Thực trạng lao động Thành phố Vinh Nghệ An & Một số giải pháp giải quyết việc làm

Lời nói đầu Đối với Quốc gia, thất nghiệp, thiếu việc làm là một sự lãng phí tài nguyên sinh lực. Đối với gia đình và xã hội, thất nghiệp thiếu việc làm, “nhàn vi cư bất thiện” là mầm mống đưa con người vào vòng phạm pháp, làm mất nhân cách không xa. Vì những ảnh hưởng sâu rộng đó: giải quyết việc làm đi đến toàn dụng nhân lực được xem là một quốc sách trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước, nhất là nước đang có tình trạng thất nghiệp như nước ta hiện nay. Nhận thức được nhữn

doc84 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1586 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng lao động Thành phố Vinh Nghệ An & Một số giải pháp giải quyết việc làm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g vấn đề nêu trên, qua thời gian thực tập ở Viện khoa học lao động và các vấn đề xã hội - Bộ lao động thương binh và xã hội em đã hoàn thành được chuyên đề: “Thực trạng lao động Thành phố Vinh Nghệ An và một số giải pháp giải quyết việc làm”. Trong quá trình thực tập và nghiên cứu, em đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của cô giáo hướng dẫn GV. Nguyễn Thị Kim Dung và các cán bộ, chuyên viên Viện khoa học lao động và các vấn đề xã hội - Bộ lao động thương binh và xã hội. Do hạn chế về thời gian và trình độ nên bài viết này không tránh được những thiếu sót. Vì vậy em mong nhận được sự cảm thông và những ý kiến góp ý của các thầy cô giáo trong khoa Kinh tế Phát triển - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Phần I Vai trò của lao động, việc làm trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội Những vấn đề cơ bản về lao động, việc làm. I. Lao động và nguồn lao động. 1. Lao động. Lao động là hành động của con người diễn ra giữa người với tự nhiên, như Mác đã nói: “Lao động trước hết là một quá trình diễn ra giữa con người với tự nhiên, một quá trình trong đó bằng hoạt động của chính mình con người làm trung gian điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ với tự nhiên”. Ngày nay khái niệm lao động đã được mở rộng. Lao động là hoạt động có mục đích, có ích của con người tác động lên giới tự nhiên, xã hội nhằm mang lại của cải vật chất cho bản thân và xã hội. Bất kỳ một xã hội nào muốn tồn tại và phát triển đều phải không ngừng phát triển sản xuất, điều đó có nghĩa là không thể thiếu lao động. Lao động là nguồn gốc và là động lực phát triển của xã hội. Bởi vậy xã hội càng văn minh thì tích chất, hình thức và phương pháp tổ chức lao động ngày càng tiến bộ. Đối với Việt Nam, khi đất nước đang thực hiện Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước với nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước thì lý luận lao động phải được đánh giá ở nhiều khía cạnh mới, cụ thể là: Trước hết, lao động vẫn được coi là phương thức tồn tại của con người, nhưng vấn đề đặt ra là lợi ích của con người phải được coi trọng. Bởi vì lao động biểu hiện bản chất của con người còn lợi ích của người lao động là vấn đề nhạy cảm nhất, là nhân tố thấm sâu, phức tạp trong quan hệ giữa con người với con người, quan hệ cá nhân với xã hội. Thứ hai, trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần với phương thức sản xuất kinh doanh xã hội chủ nghĩa thì lao động được xem xét trên các khía cạnh năng suất, chất lượng và hiệu quả. Thứ ba, là bất cứ một hình thức lao động của cá nhân, không phân biệt thuộc thành phàn kinh tế nào, nếu đáp ứng được nhu cầu của xã hội tạo ra sản phẩm hoặc công dụng nào đó, thực hiện được lợi ích, đảm bảo nuôi sống mình, không ăn bám vào người khác, vào xã hội, lại có thể đóng góp cho xã hội một phần lợi ích thì lao động đó được coi là có ích. 2. Nguồn nhân lực và nguồn lao động Nguồn nhân lực là một bộ phận của dân số trong độ tuổi nhất định theo quy định của pháp luật có khả năng tham gia lao động. Nguồn nhân lực được biểu hiện trên hai mặt số lượng và chất lượng. Về số lượng đó là tổng số người trong độ tuổi lao động và thời gian làm việc có thể huy động được của họ. Việc quy định cụ thể độ tuổi lao động của mỗi nước ( kể cả cận trên và cận dưới) rất khác nhau tuỳ theo yêu cầu của trình độ phát triển của nền kinh tế xã hội trong từng giai đoạn. ở Việt Nam, theo quy định của Bộ luật Lao động, dân số trong độ tuổi lao động là những người đủ từ 15 đến 60 tuổi đối với nam và đủ từ 15 đến 55 tuổi đối vơí nữ. Về chất lượng nguồn nhân lực, đó là trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật, sức khoẻ và phẩm chất của người lao động. Nguồn lao động ( hay lực lượng lao động ) là một bộ phận dân số trong độ tuổi quy định thực tế có tham gia lao động (đang có việc làm) và những người không có việc làm nhưng đang tích cực tìm việc làm. Cũng như nguồn nhân lực, nguồn lao động được biểu hiện trên hai mặt số lượng và chất lượng. Như vậy, theo khái niệm nguồn lao động thì có một số người được tính vào nguồn nhân lực nhưng không phải là nguồn lao động. Đó là những người lao động không có việc làm nhưng không tích cực tìm việc làm; những người đang đi học, những người đang làm nội trợ trong gia đình và những người thuộc tình trạng khác (người nghỉ hưu trước tuổi theo quy định)... Theo khái niệm mở rộng dùng trong thống kê lao động - việc làm Việt Nam thì lực lượng lao động còn bao gồm những người ở ngoài độ tuổi lao động ( lao động cao tuổi) thực tế đang làm việc trong các ngành kinh tế. 3. Vai trò của lao động đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội. a. Lập luận của các trường phái kinh tế về lao động với tăng trưởng và phát triển kinh tế Lao động là yếu tố cơ bản của sản xuất. Nhờ có lao động và các yếu tố đầu vào khác được kết hợp tạo ra sản phẩm cung ứng trên thị trường, hình thành nên tổng cung. Khi các yếu tố đầu vào (trong đó có yếu tố lao động) tăng lên thì sản phẩm tạo ra nhiều hơn, tổng cung tăng lên. Mặt khác lao động là mục tiêu của sản xuất. Khi lao động tăng tiêu dùng cũng tăng lên làm cho tổng cầu cũng tăng lên. Nền kinh tế đạt điểm cân bằng mới tương ứng với mức sản lượng thực tế tăng lên. Từ trước tới nay, có rất nhiều trường phái kinh tế đã khẳng định vai trò của lao động đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế. Mô hình của Ricardo (trường phái cổ điển) đã tính thu nhập quốc dân bao gồm tiền công do lao động làm thuê nhận được, lợi nhuận và địa tô. Mô hình CácMác cho rằng lao động sống tạo ra nguồn của cải và giá trị thặng dư, là nguồn gốc của tái sản xuất xã hội, muốn mở rộng sản xuất cần tăng năng suất lao động. Lý thuyết tăng trưởng kinh tế hiện đại thống nhất với cách xác định của mô hình tân cổ điển về các yêú tố tác động đến tổng cung. Họ cho rằng tổng mức cung của nền kinh tế được xác định bởi các yếu tố đầu vào của sản xuất, đó là nguồn lao động (L), vốn sản xuất (K), tài nguyên thiên nhiên (R) và khoa học công nghệ (T). Họ cũng thống nhất với kiểu phân tích của hàm sản xuất Cobb - Douglas về sự tác động của các yếu tố đến tăng trưởng: Y= T. Ka. Lb. Rg g = t + a.k + b.l + g.r Trong đó: g: Tốc độ tăng trưởng của GDP k, l, r: Tốc độ tăng trưởng của các yếu tố đầu vào K, L, R t: Phần dư còn lại, phản ánh tác động của Khoa học công nghệ (T) Giữa các yếu tố đầu vào có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong việc tạo ra tăng trưởng. Tuy nhiên cũng tuỳ vào từng nước, từng thời kỳ mà sử dụng nhiều yếu tố lao động, ít yếu tố vốn hoặc ngược lại nhiều yếu tố vốn, ít yếu tố lao động phục vụ mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế. Đối với nước ta lao động đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình tăng trưởng và phát triển. Bởi vì trong các yếu tố đầu vào thì mặc dù là tài nguyên của chúng ta là phong phú, đa dạng nhưng không phải là vô tận mà đang cạn kiệt dần. Do vậy, lao động nước ta ngày càng đóng vai trò quan trọng trong quá trình tăng trưởng và phát triển. b.Vai trò của nguồn lao động trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. b1. Nguồn lao động là yếu tố hàng đầu, năng động và quyết định sự phát triển của lực lượng sản xuất. Trong quá trình lao động con người luôn tìm tòi, suy nghĩ, năng động, sáng tạo, không chỉ sáng chế ra những tư liệu lao động có năng suất cao mà còn kết hơp tư liệu lao động với đối tượng lao động nhằm tạo ra những sản phẩm theo mục đích đã định. Nhờ con người mà các tư liệu sản xuất được hoàn thiện từng bước và chỉ thông qua hoạt động của con người, các tư liệu sản xuất mới phát huy được tác dụng, thúc đẩy lực lượng sản xuất và nền kinh tế phát triển. Trong giai đoạn hiện nay, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, con người được đặt vào một quá trình lao động hết sức phức tạp, đòi hỏi năng lực sáng tạo, trình độ chuyên môn cao, ý thức trách nhiệm lớn cả trong lao động cơ bắp, lao động kỹ thuật và lao động quản lý. Có như vậy, lực lượng vật chất to lớn mới được sử dụng một cách hợp lý, có hiệu quả, góp phần thúc đẩy kinh tế xã hội ngày càng phát triển. b2) Lợi ích của nguồn lao động là động lực to lớn trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. Nhu cầu cuộc sống là động lực cơ bản nhất của con người. Bất kỳ hoạt động nào của con người cũng bắt nguồn từ những nhu cầu cuộc sống. Thoả mãn các nhu cầu chính là bảo đảm lợi ích của con người. Vì lợi ích mà con người hoạt động. Lợi ích của con người bao gồm lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần, trong đó lợi ích vật chất đống vai trò quan trọng. Người lao động dù làm việc ở đâu, dưới hình thức nào cũng đều nhằm đạt được lợi ích của mình. Lợi ích càng cao, càng tạo nên sức hấp dẫn để con người hoạt động có hiệu quả hơn. như vậy chính lợi ích là nhu cầu trở thành động cơ của hành động. Thoả mãn lợi ích chính đáng của người lao động là động lực kinh tế trực tiếp thúc đẩy nền kinh tế xã hội phát triển. b3) Nguồn lao động với tư cách lực lượng tiêu dùng luôn là mục đích của sự phát triển kinh tế xã hội. Trong mọi phương thức sản xuất xã hội, sản xuất cho ai, sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào suy cho cùng đều để phục vụ con người. Ngược lại nhu cầu của con người là tác nhân kích thích, là “đơn đặt hàng” của xã hội đối với sản xuất và là động cơ mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển. Nguồn lao động với tư cách là một bộ phận quan trọng của dân số, đồng thời là một động lực tiêu dùng mạnh mẽ, luôn đóng vai trò quyết định là mục tiêu phát triển kinh tế xã hội ở mọi thời đại. Nhận thức đúng đắn về vấn đề lao động không chỉ giúp chúng ta thấy rõ hơn ý nghĩa và tầm quan trọng của nó mà còn có cơ sở phương pháp luận để xem xét việc sử dụng lao động trong thời gian qua, trên cơ sở đó đề ra phương hướng và giải pháp sử dụng và phát huy vai trò của nguồn lao động trong giai đoạn mới. II. Việc làm. 1. Khái niệm việc làm. Việc làm là phạm trù tổng hợp liên kết các quá trình kinh tế xã hội và nhân khẩu, nó thuộc những vấn đề chủ yếu của toàn bộ đời sống xã hội. Tuỳ theo cách tiếp cận mà người ta có những cách định nghĩa khác nhau về việc làm: Theo H.A Gowlop thì “việc làm là mối quan hệ sản xuất nảy sinh do sự kết hợp giữa cá nhân người lao động và phương tiện sản xuất”. Theo Huyhanto (Viện Hải ngoại Luân Đôn) thì việc làm theo nghĩa rộng là toàn bộ hoạt động kinh tế của một xã hội, là tất cả những gì liên quan đến cách thức kiếm sống của con người kể cả quan hệ sản xuất và các tiêu chuẩn hành vi tạo ra khuôn khổ của quá trình kinh tế. Đối với Việt Nam, Bộ luật Lao động đầu tiên của Việt Nam được Quốc hội thông qua đã khẳng định: “mọi hoạt dộng lao động tạo ra nguồn thu nhập không bị luật pháp ngăn cấm đều được thừa nhận là việc làm”. Với khái niệm về việc làm như trên thì hoạt động được xác định là việc làm bao gồm: Làm các công việc được trả công dưới dạng bằng tiền hoặc bằng hiện vật. Những công việc tự làm để thu lợi cho bản thân hoặc thu nhập cho gia đình mình nhưng không được trả công bằng tiền hoặc bằng hiện vật cho công việc đó. 2. Tình trạng việc làm và thất nghiệp. 2.1. Việc làm đầy đủ. Việc làm đầy đủ là việc làm cho phép người lao động có điều kiện sử dụng hết thời gian lao động theo quy định. Trong thống kê Lao động - việc làm ở Việt Nam thì người đủ việc làm gồm những người có số giờ làm việc trong tuần lễ tính điểm thời điểm điều tra lớn hơn hoặc bằng 40 giờ hoặc những người có số giờ nhỏ hơn 40 giờ nhưng không có nhu cầu làm thêm hoặc những người có số giờ làm việc nhỏ hơn 40 giờ nhưng lớn hơn hoặc bằng giờ quy định đối với những người làm công việc nặng nhọc, độc hại theo quy định hiện hành. Số giờ quy định trên có thể được thay đổi theo từng năm hoặc từng thời kỳ. 2.2. Việc làm hợp lý và việc làm hiệu quả. Việc làm hợp lý là việc làm phù hợp với số lượng và chất lượng của các yếu tố con người và vật chất của sản xuất, là bước phát triển cao hơn của việc làm đầy đủ. Việc làm hợp lý có năng suất lao động và hiệu quả kinh tế - xã hội cao. Việc làm hợp lý còn là việc làm phù hợp với khả năng và nguyện vọng của người lao động. Việc là hiệu quả là việc làm đem lại mức thu nhập cao cho người lao động. Việc làm không hiệu quả là việc làm đem lại thu nhập thấp không đủ cho các chi tiêu cơ bản cho đời sống cua người lao động hoặc mức tu nhập từ việc làm thấp hơn so với mức thu nhập tối thiểu trong đời sống xã hội . 2.3. Thiếu việc làm. Thiếu việc làm là tình trạng việc làm trong đó người lao động không sử dụng hết thơig gian quy định và nhận được thu nhập thấp từ công việc khiến họ có nhu cầu làm thêm. Theo khái niệm dùng trong thống kê lao động - việc làm ở Việt Nam , người thiếu việc làm gồm những người trong tuần lễ tính đến thời điểm điều tra có tổng số giờ làm việc dưới 40 giờ, hoặc có số giờ làm việc nhỏ hơn 40 giờ làm việc của nhà nước có nhu cầu làm thêm và sẳn sàng làm việc nhưng chưa có việc làm (trừ những người co số giờ làm việc dưới 8 giờ, có nhu cầu làm việc và sẵn sàng làm việc nhưng không tìm được việc làm). Tình trạng thiếu việc làm còn gọi là bán thất nghiệp. Người lao động ở trong tình trạng này thường là lao động ở nông thôn, theo mùa vụ, lao động ở khu vực thành thị không chính thức (khu vực phi kết cấu) lao động ở các khu vực sản xuất, kinh doanh đang gặp khó khăn, lao động khuvực nhà nước dôi dư. Tỉ lệ người thiếu việc làm là phần trăm những người thiếu việc làm so với dân số hoạt động kinh tế (lực lượng lao động ). Tỉ lệ sử dụng thời gian lao động là phần trăm của tổng số ngày công làm việc thực tế so với tổng số ngày công có nhu cầu làm việc (bao gồm số ngày công thực tế đã làm việc và số ngày có nhu cầu làm thêm) của dân số hoạt động kinh tế. 2.4. Thất nghiệp. a. Khái niệm. Thất nghiệp là tình cảnh của những người có khả năng lao động, có nhu cầu lao động nhưng hiện tại không có việc làm, đang tích cực tìm hoặc đang chờ đợi trở lại làm việc. Người thất nghiệp, theo khái niệm dùng trong thống kê lao động - việc làm ở Việt Nam , là người đủ 15 tuổi trả lên trong nhóm dân số hoạt động kinh tế, mà trong tuần lễ trước điều tra không có việc làm nhưng có nhu cầu làm việc: Có hoạt động đi tìm việc trong 4 tuần qua, hoặc không có hoạt động trong 4 tuần qua vì lý do không biết tìm việc ở đâu hoặc tìm mãi mà không được. Hoặc trong tuần lễ tính đến thời điểm điều tra có tổng số giờlàm việc dưới 8 giờ, muốn sẵn sàng làm thêm nhưng không tìm được việc. Khi đánh giá về tình hình thất nghiệp, người ta thường dùng chỉ tiêu tỉ lệ thất nghiệp . Tỉ lệ này tính bằng phần trăm của só người thiếu việc làm sao với dân số hoạt động kinh tế (lực lượng lao động ), theo công thức sau: Tỷ lệ thất nghiệp (%) = x 100 Tỷ lệ thất nghiệp ở mức cao sẽ ảnh hưởng xấu đến tình hình kinh tế - xã hội . Chính vì thế, các quốc gia phải thường xuyên đưa ra những chính sách biện pháp để giải quyết vấn đề này. b. Phân loại thất nghiệp. Thất nghiệp là hiện tượng phức tạp cần phải được phân loại để hiểu rõ về nó.Thất nghiệp được chia thành các loại sau: b.1. Phân theo loại hình thất nghiệp. Thất nghiệp là một gánh nặng nhưng gánh nặng đó rơi vào đâu, bộ phận dân cư nào, ngành nghề nào cần biết những điều đó để hiểu rõ về đặc điểm, tính chất, mức độ tác hại... của thất nghiệp trong thực tế. Theo tiêu thức này ta có: + Thất nghiệp chia theo giới tính (nam, nữ). + Thấp nghiệp chia theo lứa tuổi (tuổi, nghề). + Thất nghiệp chia theo vùng lãnh thổ thành thị, nông thôn). + Thất nghiệp chia theo nghành nghề. + Thất nghiệp chia theo thành phần kinh tế (quốc doanh, ngoài quốc doanh) + Thất nghiệp chia theo dân tộc, chủng tộc... b.2. Phân loại theo lý do thất nghiệp . Theo lý do thất nghiệp ta chia thành các loại sau: + Bỏ việc: Tự ý xin thôi việc vì những lý do khác nhau như cho rằng lương thấp, không hợp nghề, không hợp vùng... + Mới vào: Lần đầu bổ sung vào lực lượng lao động nhưng chưa tìm được việc làm (thanh niên đến tuổi lao động đang tìm việc, sinh viên tốt nghiệp đang chờ công tác...) + Quay lại: Những người đã rời khỏi lực lượng lao động nay muốn quay lại làm việc nhưng chưa tìm được việc làm . b.3. Phân loại theo nguồn gốc thất nghiệp . Tìm hiểu nguồn gốc thất nghiệp có ý nghĩa phân tích sâu sắc về thực trạng thất nghiệp. Theo cách phân loại này, ta có: + Thất nghiệp tạm thời: Xảy ra khi có một số người lao động đang trong thời gian tìm kiếm công việc hoặc nơi làm việc tốt hơn hoặc những ngươì mơí bước vào thi trường lao động đang tìm kiếm việc làm hoặc chờ đợi đi làm. + Thất nghiệp cơ cấu: xảy ra khi có sự mất cân đối cung- cầu giữa các loại lao động (giữa các nghành, nghề khu vực...). Loại này gắn với sự biến động cơ cấu kinh tế và khả năng điều chỉnh cung của thị trường lao động ( tổ chức đào tạo lại, môi giới...). + Thất nghiệp do thiếu cầu: xảy ra khi mức cầu chung về lao động giảm xuống. Nguồn gốc chính là ở sự suy giảm tổng cầu. Loại thất nghiệp này thường gắn với thời kỳ suy thoái của chu kỳ kinh doanh nên còn gọi là thất nghiệp chu kỳ. + Thất nghiệp do yếu tố ngoài thị trường: Loại thất nghiệp này xảy ra khi chính phủ hoặc công đoàn ấn định mức lương cao hơn mức lương cân bằng thực tế của thị trường lao động. 3. Các nhân tố ảnh hưởng đến vấn đề việc làm . 3.1. Số lượng, chất lượng nguồn lao động và cơ cấu đào tạo. Đây là yếu tố thuộc về cung lao động. Chúng đóng vai trò quyết định đối với tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ thiếu việc làm cao hay thấp ở các quốc gia. Số lượng lao động càng lớn thì áp lực giải quyết việc làm sẽ càng lớn. Ngược lại nếu một quốc gia giảm dần được tốc độ tăng dân số quy mô lực lượng lao động sẽ biến đổi với tốc độ chậm dần, số lao động dư thừa trong nền kinh tế sẽ ít đi, khi đó tỉ lệ thất nghiệp sẽ giảm xuống. Chất lượng lao động và cơ cấu đào tạo quyết định khả năng đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế mà cụ thể là của các đơn vị kinh tế sử dụng lao động. Thực tế cho thấy chất lượng lao động thấp là nguyên nhân của tình trạng không tuyển được nhân cần có trình độ chuyên môn kỹ thuật cuả các công ty, nhất là các khu công nghiệp, các công ty có vốn đầu tư nước ngoài. Cơ cấu đào tạo giữa lao động có trình độ cao đẳng, đại học trở lên với lao động có trình độ trung học chuyên nghiệp và số công nhân kỹ thuật bất hợp lý cũng là nguyên nhân của tình trạng “vừa thừa, vừa thiếu”. Các nước đang phát triển như Việt Nam luôn ỏ trong tình trạng dân số đông, lực lượng lao động lớn nhưng chất lượng lao động thấp, cơ cấu đào tạo không hợp lý. Vì thế, đối với các quốc gia này tình trạng thất nghiệp thiếu việc làm đang là một vấn đề nan giải. 3.2. Tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tăng năng suất lao động. Nền kinh tế tăng trưởng nhanh sẽ tạo ra nhiều chỗ làm việc cho người lao động. Nhân tố này lại phụ thuộc vào việc tăng cường huy động và sử dụng các nguồn vốn đầu tư trong nước và từ nước ngoài (như FDI, ODA) và sự phát triển của các ngành các địa phương, của mọi thành phần kinh tế. Việc tăng chi tiêu của Chính phủ cũng góp phần làm giảm bớt tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm trong xã hội. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế luôn gắn liền với sự chuyển dịch cơ cấu lao động của các ngành. Thông thường nếu như năng suất lao động không đổi hoặc tăng không đáng kể, tỷ trọng của một ngành trong GDP tăng lên ( như ngành Công nghiệp và Dịch vụ) hoặc giảm xuống ( như ngành Nông nghiệp) thì tỷ trọng lao động của ngành đó cũng sẽ tăng lên hoặc giảm xuống tương ứng. Khi GDP và năng suất lao động của các ngành đều tăng nhanh, mức tăng lao động trong các ngành sẽ chậm lại. Quá trình chuyển dịch kinh tế diễn ra đồng thời với việc tăng nhanh năng suất lao động có thể gây ra sự dôi dư lao động trong nền kinh tế. Chính vì vậy việc nghiên cứu xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tăng năng suất lao động sẽ là căn cứ quan trọng để đưa ra các biện pháp nhằm giải quyết các vấn đề về lao động việc làm. 3.3. Sự ổn định kinh tế, chính trị. Sự ổn định về kinh tế, chính trị là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế, tạo mở việc làm. Khi nền kinh tế rơi vào tình trạng khủng hoảng, bất ổn định nghiêm trọng, nguy cơ thất nghiệp và thiếu việc làm sẽ ngày càng lớn. Những biến đổi lớn về chính trị như thay đổi Đảng cầm quyền, sụp đổ thể chế, bạo loạn, chiến tranh, mâu thuẫn sắc tộc, biểu tình, bãi công... cũng có những vấn đề tiêu cực đối với việc làm. 3.4. Sự di chuyển của lao động Các dòng di chuyển lao động bao gồm sự di chuyển lao động từ vùng này sang vùng khác, từ ngành này sang ngành khác, giữa các thành phần kinh tế và từ nước này sang nước khác. Do nhiều lý do khác nhau ( như tìm việc làm hoặc việc làm có thu nhập cao hơn, định cư...) người lao động di chuyển từ nông thôn ra thành thị, từ vùng Đồng bằng đông dân lên vùng Trung du, Miền núi; từ vùng kém phát triển này sang vùng phát triển hơn. Nhìn chung sự di chuyển lao động giữa các vùng sẽ làm giảm sức ép về việc làm của một số vùng nhưng có thể lại gây ra sự quá tải về số lượng lao động ở các vùng khác. Tuy nhiên nó cũng có những tác động tích cực như nâng cao thu nhập, giải quyết tình trạng thiếu việc làm của người dân nông thôn và các vùng nghèo, việc di cư đến các vùng thưa dân như miền núi, trung du sẽ góp phần giảm bớt tình trạng dư thừa lao động tại các vùng Đồng bằng. Sự di chuyển lao động giữa các ngành kinh tế hoặc từ khu vực Nhà nước sang khu vực ngoài quốc doanh, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài sẽ tạo điều kiện phân bố hợp lý lực lượng lao động trong từng ngành, từng khu vực, nhờ đó sẽ giảm bớt được số lượng lao động dôi dư. Sự di chuyển của lao động ra khỏi lãnh thổ Quốc gia dưới dạng xuất khẩu lao động hoặc xuất cảnh cũng góp phần điều chỉnh và làm giảm bớt sức ép về việc làm trong nước. Đây là một biện pháp mà các nước đang phát triển như Việt Nam đã và đang thực hiện. 3.5. Cơ chế, chính sách và các biện pháp phát triển kinh tế xã hội. Môi trường vĩ mô, trong đó bao gồm các cơ chế, chính sách và các biện pháp phát triển kinh tế xã hội của Nhà nước có tác động quan trọng đối với vấn đề lao động việc làm. Việc thay đổi cơ chế quản lý ( từ tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường...) trong giai đoạn đầu sẽ khiến cho nhiều Doanh nghiệp Nhà nước bị thua lỗ, phá sản do không thích nghi được với điều kiện kinh doanh mới, dẫn đến nhiều lao động sẽ phải nghỉ việc. Tuy nhiên khi cơ chế mới đã vận hành ổn định, hoạt động sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế sẽ phát triển mạnh hơn, tạo ra nhiều chỗ làm việc cho người lao động. Các chính sách, biện pháp phát triển kinh tế xã hội nói chung và đối với vấn đề lao động việc làm nói riêng của Nhà nước cũng có những tác động trực tiếp, gián tiếp đến tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm. Chính vì thế khi ban hành các chủ trương, biện pháp ở tầm vĩ mô, Nhà nước cần nghiên cứu, phân tích, đánh giá ảnh hưởng của chúng đối với vấn đề lao động, việc làm, từ đó có những bổ sung điều chỉnh nhằm đảm bảo giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa mục tiêu phát triển kinh tế xã hội và mục tiêu giải quyết việc làm của đất nước. 3.6. Hỗ trợ cộng đồng và dịch vụ việc làm. Hỗ trợ cộng đồng bao gồm sự tham gia giải quyết việc làm của các đoàn thể quần chúng, sự tương trợ, trợ giúp lẫn nhau về thông tin, vốn, kỹ thuật để tạo mở và giải quyết việc làm trong xã hội. Dịch vụ việc làm là hoạt động hỗ trợ trực tiếp đối với người lao động. Nó thường được thực hiện qua các trung tâm Dịch vụ việc làm. Nhờ các hoạt động này, người lao động được tư vấn, được giới thiệu, cung ứng việc làm, người sử dụng lao động cũng được cung cấp các dịch vụ cần thiết theo hợp đồng. Đây là các nhân tố tác động tích cực và đóng vai trò quan trọng trong công tác giải quyết việc làm của các quốc gia. 3.7. Trợ giúp Quốc tế và giải quyết việc làm. Các quốc gia nhất là các nước đang phát triển thường nhận được các khoản trợ cấp quốc tế để giải quyết các vấn đề xã hội, trong đó có vấn đề lao động việc làm. Một số nước phát triển còn cung cấp các khoản hỗ trợ song phương đối với lao động nước ngoài từng sinh sống và làm việc tại các quốc gia đó nhưng hết hạn hợp đồng hoặc phải trở về nước do có lý do về kinh tế hay chính trị ( như Quỹ Việt Đức, Quỹ Tiệp Khắc...). sự trợ giúp quốc tế về vốn đào tạo cán bộ... là rất cần thiết trong công tác giải quyết việc làm ở Việt Nam. III.Cơ cấu việc làm vàcác thị trường lao động. Thị trường lao động là biểu hiện quan hệ trao đổi diễn ra giữa một bên là người lao động với một bên là người muốn sử dụng lao động dựa trên nguyên tắc thoả thuận mua và bán sức lao động. Như vậy có thể coi sức lao động là hàng hoá và dịch vụ khác được mua và bán thị trường. Các nhà kinh tế cho rằng thị trường hoàn hảo là thị trường mà ở đó các hàng hoá được phân phối một cách hiệu quả thông qua giá cả. Nhưng ở mọi nơi, thị trường lao động chưa đều chưa hoàn hảo nhất là ở các nước đang phát triển. Thị trường lao động ở các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, bởi đặc trưng cơ cấu việc làm ba bậc, bao gồm: khu vực thành thị chính thức, khu vực phi kết cấu (khu vực thành thị không chính thức) và khu vực nông thôn. Việc làm và khu vực thành thị chính thức. Khu vực thành thị chính thức là nơi hầu hết mọi người đều thích làm việc nếu như có khả năng. Khu vực này bao gồm các tổ chức kinh doanh lớn như ngân hàng, công ty bảo hiểm, nhà máy, khách sạn, cửa hàng.. Những người lao động luôn chờ đón cơ hội được làm việc ở những nơi này, sức hẫp dẫn đối với họ là luôn được trả lương cao và cung cấp việc làm ổn định. Lý do cơ bản để họ được trả lương cao là vì ở những cơ sở này họ thuê những người lao động có trình độ chuyên môn cao, đã có trình độ cao đẳng, đại học, trung học. Vì vậy, ở khu vực này hầu như có một dòng người đang chờ việc làm. Tại khu vực thành thị chính thức, tiền lương được trả trên mức cân bằng của thị trường (w1>w0) và thường xuyên có dòng người chờ xin việc (L1’ >L1). (H1 : Cung- cầu lao động ở khu vực thành thị chính thức. Nguồn: Giáo trình kinh tế phát triển - Đại học Kinh tế Quốc dân) SL W2 W1 DL Lao động L2 L1 Việc làm và thị trường lao động khu vực thành thị không chính thức. Khu vực thành thị phi chính thức bao gồm những cửa hàng, những cơ sở kinh doanh bên lề đường, các đơn vị hoạt động tạp vụ ngoài đường, các cơ sở nhỏ khác nằm bên cạnh các cơ sở kinh tế lớn của khu vực thành thị chính thức. Những lao động ở khu vực này đại bộ phận là những người dân thành phố có vốn ít, trình độ chuyên môn thấp, một bộ phận ở nông thôn ra. Người lao động tham gia vào khu vực này khá dễ dàng, tuy nhiên thời gian làm việc hàng ngày tương đối dài, thu nhập thấp. Mặc dù vậy, mức thu nhập trung bình của người lao động trong khu vực này vẫn cao hơn ở khu vực nông thôn. Mức tiền công ở khu vực thành thị phi chính thức được xác định ở điểm cân bằng của thị trường. Mức tiền công này thấp hơn ở khu vực thành thị chính thức (w2<w1). (H2: Cung - Cầu lao động ở khu vực thành thị không chính thức. Nguồn: Giáo trình kinh tế phát triển - Đại học Kinh tế Quốc dân - 1999) Tiền công SL W2 DL L2 0 Lao động ở các nước đang phát triển, khu vực thành thị không chính thức được coi là khu vực quan trọng để tạo việc làm cho người lao động. Kết quả nghiên cứu trong những năm gần đây cho thấy ở Việt Nam, tỷ lệ lao động ở khu vực này khoảng 40-50% (ở khu vực thành thị phía Bắc). Hoạt động trong khu vực thành thị không chính thức ở nước ta có thể phân chia thành ba loại chủ yếu như sau: + Loại hình hoạt động đơn lẻ - gồm những người bán hàng vặt, hàng rong, cắt tóc, đạp xích lô, đánh giầy, bán vé số... + Loại hình hoạt động đã mang tính tập thể theo hình thức hộ gia đình hoặc một số người góp vốn. Loại hình này đòi hỏi có nguồn vốn đầu tư và phương tiện hoạt động nhất định, người lao động có hiểu biết về chuyên môn nghề nghiệp. + Loại hình là những đơn vị kinh tế mà hoạt động của nó đã vượt ra ngoài phạm vi gia đình, tính tổ chức và hạch toán trong kinh doanh chặt chẽ hơn. Loại hình này có vốn đầu tư lớn hơn, có trang bị kỹ thuật và kinh doanh ổn định có hiệu quả. Việc làm và thị trường lao động khu vực nông thôn. Đối với các nước đang phát triển, lao động trong khu vực nông thôn thường làm việc trong phạm vi gia đình và mục đích không phải lấy tiền công mà để đóng góp phần mình vào sản lượng của gia đình. Tuy vậy, ở khu vực này vẫn tồn tại một thị trường lao động làm thuê, nhất là theo mùa vụ. Những người làm thuê này thường là do gia đình đông người, đất trồng trọt lại thiếu.. Mặt khác, ở nông thôn, các hộ gia đình vẫn duy trì hoạt động lao động trao đổi lao động vào các thời điểm khác nhau trong năm. Thu nhập của những trường hợp này có thể là đổi công hoặc được trả công bằng tiền hoặc bằng hiện vật. ở khu vực nông thôn, người nông dân không chỉ làm nghề nông mà còn tham gia vào một số hoạt động phi nông nghiệp khác như buôn bán, dịch vụ, nghề thủ công. Tiền công của khu vực này được xác định tại điểm cân bằng W3 nhưng thấp hơn ở khu vực thành thị không chính thức. (H2: cung cầu lao động ở khu vực nông thôn. Nguồn: Giáo trình KTPT - Đại học KTQD 1999) Tiền công SL Giải quyết việc làm - vấn đề của mỗi quốc gia. ý nghĩa của vấn đề giải quyết việc làm đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội. Về mặt kinh tế. Giải quyết việc làm là vấn đề được đặt ra ở nhiều quốc gia, kể cả các nước phát triển và đang phát triển. Điều này không chỉ có ý nghĩa đối với một bộ phận dân cư, những người thiếu việc làm và thất nghiệp mà quan trọng hơn, nó tác động đến sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. ở Việt nam hiện nay, giải quyết việc làm cho người lao động trước hết sẽ tạo điều kiện để khai thác được tối đa những nguồn lực quan trọng còn đang tiềm ẩn như tài nguyên vốn, ngành nghề.... thông qua lao động của con người. Khi người lao động có việc làm sẽ mang lại thu nhập cho bản thân họ và từ đó tạo ra tích luỹ. Nhà nước không những không phải chi trợ cấp cho những người nghèo không có việc làm mà khi giải quyết việc làm cho họ, họ có thể mang lại tích luỹ cho nền kinh tế quốc dân. Tăng tích luỹ sẽ giúp cho sản xuất được mở rộng, thu hút thêm nhiều lao động. Mặt khác, khi người lao động có thu nhập, họ sẽ tăng tiêu dùng, từ đó làm tăng sức mua của toàn xã hội. Tăng tích luỹ sẽ giúp cho sản xuất được mở rộng, tức là tác động đến tổng cung, tăng tiêu dùng sẽ làm cho tổng cầu của nền kinh tế tăng lên kích thích thích sự phát triển của sản xuất, từ đó thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế. Nước ta luôn tồn tại tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm nghiêm trọng. Đại bộ phận dân cư có mức sống thấp, nhiều người lao động c._.ần có việc làm hoặc việc làm hiệu quả hơn. Giải quyết việc làm ở Việt nam trong tình trạng hiện nay có một ý nghĩa to lớn đối với quá trình phát triển kinh tế, góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng và nâng cao thu nhập quốc dân. 2. Về mặt xã hội Giải quyết việc làm là một vấn đề mang tính xã hội. Mỗi con người khi trưởng thành đều có nhu cầu và mong muốn làm việc, đó là nhu cầu chính đáng và cũng là quyền lợi của người lao động. Chính vì vậy, giải quyết việc làm đầy đủ cho người lao động có ý nghĩ rất lớn đối với mỗi cá nhân và cả xã hội. Khi Chính phủ có chính sách tạo việc làm thoả đáng, điều đó sẽ đem đến sự công bằng trong xã hội, tạo công ăn việc làm cho tất cả lao động. Từ đó mà mọi người lao động có thu nhập, không phải lo ăn bám, hạn chế được sự phân hoá giàu nghèo, tệ nạn xã hội có thể giảm bớt. Ngược lại, nếu không giải quyết tốt việc làm cho người lao động, hiện tượng thất nghiệp và thiếu việc làm sẽ tăng lên. Điều này luôn gắn liền với sự gia tăng các tệ nạn xã hội như cờ bạc, trộm cắp, ma tuý... làm rối loạn trật tự an ninh xã hội, tha hoá nhân phẩm người lao động. Thất nghiệp ở mức cao còn gây ra sự bất ổn định về kinh tế và chính trị, có khi nó còn là tác nhân gây ra sự sụp đổ của cả một thể chế, làm mất niềm tin của người dân đối với Nhà nước và các chính Đảng. Giải quyết việc làm trên phạm vi rộng còn bao gồm cả những vấn đề liên quan đến phát triển nguồn lực và sử dụng có hiệu quả nguồn lao động. Trên giác độ này, giải quyết việc làm góp phần nâng cao chất lượng nguồn lao động nhằm đáp ứng những yêu cầu của thị trường, đồng thời xây dựng nguồn lực lâu dài cho đất nước. Giải quyết việc làm gắn liền với quá trình phân công lao động theo ngành và theo lãnh thổ. Nếu như không có các biện pháp tạo mở việc làm hợp lý cho khu vực nông thôn, nhiều người lao động ở khu vực này sẽ ra thành thị để tìm việc làm, gây sức ép cho khu vực thành thị trên tất cả các mặt như: nhà cửa, điện nước, y tế, thậm chí gây ra cả những rối loạn về mặt xã hội. II. Vai trò của Nhà nước và xã hội trong lĩnh vực giải quyết việc làm Sự ra đời và phát triển của Nhà nước gắn liền với sự hình thành và hoàn thiện các chức năng của mình. Giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội là một chức năng cơ bản bao trùm mà Nhà nước thường xuyên phải thực hiện. Khi vấn đề thất nghiệp và thiếu việc làm nảy sinh, Nhà nước phải đứng ra giải quyết nhằm ngăn chặn và giảm bớt những hậu quả về kinh tế xã hội mà vấn đề có thể gây ra, đồng thời hướng những tác động đó vào mục tiêu phát triển đất nước. Chính vì thế, khi tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm càng cao thì vai trò của Nhà nước trong lĩnh vực giải quyết việc làm sẽ càng lớn. Nhà nước có thể đưa ra nhiều chính sách và biện pháp khác nhau đểu giải quyết việc làm. Nhà nước tạo ra khuôn khổ pháp lý để giải phóng sức lao động, khuyến khích toàn dân tham gia phát triển sản xuất, tự tạo việc làm, khuyến khích các đơn vị kinh tế thu hút thêm nhiều lao động. Nhà nước sử dụng công cụ tài chính, phát huy vai trò của bộ máy Nhà nước, các đoàn thể xã hội để thực hiện các chính sách, biện pháp đưa ra như cho các đối tượng vay vốn với lãi suất thấp (ưu đãi), phát triển các dịch vụ việc làm và dạy nghề, tạo chỗ làm mới trong các ngành, các địa phương, các thành phần kinh tế ... Kết quả giải quyết việc làm ở các quốc gia sẽ phụ thuộc rất lớn vào mức độ quan tâm của Nhà nước cũng như các chính sách, biện pháp mà Nhà nước thực thi. Việc làm có mối quan hệ mật thiết với chất lượng cuộc sống của người lao động và gia đình họ. Vì vậy, giải quyết việc làm không những là nhiệm vụ của Nhà nước mà còn là trách nhiệm của mọi người lao động và toàn xã hội. Trong đó, các tổ chức kinh tế xã hội, các đoang thể quần chúng đóng vai trò tích cực trong việc hướng dẫn giúp đỡ người lao động trang bị kiến thức, nghề nghiệp, tìm việc làm và tạo việc làm cho họ. Sự tham gia của các tổ chức, đoàn thể này sẽ góp phần quan trọng cùng với Nhà nước giải quyết có hiệu quả những vấn đề lao động, việc làm đang được đặt ra. Nhà nước Việt nam là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Đảng và Nhà nước đã khẳng định: Nền kinh tế nước ta “vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN”. Chính vì thế, Nhà nước cùng với các đoàn thể xã hội cần phát huy mạnh mẽ vai trò của mình trong lĩnh vực giải quyết việc làm, một trong những vấn đề kinh tế xã hội cấp bách hiện nay. III. Kinh nghiệm một số nước trong lĩnh vực giải quyết việc làm 1. Kinh nghiệm của Trung Quốc: Trung Quốc là một nước láng giềng có nhiều nét văn hoá và xã hôi tương đồng với Việt Nam. Đây là một quốc gia có quy mô dân số và lao động lớn nhất trên thế giới. Chính vì thế, giải quyết việc làm ở Trung Quốc luôn là một vấn đề được quan tâm hàng đầu. Sau gần hai thập kỷ cải cách mở cửa, Trung Quốc đã giành được những thành tựu nổi bật trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội. Với tỷ lệ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm (giai đoạn 1978-1985) đạt xấp xỉ 10%, Trung Quốc trở thành một nước có tốc độ phát triển kinh tế cao nhất khu vực Châu á - Thái Bình Dương. Nhờ kinh tế phát triển trong cải cách mở cửa, Trung Quốc đã có điều kiện giải quyết một bước quan trọng vấn đề lao động và việc làm một trong những vấn đề khó khăn, nan giải nhất đối với một quốc gia đang phát triển có số đân khổng lồ, khoảng 1,2 tỷ người. Theo thống kê, từ khi tiến hành cải cách mở cửa đến năm 1995, Trung Quốc đã tạo được công ăn việc làm cho khoảng 228 triệu người, tương đương với đân số của các nước Anh, Pháp, Đức, ý cộng lại. Và nếu so sánh với toàn bộ thời kỳ 30 năm trước cải cách thì số lao động được sắp xếp việc làm ở Trung Quốc thời kỳ 1980-1985 đã nhiều hơn đến 30 triệu người, đó thực sự là một kỳ tích có một không hai của lịch sử hiện đại Trung Quốc và trên thế giới. Có được thành tựu đáng khích lện này là do Trung Quốc kiên trì thực hiện chính sách cải cách thể chế kinh tế ở cả nông thôn và thành thị. Trước hết đó là các chính sách hỗ trợ nông nghiệp phát triển như cơ chế khoản hộ trong nông nghiệp, chính sách về vốn đầu tư, tăng gái thu mua lương thực v.v... Bên cạnh đó, Trung Quốc phát triển fcác xí nghiệp hương trấn, một loại hình có nhiều ưu thế như sử dụng vốn ít, kỹ thuật đơn giản, mức lương tương đối thấp, thu hút được nhiều lao động. Theo các số liệu thống kê, trong vòng 10 năm (từ 1981 đến 1990), số người làm việc trong các xí nghiệp tăng từ 28,28 triệu đến 92,65 triệu. Trung Quốc cũng xây dựng các xí nghiệp nhỏ, phi quốc hữu hoá ỏ thành thị, thực thi chính sách phát triển sản xuất kinh doanh đa dạng với nhiều ngành nghề, nhiều loại sản phẩm, sắp xếp lại cơ cấu kinh tế theo hướng hợp lý, phát triển dịch vụ ở Trung Quốc đã tăng hơn 3 lần. Lao động công nghiệp cũng tăng theo hướng cân đối và hợp lý hơn. Trên cơ sở đó, Trung Quốc thúc đẩy hình thành thị trường trong nước và hướng ra bên ngoài. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển các chế độ “ thị trường hoá việc làm” và do đó nâng cao trình độ chuyên môn hoá sản xuất, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp, Trung Quốc hiện nay vẫn đang phải đổi mặt với sức ép ngày càng tăng của ván đề lao động việc làm, trước hết là lực lượng lao động dư thừa một cách tiền tàng của bộ phận kinh tế dựa trên chế độ công hữu. Theo ước đoán, tổng số lao động cần việc làm ở Trung Quốc thời kỳ 1995-2010 sẽ rất lớn, mỗi năm cần phải tạo ra được 7,5 triệu chỗ làm việc mới. Trước tình hình đó, Trung Quốc đã đưa ra một số giải pháp chủ yếu để giẩi quyết việc làm như sau: Thứ nhất, chú trọng phát triển nhanh hơn và nhiều hơn các ngành kinh tế cần nhiều sức lao động, áp dụng phương pháp lấy sức lao động thay vốn để giải quyết mâu thuẫn giữa thiếu nguồn vốn và thừa lao động. ở đây, một trong những biện pháp khả thi là đẩy nhanh sự phát triển các ngành dịch vụ. Thứ hai, xây dựng mô hình “thành phố nông thôn”. Hệ thống “thành phố nông thôn” này vừa thúc đẩy công nghiệp hó và đô t hị hoá, vừa góp phần phát triển các ngành sản xuất phi nông nghiệp, nâng cao độ đồng đều trong việc tạo dựng việc làm trên quy mô toàn quốc, trên cơ sở đó, giảm bớt gánh nặng về đời sống và việc làm cho các thành phố hiện nay và trong các năm tiếp theo. Thứ ba, bảo vệ và phát triển một cách hợp lý nhân tố tư bản tư nhân ở nông thôn, thực hiện đại chứng hoá tư bản. Việc khuyến khích người dân tích luỹ tư bản sẽ tạo điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế, tạo việc làm nhiều hơn, giải tỷ lệ thất nghiệp trên tầm vĩ mô. Thứ tư, lựa chọn chiến lược ” xuất khẩu việc làm”, xuất khẩu hàng tinh chế do nguồn lao động chủ yếu trong nước sản xuất đưa lao động ra nước ngoài dưới nhiều hình thức, trong đó chú trọng hình thức đấu thầu các hạng mục kinh tế với nước ngoài. Thứ năm, phát triển nguồn nhân lực, tháo gỡ từng bước vấn đề mâu thuẫn giữa yêu cầu chất lượng việc làm ngày càng cao với số lượng lao động dư thừa ngày càng lớn. Các giải pháp nêu trên đã và đnag có những đóng góp tích cực trong lĩnh vực giải quyết vấn đề lao động việc làm ở Trung Quốc. Đó cũng là những gợi ý có ích đối với Việt Nam trong vấn đề giải quyết việc làm. 2. Kinh nghiệm Đài Loan. Đài loan là một vũng lãnh thổ hải đảo với 80 đảo lớn nhỏ, tổng diện tích 36.000 km2, cách Trung Hoa đại lục 150 km. Dân số Đài loan đã tăng nhanh từ 8 triệu người năm 1952 lên tới 20 triệu người hiện nay. Mặc dù vậy, do Đài loan có những thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế, tạo việc làm cho người lao động, thu nhập tính bình quân đầu người của họ đã tăng nhanh từ 148 USD vào năm 1952 lên 7726 USD vào năm 1990 và nay đạt trên 10.000 USD. Trong giai đoạn 1953-1962, Đài loan đã đưa ra chiến lược phát triển, nông nghiệp gắn liến với chiến lược phát triển công nghiệp thay thế nhập khẩu nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng nội địa và giải quyết việc làm. Đài loan chú trọng quy mô vừa và nhỏ, công nghệ không cao, xây dựng nhanh nên thu hồi vốn cũng nhanh, tạo được nhiều chỗ làm việc trọng giai đoạn khởi động nền kinh tế. Nhờ vậy, công nghiệp Đài loan trong giai đoạn này tăng bình quân hàng năm 11,7% số lao động công nghiệp tăng gấp rưỡi trong 10 năm (1952-1962) từ 36 vạn người lên 53,4 vạn người. Từ sau năm 1971, Đài loan luôn giữ ổn định về việc làm cho người lao động bằng một số biện pháp cơ bản sau: Thứ nhất - Phát triển mạnh mẽ kinh tế nông nghiệp bằng những cách thức cụ thể như: tăng vụ cây trồng 2-3 vụ lúa xen với 1-2-3 vụ cây trồng ngắn ngày; đa dạng hoá các hình thức kinh doanh với nhiều ngành nghề; đẩy mạnh cải cách ruộng đất theo phương thức: Bán ruộng đất công và thực hiện chính sách ruộng đất thuộc người cày, điều chỉnh lợi nhuận nông phẩm. Thứ hai - Đẩy mạnh tiến trình công nghiệp hoá, gắn liền vấn đề tạo việc làm với vấn đề công nghiệp hoá. Thứ ba - Tích cự phát triển các ngành sản xuất cần nhiều lao động để đẩy nhanh tốc độ tạo ra nhiều việc làm. Thứ tư - Tích cực mở rộng mậu dịch đối ngoại và tăng cường khai thác thị trường quốc tế để tạo việc làm cho người lao động. Thứ năm - Nâng cao mức tăng tiền gửi tiết kiệm và đầu tư để tạo ra sự gia tăng việc làm. Thứ sáu- Giải quyết tối mối quan hệ giữa tăng việc làm và tăng thu nhập đảm bảo cho việc làm và thu nhập cũng tăng. Quá trình công nghiệp hoá được thực hiện với nhiều giải pháp nêu trên đã góp phần thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu lao động xã hội ở Đài loan. Năm 1952, ở nước này, lao động nông nghiệp chiếm 50 %, lao động công nghiệp chiếm 16,9%, lao động dịch vụ chiếm 27%. Đến năm 1992, lao động nông nghiệp đã giảm xuống còn 12,8%, lao động công nghiệp tăng lên 40,2% và lao động dịch vụ tăng lên 46,9%. Do coi trọng vấn đề phát triển nguồn nhân lực hơn nhiều quốc gia khác trên thế giới, Đài Loan đã rút ngắn được khoảng cách trong thu nhập giữa người giàu và người nghèo, giữa thành thị và nông thôn. Thu nhập của nông dân Đài Loan hiện nay bằng 70% thu nhập của công nhân viên chức ở thành thị. Đặc biệt, tỷ lệ thất nghiệp của Đài Loan đã được duy trì ở mức thấp dưới 2%. 3. Kinh nghiệm Nhật Bản Sau năm 1945, nền kinh tế Nhật Bản bị tàn phá nặng nền do chiến tranh, thiệt hại về vật chất lên tới 61,6 tỷ yên. Hơn 13 triệu người rơi vào tình cảnh không có việc làm. Dòng người thất nghiệp từ thành thị đổ về nông thôn làm cho số hộ ở nông thôn tăng lên nhanh chóng, trước năm 1945, số hộ ở nông thôn khoảng 5,5 triệu, năm 1960 đã lên tới 6,18 triệu hô. Chính phủ Nhật Bản đã đưa ra nhiều biện pháp và chính sách phát triển kinh tế tạo việc làm cho người dân. Nhật Bản đã tận dụng sự giúp đõ về tài chính và thị trường của Mỹ như nhận các đơn đặt hàng, các khoản viện trợ, đầu tư về vốn, máy móc, trang thiết bị trong giai đoạn đầu khôi phục kinh tế, tạo đà cho sự phát triển nhảy vọt sau này. Đặc biệt, người Nhật đã huy động và sử dụng vốn rất táo bạo và có hiệu quả. Tích luỹ của Nhật Bản luôn đạt từ 30-40% so với GDP trong giai đoạn từ 1951-1973, tiền lương bình quân của Nhật rất thấp, chỉ bằng 1/4 của Mỹ, 1/5 của Anh, 1/2 của Pháp. Mặc dù hạn chế chi tiêu cho phúc lợi xã hội, Nhật Bản vẫn đầu tư rất lớn cho giáo dục- đào tạo. Chính vì thế, người lao động ở Nhật Bản có trình đọ chuyên môn, kỹ thuật cao. Với nguồn vốn được huy động, tích luỹ, tiết kiêm, pháp hành công trái.... Nhật Bản đã đầu tư cho các ngành có điều kiện và hiệu quả cao như luyện kim , hoá chất, đóng tàu, chế tạo máy, lọc dầu, đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng. Nhật Bản cũng đầu tư cho nghiên cứu khoa học kỹ thuật, chú trọng nghiên cứu khoa học ứng dụng. Thị trường của Nhật Bản ở nước ngoài và trong nước ngày càng được mở rộng. Hàng hoá của Nhật Bản đã xâm nhập vào các thị trường Đông Nam á, một số nước Châu Mỹ, Châu âu và được ưa chuộng, tín nhiệm của nhiều quốc gia trên thế giới. Nhật Bản đã có chính sách và biện pháp nhằm thực hiện công nghiệp hoá nông thôn, vừa biến nền công nghiệp cổ truyền kiểu Châu á thành nền nông nghiệp tiên tiến, vừa phát triển công nghiệp nông thôn theo hướng đa dạng nhằm qiải quyết việc làm ở khu vực này. Các ngành nghề tiểu, thủ công nghiệp truyền thống cũng được khuyến khích phát triển. Vào những năm 70, tính QIVA C Tât Nam Nhật Bản, đã có phong trào “ Mỗi thôn làng một sản phẩm “ nhằm khai thác các ngành nghề cổ truyền nông thôn. Ngay năm đầu tiên, họ đã tạo ra 143 loại sản phẩm thu được 250 triệu USD. Đến năm 1992 tăng lên 1,2 tỷ USD. Phong trào phục hồi ngành nghề tiểu thủ công nghiệp truyền thống đã lan rộng ra khắp nước Nhật, góp phần giải quyết biệc làm cho hàng triệu lao động, làm tăng mức sống cũng như tốc độ đo thị hoá của nông thôn Nhật Bản. Với nhiều chính sách và biện pháp hữu hiệu, Nhật Bản đã kiềm chế được tỷ lệ thất nghiệp ở mức trên dưới 2-3% trong rất nhiều năm kể từ khi tiến hành khôi phục kinh tế sau chiến tranh. Đến đầu năm 1999, do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế, tỷ lệ thất nghiệp ở Nhật Bản đã tăng lên cao nhất từ năm 1950 trở lại đây (4,8% trong quý đầu năm). Để đối phó với tình hình này, Chính phủ Nhật Bản đã thông qua chương trình “ cả gói” để giải quyết nạn thất nghiệp và cơ cấu lại các công ty. Chương trình sẽ góp phần tạo hơn 700.000 việc làm cho các thành phần kinh tế tư nhân thông qua các dự án của Chính phủ. Nhân sách bổ sung để thực hiện chương trình cả gói này là 500 tỷ yên (4,2 tỷ USD). Chính phủ sẽ cấp vốn cho các địa phương tạo việc làm trong 2 năm tới. Phần II Thực trạng về thị trường lao động thành phố vinh Nghệ an A- Phần cung lao động: I- Đặc điểm chung về dân số và lực lượng lao động 1. Đặc điểm của dân số điều tra. 1.1- Quy mô hộ gia đình và cơ cấu dân sô Quy mô hộ gia đình Quy mô hộ gia đình (số nhân khẩu/hộ) thường gắn liền với tỷ lệ sinh. Tuy nhiên các mối hạn hệ trong cuộc sống như mức độ quan hệ huyết thống, hôn nhân hay nuôi dưỡng của các thành viên, mức độ sống riêng hay chung của các hộ càng làm cho quy mô hộ gia đình lớn nhỏ khác nhau. Biểu 1: Một số đặc trưng hộ gia đình chia theo quy mô hộ <4 4á5 >5 Chung - Tổng số nợ 585 1.315 298 2.198 % so với tài sản 26,6 59,8 13,6 100 - Số nhân khẩu bq/hộ 2,7 4,4 6,4 4,2 - Số người trong độ tuổi lao động/hộ 2,0 3,0 4,2 2,9 % so số người/hộ 74,1 68,2 65,6 69,0 - Số người HSSKT/hộ 1,4 1,9 2,8 1,9 % số trong tuổi lao động 70,0 63,3 66,7 65,5 (Báo cáo phân tích kết quả thị trường lao động thành phố Vinh Nghệ An- Năm 1999- Bộ LĐ-TBXH/ Viện KHLĐ và CVĐXH) Số liệu cho thấy: - Số nhân khẩu bình quân hộ gia đình của dân số Thành phố Vinh vào loại thấp (so cả nước và nhiều địa phương khác) và có xu hướng giảm trong những năm gần đây (4,2 nhân khẩu/hộ so với 4,5 nhân khẩu/hộ ở cuộc điều tra lao động việc làm năm 1997). Sự suy giảm này có thể chủ yếu do việc giảm mức sinh và tách hộ của dân số. - Xem xét cơ cấu phẩn bổ nhóm hộ theo quy mô khác nhau cho thấy có tới 60% số hộ có quy mô từ 4 đến 5 người. Số hộ có quy mô lớn hơn cũng chỉ chiếm khoảng 14% tổng số. Số còn lại (khoảng 27%) là các hộ có quy mô nhỏ (<4 người). Từ cơ cấu phân bố này có thể nhận định rằng những năm gần đây dân số Thành phố Vinh đã có sự biến đổi khá rõ nét về quy mô từ hộ gia đình đông người sang hộ gia đình có quy mô nhỏ hơn. Quá trình biến đổ này gắn với sự suy giảm mức sinh và những tiến bộ to lớn trong phát triển kinh tế xã hội của Thành phố cũng như cuộc sống của mỗi gia đình. - Sự phân bố số người trong độ tuổi lao động, mặc dù không chịu ảnh hưởng rõ rệt của quy mô hộ gia đình nhưng cũng có sự khác nhau đáng kể giữa các hộ gia đình có quy mô khác nhau. Tuy nhiên, sự khác biệt này không mang tính quy luật, vì thực tế hộ gia đình lớn nhỏ cũng không hoàn toàn phụ thuộc vào mức sinh của dân số. Số liệu khảo sát cho thấy tỷ lệ nhân khẩu trong độ tuổi lao động (Nam: 15- 60 và nữ 15-55) của hộ gia đình giảm khi quy mô hộ gia đình lớn (trong thực tế cũng không hoàn toàn diễn ra theo một trật tự như vậy). Thực tế điều tra cho thấy ở những hộ gia đình có quy mô vừa và nhỏ (dưới 5 người) thường là những gia đình hạt nhân (vợ/ chồng và con cái) nên số người lao động thường chiếm tỷ lệ cao (tới 3/4) trong số thành viên hộ gia đình. ở những hộ gia đình đông người, một phần lớn do mức sinh cao (tỷ lệ trẻ em lớn), phần khác do có nhiều thế hệ hơn ( > 3 thế hệ) (tỷ lệ người già lớn) có thể là những nhân tố trực tiếp làm giảm tỷ lệ người trong độ tuổi lao động của hộ gia đình. Tình trạng hoạt động kinh tế của dân số trong độ tuổi lao động phân theo quy mô hộ gia đình có thể nói lên sức ép của dân số đối với việc giải quyết đối với những vấn đề có liên quan đến lao động, việc làm. Số liệu phân tích cho thấy tỷ trọng dân số hoạt động kinh tế không phụ thuộc một có trật tự vf quy moo hộ gia đình mà chủ yếu phụ thuộc vào cấu trúc tuổi của các thành viên, đối tượng hoạt động kinh tế của hộ và các thành viên trong hộ. Theo kết quả điều tra số người hoạt động kinh tế chiếm tỷ lệ cao nhất (70%) là ở hộ gia đình nhỏ (<4 người - trung bình 2,7 người) và thấp hơn cả là ở hộ có quy mô trung bình (4-5 người). Điều này có thể được giải thích rằng hộ có 4-5 người thường là hộ gia đình hạt nhân có tỷ lệ cao hơn về số trẻ em trong độ tuổi đi học so với các nhóm hộ gia đình khác, cả đối với hộ có 6 người trở lên. Hơn nữa hộ gia đình ít người và hộ gia đình đông người cũng chịu ảnh hưởng rất lớn bởi những tác động về kinh tế và đời sống. ở những hộ gia đình này, các thành viên trong độ tuổi thường phải tìm cách để có việc làm nên tỷ lệ hoạt động kinh tế thường cao hơn nhóm hộ gia đình có quy mô trung bình 1.2. Cơ cấu giới tính - độ tuổi. Từ các số liệu cho thấy. - Dân số của các hộ gia đình được khảo sát có cơ cấu tuổi vào loại “lý tưởng” so với dân số chung cả nước cũng như của nhiều địa phương khác vì số người trong độ tuổi lao động chiém tỷ lệ rất cao (68-69%) và tỷ lệ trể con (0-14 tuổi) rất thấp (23,8%). Do dự phân bố này mà tỷ lệ người già (>60 tuổi) cũng chỉ xấp xỉ 8%. Điều đáng lưu ý rằng số người ở độ tuổi lao động xung mãn nhất (20-45 tuổi) chiếm tởi hơn 1/3 dân số đuực khảo sát. Do vậy, gánh nặng dân số phụ thuộc (tỷ lệ trẻ em 0-14 tuổi và người già trên 60 tuổi so với dân số trong độ tuổi 15-60) vào loại rất thấp (31,6%). Điều này, có nghĩa là ở thành phố Vinh hiện nay, 2 lao động chỉ phải nuôi không đến 1 người ăn theo - Đây là một trong những thế mạnh của nguồn nhân lực thành phố. Biểu2: Phân tích dân số theo nhóm tuổi và theo giới Nhóm tuổi Chung Nam Nữ Tỷ số giới tính (Nam/100nữ) <13 19,0 19,9 18,5 104,3 13á14 4,7 4,9 4,5 105,2 15á24 21,4 21,9 21,0 101,0 25á45 27,7 26,9 28,3 91,64 46á55 15,0 13,4 16,6 78,2 56á60 4,4 5,1 3,6 137,1 61á65 2,4 2,7 1,9 149,3 >65 5,4 5,2 5,6 90,0 Tổng số 100,0 100,0 100,0 96,7 (Nguồn: Báo cáo phân tích kế quả thị trường lao động thành phố Vinh Nghệ An-năm 1999 Bộ LĐTB và XH - Viện KHLĐ và CVĐXH) Biểu 3: Cơ cấu dân số theo giới và 3 nhóm tuổi lớn Nhóm tuổi Chung Nam Nữ Tỷ số giới tính (Nam/100nữ) So sánh ĐTLĐ-VL (1997) Cơ cấu Tỷ số giới tính 0á14 23,8 24,8 23,0 104,28 35,0 105,4 15á60 68,4 67,2 69,5 93,58 57,2 94,4 >60 7,8 8,0 7,5 102,82 7,8 66,3 Tổng số 100,0 100,0 100,0 96,73 100,0 95,3 (Nguồn: Báo cáo phân tích kế quả thị trường lao động thành phố Vinh Nghệ An-năm 1999 ,Bộ LĐTB và XH - Viện KHLĐ và CVĐXH) Cơ cấu giới tính và tuổi tác là một trong những đặc trưng quan trọng nhất của dân số. Trước hết, phân bố dân số theo giới tính và tuổi được tạo nên bởi xu hướng biến đổi của mức sinh, tử vong và di chuyển của dân số. Trên góc độ phát triển và sử dụng nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế xã hội nói chung và hộ gia đình nói riêng, tỷ lệ cao dân số trong tuổi lao động và sự cân bằng hơn về giới tính sẽ là mục tiêu quan trọng của phát triển xã hội và là chỉ số quan trọng thể hiện một phần chất lượng của dân số. Biểu 2 và biểu 3 cho thấy rõ hơn những đặc trưng về cơ cấu độ tuổi và giới tính của dân số điều tra. - Hình như có sự phân bố không bình thường về tỷ số giới tính (số Nam/100 nữ) của dân số ở độ tuổi già, đặc biệt là ở 2 nhóm tuổi 56-60 và 61-65 - nhóm tuổi có số nam nhiều hơn nữ tới 1,3 - 1,4 lần. Tính đặc thù này có thể do tác động của dòng di cư từ nông thôn về thành phố mà phần đông họ là những nam giới ở độ tuổi về hưu. Bên cạnh đó, mẫu điều tra cũng có thể là một yếu tố ảnh hưởng đến sự phân bố này. 2. Lực lượng lao động (LLLĐ) Lực lượng lao động (trong cuộc điều tra này) được hiểu là một bộ phận dân số ở độ tuổi 13-65 trực tiếp tham gia hoặc đang cố gắng tham gia vào các hoạt động kinh tế. Do vậy, LLLD ở đây được đồng nhất với “Dân số hoạt động kinh tế “ (ở độ tuổi trên). Như vậy, những người già trên 65 tuổi, những trẻ em dưới 13 tuổi, những người tàn tật về mặt thể xác hay tinh thần,... thường không tham gia vào LLLĐ - hay dân số không hoạt động kinh tế. 2.1. Phân bố LLLD theo độ tuổi và tình trạng hoạt động kinh tế Theo số liệu điều tra (Biểu 5) tổng nguồn lao động ( bao gồm những người từ 13 - 65 tuổi có khă năng lao động )trong tổng dân số được khảo sát là 6.881 người (chiếm 75,6% dân số), trong đó nam 3.340 người (chiếm 48,5%) và nữ : 3.541 người (chiếm 51,5%) bao gồm những người có việc làm (có hoạt động kinh tế )và những người có khả năng lao động nhưng không tham gia trực tiếp vào các hoạt động sản xuất kinh doanh (đang thất nghiệp, đi học, nội trợ và tình trạng khác). Biểu 5: Phân bố dân số 13á65 TS Có việc làm (HĐKT) Không có việc làm (Dân số không HĐ KT) TS Chia ra Người % Người % Người % Thất nghiệp Đi học (%) Nội trợ (%) KCKNLĐ (%) Khác 1. TS 6949 100 4147 59,6 2802 40,4 3,7 27,3 1,6 1,5 6,3 Nam 3395 100 1595 57,7 1436 42,3 4,8 28,9 0,1 1,8 6,7 Nữ 3554 100 2288 61,5 1366 38,5 2,7 25,8 3,0 1,2 5,8 Theo nhóm tuổi 6949 100 4147 59,6 2802 40,4 3,7 27,3 1,6 1,5 6,3 13á14 430 100 4 0,9 426 99,1 0 97,0 0,0 1,6 0,5 15á18 1021 100 46 4,5 975 95,5 1,5 93,0 0,1 0,7 0,3 19á24 951 100 336 35,3 615 64,7 10,6 50,6 1,2 2 0,3 25á45 2545 100 2259 88,8 286 11,2 5,1 1,8 2,2 1,3 0,8 46á55 1385 100 1136 82,0 249 18,0 0,7 1,4 1,5 1,4 14,2 56á60 401 100 257 64,0 144 36,0 0,5 0 3,2 2 30,3 61á65 216 100 109 79,8 107 50,2 0 0 4,6 5 40,6 Từ các số liệu trên có thể cho nhận xét chung là: Dân số hoạt động kinh tế chiếm tỷ lệ khá cao (60%) (số còn lại là dân số không hoạt động kinh tế 40%) trong dân số chung: Trong đó tỷ lệ cao hơn là ở LLLĐ nữ (61,5%). Có thể thấy rằng tại thời điểm điều tra, tỷ lệ thất nghiệp của dân số trong độ tuổi 13-65 rất thấp (3,7%) và những người còn đi học chiếm tỷ lệ khác cao (27%) trong đó nam chiếm tỷ lệ cao hơn nữ. Số người đang học chiếm tỷ lệ cao vì đối tượng khảo sát bao gồm cả dân số trong độ tuổi đi học phổ thông (13-18 tuổi) (1458 người, chiếm 21%) và số khác đang theo học các trường chuyên môn kỹ thuật tại địa phương. Tỷ lệ dân số có việc làm khác nhau theo từng nhóm tuổi. Sự khác biệt này có xu hướng đạt tỷ lệ thấp nhất ở độ tuổi dưới 24; đạt tỷ lệ rất cao ở các nhóm tuổi 25-45 và 46-55; và giảm dần theo độ tuổi già. Do hầu hết những người ở độ tuổi 13-18 và hơn một nữa số người ở độ tuổi 19-24 đang đi học nên những người này sống phụ thuộc vào lực lượng lao động có việc làm. Điều đáng chú ý rằng tỷ lệ thất nghiệp cao nhất là ở nhóm tuổi 19-24 (11%). Số liệu này cũng phù hợp với kết quả điều tra lao động việc làm toàn quốc ở khu vực thành thị. Có thể tin rằng một tỷ lệ khá đông những người ở độ tuổi này sau khi ra trường đã chưa tìm được việc làm hoặc đang tìm chọn việc làm tốt hơn và phù hợp hơn với năng lực của mình. 2.2. Trình độ học vấn. Học vấn là một chỉ tiêu dùng để tính chỉ số phát triển còn người (HDI). Nó là một trong những chỉ tiêu quan trọng nhất quyết định chất lượng của lực lượng lao động, là tiền đề tạo khả năng và cơ hội tiếp cận với việc làm, đặc biệt trong điều kiện phát triển của thị trường lao động. Trình độ học vấn phổ thông và chuyên môn kỹ thuật cũng chịu ảnh hưởng của cơ cấu tuổi, giới tính và tình trạng hoạt động kinh tế của LLLĐ. 2.2.1. Học vấn phổ thông LLLD của Thành phố Vinh có trình độ học vấn phổ thông vào loại cao, cao hơn nhiều so với mức bình quân chung của khu vực thành thị trong cả nước và có xu hướng tăng lên trong những năm gần đây (Biểu 6). Kết quả này cũng khẳng định trình độ học vấn cao của LLLĐ Thành phố trong cuộc điều tra thông kế thông tin thị trường lao động năm 1998. Biểu 6: Trình độ học vấn phổ thông của LLLĐ được điều tra, so sánh với số liệu điều tra lao động việc làm năm 1997 ĐT 1999 (13á65 tuổi) So sánh điều tra 1997 (15 tuổi) TP Vinh Tỉnh Nghệ An Cả nước 1. Không biết chữ 0,6 1,54 0,9 5,1 2. Chưa tốt nghiệp tiểu học 1,8 2,85 6,8 - 3. Tốt nghiệp tiểu học 4,1 9,5 18,9 28,1 4. Tốt nghiệp PTCS 27,5 42,66 56,3 32,7 5. Tốt nghiệp PTTH 44,8 44,44 17,1 14,14 6. Đang học và khác 21,2 - - - TS 100,0 100,0 100,0 - (Nguồn: Báo cáo phân tích kế quả thị trường lao động thành phố Vinh Nghệ An-năm 1999 Bộ LĐTB và XH - Viện KHLĐ và CVĐXH) Chỉ tính riêng số người tốt nghiệp trung học cơ sở (THCS) và trung học phổ thông (THPT) đã chiếm tới 71-72% số đối tượng đựoc phỏng vấn ( tỷ lệ này trong cuộc điều tra 1998 là 61,9%) trong đó số tốt nghiệp THPT chiếm tới 44%. - Sự chênh lệch về trình độ học vấn phổ thông được thể hiện khác rõ theo độ tuổi của LLLĐ (Biểu 7). Biểu 7: Trình độ học vấn phổ thông của dân số 13- 65 tuổi theo độ tuổi Không biết chữ Chưa TN tiểu học TN tiểu học TN THCS TN PTTH Đang học khác TS % Người 13-14 1,4 0,5 3,3 0,2 0,0 94,7 100 430 15-24 0,7 0,8 3,0 11,9 29,7 54,0 100 1,972 25-45 0,4 1,1 2,9 32,8 62,9 0,0 100 2545 46-55 0,3 1,8 4,3 44,7 118,7 0,2 100 1,385 56-60 0,5 6,5 9,2 40,1 43,8 0,0 100 401 61-65 2,8 12,0 18,1 30,1 37,0 0,0 100 216 % 0,6 1,8 4,1 27,5 44,8 21,2 100 TS 42 122 288 1912 3111 1474 6949 (Nguồn: Báo cáo phân tích kết quả thị trường lao động Thành phố Vinh- Nghệ An năm 1999- Bộ LĐ-TBXH- Viện KHLĐ và CVĐXH) ở độ tuổi 13-24 có tới 61% vẫn đang đi học, chủ yếu ở các trường phổ thông, nên sự so sánh trình độ học vấn đã đạt được so với các nhóm tuổi cao hơn là chưa có ý nghĩa thực tiễn, vì họ chưa kết thúc quá trình học tập của mình. Song điều đáng quan tâm ở đây là ở cả độ tuổi 13-14 và 15-24 của dân số Thành phố Vinh có tỷ lệ đang đi học rất cao, nếu so sánh với nhiều khu vực đô thị khác trong cả nước. Điều này một mặt cũng khẳng định thêm trình độ học vấn khá cao của LLLĐ, mặt khác cũng thể hiện truyền thống hiếu học cao của người dân thành phố đã được khẳng định trong thực tiễn. Điều dễ nhận thấy rằng những người ở độ tuổi 25-45 có trình độ học vấn phổ thông cao nhất (63%); sau đó giảm dần theo độ tuổi già và có trình độ tuổi thấp hơn là ở độ tuổi 61-65. Như vậy, phần lớn những người có trình độ học vấn cao nhất đều sinh ra sau những năm hoà bình ở miền Bắc và thống nhất đất nước (1975) Những người ở độ tuổi này thường có nhiều cơ hội và điều kiện thuận lợi hơn để hưởng thụ nền giáo dục ưu việt của thời kỳ bao cấp và xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước. Trình độ chuyên môn - kỹ thuột (CMKT). Trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động có quan hệ chặt chẽ với trình độ học vấn phổ thông, mặc dù mối quan hệ này cũng không hoàn toàn theo một trình tự nhất định. Cũng như trình độ học vấn phổ thông, trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động thành phố Vinh được khảo sát trong cuộc điều tra này là rất cao vì có tới 55% trong số 6949 đối tượng được hỏi có trình độ chuyên môn kỹ thuật các loại, từ trình độ sơ cấp đến đại hoc, trên đại học và được phân bổ như sau: Biểu8: Trình độ CMKT của lực lượng lao động so với các địa phương khác năm 1997. ĐT 1999 So sánh 1997 (Điều tra lao động - việc làm) KV thành thị (TP Vinh) Toàn thể Nghệ An Cả nước (KVTT) 1. Không có CMKT 45,3 54,8 88,1 70,6 2. Có CMKT 54,7 45,2 11,9 29,4 + Sơ cấp 5,4 4,8 2,9 KXĐ + CNKT có bằng và không có bằng 15,4 12,3 2,8 12,1 + Trung cấp 16,5 19,3 4,4 8,3 + CĐ, ĐH trên ĐH 11,0 8,8 1,8 8,9 + Đang học, khác 6,5 - - - Tổng số 100,0 100,0 100,0 Như vậy, chỉ tính riêng số có trình độ chuyên môn kỹ thuật từ trung cấp trở lên đã chiếm tới 27-28% số đối tượng được hỏi; trong đó cứ 10 người trong độ tuổi 13-65 thì có 1 người đạt trình độ cao đẳng, đại học. Trình độ CMKT của lực lượn._. với năm trước. Đó là điều đáng lo ngại và là thách thức lớn trước đòi hỏi ngày càng cao trong phát triển và hội nhập trong thời gian tới. Tổ chức bộ máy còn nhiều bất cập, yếu kém; luật pháp, thể chế, chính sách còn khiếm khuyết, chắp vá, thiếu đồng bộ, chưa mang tính khuyến kích động viên cao nên chưa tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để phát huy nội lực và tiềm năng của các thành phần kinh tế. Xu hướng phục hồi sau khủng hoảng, ổn định và phát triển của kinh tế khu vực và thế giới, bên cạnh việc tạo thuận lợi cho khu vực kinh tế nước ta, nhất là trong việc mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại và nâng cao chất lượng của sự phát triển, cũng sẽ diễn ra xu hướng các nước sẽ tăng năng lực cạnh tranh, gây sức ép đối với nền kinh tế vốn đang kém sức cạnh tranh của nứơc ta. Việc Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh xu thế hoà nhập, mở cửa, thực hiện tự do hoá kinh tế với các nước ASEAN sẽ ảnh hưởng mạnh đến kinh tế trong nước, sẽ có nhiều khó khăn trong cho một số lĩnh vực sản xuất kinh doanh nếu chính phủ xoá bỏ chế độ bảo trợ bằng hạn ngạch và thuế quan. Thực trạng đó là thách thức rất lớn đối với sự phát triền kinh tế - xã hội thời kỳ 2001-2005. Đây cũng là yếu tố tạo nên cầu về lao động hay khả năng thu hút người lao động làm việc trong các ngành kinh tế. Chính vì thế, việc đẩy mạnh điều chỉnh cơ cấu, cải cách kinh tế và cải cách hành chính nhằm đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng kinh tế là hết sức cần thiết và đóng vai trò quan trọng hàng đầu đối với vấn đề giải quyết việc làm trong thời gian tới. 2. Những căn cứ xác định phương hướng. 2.1. ý nghĩa của giải quyết việc làm với quá trình phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam. Giải quyết việc làm có ý nghĩa về mặt kinh tế cvà xã hội hết sức sâu sắc trong tiến trình phát triển kinh tế của đất nước ta. Nó gắn liền với việc nâng cao thu nhập và cải thiện mức sống của người dân, góp phần tích cực vào công việc xoá đói giảm nghèo mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra. Giải quyết việc làm sẽ giúp cho các đối tượng yếu thế trong thị trường lao động thoát ra khỏi tình trạng khó khăn do không có việc làm và thiếu việc làm. Bên cạnh đó, giải quyết việc làm gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế nước ta. Khi người dân có công ăn việc làm, họ có điều kiện để chi tiêu và tích luỹ từ tiền lương và của cải họ đã làm ra. Trong giai đoạn tới, chúng ta cần nâng cao tỷ lệ tích luỹ, huy động mạnh mẽ nguồn vốn trong dân phục vụ đầu tư phát triển, đồng thời cũng đòi hỏi phải mở rộng thị trường, tăng tổng cầu của nền kinh tế. Chính vì lẽ đó, vấn đề giải quyết việc làm đang và sẽ là một động lực quan trọng của sự phát triển đất nước. Sự ổn định kinh tế chính trị là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển và là mục tiêu quan trọng luôn được đặt ra ở nước ta hiện nay. Giải quyết việc làm sẽ góp phần đảm bảo sự ổn định về kinh tế và chính trị của đất nước. Nạn thất nghiệp, tình trạng thiếu việc làm là nguy cơ gây ra các tệ nạn xã hội, sự rối loạn trật tự an ninh xã hội và là mối đe doạ đối với sự phát triển ổn định của nền kinh tế. Vì vậy, vấn đề giải quyết tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm đang rất cấp bách ở nước ta, hiện nay cần được coi trọng đúng mức, phải được cụ thể hoá trong chiến lược và kế hoạch phát triển. Hay nói cách khác, cần phải có những hướng đi và giải pháp cụ thể. 2.2. Thực trạng giải quyết việc làm. Việc xác định đúng hướng giải quyết việc làm ở nước ta trong giai đoạn tới cần phải dựa trên điêù kiện thực tế về lao động - việc làm. Trong thời gian qua, vấn đề nổi lên khá rõ nét là tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị nước ta vào loại cao so với các nước trong khu vực (năm 1999 tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng trong tuổi lao động là 6,47%, dự kiến năm 2000 là 6,5%), tỷ lệ thiếu việc làm ở nông thôn rất cao (chiếm gần 30%), tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn mới đạt 74,5% theo dự tính đến năm 2000 và các năm tới. Do những tác động của bối cảnh kinh tế - xã hội trong và ngoài nước, tình trạng này sẽ có xu hướng biến động phức tạp và sẽ gia tăng nếu như nhà nước không có những biện pháp hữu hiệu để giải quyết. Bên cạnh đó, lực lượng lao động lại đang tiệp tục được tăng nhanh, do đó nhu cầu giải quyết việc làm rất lớn. Chất lượng lao động còn thấp, cơ cấu đào tạo cũng như phân bố theo ngành và theo vùng lãnh thổ cũng rất bất hợp lý. Những phân tích về tình hình lao động việc làm như đã nêu trên sẽ là cơ sở thực tiễn để đưa ra những phương hướng cụ thể và giải quyết việc làm trong thời gian tới. 3. Một số quan điểm về giải quyết việc làm. Quan điểm 1: Giải quyết việc làm là trách nhiêm của Đảng và Nhà nước, của các ngành, các cấp, của các tổ chức xã hội và của mỗi ngườ lao động. Quan điểm 2: Giải quyết việc làm không chỉ hướng vào tạo việc làm cho những người chưa có việc làm mà quan trọng hơn là phải trang bị nghề nghiệp, giúp đỡ họ có thể sử dụng nghề nghiệp trong cuộc sống. Quan điểm 3: Giải quyết việc làm phải gắn liền với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Quan điểm 4: Giải quyết việc làm phải hướng tới mục tiêu toàn dụng lao động, giảm lao động dư thừa và thời gian nhàn rỗi, đồng thời phải vừa đảm bảo từng bước nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả của lao động. Quan điêm 5: Cần khai thác mọi tiềm năng một cách triệt để và có hiệu quả để tạo việc làm, tăng thêm quỹ thời gian lao động. 4. Mục tiêu giải quyết việc làm thời kỳ 2001-2005. Tạo mở việc làm mới và đảm bảo việc làm cho người lao động có khả năng lao động, có yêu cầu làm việc. Thực hiện các biện pháp để trợ giúp người chưa có việc làm sẽ nhanh chóng có được việc làm, người thiếu việc làm hoặc việc làm hiệu quả thấp sẽ có được việc làm đầy đủ hơn và việc làm hiệu quả cao hơn; tiến tới mục tiêu việc làm đầy đủ, việc làm có hiệu quả và tự do lựa chọn việc làm. Từng bước giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với giải quyết việc làm cho ngươì lao động, góp phần thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội. Điều chỉnh, cân đối cung cầu lao động, ổn định việc làm, tiến tới đảm bảo đầy đủ việclàm cho người lao động, việc làm hợp lý với chất lượng đào tạo, năng suất lao động cao, phân bố lao động hợp lý. 5. Phương hướng giải quyết việc làm thời kỳ 2001- 2005. Nhà nước ban hành và tổ chức thực hiện các hệ thống pháp luật, các chủ trương, chính sách đồng bộ nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, từ đó tạo mở việc làm và tác động tích cực đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động. Giải quyết thực hiện các kế hoạch nhà nước, các chương trình, dự án với mục tiêu sử dụng có hiệu quả nguồn lao động và giải quyết việc làm. Đối với khu vực thành thị, bên cạnh việc phát triển các doanh nghiệp có quy mô lớn, hình thành các khu công nghiệp, khu chế xuất, các dự án thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Cần phát triển các lĩnh vực, các ngành nghề có khả năng thu hút được nhiều lao động như các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hoạt động kinh tế khu vực phi chính thức. Phát triển hình thức gia công sản xuất hàng hoá tiêu dùng phục vụ xuất khẩu theo hướng đa dạng hoá các mặt hàng, trước hết là các mặt hàng có công nghệ sử dụng nhiều lao động như may mặc, Da giầy, gốm sứ, lắp ráp điện tử... Phát triển mạnh các hình thức dịch vụ ở thành thị. Đối với khu vực nông thôn, cùng với việc phát triển nông, lâm, ngư nghiệp theo hướng đa canh, đa dạng hoá cây trồng, vật nuôi. Cần phát triển mạnh các ngành nghề phi nông, lâm, ngư nghiệp sử dụng nhiều lao động nhưng cần ít vốn. Khôi phục và phát triển các ngành nghề truyền thống có giá trị kinh tế cao, các làng nghề gắn với đô thị hoá nhỏ ở nông thôn. Phát triển toàn diện kinh tế - xã hội ở khu vực này nhằm giải quyết việc làm tại chỗ, khắc phục tình trạng thiếu việc làm, việc làm kém hiệu quả và có thu nhập thấp, đồng thời góp phần làm giảm bớt sức ép về việc làm ở khu vực thành thị. Ngoài ra, Nhà nước cần phải ban hành và triển khai thực hiện các chính sách và biện pháp nhằm giải quyết có hiệu quả vấn đề dôi dư lao độn trong DNNN. Để sử dụng có hiệu quả nguồn lao động, một trong những phương hướng quan trọng là điều chỉnh các yếu tố về cung lao động. Trong thời gian tới, cần phát triển nguồn lao động cả về sức khoẻ, phẩm chất và trình độ CMKT; chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tiến bộ, tích cực phù hợp với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Phát triển hệ thống giáo dục và đào tạo nhằm thu hút nhiều hơn dân số trong độ tuổi lao động vaò học, góp phần làm giảm tỷ lệ tham gia lực lượng của nguồn nhân lực, giảm sức ép về việc làm trong nền kinh tế; đồng thời tiếp tục nâng cao chất lượng và đổi mới cơ cấu đào tạo, nhất là cơ cầu ngành nghề phù hợp với nhu cầu về lao động hay nhu cầu phát triển việc làm. Phân phối hợp lý nguồn lao động, định hướng các dòng di chuyển lao động dựa trên khả năng tạo việc làm của từng vùng, từng khu vực. Đẩy mạnh việc xuất khẩu lao động nước ngoài, coi đây là một biện pháp quan trọng trong lĩnh vực giải quyết việc làm. Nhà nước tăng cường các hoạt động hỗ trợ trực tiếp để giải quyết việc làm cho người lao động, tiếp tục mở rộng cho vay từ Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm. Hình thành phát triển và thực hiện điều tiết có hiệu quả thị trường lao động, đặc biệt là đẩy mạnh các hoạt động của hệ thống trung tâm dịch vụ việc làm. Mở rộng các hình thức giải quyết việc làm, hoàn thiện hệ thống luật pháp, xây dựng và bổ sung các chính sách về lao động - việc làm. Nhà nước đưa vào triển khai chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm thời kỳ 2001-2005 nhằm phối hợp, lồng ghép giữa các chương trình, dự án, các hoạt động của các ngành các cấp, các đoàn thể, hội quần chúng, tạo ra mọi khả năng để thực hiện có hiệu quả các mục tiêu đã đề ra trong lĩnh vực giải quyết việc làm. Phương hướng giải quyêt việc làm cho 7,5 triệu lao động thời kỳ 2001-2005. Đơn vị: 1000 lao động. Lĩnh vực tạo việc làm Số lao động được thu hút. Đầu tư của các doanh nghiệp và tư nhân trong nước. Đầu tư trực tiếp của nước ngoài. Phát triển cơ sở hạ tầng bằng nhiều nguồn vốn khác nhau. Chương trình trồng 5 triệu ha rừng, khai hoang, khoanh nuôi bảo vệ 50 vạn ha rừng. Cho vay vốn của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn. Mở rộng cho vay quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm. Chương trình xoá đói giảm nghèo Các hình thức giải quyết việc làm của các đoàn thể, hôi quần chúng. Xuất khẩu lao động. 1.600 400 1.400 500 700 1.700 900 100 200 II. Một số giải pháp giải quyết vấn đề lao động và việc làm ở thành phố vinh nghệ an giai đoạn 2001- 2005, đặc biệt là cho lực lượng thanh niên. 1. Xây dựng hệ thống thông tin về lao động - việclàm. Hiện nay chúng ta đã có một số thông tin về lao động - việc làm. Những thông tin này mới được đề cập từ phía “cung” lao động thông qua các cuộc điều tra lao động việc làm hàng năm, chưa được cập nhập từ cơ sở và không sử dụng được trong hoạt động cụ thể. Các thông tin từ phía “cầu” lao động hầu như chưa được chú ý, thông tin này có ý nghĩa quyết định trong lĩnh vực giải quyết việc làm. Việc cần làm ngay là thiết lập hệ thống thông tin về lao động việc làm, bao gồm cả các thông tin về “cung” và “cầu” lao động từ các phường hoặc người sử dụng lao động đến cấp thành phố. 1.1. Các thông tin về “cung” lao động. a. Các đối tượng cần phải thu thập thông tin từ phía “ cung” lao động bao gồm: Những người bước vào độ tuổi lao động. Những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động nhưng chưa có việc làm. Những ngừơi trong độ tuổi lao động có khả năng lao động, chưa có việc làm và có nhu cầu làm việc. Những người có nguy cơ bị mất việc làm. b. Các thông tin cần thu thập: Họ tên, tuổi, giới tính, tình trạng sức khoẻ, chỗ ở. Trình độ đào tạo, khả năng và sở thích của mỗi người lao động. Nhu cầu làm việc. c. Yêu cầu của các thông tin. Các thông tin phải được tập hợp và cập nhập từ cấp xã, phường, thị trấn nơi ngừời lao động đang cư trú hoặc đang làm việc. Các thông tin phải đầy đủ chính xác kịp thời. d. Hình thành phương pháp và tiến hành các dự báo ngắn hạn, dài hạn về số lượng, chất lượng lao động ở thành phố. 1.2. Các thông tin về “cầu” lao động. Các đối tượng cần phải thu thập thông tin từ phía “cầu” lao động bao gồm: Các đơn vị hành chính, từ cấp xã phường, thị trấn. Các đơn vị sử dụng lao động: các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức có sử dụng lao động trên địa bàn thành phố. Các thông tin cần thu thập. Số lao động đang được sử dụng. Số chỗ làm việc còn trống và yêu cầu đối với người lao động khi đảm bảo công việc ở chỗ làm việc trống đó. Dự kiến chỗ làm việc của 6 tháng và năm sau. Yêu cầu của thông tin. Thông tin được tập hợp và cập nhập từ doanh nghiệp, cơ quan, các tổ chức có sử dụng lao động từ cấp phường, thị trấn đến cấp thành phố. Thông tin phải chính xác, đầy đủ và kịp thời. Tiến hành dự báo về số lượng lao động ngắn hạn và dài hạn của các doanh nghiệp, cơ quan tổ chức có sử dụng lao động ở các thành phố lớn. Đây là việc làm trước tiên, làm nền tảng cho các hoạt động tiếp theo để giải quyết việc làm. 2. Đào tạo lao động kỹ thuật. Đào tạo lao động kỹ thuật là một yêu cầu cấp bách, không những nâng cao chất lượng nguồn lao động, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, mà còn giúp cho mỗi người tự tạo được việc làm phù hợp. Để đào tạo lao động kỹ thuật cần chủ động các vấn đề sau: Quy hoạch hệ thống các trường đào tạo lao động kỹ thuật ở tỉnh Nghệ An, thành phố Vinh và các vùng lân cận. Đầu tư có trọng điểm cho một số trường để nâng cấp cơ sở hạ tầng. Dành nhiều vốn đầu tư cho việc trang bị các thiết bị và công cụ giảng dạy hiện đại. Khắc phục tình trạng thiết bị lạc hậu hơn so với kỹ thuật hiện có của các cơ sở sản xuất kinh doanh. Đổi mới nội dung, phương pháp đào tạo, đặc biệt là hệ thống giáo trình của các trường, gắn đào taọ với các cơ sở sản xuất - kinh doanh. Có kế hoạch và biện pháp để đào tạo lại, bồi dưỡng nâng cao tay nghề cho số lao động đang làm việc tại các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất.: Thành phố cần nghiên cứu có những dự báo và quy hoạch ngành nghề từ nay đến năm 2010, có định hướng chỉ tiêu về số lượng tương đối cho mỗi ngành nghề để các cơ sở dạy nghề có kế hoạch đào tạo phù hợp, tránh gây lãng phí cho cả người học lẫn người dạy. Nhằm thoả mãn cung và cầu trong việc đào tạo và sử dụng nhânlực thành phố cần phải thành lập hội đồng dự báo phát triển đào tạo nhân lực. Kết hợp giữa đào tạo dài hạn với dạy nghề ngắn hạn nhằm đáp ứng tốt nhu cầu của người học và xã hội. Về tổ chức quản lý: đồng thời với việc mở rộng, đa dạng hoá các hình thức tổ chức dạy nghề, tỉnh và thành phố cần có những quy định thống nhất đối với công tác dạy nghề như: dạy nghề dài hạn giao cho các trường chuyên nghiệp đảm nhận. Thành phố có kế hoạch đáng giá định kỳ đồng thời có trách nhiệm hướng dẫn, đầu tư cơ sở vật chất cho những cơ sở và trung tâm hoạt động có hiệu quả trong thành phố. Thành phố Vinh là trung tâm hành chính của tỉnh, là nơi có nhiều trường cao đẳng, đại học và dạy nghề của cả trung ương và địa phương vốn được xây dựng ngay từ những năm 60 và không ngừng được phát triển, mở rộng trong nhiều năm gần đây. Hơn nữa, những năm gần đây do sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng kinh tế thị trường và các ngành kinh tế có nhu cầu cao về sử dụng lao động kỹ thuật và ứng dụng công nghệ hiện đại là nhân tố quan trọng thúc đẩy lao động thành phố phải có được trình độ CMKT nhất định. Tuy nhiên, thành phố cần có chính sách nâng cao trình độ chuyên môn của đội ngũ giáo viên, hướng dẫn viên của các trường và trung tâm dạy nghề trong thành phố. Mở rồng quan hệ hợp tác với các chuyên gia của trung ương và của nước ngoài tạo điều kiện hoà nhập vào thị trường lao động trong khu vực miền trung, cả nước và quốc tế. Cần có các chính sách thu hút các nghệ nhân truyền nghề truyền thống cho thanh niên. Chính sách bảo trợ học nghề cho thanh niên thuộc diện chính sách, thanh niên tàn tật, hoàn cảnh khó khăn và tệ nạn xã hội đã hoàn lương; chính sách phổ cập học nghề cho học sinh tốt nghiệp phổ thông trung học (kể cả tốt nghiệp phổ thông cơ sở mà không có điều kiện học lên nữa); chính sách ưu tiên miễn thuê lợi tức cho các trung tâm dạy nghề có sản xuất. 3. Phát triển kinh tế tạo mở việc làm. Phát triển kinh tế là hoạt động có ý nghĩa quyết định đến chỗ làm việc mới ở thành phố nói riêng và trong cả nước nói chung. Do đó việc xác định đúng hướng và có các chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế, các tổ chức và cá nhân phát triển kinh tế có ý nghĩa lớn trong lĩnh vực giải quyết việc làm. Với vị trí đặc biệt, thành phố Vinh có thể phát triển theo các hướng sau để thu hút nhiều lao động: Phát triển du lịch và dịch vụ: đây là hướng quan trọng và còn nhiều tiềm năng có thể khai thác. Trước hết là các dịch vụ hấp dẫn về vui chơi, giải trí, các khu thắng cảnh, đáp ứng cho các lứa tuổi khác nhau, thu hút du lịch tham quan trong nước và nước ngoài. Phát triển một sốngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Trước hết là ngành xây dựng và sản xuất vật liệu xây dựng, cơ khí, lĩnh vực mây tre đan, thủ công mỹ nghệ, may mặc... nhằm phát huy lợi thế so sánh ngành.. Có chính sách khuyến khích nhằm khơi dậy nguồn vốn sẵn có trong dân để đầu tư vào sản xuất, hình thành các doanh nghiệp nhỏ và vừa thu hút nhiều lao động. Có chính sách khuyến khích phát triển kinh tế đối ngoại, trong đó chú trọng lĩnh vực xuất khẩu, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, việt kiều, các vùng lân cận và trung ương vào thành phố. Có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động. 4.Phân định rõ trách nhiệm của các ngành, các cấp trong lĩnh vực giải quyết việc làm. Cần phải chỉ rõ ai làm, làm gì và làm như thế nào để giải quyết việc làm. Chỉ có người sử dụng lao động và ở cấp xã, phường, thị trấn mới là nơi tạo ra được chỗ làm việc mới. Vì chính nơi đây mới trực tiếp giải quyết được việc làm cho người lao động. Do đó việc xác định rõ trách nhiệm của cấp xã, phường, thị trấn và người sử dụng lao động (doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân) là yếu tố có ý nghĩa quyết định. Cấp trên chỉ có thể hỗ trợ hoặc tháo gỡ những khó khăn khi cấp này không giải quyết được và đề nghị hỗ trợ, ví như ngành Lao động - Thương binh xã hội cùng với việc giúp uỷ ban nhân dân thành phố quản lý nhà nước về lao động, còn hỗ trợ trực tiếp cho một số hoạt động để giải quyết việc làm; ngành kế hoạch đầu tư ngoài chức năng của mình còn kiểm soát chỉ tiêu chỗ việc làm mới và giải quyết khó khăn cho cơ sở. Các ngành kinh tế khác theo chức năng của mình cùng phối hợp giải quyết các yêu cầu về vốn, tiêu thụ sản phẩm của các đơn vị cấp dưới. 5. Hệ thống dịch vụ việc làm phải được hoạt động thống nhất. Các hoạt động của tổ chức này phải hoạt động vì mục tiêu xã hội, theo đúng tinh thần của Bộ luật Lao động và các văn bản hướng dẫn thi hành, tạo thành thể thống nhất, củng cố và hoàn thiện để có ít nhất một trung tâm mạnh có thể đáp ứng nhu cầu của người lao động, người sử dụng lao động trên địa bàn thành phố. 6.Xây dựng kế hoạch cụ thể giải quyết việc làm và phát triển nguồn nhân lực. Căn cứ vào đó các cấp các ngành tổ chức triển khai thực hiện, ít nhất 3 tháng phải có đánh giá sơ kết mặt được và mặt chưa được. 7. Bố trí cán bộ ở các cấp xã phường và thị trấn để làm công tác lao động và giải quyết việc làm. 8. Tổ chức nghiên cứu khoa học để tìm ra các giải pháp phát triển nguồn nhân lực và giải quyết việc làm cho người lao động ở thành phố nói riêng và trong cả nước nói chung. 9. Sớm nghiên cứu để ban hành luật về việc làm và chống thất nghiệp, trong đó đặc biệt chú ý đến các quy định để hỗ trợ người thất nghiệp trở lại thị trường lao động, quy định về giữ chỗ làm việc và về bảo hiểm thất nghiệp. 10.Tăng cường các biện pháp, đặc biệt đem lại việc làm cho thanh niên (ở thành phố Vinh). Thực tế thấy rằng tỷ lệ thất nghiệp cao nhất ở thành phố Vinh là thuộc về tầng lớp thanh niên (15-24tuổi), đây là vấn đề bức xúc cho thành phố. Chính vì thế cần có các biện pháp nhằm hạn chế và giải quyết từng bước vấn đề này như sau: 10.1. Đẩy mạnh việc hình thành trung tâm kinh nghiệm việc làm. Cùng với việc chuyển đổi và đa dạng hoá ngành nghề hiện nay, số người chuyển ngành, nghề càng nhiều. Để đáp ứng tình hình này, điều quan trọng là mỗi người dân đặc biệt là giới trẻ cần hiểu ý nghĩa xã hội và nội dung của các nghề khác nhau và để đạt được cuộc sống lao động phong phú đầy đủ ý nghĩa bằng cách lựa chọn cho mình công việc phù hợp. Với mục tiêu này, trung tâm kinh nghiệm làm việc được hình thành để hiểu rõ hơn sự tiến triển lịch sử và đóng góp xã hội của các nghề khác nhau, nội dung của các công việc đặc thù và điều kiện làm việc. Do vậy, trung tâm là nơi góp phần vào việc lựa chọn ngành nghề cho phù hợp với từng người. 10.2. Những biện pháp liên quan tới tăng cường nhận biết về nghề nghiệp của thanh niên. Thanh niên thường thích hiểu biệt về nghề nghiệp của và thường rời bỏ những ngành công nghiệp sản xuất, cần phải mở rộng nhận thức cho họ và khuyến khích mong muốn làm việc của họ. Để thực hiện mục tiêu này, cần phải tổ chức nhiều chiến dịch trên toàn quốc để làm tăng nhận thức về ngành nghề của thanh niên đồng thời giúp họ lựa chọn được công việc phù hợp thông qua việc cho họ tới tham quan những nơi làm việc cụ thể và những nơi có thanh niên đang thực tập nghề. 10.3. Những biện pháp để giúp học sinh bỏ học tìm kiếm việc làm. Có một số lượng đáng kể học sinh bỏ học tìm kiếm việc làm. Tuy nhiên, phần lớn số họ phải chịu thất nghiệp hoặc có công việc làm không ổn định. Cần có những biện pháp để giúp học sinh bỏ học tìm được việc làm, để thoả mãn việc làm cho họ và đào tạo họ trở thành những người công nhân. Để đạt được mục tiêu này cần thông qua việc hình thành tổ chức hợp tác phối hợp với các trường phổ thông, cung cấp những hướng dẫn chi tiết về ngành nghề, các dịch vụ bố trí công việc và những hướng dẫn để nắm bắt công việc sau khi đã tìm được việc làm. 10.4. Những biện pháp về phúc lợi đối với các lao động là thanh niên. Những thanh niên trẻ tuổi đóng một vai trò quan trọng trong việc củng cố tương lai của nền công nghiệp và xã hội của thành phố Vinh, song họ lại đang trong thời kỳ phát triển cả về thể lực và trí lực. Nhằm làm cho những thanh niên này có một cuộc sống với việc làm đầy đủ và thể hiện được mọi khả năng của mình, sở lao động cần đưa ra những chính sách cơ bản về những giải pháp phúc lợi đối với lao động là thanh niên: đào tạo, hướng dẫn để tăng cường khả năng phù hợp với công việc của lao động trẻ và tăng cường các hoạt động nghỉ ngơi lành mạnh bằng cách tập trung vào các hoạt động thể thao và văn hoá; tăng cường các hoạt động xã hội, tập trung vào các hoạt động tình nguyện. Thực hiện đồng bộ chương trình giải quyết việc làm cho thanh niên gắn với chương trình giải quyết và phòng chống tệ nạn xã hội. hạn chế phát triển các hoạt động kinh tế và việc làm tác động đến tệ nạn xã hội, đặc biệt trong lĩnh vực dịch vụ văn hoá. Hạn chế tối đa tình trạng thanh niên ăn xin, cư trú ngoài thành phố, nơi công cộng. 10.5.Bồi dưỡng những người lãnh đạo trẻ và tăng cường các hoạt động của họ. Để phát triển có hiệu quả nguồn lao động trẻ, cần phải đưa ra những hướng dẫnvà lời khuyên phù hợp về cuộc sống ở nơi làm việc cũng như không ở nơi làm việc, thực hiện những hoạt động sau để tăng khả năng của người lãnh đạo và thúc đẩy những hoạt động có hiệu quả của họ: Khuyến khích hoạt động của những người làm công tác tăng cường phúc lợi và của các cán bộ làm công tác về vấn đề phúc lợi của lao động trẻ. Những bài giảng để đạt được trình độ là nhà tư vấn cho lao động trẻ. Những bài giảng do các nhà tư vấn về lao động trẻ trình bày tại trường đại học. Đào tạo để nâng cao khả năng chuyên môn của các nhà tư vấn về lao động trẻ. Tổ chức hội thảo về phúc lợi cho những người lao động trẻ Tăng cường sự hợp tác giữa các nhà tư vấn về lao động trẻ. 10.6.Phát triển các hình thức Hội, Hiệp hội ngành nghề làm kinh tế và tạo việc làm. 10.7. Phát triển lực lượng thanh niên xung phong thành phố Vinh để thu hút lực lượng thanh niên. Tiếp tục tổ chức có hiệu quả công tác điều động lao động đi xây dựng các vùng kinh tế mới, sắp xếp bố trí lại lượng dân cư, đặc biệt số lượng thanh niên theo định hướng, ổn định việc làm và đời sống. 10.8 Thực hiện tích cực các chính sách đảm bảo việc làm, hạn chế cơ sở sản xuất kinh doanh sa thải lao động trên cơ sở tăng cường luật lao động và tư vấn hỗ trợ doanh nghiệp giữ vững phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh. Thực hiện có hiệu quả giải quyết việc làm và chính sách cho lao động nữ và các lao động đặc thù, đặc biệt những người trong độ tuổi thanh niên. 10.9. Tổ chức đưa thanh niên đi làm việc ở nước ngoài. Quan hệ tìm kiếm lao động nước ngoài, cung cấp thông tin về thị trường lao động xuất khẩu cho các doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu lao động. Phát triển các hình thức xuất khẩu lao động đơn lẻ hoặc nhóm. Xây dựng quỹ khuyến khích xuất khẩu lao động để hỗ trợ các đối tượng nghèo và các đối tượng chính sách đi xuất khẩu lao động. Kết luận. Việc làm là một trong những vấn đề xã hội có tính chất toàn cầu, là mối quan tâm hàng đầu của mọi quốc gia, đặc biệt là lao động trẻ. Giải quyết việc làm cho thành phố Vinh không những có ý nghĩa quyết định trong sự đổi mới và phát ttriển kinh tế thành phố mà còn thể hiện rõ năng lực tổ chức quản lý bộ máy nhà nước và bản chất chính trị của nước ta. Quá trình giải quyết việclàm cho thành phố Vinh, đặc biệt là giải quyết việc làm cho thanh niên thành phố đòi hỏi phải có những chính sách, phương hướng và những giải pháp có tính khả thi cao, phù hợp với tình hình kinh tế xã hội của thành phố Vinh. Việc triển khai thực hiện các chính sách, giải pháp cần có sự phối hợp đồng bộ của nhiều ngành chức năng như tài chính, tín dụng, giáo dục đào tạo, công an... và nhiều cấp chính quyền từ trung ương tới địa phương. Có được như vậy mới mong muốn giúp cho cả nước nói chung và thành phố Vinh nói riêng có việc làm và việc làm phù hợp, đặc biệt làm tầng lớp thanh niên. Danh mục tài liệu tham khảo. Văn kiện đại hội Đảng VIII và dự thảo văn kiện đại hội Đảng IX - NXB Chính trị quốc gia. Báo cáo phân tích kết quả thị trường lao động thành phố Vinh Nghệ An - 1999 - Bộ LĐTBXH - Viện KHLĐ và các VĐXH. Sách thực trạng lao động việc làm ở Việt Nam năm 1997, 1998, 1999 - NXB Thống Kê. Sách về chính sách giải quyết việc làm ở Việt Nam. Giáo trình kinh tế phát triển - Trường ĐH KTQD - năm 1999. Giáo trình chương trình và dự án phát triển kinh tế xã hội - Trường ĐH KTQD. Tạp chí Lao động xã hội. Tạp chí kinh tế phát triển. Tạp chí kinh tế và dự báo. Thông tin thị trường lao động. Mục lục. Lời nói đầu. Phần I. Vai trò của lao động việc làm trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. Những vấn đề cơ bản về lao động việc làm. Lao động và nguồn lao động. Lao động Nguồn nhân lực và nguồn lao động Vai trò của lao động đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội. Việc làm. Khái niệm việclàm Tình trạng việc làm và thất nghiệp Các nhân tố tác động đến vấn đề việc làm Cơ cấu việc làm và các thị trường lao động Việc làm và thị trương lao động khu vực thành thị chính thức. Việc làm và thị trương lao động khu vực thành thị không chính thức. Việc làm và thị trương lao động khu vực nông thôn. Giải quyết việc làm - vấn đề của mỗi quốc gia. ý nghĩa của vấn đề giải quyết việc làm đối với vấn đề tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội. Về mặt kinh tế. Về mặt xã hội. Vai trò của nhà nước và xã hội trong lĩnh vực giải quyết việc làm. Kinh nghiệm của một số nước trong lĩnh vực giải quyết việc làm. Kinh nghiệm của Trung Quốc. Kinh nghiệm của Đài Loan. Kinh nghiệm của Nhật Bản. Phần II. Thực trạng về thị trường lao động thành phố Vinh Nghệ An. Phần cung lao động. Đặc điểm chung. 1. Đặc điểm của dân số điều tra. Lực lượng lao động. Đào tạo và sử dụng lao động chuyên môn kỹ thuật. Tình trạng sử dụng lao động chuyên môn kỹ thuật trong công việc hiện tại. Nhu cầu đào tạo. Thất nghiệp. Lao động đang thất nghiệp. Lao động đã từng thất nghiệp Nguyên nhân thất nghiệp Hình thức tìm việc làm của người lao động thất nghiệp B.Phần cầu lao động I.Đặc điểm doanh nghiệp điều tra 1.Doanh nghiệp điều tra xét theo hình thức sở hữu 2. Doanh nghiệp điều tra xét theo hoạt động kinh tế Doanh nghiệp điều tra xét theo qui mô lao động II.Thực trạng lực lượng lao động của các doanh nghiệp 1.Lực lượng lao động xét theo giới và độ tuổi 2. Lực lượng lao động xét theo trình độ văn hoá 3.Lực lượng lao động xét theo trình độ chuyên môn kỹ thuật 4.Lực lượng lao động xét theo hợp động lao động 5.Lực lượng lao động xét theo tính chất công việc 6.Thời gian làm việc của doanh nghiệp xét theo tính chất công việc 7.Đào tạo nâng cao trình độ người lao động Lao động tuyển mới trong năm 1998 9.Đánh giá động thái lao động của các doanh nghiệp trong năm 1998 III.Nhu cầu tuyển dụng của lao động của doanh nghiệp trong thời gian tháng 7 năm 1999- tháng 7/2000 1.Nhu cầu tuyển dụng lao động theo hình thức sở hữu 2.Nhu cầu tuyển dụng lao động theo nhóm tuổi 3.Nhu cầu tuyển dụng lao động theo trình độ văn hoá 4.Nhu cầu tuyển dụng lao động theo trình độ chuyên môn kỹ thuật 5.Nhu cầu tuyển dụng lao động theo lý do tuyển dụng 6.Nhu cầu tuyển dụng lao động theo thời điểm tuyển Phần III: Một số giải pháp giải quyết việc làm - đặc biệt là cho lực lượng thanh niên ở thành phố Vinh- Nghệ An thời kỳ 2001-2005 I.Phương hướng giải quyết việc làm ở Việt Nam thời kỳ 2001-2005 1.Những vấn đề về kinh tế xã hội 2.Những căn cứ xác định phương hướng 3.Một số quan điểm về giải quyết việc làm 4.Mục tiêu giải quyết việc làm thời kỳ 2001-2005 . 5.Phương hướng giải quyết việc làm thời kỳ 2001-2005 II.Một số giải pháp giải quyết việc làm đặc biệt là cho lực lượng thanh niên ở thành phố Vinh - Nghệ An giai đoạn 2001-2005 1.Xây dựng hệ thống thông tin về lao động việc làm 2.Đào tạo lao động kỹ thuật 3.Phát triển kinh tế tạo mở việc làm 4.Phân định rõ trách nhiệm của các nghành 5.Hệ thống dịch vụ việc làm phải được hoạt động thống nhất 6.Xây dựng kế hoạch cụ thể giải quyết việc làm 7.Bố trí cán bộ ở cấp xã, phường, thị trấn để làm công tác lao động và giải quyết việc làm 8.Tổ chức nghiên cứu khoa học để tìm ra giải pháp 9.Sớm nghiên cứu để ban hành luật về lao động việc làm và chống thất nghiệp 10.Tăng cường giải pháp đem lại việc làm cho thanh niên ở thành phố Vinh- nơi có thanh niên thất nghiệp cao. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docN0063.doc
Tài liệu liên quan