Thực trạng & Giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư vào các Khu công nghiệp, Khu chế xuất

Lời mở đầu 1. Sự cần thiết của việc nghiên cứu đề tài đầu tư vào KCN, KCX. Mở rộng hợp tác kinh tế đối ngoại giữ vai trò quan trọng đối với các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng. Hiện nay chúng ta đang thực hiện quá trình CNH- HĐH, các nguồn lực cho sự phát triển là rất hạn chế. Chính vì vậy mở rộng hợp tác với nước ngoài sẽ tạo cho chúng ta có cơ hội thu hú vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên vấn đề đặt ra là cần có môi trường đầu tư hấp dẫn để thu hút các nhà đầu tư.Trong điề

doc54 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1301 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng & Giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư vào các Khu công nghiệp, Khu chế xuất, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u kiện đất nước ta còn khó khăn thì chúng ta không thể cùng một lúc tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi trên toàn quốc, nên việc lập ra các khu có diện tích nhỏ (KCN, KCX) để có điều kiện tốt nhất cho các nhà đầu tư, tạo khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó việc hình thành các KCN, KCX sẽ tạo cho chúng ta phát huy được nội lực, thế mạnh của đất nước một cách tốt nhất.Thực tế việc hình thành và phát triển các KCN, KCX trong thời gian qua đã góp phần rất quan trọng trong quá trình CNH-HĐH của đất nước. Hoạt động của các KCN, KCX ở VN đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của nước ta với tốc độ cao liên tục trong 6 năm liền kể từ khi cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Đông Nam Á. Nhờ đó thu nhập bình quân đầu người tăng lên và đời sống của người dân ngày một nâng cao. KCN, KCX huy động một lượng vốn từ nhiều nguồn để phát triển kinh tế, tạo thêm nhiều việc làm, tạo ra một lực lượng lao động có trình độ tay nghề cao thích ứng với nền công nghiệp hiện đại, một đội ngũ có trình độ quản lý giỏi, tiếp nhận và ứng dụng những thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến, kỹ năng quản lý, năng lực chuyên môn của thế giới vào nền kinh tế trong nước, góp phần đáng kể vào việc tăng giá trị sản xuất công nghiệp, kim ngạch xuất khẩu và ngân sách của nhà nước, kết cấu hạ tầng, nâng cao năng lực quản lý của các cơ quan quản lý Nhà nước về quản lý các KCN, KCX. 2. Mục đích nghiên cứu. Thông qua nghiên cứu đề tài này giúp chúng ta thấy được thực trạng, vai trò của việc đầu tư vào KCN, KCX vào nước ta. Từ những kết quả đã đạt được trên ta thấy được tác động to lớn của việc hình thành các KCN, KCX đối với sự phát triển kinh tế nâng cao đời sống của người dân, cải thiện được cơ sở hạ tầng, giảm được sự chênh lệch về sự phát triển giữa các vùng. Mặt khác chúng ta thấy được những tồn tại trong việc phát triển các KCN, KCX từ đó các cơ quan quản lý Nhà nước đưa ra các giải pháp để nâng cao hiệu quả đầu tư vào các KCN, KCX. 3. Phương pháp nghiên cứu. Trong đề tài này em sử dụng phương pháp nghiên cứu phân tích tổng hợp. Tài liệu mà em sử dụng là các sách báo, tạp chí, các trang web có uy tín được đăng tải trên mạng. 4. Cơ cấu của đề án gồm: Lời mở đầu Nội dung chính gồm: Chương I: Cơ sở khoa học của việc đầu tư vào KCN, KCX. Chương II: Thực trạng của việc đầu tư vào KCN, KCX. Chương III: Giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư vào các KCN, KCX. Kết luận ChươngI: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC ĐẦU TƯ VÀO KHU CÔNG NGHIỆP, KHU CHẾ XUẤT I. Một số khái niệm cơ bản. 1 Khái niệm về đầu tư Đầu tư theo nghĩa chung nhất là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm thu được các kết quả, thực hịên được những mục tiêu nhất định trong tương lai. Đầu tư phát triển là hoạt động trong đó người có tiền bỏ tiền ra tiến hành các hoạt động nhằm tạo ra tài sản mới trong nền kinh tế làm tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh và hoạt động xã hội khác, là điều kiện chủ yếu để tạo việc làm để nâng cao đời sống của mọi người dân trong xã hội. Cụ thể đó là việc bỏ tiền ra để xây dựng mới và sửa chữa nhà cửa và các kết cấu hạ tầng để mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trong nền bệ, để thực hiện cáMc chi phí thường xuyên gắn liền với sự hoạt động của tài sản này nhằm hai mục đích sau đây: nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại, để tạo ra các tiềm lực mới cho nền kinh tế cho xã hội. 2. Phân loại hoạt động đầu tư. Trong công tác quản lý và kế hoạch hóa hoạt động đầu tư các nhà kinh tế phân loại hoạt động đầu tư theo các tiêu thức khác nhau. Mỗi tiêu thức phân loại đáp ứng nhu cầu quản lý và nghiên cứu kinh tế khác nhau. Những tiêu thức phân loại đầu tư thường được sử dụng là: 2.1 Theo bản chất của các đối tượng đầu tư hoạt động đầu tư bao gồm đầu tư cho đối tượng vật chất (đầu tư vào các tài sản vật chất như tài sản thực như nhà xưởng máy móc, thiết bị…) cho các đối tượng tài chính (đầu tư vào các tài sản tài chính như cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoác khác…) và đầu tư cho các đối tượng phi vật chất (đầu tư cho các tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực như đào tạo, nghiên cứu khoa học, y tế…). Trong các loại đầu tư trên đây đầu tư cho đối tượng vật chất là điều kiện tiên quyết, cơ bản làm tăng tiềm lực của nền kinh tế, đầu tư tài chính là điều kiện quan trọng để thu hút mọi nguồn vốn từ mọi tầng lớp dân cư cho đầu tư các đối tượng vật chất, còn đầu tư cho tài sản trí tuệ và các nguồn nhân lực là điều kiện tất yếu để đầu tư cho các đối tượng vật chất tiến hành thuận lợi và đạt hiệu quả kinh tế xã hội cao. 2.2 Theo cơ cấu tái sản xuất. Có thể chia phân loại hoạt động đầu tư thành đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu. Trong đó đầu tư theo chiều rộng cần vốn lớn để khê đọng lâu, thời gian thực hiện đầu tư và thời gian để thu hồi đủ vốn lâu, tính chất kỹ thuật phức tạp và độ mạo hiểm cao. Còn đầu tư theo chiều sâu đòi hỏi vốn ít hơn, thời gian thực hiện đầu tư thấp hơn so với đầu tư theo chiều rộng. 2.3 Theo phân cấp quản lý. Điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng ban hành theo Nghị định 12/CP ngày 5 tháng 5 năm 2000 phân thành 3 nhóm A, B và C tùy theo tính chất và quy mô của dự án, trong đó nhóm A do Thủ tưóng Chính phủ quyết định, nhóm B và C do Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan trực thuộc chính phủ, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định. 2.4. Theo lĩnh vực hoạt động trong xã hội của các kết quả đầu tư. Có thể phân chia các hoạt động đầu tư thành đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng (kỹ thuật và xã hội)… Các hoạt động đầu tư này có quan hệ tương hỗ với nhau. Chẳng hạn đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật và cơ sở hạ tầng tạo điều kiện cho đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao; còn đầu tư phát triếnản xuất kinh doanh đến lượt mình lại tạo tiềm lực cho đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật, cơ sở hạ tầng và các hoạt động đầu tư khác. 2.5. Theo đặc điểm hoạt động của các kết quả đầu tư. Các hoạt động đầu tư được phân chia thành: - Đầu tư cơ bản nhằm tái sản xuất các tài sản cố định; - Đầu tư vận hành nhằm tạo ra các tài sản lưu động cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ mới hình thành, tăng thêm tài sản lưu động cho các cơ sở hiện có, duy trì sự hoạt động của cơ sở vật chất - kỹ thuật không thuộc các doanh nghiệp. Đầu tư cơ bản quyết định đầu tư vận hành, đầu tư vận hành tạo điều kiện cho các kết quả của đầu tư cơ bản phát huy tác dụng. Không có đầu tư vận hành thì kết quả của đầu tư cơ bản không hoạt động được, ngược lại không có đầu tư cơ bản thì đầu tư vận hành chẳng để làm gì. Đầu tư cơ bản thuộc loại đầu tư dài hạn, đặc diểm kỹ thuật của quá trình thực hiện đầu tư để tái sản xuất mở rộng các tài sản cố định là phức tạp, đòi hỏi số vốn lớn, thu hồi lâu (nếu có thể thu hồi). Đầu tư vận hành chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng vốn đầu, đặc điểm kỹ thuật của qúa trình thực hiện đầu tư không phức tạp. Đầu tư vận hành cho các cơ sở sản xuất kinh doanh có thẻ thu hồi nhanh sau khi đua ra các kết quả đầu tư nói chung vào hoạt động. 2.6. Theo giai đoạn hoạt động của các kết quả đầu tư trong quá trình tái sản xuất xã hội. Có thể phân hoạt động đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh thành đầu tư thương mại và đầu tư sản xuất. Đầu tư thương mại là hoạt động đầu tư mà thời gian thực hiện đầu tư và hoạt động của các kết quả đầu tư để thu hồi đủ vốn đầu tư ngắn, vốn vận động nhanh, độ mạo hiểm thấp do trong thời gian ngắn tính bất định không cao, lại dễ dự đoán và dự đoán dễ đạt độ chính xác cao. Đầu tư sản xuất là loại đầu tư dài hạn (5; 10; 20 năm hoặc lâu hơn), vốn đầu tư lớn, thu hồi chậm, thời gian thực hiện đầu tư lâu, độ mạo hiểm cao, vì tính kỹ thuật của hoạt động đầu tư phức tạp, phải chịu tác động của nhiều yếu tố bất định trong tương lai không thể dự đoán hết và dự đoán chính xác được (về nhu cầu, giá cả đầu vào và đầu ra, cơ chế chính sách, tốc độ phát triển khoa học kỹ thuật, thien tai, sự ổn định chính trị…). Loại đầu tư này phải được chuẩn bị kỹ, phải cố gắng dự đoán những gì có liên quan đến kết quả và hiệu quả của hoạt động đầu tư trong tương lai xa; xem xét các biện pháp xử lý khi các yếu tố bất định xảy ra để đảm bảo thu hồi đủ vốn và có lãi khi hoạt động đầu tư kết thúc, khi các kết quả đầu tư đã hoạt động hết đời của mình. Trong thực tế, người có tiền thích đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh thương mại. Tuy nhiên, trên giác độ xã hội, loại hoạt động đầu tư này không tạo ra của cải vật chất cụ thể một cách trực tiếp, những giá trị gia tăng do hoạt động đầu tư đem lại chỉ là sự phân phối lại thu nhập giữa các ngành, các địa phương, các tầng lớp dân cư trong xã hội. Do đó, trên giác độ điều tiết vĩ mô, nhà nước thông qua các cơ chế chính sách của mình làm sao để hướng được các nhà đầu tư không chỉ đầu tư vào lĩnh vực thương mại mà cả vào lĩnh vực sản xuất, theo các định hướng và mục tiêu đã dự kiến trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong cả nước. 2.7. Theo thời gian thực hiện và phát huy tác dụng để thu hồi đủ vốn đã bỏ ra của các kết quả đầu tư. Có thể phân chia hoạt động đầu tư thành đầu tư ngắn hạn (như đầu tư thương mại) và đầu tư dài hạn (các lĩnh vực đầu tư sản xuất, đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật, xây dựng cơ sở hạ tầng…). 2.8. Theo quan hệ quản lý của chủ đầu tư. Hoạt động đầu tư có thể phân chia thành đầu tư gián tiếp và đầu tư trực tiếp. - Đầu tư gián tiếp: Trong đó ngườibỏ vốn không trực tiếp tham gia điều hành các kết quả đầu tư. Đó là việc các chính phủ thông qua các chương trình tài trợ không hoàn lại hoặc có hoàn lại với lãi suất thấp cho các chính phủ của các nước khác vay để phát triển kinh tế xã hội; là việc các cá nhân, các tổ chức mua các chứng chỉ có giá như cổ phiếu, trái phiếu… để hưởng lợi tức (gọi là đầu tư tài chính). - Đầu tư trực tiếp: Trong đó người bỏ vốn trực tiếp tham gia quản lý, điều hành quá trình thực hiện và vận hành kết quả đầu tư. Đầu tư trực tiếp lại được phân thành hai loại: Đầu tư dịch chuyển và đầu tư phát triển. Đầu tư dịch chuyển là loại đầu tư trong đó người có tiền mua lại một số cổ phần đủ lớn để nắm quyền chi phối hoạt động của doanh nghiệp. Trong trường hợp này, việc đầu tư không làm gia tăng tài sản của doanh nghiệp, mà chỉ thay đổi quyền sở hữu các cổ phần của doanh nghiệp. Đầu tư phát triển là loại bỏ vốn đầu tư để tạo nên những năng lực sản xuất phục vụ mới (về cả lượng và chất). Đầy là loại đầu tư để tái sản xuất mở rộng, là biện pháp chủ yếu để cung cấp việc làm cho người lao động, là tiền đề để thực hiện đầu tư tài chính và đầu tư chuyển dịch. Chính sự điều tiết của bản thân thị trường và các chính sách khuyến khích đầu tư của nhà nước sẽ hướng việc sử dụng vốn của các nhà đầu tư theo định hướng của nhà nước, từ đó tạo nên được một cơ cấu đầu tư phục vụ cho việc hình thành một cơ cấu kinh tế hợp lý, có nghĩa là người có vốn sẽ không chỉ đầu tư cho lĩnh vực thương mại mà cả cho lĩnh vực sản xuất, không chỉ đầu tư tài chính, đầu tư chuyển dịch mà cả đầu tư phát triển. 2.9. Theo nguồn vốn. - Vốn huy động trong nước (vốn tích lũy của ngân sách, của doanh nghiệp, tiền tiết kiệm của dân cư). - Vốn huy động từ nước ngoài (vốn đầu tư gián tiếp, vốn đầu tư trực tiếp). Phân loại này cho thấy tình hình huy động vốn từ mỗi nguồn và vai trò của mỗi nguồn vốn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của từng ngành, từng địa phương và toàn bộ nền kinh tế. 2.10. Theo vung lãnh thổ (theo tỉnh và theo vùng kinh tế của đất nước). Cách phân loại này phản ánh tình hình đầu tư của từng tỉnh, từng vùng kinh tế và ảnh hưởng của đầu tư đối với tình hình phát triển kinh tế - xã hội ở từng địa phương. Ngoài ra, trong thực tế, để đáp ứng yêu cầu quản lý và nghiên cứu kinh tế người ta còn phân chia đầu tư theo quan hệ sở hữu, theo quy mô và theo các tiêu thức khác nữa. 3 Khái niệm khu chế xuất. Trên thực tế có rất nhiều khái niệm khác nhau về khu chế xuất, theo ý kiến của nhiều chuyên gia kinh tế, khu chế xuất ngày nay là sự phát triển, hoàn thiện của các cảng tự do và khu vực mậu dịch tự do. Theo khái niệm của tổ chức phát triển của Liên hiệp quốc, khu chế xuất là một khu vực tương đối nhỏ, có phân cách về địa lý trong một quốc gia nhằm thu hút các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hướng về xuất khẩu bằng cách cung cấp cho các doanh nghiệp đó những điều kiện về đầu tư và mậu dịch thuận lợi đặc biệt so với các doanh nghiệp trong nước. Đặc biệt, khu chế xuất cho phép các doanh nghiệp nhập khẩu hàng hóa dùng cho sản xuất hàng xuất khẩu miễn thuế dựa trên kho quá cảnh. Theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, khu chế xuất được hiểu là”khu công nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và cho các hoạt động xuất khẩu, trong đó bao gồm một hoặc nhiều doanh nghiệp hoạt động, có ranh giới về mặt địa lý xác định, do chính phủ quyết định thành lập. 3.1 Đặc điểm của khu chế xuất - Đó là một khu vực lãnh thổ của một nước, được quy hoạch độc lập, thường được ngăn cách bằng tường rào kiên cố để hoạt động cách biệt với phần nội địa. - Mục đích hoạt động của khu chế xuất là thu hút các nhà sản xuất công nghiệp nước ngoài và trong nước hướng vào xuất khẩu thông qua những biện pháp đặc biệt như ưu đãi về thuế quan, về các điều kiện mậu dịch và các loại thuế khác. - Hàng hóa, tư liệu sản xuất- nhập khẩu của khu chế xuất được miễn thuế quan. 3.2 Vai trò của khu chế xuất đối với sự phát triển kinh tế. Việc xây dựng và đưa các khu chế xuất vào hoạt động nhằm đạt được những mục tiêu sau: - Tăng khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài. - Tiếp nhận khoa học công nghệ và kinh nghiệm, tác phong làm việc tiên tiến của chủ đầu tư nước ngoài. - Tạo việc làm, tăng thu nhập, đồng thời nâng cao chất lượng làm việc của lao động tại nước sở tại. - Tăng thu ngoại tệ thông qua việc thu tiền các dịch vụ điện nước, thông tin, thuê mặt bằng… - Thúc đẩy sự phát triển kinh tế và cải thiện cảnh quan của một số vùng lãnh thổ quốc gia. 4. Khái niệm khu công nghiệp Khu công nghiệp tập trung là một khu vực được xây dựng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ tiến hành các họat động sản xuất kinh doanh, trong đó có sẵn các nhà máy và các dịch vụ tiện nghi cho con người sinh sống. Mục tiêu xây dựng các khu công nghiệp tập trung của nước sở tại được thể hiện một số điểm sau: - Thu hút đầu tư trên quy mô lớn và phát triển kinh tế. - Thúc đẩy xuất khẩu. - Tạo việc làm. - Tiếp nhận công nghệ, kinh nghiệm tác phong làm việc tiên tiến. - Phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ. - Phát triển cơ sở hạ tầng. - Cân đối sự phát triển giữa các vùng. - Kiểm soát sự ô nhiễm môi trường. 4.1 Đặc điểm của khu công nghiệp tập trung. - Về mặt pháp lý, khu công nghiệp tập trung là một phần lãnh thổ của nước sở tại, các doanh nghiệp họat động trong khu công nghiệp tập trung chịu sự điều chỉnh của pháp luật nước sở tại. Ví dụ các doanh nghiệp hoạt động trong các khu công nghiệp tập trung Việt Nam chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam, trong đó bao gồm: Quy chế về khu công nghiệp và khu chế xuất , Luật đầu tư nước ngoài, Luật khuyến khích đầu tư trong nước, Luật lao động… - Về mặt kinh tế, khu công nghiệp tập trung là nơi tập trung nguồn lực để phát triển công nghiệp, cụ thể là: + Huy động được các nguồn lực của nước sở tại, cuả nhà đầu tư nước ngoài đóng góp vào việc phát triển các cơ cấu vùng và các ngành công nghiệp ưu tiên theo mục tiêu của nước sở tại. + Việc phát triển kinh tế của khu công nghiệp tập trung thuận lợi hơn so với các khu khác của đất nước. - Về tính chất hoạt động. + Là nơi tập trung các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp và các doanh nghiệp cung cấp các dịch vụ mà không có dân cư (gọi chung là doanh nghiệp khu công nghiệp). Khu công nghiệp là nơi xây dựng để thu hút các đơn vị sản xuất sản xuất sản phẩm công nghiệp hoặc các đơn vị kinh doanh dịch vụ gắn liền với sản xuất công nghiệp. Theo điênù 6 Quy chế KCN, KCX, khu công nghệ cao ban hành kèm theo Nghị định 36/CP thì doanh nghiệp khu công nghiệp có thể là các doanh nghiệp Việt Nam thuộc mọi thành phần kinh tế, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoặc các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh. Các doanh nghiệp này được kinh doanh trong các lĩnh vực chủ yếu sau: Xây dựng và kinh doanh các công trình kết cấu hạ tầng. Sản xuất, gia công, lắp ráp các sản phẩm công nghiệp để xuất khẩu và tiêu dùng trong nước, phát triển và kinh doanh bằng sáng chế, bí quyết kỹ thuật, quy trình công nghệ. Nghiên cứu triển khai công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm và tạo ra sản phẩm mới. Dịch vụ hỗ trợ sản xuất công nghiệp. - Về cơ sở hạ tâng kỹ thuật. Các khu công nghiệp đều xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh như đường xá, điện nước, điện thoại…Thông thường việc phát triển cơ sở hạ tầng trong khu công nghiệp do một công ty xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng đảm nhiệm. Ở Việt Nam những công ty này là các doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp có 100% vốn đầu tư nước ngoài hoặc doanh nghiệp trong nước thực hiện. Các công ty phát triển cơ sở hạ tầng khu công nghiệp sẽ xây dựng các kết cấu hạ tầng sau đó được phép cho các doanh nghiệp khác thuê lại. - Về tổ chức quản lý. Trong thực tế mỗi khu công nghiệp đều thành lập hệ thống ban quản lý khu công nghiệp cấp tỉnh tại các tỉnh, thành phố trực tiếp để thực hiện các chức năng quản lý Nhà nước đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh trong khu công nghiệp. Ngoài ra tại các khu công nghiệp còn có nhiều bộ như: Bộ kế hoạch đầu tư, Bộ Thương mại, Bộ Xây dựng… 4.2 Vai trò của khu công nghiệp đối với sự phát triển kinh tế. 4.2.1 Tăng cường khả năng thu hút đầu tư, góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế: Hầu hết các nước đang ở thời kỳ đầu trong công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước đều phải gặp một bài toán nan giải là tình trạng thiếu vốn. Thông qua những ưu đãi đặc biệt so với sản xuất trong nước các khu công nghiệp có được môi trường đầu tư hấp dẫn, vì vậy nó có khă năng thu hút được nhiều vốn đầu tư đặc biệt là vốn FDI. Khu công nghiệp đã đóng góp đáng kể trong việc thu hút FDI. Chẳng hạn như Đài Loan và Malaxia, trong những năm đầu phát triển, khu công nghiệp đã thu hút được 60% số vốn FDI. Đồng thời, các doanh nghiệp hoạt động trong các khu công nghiệp phần lớn là các đơn vị có tiềm năng. Do đó hoạt động có hiệu quả góp phần vào các mục tiêu phát triển của đất nước. Trong đó đáng kể nhất là việc góp phần đẩy mạnh xuất khẩu, tăng thu ngoại tệ do việc phát triển sản xuất hàng xuất khẩu thay thế hàng nhập khẩu. Ỏ một số nước, khu công nghiệp đã góp phần đáng kể cho việc đâỷ mạnh xuất khẩu. Ví dụ như Malaxia, hiện nay giá trị xuất khẩu của các khu công nghiệp chiếm 30% trong tổng giá trị xuất khẩu của các sản phẩm chế biến, ở Mêhicô là 50%. 4.2.2 Tạo ra mối liên kết giữa các ngành nghề. Hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong khu công nghiệp đòi hỏi những nguồn cung cấp thường xuyên nguyên vật liệu và dịch vụ đầu vào, điều này tạo ra mối liên hệ giữa các doanh nghiệpkcn và các doanh nghiệp kinh doanh khác. Việc đáp ứng các nguyên vật liệu và dịch vụ đầu vào với chất lượng cao và thường xuyên sẽ là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp ngoài khu công nghiệp. Tại một số nứơc tỷ lệ cung cấp một số đầu vào khá cao, như Hàn Quốc tỷ lệ sử dụng nguyên vật liệu trong nước tăng từ 3% năm 1971 lên 34% năm 1979 và duy trì tỷ lệ này từ đó đến nay. 4.2.3 khu công nghiệp là cơ sỏ tiếp cận với kỹ thuật và công nghệ hiện đại, học hỏi phương thức quản lý mới, nâng cao trình độ của người lao động. Các khu công nghiệp khi thành lập đều đặt ra mục tiêu tiếp cận các công nghiệp hiện đại. Theo một nhà kinh tế phương tây nhận định: việc thành lập các khu công nghiệp còn có ý nghĩa hơn là một sự thay đổi chính sách, bởi sự thay đổi chính sách từ bóp nghẹt sang cởi mở thông thoáng chỉ có ý nghĩa tối đa khi chuyển từ nền kinh tế chỉ huy sang nền kinh tế thị trường. Còn sự thực khi nền kinh tế đã hạn chế bớt đi các trói buộc phong kiến, hành chính thì điều có ý nghĩa hơn là một lại là một chính sách kỹ thuật và công nghệ khả dĩ đủ hấp dẫn để thu hút được các kỹ thuật và công nghệ mới của nước ngoài vào sự tái thiết nền kinh tế nội địa. Bên cạnh đó các doanh nghiệp còn chú trọng vào công tác đào tạo cán bộ, công nhân cho phù hợp với trình độ của máy móc cũng như phương thức kinh doanh mới. Do vậy, trình độ của người lao động sẽ được nâng lên phù hợp với tác phong lao động công nghiệp. 4.2.4. khu công nghiệp tạo thêm việc làm cho người lao động. Hầu hết các nước đang phát triển trong quá trình phát triển kinh tế đều gặp phải tình huống khó xử: nếu theo đuổi mục tiêu toàn dụng nhân lực thì khó thực hiện mục tiêu chống lạm phát, đồng thời ước muốn nền sản xuất xã hội đạt hiệu quả cao bằng cách du nhập các công nghệ tinh vi tức là ít sử dụng lao động sống thì sẽ làm gia tăng nạn thất nghiệp. Tuy chưa phải là giải pháp lý tưởng nhưng việc thiết lập các khu công nghiệp là một cơ hội quan trọng để giải quyết mâu thuẫn này. Theo ngân hàng thế giới châu Á là nơi tạo ra nhiều việc làm nhất. 5 Phân biệt khu công nghiệp và khu chế xuất. 5.1 Về hàng hoá sản xuất: khu công nghiệp tập trung sản xuất các hàng công nghiệp có thể phục vụ xuất khẩu, có thể phục vụ nhu cầu sử dụng trong nứơc, còn khu chế xuất sản xuất các hàng hoá chủ yếu phục vụ mục đích xuất khẩu. 5.2 Về các khuyến khích tài chính: Tuỳ thuộc vào từng thời kỳ, mức độ ưu tiên cho từng khu , chính phủ nứơc sở tại ban hành các ưu đãi cụ thể khác nhau( dựa trên cơ sở khung ưu đãi đã công bố cho các nhà đầu tư) cho các khu công nghiệp tập trung và khu chế xuất. Trong đó thường bao gồm các ưu đãi về thuế thu nhập công ty, thuế xuất- nhập khẩu, chế độ hoàn thuế, thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài… 5.3 Về mức độ ảnh hưởng đến nền kinh tế nứơc sở tại: Kinh nghiệm phát triển của các nước trong khu vực và trên thế giới cho thấy, nhìn chung khu công nghiệp tập trung tạo ra mối liên kết với nền kinh tế nước sở tại tốt hơn các khu chế xuất thông qua tạo lập việc làm và thu mua nguyên vật liệu từ các nhà cung cấp địa phương. Các khu chế xuất thường tìm nguồn nguyên vật liệu trong nội bộ công ty nên chúng chủ yếu mua nguyên vật liệu từ nước ngoài, do đó ít mua mua nguyên liệu từ nguồn địa phương hơn các khu công nghiệp tập trung. 5.4 Về việc phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước sở tại Theo nghiên cứu của ngân hàng thế giới, các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đặc biệt ở các nước đang phát triển như Việt Nam, thường cũng gặp khó khăn trong tương tự như các nhà đầu tư nước ngoài về thủ tục hành chính và thủ tục được hưởng ưu đãi vê đầu tư. Do vậy, việc xây dựng các khu công nghiệp tập trung sẽ giúp các doanh nghiệp này tận dụng được các ưu đãi đầu tư để trước hết tập trung vào phát triển thị trường trong nước, sau đó là xuất khẩu và đầu tư ra nước ngoài khi đã đủ lực, còn các khu chế xuất đôi hỏi các doanh nghiệp phải thoả mãn yêu cầu về tỷ lệ xuất khảu cao ngay từ khi mới tham gia. 5.5 Về xây dựng các khu chế xuất và khu công nghiệp tập trung: do sự định hướng phát triển sản xuất hàng hoá ở các khu này khác nhau nên việc lựa chọn địa điểm của chúng cũng khác nhau. Các khu chế xuất yêu cầu có vị trí thuận lợi để thực hiện hoạt động xuất khẩu( ở gần hoặc có điều kiện giao thông thuận tiện đến các cảng, bến bãi, hệ thống kho tập kết hàng…). Các khu công nghiệp tập trung lại yêu cầu vị trí đảm bảo có hệ thống giao thông thuận tiện cả tới các địa điểm tiêu thụ nội địa. 5.6 Về tính thời gian của khu chế xuất và khu công nghiệp tập trung : Theo đánh giá của ngân hàng thế giới qua xem xét các trường hợp cùa Đài Loan, Malaxia, các khu chế xuất chỉ đóng góp động lực ban đầu cho phát triển các hàng hoá chế biến xuất khẩu của nước sở tại(có hiệu quả trong ngắn hạn). Khi nền kinh tế phát triển, tỷ trọng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các khu chế xuất giảm dần và đóng góp của chúng với nền kinh tế có xu hướng giảm. Trong khi đó, khả năng đóng góp của các khu công nghiệp tập trung đối với nền kinh tế nước sở tại mang tính lâu dài hơn vì chúng phát huy tốt các nguồn lực trong và ngoài nước, tận dụng cả sức tiêu thụ của thị trường nội địa và thị trường xuất khẩu. II. Tính tất yếu khách quan của việc hình thành khu công nghiệp tập trung và khu chế xuất ở Việt Nam. Khu công nghiệp tập trung và khu chế xuất là mô hình kinh tế đã được áp dụmg phổ biến trên thế giới. Các nước phát triển ở Châu Âu và Bắc Mỹ đã có một thời kỳ đẩy mạnh phát triển các khu công nghiệp và khu chế xuất và rất chú trọng vai trò của nó trong phát triển kinh tế . Kinh nghiệm triền khai mô hình khu công nghiệp và khu chế xuất ỏ các nứơc này cho thấy, phát triển các khu công nghiệp và khu chế xuất là một giải pháp tối ưu để chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đảy sự phát triển công nghiệp quốc gia. Có thể nói, thành công của các khu công nghiệp , khu chế xuất đã góp phần không nhỏ để các nước này trở thành các nứơc có nền kinh tế phát triển như hiện nay. Các nước công nghiệp mói(NICS) như Trung Quốc Hàn Quốc, cũng như các nước đang phát triển ở Đông Nam Á hiện nay cũng đang triển khai việc xây dựng các khu công nghiệp và khu chế xuất đều gặt hái được những thành công đáng kể. Mở rộng và hợp tác kinh tế đối ngoại giữ vai trò quan trọng đối với các nứơc đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng. Hiện nay chúng ta đang ở trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, các nguồn lực cần thiét cho đầu tư phát triển là rất hạn chế. Chính vì vậy mở rộng hợp tác vơi nước ngoài tạo cơ hội cho chúng ta thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên vấn đề đặt ra đối với các nhà đầu tư nước ngoài là cần có môi trường đẩu tư hấp dẫn để tạo động lực thu hút các nhà đầu tư. Trong điều kiện đất nước còn nhiều khó khăn thì chúng ta không thể cùng một lúc tạo ra môi trường thuận lợi ở trên toàn quốc, nên việc tạo ra các khu vực có diện tích nhỏ(KCN, KCX) để có điều kiện tập trung tạo điều kiện tốt nhất cho các nhà đầu tư, tạo khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó việc hình thành các KCN, KCX cũng là cơ hội dể phát huy cao nhất sức mạnh nội lực của đất nước trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Thực tế tronh những năm gần qua cho chúng ta thấy vai trò quan trọng trong vịêc phát huy nội lực và tận dụng hiệu quả nguồn lực bên ngoài phục vụ cho sự phát triển nền kinh tế. Vì vậy, sự ra đời của các khu công nghiệp và khu chế xuất là một bước đi đúng đắn của chúng ta trên con đường xây dựng và phát triển kinh tế của đất nước. III. Nguyên tắc phân bổ khu công nghiệp và khu chế xuất tại Việt Nam. 1. Có khả năng tạo ra kết cấu hạ tầng, thuận lợi về giao thông vận tải, cung cấp điện, cung cấp nước và thải nước. Xử lý môi trường đảm bảo có hiệu quả và phát triển bền vững lâu dài, có đủ dư địa để mở rộng và phù hợp với những tiến bộ khoa học và công nghệ của nền văn minh công nghiệp và hậu công nghiệp thế giới. 2. Có khả năng cung cấp nguyên liệu tương đối thuận tiện, hoặc tốt hơn là trực tiếp với nguồn nguyên liệu. Đôi khi do cự ly vận tải và yêu cầu bảo quản nguyên liệu, quy mô xí nghiệp công nghiệp phải thích hợp để đảm bảo hiệu quả. 3. Có nguồn lao động cả về số lượng và chất lượng đáp ứng được yêu cầu sản xuất với chi phí tiền lương thích hợp. 4. Có khả năng giải quyết thị trường tiêu thụ cả về nội tiêu và ngoại tiêu. 5. Tiết kiệm tối đa đất nông nghiệp đặc bịêt là trồng trọt trong việc sử dụng đất để xây dựng khu công nghiệp. 6. Chú ý kết hợp với yêu cầu bảo vệ an ninh quốc phòng trong những điều kiện cụ thể ở từng khu vực và từng giai đoạn. Theo các chuyên gia Nhật, chìa khóa cho sự thành công của các khu công nghiệp và khu chế xuất là vị trí, dịch vụ hạ tầng và năng lực quản lý. Chương II: Thực trạng của việc đầu tư vào KCN, KCX của Việt Nam. I. Tình hình hoạt động của KCN, KCX trong 15 năm qua. Tân Thuận( Thành Phố Hồ Chí Minh) là khu chế xuất ra đời đầu tiên ở nước ta vào ngày 24/9/1991. Đây là khu chế xuất do Đài Loan và Việt Nam đầu tư liên doanh xây dựng kết cấu hạ tầng. Sau đó khoảng 1 năm (1992) khu chế xuất thứ 2 ra đời đó là khu chế xuất Linh Trungcũng ở Thành phố Hồ Chí Minh do Việt Nam và Trung Quốc liên doanh xây dựng kết cấu hạ tầng.Đến nay sau 15 năm phát triển, tính đến cuối năm 2005 cả nước đã có 131 KCN, KCX được thủ tướng chính phủ ra quyết định thành lập phân bổ khắp 47 tỉnh thành với tổng diện tích đất tự nhiên gần 27.000 ha trong đó đất công nghiệp có thể cho thuê là 18.000 ha. Tất cả các vùng kinh tế nước ta đều có khu công nghiệp.Điều đó được thể hiện ở bảng sau: Bảng phân bố các khu công nghiệp tại các vùng trong cả nước tính đến cuối năm 2005 Vùng Số khu công nghiệp Diện tích Đông Bắc Bắc Bộ 6 867 Đồng bằng sông Hồng 26 4.515 Duyên hải Nam Trung Bộ 12 2.596 Tây Nguyên 4 463 Đông Nam Bộ 58 14.694 Đồng bằng sông Cửu Long 17 3.060 Bắc Trung Bộ 8 791 Cả nước 131 26.986 Nguồn (Vụ Quản lý KCN, KCX - Bộ kế hoạch và Đầu tư ) Ngoài ra chúng ta còn có cả các khu kinh tế mở, khu công nghệ cao, khu kinh tế chuyên ngành. Bảng phân bố các dự án đầu có vốn đầu tư nước ngoài từ 1991đến 2005 Giai đoạn Dự án Tổng vốn(đơn vị triệu USD) 1991-1995 155 1.55 1996-2000 588 7.213 2001-2005 1377 8.08 Nguồn Báo cáo Bộ kế hoạch đầu tư tháng 7/2006 Trong kế hoạch 5 năm 1991-1995 cả nước chỉ có giấy phép xây dựng KCN, KCX trong đó có một khu công nghiệp đến nay vẫn đang trong thời kỳ xây dựng cơ bản đó là khu công nghiệp Đài Tư Hà Nội do phía Đài Loan làm chủ đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng. Trong kế hoạch 5 năm tiếp theo (1996-2000) tốc độ cấp giấy phép KCN, KCX tăng lên đột biến đạt 53 giấy phép, trong đó hiện vẫn còn 7 KCN, KCX đang trong thời kỳ xây dựng cơ bản. Trong kế hoạch 5 năm vừa qua (2001-2005) số lượng các giấy phép có tăng nhưng không nhiều chỉ đạt 57 giấy phép trong đócó 45 KCN, KCX đang trong thời kỳ xây dựng cơ bản. Nhìn vào số lượng các KCN, KCX đã được cấp giấy phép cho thấy các giấy phép chủ yếu tăng lên vào giữa kế hoạch 5 năm, nhất là 5 năm thứ 2 và thứ 3 của kế hoạch 5 năm và giảm đi đáng kể trong 2-3 năm cuối kỳ kế hoạch. Đáng chú ý là trong số các KCN, KCX đã đi vào hoạt động thì có 10 KCN, KCX xin cấp giấy phép lần 2 và lần 3 để phát triển, mở rộng bổ sung thêm vốn đầu tư theo từng giai đoạn I và II của quy hoạch. Điều đó cho thấy số KCN, KCX ._.này có chiều hướng phát triển khá về mặt thu hút các doanh nghiệp vào đầu tư sản suất kinh doanh. Chỉ có 1 khu công nghiệp Đinh Trám ở Bắc Giang là đang trong quá trình xây dựng cơ bản đã tiếp tục xin cấp giấy phép mở rộng giai đoạn II chỉ trong vòng 2 năm(2003-2005). Cùng với sự tăng lên nhanh chóng về mặt số lượng thì quy mô vốn đầu tư vào các KCN, KCX đang có chiều hướng giảm dần. Điều đó được thể hiện ở bảng sau: Bảng thể hiện quy mô vốn đầu tư của 1dự án đầu tư qua các năm Năm Quy mô vốn đầu tư trung bình của 1 dự án(triệu USD) 1997 23 1998 21 1999 3.8 2000 3 2001 4.3 2002 3.9 2003 3.4 2004 4 Nguồn: Bộ kế hoạch đầu tư ( Tính đến cuối năm 2005 các KCN, KCX đã thu hút được 2120 dự án đầu tư còn hiệu lực với tổng số vốn đầu tư đăng ký 16.843 tỷ USD và 2367 dự án trong nước còn hiệu lực tổng vốn đầu tư hơn 113 nghìn tỷ đồng, đã có 79 KCN, KCX hoàn thành xây dựng cơ bản với tổng vốn hơn 760 triệu USD và 20.000 tỷ đồng Việt Nam, vốn thực hiện hơn 500 triệu USD và 8000 tỷ đồng. Có thể nói phát triển các KCN, KCX đã có sự tập trung chỉ đạo đặc biệt của chính phủ nhờ đó mà các KCN, KCX đã có sự phát triển tương đối rõ nét.Điều này được thể hiện ở bảng sau: Bảng: Tình hình các khu công nghiệp và khu chế xuất ở Việt Nam tính đến tháng 5 năm 2005 Khu công nghiệp và khu chế xuất đã thành lập và hoạt động Khu công nghiệp và khu chế xuất đã thành lập và đang xây dựng cơ bản Tính chung Số lượng khu công nghiệp và khu chế xuất 79 52 131 Tổng diện tích tự nhiên(ha) 15183 9767 24950 Diện tích đã được cho thuê 10351 6312 16663 Tỷ lệ diện tích đã cho thuê(%) 6364 1069 7433 Vốn đầu tư nước ngoài -Số dự án -Vốn, triệu USD 21648 1418 90 486 1738 14668 Vốn đầu tư trong nước - Số dự án - Vốn (tỷ VND) Lao động Việt Nam (người) 1603 79479 628858 214 9520 44486 1817 88999 673344 Tình hình xây dựng và phát triển các khu công nghiệp 8 tháng năm 2006 Trong 8 tháng đầu năm 2006, các khu công nghiệp đã thu hút được 197 dự án có vốn đầu tư nước ngoài với tổng số vốn đầu tư đăng ký đạt 1.395 triệu USD, chiếm xấp xỉ 40% tổng số vốn đầu tư nước ngoài đăng ký của cả nước và gấp 2 lấn số với cùng kỳ năm ngoái. Trong 8 tháng đầu năm thủ tướng chính phủ đã cho phép thành lập mới 5 khu công nghiệp, đó là khu công nghiệp Yên Phong tỉnh Bắc Ninh(340,7ha); khu công nghiệp Quang Châu, tỉnh Bắc Giang(426ha); khu công nghiệp sông Hậu tỉnh Hậu Giang(126ha); khu công nghiệp Nhơn Trạch II-Lộc Khang, tỉnh Đồng Nai (70ha) và khu công nghiệp Phước Nam, tỉnh Ninh Thuận(369,92ha), đồng thời cho phép mở rộng525,8hA tại 3 khu công nghiệp: khu công nghiệp SaĐéc Đồng Tháp mở rộng 62 ha, khu công nghiệp Đồng Văn Hà Nam mở rộng 263,82 ha và khu công nghiệp Mỹ Xuân B1mở rộng 200 ha. Tổng diện tích các khu công nghiệp thành lập và mở rộng 8 tháng đầu năm đạt 1.858 ha, trong đó đất công nghiệp có thể cho thuê là 1.234 ha. Trong 8 tháng đầu năm 2006 các khu công nghiệp đã thu hút được 197 dự án có tổng vốn đầu tư nước ngoài với tổng số vốn đầu tư đăng ký đạt 1.395 triệu USD, chiếm xấp xỉ 40% tổng số vốn đầu tư nước ngoài đắng ký của cả nước và gấp hơn 2 lần so với cùng kỳ năm ngoái. Đồng Nai vẫn tiếp tục là tỉnh thu hút nhiều vốn đầu tư nước ngoài nhất cả nước với hơn 400 triệu USD trong 8 tháng, kế đó là thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương và Hà Nội. Cả 4 địa phương này trong 8 tháng đầu năm đã thu hút được 146 dự án với tổng vốn thu hút mới là1.071 triệu USD, chiếm hơn 74% số dự án và gần 77% số vốn đầu tư thu hút mới các khu công nghiệp trong cả nước. Về tình hình tăng vốn trong 8 tháng đầu năm 2006, có 120 lượt dự án đầu tư nước ngoài tăng vốn với tổng số vốn đầu tư đăng ký thêm 707 triệu USD, chiếm hơn 70% số tăng thêm của cả nước.Một số dự có số vốn tăng thêm cao điển hình như dự án công ty trách nhiệm hữu hạn Công nghiệp Gốm Bạch Mã (Bình Dương) tăng 150 triệu USD, công ty Giầy Ching Luh(Long An) tăng 98 triệu USD, nhà máy sản xuất máy in Canon ở khu công nghiệp Tiên Sơn, Bắc Ninh tăng 70 triệu USD, công ty Formosa ở khu công nghiệp Nhơn Trạch III, Đồng Nai tăng 66,4 triệu USD. Đồng Nai, Bình Dương, Long An là những tỉnh dẫn đầu cả nước về số vốn đầu tư tăng thêm, trong 8 tháng, 3 tỉnh này đã có 69 dự án tăng vốn với tổng vốn đầu tư tăng thêm đạt 485 triệuUSD, chiếm 68,6% tổng vốn đầu tư tăng thêm trong các khu công nghiệp của cả nước. Trong 8 tháng vừa qua, tổng vốn đầu tư thu hút mới vượt khá lớn so với tổng vốn đầu tư tăng thêm do điều chỉnh giấy phép đầu tư do một số dự án cấp mới có tổng vốn đầu tư tương đối lớn: Công ty Panasonic với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 76 triệu USD, Công ty trách nhiệm hữu hạn Brother Industrier sản xuất máy in, máy fax, thiết bị điện tử với tổng vốn đầu tư là 40 triệu USD, đầu tư vào khu công nghiệp Phúc Điền. Như vậy, tính chung cả vốn đầu tư nước ngoài cấp mới và tăng thêm vào các KCN, KCX trong 8 tháng đạt 2.104 triệu USD, chiếm khoảng gần 40% vốn đầu tư cấp mới và tăng thêm của cả nước và tăng hơn 56% so với 8 tháng đầu năm ngoái. Tính đến cuối tháng 8, các khu công nghiệp đã thu hút được khoảng 4.781 dự án( gồm 2260 dự án đầu tư nước ngoài và 2.521 dự án đầu tư trong nước) (chưa kể gần 900 triệu USD và 36 nghìn tỷ đồng đầu tư phát triển hạ tầng các khu công nghiệp ),trong đó hơn 3000 dự án đã đi vào sản suất kinh doanh và gần 800 dự án đang triển khai xây dựng nhà xưởng. Tỷ lệ lấp diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê của các khu công nghiệp trên cả nước đạt 51,4% , riêng các khu công nghiệp đã vận hành đạt tỷ lệ lấp đầy71,6%. Trong 8 tháng vừa qua chỉ tiêu hiệu quả sản suất kinh doanh của các doanh nghiệp trong các khu công nghiệp tăng trưởng khá so với năm trước. Giá trị sản xuất công nghiệp của các doanh nghiệp khu công nghiệp 8 tháng đầu năm đạt 9 tỷ USD tăng 20% so với cùng kỳ năm ngoái, giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp khu công nghiệp đạt gần 4 tỷ USD , tăng khoảng 22% so với cùng kỳ năm ngoái, nộp ngân sách hơn 400 triệu USD. II. Tác động của hoạt động KCN, KCX đối với sự phát triển kinh tế, xã hội, môi trường Việt Nam. 1. Tác động về mặt kinh tế. Sau 15 năm thành lập và phát triển, hoạt động của các KCN, KCX đã có những tác động rõ nét đến tình hình phát triển kinh tế. Ta đã xây dựng được 131 KCN, KCX và 450 cụm công nghiệp, hình thành cơ chế quản lý KCN, KCX khá đầy đủ từ Trung ương đến địa phương. Cơ chế quản lý hành chính "một cửa tại chỗ" tại các KCN, KCX đang phát huy tác dụng làm tăng tính hấp dẫn của môi trường đầu tư. Mô hình các khu công nghiệp đặc biệt ra đời: khu công nghệ cao, khu kinh tế mở… Nhiều thành phần kinh tế tham gia xây dựng KCN, KCX, thu hút nhiều loại hình vốn đầu tư. Phần lớn các KCN, KCX hoạt động có hiệu quả đòng góp vai trò quan trọng đối với sự CNH- HĐH ở nước ta. Mặt khác chúng ta đã hình thành được đội ngũ cán bộ quản lý và làm việc trong các KCN, KCX có trình độ cao, năng động, tạo đượ một đội ngũ đông đảo công nhân chất lượng cao. 1.1 Các KCN, KCX đã góp phần trong sự phát triển công nghiệp đất nước. Cac KCN, KCX có đóng góp quan trọng vào chuyển dich cơ cấu kinh của các địa phương tế theo hướng CNH –HĐH, đa dạng hoá các ngành nghề…góp phần chuyển dịch cơ cấu và tăng trưởng kinh tế của cả nước, mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế. Cụ thể tổng giá trị sản xuất công nghiệp của các KCN, KCX giai đoạn 1996-2000 đạt khoảng 9.5 tỷ USD tănng bình quân khoảng 20% năm, cao gấp 1,67 lần nhịp độ phát triển công nghiệp chung của cả nước, còn bộ 3 con số này trong giai đoạn 2001-2005 là 22,4 tỷ USD; 32% năm và 2 lần. Riêng năm 2005 thì giá trị sản xuất công nghiệp của các KCN, KCX đạt 14 tỷ USD. Với nhịp độ tăng vượt trội như vậy, nếu tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp của các KCN, KCX trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước năm 1996 mới là 8%, thì năm 2000 đã tăng lên 14%, năm 2001 là 17% năm 2005 đã tăng vọt lên 28%. Trong 8 tháng đầu năm 2006 các chỉ tiêu hiệu quả sản xuất kinh doanh trong khu công nghiệp tăng trưởng khá so với năm trước. Trong 8 tháng đầu năm 2006 giá trị sản xuất công nghiệp trong các KCN, KCX đạt 9 tỷ USD tăng 20% so với cùng kỳ năm ngoái. 1.2 Tác động của KCN, KCX đến kim ngạch xuất khẩu và ngân sách nhà nước. Tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp KCN, KCX thời kỳ kế hoạch 5 năm 1996-2000 đạt 6.2 tỷ USD tăng bình quân khoảng 18% năm ( từ năm 1991-1996, giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp trong khu vực này không đáng kể); kế hoạch 5 năm 2001-2005 đạt trên 22,3 tỷ USD tăng bình quân 24% năm, cao hơn giá trị xuất khẩu bình quân của cả nước (đạt khoảng 17% năm). Tỷ trọng giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp KCN, KCX trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước đã tăng lên từ mức 15% năm 2000 lên khoảng 20% năm 2005. Đặc biệt giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp khu công nghiệp,khu chế xuất chiếm khoảng 19% tồng kim ngạch xuất khẩu của cả nước và đạt 6 tỷ USD trong năm 2005.Trong 8 tháng đầu năm 2006 các khu công nghiệp , khu chế xuất đã tạo ra giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt 4 tỷ USD tăng 22% so với cùng kỳ năm ngoái.Khu chế xuất Tân Thuận được coi là khu đạt giá trị cao nhất trong các KCN, KCX của nước ta hiện nay về giá trị đầu tư, doanh thu và giá trị xuất khẩu. Tính ra mỗi ha ở đây thu hút khoảng 5 triệu USD vốn đầu tư, xuất khẩu đạt trung bình 4 triệu USD một năm. Trong giai đoạn 2001-2005 các doanh nghịêp trong KCN, KCX đã nộp tổng giá trị ngân sách nhà nước khoảng 2 tỷ USD tăng 45% một năm và gấp 6 lần thời kỳ 1996-2000. Trong tháng đầu năm 2006 giá trị này lên tới 400 triệu USD. 1.3 Tác động của KCN, KCX tới công ăn việc làm. Phát triển các KCN, KCX mở ra một không gian kinh tế rộng lớn, một kênh mới rất có tìêm năng thu hút lao động giải quyết việc làm cho lao động xã hội. Lực lượng lao động của các KCN, KCX gia tăng cùng với sự gia tăng của việc thành lập mới mở rộng và các dự án mới trong các KCN, KCX. Trong thời kỳ năm 2001-2005 các KCN, KCX đã thu hút được 650.000 lao động trực tiếp gấp 4 lần so với thời kỳ 1991-2000, hiện nay tính đến tháng 6 năm 2006 các KCN, KCX đã thu hút được 865.000 lao động trực tiếp và 1,5 triệu lao động gián tíêp.Ngoài việc tạo công ăn việc làm cho người lao động các khu này còn là nơi sử dụng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật phù hợp với công nghệ mới áp dụng vào sản xuất đạt trình độ khu vực và quốc tế. 2.Tác động của KCN, KCX đến xã hội. Ngoài các tác động tích cực đến việc tăng trưởng kinh tế, cải thiện cơ sở hạ tầng, giải quyết công ăn việc làm, hoạt động của các KCN, KCX cũng có một số tác động xấu đến mặt xã hội. - Trong thời gian qua đã xảy ra các cuộc đình công do mâu thuẫn giữa lợi ích của chủ đầu tư và người lao động có xu hướng tăng lên cả về mật độ và quy mô.Trong 10 năm qua cả nước đã xảy ra 1000 cuộc đình công, riêng 2 tháng đầu năm 2006 cả nước đã có 150 cuộc đình công lớn nhỏ, số người tham gia lên tới hàng trăm ngàn người. Mâu thuẫn chủ yếu là do chế độ thù lao tiền lương và xảy ra tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. -Việc hình thành các khu đô thị mới trong và ngoài hàng rào các KCN, KCX chỉ có thể trở thành hiện thực và có hiệu quả khi có sự đầu tư, phát triển đồng bộ giữa các công trình hạ tầng kinh tế kỹ thuật, hạ tầng văn hoá xã hội. Các nghiên cứu thống kê gần đây cho thấy, thực tế phát triển các công trình xã hội khác ở các KCN, KCX chưa tương xứng với quy mô, tốc độ phát triển các sở sản xuất, các công trình hạ tầng kỹ thuật. Giải quyết được vấn đề này là giải quyết mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế với văn hoá và các vấn đề xã hội khác. - Ở nhiều KCN, KCX, lượng công nhân tại địa bàn và các tỉnh lân cận tập trung về rất lớn do yêu cầu tuyển dụng ngành nghề. Từ đó hình thành một cách tự phát " những hộ công nhân mới trong và ngoài khu công nghiệp,khu chế xuất". Cuộc sống của những cư dân công nghiệp này cũng diễn ra với tất cả các nhu cầu của cuộc sống: đi, ở, ăn mặc, sinh hoạt vật chất văn hoá, hôn nhân gia đình. Nhưng những nhu cầu thiết yếu đó trên thực tế đã không đáp ứng được một cách đồng bộ, thậm chí ở mức tối thiểu, ngay từ khi quy hoạch và xây dựng KCN, KCX tại các địa phương. - Trong quá trình phát triển các KCN, KCX tất yếu có sự giao thoa giữa thói quen, nếp sống cũ mà cư dân mang từ quê hương bản địa đến các KCN, KCX với những thói quen, nếp sống văn minh mới hình thành ở đây. Vấn đề là làm sao định hướng để những thói quen, nếp sống mới ấy không làm mất đi những giá trị tốt, bản sắc truyền thống tốt đẹp có từ nhiều vùng quê, thành phố, tạo thành nét văn hoá chung tiêu biểu mang bản sắc riêng cho sự cộng đồng dân cư khu công nghiệp,khu chế xuất. - Việc quy hoạch các thiết chế văn hóa, câu lạc bộ, thư viện, các dịch vụ văn hoá…cần được đặt ra ngay từ đầu trong dự án xây dựng và phát triển các KCN, KCX ở địa phương. Nhu cầu về sự thụ hưởng về vật chất đến một lúc nào đó sẽ được đáp ứng và thỏa mãn; nhưng nhu cầu và đòi hỏi hưởng thụ đời sống văn hóa tinh thần sẽ không bao giờ ngừng lại, chỉ có ngày càng phong phú hơn, hoàn thiện hơn. Đây chính là các tác động khách quan trong quá trình phát triển CNH- HĐH đất nước, đòi hỏi phải xây dựng đựơc mô hình văn hoá trong cộng đồng dân cư các KCN, KCX. Đây không phải là vấn đề của riêng các KCN, KCX mà còn lợi ích cho sự phát triển kinh tế của các địa phương trong tổng thể phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Khi chưa có thiết chế văn hoá chung cho các KCN, KCX, tất yếu các dịch vụ văn hoá "tự phát" sẽ mọc lên, đáp ứng nhu cầu đòi hỏi của cư dân. Nếu không đựơc định hướng đúng, quản lý tốt, các hoạt động này sẽ biến tướng trong quá trình phát triển, làm nảy sinh tiêu cực, là mảnh đất tốt cho tệ nạn xã hội như mại dâm, ma tuý, nghiện hút, cờ bạc, lối sống lai căng xa lạ bám rễ với tốc độ không lường trước được. - Việc đầu tư xây dựng các kết cấu hạ tầng ở các KCN, KCX chưa được quan tâm đúng mức. Do tốc độ thị hoá nhanh, cộng với việc lo phát triển kinh tế tài chính, nên việc quy hoạch xây dựng các cơ sở hạ tầng xã hội phục vụ sinh hoạt ăn ở đi lại học hành khám chữa bệnh ở các KCN, KCX hầu như chưa được quan tâm. + Do áp lực của việc làm, của thu nhập, của số lượng lớn lao động dồn về các KCN, KCX trong khi các cơ sở chưa phát triển đồng bộ, phần lớn công nhân trong các KCN, KCX phải chấp nhận sống và sinh hoạt trong những điều kiện tạm bợ về nhà ở điện nước, sinh hoạt; đa phần các cư dân KCN, KCX phải thuê những căn hộ tối thiểu của người dân hàng rào KCN, KCX để sinh sống. Điều này đã gây khó khăn, bức xúc trực tiếp cản trở đến đời sống hàng ngày của người dân lao động, tạo tâm lý không an tâm cho người lao động. Với lực lượng công nhân trẻ chưa có gia đình và những người dân mới lập gia đình, đây là vấn đề lo ngại về lâu dài và ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng cuộc sống, chất lượng ngành nghề, chất lượng sản xuất kinh doanh… của cá nhân, gia đình, cộng đồng và doanh nghiệp, đồng thời gây khó khăn trong quản lý, các doanh nghiệp trong KCN, KCX và cho điạ phương có KCN, KCX. + Mặt khác việc hưởng thụ bình đẳng các chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, chế độ giáo dục, chăm sóc khi ốm đau, bệnh tật, vấn đề tăng chất lượng dân số… chưa được đáp ứng đã làm nảy sinh nhiều khó khăn, phức tạp về xã hội. Đây cũng là áp lực đối với điạ phương khi giải quyết những phát sinh ngoài ý muốn, ngoài khả năng của họ như gánh nặng về đầu tư khám chữa bệnh, việc giải quyết học hành cho con em dân cư KCN, KCX, các tệ nạn xã hội. - Một vấn đề không kém phần quan trọng là cần nhanh chóng thành lập các tổ chức chính trị xã hội như tổ chức Đảng, Công Đoàn, Đoàn thanh niên… trong các KCN, KCX nhằm đảm bảo quyền lợi chính trị xã hội cho cư dân công nghiệp, kể cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các liên doanh, doanh nghiệp tư nhân. 3.Tác động của KCN, KCX đến môi trường. 3.1 Tác động - Không dễ quản lý như chất thải, vịêc xử lý các chất thải của các nhà máy trước khi thải ra môi trường cũng đang làm đau các nhà quản lý. Theo ước tính mỗi khu công nghiệp thải khoảng 3000- 4000 m3 nước thải / ngày đêm. Như vậy tồng lượng công nghiệp của các KCN, KCX trên cả nước lên khoảng 500000-700000m3/ngày đêm. - Theo số liệu thống kê, trong số 131 khu công nghiệp đã xây dựng xong và đưa vào vận hành hệ thống xử lý nước thải tập trung, 10 khu công nghiệp đang xây dựng, các khu công nghiệp còn lại thì chưa xây dựng. Ngay cả các khu công nghiệp đã có trạm xử lý chất thải tập trung, thì chất lượng thực tế của các công trình này vẫn còn hạn chế, chưa đạt được những tiêu chuẩn quy định, gây ô nhiễm môi trường, đặc biệt là một số khu công nghiệp tập trung các ngành công nghiệp nhẹ như dệt may, thuộc da, ngành hoá chất… độc hại cao. Ngoài ra tại các khu công nghiệp,khu chế xuất ô nhiễm khí bụi và tiếng ồn là loại hình khó kiểm soát và không được quan tâm. Khí thải của các cơ sở sản xuất chứa nhiều chất độc hại được xả trực tiếp vào môi trường, ảnh hưởng đến sức khoẻ của nhân dân quanh vùng. - Theo kết quả quan trắc, nồng độ chất SO2, CO, NO2 gần các khu công nghiệp hoặc trong các khu công nghiệp đang gia tăng. Nồng độ bụi tại ven các trục giao thông chính đều đã vượt quá chỉ tiêu cho phép từ 2-6 lần. Tại nhiều nhà máy cơ khí, luyện kim, công nghiệp hoá chất, công nghiệp vật liệu xây dựng, công nghiệp chế biến thuỷ sản… trong khu công nghiệp, nồng độ bụi và khí độc hại trong không khí, vượt tiêu chuẩn cho phép từ 2-5 lần. - Cùng với đó, người dân đang phải gánh chịu những ảnh hưởng tiêu cực từ việc phát triển các khu công nghiệp ở địa phương, sự ô nhiễm nước sinh hoạt, sự thoái hoá đất đai do những chất thải độc hại từ khu công nghiệp gây ra… 3.2 Nguyên nhân dẫn đến những tác động trên. - Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự gia tăng ô nhiễm môi trường trong các khu công nghiệp, trong đó phải nói đến công tác quy hoạch các khu công nghiệp còn nhiều điềm không hợp lý, như việc bố trí các khu công nghiệp gần đường giao thông, khoảng cách quá gần khu dân cư, do đó ô nhiễm trong khu công nghiệp dễ dàng gây ảnh hưởng đến môi trường xung quanh. Thêm vào đó là việc nhận thức về việc bảo vệ môi trường trong các khu công nghiệp của chính quyền địa phương chưa cao, chưa đánh giá đúng mức về vấn đề môi trường với phát triển bền vững. Các cơ quan Nhà nước ở địa phương và chíng quyền địa phương và trung ương chưa có chế tài giám sát chặt chẽ việc xây dựng các khu công nghiệp theo quy hoạch và theo đúng dự án đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Do đó, trong báo cáo khả thi các hạng mục xử lý chất thải nước thải và bảo vệ môi trường, trên thực tế không được triển khai. Ông Trần Nguyên Hiền, Trưởng phòng Quản lý môi trường, Sở tài nguyên và môi trường thành phố HCM cho biết: "Trong 9 KCN, KCX của thành phố HCM chưa có hệ thống xử lý chất thải tập trung thì chưa có hệ thống xử lý nước thẳ tập trung, còn lại các khu công nghiệp khác mới đang lên kế hoạch". Mặt khác chi phí xây dựng chất thải cùng với việc chưa có cơ chế hỗ trợ thoả đáng từ phía nhà nước, là một trong những nguyên nhân khiến các nhà đầu tư chậm triển khai các hệ thống này. - Ngoài ra, hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường trong các KCN, KCX còn chưa hoàn chỉnh. Chưa hình thành hệ thống các quy định thống nhất về công tác quản lý quản lý môi trường theo các loại hình ô nhiễm rắn,lỏng, khí và chưa thích hợp với đặc điểm của các khu công nghiệp – đòi hỏi quản lý ô nhiễm theo từng ngành và theo cả hệ thống trogn khu công nghiệp là chưa phù hợp. Quy định về thẩm định môi trường đối với các dự án trong khu công nghiệp còn chậm đổi mới và không có chế tài mang tính bắt buộc. Ngoài cơ chế hỗ trợ theo quyết định 183 năm 2003 của Thủ tướng chình phủ, thì cơ chế hỗ trợ xây dựng hệ thống xử lý chất thải ở các khu công nghiệp vẫn chưa được hình thành. Hơn nữa việc có nhiều đầu mối quản lý các KCN, KCX cũng dẫn đến hiệu quả phối hợp giữa các đơn vị trong quản lý môi trường trong KCN, KCX chưa được tốt. III. Kết quả và những tồn tại trong hoạt động của các khu công nghiệp và khu chế xuất . A. Những kết quả đã đạt được. Việc xây dựng và phát triển KCN, KCX thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của đất nước nói chung và của ngành, địa phương, vùng lãnh thổ nói riêng trong quá trình triển khai nghị quyết của Đảng giai đoạn vừa qua(1991-2006) đã đạt được những kết quả sau: 1. Hình thành hệ thống các KCN, KCX trên cơ sở chiến lược, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội trên cả nước. Đến cuối tháng 12/2005 đã có 131 KCN, KCX đựơc thủ tướng chính phủ quyết định thành lập, phân bố trên 47 tỉnh thành với tổng diện tích đất tự nhiên 26.986 ha, trong đó diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê đạt18.044 ha. Trừ vùng Tây Bắc có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, tất cả các vùng còn lại đều thành lập KCN, KCX. Riêng 3 vùng kinh tế trọng điểm đã chiếm tới 73% số lượng KCN, KCX của cả nước (96 khu). Quy mô trung bình của các KCN, KCX là 206 ha. Các vùng có điều kiện tương đối khó khăn, ít có lợi thế phát triển công nghiệp đựơc bố trí các KCN, KCX có quy mô trung bình thấp hơn, như vùng Tây Nguyên( 115,75 ha), vùng Đông Bắc Bắc Bộ(144,5ha); các vùng có điều kiện phát triển công nghiệp được bố trí cao hơn, như Đông Nam Bộ (253,3 ha), Đồng bằng sông Hồng(173,7 ha). Các KCN, KCX được thành lập và phát triển phù hợp với mục tiêu của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm. Kế hoạch 5 năm 1991-1995 là giai đoạn đầu thí điểm phát triển KCN, KCX số lượng các KCN, KCX trong giai đoạn này là 12 với tổng diện tích đất tự nhiên là 2360 ha. Sau giai đoạn này, việc thành lập các KCN, KCX được đẩy nhanh, cụ thể trong kế hoạch 5 năm 1996-2000 thành lập 53 KCN, KCX với tổng diện tích đất tự nhiên 9706,12 ha, tăng 4,4 lần về số lượng và 4,1 lần về diện tích so với giai đoạn 1991-1995; kế hoạch 5 năm 2001- 2005 thành lập 66 KCN, KCX vói tổng diện tích 13.140,4 ha, tăng 24,5% về số lượng và 354% về diện tích so với kế hoạch 5 năm 1996-2000. Các khu công nghiệp,khu chế xuất được hình thành lập và phát triển phù hợp với quy hoạch xây dựng và phát triển khu công nghiệp khu chế xuất cả nước và định hướng phát triển phân bố công nghiệp của địa phương. Phần lớn các KCN, KCX ưu tiên thành lập đến năm 2000 được thủ tướng chính phủ phê duyệt tại các Quyết định số 519 ngày 6/8/1996 số 713 ngày 30/8/1997và số 194/1998 ngày 01/10/1998( với tổng số 56 KCN, KCX được dự kiến thành lập) đã được thành lập và đi vào họat động. Các quy hoạch KCN, KCX đã được quy hoạch và triển khai là một bước cụ thể hóa nghị quyết đại hội VII về quy hoạch vùng, địa bàn trọng điểm về KCN, KCX phù hợp với tình hình phát triển và nhu cầu sử dụng đất của các địa phương. 2. KCN, KCX đã huy động được lượng vốn đầu tư lớn của các thành phần kinh tế trong và ngoài nước, phục vụ cho CNH- HĐH đất nước. KCN, KCX ra đời và hoạt động trước hết vì mục tiêu huy động vốn đầu tư nước ngoài và thực hiện chính sách đầu tư nước ngoài theo quy định tại Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987, được sửa đổi, bổ sung năm 1990 và 1992 và Luật đầu tư nước ngoài được sửa đổi, bổ sung năm 2000. Đặc biệt từ luật đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 1992, KCN, KCX đã được đề cập đến như một hình thức thu hút đầu tư nước ngoài, với các đặc điểm riêng biệt. Các KCN, KCX với những chính sách ưu đãi và những điều kiện thuận lợi về cơ sở hạ tầng kỹ thuật ngày càng là địa bàn hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Số dự án đầu tư nước ngoài và tổng vốn đăng ký vào KCN, KCX dần được mở rộng trong giai đoạn đầu 1991-1995 và đặc biệt tăng trưởng cao trong 5 năm 2000 và giai đoạn 2001- 2005. Nếu trong kế hoạch 5 năm 1991-1995, khi các KCN, KCX đang trong quá trình triển khai xây dựng, số vốn đầu tư nước ngoài thu hút mới đạt được 155 dự án với tổng số vốn 1550 triệu USD, thì trong kế hoạch 5 năm 1996-2000, số dự án tăng thêm đạt 7.213 triệu USD tăng 3,8 lần về số dự án và 4,65 lần về tổng vốn đầu tư đăng ký so với kế hoạch 5 năm 1991-1995. Số dự án tăng thêm giai đoạn kế hoạch 5 năm 2001-2005 là 1377 dự án với tổng vốn đầu tư tăng thêm đạt 8080 triệu USD, tăng gấp 2,34 lần số dự án và 12% tổng vốn đầu tư so với kế hoạch 5 năm 1996-2000. Tốc độ tăng bình quân về số dự án và tổng vốn đầu tư lũy kế giai đoạn 1996-2000 tương ứng là 37% và 46% ,kế hoạch hoạch 5 năm 2001-2005 là 23% và 14%. Nhìn lại chặng đường 15 năm xây dựng và phát triển cho thấy KCN, KCX đòng góp ngày càng quan trọng trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Tính đến cuối tháng 12/2005, các KCN, KCX đã thu hút được 2120 dự án có vốn đầu tư nước ngoài còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký đạt 16.843 triệu USD. Tỷ trọng vốn đầu tư đăng ký của các dự án có vốn đầu tư nước ngoài trong KCN, KCX trong tổng vốn đầu tư nước ngoài trong cả nước tăng dần qua các năm và đạt 45% năm 2005. Các dự án có vốn đầu tư nước ngoài chủ yếu là các doanh nghiệp có 100% vốn đầu tư nước ngoài( khoảng 1820 dự án với tổng vốn đăng ký đạt13.600 triệu USD, chiếm 85% về số dự án và hơn 80% về tổng vốn đã đăng ký), hình thức liên doanh có khoảng 200 dự án( gần 3000 triệu USD), còn lại hình thức liên doanh cổ phần( 6 dự án) và hợp đồng hợp tác kinh doanh (12 dự án). Ngoài ra các KCN, KCX còn là một trong những giải pháp để thực hiện chủ trương phát huy nội lực của các thành phần kinh tế trong nước. Đến cuối tháng 12/2005, tổng số có 2367 dự án trong nước có hiệu lực trong KCN, KCX với tổng vốn đầu tư trên 113 nghìn tỷ đồng. 3. KCN, KCX có đóng góp không nhỏ vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương theo hướng CNH-HĐH. Thực tế, trong 15 năm xây dựng và phát triển, cho thấy các KCN, KCX đóng góp ngày càng lớn trong việc nâng cao tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp trong GDP của cả nước. Tổng giá trị sản suất của các khu công nghiệp,khu chế xuất thời kỳ 1996-2000 đạt 9.5 tỷ USD, tăng bình quân khoảng 20% năm; thời kỳ 2001-2005 đạt khoảng 44,4 tỷ, gấp 5 lần so với kế hoạch 5 năm trước và tăng bình quân 32% năm. Tỷ trọng sản suất công nghiệp của các doanh nghiệp khu công nghiệp,khu chế xuất trong tổng giá trị sản suất của cả nước tăng lên mức đáng kể từ mức 8% năm 1996 lên 14% năm 2000 và tù 17% năm 2001lên khoảng 28% năm 2005. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp KCN, KCX thời kỳ kế hoạch 5 năm 1996-2000 đạt 6,2 tỷ USD, tăng bình quân khoảng 18% năm (từ năm1991-1996 giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp khu công nghiệp,khu chế xuất không đáng kể); kế hoạch 5 năm 2001-2005 tăng bình quân 24%/năm cao hơn tốc độ bình quân giá trị xuất khẩu công nghiệp cuả cả nước(đạt bình quân khoảng 17%). Tỷ trọng xuất khẩu của các doanh nghiệp KCN, KCX trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước đã tăng lên từ 15% năm 2000 đến 20% năm 2005. Đặc biệt giá trị xuất khẩu của các khu chế xuất và doanh nghiệp chế xuất chiếm khoảng 10% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước và đạt khoảng 2,9 tỷ USD trong năm 2005. Khu chế xuất Tân Thuận được đánh giá giá trị cao nhất trong các khu chế xuất, khu công nghiệp ở nước ta hiện nay về giá trị đầu tư, doanh thu và giá trị xuất khẩu. Tính ra mỗi ha đất ở đây thu hút khoảng 5 triệu USD vốn đầu tư,xuất khẩu đạt trung bình khoảng 4 triệu USD một năm. Tổng giá trị nhập khẩu của các doanh nghiệp khu chế xuất, khu công nghiệp thời kỳ 2001-2005 đạt khoảng 27,3 tỷ USD, tăng bình quân khoảng 32%/năm và tăng gấp 3,4 lấn so với tổng giá trị nhập khẩu trong kế hoạch 5 năm 1996-2000. Các doanh nghiệp KCN, KCX bước đầu đóng góp tích cực vào ngân sách nhà nước, trong thời kỳ 2001-2005 tổng giá trị nộp ngân sách của các KCN, KCX tăng mạnh và đạt 2 tỷ USD tăng bình quân khoảng 45% năm và gấp 6 lần so với kế hoạch 5 năm 1996-2000. 4. KCN, KCX đã tạo ra một kết cấu hạ tầng mới, hiện đại có giá trị lâu dài. Xây dựng kết cấu hạ tầng là điều kiện hết sức quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Để thu hút đầu tư váo KCN, KCX tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư trong việc triển khai dự án nhanh, ngoài các chính sách ưu đãi về tài chính và cơ chế quản lý thuận lợi, cơ sở hạ tầng các KCN, KCX. Tại các KCN, KCX cơ sở hạ tầng kinh tế -kỹ thuật nói chung khá hoàn chỉnh, một số đạt tiêu chuẩn quốc tế nhất là đường sá, kho bãi, điện, nước, giao thông, thông tin liên lạc và các dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm. Đến cuối tháng 12/2005, 131 dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng trên cả nước gồm 19 dự án có vốn đầu tư nước ngoài và 112 dự án trong nước với tổng vốn đầu tư đạt hơn 1tỷ USD và 33 nghìn tỷ đồng. Hình thức đầu tư cơ sở hạ tầng đa dạng và phong phú phù hợp với yêu cầu của từng địa phương. Các KCN, KCX do các doanh nghiệp ngoài quốc doanh làm chủ đầu tư chiếm số lượng lớn nhất: 45 khu công nghiệp,khu chế xuất với tổng vốn đầu tư 15.673 tỷ đồng; 33 KCN, KCX được đầu tư theo cơ chế đơn vị sự nghiệp có thu hồi với tổng vốn đầu tư đạt trên 7.424 tỷ đồng, các KCN, KCX còn lại do doanh nghiệp nhà nước làm chủ đầu tư với tổng vốn đầu tư đạt hơn 9.835 tỷ đồng( 34 khu công nghiệp ). Trên phạm vi cả nước đến cuối năm 2005, đã có 79 KCN, KCX đã hoàn thành xây dựng cơ bản và đi vào vận hành với tổng số vốn đầu tư cơ sở hạ tầng hơn 760 triệu USD và 20.000 tỷ đồng, vốn thực hiện đạt hơn 500 triệu USD và 8000 tỷ đồng, 51 khu công nghiệp khu chế xuất, còn lại đang trong giai đoạn đền bù giải phóng mặt bằng và xây dựng cơ bản. Tại các địa phương đã hoàn thành việc xây dựng KCN, KCX, kết cấu hạ tầng được đầu tư đồng bộ và hoàn thiện thực sự góp phần thay đổi diện mạo của địa phương, đặc biệt là tại các địa phương có tiềm năng phát triển các KCN, KCX, hệ thống KCN, KCX với hạ tầng trong và ngoài đã được đầu tư đồng bộ và hiện đại đã góp phần chủ yếu hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội, tạo điều kiện cho việc đẩy mạnh đầu tư vào KCN, KCX cũng như thúc đẩy mối liên kết kinh tế ngành, vùng, đặc biệt là một số tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam như Đồng Nai, Bình Dương. 5. Các KCN, KCX sử dụng ngày càng hiệu quả cơ sở hạ tầng và đẩy mạnh hợp tác sản suất, tăng cường mối liên kết ngành trong trong phát triển kinh tế. Hiệu quả sử dụng cơ sở hạ tầng gắn liền với đất của các KCN, KCX đang hoạt động ngày càng được nâng cao, thể hiện ở các chỉ tiêu: - Trong thời kỳ 2001-2005, các KCN, KCX đã cho thuê thêm được khoảng hơn 7000 ha đất công nghiệp, tỷ lệ lấp đầy đất khu công nghiệp,khu chế xuất đã vận hành tăng đều hàng năm từ 40% năm 1996 lên 50% naưm 2000 và từ 55% năm 2001 lên 72% năm 2005. - Tính đến cuối tháng 12/2005 bình quân 1 ha đất của các KCN, KCX đã vận hành thu hút được 1,93 USD tăng 60._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docB0220.doc
Tài liệu liên quan