9/11/1946, tại kỳ họp thứ 2 Quốc hội Khoá I, Quốc hội đã thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta. Bản Hiến pháp đã đánh dấu một bước ngoặt trên con đường phát triển của Nhà nước và pháp luật Việt Nam, mở ra một thời kỳ mới cho cách mạng Việt Nam. Hiến pháp 1946 thể hiện tư tưởng tài tình của Hồ Chí Minh và các đồng chí của Người, một bản Hiến pháp không những khẳng định độc lập chủ quyền của đất nước, xây dựng một Nhà nước dân chủ cộng hoà, đảm bảo tự do dân chủ cho công dân, mà tinh thần và ý nghĩa của nó còn nguyên giá trị cho đến ngày nay. Nhiều quy định của Hiến pháp 1946 đã được các Hiến pháp Việt Nam sau này kế thừa và phát triển. Đặc biệt, sau khi Đảng và Nhà nước ta thực hiện công cuộc đổi mới, với sự ra đời của Hiến pháp 1992 và Hiến pháp sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992 đã minh chứng một cách rõ ràng cho điều đó. Đó là đã có sự quay lại với những quy định của Hiến pháp 1946. Trong Hiến pháp 1946, Hồ Chí Minh đã sáng tạo ra chính thể Nhà nước kiểu mới - một hình thức Nhà nước dân chủ cộng hoà, Nhà nước mà tất cả quyền bính là thuộc toàn thể nhân dân, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo (Điều 1, Hiến pháp 1946). Hồ Chí Minh đã để lại một di sản tư tưởng đồ sộ về Nhà nước nói chung và hình thức chính thể nói riêng. Tư tưởng của Người là kim chỉ nam trong các giai đoạn cách mạng Việt Nam. Mô hình Nhà nước được tổ chức trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh đã phát huy hiệu qủa trong sự nghiệp cách mạng. Tư tưởng Hồ Chí Minh về hình thức chính thể là một hệ thống quan điểm rõ ràng, thống nhất phù hợp với đặc điểm và truyền thống Việt Nam dựa trên các điều kiện cụ thể về kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước ta và bối cảnh quốc tế, không chỉ có giá trị trong quá khứ mà cả hiện tại và tương lai. Khai thác tư tưởng Hồ Chí Minh về hình thức chính thể Nhà nước ở Việt Nam có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn trong công cuộc đổi mới, hoàn thiện mô hình tổ chức nhà nước hiện nay. Việc nghiên cứu chính thể Hiến pháp 1946 sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn những giá trị chính thể, thấy được sự kế thừa và phát triển trong các Hiến pháp Việt Nam. Cùng với việc nghiên cứu chính thể Hiến pháp năm 1946, chúng ta nghiên cứu so sánh chính thể đó với chính thể của các nước. Việc nghiên cứu so sánh như vậy sẽ cho phép chúng ta nhìn nhận, đánh giá khách quan hơn các mô hình chính thể. Muốn tìm ra một hình tổ chức quyền lực nhà nước có hiệu quả, cần phải so sánh, đối chiếu với nhiều mô hình tổ chức nhà nước khác nhau, từ đó chúng ta mới có điều kiện phân tích, lý giải tìm ra được những hạt nhân hợp lý của các mô hình khác nhau. Trong điều kiện Đảng và Nhà nước ta đang tiến hành đổi mới hệ thống chính trị, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Nhà nước, xây dựng Nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa thì việc làm đó là cấp bách và hết sức cần thiết nhằm tìm ra mô hình tổ chức Nhà nước có hiệu quả. Với lý do như vậy, tôi chọn đề tài: "Sự tương đồng và sự khác biệt của chính thể Việt Nam Hiến pháp 1946 với chính thể của một số nước trên thế giới” để thực hiện luận văn tốt nghiệp Cao học Luật của mình. 2. Tình hình nghiên cứu ở nước ta, trong những năm gần đây, việc nghiên cứu về Hiến pháp 1946 đã được các tác giả đề cập tới dưới các góc độ khác nhau, ít nhiều có đề cập đến hình thức chính thể, có thể kể đến như: "Lịch sử lập hiến Việt Nam" của Tiến sĩ Luật học Thái Vĩnh Thắng, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà nội 1997. Tác phẩm này chỉ đề cập một cách chung chung lịch sử lập hiến Việt Nam; "Hiến pháp năm 1946 và sự kế thừa, phát triển trong các Hiến pháp Việt Nam" của Văn phòng Quốc hội - Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. Nội dung tác phẩm đề cập đến các bài viết độc lập của các tác giả khác nhau, tiếp cận dưới nhiều góc độ nên chưa phản ánh được bản chất pháp lý của vấn đề; Luận án Tiến sĩ luật học "Lịch sử lập hiến Việt Nam" của Lê Hữu Thể, Luận án nêu lên quá trình lịch sử lập hiến của Việt Nam, đã có đề cập đến chính thể Hiến pháp 1946 nhưng chỉ ở mức độ khái quát. Các khoá luận tốt nghiệp bàn về giá trị Hiến pháp 1946 và tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc xây dựng Hiến pháp 1946. Các ấn phẩm này đã đề cập đến việc nghiên cứu chính thể Việt Nam Hiến pháp 1946, nhưng mới chỉ dừng lại mức độ cung cấp thông tin, tư liệu mà chưa đi sâu phân tích luận giải. Bên cạnh đó, còn có các ấn phẩm khác bàn về tư tưởng Nhà nước và pháp luật của Hồ Chí Minh, có thể kể đến tác phẩm: "Chủ tịch Hồ Chí Minh sự nghiệp xây dựng Nhà nước kiểu mới và pháp luật ở Việt Nam" của Nguyễn Ngọc Minh, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà nội 1982; "Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật" do Bộ Tư pháp là cơ quan chủ trì, Hà Nội 1993; "Hồ Chủ Tịch trong sự nghiệp xây dựng Nhà nước và nền pháp lý dân chủ, xã hội chủ nghĩa Việt Nam" của Hội Luật gia Việt Nam; "Pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh" của vụ Vũ Đình Hoè, Nhà xuất bản Văn hoá Thông tin. Đặc biệt, năm 1992, Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước đã quyết định đưa vào chương trình nghiên cứu khoa học cấp nhà nước về tư tưởng Hồ Chí Minh với đề tài: "Tư tưởng Hồ Chí Minh Nhà nước của dân, do dân, vì dân" Ngoài ra, còn có các bài viết trên các sách báo chính trị pháp lý đề cập đến Hiến pháp 1946, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Nội dung của các ấn phẩm này đã phần nào lý giải những vấn đề cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước nói chung và hình thức chính thể nói riêng. Tuy nhiên, do tiếp cận vấn đề ở các góc độ khác nhau nên bản chất pháp lý của vấn đề chưa được soi rọi thấu đáo. Còn về sự so sánh giữa chính thể Việt Nam trong Hiến pháp năm 1946 với chính thể các nước khác thì chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống, mà nó chỉ được đề cập một cách rời rạc trong các công trình, ấn phẩm, các sách báo chính trị pháp lý với nội dung khái quát, chưa có sự đi sâu nghiên cứu, phân tích, đánh giá. Nhìn chung, các ấn phẩm đã xuất bản chỉ đề cập một cách khái quát, chung chung đến chính thể Việt Nam Hiến pháp 1946 và hầu như chưa nghiên cứu nhiều đến sự so sánh chính thể đó chính thể các nước. Do đó, cần phải có một công trình khoa học độc lập nghiên cứu về chính thể Việt Nam Hiến pháp 1946 và sự so sánh chính thể với các nước, trên cơ sở đó đưa ra luận cứ lý luận nhằm hoàn thiện mô hình tổ chức Nhà nước Việt Nam trong giai đoạn mới. 3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 3.1. Cơ sở lý luận Luận văn được thực hiện trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước về Nhà nước và pháp luật. Tuy nhiên, chúng tôi cũng mạnh dạn nghiên cứu những tư tưởng của các học giả tư sản và các học giả trong chế độ Sài Gòn "cũ" nhằm chắt lọc những đóng góp của họ trên phương diện chính thể nhà nước. Những tri thức của khoa học Lý luận về Nhà nước và pháp luật được vận dụng trong quá trình nghiên cứu. Những tri thức khoa học Luật Hiến pháp, đặc biệt những tri thức về hình thức chính thể nhà nước được sử dụng nhiều nhất trong quá trình thực hiện đề tài. Đề tài cũng sử dụng những tri thức về luật học so sánh trong quá trình thực hiện. Ngoài ra, những kết quả nghiên cứu của các ngành sử học, chính trị học, triết học, Hồ Chí Minh học, xã hội học pháp luật cũng được sử dụng trong quá trình nghiên cứu. Những kết quả nghiên cứu của các ngành khoa học này được sử dụng làm cơ sở lý luận để đưa ra những kết luận độc lập dưới góc độ của luật học. 3.2. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu tác giả đã vận dụng các phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, tiếp cận hệ thống. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề liên quan đến chính thể Việt Nam Hiến pháp 1946. Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về hình thức chính thể nhà nước. Nghiên cứu trong sự so sánh với chính thể các nước, so sánh với chính thể và sự kế thừa, phát triển chính thể nhà nước trong các Hiến pháp Việt Nam. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Trong phạm vi một bản luận văn cao học, đề tài chỉ tiếp cận trên phương diện luật học chính thể Nhà nước Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh về hình thức chính thể Nhà nước Hiến pháp 1946. Trong nghiên cứu so sánh chính thể một số nước, đề tài chỉ nghiên cứu lựa chọn với một số nước đại diện cho các hình thức chính thể, hệ thống pháp luật, đường lối chính trị. Các thiết chế như Quốc hội (cơ quan đại diện), Chủ tịch nước (nguyên thủ quốc gia), Chính phủ, Toà án chỉ nghiên cứu ở mức độ cho phép xác định hình thức chính thể Nhà nước chứ không đi vào nghiên cứu chi tiết cụ thể. Những kiến giải của đề tài cũng không đi vào những vấn đề cụ thể của từng chế định chính trị mà chỉ giải quyết những vấn đề tạo cơ sở lý luận cho việc hoàn thiện mô hình tổ chức nhà nước. 5. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 5.1. Mục đích nghiên cứu Trong điều kiện mà chúng ta đang đổi mới hệ thống chính trị, hoàn thiện mô hình tổ chức nhà nước thì việc nghiên cứu đề tài: "Sự tương đồng và sự khác biệt của chính thể Việt Nam Hiến pháp 1946 với chính thể của một số nước trên thế giới” nhằm mục đích: - Khẳng định giá trị to lớn, đặc biệt là giá trị chính thể của Hiến pháp 1946, khẳng định sự sáng tạo tài tình của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí của Người trong việc xây dựng Nhà nước kiểu mới. - Nghiên cứu tìm ra sự giống nhau và khác nhau của chính thể Việt Nam Hiến pháp 1946 với chính thể của một số nước khác nhau đại diện cho các hình thức chính thể, chế độ chính trị, hệ thống pháp luật. Từ đó có một cách đánh giá khách quan hơn các mô hình chính thể khác nhau, ở chừng mực nhất định lựa chọn được mô hình tổ chức nhà nước phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh Việt Nam. - Qua nghiên cứu chính thể Hiến pháp 1946, ta cũng thấy được sự kế thừa, phát triển chính thể trong các Hiến pháp Việt Nam. 5.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Với đối tượng, phạm vi và mục đích nghiên cứu nêu trên, đề tài có nhiệm vụ: - Nghiên cứu vị trí, vai trò của chính thể nhà nước trong hiến pháp. - So sánh chính thể Hiến pháp 1946 với chính thể của một số nước tiêu biểu làm đại diện. - Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về hình thức chính thể Hiến pháp Việt Nam. - Nghiên cứu sự kế thừa và phát triển chính thể Hiến pháp 1946 đối với các Hiến pháp Việt Nam. 6. Kết quả và đóng góp của luận văn - Luận văn đã cố gắng hệ thống hóa nội dung, tư tưởng chính thể Nhà nước Hiến pháp 1946, làm rõ thêm những giá trị khoa học về mặt lý luận cũng như thực tiễn chính thể Nhà nước Việt Nam Hiến pháp 1946 trên cơ sở kế thừa có chọn lực những công trình của các tác giả đi trước, đồng thời đưa ra những nhận xét, phân tích, đánh giá khoa học có tính độc lập. - Bước đầu luận văn đã so sánh, có sự phân tích, đánh giá chính thể Việt Nam Hiến pháp 1946 với chính thể một số nước, từ đó đưa ra kết luận khoa học về các mô hình chính thể. - Luận văn là tài liệu tham khảo cho học tập, nghiên cứu và cho những ai quan tâm. - Luận văn đã bước đầu tập hợp một hệ thống danh mục các tài liệu tham khảo trong và ngoài nước nhằm cung cấp một lượng thông tin cần thiết cho những ai quan tâm học tập, nghiên cứu trong lĩnh vực này. 7. ý nghĩa thực tiễn. Luận văn có ý nghĩa thực tiễn góp phần hoàn thiện những tri thức, những hiểu biết cả về lý luận và thực tiễn những giá trị chính thể của Hiến pháp 1946 đối với việc xây dựng và hoàn thiện mô hình tổ chức Nhà nước và pháp luật Việt Nam. Trên cơ sở so sánh chính thể Hiến pháp 1946 với chính thể các nước đã góp phần bổ sung thêm tri thức về các loại hình chính thể nhà nước khác nhau, có thể lựa chọn, tiếp thu những mặt mạnh, mặt tích cực của các mô hình chính thể nhà nước, từ đó có thể đưa ra được mô hình tổ chức nhà nước tham khảo, vận dụng và hoàn thiện mô hình tổ chức Nhà nước Việt Nam. Chương 1 chính thể nhà nước - Nội dung cơ bản của hiến pháp Khái quát về chính thể nhà nước. Nội dung và hình thức là một trong sáu cặp phạm trù cơ bản của triết học cùng với ba quy luật cơ bản tạo nên phép duy vật biện chứng của triết học Mác - Lênin. Nội dung là tổng hợp tất cả những mặt, những yếu tố, những quá trình tạo nên sự vật. Hình thức là phương thức tồn tại và phát triển của sự vật, là hệ thống các mối liên hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố của nó [44;185]. Hình thức nhà nước là một trong những phạm trù cơ bản của khoa học về nhà nước và pháp luật. Hình thức nhà nước là một vấn đề quan trọng của nhiều ngành khoa học xã hội. Hình thức nhà nước được các ngành khoa học xã hội khác nhau quan tâm nghiên cứu như triết học, sử học, chính trị học, luật học... Đặc biệt, đối với khoa học pháp lý, hình thức nhà nước là một vấn đề cơ bản, quan trọng mà luật học nghiên cứu. Trong các ngành khoa học pháp lý có thể kể ra các ngành khoa học nghiên cứu vấn đề hình thức nhà nước như: Lý luận chung về nhà nước và pháp luật; Lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới, cũng như lịch sử nhà nước và pháp luật của từng nước; luật Hiến pháp... Trong đó, khoa học luật Hiến pháp là ngành khoa học nghiên cứu vấn đề hình thức nhà nước, và hình thức nhà nước trở thành một nội dung nghiên cứu cơ bản, quan trọng của khoa học luật Hiến pháp. Trong ngành luật Hiến pháp nói chung và đạo luật Hiến pháp nói riêng, hình thức nhà nước là một nội dung cơ bản, cốt lõi tạo thành đối tượng nghiên cứu chủ yếu của chúng. Đối tượng nghiên cứu của một đạo luật thường là đối tượng nghiên cứu chủ yếu của ngành luật đó, hay nói cách khác, đối tượng nghiên cứu của đạo luật gần như trùng khít với đối tượng nghiên cứu của ngành luật mà đạo luật đó là nội dung cơ bản. Trong ngành luật Hiến pháp cũng vậy, đối tượng nghiên cứu của đạo luật Hiến pháp là nội dung cơ bản của đối tượng nghiên cứu của ngành luật Hiến pháp. Vậy hình thức nhà nước là gì? Mối quan hệ giữa hình thức nhà nước với kiểu nhà nước và bản chất của nhà nước là như thế nào? Hình thức nhà nước là thuật ngữ chuyên ngành luật Hiến pháp nhằm khái quát hoá mô hình nhà nước thông qua những đặc điểm thể hiện nội dung bên trong của cơ cấu tổ chức và mối quan hệ giữa các tổ chức cấu thành nhà nước [2;71]. Từ khái niệm trên, ta có thể thấy được các dấu hiệu của hình thức nhà nước. + Hình thức nhà nước khái quát lên một mô hình nhà nước với cách thức tổ chức quyền lực nhà nước ấy, tức là phương thức chuyển ý chí giai cấp thống trị thành ý chí nhà nước. + Hình thức nhà nước thể hiện mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành nhà nước, cũng như mức độ tham gia của nhân dân vào công việc của nhà nước. Hình thức nhà nước do bản chất nhà nước và nội dung nhà nước quy định. Nếu bản chất nhà nước chỉ rõ quyền lực nhà nước thuộc về ai, phục vụ lợi ích cho giai cấp nào, tầng lớp nào trong xã hội thì hình thức nhà nước nói lên cách thức tổ chức quyền lực nhà nước ấy, tức là phương thức chuyển ý chí của giai cấp thống trị thành ý chí của nhà nước. Hình thức nhà nước được quy định bởi kiểu của nhà nước. Hình thức nhà nước là cách thức tổ chức quyền lực nhà nước, là phương thức tồn tại và phát triển của nhà nước, là mối quan hệ giữa các yếu tố của nó. Kiểu nhà nước là tổng thể các dấu hiệu cơ bản của nhà nước thể hiện bản chất giai cấp, vai trò xã hội và những điều kiện phát sinh, tồn tại và phát triển của nhà nước trong một hình thái kinh tế - xã hội nhất định [29;46]. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội là một kiểu xã hội dựa trên một phương thức sản xuất nhất định. Tương ứng với một kiểu quan hệ sản xuất là một tổng thể đặc thù các quan hệ tư tưởng chính trị và một kiểu thiết chế chính trị - pháp lý nhất định. Nhà nước là một bộ phận quan trọng nhất trong kiến trúc thượng tầng, cho nên bản chất, chức năng, nhiệm vụ, bộ máy nhà nước, hình thức nhà nước... Xét đến cùng đều được quy định bởi cơ sở kinh tế. Do đó, tương ứng với một kiểu quan hệ sản xuất (cơ sở kinh tế) là một kiểu nhà nước thích ứng. Học thuyết Mác - Lênin về hình thái kinh tế - xã hội chính là cơ sở của việc phân chia các nhà nước tồn tại trong lịch sử thành các kiểu nhà nước khác nhau. Học thuyết Mác - Lênin đã chia lịch sử hình thành và phát triển của xã hội loài người thành năm hình thái kinh tế - xã hội khác nhau. Chỉ trong hình thái kinh tế - xã hội cộng sản nguyển thuỷ là hình thái đầu tiên mà ở đó chưa có các điều kiện kinh tế - xã hội để nhà nước xuất hiện. Còn bốn hình thái kinh tế xã hội sau này, mỗi hình thái đều tương ứng với một kiểu nhà nước nhất định thích ứng với các điều kiện kinh tế - xã hội mà nó tồn tại, phát triển. Mỗi một kiểu nhà nước đó lại chứa đựng trong mình nó một bản chất nhà nước. Nhưng bản chất nhà nước trong một kiểu nhà nước có thể là một, ngược lại hình thức nhà nước thể hiện bản chất nhà nước thì lại rất đa dạng và phong phú. Ví dụ, cùng thể hiện một bản chất của kiểu nhà nước chiếm hữu nô lệ trong hình thái kinh tế xã hội chiếm hữu nô lệ nhưng hình thức nhà nước lại thể hiện hết sức phong phú, như: cộng hoà dân chủ; cộng hoà quý tộc; quân chủ... Kiểu nhà nước quy định hình thức nhà nước, do đó, cùng một hình thức nhà nước giống nhau nhưng tồn tại trong các kiểu nhà nước khác nhau (các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội khác nhau) thì chúng có những đặc điểm, đặc trưng rất khác nhau. Ví dụ, trong mọi kiểu nhà nước đều có một nền cộng hoà. Nhưng bản chất của nhà nước cộng hoà chủ nô tồn tại trong hình thái kinh tế xã hội chiếm hữu nô lệ có những đặc điểm khác xa bản chất nhà nước cộng hoà tư sản mà hình thái kinh tế xã hội tư bản chủ nghĩa là cơ sở kinh tế cho nhà nước đó tồn tại. Như vậy, trong quan hệ giữa kiểu nhà nước và hình thức nhà nước thì kiểu nhà nước là yếu tố quyết định. Đó là vì hình thức nhà nước bị quy định bởi cơ sở kinh tế - xã hội của một kiểu nhà nước nhất định và bản chất giai cấp tồn tại trong hình thái kinh tế xã hội đó. Ngoài ra hình thức nhà nước còn phụ thuộc vào: + Trình độ phát triển kinh tế xã hội, do tích luỹ tư bản trong lòng xã hội phong kiến mà phát triển lực lượng sản xuất tư bản chủ nghĩa hình thành nên kiểu quan hệ sản xuất mới - kiểu quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ngay trong lòng xã hội phong kiến. Do đó, vào giai đoạn cuối của xã hội phong kiến đã hình thành một hình thức nhà nước quân chủ chuyên chế. + Tương quan lực lượng giai cấp, trong cuộc cách mạng tư sản của một số nước, do lực lượng cách mạng của giai cấp tài sản không đủ mạnh để đánh đổ hoàn toàn giai cấp phong kiến còn chưa bị suy yếu nhiều. Để tồn tại, hai lực lượng chính trị này đứng ra thoả hiệp với nhau nhằm phân chia quyền lực và hình thành nên nhà nước quân chủ lập hiến. + Truyền thống lịch sử và sự tác động của bối cảnh quốc tế. Các nhà nước này từ khi được hình thành và phát triển cho đến nay vốn đã vậy mà không có sự thay đổi nhiều về hình thức nhà nước. Ví dụ, Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, Cộng hoà Liên bang Đức,... khi sinh ra đã là nhà nước liên bang; các nhà nước như Vương quốc Anh, Nhật Bản, Thái Lan,... do một truyền thống lâu đời là nhà nước quân chủ, các hình thức truyền ngôi, thế tập đã ăn sâu vào tiềm thức của các thế hệ người dân của các nước đó. + Do ảnh hưởng của các vấn đề dân tộc, sắc tộc trong một quốc gia, thì vấn đề dân tộc, sắc tộc và việc giải quyết những vấn đề đó sẽ ảnh hưởng đến việc lựa chọn một hình thức nhà nước thích hợp: nhà nước đơn nhất hay nhà nước liên bang, và trong nhà nước đó có thành lập khu tự trị hay không. Điều đó hoàn toàn phụ thuộc vào việc giải quyết vấn đề dân tộc, sắc tộc. + Và yếu tố cuối cùng, là do hậu quả việc xâm lược của thực dân, đế quốc, mà các nhà nước thuộc địa sau khi giành độc lập có hình thức nhà nước bị ảnh hưởng tác động bởi hình thức nhà nước của nhà nước mẫu quốc. Ví dụ, sau khi giành độc lập từ thực dân Pháp thì Nhà nước Angiêria là một Nhà nước cộng hoà đại nghị, hay sau khi giành độc lập từ Vương quốc Anh thì Nhà nước Pakixitan vẫn duy trì chế độ quân chủ...[2;75]. Như đã nói ở trên, hình thức nhà nước bị quy định bởi bản chất nhà nước, kiểu nhà nước trong một hình thái kinh tế xã hội (cơ sở kinh tế) nhất định. Nhưng hình thức nhà nước không chỉ phản ánh một cách thụ động các điều kiện kinh tế - xã hội, mà ngược lại hình thức nhà nước tác động trở lại đối với các hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội mà nó tồn tại, phát triển. Việc tác động trở lại của hình thức nhà nước mang tính tích cực hay tiêu cực lại phụ thuộc vào mô hình tổ chức, cách thức tổ chức quyền lực nhà nước mà giai cấp thống trị lựa chọn để biến ý chí của giai cấp mình thành ý chí của nhà nước. Sự tác động đó là tích cực khi giai cấp cầm quyền lựa chọn được một hình thức nhà nước phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội trong đó nó tồn tại, khi đó, nó sẽ tạo động lực cho đất nước phát triển. Ngược lại, khi hành thức nhà nước đó đã lỗi thời, không còn phù hợp nữa hoặc có thể là một hình thức nhà nước được xây dựng qúa cao so với điều kiện mà đất nước chưa đạt tới. Điều đó, ngược lại, sẽ dẫn tới sự kìm hãm phát triển của xã hội, dẫn tới nhiều hậu của kinh tế xã hội tiêu cực khó có thể mà lường tới. Do đó, vấn đề đặc biệt quan trọng khi lựa chọn hình thức nhà nước, những người cầm quyền phải xuất phát từ các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. Ngoài các yếu tố đó ra, khi lựa chọn hình thức nhà nước chúng ta phải biết kết hợp với các yếu tố khác nữa như: trình độ phát triển kinh tế xã hội; tương quan lực lượng giai cấp; lịch sử truyền thống dân tộc; bối cảnh quốc tế; xu hướng của thời đại; các vấn đề dân tộc, sắc tộc;... Hình thức nhà nước bao gồm hai yếu tố: hình thức chính thể và hình thức cấu trúc. Trong phạm vi của bài viết này, tác giả chỉ tập trung đi sâu nghiên cứu vấn đề hình thức chính thể nhà nước, còn hình thức cấu trúc nhà nước chỉ được xem xét, tìm hiểu ở những khía cạnh, phương diện nhất định nhằm làm sáng tỏ hình thức chính thể nhà nước. 1.2. Phân loại hình thức chính thể Khi phân tích các hình thức chính thể, chủ yếu chúng ta tập trung vào mô hình nhà nước, trình tự thành lập, cơ cấu tổ chức của các cơ quan nhà nước ở trung ương: nguyên thủ quốc gia; lập pháp; hành pháp; tư pháp. Trong đó, đầu tiên chúng ta xem xét nguyên thủ quốc gia, sau đó là mối quan hệ giữa nguyên thủ quốc gia với các cơ quan nhà nước khác. Do đó, để phân biệt các mô hình chính thể nhà nước, trước hết chúng ta dựa vào cách thức thành lập hay là nguồn gốc của nguyên thủ quốc gia cũng như chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của chức vụ đó. Dựa trên cơ sở đó, hình thức chính thể được bao gồm hai dạng cơ bản là chính thể quân chủ và chính thể cộng hoà. Chính thể quân chủ là chính thể mà ở đó nguyên thủ quốc gia do thế tập, quyền ngôi mà ra, quyền lực nhà nước có nguồn gốc thần bí, từ cõi hư vô, do thượng đế định đoạt. ở chính thể này, quyền lực nhà nước tối cao tập trung toàn bộ hay một phần trong tay người đứng đầu nhà nước (vua, hoàng đế...), và nhà nước đó là nhà nước quân chủ. Chính thể cộng hoà là chính thể mà nguyên thủ quốc gia do bầu cử (trực tiếp hoặc gián tiếp) lập nên, và nguồn gốc của quyền lực nhà nước xuất phát từ nhân dân. Quyền lực nhà nước được thực hiện bởi các cơ quan đại diện do bầu ra trong một thời hạn nhất định, và nhà nước đó gọi là nhà nước cộng hoà. Chính thể quân chủ được chia thành quân chủ tuyệt đối và quân chủ hạn chế. Chính thể quân chủ tuyệt đối là chính thể mà quyền lực nhà nước tập trung vào người đứng đầu nhà nước. Vua, hoàng đế... có quyền lực vô hạn định mà không bị hạn chế bởi bất cứ một giai cấp, một thế lực quyền thế hay một cá nhân nào. Còn trong nhà nước quân chủ hạn chế, quyền lực nhà nước tối cao không chỉ được trao cho người đứng đầu nhà nước mà còn được trao (được phân chia) cho các cơ quan cấp cao khác một cách hạn chế, ví dụ, nghị viện trong chính thể quân chủ lập hiến hay hội nghị đại diện đẳng cấp thường thấy xuất hiện trong một số nhà nước phong kiến. Trong chính thể quân chủ hạn chế (quân chủ lập hiến) lại được chia ra thành hai hình thức chính thể nhà nước: quân chủ nhị nguyên và quân chủ đại nghị. Quân chủ nhị nguyên là loại hình tổ chức nhà nước, trong đó quyền lực nhà nước được chia đều cho hai cơ quan trong cấu trúc quyền lực nhà nước, đó là quyền lực của cá nhân nhà vua và quyền lực của tập thể nghị viện. Đây là loại hình chính thể nhà nước xuất hiện sau các cuộc cách mạng tư sản, là mô hình tổ chức nhà nước chuyển tiếp từ nhà nước phong kiến sang nhà nước tư sản, và nó tồn tại không lâu trong thực tế. Các bộ trưởng đều do vua bổ nhiệm, vừa chịu trách nhiệm trước nhà vua, vừa chịu trách nhiệm trước nghị viện. Hình thức nhà nước quân chủ hạn chế thứ hai là quân chủ đại nghị. ở chính thể này, nguyên thủ quốc gia là vị hoàng đế được thành lập theo phương thức thế tập, truyền ngôi kế thừa cho con cháu. Bộ máy hành pháp được thành lập và hoạt động khi nào vẫn còn có tín nhiệm của nghị viện. Chính thể cộng hoà cũng có hai hình thức chủ yếu là cộng hoà dân chủ và cộng hoà quý tộc. Trong nhà nước cộng hoà dân chủ, pháp luật quy định quyền của công dân tham gia bầu cử thành lập các cơ quan đại diện của nhà nước. Trong nhà nước cộng hoà quý tộc (dưới chế độ nô lệ và chế độ phong kiến), quyền tham gia bầu cử để thành lập các cơ quan đại diện của nhà nước chỉ dành riêng cho giới quý tộc và những người có của, và quyền đó được quy định trong pháp luật. Chính thể quân chủ và chính thể cộng hoà trong những giai đoạn lịch sử cụ thể có những đặc điểm khác nhau phụ thuộc vào các hình thái kinh tế xã hội (cơ sở kinh tế) mà nó tồn tại với các kiểu nhà nước tương ứng, và còn phụ thuộc vào các hoàn cảnh cụ thể của từng xã hội, như: trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; truyền thống lịch sử, văn hoá, xã hội; tương quan lực lượng giai cấp;... Do đó, khi phân biệt các hình thức chính thể ta không những chỉ phân biệt chúng trong các chế độ nô lệ, phong kiến, tư bản, xã hội chủ nghĩa mà còn có các biến dạng của chúng phụ thuộc vào các yếu tố nêu trên. Trước khi đi vào phân loại các hình thức chính thể, đầu tiên chúng ta sẽ xem xét một cách khái quát vấn đề sự lựa chọn người cầm quyền và cơ cấu tổ chức chính quyền. * Sự lựa chọn người cầm quyền Giá trị của một chế độ tuỳ thuộc phần lớn vào những người cầm quyền trong chế độ ấy. Nếu lựa chọn được những người tiêu biểu cho chế độ sẽ giúp cho việc giữ vững và phát huy được bản chất của chế độ đó, đưa đất nước tiến lên phía trước. Ngược lại, nếu những người cầm quyền không được lựa chọn một cách thích hợp và phù hợp với chế độ sẽ là một lực cản lớn cho sự phát triển của đất nước và cho sự bền vững của chế độ đó. Trong những điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, những yếu tố truyền thống lịch sử, trình độ phát triển... khác nhau thì phương pháp lựa chọn người cầm quyền là khác nhau. Do vậy, các phương pháp lựa chọn người cầm quyền đã trở thành một trong những nền tảng của chế độ. Cá._.c phương pháp được áp dụng cho tới nay, trên phương diện tích cực là nhằm để hạn chế quyền lực, ngăn chặn chúng không đi đến chỗ lạm dụng, đồng thời cũng là nhằm thực hiện những yêu sách của chủ nghĩa tự do. Xét đến cùng, sự khác biệt sâu rộng của những chính thể, chế độ chính trị khác nhau là dựa trên phương thức, cách thức lựa chọn những người cầm quyền có xuất phát từ những hình thức tự do, dân chủ hay không. Trong lịch sử đã tồn tại nhiều phương pháp, cách thức để lựa chọn những người cầm quyền của một quốc gia: phương pháp truyền ngôi kế vị; bầu cử tự do; bầu cử hội đồng tuyển trạch lựa chọn; hay do sự chinh phục bằng võ lực,... Chung quy lại, người ta có thể tập hợp những phương pháp trên thành hai loại phương pháp cơ bản. Thứ nhất, nếu việc lựa chọn những người cầm quyền được giao cho dân chúng (có thể bằng hình thức trực tiếp hay gián tiếp) thì phương pháp này được gọi là dân chủ. Thứ hai là, nếu sự lựa chọn đó đã lọt khỏi tay dân chúng mà rơi vào một hoặc một số cá nhân hay những nhóm người có thế lực thì đó là phương pháp phi dân chủ hay được mệnh danh là độc tài. Những phương pháp thứ nhất (phương pháp dân chủ) phù hợp với chủ nghĩa tự do, là cơ sở của nền tảng dân chủ bởi vì chúng làm hạn chế quyền lực của những người cai trị, làm tiêu diệt chủ nghĩa độc đoán cá nhân. Những phương pháp thứ nhì thì trái lại, chúng thích nghi với chủ nghĩa độc đoán, chuyên quyền, là điều kiện cho những người cầm quyền thâu tóm quyền lực, và làm teo tóp nền tảng tự do, dân chủ. Giữa hai phương pháp đó, người ta lại tìm ra những phương pháp hỗn hợp trung hoà trong đó có kết hợp của sự lựa chọn dân chủ và sự lựa chọn độc tài. Ngày nay, ở những nước còn qúa lạc hậu hay ở những quốc gia trong những hoàn cảnh lịch sử nhất định, ví dụ, ở một số nước thường thấy sự thay đổi chính quyền bằng cách dùng lực lượng quân đội để làm đảo chính như ở Pakistan vào năm 2000 hay năm 1999 ở Miến Điện. Trái lại, chế độ dân chủ ngày càng phát triển hơn thể hiện tính quy luật của sự phát triển dân chủ. Về mặt lịch sử, chế độ dân chủ phát sinh trong những đô thị Hy Lạp cổ đại, nhưng đó chỉ là hình thức dân chủ sơ khai, dân chủ chỉ với một nhóm thiểu số. Đó là vì rằng, chỉ những người tự do mới được có mặt trong các hội nghị (các thiết chế dân chủ) để tham gia lựa chọn những người đại diện. Những người nô lệ và những người thuộc tầng lớp dưới của xã hội không được hưởng bất cứ một quyền dân sự, quyền chính trị nào. Cùng với sự tiến triển của lịch sử, chế độ dân chủ cũng có những bước phát triển thăng trầm, nhưng nhìn chung chưa tạo ra được những đột biến lớn. Chỉ đến khi nổ ra các cuộc cách mạng tư sản, từ đó đã tạo ra bước ngoặt to lớn cho sự phát triển của chế độ dân chủ, hình thành nên một hình thức dân chủ mới. Mà giai cấp tư sản đã tuyên bố rằng, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân được quyền tham gia vào việc lựa chọn những người đại diện thành lập nên các cơ quan nhà nước. Vì tất cả công dân không thể tham gia chính phủ, họ sẽ phải lựa chọn những người đại diện vào trong nghị viện, do đó mới có cụm từ “dân chủ đại nghị”, đó là một chế độ dân chủ. Chế độ dân chủ từ đây có cơ sở và đồng nghĩa với những cuộc bầu cử trong một thời hạn nhất định những người cầm quyền do dân chúng bầu lên. Những phương pháp bầu cử cũng như số những nghị viện (cơ quan đại diện) có thể khác nhau ở những nước khác nhau tuỳ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh của mỗi quốc gia, và sự tổ chức, mối quan hệ giữa cơ quan lập pháp với cơ quan hành pháp có thể không giống nhau do các hình thức chính thể khác nhau nhưng mục đích cuối cùng là tạo ra một chế độ dân chủ khi mà những cuộc bầu cử ấy được tổ chức một cách tự do và thành thật. Dưới hình thức ấy, chế độ dân chủ lần đầu tiên đã trở thành tiêu chí mà mọi quốc gia đều phải hướng tới, cũng lần đầu tiên nó đã chinh phục hầu hết các nước văn minh. Từ khi ra đời, chế độ dân chủ đại nghị đã trải qua hai cuộc biến thiên chính: đó là sự chấp nhận phổ thông đầu phiếu và sự xuất hiện của những đảng chính trị có tổ chức. Trong thời kỳ khá lâu sau các cuộc cách mạng tư sản, chế độ dân chủ chỉ có tính cách cục bộ, khép kín, những người cầm quyền được bầu lên chỉ bởi một nhóm thiểu số dân chúng (nhưng người có của). Dần dần cùng với sự phát triển, số cử tri được tăng lên do áp lực của những nguyên tắc dân chủ. Tuy nhiên, khi các chính đảng ra đời và tham gia vào bầu cử thì phần nào nguyên tắc bầu cử dân chủ bị xâm phạm, bởi vì những ban lãnh đạo các chính đảng có khuynh hướng muốn thay thế cho những người được bầu cử, hay khi sự lựa chọn những người đại diện vào viện dân biểu lại được chuyển từ tay cử tri qua tay các chính đảng. Bây giờ, ta hãy nói tới những chế độ hỗn hợp (chế độ dung hoà giữa độc tài và dân chủ). Một chế độ được gọi là hỗn hợp khi những người cầm quyền được lựa chọn bằng phương pháp dung hoà. Cuộc bầu cử không hoàn toàn bị loại trừ, song nó không đóng vai trò quyết định. Tuỳ thuộc vào phương thức dung hoà người ta có thể phân biệt những chế độ hỗn hợp sau: hỗn hợp bằng cách tiếp nối; hỗn hợp bằng kết hợp; hỗn hợp bằng hợp nhất. Thứ nhất, trong chế độ hỗn hợp bằng cách tiếp nối, người ta thấy hai cơ quan chính quyền đứng bên nhau, một cơ quan có tính cách dân chủ và một cơ quan có tính cách chuyên chế, có thể phân biệt chế độ này thành các hình thức sau đây: + Sự nối tiếp giữa một nghị viện dân chủ và một vị vua có quyền độc đoán, nghị viện do nhân dân bầu ra đứng bên cạnh một ngôi vua do cha truyền con nối. + Sự tiếp nối trong nội bộ, cơ quan đại diện (nghị viện) được cơ cấu làm hai viện: một viện do dân bầu ra, và một viện được chỉ định bởi một phương pháp độc đoán (như do truyền ngôi, thế vị, do tuyển trạch hay được bổ nhiệm...) + Sự tiếp nối giữa những phần tử dân chủ và những phần tử độc đoán ở trong cùng nội bộ một nghị viện (Thượng nghị viện Pháp năm 1875 bên cạnh 225 Thượng Nghị sĩ do dân bầu ra, còn có 75 Thượng nghị sĩ được lựa chọn theo lối tuyển trạch). Thứ hai, chế độ hỗn hợp do kết hợp, là chế độ mà trong đó có một cơ quan chính quyền được chỉ định theo phương pháp phức tạp vừa dân chủ, vừa độc đoán. Đó là trường hợp có cuộc "đầu phiếu để chuẩn y" một chính phủ được lựa chọn theo một phương pháp độc đoán nào đó (do bổ nhiệm, do thế vị,...). Chính phủ ấy chỉ được tấn phong sau một cuộc bỏ thăm của dân chúng (trưng cầu dân ý) để chuẩn y sự lựa chọn đã được ấn định trước. Ví dụ, ở Pakixtan vào thánh 5/2002, Tổng thống đương nhiệm (do đảo chính quân sự) Pevec Maussarap muốn cầm quyền thêm một nhiệm kỳ nữa đã không tổ chức cuộc tuyển cử tự do mà đưa sự việc ra từng cầu dân ý một cách áp đặt. Trong chế độ hỗn hiệp do kết hợp, một phương pháp có thể gọi là có một trình tự lựa chọn ngược với phương pháp trên, đó là phương thức "đầu phiếu giới thiệu". Sự bỏ phiếu của cử tri có mục đích đề nghị ra (lập danh sách ra) những ứng cử viên để cho một cơ quan không phải là do dân bầu lựa chọn. Ví dụ, điển hình hơn hết là việc lập "danh sách được tín nhiệm" mà Hiến pháp năm thứ VIII của nước Pháp đã ấn định. Theo quy định, dưới hết là những cử tri dự cuộc phổ thông đầu phiếu để lựa chọn một phần mười số người của họ lập thành danh sách xã; những người trong danh sách xã sẽ bầu một phần mười số người của mình để lập danh sách quận; rồi lại cũng theo thể thức ấy mà bầu lên trên. Trong những danh sách này, Thượng nghị viện được thành lập do lối tuyển trạch sẽ lựa chọn những người cầm quyền địa phương và những Nghị sĩ trong Viện lập pháp và Viện hộ dân. Trong những trường hợp trên, việc bổ nhiệm những người cầm quyền được phân ra làm hai giai đoạn: một giai đoạn độc đoán và một giai đoạn dân chủ. Thứ ba, chế độ hỗn hiệp do hiệp nhất, ở đây có một sự hoà đồng hoàn toàn giữa những phần tử dân chủ và những phần tử độc đoán. Việc bổ nhiệm, lựa chọn những người cầm quyền không thể là dân chủ thuần tuý hay độc đoán thuần tuý. Một mặt, phương pháp ấy đi gần với chủ nghĩa tự do vì những người cầm quyền được lựa chọn bởi chính số ít những người cầm quyền khác. Mặt khác, nó xa biệt với dân chủ mà hướng tới độc tài vì chỉ một số ít dân chúng được tham gia bầu cử. Phương pháp này là một phương pháp mà những tính chất dân chủ và những tính chất độc đoán được hoà hợp làm một theo một phương pháp đồng nhất. Chế độ cuối cùng này được thực hiện trong hầu hết các nước tư bản trong thời kỳ trước và sau các cuộc cách mạng tư sản như là một chế độ giao thời từ độc tài đến dân chủ. Bởi vì, chế độ dân chủ được phát triển, mở rộng theo thời gian, ít khi có tình trạng đang hoàn toàn không có cuộc bầu cử dân chủ mà bước qua liền giai đoạn phổ thông đầu phiếu. Thường thường, quyền bầu cử ban đầu chỉ trao cho một số người có đặc quyền, rồi dần dần được lan rộng đến những người khác, sau mới ban hành cho tất cả các công dân. * Cơ cấu chính quyền Từ khi nhà nước xuất hiện, với tư cách là một tổ chức tập trung nhất của quyền lực chính trị, nhà nước thực hiện chức năng quản lý xã hội. Tuỳ thuộc vào từng giai đoạn lịch sử khác nhau, nhà nước có vai trò quản lý xã hội khác nhau, thậm chí trong cùng một hoàn cảnh lịch sử nhất định, có những nhà nước mở rộng vai trò quản lý xã hội của mình, lại cũng có những nhà nước thu hẹp phạm vi quản lý xã hội trong những lĩnh vực nhất định. Ví dụ, sau các cuộc cách mạng tư sản, nhà nước tư sản chỉ đóng vai trò là "người lính gác đêm" cho sự phát triển của xã hội; ngược lại, trong nhận thức cũ về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhà nước vừa là người quản lý mọi mặt của đời sống xã hội, vừa là một tổ chức “siêu kinh tế”. Nhưng nhìn chung, theo sự phát triển của lịch sử, ở trên những phương diện khác nhau, vai trò của nhà nước ngày càng được mở rộng và được đề cao. Đi đôi với sự gia tăng vai trò của nhà nước là những chức năng mới và nhiệm vụ mới mà nhà nước phải gánh vác, đảm nhận. Cùng với sự phát triển của xã hội thì chức năng, nhiệm vụ của nhà nước ngày càng nhiều thêm mãi, cơ cấu tổ chức của chúng càng ngày càng đa dạng, phức tạp. Để giải quyết những chức năng, nhiệm vụ đó đòi hỏi nhà nước phải có một bộ máy cai trị tương xứng với chúng. Do vậy, trên phương diện tổ chức chính quyền, sự cấu tạo của những cơ quan nhà nước trong hiến pháp ngày một được mở rộng và trở nên đa dạng, phức tạp. Cơ cấu tổ chức và mối liên hệ giữa những cơ quan nhà nước có quan hệ mật thiết và được thể hiện trên hai phương diện: phương diện kỹ thuật và phương diện chính trị. Về phương diện kỹ thuật, mỗi nhiệm vụ phải được phân phối làm sao cho chúng được hoàn thành một cách tốt nhất và phải điều hòa được hoạt động của mỗi cơ quan cũng như của cả hệ thống tổ chức nhằm bảo đảm sự nhất trí và liên kết giữa chúng. Về phương diện chính trị, cơ cấu tổ chức nhà nước ảnh hưởng sâu rộng đến quyền hành mà nhà nước sử dụng đối với công dân. Dựa vào tính chất và cơ cấu của cơ quan nhà nước, người ta phân chia thành hai loại cơ quan chính quyền cơ bản: Thứ nhất, những cơ quan đại diện (nghị viện), tức là những cơ quan làm việc theo chế độ tập thể, trong đó, về nguyên tắc từng cá nhân không có quyền hành gì. Thứ hai, những cơ quan gồm có một người, hay một uỷ ban gồm một số người, hay do sự kết hợp của một người và một uỷ ban. Người ta gọi loại cơ quan này là cơ quan hành pháp hay chính phủ. Căn cứ vào sự cấu tạo chính phủ, người ta phân chia ra ba loại chính phủ - hành pháp điển hình: chế độ nhất quyền; chế độ chấp chính; chế độ lưỡng quyền. Sau đây chúng ta sẽ lần lượt nghiên cứu, tìm hiểu từng chế độ: Chế độ nhất quyền, trong chế độ này, ông vua, nhà độc tài, vị hoàng đế hay vị tổng thống,..., những cá nhân này thâu tóm tất cả quyền hành chính phủ vào tay mình. Về mụch đích, chế độ này được lựa chọn nhằm tăng cường cho công quyền quyền lực tập trung, tức là gia tăng quyền lực. Tuy nhiên, quyền lực của chính phủ được khuyếch trương nhiều hay ít, và quyền lực đó có nguồn gốc xuất phát từ đầu cũng như mối quan hệ của chính phủ với các cơ quan nhà nước khác tuỳ thuộc vào chế độ nhất quyền này là chế độ quân chủ độc tài hay chế độ tổng thống (dân chủ). Chế độ chấp chánh, quyền lực nhà nước trong chế độ này tập trung vào trong tay hai người được liên kết với nhau, bình đẳng về quyền hành và uy thế, họ phải cùng nhau quyết định mới có giá trị, nếu một bên chống đối lại thì sẽ làm tê liệt tất cả các sáng kiến của bên kia. Ngày nay, chế độ này không còn tồn tại nữa, trước đây nó tồn tại ở Nhà nước La mã cổ đại, và tái sinh ở Nhà nước Pháp từ tháng 6 đến tháng 11 năm 1943 khi ban giải phóng quốc gia Pháp đặt dưới quyền hai vị tướng: De Gaulie và Giraud Chế độ chấp chính thịnh hành hơn cả là giao phó quyền hành chính phủ cho một nhóm ít người, và có hai đặc điểm: trước hết, là không có một người chủ tịch trong tập thể quyền lực, không có lá thăm nào được ưu quyền, không có đẳng cấp trong tập thể đó; thứ đến, là tính tập thể, về nguyên tắc mọi cá nhân trong nhóm không có quyền hành riêng, mọi quyết định đều dựa theo quyết định của tập thể mới có hiệu lực. Trong khi hành động, chính phủ chấp chánh gặp phải những khiếm khuyết rất lớn mang tính bản chất. Bởi vì, thông thường một người trong nhóm theo lẽ tự nhiên ưa lấn át quyền hành đối với những người khác mà có khuynh hướng tiến tới giữ vai trò chủ tịch. Vã lại, trong chế độ này luôn luôn có sự phân phối trách vụ theo khả năng chuyên môn của mỗi cá nhân khiến cho mỗi người có một quyền và khả năng hành động độc lập nhiều hay ít. Chế độ này, xét tổng quát là một nguyên nhân khách quan làm suy yếu quyền hành pháp. Vì phải có một quyết định chung nên có sự chậm trễ. Hơn nữa, những sự cạnh tranh cá nhân và những tranh giành nội bộ trong việc chiếm đoạt quyền lực đã đưa đến những hậu quả tai hại trong hoạt động của chính phủ. Chế độ lưỡng quyền, là một thể thức hoà hiệp giữa chính phủ chấp chánh và chính phủ tổng thống. Trong chế độ này, người ta thấy có hai cơ quan cùng song song tồn tại, đó là một vị quốc trưởng độc lập bên cạnh một cơ quan tập thể. Cơ quan tập thể này thường được gọi là nội các, mà nhân viên của nó do quốc trưởng công cử, phần nhiều trong số đó là đảng viên của đảng phái chiếm đa số trong quốc hội. Nội các trong chế độ này có hai đặc điểm: trước hết, nhân viên nội các được hưởng một quyền tự trị khá rộng rãi đối với quốc trưởng, dẫu là do quốc trưởng chỉ định, họ có thể dựa vào quốc hội mà chống lại quốc trưởng. Trong hoạt động của nội các, họ còn được độc lập quyết định trong phạm vi quyền hạn của mình chứ không phải chỉ là phụ tá mà thôi; thứ đến, nội các làm việc theo chế độ độc tập thể, mỗi nhân viên có một trạch vụ riêng biệt độc lập với các nhân viên khác, song tất cả đều liên đới chịu trách nhiệm trước quốc trưởng và trước nghị viện nên họ phải có những quyết định chung đối với các vấn đề quan trọng, và về nguyên tắc, chính sách của mỗi cá nhân trong nội các không được mâu thuẫn với chính sách của tập thể nội các. Các nhân viên nội các đều có vị trí bình đẳng, đều có quyền quyết định như nhau, tuy nhiên, thường có một người gây được ưu thế, ảnh hưởng của mình đối với nội các, đó là vị chủ tịch nội các hay thường được gọi là thủ tướng. Thủ tướng được quốc trưởng chỉ định, quốc trưởng không thể chỉ định ai khác ngoài thủ lĩnh của đảng chiếm đa số trong nghị viện, nếu không có đảng nào chiếm đa số trong nghị viện thì các đảng phải tiến hành liên minh với nhau để thành lập chính phủ liên hiệp, chức vị thủ tướng nội các do các đảng thỏa hiệp chọn ra. Thủ tướng thường được trao quyền lựa chọn những nhân viên nội các rồi trình quốc trưởng chấp nhận. Đồng thời, thủ tướng được chủ toạ các buổi họp của nội các khi quốc trưởng không tham dự, và được nhân danh nội các phát biểu trước nghị viện. Cơ cấu nghị viện. Cơ cấu chính quyền tiếp theo mà chúng ta nghiên cứu đó là những nghị viện (cơ quan đặc diện.) Sự cấu tạo của các nghị viện mang những điển hình rất phức tạp, chúng có thể được xếp thành nhiều loại. Chúng ta chỉ đề cập tới những loại nghị viện có tính chất đặc trưng, điển hình để giải thích nội dung các hình thức chính thể nhà nước. Trước hết, theo tính chất và vai trò của nghị viện trong hoạt động của bộ máy nhà nước, ta phân biệt nghị viện thành hai loại: những nghị viện chỉ có quyền “tư vấn” và những nghị viện có quyền “nghị quyết''. Loại nghị viện thứ nhất chỉ có thể phát biểu những ý kiến, hay đưa ra những kiến nghị tư vấn cho hoạt động của chính phủ, mà chính phủ có thể tự do bỏ qua những ý kiến, kiến nghị đó, trừ khi có uy tín và thẩm quyền kỷ thuật mà đưa ra được những ý kiến có sức nặng khiến cho chính phủ vị nể không thể bỏ qua. Loại nghị viện này xuất hiện vào thời kỳ đầu của sự hình thành chế độ nghị viện, và hiện nay nó vẫn còn tồn tại ở một số nước kém phát triển và những nước quân chủ chuyên chế. Loại nghi vấn viện thứ hai mới thật sự có vai trò quan trọng hoạt động của nhà nước. Hoạt động của chính phủ đều phải dựa trên cơ sở những quyết định của nghị viện, và chính phủ chỉ được phép hoạt động cho đến khi còn sự tín nhiệm của nghị viện. Thứ hai, theo chính thể, chúng ta phân biệt thành ba mô hình nghị viện: nghị viện của những nước theo chính thể đại nghị cả cộng hoà lẫn quân chủ; nghị viện của những nước theo chính thể cộng hoà tổng thống; nghị viện của các nước theo hệ thống xã hội chủ nghĩa. [18;367] Thứ ba, theo nguồn gốc của sự hình thành nghị viện, ta phân biệt thành hai loại: những nghị viện dân chủ (do dân bầu); và những nghị viện độc đoán (bổ nhiệm, tuyển trạch, gia truyền...). Theo lịch sử, những nghị viện độc đoán ra đời trước nhất và nó là tiêu biểu cho thế lực của giai cấp phong kiến đối với nhà vua, mà thành phần của nghị viện bao gồm những người đại diện cho tầng lớp quý tộc, tăng lữ,... Tuy nhiên, cùng với thời gian, sự phát triển của họ đã làm cho nhà vua phải dần dần nhượng bộ các đại biểu của chúng rồi nhóm họp thành các nghị viện dân chủ với các phương pháp bầu cử tự do. Thứ tư, theo cơ cấu tổ chức, nghị viện được tổ chức thành các mô hình, một viện, hai viện, ba viện,...[18;347] Trên đây là sự đề cập chung nhất đến các mô hình chính thể, như cơ cấu tổ chức, trình tự thành lập, mối liên hệ giữa các cơ quan nhà nước trung ương, nguồn gốc của quyền lực nhà nước và mức độ tham gia của nhân dân vào việc thành lập các cơ quan nhà nước. Sau đây, chúng ta sẽ xem xét, đề cập tới một số mô hình chính thể đặc trưng, điển hình nhằm mục đích xây dựng cơ sở lí luận về các mô hình chính thể phục vụ cho công việc nghiên cứu so sánh giữa các chính thể đó với chính thể Nhà nước Việt Nam Hiến pháp 1946. Đó là các mô hình chính thể: chính thể đại nghị cả quân chủ lẫn cộng hoà; chính thể cộng hoà tổng thống; chính thể cộng hoà hỗn hợp; chính thể cộng hoà xã hội chủ nghĩa. Sau đây, chúng ta sẽ lần lượt phân tích, nghiên cứu từng mô hình chính thể. * Chính thể cộng hoà (quân chủ) đại nghị . Chính thể quân chủ đại nghị là mô hình tổ chức nhà nước phổ biến ở các nước tư bản phát triển. Đây là mô hình áp dụng học thuyết phân chia quyền lực một cách mềm dẻo, tức là giữa lập pháp và hành pháp không có sự độc lập tuyệt đối mà có sự kết hợp lẫn nhau trong quá trình tổ chức, thực hiện quyền lực nhà nước. ở chính thể này, nguyên thủ quốc gia là vị vua, hoàng đế được truyền ngôi, thế tập cho con cháu. Chính phủ hành pháp được thành lập dựa trên cơ sở nghị viện, và được hoạt động cho đến khi nào vẫn còn có sự tín nhiệm của nghị viện. Các bộ trưởng và người đứng đầu hành pháp phải chịu trách nhiệm tập thể trước nghị viện. Trong trường hợp chính phủ không còn sự tín nhiệm của nghị viện nữa, chính phủ có thể bị nghị viện lật đổ và phải ra đi để thành lập chính phủ mới, đồng thời kèm theo vấn đề lật đổ chính phủ, thủ tướng có thể đề nghị nguyên thủ quốc gia giải tán nghị viện trước thời hạn. Nhà vua, hoàng đế là nguyên thủ quốc gia thay mặt cho nhà nước về đối nội và đối ngoại nhưng chỉ hoạt động một cách hết sức hình thức, và chủ yếu giữ vai trò là biểu tượng cho sự bền vững, trường tồn và hoà hợp dân tộc. Chính vai trò biểu tượng này có tác dụng tâm lý cho sự tồn tại của chế độ hiện thời. Khi có chiến tranh, nội chiến hay khủng hoảng xã hội thì nguyên thủ quốc gia là chổ dựa vững chắc cho giai cấp thống trị và cho cả dân tộc.[2;79]. Bởi vì, không có thực quyền nên nguyên thủ quốc gia được hầu hết các hiến pháp quy định không phải chịu bất cứ một trách nhiệm nào, trừ tội phản bội tổ quốc. Trên thực tế, việc thành lập và hoạt động của chính phủ đều nằm trong tay đảng chiếm đa số ghế trong nghị viện, nếu không có đảng nào chiếm đa số ghế trong nghị viện thì các đảng phải liên kết với nhau để thành lập chính phủ liên hiệp. Cho nên, thực tế hoạt động, bao giờ chính phủ cũng khống chế nghị viện, và chính phủ thâu tóm quyền lực vào tay mình. Vì vậy, chính phủ và nghị viện (hạ nghị viện) không khác nào là hai cơ quan thuộc một đảng phái chính trị cầm quyền, hay nói cách khác chính phủ là ban chấp hành của đảng cầm quyền, còn các nghị sĩ là đảng viên của đảng cầm quyền. Trong hiến pháp của nhiều nước tư sản quy định nghị viện có quyền luận tội các quan chức có hàm bộ trưởng, thủ tục đó được gọi là thủ tục đàn hạch. Thủ tục đàn hạch ở nhiều nước được quy định trong hiến pháp tuy có sự khác nhau, nhưng nhìn chung hạ nghị viện là cơ quan có quyền buộc tội, còn thượng nghị viện là cơ quan có quyền luận tội. Chế độ chịu trách nhiệm của hành pháp trước lập pháp không phải ở chỗ chế độ chịu trách nhiệm của từng bộ trưởng trước nghị viện mà là chế độ chịu trách nhiệm chính trị của toàn bộ chính phủ trước nghị viện, và là cơ sở cho việc chính phủ có thể bị quốc hội lật đổ. Sở dĩ, đây là hình thức nhà nước được nhiều nước tư bản phát triển áp dụng là vì nó phù hợp với chế độ chính trị của nhà nước tư sản. ở đó, quyền lực nhà nước thuộc về giai cấp tư sản thống trị và được thực hiện một cách đầy đủ bởi giai cấp tư sản. Nhà vua chỉ là biểu tượng của đất nước, hoạt động một cách hình thức, nhà vua "trị vì mà không cai trị". Chính thể cộng hoà đại nghị, là hình thức tổ chức nhà nước mà trong tiềm thức của nhiều người là dân chủ, văn minh của nhân loại. Bởi vì, nó là cái đích mà các cuộc cách mạng tư sản muốn đạt tới khi giai cấp tư sản làm cách mạng và xây dựng một nhà nước cho giai cấp mình sau khi đã lật đổ hoàn toàn chế độ phong kiến. Do đó, quyền lực nhà nước trong chính thể này không phải xuất phát từ thiên định, từ cõi "hư vô" mà quyền lực nhà nước có nguồn gốc từ nhân dân. Cộng hoà đại nghị là mô hình mà ở đó áp dụng học thuyết tam quyền phân lập một cách mềm dẻo, tức là không có sự phân lập các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp một cách “cứng rắn”, mà là có sự phối kết hợp giữa lập pháp và hành pháp trong việc thực hiện quyền lực. Nghị viện được hình thành một cách dân chủ thông qua việc trực tiếp bầu cử của nhân dân vào việc thành lập, và nghị viện được hiến pháp của các nước quy định là cơ quan quyền lực nhà nước tối cao. Chính phủ được thành lập dựa trên cơ sở của nghị viện, và hoạt động đến đến khi nào vẫn còn có sự tín nhiệm của nghị viện. Phân tích dấu hiệu của chính thể cộng hoà đại nghị, nhiều nhà luật cho rằng, chính thể cộng hoà đại nghị là chính thể được tổ chức ở những nhà nước có nguyên thủ quốc gia do nghị viện bầu ra, hoặc được bầu ra dựa trên cơ sở của nghị viện. Chính phủ do thủ tướng đứng đầu không chỉ chịu trách nhiệm trước nguyên thủ quốc gia, mà còn chịu trách nhiệm trước nghị viện. Nhưng trong chính thể này, do vai trò của tổng thống cũng giống như vai trò của nhà vua, hoàng đế trong chính thể quân chủ đại nghị, hoạt động hình thức, nên nhiều người chỉ nhắc đến việc chính phủ chỉ chịu trách nhiệm trước nghị viện mà không chịu trách nhiệm trước nguyên thủ quốc gia. Hiến pháp của các nước này thường quy định quyền lực tối cao của nghị viện và hình thành nên chế độ đaị nghị. Chức danh thủ tướng được thiết lập và sự tham gia một cách hình thức của nguyên thủ quốc gia vào việc thành lập chính phủ.[2 ; 82]. Khi hoạt động của chính phủ không còn sự tiến nhiệm của nghị viện thì chính phủ có thể bị nghị viện lật đổ và thành lập một chính phủ mới. Đồng thời với chế định tín nhiệm chính phủ là chế định tín nhiệm nghị viện, khi được chính phủ yêu cầu hoặc tự mình, nguyên thủ quốc gia có thể tuyên bố giải tán nghị viện trước thời hạn để tổ chức cuộc tổng tuyển cử bầu một nghị viện mới. Hiến pháp của nhiều nước theo chính thể này quy định các quan chức có hàm bộ trưởng có thể bị luận tội trước nghị viện. Thủ tục luận tội được hiến pháp nhiều nước gọi là thủ tục đàn hạch. ở các nước khác nhau có thể thủ tục luận tội là khác nhau, nhưng nhìn chung, hạ nghị viện là cơ quan có quyền buộc tội, còn thượng nghị viện là cơ quan có quyền luận tội. Tuy nhiên, cũng có những có những nước quy định nghị viện không được luận tội các quan chức của chính phủ. Hiến pháp quy định là thế, nhưng do sự tham gia hoạt động của các đảng phải chính trị vào việc thực quyền lực nhà nước, nhiều khi đã làm cho các quy định của hiến pháp trở nên hết sức hình thức. Thực tế việc bầu cử nghị viện cũng như vệc thành lập chính phủ đều do các đảng phải chính trị thao túng. Nguyên thủ quốc gia khi chọn thủ tướng không ai khác là thủ thủ lĩnh của đảng cầm quyền chiếm đa số ghế trong nghị viện, và các bộ trưởng phải là các nghị sĩ - đảng viên của đảng cầm quyền. Như sự phân tích ở trên, về nguyên tắc, hình thức tổ chức nhà nước theo chính thể cộng hoà đại nghị hoàn toàn giống với hình thức tổ chức nhà nước theo chính thể quân chủ đại nghị. Điểm khác biệt ở đây là, nguyên thủ quốc gia không do thế tập, truyền ngôi mà do nhân dân bầu cử ra. Nguyên thủ quốc gia được nhân dân trực tiếp hoặc gián tiếp bầu ra, và được hiến pháp gọi là tổng thống. Tổng thống là người đứng đầu nhà nước, thay mặt nhà nước về đối nội và đối ngoại. ở tất cả nước theo chính thể này, thông thường hiến pháp quy định nguyên thủ quốc gia không là người đứng đầu hành pháp và cũng không là thành viên của hành pháp. Hoặc có quy định đi chăng nữa thì nguyên thủ quốc gia không bao giờ thực hiện được một cách đích thực quyền này.[2;83]. Tổng thống thường là người không đảng phái, hoạt động với những quyền hạn mang tính hình thức, và chủ yếu giữ vai trò trọng tài trong các cuộc tranh chấp, khủng hoảng chính trị, là biểu tượng cho sự thống nhất, hoà hợp dân tộc. Tổng thống chỉ thực sự có thực quyền khi xảy ra chiến tranh, đảo chính hay những biến cố chính trị khác, vì khi đó tổng thống có quyền tự do hành động. * Chính thể cộng hoà tổng thống Cộng hoà tổng thống là mô hình tổ chức nhà nước mà ở đó áp dụng một cách tuyệt đối học thuyết phân chia quyền lực. Ba cành quyền lực lập pháp, hành pháp, tư pháp độc lập với nhau mà không có sự phối kết hợp lẫn nhau, trừ một số mối quan hệ thể hiện cơ chế "kiềm chế, đối trọng" để tránh sự lạm dụng quyền lực nhà nước từ các nhánh quyền lực nhà nước đã được phân chia. Cơ quan đại diện quyền lực nhà nước - nghị viện do nhân dân bầu ra và cơ quan hành pháp - chính phủ do một người đứng đầu cũng do nhân dân bầu ra. Trong mô hình chính thể này, không có nhánh quyền lực nào cao hơn nhánh quyền lực nào. Hành pháp không chịu trách nhiệm trước lập pháp mà chúng cùng chiụ trách nhiệm trước nhân dân, bởi vì chúng đều do nhân dân bầu ra. ở mô hình này, do lập pháp và hành pháp độc lập lẫn nhau, nên nghị viện không có quyền lật đổ chính phủ, và ngược lại, chính phủ không có quyền giải tán nghị viện trước thời hạn. Đây là hình thức chính thể mà tổng thống vừa là nguyên thủ quốc gia đứng đầu nhà nước thay mặt cho nhà nước về đối nội và đối ngoại, vừa là người đứng đầu hành pháp - chính phủ. Mọi thành viên của chính phủ đều do tổng thống bổ nhiệm và chịu trách nhiệm trước tổng thống, không chịu trách nhiệm trước nghị viện, không có chức danh thủ tướng. Do là người đứng đầu hành pháp và không phụ thuộc vào nghị viện nên tổng thống tự mình lựa chọn, tự mình bổ nhiệm và tự mình bãi nhiệm nhân sự của chính phủ vào bất cứ thời gian nào. Các bộ trưởng, về nguyên tắc, không hợp thành cơ quan bàn bạc tập thể, mà họ chỉ là những cá nhân giúp việc cho tổng thống, thực hiện những chính sách của tổng thống, và không được mâu thuẫn với chính sách của tổng thống. Chính cách thức tổ chức này trên thực tế đã tăng cường quyền lực cho tổng thống (hành pháp). Giải thích cho quyền hạn rất lớn của tổng thống, nhiều người cho rằng đó chính là do nguồn gốc quyền lực của tổng thống. Bởi vì, trong chính thể này, tổng thống được nhân dân trực tiếp hoặc gián tiếp bầu ra với một lượng cử tri đoàn rộng rãi. Nhưng tổng thống không phải là người vô trách nhiệm như trong chính thể đại nghị, trái lại tổng thống có thể bị luận tội trước nghị viện theo thủ tục đàn hạch và có thể dẫn đến bị cách chức. ở chính thể này, nếu tổng thống và phe chiếm đa số ghế trong nghị viện là người của cùng một đảng thì quyền lực nhà nước tập trung vào tay tổng thống. Trong trường hợp, nếu tổng thống và phe chiếm đa số ghế trong nghị viện không cùng một đảng thì quyền lực của tổng thống bị hạn chế, và thường dẫn đến sự mâu thuẫn giữa lập pháp và hành pháp. * Chính thể cộng hoà hỗn hợp Đây là mô hình tổ chức nhà nước vừa có những dấu hiệu của chính thể cộng hoà đại nghị lại vừa có những dấu hiệu của chính thể cộng hoà tổng thống. Tức là, bên cạnh việc thiết lập một chế độ nghị viện, còn thiết lập một chính quyền cá nhân do tổng thống đứng đầu. Giống chính thể cộng hoà tổng thống ở chỗ, tổng thống không phải do nghị viện hoặc dựa trên cơ sở nghị viện bầu ra mà tổng thống do nhân dân trực tiếp bầu ra. Do được nhân dân bầu ra nên quyền hạn của tổng thống rất lớn. Tổng thống vừa là nguyên thủ quốc gia thay mặt cho nhà nước về đối nội và đối ngoại vừa là người đứng đầu hành pháp, trực tiếp lãnh đạo hành pháp. Quyền hành của tổng thống không mang tính hình thức như trong chính thể cộng hoà nghị viện, mà ngược lại, tổng thống là người nắm quyền hành thực chất, trực tiếp giải quyết những công việc thuộc chức năng, nhiệm vụ của mình, tổng thống theo quy định không phải chịu trách nhiệm trước nghị viện. Tổng thống trong chính thể này có quyền tự mình thành lập chính phủ, chính phủ đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của tổng thống. Tổng thống chủ toạ các phiên họp của hội đồng bộ trưởng để quyết định các chính sách quốc gia. Thủ tướng và các bộ trưởng phải có trách nhiệm thực hiện chính sách của tổng thống và chịu trách nhiệm trước tổng thống. Tổng thống càng có nhiều quyền lực hơn khi tổng thống và phe đa số trong quốc hội thuộc cùng một đảng. Ngược lại._.t. Nhưng sự tham gia của nhân dân vào việc tổ chức quyền lực nhà nước, một vấn đề cơ bản xác định hình thức chính thể, thì chính thể Việt Nam không giống chính thể cộng hoà Xô viết. Trong chính thể cộng hoà Xô Viết, nền tảng của nó là công - nông - binh, Xô Viết tối cao chủ yếu bao gồm các đại diện của Đảng Cộng sản. Trong đó, cơ sở của chính thể Việt Nam hiện nay là toàn dân, Quốc hội Việt Nam là hiện thực sống động của khối đại đoàn kết dân tộc. Tính dân tộc, tính nhân dân, tính giai cấp tồn tại trong sự hòa quyện thống nhất là nét đặc trưng của chính thể Việt Nam. Việc cố gán ghép chính thể Việt Nam vào loại hình chính thể cộng hoà Xô Viết là không phù hợp với lí luận Mácxít về tính đa dạng của hình thức chính thể nhà nước. Cần xuất phát từ thực tiễn đất nước mà hình thành nên lí luận độc lập về hình thức chính thể nhà nước, không nhất thiết phải dựa hoàn toàn vào những mô hình có sẵn. Bọn theo chủ nghĩa xét lại có mưu toan áp đặt cho Lênin tư tưởng coi hình thức chính thể cộng hoà Xô Viết là hình thức Nhà nước duy nhất của chuyên chính vô sản trong tất cả các thời kỳ phát triển lịch sử sau này và đối với tất cả các nước. Trên thực tế, V.I Lênin đã hoàn toàn đúng khi về ý nghĩa quốc tế của các Xô Viết, về sự cần thiết phải tổ chức chính quyền Nhà nước của nhân dân lao động theo kiểu các Xô Viết. Nhưng không bao giờ và không khi nào Người khẳng định rằng Xô Viết là hình thức duy nhất bắt buộc của nhà nước xã hội chủ nghĩa [10;33]. Nhà nước nước Việt Nam hiện nay và Nhà nước Liên Xô trước đây đều có bản chất là chuyên chính vô sản, nhưng chính thể Việt Nam không nhất thiết là cộng hoà Xô Viết. Như đã trình bày, mô hình tổ chức Nhà nước cách mạng Việt Nam mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định không phải là một mô hình chỉ mang tính sách lược, tính giai đoạn mà mang tính chiến lược lâu dài, là một mô hình phù hợp về lâu dài với điều kiện phát triển của xã hội Việt Nam. Bản chất của mô hình Nhà nước Việt Nam theo Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980 và Hiến pháp 1992 so với hiến pháp 1946 không thay đổi. Các Hiến pháp này vẫn giữ những quy định cơ bản của Hiến pháp 1992. Việc sửa đổi Hiến pháp 1980, bên cạnh việc thể hiện nhận thức mới của chúng ta về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đồng thời cũng là dịp chúng ta tìm lại những giá trị đích thực của Hiến pháp 1946. Dưới góc độ này có thể nói rằng, những Hiến pháp 1959,1980,1992 chỉ là những tu chính án của Hiến pháp 1946 [18;64]. Về tổ chức quyền lực Nhà nước, Hiến pháp 1959,1980,1992 có điều chỉnh một số quy định cụ thể. Nhưng sự điều chỉnh đó không làm thay đổi bản chất của hình thức chính thể. Cho nên, thực chất chính thể Việt Nam từ Hiến pháp 1946 đến nay vẫn là cộng hoà dân chủ nhân dân. Tuy nhiên, nghiên cứu cách gọi tên hình thức chính thể trong khoa học luật Hiến pháp hiện nay cho thấy tên gọi của hình thức chính thể thường dựa vào tính ưu trội của một cành quyền lực trong cơ cấu quyền lực nhà nước. Về thực chất, chính thể Việt Nam hiện nay vẫn là cộng hoà dân chủ nhân dân. Nhưng để thống nhất với cách gọi tên hình thức chính thể trong khoa học, chúng tôi cho rằng, chính thể Việt Nam hiện nay nên gọi là cộng hoà Quốc hội. Khái niệm ''Quốc hội'' là sản phẩm của ngôn ngữ Việt Nam xuất phát từ một sự kiện chính trị quan trọng là Quốc dân đại hội ở Tân Trào năm 1945. Quốc hội Việt Nam là hiện thân của khối đoàn kết toàn dân, là sự thể hiện tập trung nhất tính dân tộc, tính nhân dân, tính giai cấp trong một sự quyện hoà thống nhất của chính thể Việt Nam. Hơn nữa, trong cấu trúc quyền lực nhà nước, Quốc hội là cơ quan nổi trội nhất: cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan nhận sự uỷ thác trực tiếp chủ quyền nhân dân, thành lập các cơ quan nhà nước khác ở trung ương, các cơ quan nhà nước này phải báo cáo, chịu trách nhiệm trước Quốc hôị, chịu sự giám sát tối cao của Quốc hội. Những yếu tố đó cho phép xác định Quốc hội là cơ quan thống nhất quyền lực nhà nước. Ngoài ra, cũng chính tại Quốc hội, những đường lối, những chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam được chế hoá, bảo đảm sự phát triển của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Quy kết lại, chính thể Việt Nam hiện nay là cộng hoà Quốc hội Khi xác định chính thể Việt Nam là cộng hoà quốc hội, chúng ta cần chú ý, cân nhắc các vấn đề: vị trí pháp lý của Quốc hội, quyền giám sát tối cao của Quốc hội, sự chấp hành của Chính phủ đối với Quốc hội, quan hệ giữa Quốc hội với Toà án... 3.2.3. Nhận thức đúng đắn nguyên tắc tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, quyền lực Nhà nước là thống nhất. Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói nhiều về vấn đề dân chủ, quyền lực thuộc về nhân dân, Nhà nước là tổ chức do nhân dân thành lập ra để đại diện nhân dân thực hiện quyền lực nhân dân. Không có chỗ nào Người nói quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Hiến pháp 1946 ghi: "Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam...", Hiến pháp 1959 quy định: "Tất cả quyền lực trong nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đều thuộc về nhân dân". Như vậy, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân chứ không phải tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Tất cả quyền lực thuộc về nhân dân nghĩa là quyền lực chính trị nói chung thuộc về nhân dân. Đó là nội dung của quan điểm chủ quyền nhân dân. Chủ quyền ở đây được hiểu là chủ quyền chính trị. Chủ quyền chính trị là quyền lực chính trị vô giới hạn được xem như khả năng đòi hỏi sự phục tùng với sự trấn áp bằng bạo lực. Quyền lực nhà nước là sự trấn áp bằng bạo lực có tổ chức của giai cấp này đối với giai cấp khác thông qua Nhà nước. Cho nên, quyền lực nhà nước phải thuộc về Nhà nước. Quyền lực nhà nước đó do nhân dân trao cho Nhà nước. Việc nhân dân uỷ thác quyền lực cho Nhà nước đã tạo ra một sự chuyển đổi trạng thái quyền lực: quyền lực nhân dân chuyển thành quyền lực nhà nước, chủ quyền chính trị của nhân dân chuyển thành chủ quyền chính trị - pháp lý của Nhà nước. Chủ quyền chính trị - pháp lý là một loại quyền lực chính trị, nhưng việc tổ chức và triển khai thực hiện được ràng buộc bởi các quy tắc của Hiến pháp và pháp luật. Do vậy, quyền lực nhà nước có nguồn gốc từ việc nhân dân uỷ thác quyền lực nhân dân cho Nhà nước, và thuộc về Nhà nước. Hiến pháp 1980, 1992 quy định tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân không phù hợp với tinh thần Hồ Chí Minh. Như đã trình bày, tư tưởng quyền lực thuộc về nhân dân bao gồm tư tưởng về sự thống nhất quyền lực. Quyền lực, về nguyên tắc, là ý chí được phục tùng, nên thống nhất, không thể phân chia. Tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, cũng có nghĩa là tất cả quyền lực thống nhất vào nhân dân. Quyền lực nhà nước cũng là thống nhất. Quốc hội là cơ quan do toàn thể nhân dân bầu ra, nhận sự uỷ thác quyền lực trực tiếp từ nhân dân. Cho nên, Quốc hội là cơ quan thống nhất quyền lực nhà nước. Quyền lực nhà nước, về nguyên tắc, thống nhất vào Quốc hội - cơ quan đại diện cao nhất chủ quyền nhân dân. Nhưng để điều hành có hiệu quả, Quốc hội không thể trực tiếp thực hiện toàn bộ quyền lực nhà nước mà thành lập ra các cơ quan khác, phân nhiệm quyền hạn cho các cơ quan đó cùng Quốc hội thực hiện quyền lực nhà nước. Gần đây, trong giới luật học nước ta đã hình thành quan niệm quyền lực nhà nước thống nhất vào nhân dân chứ không phải thống nhất vào Quốc hội. Tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, quyền lực thống nhất vào nhân dân. Nhưng quyền lực nhà nước thuộc về Nhà nước, do nhân dân uỷ thác, nên thống nhất vào cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất là Quốc hội. Nhân dân là một phạm trù thống nhất. Nhân dân tổ chức ra Nhà nước, uỷ thác quyền lực cho Nhà nước, nên nhân dân là cơ sở của sự thống nhất quyền lực nhà nước chứ không phải quyền lực nhà nước thống nhất ở nhân dân. Xuất phát từ quan niệm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, thống nhất vào nhân dân, đã có ý kiến lập luận rằng Quốc hội không thể là cơ quan thống nhất ba quyền (lập pháp, hành pháp, tư pháp), không nên coi Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất mà chỉ là cơ quan lập hiến và lập pháp. Theo quan điểm này thì không khác nào thừa nhận sự phân chia quyền lực trong việc tổ chức quyền lực nhà nước ở nước ta. Theo đó, chủ quyền tối cao của nhân dân không được bảo đảm. Quan điểm này mâu thuẫn về mặt lí luận và không phù hợp về mặt thực tiễn. Cùng với vấn đề thống nhất quyền lực nhà nước, cần lí giải quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp cần được hiểu như thế nào?. Khái niệm "quyền" dùng ở đây phải được hiểu là quyền hạn chứ không phải là quyền lực nhà nước. Quyền lập pháp, quyền hành pháp là quyền hạn lập pháp, quyền hạn hành pháp chứ không phải là quyền lực lập pháp, quyền lực hành pháp. Quyền lực nhà nước là thống nhất. Nếu coi quyền lập pháp, quyền hành pháp là những quyền lực nhà nước thì có nghĩa là thừa nhận sự phân chia quyền lực nhà nước. Quyền lực là ý chí phục tùng. Để triển khai quyền lực nói chung có các công đoạn: xác lập ý chí; tổ chức thực hiện ý chí; bảo vệ cho ý chí đó được thực hiện. Quyền lực nhà nước cũng được triển khai theo một quy trình chung đó: xác lập ý chí phổ biến (lập pháp); tổ chức thực hiện ý chí đó trong thực tiễn (hành pháp); bảo vệ ý chí đó khi thực hiện (tư pháp). Quyền lực nhà nước nói chung bao gồm quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp, ba quyền này hợp thành quyền lực nhà nước chứ bản thân chúng không phải là quyền lực nhà nước. Quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp là những quyền hạn, là những khâu tạo thành quy trình thực hiện quyền lực nhà nước thống nhất. 3.2.4. Hoàn thiện tổ chức và cơ chế phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, nhưng không phải là cơ quan thực hiện toàn bộ quyền lực. Để thực hiện quyền lực nhà nước, Quốc hội thành lập ra các cơ quan nhà nước khác và phân công, phân nhiệm quyền hạn cho các cơ quan nhà nước đó. Trong điều kiện hiện nay, vấn đề này cần phải được quán triệt và cần hoàn thiện cơ sở hiến định của việc tổ chức và phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, quyền hành pháp. Về vị trí pháp lý của Quốc hội có nhiều ý kiến khác nhau. Có ý kiến đề nghị không nên coi Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất là phù hợp với lí luận về sự thống nhất quyền lực nhà nước, bảo đảm chủ quyền nhân dân. Nếu không coi Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất thì có nghĩa thừa nhận hành pháp, lập pháp ngang bằng với Quốc hội có thể can thiệp vào hoạt động của Quốc hội, tài phán về hành vi của Quốc hội, trong khi Quốc hội đại diện cho ý chí thống nhất toàn dân. Như vậy, chủ quyền nhân dân bị vi phạm. Cho nên cần giữ quy định của Hiến pháp về vị trí pháp lý của Quốc hội. Vấn đề đặt ra là hoàn thiện các quy định để bảo đảm Quốc hội thực sự là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất: tăng cường năng lực thực hiện quyền lập pháp, quyền quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, quyền giám sát tối cao, tăng cường năng lực của đại biểu Quốc hội; đổi mới hoạt động của Quốc hội, chuyển từ một Quốc hội tham luận sang một Quốc hội tranh luận, tăng cường các kỳ họp của Quốc hội... Về Chủ tịch nước, hiện nay có ý kiến đề nghị giao cho Chủ tịch nước quyền đề nghị Quốc hội xem xét lại luật, quyền tuyên bố chức trách. Hiến pháp 1946 trao hai quyền hạn này cho Chủ tịch nước, trong điều kiện hiện nay, thiết nghĩ là không cần thiết. Một Chính phủ mạnh theo quy định và tinh thần của Hiến pháp 1946 đáng để suy ngẫm trong việc hoàn thiện cơ sở hiến định của Chính phủ. Tính chất của hoạt động Nhà nước trong một nền kinh tế thị trường đã được xác lập, nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và sự hội nhập quốc tế phát sinh nhu cầu về một Chính phủ mạnh mẽ, đủ thẩm quyền và khả năng giải quyết các nhiệm vụ của nền hành chính hiện đại và phát triển. Theo Hiến pháp hiện hành, Chính phủ được xác định là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất. Trên lập trường quan điểm về một Chính phủ mạnh, có ý kiến đề nghị không nên coi Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội mà xác định Chính phủ là cơ quan hành pháp cao nhất thì có nghĩa là thừa nhận nguyên tắc phân quyền trong việc tổ chức quyền lực nhà nước ở nước ta. Sự chấp hành của Chính phủ đối với Quốc hội không mâu thuẫn với nhau về một Chính phủ mạnh. Một Chính phủ mạnh phải gắn liền với một Quốc hội mạnh. Sự giám sát tối cao của Quốc hội đối với Chính phủ là yếu tố quan trọng để Chính phủ hoạt động hiệu quả. Do đó, cần tiếp tục khẳng định Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất. Vấn đề đặt ra là phải xác định rõ hơn cơ chế chấp hành của Chính phủ trước Quốc hội và những vấn đề thuộc quyền hành chính cao nhất của Chính phủ. Về cơ chế chấp hành của Chính phủ đối với Quốc hội, quy định của Hiến pháp 1946 về sự tín nhiệm của Quốc hội đối với Chính phủ đem lại những kinh nghiệm giá trị. Hiện nay, Hiến pháp chỉ quy định Chính phủ phải chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác trước Quốc hội. Nhưng Hiến pháp không quy định một hình thức cụ thể nào để Quốc hội tỏ thái độ tín nhiệm đối với Chính phủ. Vận dụng và phát triển các quy định của Hiến pháp 1946, chúng tôi cho rằng Hiến pháp cần phải xác định rõ tập thể Chính phủ có thể bị phê bình hoặc giải tán nếu không còn có sự tín nhiệm của Quốc hội. Ngoài ra, cũng cần phải quy định lý do, chủ thể có quyền đặt vấn đề tín nhiệm, hậu qủa của việc giải tán Chính phủ. Cũng cần quy định cụ thể hình thức trách nhiệm của từng thành viên Chính phủ trước Quốc hội: cơ sở, chủ thể có quyền đặt vấn đề bất tín nhiệm một thành viên của Chính phủ trước Quốc hội. Hiến pháp xác định Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, nhưng quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ chưa thật ngang tầm với vị trí đó. Để xây dựng một Chính phủ mạnh cần tăng cường hơn nữa thẩm quyền của Chính phủ trong việc quyết định các vấn đề, dự án quốc gia; đàm phán, ký kết các điều ước quốc tế với chính phủ các nước; lãnh đạo nền hành chính quốc gia...; hạn chế tính chất hội đồng trong hoạt động của Chính phủ; tăng cường vai trò, trách nhiệm, quyền hạn của Thủ tướng Chính phủ và các thành viên của Chính phủ. Để xây dựng một Chính phủ mạnh, cần cơ cấu lại Chính phủ theo hướng Chính phủ chỉ bao gồm các bộ, các cơ quan ngang bộ, không bao gồm các cơ quan thuộc Chính phủ. Sự tồn tại quá nhiều cơ quan thuộc Chính phủ với tư cách là cấp trung gian thấp hơn các bộ, các cơ quan ngang bộ, đã tạo ra sự phân tán trong chức năng, quyền hạn, trách nhiệm của Chính phủ và các bộ, các cơ quan ngang bộ. Cho nên, hướng xây dựng một chính phủ mạnh là sắp xếp, điều chỉnh, thu gọn dần các cơ quan thuộc Chính phủ vào các bộ tương ứng, tập trung và tăng cường chức năng, thẩm quyền thực thi quyền hành pháp của Chính phủ vào cơ cấu, tổ chức của Chính phủ [34;110]. Ngoài ra, một Chính phủ mạnh cần được tổ chức theo hướng quản lý đa ngành, đa lĩnh vực. Điều này có ý nghĩa làm cho cơ cấu Chính phủ được tinh gọn khắc phục sự chồng chéo, trùng lắp chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan hành chính nhà nước. Về toà án, cần suy nghĩ cách tổ chức toà án theo cấp xét xử như Hiến pháp 1946 và Sắc lệnh số 13 đã quy định. Từ năm 1960 đến nay, hệ thống toà án nhân dân Việt Nam được tổ chức theo nguyên tắc đơn vị hành chính có kết hợp với việc phân định thẩm quyền xét xử, theo đó, mỗi đơn vị hành chính cấp huyện trở lên có một toà án. Thực tiễn cho thấy, việc tổ chức toà án như trên ở nước ta có những ưu điểm như thuận tiện cho nhân dân đi lại trong điều kiện đường xá giao thông khó khăn, hoạt động của toà án nhân dân địa phương gắn liền với sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng, và chịu sự giám sát của Hội đồng nhân dân. Tuy nhiên, với cách tổ chức như vậy đã bộc lộ nhiều điều bất hợp lý, làm hạn chế hiệu qủa hoạt động xét xử của toà án: đã tạo ra một sự ngộ nhận cho rằng các toà án nhân dân từ trên xuống được tổ chức như một ngành, một bộ thuộc Chính phủ, và là một trong những nguyên nhân làm cho nguyên tắc độc lập xét xử của toà án không được tuân thủ nghiêm ngặt; gây sự tốn, kém lãng phí về tài chính; không tập trung được thẩm phán giỏi; không phân định được thẩm quyền xét xử. Cho nên, trong công cuộc cải tư pháp hiện nay, chúng ta cần trở lại những giá trị của Hiến pháp 1946, được cụ thể trong Sắc lệnh số 13, về tổ chức toà án không nên dựa vào đơn vị hành chính mà phải phân định thẩm quyền của toà án theo cấp xét xử. Theo đó, cần vận dụng quy định trong Sắc lệnh số 13 về khả năng thành lập toà án khu vực. Việc thành lập toà án khu vực kéo theo hàng loạt các vấn đề như sửa đổi Hiến pháp, các văn bản pháp luật về tố tụng, quan hệ giữa toà án với Đảng, với Hội động nhân dân, với cơ quan quản lí toà án, với các cơ quan tiến hành tố tụng… Cho nên, trong điều kiện hiện nay, thiết nghĩ chưa thể thành lập toà án khu vực ở các cấp mà chỉ nên thành lập ở cấp huyện, tại các thành phố lớn nơi đông dân cư, giao thông, thông tin liên lạc thuận tiện. Tiến tới sẽ dần dần mở rộng việc thành lập toà án khu vực khi có đủ kinh nghiệm cũng như những điều kiện cần thiết khác. Cách tổ chức toà án theo nguyên tắc hai cấp xét xử, toà án sơ cấp, toà án đệ nhị cấp thực hiện quyền xét xử sơ thẩm, toà thượng thẩm ở cấp kỳ thực hiện quyền xét xử phúc thẩm. Điều này cần được suy nghĩ để kế thừa. Việc phân định thẩm quyền xét xử của toà án theo hướng cải cách nên chăng là: toà án cấp huyện có quyền sơ thẩm các vụ án theo luật định; toà án cấp tỉnh có quyền sơ thẩm những vụ án không thuộc thẩm quyền sơ thẩm của toà án cấp huyện, có quyền phúc thẩm các bản án sơ thẩm của toà án cấp huyện, không có quyền giám đốc thẩm và tái thẩm; toà án tối cao không có quyền xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm, có quyền phúc thẩm các bản án của toà án cấp tỉnh, có quyền giám đốc thẩm, tái phẩm theo hướng huỷ án hoặc y án, không có quyền xử án. Cách phân định thẩm quyền bổ nhiệm thẩm phán theo Sắc lệnh số 13 cũng nên được áp dụng trong điều kiện hiện nay. Theo quy định hiện hành, tất cả các thẩm phán từ Chánh án Toà án nhân dân tối cao, đều do Chủ tịch nước bổ nhiệm. Quy trình này đã bộc lộ nhiều bất cập. Việc tập trung quyền bổ nhiệm thẩm phán vào Chủ tịch nước đã tạo ra tình trạng quá tải trong công tác của Văn phòng Chủ tịch nước Hơn nữa, vì phải xem xét nhiều hồ sơ bổ nhiệm thẩm phán, nên từ khi Hội đồng tuyển chọn thẩm phán gửi hồ sơ lên Văn phòng Chủ tịch nước ký quyết định bổ nhiệm thẩm phán phải trải qua một thời gian dài, trong khi chúng ta đang thiếu trầm trọng thẩm phán. Do đó, nên chăng chúng ta nên trở lại với quy định phân cấp thẩm quyền bổ nhiệm thẩm phán như sau: Chủ tịch nước bổ nhiệm thẩm phán Toà án nhân dân tối cao (trừ Chánh án Toà án nhân dân tối cao), thẩm phán Toà án quân sự Trung ương; Bộ trưởng Bộ tư pháp bổ nhiệm thẩm phán toà án nhân dân địa phương, toà án quân sự quân khu và toà án quân sư khu vực. Liên quan đến tổ chức và hoạt động của toà án, cũng cần đề cập đến vấn đề tổ chức cơ quan bảo vệ Hiến pháp ở Việt Nam hiện nay. Xung quanh vấn đề này, có có ý kiến đề nghị thành lập Toà án Hiến pháp thực hiện quyền bảo hiến như mô hình nhiều quốc gia đã áp dụng. Cũng có ý kiến cho rằng không cần thành lập Toà án Hiến pháp mà giao quyền bảo hiến cho Toà án nhân dân tối cao. Việc tổ chức Toà án Hiến pháp hay việc giao quyền bảo hiến cho Toà án tối cao được thực hiện ở các nhà nước áp dụng học thuyết phân quyền. ở nước ta, quyền lực nhà nước thống nhất vào Quốc hội nên không thể có một cơ quan nào đứng trên Quốc hội tài phán về hành vi của Quốc hội. Trong chính thể Việt Nam, sự độc lập của quyền tư pháp không có nghĩa là Toà án có thể tài phán hành vi của Quốc hội. Cho nên, việc thành lập Toà án Hiến pháp hay giao quyền bảo vệ Hiến pháp cho Toà án nhân dân tối cao thiết nghĩ chưa thật hợp lý và khả thi ở Việt Nam. Tóm lại, khi nghiên cứu chính thể Việt Nam, những nội dung và tinh thần về chính thể cộng hoà dân chủ nhân dân Hiến pháp 1946 thật sự đem lại những kinh nghiệm giá trị trong việc hoàn thiện cơ sở hiến định của mô hình tổ chức quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay. Kết luận Nội dung và tinh thần của chính thể Nhà nước Hiến pháp 1946 đã được hình thành và phát triển qua các giai đoạn phát triển của cách mạng, dựa trên cơ sở truyền thống, kinh nghiệm tổ chức Nhà nước Việt Nam trong lịch sử, các học thuyết về tổ chức nhà nước và thực tiễn tổ chức nhà nước ở các quốc gia hiện đại, lý luận Mácxít về hình thức nhà nước, thực tiễn hoạt động cách mạng và nhân cách Hồ Chí Minh. Chính thể Nhà nước Hiến pháp 1946 là hệ thống các quan điểm, luận đểm rõ ràng, nhất quán về chính thể cộng hoà dân chủ nhân dân phù hợp với đặc điểm xã hội, văn hoá, truyền thống, cơ cấu kinh tế Việt Nam đáp ứng được nhu cầu về một Nhà nước có khả năng giải quyết các nhiệm vụ cách mạng của dân tộc. Chính thể cộng hoà dân chủ nhân dân Hiến pháp 1946 mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí của Người đã sáng tạo, lựa chọn là một loại hình chính thể đặc thù với sự phân công, phối hợp trong tổ chức và thực hiện quyền lực Nhà nước một cách rất rõ ràng, rành mạch giữa các thiết chế: Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính Phủ, Toà án. Trên phương diện chính thể Nhà nước, nghiên cứu Hiến pháp 1946 và các Hiến pháp sau này trên con đường phát triển của cách mạng Việt Nam, ta có thể thấy được sự kế thừa, phát triển chính thể Nhà nước Hiến pháp 1946 những nội dung, tư tưởng xuyên suốt lịch sử lập hiến của Nhà nước cách mạng Việt Nam: + Các Hiến pháp của Nhà nước ta đều khẳng định bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Tất cả quyền lực đều thuộc về nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân. Khẳng định tính giai cấp, tính nhân dân và tính dân tộc luôn luôn quyện chặt vào nhau trong các thiết chế, chế định của nền lập hiến phù hợp với tình hình, nhiệm vụ đấu tranh cách mạng của từng giai đoạn. + Xuất phát từ bài học giành độc lập đầy gian khổ và hy sinh, các bản Hiến pháp đều khẳng định nhiệm vụ xây dựng kiến thiết nước nhà trên nền tảng dân chủ gắn liền một cách hữu cơ với nhiệm vụ giữ nước, bảo vệ tổ quốc Việt Nam độc lập, thống nhất. + Bảo đảm các quyền tự do dân chủ của công dân theo hướng ngày càng mở rộng trở thành một chế định cơ bản của các Hiến pháp được thực hiện ở tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá và xã hội phù hợp với sự phát triển đi lên của xã hội . + Các Hiến pháp đều khẳng định việc tổ chức và thực hiện quyền lực Nhà nước theo nguyên tắc tập quyền mà không có sự phân chia quyền lực theo học thuyết tam quyền phân lập. Quyền lực Nhà nước thống nhất vào Quốc hội, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Tổ chức bộ máy Nhà nước từ Hiến pháp đầu tiên đến lần lượt ba Hiến pháp sau thể hiện định hướng nhất quán trong việc xác lập một mô hình tổ chức quyền lực nhân dân. ấn định một bộ máy Nhà nước phù hợp với yêu cầu và nhiệm vụ, tình hình của từng giai đoạn phát triển luôn luôn nhất quán với nguyên tắc đã được xác định trong lời nói đầu của Hiến pháp 1946: ''Thực hiện chính quyền mạnh mẽ, sáng suốt của nhân dân''. + Việc tổ chức và thực hiện quyền lực Nhà nước luôn luôn đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng của liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, được tổ chức dựa trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. + Xác định vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. + Khẳng định Nhà nước Việt Nam là Nhà nước thống nhất, bình đẳng của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam . Nghiên cứu chính thể Nhà nước Hiến pháp 1946 có thể tìm ra lời giải đáp cho hàng loạt các vấn đề lí luận của việc hoàn thiện mô hình tổ chức Nhà nước Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở khai thác những giá trị về chính thể Nhà nước Hiến pháp 1946, chúng tôi nhận thấy việc hoàn thiện cơ sở hiến định của mô hình tổ chức Nhà nước Việt Nam hiện nay cần phải giải quyết một số vấn đề mang tính cơ sở lý luận như sau: + Tư duy độc lập trong việc hình thành các luận cứ khoa học của việc hoàn thiện mô hình tổ chức Nhà nước . + Xác định chính thể Việt Nam hiện nay là cộng hoà Quốc hội, hay cộng hoà dân chủ nhân dân. + Nhận thức đúng đắn nguyên tắc tất cả các quyền lực thuộc về nhân dân, quyền lực Nhà nước là thống nhất. Tất cả các quyền lực trong nước thuộc về nhân dân, nhân dân uỷ thác quyền lực của mình cho Quốc hội - cơ quan đại diện cao nhất của quyền lực nhân dân, và là cơ quan thống nhất quyền lực Nhà nước . + Hoàn thiện tổ chức và cơ chế phân công, phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện quyền lập, hành pháp, tư pháp. + Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất; tăng cường năng lực thực hiện quyền lập pháp, quyền quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, quyền giám sát tối cao; tăng cường năng lực của đại biểu Quốc hội; đổi mới hoạt động của Quốc hội, chuyển từ một Quốc hội tham luận sang một Quốc hội tranh luận, hướng hoạt động kỳ họp sang hoạt động chuyên trách của Quốc hội + Xây dựng một Chính phủ mạnh theo hướng xác định cơ chế trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội, tăng cường quyền hạn cho Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; tập trung và tăng cường chức năng, thẩm quyền thực thị quyền hành pháp của Chính phủ vào cơ cấu tổ chức của Chính phủ . + Tổ chức toà án theo nguyên tắc hai cấp xét xử, thành lập toà án khu vực; phân cấp thẩm quyền bổ nhiệm thẩm phán. Những nội dung, tinh thần của chính thể Việt Nam Hiến pháp 1946 thật sự đem lại những kinh nghiệm quý báu cho việc hoàn thiện cơ sở hiến định của mô hình tổ chức Nhà nước Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới hiện nay. Danh mục tài liệu tham khảo [1]. Hồ Văn Thông. Hệ thống chính trị các nước tư bản phát triển hiện nay. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội 1998. [2]. Nguyễn Đăng Dung. Luật Hiến pháp đối chiếu. Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh 2001. [3]. Vũ Hồng Anh. Tổ chức và hoạt động của nghị viện một số nước trên thế giới. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội 2002. [4]. Phạm Khắc Hoè. So sánh hiến pháp tư bản chủ nghĩa và hiến pháp xã hôị chủ nghĩa. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội 1987. [5]. Văn phòng Quốc hội. Hiến pháp năm 1946 và sự kế thừa, phát triển trong các Hiến pháp Việt Nam. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội 1998. [6]. Montesquieu. Tinh thần pháp luật. Nxb Giáo dục, Hà nội 1995. [7]. Các Mác- Ph Ănghen.Toàn tập, Tập I. Nxb Chính trị Quốc Gia, Hà nội 1995. [8]. Các Mác- Ph Ănghen. Tuyển tập II. Nxb Sự thật, Hà nội 1981. [9]. Các Mác- Ph Ănghen Tuuyển tập VI. Nxb Sự thật, Hà nội 1983. [10]. V.I. Lênin. Toàn tập, tập 33. Nxb tiến bộ Mátxcơva, Mátxcơva 1976. [11]. Nguyễn Văn Bông. Luật Hiến pháp và chính trị học - Tủ sách Đại học Sài Gòn, Sài Gòn 1967. [12]. Lê Đình Chân. Luật Hiến pháp và các chế độ chính trị. Tủ sách Đại học Sài Gòn, Sài Gòn 1947. [13]. Nguyễn Đăng Dung. Luật Hiến pháp nước ngoài. Nxb Đồng Nai, Đồng Nai 1996. [14]. Hiến pháp Việt Nam (1946, 1959, 1980 và 1992). Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội 2002. [15]. Nghị quyết của Quốc hội về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội 2002. [16]. Văn phòng Quốc hội. Lịch sử Quốc hội Việt Nam (1946 - 1960). Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội 1994. [17]. Văn kiện Đại Hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Nxb Chính trị Quốc Gia, Hà nội 2001. [18]. Nguyễn Đăng Dung. Một số vấn đề về Hiến pháp và bộ máy nhà nước. Nxb Giao thông tận tải, Hà nội 2001. [19]. Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 2. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội 2000. [20]. Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 3. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội 1995. [21]. Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 4. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội 2000. [22]. Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 7. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội 2000. [23]. Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 8. Nxb Sự thật, Hà nội 1981. [24]. Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 9. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội 2000. [25]. Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 10. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội 2000. [26]. Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 11. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội 2000. [27]. Viện nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ tư pháp. Một số bài nói và viết của lãnh đạo Đảng và Nhà nước về ngành tư pháp. Thông tin khoa học pháp lý. [28]. Viện nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp. Kỷ yếu hội thảo "Các nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước kiểu mới, Nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân", Hà nội 1997. [29]. Khoa Luật - Đại học KHXH và NV - ĐH QG Hà nội. Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật. Nxb Đại học Quốc gia Hà nội, Hà nội 1998. [30]. Trường Đại học Luật Hà nội. Giáo trình Luật Hiến pháp nước ngoài. Nxb Công an Nhân dân, Hà nội 1999. [31]. Khoa Luật - Đại học KHXH và NV - ĐHQG Hà Nội. Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam. Nxb Đại học Quốc gia Hà nội, Hà nội 1999. [32]. Lịch sử Việt Nam, tập 2. Nxb Khoa học xã hội, Hà nội 1999. [33]. Trần Dân Tiên. Những mẫu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch. Nxb Sự thật, Hà nội 1976. [34]. Nguyễn Ngọc Hiến (chủ biên). Các giải pháp thúc đẩy cải cách hành chính ở Việt Nam. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội 2001. [35]. Vũ Đình Hoè. Pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh. Nxb Văn hoá thông tin, Hà nội 2000. [36]. Viện nghiên cứu Nhà nước và pháp luật. Bình luận khoa học Hiến pháp của nước CHXHCNVN năm 1992. Nxb Khoa học xã hội, Hà nội 1996. [37]. Viện Luật học. Sơ thảo lịch sử Nhà nước và pháp luật Việt Nam (từ sau cách mạng tháng tám đến nay). Nxb khoa học xã hội, Hà nội 1983. [38]. Vũ Thị Phụng. Lịch sử Nhà nước và pháp luật Việt Nam. Nxb Đại học Quốc gia Hà nội, Hà nội 1993. [39]. Vũ Quốc Thông. Pháp chế sử Việt Nam. Tủ sách Đại học Sài Gòn, Sài Gòn 1971. [40]. Thái Vĩnh Thắng. Lịch sử lập hiến Việt Nam. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội 1997. [41]. Nguyễn Văn Huyên (chủ biên). Triết lý phát triển C.Mác, Ph. Ănghen, V.I. Lênin, Hồ Chí Minh. Nxb Khoa học xã hội, Hà nội 2000. [42]. Ban nghiên cứu lịch sử Đảng. Văn kiện Đảng (từ 25/01/1939 đến 02/09/1945). Nxb Sự thật, Hà nội 1963. [43]. Đại tướng Võ Nguyên Giáp (chủ biên). Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội 1998. [44]. Bộ Giáo dục và Đào tạo. Triết học Mác - Lênin, tập 1. Nxb Giáo dục, Hà nội 1998. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29373.doc
Tài liệu liên quan