Thực trạng năng lực cạnh tranh của Ngân hàng Việt Nam sau khi gia nhập WTO

CHƯƠNG 1 NGÂN HÀNG VÀ VẤN ĐỀ HỘI NHẬP TRONG LĨNH VỰC NGÂN HÀNG TỔNG QUAN VỀ HỆ THỐNG NGÂN HÀNG TRONG NỀN KINH TẾ 1.1.1 Khái niệm về Ngân Hàng Ngân hàng nước ta là Ngân hàng hai cấp bao gồm Ngân hàng Trung Ương ( Ngân hàng nhà nước) và Ngân hàng thương mại Ngân hàng nhà nước: là cơ quan của nhà nước làm nhiệm vụ quản lý về tiền tệ.Nó có những chức năng sau: + Quản lý về tiền tệ, để quản lý về tiền tệ Ngân hàng nhà nước có thể quản lý mức cung tiền hoặc quản lý lãi suất.Nó kiểm soát mức cung

doc37 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1226 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng năng lực cạnh tranh của Ngân hàng Việt Nam sau khi gia nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tiền để thực hiện chính sách tiền tệ nhằm ổn định và phát triển nền kinh tế. +Là NH của các NH thương mại:NHTW giữ các tài khoản dự trữ cho các NHTM, thực hiện tiến trình thanh toán cho hệ thống NHTM và hoạt động như: “người cho vay cuối cùng” đối với các NHTM trong trường hợp khẩn cấp. + Là ngân hàng của chính phủ: NHTW giữ các tài khoản cho chính phủ, nhận tiền gửi và cho vay đối với kho bạc nhà nước , hỗ trợ chính sách tài khoản của chính phủ bằng việc mua tín phiếu của chính phủ. +Hỗ trợ giám sát và điều tiết hoạt động của các thị trường tài chính. Ngân hàng thương mại: là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất, đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm,dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. +Ngân hàng thương mại là một trung gian tài chính, một doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, một tổ chức môi giới tài chính.Hoạt động của nó cũng như của các tổ chức môi giới tài chính khác như quỹ tín dụng, công ty bảo hiểm …là nhận tiền gửi của người này ( cá nhân , doanh nghiệp , các tổ chức xã hội …) và đem số tiền đó cho người khác vay để sinh lợi.NHTM cũng được coi là một tổ chức tài chính trung gian đứng ra thu thập các khoản tiết kiệm của dân cư, những người muốn để dành một phần giá trị thu nhập cho tiêu dùng tương lai cũng như thu thập các khoản tiền nhàn rỗi khác trong xã hội và đem những khoản tiền này cho những người cần vay để chi tiêu trong hiện tại.NH thu lợi nhuận trên cơ sở lãi suất cho vay lớn hơn lãi suất tiền gửi.Sức phát triển của hệ thống ngân hàng đã cho phép mỗi ngân hàng riêng biệt không cần phải lưu giữ đầy đủ mọi giá trị các khoản tiền vào ra trong một ngày của ngân hàng nhà nước mà ở đó mỗi ngân hàng thương mại đều có một tài khoản của mình.Công việc thanh toán được bù trừ vào mỗi ngày chỉ cần thanh toán khoản chênh lệch giữa toàn bộ số tiền gửi và rút ra trên tài khoản của NHTM mở tại hệ thống thanh toán. Điều này đã mở khả năng hạ thấp mức dự trữ của NHTM tăng tốc độ thanh toán , đẩy nhanh các hoạt động giao dịch.Sự thanh toán liên hàng không chỉ diễn ra trong cả nước.Mối quan hệ giữa NH cả nước thông qua việc NH nước này làm chi nhánh cho NH nước khác với công nghệ NH hiện đại như hệ thống máy tính … đã làm cho quá trình thanh toán quốc tế diễn ra nhanh chóng, thuận lợi và giảm bớt rủi ro. Các loại hình ngân hàng thương mại Có thể phân chia NHTM theo các tiêu thức khác nhau. Theo tính chất hoạt động thì có thể chia NHTM thành các loại hình sau đây: NH chuyên doanh.Loại hình NH này chỉ tập trung cung cấp một số dịch vụ NH như: (cho vay nông nghiệp, cho vay xây dựng cơ bản…) do tính chất chuyên môn hoá cao cho phép NH có được đội ngũ cán bộ giàu kinh nghiệm, tinh thông nghiệp vụ.Tuy nhiên, loại hình NH này thường gặp rủi ro lớn khi lĩnh vực kinh doanh của NH hoạt động sa sút. NH đa năng.Là NH cung cấp mọi dịch vụ NH cho khách hàng. Đây là xu huớng chủ yếu hiện nay của NHTM, do tính năng sẽ giúp NH tăng thu nhập và hạn chế rủi ro. NH bán buôn.Chủ yếu cung cấp các dịch vụ cho NH, các công ty tài chính, cho chính phủ , cho các doanh nghiệp lớn hoạt động tại các trung tâm tài chính quốc tế, cung cấp các khoản tín dụng lớn. NH bán lẻ.Chủ yếu cung cấp các dịch vụ trực tiếp cho doanh nghiệp, hộ gia định , các nhân với các khoản tín dụng nhỏ. 1.1.3 Hoạt động của NHTM trong nền kinh tế thị trường Hoạt động của NHTM trong nền kinh tế thị trường tương đối đa dạng và phức tạp, liên quan đến nhiều lĩn vực hoạt động knh tế xã hội, nhiều đối tượng khách hàng tuy nhiên có thể khái quát thành một số hoạt động chủ yếu sau đây: 1.1.3.1 Nhận tiền gửi Nhận tiền gửi là hoạt động thường xuyên của NHTM và là hoạt động rất quan trọng đối với bản thân NH cũng như đối với nền kinh tế.Ta biết rằng, trong nền kinh tế luôn tồn tại một bộ phận tiền nhàn rỗi trong dân chúng và trong các tổ chức kinh tế xã hội, bộ phận này nếu được huy động tập trung sẽ tạo nguồn vốn cho đầu tư phát triển kinh tế.Các NHTM với vai trò và vị trí của mình là một trung gian tài chính, đứng ra huy động tập trung nguồn tiền nhàn rỗi trong nền kin tế, từ đó đầu tư đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội. Để nguồn vốn lớn, đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng ngày càng tăng lên từ phía khách hàng, các NHTM áp dụng nhiều biện pháp phong phu, đa dạng để phát huy vốn: + Phong phú về kỳ hạn huy động: Nhận tiền gửi của các tổ chức,cá nhân dưới các hình thức tiền gửi không kỳ hạn,tiền gửi có kỳ hạn. +Phong phú về công cụ huy động: phát hành chứng chỉ tiền gửi,trái phiếu và các giấy tờ khác có giá trị để huy động vốn của các tổ chức , cá nhân trong và ngoài nước. +Phong phú về nguồn huy động: Vay trên thị trường tiền tệ, vay trong dân chúng, các tổ chức kinh tế trong nước,vay trên thị trường vốn quốc tế . + Phong phú về cách thức hấp dẫn người gửi tiền : Tiết kiệm bậc thang , tiết kiệm dự thưởng , tiết kiệm gửi một nơi lấy ở nhiều nơi… 1.1.3.2 Cho vay Đây là hoạt động sử dụng nguồn tiền mà NHTM đã huy động được trong nền kinh tế.Các NHTM thực hiện cho vay theo nhiều phương thức, đáp ứng nhu cầu của nhiều đối tượng. Cho vay thương mại. Ngay ở thời kỳ đầu, các NH đã thực hiện nghiệp vụ chiết khấu thương phiếu mà thực tế là cho vay đối với người bán hàng (nguời bán chuyển khoản phải thu cho NH để lấy tiền trước. Sau đó . các NH cho vay trực tiếp đối với KH ( là người mua hàng), giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ để mở rộng sản xuất, kinh doanh. Cho vay tiêu dùng . Trước đây , hầu hết các NH không mặn mà với các khoản cho vay cá nhân và hộ gia đình vì họ đều cho rằng các khoản cho vay tiêu dùng rủi ro cao.Tuy nhiên, từ sau thế chiến thứ hai, do sự gia tăng thu nhập của người tiêu dùng và áp lực cạnh tranh đã buộc các NH phải hướng tới người tiêu dùng và coi đây là KH tiềm năng của NH.Thực tế ở các nước phát triển cho thấy tín dụng tiêu dùng đã trở thành một trong những loại hình tín dụng tăng trưởng nhanh nhất. Tài trợ dự án. Ngoài thực hiện nghiệp vụ truyền thống là cho vay ngắn hạn, các NH ngày càng năng động trong cho vay tài trợ các dự án , đặc biệt là tài trợ trong các ngành công nghệ cao.Một số NH còn cho vay để đầu tư vào đất đai. 1.1.3.3 Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán NH thực hiện mở tài khoản giao dịch cho các NH gửi tièn và thực hiện chi trả theo lệnh của NH thông qua tài khoản séc.Các tiện ích của thanh toán không dùng tiền mặt ( như: Sự an toàn , nhanh chóng, chính xác , tiết kiệm chi phí…) đã góp phần rút ngắn chu kỳ kinh doanh, tăng hiệu quả sử dụng vốn. Chính điều này đã thu hút KH, mở ra một dịch vụ mới , quan trọng nhất đó là tài khoản tiền gửi giao dịch , cho phép người gửi tiền séc TT cho việc mua bán hàng hoá, dịch vụ. Đây được xem là một trong những bước đi quan trọng nhất trong công nghiệp NH và cũng với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin thì nhiều thể thức TT được phát triển như : Uỷ nhiệm chi, nhờ thu, L/C, TT bằng điện, thẻ… 1.1.3.4 Các dịch vụ khác Ngoài các hoạt động chính là nhận tiền gửi và cho vay , các NHTM còn thực hiện các dịch vụ khác theo yêu cầu như: -Quản lý ngân quỹ .Các NH cung cấp cho KH dịch vụ quản lý ngân quỹ, trong đó, NH đồng ý quản lý việc chi cho một công ty và thực hiện đầu tư phần vốn tạm thời nhàn rỗi vào chứng khoán , hoặc cho vay để nguồn vốn nhàn rỗi của KH sinh lợi. -Tài trợ các hoạt động của Chính Phủ. Thôg qua mua trái phiếu Chính Phủ phát hành hoặc cho vay với các điều kiện ưu đãi đối với các doanh nghiệp của Chính Phủ. -Bảo lãnh.Do uy tín cũng như khả năng tài chính của mình, các NH thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh cho KH trong mua chịu hàng hoá và trang thiết bị , phát hành chứng khoán , vay vốn của các tổ chức TD khác… -Đầu tư.Nghiệp vụ đầu tư của NHTM có thể thực hiện trên thị trường tiền tệ hoặc thị trường chứng khoán , cũng có thể đó là hoạt động trực tiếp hùn vốn hoặc mua cổ phiếu của các doanh nghiệp , công ty. -Thuê mua.Thực chất đây là nghiệp vụ cho thuê vốn ( Capital Lease), nhưng vốn cho thuê không phải bằng tiền mà là dưới hình thức tài sản (các văn phòng,máy móc thiết bị, tài sản khác).Thuê mua có 3 loại: (1) Thuê mua đơn thuần; (2)Thuê mua trực tiếp; (3) Thuê mua liên kết. -Các dịch vụ về chứng khoán ; mua bán chứng khoán, môi giới chứng khoán, bảo lãnh chứng khoán. -Dịch vụ tư vấn; Tư vấn bất động sản , tư vấn chứng khoán, tư vấn tài chính… -Dịch vụ uỷ thác: Uỷ thác cho vay , quản lý hộ tài sản, giải quyết các thủ tục chuyển nhượng tài sản, bảo quản tài sản là vàng bạc , chứng khoán , tài liệu mật. -Bán các dịch vụ bảo hiểm. -Dịch vụ thuê két sắt. -Cung cấp các dịch vụ NH đại lý… 1.1.4 Vai trò của hệ thống NH trong nền kinh tế Hệ thống NH giữ vai trò cực kỳ quan trọng trong nền kinh tế, là một mắt xích không thể thiếu được trong quá trình tái sản xuất xã hội , trong đó có thể thấy một số vai trò chính sau đây: Thứ nhất, tập trung vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế, sau đó tiến hành cho vay đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội.Trong quá trình tiến hành tập trung nguồn vốn và cho vay, các NH đã giúp cho nguồn lực của xã hội được khai thác và sử dụng hiệu quả. Thứ hai,với vị trí là một trung gian tài chính trong nền kinh tế thị trường các NH thực hiện mở tài khoản và TT thông qua tài khoản, chính điều đó đã giúp giảm chi phí giao dịch, an toàn trong TT, giúp đẩy nhanh quá trình TT, từ đó tạo điều kiện rút ngắn chu kỳ tái sản xuất xã hội. Đồng thời, thông qua hoạt động TT của mình, các NH đã sáng tạo ra các công cụ TT mới, làm tăng tính tiện ích cho các khách hàng của mình thông qua việc giúp cho KH có nhiều cơ hội lựa chọn hơn các công cụ TT phù hợp; điều này đồng thời cũng đem lại lợi ích lớn cho xã hội. Thứ ba, hoạt động của NHTW giúp tạo lập môi trường vĩ mô ổn định lành mạnh, kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đối nội lẫn đối ngoại của đồng tiền, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Thứ tư, hoạt động của hệ thống ngân hàng giúp đất nước hội nhập kinh tế quốc tế nhanh chóng hiệu quả. 3.Các dịch vụ ngân hàng Ngân hàng là một doanh nghiệp cung cấp dịch vụ cho công chúng và các doanh nghiệp.Thành công của ngân hàng phụ thuộc vào năng lực xác đinh các dịch vụ tài chính mà xã hội có nhu cầu ,thực hiện các dịch vụ tài chính mà xã hội có nhu cầu thực hiện các dịch vụ đó một các có hiệu quả. 3.1.Mua bán ngoại tệ Một trong những dịch vụ ngân hàng đầu tiên đuợc thực hiện là trao đổi mua bán ngoại tệ -một ngân hàng đứng ra mua bán một loại tiền khác và hưởng phí dịch vụ .Trong thị trường tài chính ngày nay,mua bán ngoại tệ thường chỉ do các ngân hàng lớn nhất thưch hiện bởi vì những giao dịch như vậy có mức độ rủi ro cao, đồng thời yêu cầu phải có trình độ chuyên môn cao. 3.2.Nhận tiền gửi Cho vay được coi là hoạt động sinh lời cao ,do đó các ngân hàng đã tìm mọi cách để huy động được tiền .Một trong những nguồn quan trọng là các khoản tiền gửi (thanh tóan và tiết kiệm của khách hàng )Ngân hàng mở dịch vụ nhận tiền gửi để bảo quản hộ người có tiền với cam kểt hoàn trả đúng hạn.Trong cuộc cạnh tranh để tìm và giành được các khoản tiền gửi ,các ngân hàng đã trả lãi cho tiền gửi như là phần thưởng cho khách hàng về việc sẵn sàng hi sinh nhu cầu tiêu dung trước mắt và cho phép ngân hàng sử dụng tam thời để kinh doanh. 3.3.Cho vay 3.3.1.Cho vay thương mại Ngay ở thời kỳ đầu ,các ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu mà thực tế là cho vay đối với những người bán (người bán chuyển các khoản phải thu cho ngân hàng để lấy tìên trước ).Sau đó là bước chuyển tiếp từ chiết khấu thương phiếu sang cho vay trực tiếp đối với các khách hàng (là người mua ),giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ nhằm mở rộng sản xuất kinh doạnh. 3.3.2.Cho vay tiêu dùng Trong giai đoạn đầu hầu hết các ngân hàng không tích cực cho vay đối với các cá nhân và hộ gia đình bởi họ tin rằng các khoản cho vay tiêu dùng rủi ro vỡ nợ tương đối cao.Sự gia tăng thu nhập của người tiêu dùng và sự cạnh tranh trong cho vay đã buộc ngân hàng phải hướng tới người tiêu dùng như là một khách hàng tiềm năng .Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai ,tín dụng tiêu dùng đã trở thành một trong những loại hình tín dụng tăng trưởng nhanh nhất ở các nước có nền kinh tế phát triển. 3.3.3.tài trợ cho dự án Bên cạnh cho vay truyền thống là cho vay ngắn hạn,các ngân hàng ngày càng trở nên năng động trong việc tài trợ cho xây nhà máy mới đặc biệt là trong các ngành công nghệ cao .Mặc dù rủi ro trong loại hình tín dụng này nói chung là cao song lãi lại lớn .Một số ngân hàng còn cho vay để đầu tư vào đất. 3.4.Bảo quản vật có giá Các ngân hàng thực hịên việc lưu giữ vàng và các vật có giá khác cho khách hàng trong kho bảo quản .Ngân hàng giữ vàng và giao cho khách tờ biên nhận (giấy chứng nhận do ngân hàng phát hành).Do khả năng chi trả bất cứ lúc nào cho giấy chứng nhận ,nên giấy chứng nhận đã được sử dụng như tiền –dùng để thanh toán các khoản nợ trong phạm vi ảnh hưởng của ngân hàng phát hành .Lợi ích cuả việc sử dụng phương tiện thanh toán bằng giấy thay cho bằng kim loại đã khuyến khích khách hàng . Đó là hình thức đầu tiên giấy bạc ngân hàng .Ngày nay ,vật có gía được tách khỏi tiền gửi và khách hàng phải trả chi phí bảo quản. 3.5 Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán Khi doanh nhân gửi tiền vào ngân hàng ,họ nhận thấy ngân hàng không chỉ bảo quản mà còn thực hiện các lệnh chi trả cho khách hàng của họ.Thanh toán qua ngân hàng sẽ mở đầu cho thanh toán không dùng tiền mặt ,tức là người gửi tiền không cần phải đến ngân hàng để lấy tiền mà chỉ cần viết dấy chi trả cho khách (còn gọi là séc ), khách hàng mang giấy ngân hàng sẽ nhận được tiền .Các tiện ích của thanh toán không dùng tiền mặt (an toàn ,nhanh chóng chính xác ,tiết kiệm chi phí) đã góp phần rút ngắn thời gian kinh doanh và nâng cao thu nhập cho các doanh nhân .Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin ,nhiều thể thức thanh toán được phat triển như Uỷ nhiệm thu,Uỷ nhiệm chi,nhờ thu,L/C,thanh toán bằng điện thẻ… 3.6 Quản lý ngân quỹ Các ngân hàng mở tài khoản và giữ tiền của phần lớn các doanh nghiệp và nhiều cá nhân .Nhờ đó ,ngân hàng thường có mối liên hệ chặt chẽ với nhiều khách hàng .Do có kinh nghiệm trong quản lý ngân quỹ và khả năng trong việc thu ngân ,nhiều ngân hàng đã cung cấp cho khách hàng dịch vụ quản lý ngân quỹ,trong đó ngân hàng đồng ý quản lý việc thu chi cho một công ty kinh doanh và tiến hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào chứng khoán sinh lời và tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần tiên mặt để thanh toán. 3.7 Tài trợ các hoạt động của chính phủ Khả năng huy động và cho vay với khối lượng lớn của ngân hàng đã trở thành trọng tâm chú ý của các Chính Phủ.Do nhu cầu chi tiêu lớn và thường là cấp bách trong khi thu không đủ,chính phủ các nước đều muốn tiếp cận với các khoản vay của ngân hàng .trong điều kiện các ngân hàng tư nhân không muốn tài trợ cho chính phủ vì rủi ro cao.Chính phủ thường dung một số đặc quyền trao đổi lấy các khoản vay cảu những ngân hàng lớn .Khi ngân hàng trung ương thành lập ,chính phủ thường dùng mộ số đặc quyền trao đổi lấy các khoản tín dung lớn.Ngày nay ,chính phủ giành quyền cấp giấy phép thành lập với điều kiện là họ phải cam kết thực hiện với mức độ nào đó các chính scáh của chính phủ và tài trợ cho chính phủ.Các ngân hàng phải mua trái phiếu Chính phủ theo một tỷ lệ nhất định trên tổng lượng tiêng gửi mà ngân hàng huy động được,hoặc phải cho vay với các điều kiện ưu đãi cho các doạnh nghiệp của Chính phủ. 3.8.Bảo lãnh Do khả năng thanh toán của ngân hàng cho một khách hàng rất lớn do ngân hàng nắm giữ tiền gửi của khách hàng,nên ngânh àng có uy tín trong boả lãnh cho khách hàng.Trong những năm gần đây ,nghiệp vụ bảo lãnh cho khách hàng ngày càng đa dạng và phát triển mạnh.Ngân hàng thường bảo lãnh cho khách hàng của mình mua chịu hàng hoá và trang thiết vị ,phát hành chứng khoán ,vay vốn của tổ chức tín dụng khác… 3.9.Cho thuê thiết bị trung và dài hạn(leasing ) Nhằm để bán được các thiết bị , đặc biệt là cá thiết bị có gía trị lớn ,nhiều hãng sản xuất và thương mại đã cho thuê (thay vì bán) các thiết bị .Cuối hợp đồng thuê,khách hàng có thể mua (do vậy còn gọi là hợp đồng thuê mua )Rất nhiều ngân hàng tích cực cho khách hàng kinh doanh quyền lựa chọn thuê các thiết bị,máy móc cần thiết thông qua hợp đồng thuê mua ,trong đó ngân hàng mua thiết bị và cho khách hàng thuê.Hợp đồng cho thuê thường phải đảm bảo yêu cầu khách hàng phải trả tới hơn 2/3 giá trị của tài sản cho thuê.Do vậy,cho thuê của ngân hàng cũng có nhiều điểm giống như cho vay và được xếp vào tín dụng trung và dài hạn. 3.10.Cung cấp dịch vụ uỷ thác và tư vấn Do hoạt động trong lĩnh vực tài chính,các ngân hàng có rất nhiều chuyên gia về quản lý tài chính.Vì vậy ,nhiều cá nhân và doanh nghiệp đã chờ ngân hàng quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính hộ ,uỷ thác phát hành ,uỷ thác đầu tư…Thậm chí ,các ngân hàng đóng vai trò là người được uỷ thác trong di chúc , quản lý tài sản cho khách hàng đã qua đời bằng cách công bố tài sản,bảo quản các tài sản có giá.Nhiều khách hàng còn coi ngân hàng như một chuyên gia tư vấn tài chính 3.11. Cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán Nhiều ngân hàng đang phấn đấu cung cấp đủ các dịch vụ tài chính cho phép khách hàng thoả mãn mọi nhu cầu. Đây là một trong những lý do khiến các ngân hàng bắt đầu bán các dịch vụ môi giới chứng khoán ,cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu ,trái phiếu và các chứng khoán khác mà không phải nhờ đến người kinh doanh chứng khoán.Trong một vài trường hợp ,các ngân hàng tổ chức ra công ty chứng khoán hoặc công ty môi giới chứng khoán. 3.12.Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm Từ nhiều năm nay,các ngân hàng đã bán bảo hiểm cho khách hàng điều đó bảo đảm việc hoàn trả cho trường hợp khách hàng bị chết ,bị tàn phế hay gặp rủi ro trong hoạt động ,mất khả năng thanh toán 3.1. Cung cấp các dịch vụ đại lý Nhiều ngân hàng trong quá trình hoạt động không thể thiết lập chi nhánh hoặc văn phòng ở khắp mọi nơi.Nhiều ngân hàng (thường ngân hàng lớn )cung cấp dịch vụ ngân hàng đại lý cho các ngân hàng khác như thanh toán hộ ,phát hành hộ các chứng chỉ tiền gửi ,làm ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ… 2.2 THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM SAU KHI GIA NHẬP WTO 2.2.1 Tình hình chung 2.2.1.1 về số lượng các NH Theo thống kê, tính đến năm 2005 hệ thống NH có NHNN gồm trụ sở chính tại NH trung ương ,64chi nhánh tỉnh,thành phố,văn phòng đại diện tại TP Hồ Chí Minh,8 đơn vị sự nghiệp, 4 doanh nghiệp trực thuộc, 5 NHTM Nhà nước,NH chính sách xã hội,NHTM cổ phần đô thị,11 NHTMCP nông thôn, quỹ tín dụng TW và 24 chi nhánh,909 quỹ tín dụng cơ sở,4 NH liên doanh với nước ngoài, 28 chi nhánh NH nước ngoài, 5 Công ty tài chính và 9 Công ty cho thuê tài chính; bảo hiểm tiền gửi Việt Nam. Bảng 2.1: Số lượng NH và mạng lưới hoạt động Loại hình NHTM Nhà nước NHTM CP Chi nhánh NHNNg NH liên doanh số lượng Mạng lưới số lượng Mạng lưới số lượng Mạng lưới số lượng Mạng lưới 30/9/200 6 568 33 370 37 37 4 13 Ghi chú: Không tính chi nhánh cấp IV và phòng giao dịch Các tư liệu thống kê trên đây cho thấy, thị trường trong lĩnh vực kinh doanh ngân hàng ở VN hiện nay tương đối phát triển,bao gồm cả các NH trong nước và NH nước ngoài.Với một hệ thống các NH như vậy sẽ tạo ra một sự cạnh tranh ngày càng tăng đối với các NH. 2.2.1.2 Hệ thống pháp luật trong lĩnh vực NH Chúng ta đã xây dựng Luật NHNN và Luật các tổ chức Tín dụng vào cuối năm 1997 và có hiệu lực bắt đầu từ ngày 1/10/1998. Bên cạnh đó , Chính phủ , mà đại diện là NHNN, cũng đã ban hành hàng loạt các văn bản pháp quy quy định hoạt động của từng lĩnh vực ngân hàng cụ thể. Tuy nhiên, đứng trước bối cảnh hội nhập thì hệ thống luật lệ trong kinh doanh ngân hàng ở Việt Nam còn nhiều bất cập cần tiếp tục phải chỉnh sửa cho hoàn thiện. 2.2.1.3 Mức độ cạnh tranh thị trường Cho đến nay , các NHTM hoạt động tại Việt Nam gồm 4 nhóm.NHTMNN (5 NH), NH thương mại cổ phần(33 NH), NH liên doanh (4 NH), các chi nhánh NH nước ngoài (28 chi nhánh). Như vậy, chúng ta cũng có thể nhìn thấy rõ mức độ cạnh tranh giữa các NH trong nước diễn ra mạnh mẽ vì cạnh tranh là sự ganh đua giữa các đối thủ trên cơ sở tạo ra và sử dụng có hiệu quả các lợi thế so sánh,các công cụ và biện pháp nhất định để giành thắng lợi tăng thu nhập tăng thị phần và quyền chi phối thị trường.Trong bối cảnh hội nhập quốc tế thì các NH nước ngoài cũng tham gia vào thị trường nội địa tạo ra một sức ép và sự cạnh tranh giữa các NH trong nước và NH nước ngoài.Tuy nhiên, do năng lực cạnh tranh của các NH trong nước chưa cao còn nhiều yếu kém vì vậy mức độ cạnh tranh chưa đạt hiệu quả mong muốn , tự phát và thua thiệt về phía các NH. 2.2.1.4 Công nghệ Trong kinh doanh NH hiện đại thì công nghệ giữ vai trò có tính quyết định bởi vì các lĩnh vực dịch vụ mới đều đòi hỏi kỹ thuật công nghệ cao, nhất là công nghệ thông tin.Chính vì vậy đang đặt ra cho NH VN phải có những chiến lược cụ thể để tiếp cận với các công nghệ thông tin mới để nâng cao từng bước năng lực cạnh tranh. 2.2.2 Thực trạng năng lực cạnh tranh của NH Việt Nam sau khi gia nhập WTO 2.2.2.1 Năng lực tài chính Theo quy định của luật các tổ chức tín dụng thì vốn tự có bao gồm số thực có của vốn điều lệ, các quỹ dự trữ và một số tài sản nợ khác do NHNN quy định; nhưng ở VN, NHNN không quy định thành phần tài sản nợ này, nên thực chất vốn tự có là vốn chủ sở hữu -Nhóm NHTM Nhà nước từ năm 2000 đến nay, vốn chủ sở hữu của các NHTMNN đều tăng: + Mức tăng từ năm 2000 đến năm 2004 đã tăng gấp khoảng gần 3 lần. + Quy mô vốn chủ sở hữu bình quân một NH tăng đáng kể, gấp gần 3 lần. + Phương thức tăng vốn: Tăng do nguồn cấp phát của NN bằng trái phiếu đặc biệt.Số cấp bổ sung này tổng số trên 10.000 tỷ đồng. Tuy nhiên, năng lực vốn chủ sở hữu của nhóm NH này bộc lộ khá nhiều hạn chế, làm giảm năng lực canh tranh. Cụ thể : quy mô vốn của một NHTMNN còn quá nhỏ bé, không so sánh được với các NHTM nước ngoài có chi nhánh ở VN. Triển vọng tăng vốn điều lệ của các NHTMNN là rất khó ngoại trừ việc phải đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá các ngân hàng này. Nhóm NHTM cổ phần : Có thể nhận thấy thực trạng vốn chủ sở hữu của nhóm NH này như sau: + Vốn chủ sở hữu liên tục tăng nhưng quy mô rất nhỏ bé + Các NHTM cổ phần tăng quy mô vốn bằng chính thực lực của mình và còn nhiều khả năng tăng vốn. + Mặc dù có xu thế phát triển quy mô vốn chủ sở hữu nhưng trong giai đoạn trước mắt, năng lực tài chính chưa thoát khỏi tình trạng khó khăn. Nhóm NH liên doanh: Theo đúng tính chất pháp lý thì ở VN hiện nay có 4 NH liên doanh. Đây là ngân hàng liên doanh giữa NH nước ngoài với NHTM Việt Nam.Những NH có mức tăng vốn chủ sở hữu không lớn lắm, trên thực tế vốn tăng chủ yếu là do trượt giá vốn chủ sở hữu bằng ngoại tệ.Việc tăng vốn góp của NH liên doanh phụ thuộc vào khả năng tài chính của các NH mẹ điều này về phía VN là không lớn. Nhóm chi nhánh NH nước ngoài: Nhóm NH này có năng lực tài chính tiềm năng, là đối thủ cạnh tranh chủ yếu đối với các NHTM VN trên thị trường trong nước và quốc tế.Nhưng thị trường tài chính vẫn chưa phát triển do VN còn áp dụng giới hạn chặt chẽ với các chi nhánh NH nước ngoài. Tổng vốn điều lệ của các NHTM quốc doanh hiện mới đạt trên 21.000 tỷ đồng, dư nợ tín dụng mới xấp xỉ 55% GDP, thấp hơn nhiều so với mức trên 80% của các nước trong khu vực. Bình quân mức vốn tự có của các NHTM quốc doanh khoảng từ 200 đến 250 triệu USD, chỉ bằng một ngân hàng cỡ trung bình trong khu vực, còn các NHTM cổ phần có mức vốn điều lệ bình quân chỉ trên dưới 500 tỷ đồng. Vốn thấp dẫn đến khả năng chống đỡ rủi ro của các ngân hàng Việt Nam còn kém, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu chỉ đạt trung bình hơn 5%, so với chuẩn mực quốc tế là lớn hơn hoặc bằng 8%. Bên cạnh đó, sản phẩm dịch vụ còn quá ít và đơn điệu, tính tiện ích chưa cao, hoạt động ngân hàng chủ yếu dựa vào “độc canh” tín dụng. Quy trình quản trị trong các tổ chức tín dụng (TCTD) nói chung và của các NHTM nói riêng còn chưa phù hợp với các nguyên tắc và chuẩn mực quốc tế; tính minh bạch thấp, hệ thống thông tin điều hành và quản lý rủi ro chưa thực sự hiệu quả. Hầu hết các NHTM Việt Nam đều có mức dư nợ không sinh lời lớn hơn giới hạn cho phép từ 1,5 đến 2,5 lần, khả năng thanh toán bình quân chỉ mới đạt xấp xỉ 60%, tỷ lệ sinh lời bình quân trên vốn tự có (ROE) hiện chỉ là 6% so với 15% của các NHTM các nước trong khu vực. Trong khi đó, tỷ trọng đầu tư tín dụng của các TCTD phi ngân hàng như kho bạc, quỹ hỗ trợ… chiếm trên 34% trên tổng vốn đầu tư toàn xã hội lại nằm ngoài vòng kiểm soát của Ngân hàng Nhà nước (NHNN). Hạ tầng công nghệ ngân hàng và hệ thống thanh toán còn lạc hậu, thậm chí có nguy cơ tụt hậu so với khu vực, chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển và nâng cao chất lượng dịch vụ, năng lực quản lý điều hành của NHNN. Thể chế của hệ thống ngân hàng Việt Nam còn nhiều bất cập, hệ thống pháp luật về ngân hàng thiếu đồng bộ, chưa phù hợp với yêu cầu cải cách và lộ trình hội nhập. Việc quản trị doanh nghiệp trong các NHTM còn nhiều khiếm khuyết, nổi bật là sự chưa tách bạch giữa quyền sở hữu và quyền kiểm soát, điều hành ngân hàng. Các NHTM Việt Nam chỉ mới dừng lại ở tầm cỡ kinh doanh ngắn hạn, chưa có lộ trình thực hiện chiến lược trung - dài hạn cũng như giải pháp phát triển đồng bộ, dẫn đến tình trạng phát triển thiếu bền vững. Theo kết quả khảo sát của Chương trình Phát triển Liên hiệp quốc (UNDP) phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư thực hiện, có 42% doanh nghiệp và 50% người dân được hỏi đều trả lời rằng khi mở cửa thị trường tài chính, họ sẽ lựa chọn vay tiền từ các ngân hàng nước ngoài chứ không phải là ngân hàng trong nước; có 50% doanh nghiệp và 62% người dân cho rằng sẽ lựa chọn ngân hàng nước ngoài để gửi tiền vào. Như vậy, với năng lực cạnh tranh dưới trung bình, các NHTM Việt Nam sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức. 2.2.2.2 Năng lực quản trị điều hành Các NHTMVN tuy cơ cấu lao động đã được cải thiện nhiều, nhưng trước yêu cầu hội nhập thì vấn đề nhân lực còn nhiều bất cập sau: + Một là : Cơ cấu lao động có trình độ cao chưa đạt mức hợp lý. + Hai là: Chính sách đãi ngộ không theo kịp các NHNN nên đã có sự dịch chuyển lao động có trình độ cao ra khỏi các NHTMNN. + Ba là: Các chương trình đào tạo, đào tạo lại lao động chưa đáp ứng ứng được yêu cầu của thực tiễn. Nguồn nhân lực ở VN rất dồi dào nhưng còn hạn chế về năng lực chuyên môn cao vì vậy NHTM của VN gặp nhiều khó khăn. Bộ máy tổ chức- mô hình quản lý. Khó khăn của các NHTMVN để mô hình quản lý và bộ máy tổ chức chủ yếu trên các mặt sau: + Mạng lưới rộng theo địa giới hành chính, không thích hợp với mô hình NHTM trong nền kinh tế thị trường. + Mô hình NH hiện đại đòi hỏi giao dịch một cửa, trong khi năng lực nhân viên chưa sẵn sàng đáp ứng . + Trụ sở chính của hầu hết các NHTM theo nghiệp vụ truyền thống,vừa chồng chéo về nghiệp vụ, nhưng lại phân tán về chức năng. Các NHLD có lợi thế cơ bản là mô hình theo cơ cấu NH mẹ - những NH đã có hàng trăm năm kinh nghiệm thông thường.Hơn nữa, tại VN các NH hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận, nên chỉ chọn nơi có kinh tế thị trường thực sự phát triển để mở chi nhánh (hiện tại có 28 chi nhánh NHNN thì chỉ còn có một chi nhánh ở Vũng Tàu, còn lại 27 chi nhánh ở Hà Nội và TP Hồ Chí Minh). Đây là ưu thế vượt trội của nhóm NH này. Việc quản trị tài sản nợ trong thời gian qua đã bộc lộ nhiều bất cập.Thể hiện: + An toàn của các NHTM VN rất thấp. + Việc quản lý vốn khả dụng của các NHTM VN chưa đúng nghĩa, chưa có một NH quản lý theo mô hình trực tuyến. + Thương hiệu sản phẩm, uy tín của NH : Hiện nay, một số NHTM bước đầu đã hình thành thương hiệu riêng về sản phẩm huy động vốn nhưng chưa thật hiệu quả.Hơn nữa, bản thân các NH chưa có chiến lược cạnh tranh mạnh mẽ cho việc huy động nguồn vốn trung dài hạn. Khả năng phối kết hợp của các NH trong nước. Trong thời gian qua tinh thần hợp tác của các NHTM trong nước không cao.Một số NH quá chú trọng đến lợi ích riêng, thiếu quan tâm cần thiết đến lợi ích của toàn hệ thống.Trong việc cung cấp các dịch vụ NH khác, đặc biệt là các dịch vụ mới ( chẳng hạn dịch vụ thẻ, dịch vụ bảo lãnh…) vẫn đang xảy ra hiện tượng “mạnh ai nấy làm” và “ mỗi NH mỗi cách” mà chưa có sự đồng thuận hợp tác để đưa ra giải pháp. 2.2.2.3 Khả năng sinh lời Nếu so sánh với các NH của những nước trong khu vực thì ROE của các NHVN chênh lệch không nhiều, nhưng ROA thì chênh lẹch quá lớn.Khả năng sinh lời trên tổng tài sản có thấp cho thấy hiệu quả sử dụng tài sản của các NHTMVN thấp.Mức sinh lời ROA của NHTMVN đạt thấp do các nguyên nhân chủ yếu sau đây: + Do vốn tự có của NHTM quá nhỏ đương nhiên làm giảm khả năng tăng lợi nhuận. +Tỷ lệ tài sản có không sinh lời/ tổng tài sản có quá cao nên làm giảm thu nhập của NH. + Do mức độ áp dụng công nghệ tiên tiến hạn chế, tỷ lệ giao dịch tự động còn thấp nên năng suất lao động kém. +Cơ cấu thu nhập của các NHTM còn chưa hợp lý, chỉ có khoảng 10% là từ dịch vụ.Trong khi khả năng sinh lời từ dịch vụ cao hơn nhiều so với khả năng sinh lời từ hoạt động tín dụng. 2.2.2.4 Khả năng Marketing của NHTM Marketing là sản phẩm của nền kinh tế thị trường. Marketing đã trở thành hoạt động không thể thiếu trong các doanh nghiệp nói chung và trong các NHTM nói riêng. Marketing ngân hàng thuộc nhóm Marketing kinh doanh, là lĩnh vực đặc biệt của ngành dịch vụ. Có thể hiểu: Marketing ngân hàng là một hệ thống tổ chức quản lý của một ngân hàng để đạt được mục tiêu đặt ra là thỏa mãn tốt nhất nhu cầu về vốn, về các dịch vụ khác của ngân hàng đối với nhóm khách hàng lựa chọn bằng các chính sách, các biện pháp hướng tới mục tiêu cuối cùng là tối đa hóa lợi nhuận. Kết quả sử dụng công cụ Marketing của các NHTM Việt Nam Có thể thấy rằng trong thời gian qua, các NHTM đã rất tích cực trong việc tiến hành các hoạt động Marketing. Các chương trình khuyến mại làm thẻ, quảng cáo thương hiệu, huy động vốn với lãi suất cao, các chương trình quảng cáo trên phương tiện thông tin đại chúng,... liên tục được áp dụng rộng rãi đã tạo tiền đề để các NHTM đạt được những kết quả nhất định và nâng cao hoạt động Marketing ngân hàng tiến dần đến thông lệ khu vực và quốc tế. Trước tiên, ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc6127.doc