Thực trạng cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước, những vấn đề tồn tại và giải pháp

Lời nói đầu Để đất nước phát triển ổn định và bền vững, cải cách kinh tế luôn được coi là một trong những vấn đề cơ bản vừa mang tính cấp bách vừa mang tính chiến lược lâu dài. Trong tiền trình cải cách kinh tế sâu rộng này, vấn đề cải cách doanh nghiệp vừa là mục tiêu vừa là giải pháp có vị trí đặc biệt, gắn bó chặt chẽ với sự thành bại của tiến trình lớn. Trong đó cải cách doanh nghiệp Nhà nước có vai trò hết sức quan trọng bởi các doanh nghiệp Nhà nước là chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân,

doc37 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1248 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước, những vấn đề tồn tại và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
có vai trò định hướng cho nền kinh tế và thể hiện đặc trưng của xã hội chủ nghĩa. Nhận thức được điều này, trong nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã kiên trì tập trung tiến hành công tác sắp xếp, đổi mới các doanh nghiệp Nhà nước và đã đạt được một số kết quả nhất định như giảm mạnh một số lượng do doanh nghiệp Nhà nước, giảm bớt được sự tài trợ ngân sách, nâng quy mô vốn bình quân. Tuy nhiên hầu hết các doanh nghiệp trong tổng số gần 6000 doanh nghiệp Nhà nước hiện đang tồn taị và hoạt động với hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp, không có lãi. Nếu cứ duy trì các doanh nghiệp Nhà nước này sẽ bất lợi cho sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế. Trước đòi hỏi của tình hình mới, Đảng và Nhà nước ta đã kịp thời đưa ra chủ trương cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước. Đây là chủ trương hết sức đúng đắn trong công cuộc đổi mới, vừa đáp ứng được nhu cầu trước mắt huy động vốn cho sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế vừa phù hợp với lợi ích lâu dài, và cso khả năng mang lại lợi ích hài hoà cho Nhà nước cũng như doanh nghiệp, người lao động và toàn bộ xã hội. Nhưng từ khi triển khai thực hiện cổ phần các doanh nghiệp Nhà nước đến nay kết quả vẫn chưa đạt được như mong muốn. Đâu là những nguyên nhân cản trở và cần phải có các giải pháp là gì? để đẩy tiến trình cổ phần hoá này. Xuất phát từ những vấn đề trên, đề tài nghiên cứu của đề án là : “Thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, những vấn đề tồn tại và giải pháp”. Đây là đề án đầu tay, vì trình độ còn hạn chế và thời gian có hạn nên còn nhiều sai sót. Em mong nhận được sự chỉ bảo thêm. Em xin cảm ơn TS. Nguyễn Ngọc Huyền đã tận tình chỉ bảo em hoàn thành đề án này. Hà Nội, tháng 9 năm 2003 Sinh viên Nguyễn Ngọc Thiềng Chương I Những vấn đề chung về công ty cổ phần và cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước I. Công ty cổ phần 1. Khái niệm và đặc điểm Công ty cổ phần : a) Khái niệm Khái niệm doanh nghiệp được hiểu là sự liên kết của hai hay nhiều cá nhân hoặc pháp nhân bằng một sự kiện pháp lý nhằm hoạt động để đạt được mục tiêu chung nào đó. Phân loại doanh nghiệp theo hình thức sở hữu: + DNNN mà 100% số vốn và tài sản thuộc sở hữu Nhà nước. + Doanh nghiệp mà sở hữu Nhà nước khống chế từ 50 - 100% vốn điều lệ doanh nghiệp hoặc có số vốn bằng 2 lần số vốn của cổ đông có số vốn lớn nhất của doanh nghiệp. + Doanh nghiệp mà sở hữu Nhà nước chi phối dưới 50% vốn và tài sản kinh doanh. + Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp mà sở hữu là sở hữu tư nhân. + Doanh nghiệp hỗn hợp là doanh nghiệp có sở hữu hỗn hợp. Công ty cổ phần là doanh nghiệp trong đó các Công ty cổ đông cùng nhau góp vốn kinh doanh, cùng nhau chia lợi nhuận và chịu trách nhiệm trong phạm vi phần vốn góp của mình trên cơ sở tự nguyện để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm thu lợi nhuận. Vốn điều lệ của Công ty cổ phần được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Giá trị của mỗi cổ phần được biểu hiện về hình thức bằng cổ phần. Giá trị của mỗi cổ phần được biểu hiện về hình thức bằng cổ phần. Những người sở hữu cổ phiếu gọi là cổ động. b) Con đường hình thành Công ty cổ phần : Việc nghiên cứu sự hình thành của Công ty cổ phần trong lịch sử là hết sức cần thiết cho việc hình thành các Công ty cổ phần ở Việt Nam hiện nay (bao gồm cả việc hình thành các Công ty cổ phần từ doanh nghiệp Nhà nước). Sự phát triển Công ty cổ phần trên thế giới có thể được chia làm 4 giai đoạn sau đây : * Giai đoạn 1. Trong giai đoạn của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, các nhà tư bản chủ yếu xuất thân từ thợ cả, chủ phường hội, thương nhân, người cho vay nặng lãi... Lúc đầu, họ lập ra các Xí nghiệp riêng lẻ, kinh doanh độc lập, thuê mướn công nhân và bóc lột lao động làm thuê. Dần dần, cùng với sự phát triển của sức sản xuất và chế độ tín dụng, họ đã liên kết với nhau, dựa trên quan hệ nhân thân và chữ tín. Họ đã góp vốn kinh doanh nhằm mục đích sinh lợi, từ doanh nghiệp nhóm bạn dần dần phát triển thành doanh nghiệp góp vốn. Năm 1553, Công ty cổ phần đầu tiên ở Anh với số vốn khoảng 6000 bảng Anh được thành lập thông qua việc phát hành 240 cổ phiếu, mỗi cổ phiếu là 25 bảng Anh để tổ chức đội buôn gồm 3 chiếc thuyền lớn tìm đường sang ấn Độ. Đặc điểm của Công ty cổ phần trong giai đoạn này là được thành lập bằng vốn cổ phần của thương nhân do thương nhân đứng ra tổ chức. Mục đích hoạt động của Công ty là lợi dụng những phát kiến lớn về địa lý thế kỷ XV, XVI để đi tìm kiếm thị trường mới có tỷ suất lợi nhuận cao và thu về những nguồn lợi lớn cho thưoưng nhân. * Giai đoạn 2 . Trước và sau cuộc cách mạng Đại công nghiệp, chủ yếu là nửa đầu thế kỷ XIX, các Công ty cổ phần chính thức lần lượt ra đời với hình thức tổ chức riêng của nó. Năm 1806, phát triển thương mại của Pháp đã có những quy định cơ bản về Công ty cổ phần. Đồng thời cùng với sự phát triển của các Công ty cổ phần, các Sở giao dịch chứng khoán cũng mọc lên một cách phổ biến tại các nước phương Tây. * Giai đoạn 3. Sau những năm 70 của thế kỷ XIX, Công ty cổ phần phát triển rất nhanh, mọc lên một cách phổ biến ở tất cả các nước, các ngành, quy mô sản xuất mở rộng mạnh mẽ, tập trung tư bản diễn ra với tốc độ chưa từng thấy, các tổ chức độc quyền ra đời như Cacfen, Xanhđica, Tờ rớt... Hầu hết tất cả các doanh nghiệp lớn đều áp dụng hình thức cổ phần. Đến năm 1930, số Công ty cổ phần của nước Anh đã lên tới 86000 và 90% tư bản ở Anh chịu sự khống chế của các Công ty cổ phần. Năm 1939, số Công ty cổ phần ở Mỹ chiếm 51,7% tổng số các Xí nghiệp công nghiệp và chiếm 92,6% giá trị tổng sản lượng công nghiệp. Lúc này, tư bản tài chính đã trở thành hình thái chủ thể tài sản xã hội, ngân hàng kiểm soát công nghiệp. Đây là cái mà chúng ta gọi là "thời đại chủ nghĩa đế quốc". Tương ứng với nó là thị trường giao dịch cổ phiếu mọc lên khắp các nước, hình thành trung tâm tài chính quốc tế, giao dịch chứng khoán cực kỳ sôi động đến mức trở thành thước đo cho sự dao động kinh tế và chính trị, đồng thời còn là sân chơi cho các nhà đầu cơ. * Giai đoạn 4. Sau chiến tranh thế giới lần thứ 2, Công ty cổ phần có những điểm mới : + Dùng hình thức cổ phần để lập ra các Công ty xuyên quốc gia và đa quốc gia để liên kết kinh tế và quốc tế hoá cổ phần, hình thành các tập đoàn kinh doanh quốc tế. + Thu hút công nhân mua cổ phần thực hiện cái gọi là "chủ nghĩa tư bản nhân dân" vừa để làm chịu mâu thuẫn giữa người lao động và nhà tư bản vừa để thu hút nguồn vốn. + Cơ cấu tổ chức của Công ty cổ phần ngày càng hoàn thiện pháp luật ngày càng kiện toàn và mỗi nước đều có những đặc điểm riêng. Ta có thể tóm tắt các giai đoạn hình thành và phát triển Công ty cổ phần trên thế giới như sau : Giai đoạn trưởng thành - Hình thành Công ty xuyên quốc gia, đa quốc gia. - Thu hút công nhân mua cổ phiếu. - Cơ cấu công ty cổ phần hoàn thiện pháp luật ngày càng kiện toàn Giai đoạn mầm mống - Góp vốn theo nhóm bạn. - Hoạt động liên kết lỏng lẻo. Giai đoạn hình thành - Bắt đầu phát hành cổ phiếu. - Bước đầu xuất hiện sự giao dịch chứng khoán Giai đoạn phát triển - Công ty cổ phần phổ biến tư sản chủ nghĩa. - Các tổ chức độc quyền. - Hình thành trung tâm, giao dịch chững khoán sôi động Giai đoạn phát triển - Góp vốn theo nhóm bạn. - Hoạt động liên kết lỏng lẻo. ở nước ta trước năm 1992 đa số các DNNN ra đời trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, hoạt động theo cơ chế cấp phát, hiệu quả kinh doanh thấp. Từ khi nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế thị trường, những yếu kém của đa số các DNNN càng bộc lộ rõ nét. Nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các DNNN, Đảng và Nhà nước đã sớm có những chủ trương, chính sách chuyển một bộ phận DNNN thành công ty cổ phần. Hội nghị lần thứ ha BCHTƯ Đảng khoá VII, tháng 11/1991 đã chủ trương chuyển một số doanh nghiệp quốc doanh có điều kiện thành công ty cổ phần và thành lập một số công ty quốc doanh cổ phần mới, đồng thời xác định phải làm thí điểm, chỉ đạo chặt chẽ, rút kinh nghiệm chu đáo trước khi mở rộng phạm vi thích hợp. Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII khẳng định: "... triển khai việc cổ phần hoá DNNN để huy động thêm vốn đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh làm tăng tài sản Nhà nước". Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX lại tiếp tục khẳng định "... thực hiện tốt chủ trương cổ phần hoá và đa dạng hoá sở hữu đối với những doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm 100% vốn; giao, bán, khoán, cho thuê... các doanh nghiệp loại nhỏ Nhà nước không cần nắm giữ, sáp nhập, giải thể, cho phá sản những doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả và không thực hiện được các biện pháp trên". c. Đặc điểm Công ty cổ phần. + Công ty cổ phần là một hình thức tổ chức kinh doanh có tư cách pháp nhân và các cổ đông chỉ có trách nhiệm pháp lý hữu hạn trong phần vốn góp của mình. + Vốn cổ phần được cơ cấu bởi hai bộ phận: - Vốn cổ phần được hình thành do Công ty phát hành cổ phiếu thường - là cổ phiếu không thể thiếu trong Công ty cổ phần - Vốn cổ phần được hình thành do Công ty phát hành cổ phiếu ưu đãi. Cổ phiếu ưu đãi gồm có cổ phiếu ưu đãi có lãi cổ phần gộp hay dồn lại, cổ phiếu ưu đãi không dồn lại. + Cơ cấu tổ chức và điều hành Công ty thông qua tổ chức đại diện làm nhiệm vụ tổ chức trực tiếp quản lý Công ty, bao gồm : Đại diện cổ đông, Hội đồng quản trị, Giám đốc điều hành và Ban kiểm soát. + Phân chia lợi nhuận trong Công ty cổ phần được thực hiện theo nguyên tắc vốn góp của các cổ đông và lệ thuộc trực tiếp vào tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty. Những đặc điểm của các quan hệ trên cho thấy, nếu trong các Công ty khác, người sở hữu tài sản đồng thời là người tổ chức và quản lý hoạt động của Công ty, quan hệ với người bạn hàng, thì ở Công ty cổ phần, người sở hữu tài sản của Công ty là người sở hữu thuần tuý, là người chủ tiền tệ thuần tuý. Việc điều hành và quản lý Công ty được thực hiện thông qua chế độ thường là thuê Giám đốc (hoặc cũng có thể là cử một thành viên của Hội đồng quản trị). Chủ sở hữu chỉ thực hiện quyền sở hữu của mình trên phương diện thu lợi tức cổ phần tên cơ sở hoạt động của Công ty, tham gia Đại hội cổ đông, quyết định các vấn đề có tính chất chiến lược như thông qua điều lệ, phương án xây dựng Công ty, quyết toán tài chính, giải thể Công ty, bầu cử và ứng cử vào cơ quan lãnh đạo của Công ty.....Người Giám đốc của Công ty chỉ đơn giản là người quản lý và điều khiển tư bản của người khác. Anh ta chỉ là người làm thuê với loại lao động đặc biệt mà giá cả được quy định trên thị trường cũng như bất cứ một loại lao động nào khác. 2. Những ưu điểm cơ bản của Công ty cổ phần. Công ty cổ phần là một mô hình tổ chức doanh nghiệp đạt trình độ xã hội cao và rất có hiệu quả. Sức hấp dẫn của nó thể hiện ở các mặt sau đây : Thứ nhất là đối với cổ động : Đem lại cho họ lợi tức cổ phần và còn có thể mang lại một khoản thu nhập nhờ việc tăng giá trị cổ phiếu khi Công ty làm ăn có hiệu quả, họ có quyền được thông tin và tham gia ý kiến vào phương hướng phát triển Công ty, và họ có quyền chuyển nhượng cổ phiếu, được ưu đãi trong việc mua những cổ phiếu mới phát hành thêm của Công ty trước khi chúng được đem bán rộng rãi. Thứ hai là đối với doanh nghiệp. Doanh nghiệp sẽ thu hút được một lượng vốn nhất định để đầu tư cho sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện mở rộng, nâng cao năng lực công nghệ, sản phẩm, cho phép tuyển chọn và tập hợp những nhà quản lý, kinh doanh giỏi vào bộ máy quản lý của Công ty. Thứ ba là trên phạm vi xã hội : Việc phát hành cổ phiếu của Công ty cổ phần và việc tự do chuyển nhượng cổ phiếu góp phần làm cho tiền vốn trong xã hội được lưu thông liên tục, thu hút vốn từ nhiều kênh lớn nhỏ đổ vào các Công ty có tỷ suất lợi nhuận cao, vào những ngành và lĩnh vực có triển vọng, nhờ đó góp phần điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ. II. Tính tất yếu của việc thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước Từ thực tiễn tiến hành công cuộc phát triển nền kinh tế đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa và những kinh nghiệm thu được qua quá trình chỉ đạo điều hành sản xuất kinh doanh trong nhiều nă qua Đảng và Nhà nước ta đã xác định được rằng cải cách doanh nghiệp Nhà nước cho phù hợp với từng thời kỳ là yêu cầu có tính quyết định để tăng cường động lực phát triển sản xuất và thúc đẩy doanh nghiệp Nhà nước hoạt động có hiệu quả hơn. Nhất là trong giai đoạn này, nước ta đang thực hiện một nền kinh tế mở, kinh tế thị trường nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà các doanh nghiệp Nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Từ thực tế phát triển Công ty cổ phần trên thế giới Đảng ta đã có những nhận định: + Công ty cổ phần là một hình thức pháp lý quan trọng trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. + Cổ phần hoá DNNN là một giải pháp quan trọng để nâng cao hiệu quả hoạt động của các DNNN. Làm cho DNNN có vai trò quan trọng trong nền kinh tế nước ta thời kỳ quá độ đi lên CNXH. + Trong các con đường đổi mới DNNN như: Phá sản các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, bán quán cho thuê một số doanh nghiệp, tiếp tục phát triển và CPH thì CPH là quan trọng nhất. Bởi vậy, cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước là một trong những biện pháp đổi mới mà Đảng và Nhà nước ta đã thấy được là cấp thiết và tất yếu. Tháng 11/1991 tại Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành TƯ Đảng khoá VII đã ban hành Nghị quyết về việc chuyển một số doanh nghiệp quốc doanh có điều kiện thành Công ty cổ phần và thành lập một số Công ty cổ phần mới làm thí điểm, chỉ đạo chặt chẽ, rút kinh nghiệm chu đáo trước khi mở rộng phạm vi thích hợp. Thực tế đã chứng minh, trước khi thực hiện cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước, nền kinh tế nước ta có khoảng gần 6000 doanh nghiệp Nhà nước, nắm giữ 88% tổng số vốn của các doanh nghiệp trong nền kinh tế nhưng hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp chỉ có khoảng 50% doanh nghiệp Nhà nước là có lãi, trong đó thực sự làm ăn có lãi và lâu dài chỉ chiếm dưới 30%. Trên thực tế, doanh nghiệp Nhà nước nộp ngân sách chiếm 80 - 85% tổng số thu, nhưng nếu trừ khấu hao cơ bản và thuế gián thu thì doanh nghiệp Nhà nước chỉ đóng góp được trên 30% ngân sách Nhà nước. Đặc biệt, nếu tính đủ chi phí và tài sản cố định, đất theo giá thị trường thì các doanh nghiệp Nhà nước hoàn toàn không tạo ra được tích lũy. Như vậy, hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước không tương xứng với phần đầu tư của Nhà nước cho nó, cũng như với tiềm lực của nó. Điều đó xảy ra là do những nguyên nhân như : Các doanh nghiệp vẫn còn chịu ảnh hưởng nặng nề của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung những năm trước đây, trình độ quản lý vĩ mô nền kinh tế cũng như vi mô trong các doanh nghiệp còn nhiều yếu kém, ... Và một trong những nguyên nhân quan trọng là tài sản cố định nhất là máy móc thiết bị đã quá cũ, lạc hậu về mặt kỹ thuật. Hiện nay, có đến 54,3% doanh nghiệp Nhà nước trung ương và 74% doanh nghiệp Nhà nước ở địa phương còn sản xuất ở trình độ thủ công. Quy mô doanh nghiệp nhỏ, vốn ít, vốn hoạt động trong thực tế chỉ bằng 80% vốn ghi trên sổ sách, riêng vốn lưu động chỉ còn 50% được huy động vào sản xuất kinh doanh, còn lại là công nợ khó đòi, tài sản vật tư mất mát kém phẩm chất và lỗ chưa được xử lý. Với tình trạng trang bị kỹ thuật và tài chính như trên, các doanh nghiệp hầu như không có khả năng cấp vốn và bao cấp các doanh nghiệp như trước đây. Ngân hàng cho vay cũng phải có những điều kiện đảm bảo như tài sản thế chấp, khả năng kinh doanh để tính khả thu hồi vốn. Các doanh nghiệp ở trong tình trạng luẩn quẩn : vốn không có nhưng cũng chẳng có cách nào khắc phục. Ngoài ra, với cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực vừa qua đã làm cho các doanh nghiệp nước ta điêu đứng trong hoạt động sản xuất kinh doanh, trong đó có các doanh nghiệp Nhà nước. Bên cạnh đó trong vài năm tới chúng ta sẽ thực hiện "mở cửa" nền kinh tế với các nước trong khối ASEAN tạo điều kiện hội nhập kinh tế khu vực và toàn cầu. Tất cả những điều đó cho thấy tính cấp bách phải khẩn trương nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Nhà nước. Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước chính là một trong những giải pháp đổi mới mà thực trạng hiện nay đòi hỏi phải tiến hành, để có thể tạo ra môi trường huy động vốn dài hạn và lâu dài cho các doanh nghiệp đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ và tạo ra sức bật mới. III. Mục tiêu của việc cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. Mục đích của cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước nghị định 44/CP ngày 29/6/1998 đã nêu : 1. Mục tiêu trực tiếp của CPH DNNN. Một là, chuyển đổi sở hữu, thực hiện sở hữu hỗn hợp ở những doanh nghiệp cụ thể nào đó, giảm sở hữu của Nhà nước, tăng sở hữu tư nhân, cá thể trong các doanh nghiệp được CPH. Hiện nay, nhiều DNNN làm ăn kém hiệu quả. Nguyên nhân có rất nhiều, song nguyên nhân quan trọng là chế độ đại diện sở hữu nhiều cấp mà trách nhiệm vật chất không rõ ràng. Các DNNN ra đời trong cơ chế hành chính, tập trung bao cấp nên ngày càng bị quan liêu hoá, mất tính độc lập trong sản xuất - kinh doanh. Các DNNN thuộc sở hữu toàn dân, nhưng về phương diện kinh tế và quản lý, toàn dân không thể thực hiện được quyền sở hữu của mình, do vậy, phải uỷ quyền cho Nhà nước. Nhà nước gồm nhiều cấp, từ trung ương đến địa phương, cũng không thể thực hiện được quyền sở hữu do dân uỷ nhiệm, nên phải uỷ nhiệm cho các bộ hoặc UBND các tỉnh. Đến lượt mình, các bộ, hoặc UBND các tỉnh uỷ quyền cho các tổng công ty hoặc các sở, cứ như vậy, giám đốc các DNNN mới là người trực tiếp quản lý sử dụng tài sản. Giám đốc chỉ là người đại diện, chủ sở hữu đích thực là toàn dân. Khi chuyển sang cơ chế thị trường, các DNNN phải được đổi mới và chọn lọc lại theo nguyên tắc xác định rõ trách nhiệm vật chất giữa Nhà nước và DNNN. Cùng với việc đánh giá, giao khoán vốn để xác định rõ trách nhiệm vật chất giữa Nhà nước với doanh nghiệp mà trách nhiệm chính là giám đoóc, thì CPH là biện pháp quan trọng khắc phục tình trạng không có chủ sở hữu cụ thể của các DNNN. Nhờ sự phân định về quyền pháp nhân (thuộc thực thể kinh doanh) và quyền sở hữu (thuộc Nhà nước), các doanh nghiệp CPH trở thành chủ thể sản xuất - kinh doanh, không những có quyền mở rộng kinh doanh mà còn có quyền xử lý tài sản, chuyển đổi cơ chế kinh doanh. Hai là, CPH góp phần tách người sở hữu ra khỏi chức năng quản lý kinh doanh, giúp cho chuyên nghiệp hoá chức năng quản lý kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Công ty cổ phần là tổ chức đại diện cho nhiều sở hữu cổ phần, tập trung vốn giao cho người được đào tạo chuyên môn, có năng lực quản lý và tổ chức kinh doanh. Do vậy, quản lý trở thành một nghề, có ý nghĩa quyết định tới việc nâng cao hoạt động có hiệu quả của doanh nghiệp. Ba là, tạo điều kiện để người lao động trong doanh nghiệp có cổ phần và những người đã đóng góp vốn được làm chủ. CPH như một chất keo gắn người lao động với hiệu quả sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp. Họ không chỉ là người công nhân mà còn là chủ nhân của doanh nghiệp đó. Việc cho phát hành cổ phiếu ưu đãi, cổ phần nội bộ khiến vai trò cổ đông và vai trò người lao động thống nhất với nhau. Người lao động sẽ là những người trực tiếp giám sát, kiểm tra tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Với ý nghĩa này, CPH biến doanh nghiệp thành liên hợp lợi ích của người lao động, là điểm mấu chốt làm cho các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả. Bên cạnh đó, các DNNN khi đã được CPH sẽ tránh được sự điều hành theo kiểu mệnh lệnh hành chính, ảnh hưởng đến tính tự chủ trong sản xuất - kinh doanh. Bốn là, tăng khả năng huy động và tập trung vốn mở rộng sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp. Nhiều DNNN khi chuyển sang hoạt động trong cơ chế thị trường đều rơi vào tình trạng thiếu vốn kinh doanh. Vốn Nhà nước giao coh bao gồm cả nợ khó đòi, sản phẩm, vật tư ứ đọng không có khả năng sử dụng được hoặc không thể sản xuất ra sản phẩm mà thị trường cần. Do vậy, bộ phận vốn lưu động dùng để kinh doanh thường xuyên thiếu. Năm là, góp phần đổi mới và nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước. Chuyển sang kinh tế thị trường, Nhà nước phải thay đổi căn bản cách thức quản lý đối với các DNNN nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung. Sáu là, đa dạng hoá các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. 2. Mục tiêu tổng quát của CPH DNNN. + CPH DNNN, một mặt giúp các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, đứng vững và phát triển trong quá trình chuyển đổi của nền kinh tế. Mặt khác, CPH còn là bước đi quan trọng để Nhà nước thực hiện những mục tiêu chiến lược của công cuộc đổi mới kinh tế đất nước. + CPH góp phần quan trọng trong việc chuyển nền kinh tế nước ta sang hoạt động theo cơ chế thị trường. Đảng và Nhà nước đã khẳng định quan điểm phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Khi chuyển sang cơ chế thị trường, các công ty cổ pohần và thị trường chứng khoán là điều kiện đầu tiên đảm bảo thị trường vận hành đồng bộ, xây dựng mới các công ty cổ phần, CPH các DNNN hình thành thị trường chứng khoán là một trong những biện pháp cấp bach. Chính vì vậy, có thể thấy mục tiêu bao trùm của CPH DNNN là góp phần chuyển nền kinh tế nước ta sang hoạt động theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội của nền kinh tế theo những nguyên tắc của kinh tế thị trường. Đây là một mục tiêu tổng quát bao trùm và tác động đến nhiều mặt, nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội. Quan trọng hơn, CPH còn tạo ra sự hợp tác về sở hữu, hình thành sở hữu hỗn hợp, tạo sự thống nhất, trên cơ sở đó thống nhất suy nghĩ và hành động của những chủ thể vốn trước đây đối lập nhau, tất cả hướng vào mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Chương II Thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta. nguyên nhân cổ phần hoá còn chậm và một số phương hướng chủ yếu đẩy nhanh việc thực hiện CPH I. Thực trạng cổ phần hoá DNNN ở nước ta. Nhận thức được tầm quan trọng và tính tất yếu của việc cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước, Đảng và Nhà nước ta đã sớm đưa ra chủ trương chính sách cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước ngay từ đầu những năm 1990, từng bước thực hiện và đầu đổi mới cho phù hợp với từng giai đoạn của tiến trình cổ phần hoá. 1. Chủ trương chính sách của Đảng và Chính phủ. Thực hiện chủ trương đổi mới DNNN Đảng ta đã ra các nghị quyết chỉ đạo các doanh nghiệp thực hiện chuyển đổi sang Công ty cổ phần: + Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 của Ban chấp hành trung ương Đảng khoá VII (tháng 11 năm 1991) đã ghi "chuyển một số doanh nghiệp quốc doanh có điều kiện thành Công ty cổ phần và thành lập một số Công ty quốc doanh cổ phần mới phải làm thí điểm, chỉ tạo chặt chẽ, rút kinh nghiệm chu đáo trước khi mở rộng phạm vi thích hợp". + Nghị quyết kỳ họp thứ 10 Quốc hội khoá VIII ngày 26/12/1991 về nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội 5 năm 1991-1995 đã ghi : "Thí điểm việc cổ phần hoá 1 số cơ sở kinh tế quốc doanh để rút kinh nghiệm và có thêm nguồn vốn phát triển". + Nghị quyết hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VIII( tháng 1 - 1994) chỉ rõ cổ phần hoá nhằm thu hút thêm vốn cho các doanh nghiệp. + Nghị quyết Bộ chính trị về tiếp tục đổi mới để phát huy vai trò chủ đạo của doanh nghiệp Nhà nước ( số 10 - NQ/TW) đã chỉ rõ : " ...Tuỳ tính chất loại hình doanh nghiệp mà tiến hành bán một tỷ lệ cổ phần cho cán bộ công nhân viên... và bán cổ phần cho tổ chức và cá nhân ngoài doanh nghiệp". + Thông báo số 63 - TB/TƯ ngày 4/4/1997 của Bộ chính trị khẳng định tiếp tục triển khai tích cực và vững chắc cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước trong thời gian tới. Thực hiện chủ trương của Đảng, Chính phủ đã ban hành các văn bản để chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện. + Quyết định số 202/CT ngày 08/6/1992 của chủ tịch hội đồng bộ trưởng (nay là thủ tướng Chính phủ) về tiếp tục thí điểm chuyển một số doanh nghiệp Nhà nước thành Công ty cổ phần. Quyết định số 203KT ngày 08/6/1992 chọn 7 doanh nghiệp Nhà nước do Chính phủ chỉ đạo thí điểm vào giao nhiệm vụ cho mỗi Bộ, Uỷ ban nhân dân tỉnh Thành phố trực thuộc Trung ương chọn từ 1 đến 2 doanh nghiệp thí điểm chuyển thành công ty cổ phần. + Chỉ thị số 84/TTg ngày 4/3/1993 của Thủ tướng Chính Phủ về việc xúc tiến thực hiện thí điểm cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước và các giải pháp đa dạng hoá hình thức sở hữu đôí với các doanh nghiệp Nhà nước. + Nghị định số 28/ CP ngày 7/5/1996 của Chính phủ về chuyển một số doanh nghiệp Nhà nước thành Công ty cổ phần. + Nghị định số 25/CP ngày 26/3/1997 của Chính phủ về sửa đổi một số điều của nghị định 28/CP (ngày7/5/1996). + Chỉ thị số 658/TTg ngày 20/8/1997 của Thủ tướng Chính ph về thúc đẩy triển khai vững chắc cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. + Nghị định số 44/CP của Chính phủ ngày 29/6/1998 về "chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành Công ty cổ phần". + Nghị định số 64/CP của Chính phủ ngày 19/9/2002 và các văn bản hướng dẫn về chuyển các DNNN thành Công ty cổ phần. 2. Thực trạng cổ phần hoá DNNN từ năm 1992 đến nay. 2.1. Đánh giá các giai đoạn phát triển cổ phần hoá DNNN. * Giai đoạn thí điểm (Từ 1992 - 1996). Từ năm 1992 chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ, có quyết định số 202/CT về làm thí điểm chuyển một số doanh nghiệp Nhà nước thành Công ty cổ phần. Căn cứ vào số lượng doanh nghiệp Nhà nước đăng ký cổ phần hoá, Chính phủ đã chọn 7 doanh nghiệp để chỉ đạo thí điểm chuyển thành công ty cổ phần, đó là : 1. Nhà máy xà phòng Việt Nam ( thuộc Bộ Công nghiệp). 2. Nhà máy diêm thống nhất ( Thuộc Bộ Công nghiệp). 3. Xí nghiệp nguyên vật liệu chế biến thức ăn gia súc Hà Nội (Thuộc Bộ Công nghiệp). 4.Xí nghiệp chế biến gỗ lạng Long Bình ( Bộ Công nghiệp). 5. Công ty vật tư tổng hợp Hải Hưng ( Bộ Thương Mại). 6. Xí nghiệp sản xuất bao bì Hà Nội ( Thành phố Hà Nội). 7. Xí nghiệp dệt may Legamex ( Thành phố Hà Nội). Sau một thời gian tiến hành làm thử, các doanh nghiệp Nhà nước được chọn lựa thí điểm đều xin rút hoặc không đủ điều kiện để tiến hành cổ phần hoá. Tiếp đến ngày 4/3/1993 Thủ tướng Chính phủ ra chỉ thị số 84/TTg về việc tiếp xúc tiến thực hiện thí điểm cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước và các giải pháp đa dạng hoá hình thức sở hữu đối với các doanh nghiệp Nhà nước. Sau đó có hơn 3 0 doanh nghiệp đã đăng ký để thí điểm. Thực hiện cổ phần hoá và 3 doanh nghiệp xin chuyển thành công ty trách nhiệm hữu hạn theo chỉ thị số 84/TTg. Qua 4 năm thực hiện quyết định 202/TCT(1992 -1996) và chỉ thị số 84/TTg trong toàn quốc có 5 doanh nghiệp Nhà nước đã chuyển sang Công ty cổ phần, gồm : 1. Công ty cổ phần Đại lý liên hiệp vận chuyển (Bộ giao thông). 2. Công ty cổ phần cơ điện lạnh ( Thành phố Hồ Chí Minh). 3. Công ty cổ phần giấy Hiệp An ( Bộ Công nghiệp). 4. Công ty cổ phần chế biến hàng xuất khẩu Long An ( Tỉnh Long An). 5. Công ty cổ phần chế biến thức ăn gia súc ( Bộ Công nghiệp). Theo một hướng khác, có 2 doanh nghiệp Nhà nước chuyển thành Công ty trách nhiệm hữu hạn là Công ty dịch vụ Thương Mại tổng hợp Quận Hồng Băng (Hải Phòng) và Công ty gạch bông Đức Tân (Thành Phố Hồ Chí Minh). * Giai đoạn mở (6/1996 - 6/1998). Sau 4 năm thực hiện, Chính phủ các ngành, các địa phương đã đúc rút được một số kinh nghiệm để bổ sung, tổng hợp ghi nhận một số vấn đề vướng mắc nảy sinh mà trước đó chúng ta chưa hình dung được. Ngày 7/5/1996 số nghị định số 28/CP của Chính phủ đã ra đời để đáp ứng kịp thời cho những đòi hỏi của thực tiễn. Thực hiện nghị định 28/CP, công tác cổ phần hoá đã được các Bộ, ngành, các tỉnh quan tâm hơn và đã triển khai một số công việc sau : + Ban chỉ đạo trung ương cổ phần hoá do Bộ trưởng Bộ tài chính làm trưởng ban có các thành viên là các cơ quan lớn như Bộ kế hoạch và đầu tư, Bộ lao động thương binh và xã hội, Ban kinh tế Trung ương Đảng, Ban tổ chức Trung ương Đảng và Tổng liên đoàn lao động Việt Nam. + Có 16 Bộ, ngành, Tổng Công ty Nhà nước thành lập ban chỉ đạo cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. + Có 31 tỉnh đã thành lập ban chỉ đạo cổ phần hoá, các địa phương khác do Ban đổi mới doanh nghiệp kiêm nghiệm hoặc giao cho một tổ chuyên viên giúp việc. Trong quá trình triển khai công việc, một số Bộ và địa phương đã tổ chức hội nghị truyền đạt chủ trương chính sách về cổ phần hoá cho đội ngũ cán bộ chủ chốt như Bộ xây dựng, Bộ Thuỷ sản, Bộ Công nghiệp và phát triển nông thôn, Tỉnh Lâm Đồng, Bình Định, Quảng Ninh.....Tuy nhiên còn nhiều địa phương và ngành chưa chú ý đến công tác tuyên truyền, hướng dẫn giải thích cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá hiểu rõ chủ trương của Đảng và Nhà nước. Như vậy, sau khi có nghị định 28/CP đến cuối năm 1997 chúng ta tiến hành cổ phần hoá được 13 doanh nghiệp, nâng tổng số doanh nghiệp cổ phần lên 18, với tổng số vốn là : 121.384 triệu đồng gồm : + Nếu phần theo ngành : - Ngành giao thông vận tải : 4 doanh nghiệp - Ngành công nghiệp : 7 doanh nghiệp - Ngành xây dựng : 1 doanh nghiệp - Ngành chế biến nông lâm thuỷ sản : 3 doanh nghiệp - Ngành dịch vụ : 3 doanh nghiệp + Nếu phân theo lãnh thổ : - Thành phố Hồ Chí Minh : 10 doanh nghiệp - Thành phố Hà Nội : 1 doanh nghiệp - Thành phố Hải Phòng : 1 doanh nghiệp - Thành Phố Đà Nẵng : 1 doanh nghiệp - Tỉnh Long An : 1 doanh nghiệp - Tỉnh Ninh Bình : 1 doanh nghiệp - Tỉnh Bình Định : 1 doanh nghiệp - Tỉnh Cà Mau : 1 doanh nghiệp - Tỉnh An Giang : 1 doanh nghiệp Trong số 18 doanh nghiệp nói trên có 1 doanh nghiệp Nhà nước bán toàn bộ cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp mà không giữ lại cổ phần nào, số còn lại Nhà nước nắm giữ ít nhất là 18% cao nhất là 5% cổ phần của Công ty (bình quân của 18 doanh nghiệp là 34,2%) còn lại do cán bộ công nhân viên trong Công ty và các thành phần kinh tế khác ngoài xã hội nắm giữ. Trong số 18 doanh nghiệp Nhà nước đã chuyển thành công ty cổ phần có 11 doanh nghiệp hoạt động từ 1 năm trở lên, trong đó có 2 doanh nghiệp trước khi chọn làm thí điểm cổ phần hoá có những điều kiện thuận lợi, hoạt động có lãi cao là Công ty cổ phần cơ điện lạnh, Công ty cổ phần đại lý liên hiệp vận chuyển. Nhiều doanh nghiệp trước khi cổ phần hoá kinh doanh kém hiệu quả, lợi nhuận thấp, vốn giảm dần như xí nghiệp Vifoco, xí nghiệp chế biến hàng xuất khẩu Long An, xí nghiệp sưả chữa và đóng mới tàu thuyền Bình Định....Từ khi chuyển sang hoạt động dưới hình thức Công ty cổ phần thì sản xuất kinh do._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35466.doc
Tài liệu liên quan