Thực tiễn ký kết và thực hiện hợp đồng đại lý bán hàng tại Công ty TNHH Nhà nước 1 thành viên Thực phẩm Hà Nội

Tài liệu Thực tiễn ký kết và thực hiện hợp đồng đại lý bán hàng tại Công ty TNHH Nhà nước 1 thành viên Thực phẩm Hà Nội: ... Ebook Thực tiễn ký kết và thực hiện hợp đồng đại lý bán hàng tại Công ty TNHH Nhà nước 1 thành viên Thực phẩm Hà Nội

doc66 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1457 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Thực tiễn ký kết và thực hiện hợp đồng đại lý bán hàng tại Công ty TNHH Nhà nước 1 thành viên Thực phẩm Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Trong điều kiện ngày càng phát triển của nền kinh tế thị trường, đời sống của con người ngày càng được nâng cao. Mọi nhu cầu của xã hội luôn có sự thay đổi để phù hợp với xu thế phát triển kinh tế của thời đại, của đất nước đòi hỏi các doanh nghiệp phải tìm cho mình con đường, giải pháp hữu ích nhất trong thế giới kinh doanh, sản xuất của mình, phải chấp nhận cạnh tranh gay gắt, dám đương đầu không né tránh, dám mạo hiểm và cũng phải chấp nhận rủi ro. Vấn đề đặt ra cơ bản đó là: chất lượng, giá thành phù hợp của sản phẩm hàng hoá đáp ứng nhu cầu, thị hiếu của khách hàng. Để tìm được điều này, việc mua hàng và dự trữ hàng hoá đúng chất lượng, đủ về số lượng giá cả hợp lý để góp phần đẩy mạnh bán ra, tăng doanh số, tăng lợi nhuận, vẫn là điều không thể thiếu được trong quá trình lưu thông hàng hoá của các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp thương mại. Ngày nay sự giao lưu kinh tế giữa các khu vực với nhau ngày càng sâu sắc hơn bao giờ hết. Bên cạnh đó điều kiện địa lý, phong tục tập quán từng vùng miền khác nhau đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển thị hiếu tiêu dùng, trực tiếp ảnh hưởng đến kết quả kịnh doanh của một doanh nghiệp.Do vậy cần có hình thức trung gian thương mại như đại lý bán hàng để có thể mở rộng thị trường. Vì thế phương thức tiêu thụ này đang được mở rộng cả về chiều rộng và chiều sâu. Sau khi tìm hiểu các phương thức bán hàng trên thị trường, công ty Thực phẩm Hà Nội đã lựa chọn đại lý bán hàng làm trung gian phân phối sản phẩm của mình. Vì vậy tôi chọn đề tài: “Thực tiễn ký kết và thực hiện hợp đồng đại lý bán hàng tại công ty TNHH Nhà nước một thành viên Thực phẩm Hà Nội” cho bài báo cáo thực tập tốt nghiệp của mình. Đề tài nhằm kết hợp các kiến thức đã học, tình hình thực tế ở công ty và các phương pháp phân tích tổng hợp để xem xét vấn đề được cụ thể. Kết cấu bài báo cáo này gồm: Phần 1: Chế độ pháp lý về hợp đồng đại lý bán hàng. Phần 2: Thực tiễn ký kết và thực hiện hợp đồng đại lý bán hàng tại Công ty TNHH Nhà nước một thành viên Thực phẩm Hà Nội. Phần 3: Một số khuyến nghị nhằm góp phần khắc phục những tồn tại tại Công ty TNHH Nhà nước một thnàh viên Thực phẩm Hà Nội. Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc và toàn thể cán bộ nhân viên Công ty TNHH Nhà nước một thành viên Thực phẩm Hà Nội đã tạo mọi điều kiện cho tôi trong quá trình thực tập để có thực tiễn thực hiện báo cáo này. Tôi cũng xin cảm ơn Khoa Luật, đặc biệt là TS. Trần Thị Hoà Bình và ThS. Nguyễn Anh Tú đã tận tình chỉ bảo và giúp đỡ tôi rất nhiều trong quá trình thực tập, làm báo cáo. Do kiến thức còn non yếu, kinh nghiệm thực tế còn chưa nhiều nên bài viết còn có phần nào thiếu sót, chưa thật hoàn chỉnh. Tôi rất mong được sự góp ý, chỉ bảo của thầy cô, bạn bè để những lần nghiên cứu sau được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn. Sinh viên Trịnh Thị Minh Hồng Chương 1 Chế độ pháp lý về hợp đồng đại lý bán hàng I. Cơ sở lý luận của hợp đồng đại lý bán hàng 1. Cơ chế kinh tế Việt Nam thời kỳ kế hoạch hoá tập trung Trước Đại hội 6, kinh tế nước ta vận hành theo hình thức kế hoạch hoá tập trung, nền kinh tế có những đặc điểm sau: - Nền kinh tế chỉ huy quan liêu bao cấp, kìm hãm sự phát triển, kìm hãm sự sáng tạo của mỗi cá nhân. Sản xuất hàng hoá trong nước không phụ thuộc vào quy luật cung cầu của thị trường mà phụ thuộc vào mệnh lệnh hành chính. Chính vì thế điều này đã làm giảm đi tính năng động của nền kinh tế, thủ tiêu các tiến bộ khoa học kỹ thuật. Các quy luật chủ yếu phổ biến của nền kinh tế như: quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu, quy luật hàng hoá- tiền tệ…không có ảnh hưởng nhiều đến nền kinh tế bởi chỉ có hai thành phần kinh tế là kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể. Có thể nói hình thức tổ chức kinh tế theo kế hoạch, tập trung quyền lực như vậy chỉ phát huy được sự phù hợp của nó trong điều kiện sản xuất hàng hoá còn thiếu thốn, cung chưa đủ cầu. Còn khi sản xuất đã ngày càng phát triển hơn thì nó không còn phù hợp nữa. Bởi phát triển kinh tế như vậy thì mới chỉ là phát triển theo chiều rộng mà chưa phát triển theo chiều sâu. 2. Kinh tế thị trường và các quan hệ kinh tế trong nền kinh tế Việt Nam Cơ chế thị trường là một cơ chế tự điều tiết của nền kinh tế thị trường do sự tác động của các quy luật vốn có của nó. Nói một cách cụ thể hơn, cơ chế thị trường là một hệ thống hữu cơ của sự thích ứng lẫn nhau, tự điều tiết lẫn nhau của các yếu tố giá cả, cung cầu, cạnh tranh…trực tiếp phát huy tác động lên thị trường để điều tiết nền kinh tế thị trường. Cơ chế thị trường có những đặc điểm sau: - Quy luật cung- cầu tác động đến phân bổ nguồn lực trong sản xuất, trong xã hội.Sản xuất cho ai, sản xuất bao nhiêu là vấn đề sống còn của nền kinh tế.Có làm tốt vấn đề phân bổ nguồn lực thì mới có thể tăng trưởng, phát triển triệt để, tiết kiệm vật tư, phát triển bển vững được. - Tiền tệ hoá các quan hệ kinh tế. Trong cơ chế thị trường mọi hàng hoá đều mang hình thái giá trị. Các quan hệ kinh tế đều nhằm mục đích tìm kiếm giá trị, tìm kiếm lợi nhuận. Giá trị đều được biểu hiện bằng tiền. Vì vậy các quan hệ kinh tế đều được tiền tệ hoá. - Các chủ thể của nền kinh tế có thể tự do lựa chọn phương án sản xuất kinh doanh và tiêu dùng cho mình. Cơ chế thị trường phát huy tính năng động của từng thành viên trong nền kinh tế. Các chủ thể tuỳ vào điều kiện hiện tại của thời cuộc, vào yêu cầu của thị trường mà lựa chọn cho mình các quyết định sản xuất kinh doanh làm lợi cho mình tối đa. - Nền kinh tế năng động hơn trước đã ít gây ra sự khan hiếm, thiếu thốn hàng hoá. Trong nền kinh tế không còn sự phụ thuộc của cầu vào cung. Sản xuất là phục vụ cho tiêu dùng, vì tiêu dùng mà sản xuất. Cầu quyết định cung. Vì vậy mà trong nền kinh tế không còn xuất hiện sự khan kiếm hàng hoá, hàng hoá sản xuất ra không phù hợp với nhu cầu thực tế. - Nền kinh tế có sự tồn tại của quy luật cạnh tranh, từ đó mà tăng năng suất, tăng hiệu quả. Cạnh tranh là động lực cho sự phát triển. Có canh tranh thì các nhà sản xuất kinh doanh mới tạo ra ngày càng nhiều sản phẩm hơn, chất lượng tố hơn, giá thành rẻ hơn…để củng cố uy tín, thì trường của mình. Nhưng bên cạnh đó, cạnh tranh khốc liệt cũng mang lại không ít hậu quả tiêu cực đối với xã hội, như: hiện tượng độc quyền, cá lớn nuốt cá bé.. Điều này đi ngược lại với mục tiêu bình đẳng, công bằng xã hội. - Sự phát triển của các quan hệ: quan hệ giữa quyền lợi cá nhân và xã hội, quan hệ giữa phát triển kinh tế và nâng cao chất lượng cuộc sống ngày càng được củng cố.Trong nền kinh tế thị trường, con người được đặt lên hàng đầu, còn nhà doanh nghiệp là nhân vật trung tâm trong hoạt động thị trường.Nói cách khác không có doanh nghiệp thì không có cơ chế thị trường. Bên cạnh những tác động tích cực đến mọi mặt của nền kinh tế và đời sống xã hội, kinh tế thị trường cũng có một số tác động không tích cực đến xã hội như: - Sự phân hoá giầu nghèo trong xã hội, ngày càng gay gắt hơn. Kinh tế thi trường là cơ hội cho người này nhưng cũng là thách thức với số đông những người khác. Sự phát triển ồ ạt của khoa học, sản xuất khiến cho người giàu, người có tư liệu sản xuất ngày càng kiếm được nhiều tiền hơn. Vì vậy khoảng cách giàu nghèo trong xã hội ngày một lớn hơn. Theo quan điểm duy vật biện chứng:” Vật chất quyết định ý thức”. Từ đó mà hình thành sự bất bình đẳng trong xã hội. - Sự phát triển kinh tế thái quá dẫn đến sự lãng phí tài nguyên thiên nhiên, đang dẫn đến nguy cơ đe doạ cạn kiệt tài nguyên. Kinh tế thị trường do quá tập trung vào tăng trưởng kinh tế mà sử dụng tài nguyên bừa bãi, lãng phí, dẫn đến nguồn tài nguyên phục vụ cho sản xuất đang ngày một cạn kiệt. Yêu cầu bức thiết đối với loài người là phải tìm ra những nguồn tài nguyên, năng lượng thay thế để tiếp tục phục vụ sản xuất, duy trì cuộc sống của con người. Phát triển kinh tế phải đi đôi với cuộc sống bền vững. - Vấn đề ô nhiễm môi trường. Sự phát triển thái quá của nền kinh tế kiến cho con người phải gánh chịu một nguy cơ không mong muốn là môi trường sống bị đe doạ. Sử dụng tài nguyên bừa bãi, di dân ồ ạt ra các thành phố lớn tìm việc làm, khí thải công nghiệp nhiều… là những nguyên nhân chính gây nên tình trạng ô nhiễm môi trường, sự săn bắt không có giới hạn các loài sinh vật đang khiến cho Trái Đất mất cân bằng sinh thái. Đây là thách thức không phải của riêng quốc gia nào, là trách nhiệm của chúng ta với chính tương lai của mình. Trong nền kinh tế thị trường con người tự do trao đổi hàng hoá, nhiều khi để thoả thuận đó đảm bảo thực hiện người ta dùng một biện pháp đó là hợp đồng. Vì cơ chế thị trường vẫn tồn tại những khuyết tật, chưa thật hoàn hảo nên cần có sự tham gia điều tiết của Nhà nước. 2.1. Sự điều tiết vĩ mô của nhà nước xã hội chủ nghĩa với cơ chế thị trường Việt Nam xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự điều tiết của Nhà nước dựa trên yêu cầu khách quan của các quy luật kinh tế. Vì vậy có nhiều đặc điểm giống phương pháp quản lý của Nhà nước tư bản: - Thừa nhận tính độc lập của các chủ thể kinh tế, quyền tự chủ sản xuất kinh doanh. Giá cả do thị trường quyết định. Trải qua một thời gian dài theo hình thức nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, Nhà nước ta đã lựa chọn cho mình một hình thức kinh tế phù hợp với hiện tại của đất nước và thời đại là: cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước tôn trọng các thuộc tính của cơ chế thị trường: quyền tự chủ kinh doanh, quy luật cạnh tranh, quy luật giá cả… Song Nhà nước Việt Nam cũng sử dụng các công cụ điều tiết vĩ mô của mình để hạn chế các tác động tiêu cực của cơ chế thị trường tới định hướng mà Đảng và Nhà nước đã chọn. - Nhà nước không can thiệp quá sâu, chỉ điều tiết những khuyết tật của thị trường. Nhà nước tôn trọng các biểu hiện thuộc về thuộc tính của thị trường, chỉ điều tiết các tác động tiêu cực của thị trường để thị trường đi đúng định hướng mà mình đã chọn. Tuy nhiên về cơ bản vẫn có sự khác nhau giữa nền kinh tế xã hội chủ nghĩa và nền kinh tế tư bản chủ nghĩa là: Nhà nước xã hội chủ nghĩa có sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Ở Việt Nam, mọi chủ trương đường lối cho từng giai đoạn phát triển của đất nước đều do Đảng Cộng sản Việt Nam vạch ra, Nhà nước cụ thể đường lối đó và tiến hành cho linh hoạt với tình hình thực tiễn. Nền kinh tế cơ chế thị trường mà định hướng xã hội chủ nghĩa sau cùng mục đích cũng là phục vụ cho xã hội, cho toàn dân. 2.2. Các công cụ điều tiết vĩ mô của nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam sử dụng một số công cụ sau để điều tiết vĩ mô: - Hệ thống pháp luật: Ngay từ khi hình thành Nhà nước thì loài người đã hinh thành một công cụ để quản lý xã hội, đó là pháp luật. Nhà nước và pháp luật là hai phạm trù không thể tách rời. Có Nhà nước thì phải có pháp luật, có pháp luật thì tồn tại Nhà nước. Nhà nước Công hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền, của dân, do dân, vì dân. Mọi cá nhân, tổ chức sống, học tập và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. Đây là công cụ quan trọng nhất đối với mỗi nhà nước, không riêng Việt Nam. - Kế hoạch hoá: kế hoạch và thị trường là 2 công cụ có quan hệ chặt chẽ với nhau. Nhà nước thực hiện xây dựng đất nước theo chủ trương đường lối mà Đảng cộng sản đề ra trong từng giai đoạn, thời kỳ nhất định. Mục tiêu đó được cụ thể ra trong từng thời kỳ nhất định thành các kế hoạch phải hoàn thành. Thị trường là môi trường để các kế hoạch đó trở thành thành tựu, kết quả. - Lực lượng kinh tế của nhà nước. Kinh tế Nhà nước phải là nền tảng, giúp đỡ các thành phần khác khi có sự cố ảnh hưởng đến hệ thống. Lực lượng kinh tế của Nhà nước là sức mạnh vật chất để điều tiết theo kế hoạch đã đề ra. Đây là công cụ để Nhà nước điều tiết nền kinh tế tránh bị tư hữu hóa, Nhà nước luôn ở trạng thái chủ động. - Các công cụ điều tiết kinh tế đối ngoại: Các chính sách thuế xuất khẩu, nhập khẩu, các biện pháp bảo đảm tín dụng xuất khẩu… Thời đại ngày nay là thời đại của toàn cầu hoá, khu vực hoá. Việt Nam muốn phát triển thì phải mở cửa giao lưu buôn bán với các nước. Để phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế, đảm bảo giữ đúng mục tiêu an ninh kinh tế, quốc phòng, độc lập chủ quyền… thì Việt Nam phải sử dụng các công cụ điều tiết kinh tế đối ngoại. Trong nền kinh tế thị trường, các chủ thể tự do trao đổi hàng hoá theo quy luật hàng hoá tiền tệ dưới nhiều phương thức khác nhau. Tuy nhiên do giới hạn bài báo cáo này chỉ đề cập đến hình thức kinh doanh qua đại lý bán hàng. 2.3 Đại lý trong kinh doanh thương mại 2.3.1. Khái niệm Theo Điều 166 Luật Thương mại 2005, đại lý thương mại là hoạt động thương mại theo đó bên giao đại lý và bên đại lý nhân danh chính mình mua, bán hàng hoá cho bên giao đại lý hoặc cung ứng dịch vụ của bên giao đại lý cho khách hàng để hưởng thù lao. Bên giao đại lý là thương nhân giao hàng hoá cho đại lý bán hoặc giao tiền cho bên đại lý mua hoặc là thương nhân uỷ quyền thực hiện dịch vụ cho đại lý cung ứng dịch vụ. Bên đại lý là thương nhân nhận hàng hoá để làm đại lý bán, nhận tiền mua hàng để làm đại lý mua hoặc là bên nhận uỷ quyền cung ứng dịch vụ.( Theo điều 167 Luật Thương mại 2005). 2.3.2. Phân loại đại lý: Theo điều 169 Luật thương mại 2005, có các hình thức đại lý thương mại sau: + Đại lý bao tiêu: là hình thức đại lý mà bên đại lý thực hiện việc mua, bán trọn vẹn một khối lượng hàng hoá hoặc cung ứng đầy đủ một d ịch vụ cho bên giao đại lý. + Đại lý độc quyền: là hình thức đại lý mà tại một khu vực địa lý nhất định bên giao đại lý chỉ giao cho một đại lý mua, bán một hoặc một số mặt hàng hoặc cung ứng một hoặc một số dịch vụ nhất định. + Tổng đại lý mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ là hình thức đại lý mà bên đại lý tổ chức một hệ thống đại lý trực thuộc để thực hiện việc mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ cho bên giao đại lý. Tổng đại lý đại diện cho hệ thống đại lý trực thuộc. Các đại lý trực thuộc hoạt động d ưới sự quản lý của tổng đại lý và với danh nghĩa của tổng đại lý. + Các hình thức đại lý khác mà các bên thoả thuận. 2.3.3. Ưu nhược điểm của bán hàng qua đại lý *Ưu điểm: + Đại lý tạo điều kiện cho khách hàng thuận lợi hơn mua tại doanh nghiệp, từ đó giúp tăng doanh số bán hàng. Bán hàng qua đại lý ưu việt hơn “ mua tận gốc, bán tận ngọn” là tiết kiệm chi phí vận chuyển, thời gian linh hoạt, và số lượng hàng hoá cung cấp cho khách hàng cũng lớn nhỏ linh hoạt hơn so với doanh nghiệp. + Thủ tục mua bán qua đại lý cũng thuận tiện hơn, đơn giản hơn, chiều chuộng khách hàng hơn. + Bán hàng phải thông qua kênh phân phối làm cho quy mô của doanh nghiệp được mở rộng hơn vì đại lý chính là một bộ phận bán hàng của doanh nghiệp. Nhất là khi nguồn lực tài chính của doanh nghiệp còn yếu thì đại lý là một công cụ đắc lực giúp doanh nghiệp tăng thêm sức mạnh. + Bán hàng qua đại lý, doanh nghiệp giảm được chi phí, giảm khối lượng việc cần làm. Khi có chiến lược kinh doanh mới, như phát triển sản phẩm mới thì doanh nghiệp cần bỏ ra rất nhiều chi phí để nghiên cứu thị trường, quảng cáo… Có hệ thống đại lý bán hàng doanh nghiệp sẽ bớt một phần gánh nặng. + Khi có một hệ thống đại lý bán hàng, đại lý sẽ chia sẻ rủi ro trong kinh doanh với doanh nghiệp. *Nhược điểm: + Sử dụng hình thức đại lý đặt ra cho doanh nghiệp vấn đề kiểm soát đối với thị trường. + Vấn đề chính xác thông tin cũng rất quan trọng. Đại lý họ dược hưởng thù lao song đôi khi vì một lý do nào đó quyền lợi của họ không trùng với quyền lợi của doanh nghiệp, vì vậy họ báo cáo thông tin thiếu trung thực, gây thiệt hại cho doanh nghiệp. + Hoạt động đại lý khiến cho doanh nghiệp bị chia sẻ lợi nhuận do phải trả thù lao đại lý cho các đại lý. + Đôi khi các đại lý của công ty còn cạnh tranh với các cửa hàng của công ty. + Đôi khi có những mâu thuẫn đáng tiếc xảy ra giữa doanh nghiệp và đại lý. II. Chế độ pháp lý về hợp đồng đại lý bán hàng: 1. Những vấn đề chung về hợp đồng kinh tế: 1.1. Khái niệm hợp đồng: Ngày nay tất cả các hợp đồng trong cuộc sống đều được gọi chung là hợp đồng dân sự được điều chỉnh bởi Bộ luật Dân sự 2005. Theo điều 388, Hợp đồng dân sự là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi, hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Hợp đồng dân sự phải được ký kết nếu thoả mãn các yêu cầu sau: - Tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội. - Tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực, và ngay thẳng. (Điều 389 Bộ luật Dân sự 2005). 1.2. Phân biệt bản chất các loại hợp đồng: Trước khi Bộ luật Dân sự 2005 có hiệu lực thì tồn tại hai loại hợp đồng là: hợp đồng kinh tế và hợp đồng dân sự. Theo quy định của Pháp lệnh Hợp đồng Kinh tế 1989, “Hợp đồng Kinh tế là sự thoả thuận bằng văn bản, tài liệu giao dịch giữa các bên ký kết về việc thực hiện công việc sản xuất, trao đổi hàng hóa, dịch vụ, nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học- kỹ thuật và các thoả thuận khác có mục đích kinh doanh với sự quy định rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của mỗi bên để xây dựng và thực hiện kế hoạch của mình”.( Điều 1).Như vậy mục đích của hợp đồng kinh tế là nhằm mục đích kinh doanh. Đặc biệt, Pháp lệnh còn quy định về chủ thể của hợp đồng kinh tế phải có ít nhất một bên là pháp nhân.Hợp đồng kinh tế được ký kết giữa các bên là: Pháp nhân với pháp nhân; Pháp nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật. Còn hợp đồng dân sự được áp dụng trong những vụ việc về dân sự, tài sản, hôn nhân gia đình. Từ 01/01/2006, Bộ luật Dân sự 2005 có hiệu lực, chỉ tồn tại một loại hợp đồng, gọi là hợp đồng dân sự, còn trên các văn bản giao kết giữa các bên “hợp đồng kinh tế” chỉ được sử dụng như một thói quen. 2. Hệ thống văn bản quy định về hợp đồng. - Bộ luật Dân sự 27/6/2005, hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2006. - Bộ luật Tố tụng Dân sự 2004. - Luật Doanh nghiệp 2005. - Luật Thương mại 27/6/2005, hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2006. - Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003. - Nghị định số 25/Cp ngày 25/4/1996 ban hành quy chế đại lý mua bán hàng hoá - Thông tư số 10-TM/PC ngày 13/6/1996 hướng dẫn việc thực hiện quy chế đại lý mua bán hàng hoá. 3. Quá trình hình thành và phát triển của hợp đồng kinh tế ở Việt Nam: Hợp đồng kinh tế ta xem xét với ý nghĩa là một chế độ pháp lý. hợp đồng kinh tế được đề cập đến trong các văn bản, là công cụ trong quản lý kinh tế, quy định cụ thể việc ký kết, chủ thể, nội dung, quá trình thực hiện, xử lý tranh chấp ra sao? Nếu hiểu theo ý nghĩa như vậy thì hợp đồng kinh tế ở nước ta ra đời từ thời kỳ kế hoạch hoá tập trung. * Thời kỳ khôi phục kinh tế và cải tạo XHCN nền kinh tế quốc dân( 1954-1959). Giai đoạn này trong nền kinh tế tồn tại các thành phần là: kinh tế Nhà nước, kinh tế tư nhân, kinh tế tập thể. Thời kỳ này có sự ra đời của Nghị định số 735/TTg ngày 10/4/1956 của Thủ tướng ban hành điều lệ tạm thời về hợp đồng kinh doanh, mối quan hệ giữa các đơn vị kinh doanh. * Thời kỳ xây dựng cơ sở vật chất XHCN kế hoạch hoá tạp trung( 1960-1974). Thời kỳ này là nền kinh tế kế hoạch, hợp đồng kinh tế thực chất chỉ là pháp lệnh, sản xuất theo quy định mức quy định của các văn bản pháp quy do Nhà nước ban hành.Nghị định số 04/TTg ngày 04/01/1960 của Thủ tướng quy định một kiểu hợp đồng mới, hợp đồng được ký kết trên cơ sở kế hoạch của Nhà nước nhằm thực hiện kế hoạch của Nhà nước, đồng thời thực hiện các nguyên tắc của chế độ hoạch toán kinh tế. Đây được gọi là “Điều lệ tạm thời về hợp đồng kinh tế”. Xuất phát từ điều kiện kinh tế xã hội của đất nước ta lúc bấy giờ: Năm 1960, 100% tài sản dân tộc được cải tạo, 90% nông dân, thợ thủ công được vào hợp tác xã. Cơ chế quản lý kinh tế theo hình thức kế hoạch hoá tập trung cao. Nhiệm vụ sản xuất hàng năm của từng xí nghiệp do nhà nước đặt ra, giao thành các chỉ tiêu, pháp lệnh. Vì vậy một xí nghiệp hàng năm sản xuất gì, bao nhiêu, cho ai, giá bao nhiêu đều do Nhà nước quy định trước. Tuy nhiên Nghị định 04 quy định sau khi được giao chỉ tiêu, pháp lệnh các xí nghiệp có liên quan bắt buộc phải gặp nhau để ký hợp đồng, để bàn biện pháp thực hiện pháp lệnh. Nghị định 04 gọi hợp đồng này là hợp đồng kinh tế. Tính chất của hợp đồng không đáng kể, chỉ mang tính hình thức. * Thời kỳ cải tiến quản lý kinh tế( 1975-1989). Ngày 10/3/1975 Hội đồng Bộ trưởng( Nay là Chính phủ) ban hành điều lệ về chế độ hợp đồng kinh tế kèm theo Nghị định số 54/CP. Đây là những văn bản pháp quy đầu tiên về hợp đồng kinh tế. Do kết cấu, thành phần kinh tế trong nước ta không thay đổi so với trước nên bản chất của hợp đồng vẫn không có gì khác. * Thời kỳ đổi mới( 1989- nay): Năm 1989, Hội đồng Nhà nước ban hành Pháp lệnh Hợp đồng Kinh tế. Hoạt động sản xuất kinh doanh do các chủ thể kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế thực hiện, bình đẳng với nhau trên thị trường, chủ thể đó là các loại hình doanh nghiệp. Nhà nước bãi bỏ việc giao chỉ tiêu kế hoạch cho các cơ quan. Kế hoạch sản xuất kinh doanh do chính các doanh nghiệp xây dựng nên dựa vào nhu cầu của thị trường, kế hoạch của Nhà nước chỉ mang tính định hướng.Các doanh nghiệp tự chủ ký kết hợp đồng,một minh chứng cho quyền tự do kinh doanh. Ngày 27/6/2005, Bộ luật Dân sự ban hành một cách tập trung, khái niệm “hợp đồng kinh tế “ nay được coi là hợp đồng dân sự, do Bộ luật Dân sự và các luật chuyên nghành điều chỉnh điều chỉnh. Việc áp dụng pháp luật như sau: Hợp đồng trong từng lĩnh vực cụ thể sẽ do luật và các văn bản hướng dẫn thi hành của lĩnh vực đó điều chỉnh. Nếu luật đó chưa quy định thì áp dụng Luật Thương mại 2005. Nếu Luật Thương mại 2005 chưa quy định thì áp dụng luật gốc là Bộ luật Dân sự 2005. 4. Hợp đồng đại lý: 4.1. Khái niệm: Hợp đồng đại lý là hình thức pháp lý của thoả thuận về đại lý bán hàng. Hợp đồng đại lý phải được lập thành văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương (Điều 168 Luật Thương mại 2005). Nếu vi phạm về hình thức, hợp đồng đại lý bị vô hiệu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác(Điều 401 Bộ luật Dân sự 2005). Nội dung của hợp đồng đại lý bán hàng: (Điều 402 Bộ luật Dân sự 2005). + Đối tượng của hợp đồng: tài sản phải giao, công việc phải làm, hoặc không được làm. + Số lượng, chất lượng. + Giá, phương thức thanh toán. + Thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng. + Quyền, nghĩa vụ của các bên. + Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng. + Phạt do vi phạm hợp đồng. + Các nội dung khác. 4.2. Chế độ pháp lý về hợp đồng đại lý a) Ký kết hợp đồng đại lý. Hợp đồng đại lý bán hàng được giao kết hợp pháp có hiệu lực từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. b) Thực hiện hợp đồng đại lý: Nguyên tắc thực hiện hợp đồng đại lý như sau: -Thực hiện đúng hợp đồng, đúng đối tượng, chất lượng, số lượng, chủng loại, thời hạn, phương thức và các thoả thuận khác. -Thực hiện một cách trung thực, theo tinh thần hợp tác và có lợi nhất cho các bên, đảm bảo tin cậy lẫn nhau. -Không được xâm hại đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. * Điều khoản phạt vi phạm hợp đồng: Phạt vi phạm là sự thoả thuận của các bên trong hợp đồng, theo đó bên vi phạm có nghĩa vụ nộp một khoản tiền cho bên bị vi phạm. Mức phạt do các bên tự thoả thuận. Nếu các bên thoả thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm có quyền áp dụng cả hai chế tài: phạt vi phạm và đòi bôi thường thiệt hại. Nếu các bên không có thoả thuận phạt vi phạm hợp đồng thì bên bị vi phạm chỉ có quyền yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại.( Điều 422 Bộ luật Dân sự 2005, điều 307 Luât Thương mại 2005). * Sửa đổi , chấm dứt hợp đồng đại lý: Doanh nghiệp và đại lý có thể thoả thuận sửa đổi hợp đồng và giải quyết hậu quả của việc sửa đổi, trừ khi pháp luật có quy định khác. Trong trường hợp hợp đồng được lập thành văn bản được công chứng, chứng thực, đăng ký hoặc cho phép thì việc sửa đổi hợp đồng cũng phải tuân theo hình thức đó. * Chấm dứt hợp đồng đại lý: Điều 424 Bộ luật Dân sự 2005 quy đinh: Hợp đồng đại lý có thể bị chấm dứt trong các trường hợp sau: Hợp đồng đã được hoàn thành. Hợp đồng chấm dứt theo thoả thuận của các bên. Cá nhân giao kết hợp đồng chết, pháp nhân hoặc chủ thể khác chấm dứt mà hợp đồng phải do chính cá nhân, pháp nhân hoặc chủ thể đó thực hiện. Hợp đồng bị huỷ bỏ, bị đơn phương chấm dứt thực hiện. Khi đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng, bên chấm dứt phải thông báo cho bên kia biết việc chấm dứt hợp đồng.Nếu không thông báo mà gây ra thiệt hại thì phải bồii thường. Khi hợp đồng bị đơn phương chấm dứt thực hiện thì hợp đồng chấm dứt từ thời điểm bên kia nhận được thông báo chấm dứt. Các bên không phải thực hiện nghĩa vụ. Bên đã thực hiện nghĩa vụ có quyền yêu cầu bên kia thanh toán. *Huỷ bỏ hợp đồng địa lý: Theo điều 425 Bộ luật Dân sự 2005 trường hợp để huỷ bỏ hợp đồng đại lý thì cách thức xử lý là: Một bên có quyền huỷ bỏ hợp đồng và không phải bbồi thường thiệt hại khi bên kia vi phạm hợp đồng là điều kiện huỷ bỏ mà các bên đã thoả thuận hoặc pháp luật có quy định. Bên huỷ bỏ hợp đồng phải thông báo ngay cho bên kia biết về việc huỷ bỏ, nếu không thông báo mà gây ra thiệt hại thì phải bồi thường. Khi hợp đồng bị huỷ bỏ thì hợp đồng không có hiệu lực từ thời điểm giao kết và các bên hoàn trả cho nhau tài sản đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì hoàn trả bằng tiền. Bên có lỗi trong việc hợp đồng bị huỷ bỏ phải bồi thường thiệt hại. Điều 170 Luật Thương mại 2005 quy định về quyền sở hữu trong đại lý thương mại như sau: Bên giao đại lý là chủ sở hữu đối với hàng hoá hoặc tiền giao cho bên đại lý. * Vấn đề thù lao đại lý: Trừ trường hợp có thoả thuận khác, thù lao đại lý được trả cho bên đại lý dưới hình thức hoa hồng hoặc chênh lệch giá. Trường hợp bên giao đại lý ấn định giá mua, giá bán hàng hoá hoặc giá cung ứng dịch vụ cho khách hàng thì bên đại lý được hưởng hoa hồng tính theo tỷ lệ phần trăm trên giá mua, giá bán hàng hoá hoặc giá cung ứng dịch vụ. Trường hợp bên giao đại lý không ấn định giá mua, giá bán hàng hoá hoặc giá cung ứng dịch vụ cho khách hàng mà chỉ ấn định giá giao đại lý cho bên đại lý thì bên đại lý được hưởng chênh lệch giá. Mức chênh lệch gía được xác định là mức chênh lệch giữa giá mua, giá bán, giá cung ứng dịch vụ cho khách hàng so với giá do bên giao đại lý ấn định cho bên đại lý. Trường hợp các bên không có thoả thuận về mức thù lao đại lý thì mức thù lao được tính như sau: Mức thù lao thực tế mà các bên đã được trả trước đó; Trường hợp không áp dụng được cách xác định thù lao như trên thì mức thù lao đại lý là mức thù lao trung bình được áp dụng cho cùng loại hàng hoá, dịch vụ mà bên giao đại lý đã trả cho các đại lý khác; Trường hợp không áp dụng được các cách tính trên thì mức thù lao đại lý là mức thù lao thông thường được áp dụng cho cùng loại hàng hoá, dịch vụ trên thị trường. * Thanh toán trong đại lý: Trừ trường hợp có thoả thuận khác, việc thanh toán tiền hàng, tiền cung ứng dịch vụ và thù lao đại lý được thực hiện theo từng đợt sau khi bên đại lý hoàn thành việc mua, bán một khối lượng hàng hoá hoặc cung ứng một khối lượng dịch vụ nhất định. * Thời hạn đại lý: Trừ trường hợp có thoả thuận khác, thời hạn đại lý chỉ chấm dứt sau một thời gian hợp lý nhưng không sớm hơn 60 ngày, kể từ ngày một trong hai bên thông báo bằng văn bản cho bên kia về việc chấm dứt hợp đồng đại lý. Trừ trường hợp có thoả thuận khác, nếu bên giao đại lý thông báo chấm dứt hợp đồng theo cách trên thì bên đại lý có quyền yêu cầu bên giao đại lý bồi thường một khoản tiền cho thời gian mà mình đã làm đại lý cho bên giao đại lý đó. Giá trị của khoản bồi thường là một tháng thù lao đại lý trung bình trong thời gian nhận đại lý cho mỗi năm mà bên đại lý làm đại lý cho bên giao đại lý.Trong trường hợp thời gian đại lý dưới một năm thì khoản bồi thường được tính là một tháng thù lao đại lý trung bình trong thời gian nhận đại lý. Trường hợp hợp đồng đại lý được chấm dứt trên cơ sở yêu cầu của bên đại lý thì bên đại lý không có quyền yêu cầu bên giao đại lý bồi thường cho thời gian mà mình làm đại lý cho bên giao đại lý. c) Trách nhiệm pháp lý của các bên tham gia hợp đồng * Bên giao đại lý: Điều 172 Luật Thương mại 2005 quy định quyền của bên giao đại lý như sau: Trừ trường hợp có thoả thuận khác, bên giao đại lý có quyền: - Ấn định giá mua, giá bán hàng hoá, giá cung ứng dịch vụ đại lý cho khách hàng. - Ấn định gía giao đại lý. - Yêu cầu bên đại lý thực hiện biện pháp bảo đảm theo quy định hiện hành của pháp luật. - Yêu cầu bên đại lý thanh toán tiền hoặc giao hàng theo hợp đồng đại lý. - Kiểm tra, giám sát việc thực hiện hợp đồng của bên đại lý. Điều 173 Luật Thương mại 2005 quy định nghĩa vụ của bên giao đại lý như sau: Trừ trường hợp có thoả thuận khác, bên giao đại lý có các nghĩa vụ như sau: - Hướng dẫn, cung cấp thông tin, tạo điều kiện cho bên đại lý thực hiện hợp đồng đại lý; - Chịu trách nhiệm về chất lượng hàng hoá của đại lý mua bán hàng hoá, chất lượng dịch vụ của đại lý cung ứng dịch vụ. - Trả thù lao và các chi phí hợp lý khác cho bên đại lý. - Hoàn trả cho bên đại lý tài sản của bên đại lý dùng để bảo đảm ( nếu có) khi kết thúc hợp đồng đại lý. - Liên đới chịu trách nhiệm về hành vi vi phạm pháp luật của bên đại lý, nếu nguyên nhân của h ành vi vi phạm pháp luật đó có một phần do lỗi của mình gây ra. * Bên đại lý: Theo điều 174 Luật Thương mại 2005, quyền của bên đại lý được quy định như sau: Trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác, bên đại lý có các quyền sau đây: - Giao kết hợp đồng đại lý với một hoặc nhiều bên giao đại lý, trừ trường hợp pháp luật quy định chỉ giao kết hợp đồng đại lý với một bên giao đại lý đối với một loại hàng hoá dịch vụ nhất định thì phải tuân thủ quy định của pháp luật đó. - Yêu cầu bên giao đại lý giao hàng hoặc tiền theo hợp đồng đại lý; nhận lại tài sản dùng để đảm bảo( nếu có) khi kết thúc hợp đồng đại lý. - Yêu cầu bên giao đại lý hướng dẫn, cung cấp thông tin và các điều kiện khác có liên quan để thực hiện hợp đồng đại lý. - Quyết định giá bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ cho khách hàng đối với đại lý bao tiêu. - Hưởng thù lao, các quyền và lợi ích hợp pháp khác do hoạt động đại lý mang lại. Điều 175 Luật Thương mại 2005 quy định nghĩa vụ của bên đại lý như sau: Trừ trường hợp có thoả thuận khác, bên đại lý có các nghĩa vụ sau đây: - Mua, bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ theo giá hàng hoá, gía cung ứng dịch vụ do bên giao đại lý ấn định; - Thực hiện đúng các thoả thuận về giao nhận tiền, hàng với bên giao đại lý; - Thực hiện các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự theo quy định của pháp luật; - Thanh toán cho bên giao đạilý tiền bán hàng đối với đại lý bán; giao hàng mua đối với đại lý mua; tiền cung ứng dịch vụ đối với đại lý cung ứng dịch vụ; - Bảo quản hàng hoá sau khi nhận đối với đại lý bán hoặc trước khi giao đối với đại lý ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32034.doc