Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách nhà nước

Tài liệu Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách nhà nước: ... Ebook Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách nhà nước

doc109 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1196 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU =================== Ngay từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã xác định: “Đẩy mạnh công nghiệp hoá- hiện đại hoá theo hướng công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa; xây dựng nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Để đạt được mục tiêu đó, ngay từ những năm 2000, Đảng và Nhà nước ta đã coi đầu tư phát triển là nhiệm vụ chiến lược; là giải pháp cơ bản để thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội. Đẩy mạnh đầu tư phát triển trong đó chủ yếu là đầu tư xây dựng cơ bản có ý nghĩa cực kỳ quan trọng nhằm tạo ra nền tảng cho hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo đà cho nhịp độ tăng trưởng kinh tế. Đồng thời là biện pháp hữu hiệu kích thích sản xuất, tạo việc làm cho người lao động. Quản lý đầu tư từ nguồn vốn Ngân sách Nhà nước là vấn đề lớn, phức tạp và nhạy cảm. Nó liên quan đến nhiều vấn đề, cũng như nhiều ngành, cấp, cơ quan trong quản lý nhà nước đối với đầu tư xây dựng. Trong những năm qua, thông qua quá trình quản lý hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản đã đạt được kết quả đáng kể, góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. Tốc độ và quy mô tăng đầu tư xây dựng cơ bản góp phần quan trọng vào tốc độ tăng GDP hàng năm, tăng cường tiềm lực kinh tế, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất là tinh thần của nhân dân. Đầu tư xây dựng cơ bản góp phần quan trọng vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hóa, tăng đáng kể năng lực sản xuất mới.... Tuy nhiên, hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản nói riêng và hoạt động quản lý đầu tư xây dựng cơ bản nói chung hiện nay đang tồn tại khá nhiều yếu kém, chưa thực sự đáp ứng yêu cầu đặt ra. Chính vì vậy, em đã chọn đề tài: “ Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ Ngân sách Nhà nước” làm đề tài nghiên cứu của mình. Do đây là một vấn đề lớn, quan trọng, liên quan đến nhiều lĩnh vực trong nền kinh tế nên những vấn đề được đề cập trong bài viết này chỉ là những nét chính, cơ bản giúp chúng ta phần nào có được cái nhìn đúng đắn hơn về hiệu quả quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách nhà nước hiện nay. Mặc dù đã có nhiều cố gắng, nhưng bài viết chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, vì vậy em kính mong được sự đóng góp ý kiến của các thầy, cô để bài viết của em thêm hoàn thiện Em xin chân thành cảm ơn cô giáo: Thạc sĩ Nguyễn Thị ái Liên bộ môn Kinh tế Đầu tư, Chị : Phú Hà chuyên viên Vụ Tổng hợp Kinh tế quốc dân- Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tận tình giúp đỡ, chỉ bảo để em hoàn thành bài viết này. CHƯƠNG I. LÝ LUẬN CHUNG I. ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN TỪ NSNN 1. Khái niệm đầu tư xây dựng cơ bản Trước hết, đầu tư xây dựng cơ bản là một hoạt động đầu tư phát triển, tái sản xuất cố định, tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật làm tiền đề cho sự phát triển kinh tế và xã hội của một quốc gia. Một quốc gia không thể phát triển kinh tế nếu như không tiến hành đầu tư xây dựng cơ bản. Đầu tư xây dựng cơ bản là một hoạt động đầu tư nhằm tạo ra các công trình xây dựng theo mục đích của người đầu tư. 2. Đặc điểm của đầu tư xây dựng cơ bản Đầu tư xây dựng cơ bản là một hoạt động đầu tư phát triển, chính vì vậy nó mang đầy đủ những đặc điểm của đầu tư phát triển. Tuy nhiên, hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản còn có những nét đặc trưng xuất phát từ đặc điểm của sản phẩm xây dựng cơ bản tạo nên. Đặc điểm của sản phẩm xây dựng cơ bản. + Sản phẩm xây dựng cơ bản là các công trình xây dựng gắn liền với đất; vì vậy mỗi sản phẩm gắn liền với một địa điểm xây dựng nhất định và chịu sự chi phối của điều kiện địa hình, địa chất, thuỷ văn, môi trường xung quanh, khí hậu, thời tiết... của nơi đầu tư xây dựng công trình; nơi đầu tư xây dựng công trình cũng chính là nơi đưa công trình vào khai thác sử dụng. + Sản phẩm xây dựng cơ bản có tính đơn chiếc, mỗi công trình có thiết kế và dự toán riêng tuỳ thuộc vào mục đích đầu tư và các điều kiện về địa hình, địa chất, thuỷ văn... tại địa điểm đầu tư xây dựng công trình quyết định đến quy hoạch, kiến trúc, quy mô và kết cấu khối lượng, yêu cầu quy chuẩn xây dựng, giải pháp công nghệ thi công..... và dự toán chi phí đầu tư của từng công trình. + Sản phẩm xây dựng cơ bản là các công trình xây dựng có vốn đầu tư lớn, được tạo ra trong thời gian dài, có thời gian sử dụng lâu và liên quan đến nhiều ngành kỹ thuật, kinh tế, hội hoạ, điêu khắc, xã hội nhân văn.... Đặc điểm của công tác đầu tư xây dựng cơ bản. + Công tác đầu tư xây dựng cơ bản được tiến hành trong tất cả các ngành kinh tế quốc dân, các lĩnh vực kinh tế- xã hội như: công nghiệp, nông nghiệp, giao thông, xây dựng, y tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng an ninh.... nên sản phẩm xây dựng cơ bản có nhiều loại hình công trình và mỗi loại hình công trình có những đặc điểm kinh tế kỹ thuật riêng biệt. + Thi công xây dựng công trình thường được tiến hành ngoài trời nên luôn chịu ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên và thời tiết + Lực lượng thi công xây dựng công trình thường xuyên phải di chuyển theo nơi phát sinh nhu cầu đầu tư các công trình, đòi hỏi phải có tổ chức hợp lý các yếu tố về nhân lực, máy móc thi công... nhằm giảm bớt lãng phí về thời gian và tiền vốn trong quá trình thi công. 3. Vai trò của đầu tư xây dựng cơ bản trong nền kinh tế Hoạt động đầu tư XDCB là nhân tố thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Đầu tư XDCB sẽ tái tạo và tăng cường năng lực sản xuất để tăng năng suất lao động, tăng thu nhập quốc dân và tăng thu nhập tính trên một đầu người trong xã hội. Mặt khác, đầu tư XDCB cũng tăng tích luỹ vốn, thu hút người lao động, sử dụng có hiệu quả tài nguyên của đất nước. Đầu tư XDCB sẽ tạo ra cơ cấu kinh tế mới, hình thành những ngành mới, tăng cường chuyên môn hoá và phân công lao động xã hội Khối lượng đầu tư XDCB và tốc độ của nó phản ánh trình độ phát triển của một nền kinh tế. Đầu tư xây dựng làm tăng thu nhập quốc dân, tăng tổng sản phẩm xã hội, trực tiếp góp phần tổ chức lại sản xuất, phát triển các ngành kinh tế mới và giải quyết vấn đề việc làm cho xã hội. Hoạt động đầu tư XDCB không có những có vai trò quan trọng đối với sản xuất kinh doanh dịch vụ mà còn có một ý nghĩa lớn đối với sự phát triển tất cả các mặt của đời sống xã hội như phát triển văn hoá nghệ thuật, củng cố an ninh quốc phòng. Tóm lại: hoạt động đầu tư XDCB đã và sẽ tạo ra một cơ cấu kinh tế xã hội hợp lý, tăng trưởng và phát triển cân đối. II. NGUỒN VỐN ĐẦU T Ư 1. Vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách Nhà nước Theo NĐ 385-HĐBT ngày 7/11/1990 của Hội đồng bộ trưởng về việc sửa đổi, bổ sung, thay thế Điều lệ quản lý xây dựng cơ bản đã ban hành kèm theo NĐ 232- CP ngày 6/6/1981 thì: Vốn đầu tư xây dựng cơ bản là toàn bộ chi phí để đạt được mục đích đầu tư, bao gồm chi phí cho việc khảo sát, quy hoạch xây dựng, chuẩn bị đầu tư, chí phí về thiết kế và xây dựng, chi phí mua sắm và lắp đặt thiết bị và các chi phí khác ghi trong tổng dự toán. Mục đích của đầu tư xây dựng cơ bản là tạo ra những công trình xây dựng ở tại địa điểm phù hợp, quy mô, công suất hợp lý, kết cấu bền vững, bảo đảm cảnh quan môi trường... nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế phục vụ cho đời sống nhân dân. Để có được những công trình như vậy cần phải bỏ ra những chi phí nhất định, những chi phí đó chính là vốn đầu tư xây dựng cơ bản. Căn cứ vào phạm vi, tính chất và hình thức cụ thể nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ Ngân sách Nhà nước được hình thành từ các nguồn sau: + Nguồn vốn trong nước: được hình thành từ thuế, phí, lệ phí; các khoản thu từ bán, cho thuê tài sản, tài nguyên của đất nước, và các khoản thu khác. + Nguồn vốn ngoài nước bổ sung cho Ngân sách Nhà nước để đầu tư xây dựng cơ bản bao gồm: Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), nguồn vốn viện trợ phi chính phủ. Theo phân cấp quản lý Ngân sách Nhà nước, vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách gồm: + Vốn đầu tư của Ngân sách nhà nước: hình thành từ các khoản thu của ngân sách trung ương nhằm đầu tư cho các dự án phục vụ cho lợi ích quốc gia. Nguồn vốn này thường được giao cho các Bộ, ngành quản lý sử dụng. + Vốn đầu tư của ngân sách địa phương: để đầu tư dự án phục vụ lợi ích của địa phương đó. Nguồn vốn này giao cho địa phương quản lý sử dụng Đối tượng sử dụng của vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ Ngân sách Nhà nước bao gồm: Một là: Các dự án thuộc kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội không có khả năng thu hồi vốn trực tiếp thuộc các lĩnh vực: + Các dự án về giao thông thuỷ lợi, bưu chính viễn thông, điện lực... (trừ trường hợp có quyết định khác của Chính phủ) + Các dự án trồng rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ, vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên. + Các trạm, trại thú y, động, thực vật để nghiên cứu giống mới và cải tạo giống. + Các dự án xây dựng công trình văn hóa xã hội, thể dục thể thao, y tế, giáo dục, phúc lợi công cộng. + Dự án quản lý Nhà nước, khoa học kỹ thuật. + Dự án bảo vệ môi trường sinh thái khu vực vùng lãnh thổ. Hai là: Dự án của các doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích, góp vốn cổ phần liên doanh bằng nguồn vốn cổ phần liên doanh bằng nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản của Nhà nước vào các doanh nghiệp có sự tham gia của Nhà nước theo quy định của pháp luật. Ba là: Dự án của một số doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực then chốt theo quyết định của chính phủ. Bốn là: Các dự án quy hoạch ngành và lãnh thổ, quy hoạch xây dựng đô thị nông thôn. Năm là: Các dự án, chương trình phát triển kinh tế xã hội. 2. Vai trò nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách nhà nước. Đầu tư xây dựng cơ bản bằng nguồn vốn Ngân sách Nhà nước có đầy đủ vai trò của đầu tư phát triển, trong đó có những vai trò đặc trưng như sau: Thứ nhất: Đầu tư xây dựng cơ bản góp phần phát triển nhanh kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội, thúc đẩy tăng trưởng. Nguồn vốn đầu tư của Nhà nước trong thời gian qua đã tập trung đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật, kinh tế- xã hội. Kết cấu hạ tầng kỹ thuật và kinh tế- xã hội ngày càng được phát triển, hoàn thiện, thay đổi diện mạo của nhiều địa phương trong cả nước. Tốc độ và quy mô tăng đầu tư xây dựng cơ bản góp phần quan trọng vào tốc độ tăng GDP hàng năm, tăng cường tiềm lực nền kinh tế, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Thứ hai: Đầu tư xây dựng cơ bản góp phần quan trọng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hoá, tăng đáng kể năng lực sản xuất mới. Trong những năm qua, công tác xây dựng cơ bản tập trung vào những mục tiêu quan trọng về phát triển kinh tế- xã hội, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng dần tỷ trọng nghành công nghiệp, xây dựng; tăng dần và cơ cấu lại ngành dịch vụ; giảm dần tỷ trọng ngành nông nghiệp, lâm nghiệp. Trong từng ngành cũng tiếp tục có sự chuyển dịch về cơ cấu. Nhiều dự án, công trình hoàn thành đi vào sử dụng đã tăng thêm năng lực sản xuất cho nền kinh tế. Thứ ba: Nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ Nhà nước thực sự có vai trò chủ đạo, dẫn dắt, thu hút và làm các nguồn vốn của xã hội được huy động cho đầu tư phát triển không ngừng tăng nhanh hàng năm và ngày càng đa dạng. Nguồn vốn đầu tư của Nhà nước luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội và tăng lên qua các năm. Trong khi vốn đầu tư của Nhà nước tiếp tục là nguồn chủ lực chiếm 54,9% thì các nguồn vốn khác đã tăng nhanh: vốn đầu tư nước ngoài chiếm 17,4%; vốn dân cư và tư nhân chiếm 25,7%; vốn huy động khác chiếm 2%, tính chung nguồn lực trong xã hội dành cho đầu tư phát triển, đặc biệt từ năm 2001 đến nay tăng khá Thứ tư: Đầu tư của Nhà nước trong lĩnh vực xây dựng cơ bản giữ vị trí quan trọng trong đầu tư xây dựng cơ bản toàn xã hội nói riêng, và trong phát triển kinh tế- xã hội nói chung. Tầm quan trọng đó không chỉ vì đầu tư nguồn đầu tư của Nhà nước chiếm tỉ trọng lớn trong tổng đầu tư xây dựng cơ bản, mà còn vì nguồn vốn đầu tư này đã hình thành nên những công trình làm tiền đề cho chuyển dịch cơ cấu, thúc đẩy phát triển kinh tế, và cải thiện đời sống dân cư một cách căn bản. Loại công trình này không thu hút được vốn đầu tư của các chủ thể kinh tế khác vì nhiều lý do, hoặc là do vốn đầu tư quá lớn so với khả năng đầu tư của nhà đầu tư tư nhân, hoặc do thời hạn thu hồi vốn quá dài, thậm chí không thể thu hồi vốn một cách trực tiếp hoặc vì một lý do chính trị- an ninh- quốc phòng mà các nhà đầu tư tư nhân không được phép đầu tư.... Do vậy, trong lĩnh vực này, đầu tư của nhà nước được xem là nguồn đầu tư duy nhất. Những công trình như: đường dây 500 KV, thuỷ điện Yaly, cải tạo quốc lộ 1A, đường Hồ Chí Minh.... là những minh chứng cho tầm quan trọng to lớn của các công trình đầu tư bằng nguồn vốn của Nhà nước. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ VỐN ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN TỪ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC I. NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ QUẢN LÝ VỐN ĐẦU TƯ XDCB TỪ NSNN 1. Chủ thể quản lý và đối tượng quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản 1.1. Chủ thể quản lý Chủ thể quản lý là tổng thể các cơ quan quản lý sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản của Nhà nước với cơ cấu tổ chức nhất định bao gồm các cơ quan chức năng của Nhà nước thực hiện quản lý vĩ mô đối với vốn đầu tư xây dựng cơ bản của Nhà nước (quản lý tất cả các dự án) và cơ quan của chủ đầu tư thực hiện quản lý vi mô đối với vốn đầu tư xây dựng cơ bản của Nhà nước (quản lý từng dự án). 1.2. Đối tượng quản lý Xét về mặt hiện vật, thì đối tượng quản lý chính là vốn đầu tư xây dựng cơ bản của Nhà nước. Xét về cấp quản lý thì đối tượng quản lý chính là các cơ quan quản lý và sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản cấp dưới. 2. Quản lý Nguồn vốn Ngân sách Nhà nước Về nguyên tắc, Nguồn vốn Ngân sách Nhà nước phải được Nhà nước quản lý chặt chẽ từ khâu giao kế hoạch cho đến khi thực hiện đầu tư. - Trong công tác lập kế hoạch đầu tư: Bộ Kế hoạch đầu tư tổng hợp kế hoạch vốn đầu tư từ Ngân sách của tất cả các thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân để dự báo, cân đối vĩ mô, hướng dẫn những ngành, lĩnh vực cần tập trung đầu tư; cơ chế, chính sách dự kiến áp dụng trong kỳ kế hoạch. Sở kế hoạch đầu tư ở cấp tỉnh; thành phố trực thuộc trung ương phải xác định cụ thể danh mục và vốn đầu tư của các dự án sử dụng vốn Ngân sách Nhà nước. Nhà nước quản lý chặt chẽ việc thực hiện kế hoạch đầu tư phù hợp với chiến lược; quy hoạch; kế hoạch dài hạn; khả năng cân đối vốn; cơ cấu ngành, vùng. Đối với các công trình quốc gia, các dự án quan trọng quốc gia trong kế hoạch hàng năm và từng thời kỳ phát triển do quốc hội quyết định; Thủ tướng chính phủ duyệt mục tiêu; tiến độ; tổng mức vốn đầu tư để bố trí kế hoạch cho các bộ; địa phương thực hiện - Phê duyệt và thông qua kế hoạch đầu tư hàng năm: Hàng năm, Chính phủ trình quốc hội kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội và kế hoạch đầu tư hàng năm trong đó có kế hoạch đầu tư từ ngân sách Nhà nước. Quốc hội quyết định tổng mức vốn đầu tư từ Ngân sách Nhà nước, các mục tiêu lớn và vốn đầu tư tương ứng; tổng mức vốn đầu tư cân đối và bổ sung từ Ngân sách địa phương; tổng mức đầu tư từ Ngân sách nhà nước của tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; tổng số vốn đầu tư thuộc các Bộ, ngành, địa phương. - Chuẩn bị đầu tư: Cũng được Nhà nước quản lý chặt chẽ thông qua việc phê duyệt thẩm định các báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, báo cáo nghiên cứu khả thi; báo cáo thiết kế kỹ thuật, quyết định đầu tư. - Thực hiện đầu tư: Nhà nước quản lý chặt chẽ thông qua việc phê duyệt quyết định đấu thầu; kết quả đấu thầu; giám sát quá trình thực hiện đầu tư; phê duyệt quyết toán đầu tư. Như vậy, Nhà nước quản lý chặt chẽ nguồn vốn Ngân sách trên cơ sở tính toán tổng thu, chi Ngân sách trong đó xác định tỉ lệ chi cho đầu tư phát triển; sau khi cân đối các khoản để lại cho địa phương; chi vào mục đích đầu tư xây dựng cơ bản; cho các công trình mục tiêu quốc gia; cho các chương trình kinh tế.... Khối lượng vốn đầu tư tập trung thuộc Ngân sách Nhà nước còn lại bao gồm vốn trong nước, vốn nước ngoài (ODA), được phân bổ cho các Bộ, ngành thuộc trung ương và các địa phương theo mục tiêu cụ thể. Về bản chất nguồn vốn này thuộc nguồn vốn Nhà nước được Nhà nước trực tiếp chi phối theo kế hoạch nên có khả năng theo dõi và nắm bắt được từ khâu giao kế hoạch cho đến khi thực hiện; qua các Bộ, ngành, địa phương; qua hệ thống ngành dọc thống kê, qua hệ thống cấp phát tài chính. Do đó Nhà nước quản lý từ một chu trình kín từ A đến Z. Do đó, có tác dụng theo hai hướng: Thứ nhất: do được quản lý chặt chẽ nên dễ dàng thực hiện được công cụ quản lý của Nhà nước là phát triển kinh tế và điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo đúng mục đích của Nhà nước. Tuy nhiên, sẽ làm giảm tính chủ động; hậu quả gây thất thoát, lãng phí do thủ tục hành chính rườm rà; qua rất nhiều khâu trung gian dẫn đến trách nhiệm không rõ ràng. Do đó, nói đến đầu tư xây dựng cơ bản là nói đến thất thoát, lãng phí đặc biệt là đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách Nhà nước. 3. Bộ máy quản lý hoạt động đầu tư của Nhà nước. Quèc héi Bé Tµi chÝnh Ng©n hµng Së KÕ ho¹ch- §Çu t­ Bé KH & §T Së tµi chÝnh Bé chñ qu¶n UBND ®Þa ph­¬ng Bé KHCN NH c¸c ®Þa ph­¬ng Së X©y dùng Bé TNMT Së §Þa chÝnh- Nhµ ®Êt Bé X©y dùng Chñ ®Çu t­ Bé Chuyªn ngµnh Së chuyªn ngµnh 1. Quốc hội + Là cơ quan quyền lực cao nhất; có trách nhiệm phê chuẩn và ban hành hệ thống luật pháp liên quan đến đầu tư, quyết định đường lối chiến lược và các chủ trương đầu tư. 2. Bộ Kế hoạch và đầu tư. + Nghiên cứu, xây dựng cơ chế chính sách đầu tư + Trình Chính phủ các dự án luật, pháp lênh liên quan đến đầu tư. + Xác định phương hướng và cơ cấu đầu tư để đảm bảo sự phát triển cân đối trong nền kinh tế và cân đối giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. + Cấp giấy phép đầu tư, hướng dẫn hoạt động đầu tư của các dự án đầu tư Nước ngoài (có uỷ quyền cho các cấp: vd: UBND các tỉnh..) + Tổ chức thẩm định và giám sát hoạt động của các dự án Nhóm A + Tổng hợp và trình Thủ tướng Chính phủ Kế hoạch đầu tư phát triển hàng năm và 5 năm. + Đứng trên cương vị chủ trì đồng thời phối hợp với Bộ Thương mại, Bộ Tài chính và các bộ, ngành, địa phương khác để hướng dẫn và kiểm tra thực hiện quy chế đấu thầu. + Quản lý Nhà nước về việc lập; thẩm tra; xét duyệt và thực hiện các dự án quy hoạch về phát triển kinh tế- xã hội. 3. Bộ Xây dựng + Nghiên cứu các cơ chế chính sách về quản lý xây dựng; quy hoạch xây dựng đô thị và nông thôn. + Ban hành các tiêu chuẩn; quy phạm tiêu chuẩn xây dựng; quy trình thiết kế, xây dựng hệ thống định mức. + Chủ trì; đồng thời cùng với các bộ chuyên ngành kỹ thuật tổ chức thẩm định thiết kế kỹ thuật và tổng dự toán các dự án nhóm A. + Theo dõi; kiểm tra; phát hiện và kiến nghị xử lý chất lượng các công trình xây dựng của các dự án nhóm A. + Hướng dẫn hoạt động của các doanh nghiệp tư vấn xây dựng và doanh nghiệp xây lắp. + Chủ trì cùng với Bộ Kế hoạch & Đầu tư; bộ tài chính; Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện quy chế quản lý đầu tư và xây dựng. 4. Bộ Tài chính ( Chỉ liên quan đến dự án của Nhà nước) + Nghiên cứu các chính sách, chế độ về huy động nguồn vốn đầu tư + Phối hợp với Bộ Kế hoạch và đầu tư trong việc phân bổ, cấp phát vốn đầu tư cho các bộ, các địa phương. + Thống nhất quản lý các khoản vay và viện trợ của chính phủ khác giành cho đầu tư phát triển (vốn coi như của Nhà nước). + Cấp bảo lãnh chính phủ cho các doanh nghiệp được vay vốn nước ngoài. + Thanh tra, kiểm tra tài chính đối với các dự án; các đơn vị sử dụng nguồn vốn đầu tư của Nhà nước. + Hướng dẫn việc cấp vốn Ngân sách Nhà nước cho đầu tư, vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư và xây dựng đối với địa phương. 5. Ngân hàng Nhà nước. + Nghiên cứu cơ chế chính sách quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng Ngân hàng trong đầu tư và xây dựng. + Giám sát các tổ chức tín dụng thực hiện các nghiệp vụ huy động và cho vay các dự án đầu tư cũng như bảo lãnh vay. + Thực hiện bảo lãnh các khoản vốn vay nước ngoài của các tổ chức tín dụng để tiến hành đầu tư và xây dựng. 6. Bộ quản lý ngành khác có liên quan. Gồm: Các bộ quản lý ngành về đất đai, tài nguyên; công nghiệp; môi trường; thương mại; bảo tồn bảo tàng di tích lịch sử; quốc phòng; an ninh.... có trách nhiệm xem xét và có ý kiến bằng văn bản các vấn đề có liên quan đến dự án đầu tư. 7. Bộ chủ quản + Chức năng thực hiện các cơ chế, chính sách về đầu tư phát triển của ngành mình; hướng dẫn cụ thể việc thực hiện dự án đầu tư thuộc ngành mình; có quyền kiến nghị; đình chỉ những hoạt động đầu tư thuộc ngành mình nhưng trái với quy định của Nhà nước. + Nghiên cứu và ban hành các tiêu chuẩn, quy trình, quy phạm, các định mức kinh tế, tiêu chuẩn chuyên ngành sau khi thống nhất với bộ xây dựng. 8. UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. + Thực hiện trách nhiệm quản lý Nhà nước đối với tất cả các dự án đầu tư trên địa bàn mình mà tỉnh quản lý. II. TÌNH HÌNH ĐẦU TƯ XDCB TỪ NGUỒN VỐN NSNN 1. Tình hình huy động vốn Huy động các nguồn vốn cho đầu tư xây dựng cơ bản trong những năm qua, đặc biệt là năm 2001- 2005 tăng khá. Tổng vốn đầu tư huy động đưa vào nền kinh tế 5 năm qua đạt khoảng 1123,6 nghìn tỷ đồng (tương đương 975,9 nghìn tỷ đồng theo giá năm 2000), đạt khoảng 78,09% kế hoạch 5 năm đã đề ra. Trong đó vốn đầu tư thuộc khu vực Nhà nước là 603,5 nghìn tỷ đồng (tương đương 525,7 nghìn tỷ đồng theo giá năm 2000) chiếm 53,71% bao gồm vốn Ngân sách Nhà nước chiếm 256,9 nghìn tỷ tương đương 22,86%; vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước chiếm 147,4 nghìn tỷ (7,62%); vốn đầu tư của Doanh nghiệp Nhà nước chiếm 199,2 nghìn tỷ (17,73%), vốn đầu tư của khu vực dân cư và tư nhân là 296,1 nghìn tỷ (26,35%), vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm 108,7 nghìn tỷ (16,08%); nguồn vốn huy động khác chiếm 33,3 nghìn tỷ (2,96%) tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Được thể hiện qua bảng sau: Bảng 1: Nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản toàn xã hội (Giá thực tế) 2001 2002 2003 2004 2005 Quy mô (1000 tỷ) Tỷ trọng (%) Quy mô tỷ trọng Quy mô Tỷ trọng Quy mô Tỷ trọng Quy mô Tỷ trọng VĐT thuộc NSNN 37 22.6 40.4 22 47 21.6 61 23.6 71.5 23.8 Vốn tín dụng ĐT 28 17.1 31.9 17.4 28.5 13.1 29 11.2 30 10 VĐT của DNNN 29 17.7 31 16.9 38.5 17.7 47.2 18.2 53.5 17.8 VĐT của dân cư và tư nhân 38.5 23.5 46.5 25.3 58.1 26.7 69.5 26.9 83.5 27.8 Vốn FDI 31 19 34 18.5 36.5 16.6 44.2 17.1 45 15 Vốn huy động khác 9 4.1 7.8 3 16.5 5.5 Tổng 163.5 100 183.8 100 217.6 100 258.7 100 300 100 Nguồn: Vụ Tổng hợp KTQD- Bộ Kế hoạch và Đầu tư Như vậy nguồn vốn trong nước đã được khai thác khá hơn chiếm trên 70% so với tổng vốn đầu tư dự kiến kế hoạch (60%) tạo điều kiện tốt hơn để tập trung đầu tư vào những mục tiêu phát triển nông nghiệp và nông thôn, xóa đói giảm nghèo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển khoa học và công nghệ đặc biệt là xây dựng kết cấu hạ tầng, đồng thời đã có những hình thức huy động mới như công trái giáo dục, trái phiếu Chính phủ, trái phiếu đô thị, tăng thêm nguồn vốn cho đầu tư phát triển. Bảng 2: Nguồn vốn đầu tư XDCB toàn xã hội (Giá cố định năm 2000) Chỉ tiêu VĐT thuộc NSNN Vốn tín dụng ĐT VĐT của DNNN Vốn của dân cư và tư nhân Vốn FDI Vốn huy động khác Quy mô(1000 tỷ) Tốc độ PT Quy mô Tốc độ PT Quy mô Tốc độ PT Quy mô Tốc độ PT Quy mô Tốc độ PT Quy mô Tốc độ PT 2001 36.3 - 27.5 - 28.5 - 37.8 - 30.4 - - - 2002 38.1 104.96 30.1 109.45 29.2 102.46 43.8 115.87 32 105.26 - - 2003 40.9 107.35 24.8 82.39 33.5 114.73 50.6 115.53 31.4 98.13 8.1 - 2004 50.9 124.45 24.2 97.58 39.4 117.61 58 114.62 36.9 117.5 6.5 80.24 2005 56.4 110.81 23.7 97.93 42.2 107.11 65.8 113.62 35.6 96.47 13.3 204.61 Nguồn: Vụ Tổng hợp - Bộ Kế hoạch và Đầu tư Về vốn đầu tư thuộc NSNN có thể thấy tốc độ phát triển của loại vốn này có xu hướng tăng nhanh. Tức là nếu lấy năm 2001 là năm gốc thì năm 2002 tăng so với 2001 là 4.96% tương ứng tăng 1.8 (1000 tỷ), năm 2003 tăng so với 2002 là 7.35% tương ứng tăng 2.8 (1000 tỷ), năm 2004 tăng 10 (1000 tỷ) tương ứng tăng 24.45% so với 2003, năm 2005 tăng 10.81% tức là tăng 5.5 (1000 tỷ) so với năm 2004 2. Cơ cấu đầu tư XDCB 2.1. Cơ cấu vốn đầu tư XDCB theo vùng kinh t ế Trong những năm trở lại đây, cơ cấu đầu tư vùng lãnh thổ có nhiều cải thiện, tỷ trọng vốn đầu tư của vùng miền núi, vùng khó khăn tăng hơn so với thời kỳ 1996-2000. Bảng 3: Cơ cấu Vốn đầu tư XDCB thuộc NSNN theo vùng kinh tế (Giá năm 2000) Chỉ tiêu 1996-2000 2001-2005 2001 2002 2003 2004 2005 Tổng 100 100 100 100 100 100 100 1. Vùng núi phía Bắc 18,9 12,7 12,5 12,6 12,7 12,8 12,9 2. Vùng ĐBSH 25,5 22,7 23,5 23,0 22,5 22,5 22,2 3. Vùng Bắc Trung Bộ 11,8 11,8 11,5 11,8 11,8 11,9 12 4. Vùng duyên hải miền Trung 9,8 10,8 10,5 10,7 10,8 10,9 11 5. Vùng Tây Nguyên 3,9 4,3 4,1 4,2 4,3 4,4 4,5 6. Vùng Đông Nam Bộ 20,5 20,0 20,6 20,4 20,2 19,7 19,2 7. Vùng ĐBSCL 16,7 17,7 17,3 17,3 17,7 17,8 18,3 Nguồn: Vụ Tổng hợp KTQD - Bộ Kế hoạch và Đầu tư Từ cơ cấu vốn đầu tư XDCB của Ngân sách Nhà nước cho các vùng kinh tế không đồng đều. Đầu tư chiếm tỷ trọng lớn nhất là Đồng bằng Sông Hồng (22-23%); Đông Nam Bộ (khoảng 20%); đầu tư thấp nhất cho vùng Tây Nguyên chỉ chiếm khoảng hơn 4%/năm. Cơ cấu này cần được bố trí để phát triển đồng đều giữa các vùng trong thời gian tới Bảng 4: Vốn đầu tư XDCB thuộc NSNN theo vùng kinh tế (Giá năm 2000) Chỉ tiêu Vùng núi phía bắc Vùng ĐBSH Vùng Bắc Trung Bộ Vùng Duyên hải MT Vùng Tây Nguyên Vùng Đông Nam Bộ Vùng ĐBSCL Quy mô (1000 tỷ) Tốc độ PT(%) Quy mô Tốc độ PT Quy mô Tốc độ PT Quy mô Tốc độ PT Quy mô Tốc độ PT Quy mô Tốc độ PT Quy mô Tốc Độ PT 1996-2000 14.8 - 32 - 14.8 - 12.3 - 4.9 - 25.7 - 21 - 2001-2005 28.34 157.70 50.5 157.81 26.4 178.38 24 195.12 8.0 163.27 37.3 145.14 33 157.14 2001 4.54 - 8.5 - 4.2 - 3.8 - 1.5 - 7.5 - 6.3 - 2002 4.8 105.72 8.8 103.52 4.5 107.14 4.1 107.89 1.6 106.67 7.8 104 6.6 104.76 2003 5.2 108.33 9.2 104.54 4.8 106.67 4.4 107.32 1.8 112.5 8.3 106.41 7.2 109.09 2004 6.5 125 11.5 125 6.1 127.08 5.5 125 2.2 122.22 10 120.48 9.1 126.39 2005 7.3 112.31 12.5 108.70 6.8 111.48 6.2 112.73 2.5 113.64 10.8 108 10.3 113.19 Nguồn: Vụ Tổng hợp - Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nhận xét: Qua bảng số liệu 4 có thể thấy vốn đầu tư XDCB từ NSNN cho các vùng đều có xu hướng tăng và tăng liên tục. Có thể thấy trong giai đoạn 2001-2005 vốn này tăng hơn so với giai đoạn 1996-2000. Cụ thể là vùng núi phía Bắc trong giai đoạn 2001-2005 tăng lên 57.7 %, tương ứng là tăng 13,54 (nghìn tỷ); vùng ĐBSH tăng 57.81%, tương ứng là tăng 18,5 (nghìn tỷ), vùng bắc trung bộ tăng 78.38%, tương ứng là tăng 11,6 (nghìn tỷ), vùng Duyên hải miền trung tăng 95,12%, tương ứng là tăng 11,7 (nghìn tỷ), vùng Tây Nguyên tăng 63,27%, tương ứng là tăng 3,1 (nghìn tỷ); vùng Đông Nam Bộ tăng 45,14%, tương ứng tăng 11,6 (nghìn tỷ), vùng Đồng bằng Sông Cửu Long tăng 57,14%, tương ứng là 12 (nghìn tỷ) Nếu xét riêng từng năm trong giai đoạn 2001-2005 thì có thể thấy như sau: + Ở vùng núi phía bắc: Quy mô vốn của vùng này tăng liên tục dẫn đến tốc độ phát triển qua các năm đều tăng lên. Nó được biểu hiện như sau: năm 2002 tăng 5.72% so với năm 2001 tương ứng tăng 0.26 nghìn tỷ đồng, năm 2003 tăng 0.4 nghìn tỷ đồng tương ứng tăng lên 8.33%, năm 2004 tăng 1.3 nghìn tỷ đồng và tăng 25%, năm 2005 tăng 12.31% tương ứng tăng 1 nghìn tỷ đồng. + Vùng Đồng Bằng Sông Hồng: Quy mô vốn của vùng này cũng tăng liên tục dẫn đến tốc độ phát triển qua các năm đều tăng lên. Nó được biểu hiện như sau: năm 2002 tăng 3,52% so với năm 2001 tương ứng tăng 0.3 nghìn tỷ đồng, năm 2003 tăng 0.4 nghìn tỷ đồng tương ứng tăng lên 4,54%, năm 2004 tăng 2.3 nghìn tỷ đồng và tăng 25%, năm 2005 tăng 8,7% tương ứng tăng 1 nghìn tỷ đồng. + Vùng Bắc Trung Bộ: năm 2002 tăng 7,14% so với năm 2001 tương ứng tăng 0.3 nghìn tỷ đồng, năm 2003 tăng 0.3 nghìn tỷ đồng tương ứng tăng lên 6,67%, năm 2004 tăng 1.3 nghìn tỷ đồng và tăng 27,08%, năm 2005 tăng 11,48% tương ứng tăng 0,7 nghìn tỷ đồng + Vùng Duyên hải miền Trung: năm 2002 tăng 7,89% so với năm 2001 tương ứng tăng 0.3 nghìn tỷ đồng, năm 2003 tăng 0.3 nghìn tỷ đồng tương ứng tăng lên 7,32%, năm 2004 tăng 1.1 nghìn tỷ đồng và tăng 25%, năm 2005 tăng 12,73% tương ứng tăng 0,7 nghìn tỷ đồng + Vùng Tây Nguyên: năm 2002 tăng 6,67% so với năm 2001 tương ứng tăng 0.1 nghìn tỷ đồng, năm 2003 tăng 0.2 nghìn tỷ đồng tương ứng tăng lên 12,5%, năm 2004 tăng 0.4 nghìn tỷ đồng và tăng 22,2%, năm 2005 tăng 13,64% tương ứng tăng 0,3 nghìn tỷ đồng + Vùng Đông Nam Bộ: năm 2002 tăng 4% so với năm 2001 tương ứng tăng 0.3 nghìn tỷ đồng, năm 2003 tăng 0.5 nghìn tỷ đồng tương ứng tăng lên 6,41%, năm 2004 tăng 1.7 nghìn tỷ đồng và tăng 20,48%, năm 2005 tăng 8% tương ứng tăng 0,8 nghìn tỷ đồng + Vùng ĐBSCL: năm 2002 tăng 4,76% so với năm 2001 tương ứng tăng 0.3 nghìn tỷ đồng, năm 2003 tăng 0.6 nghìn tỷ đồng tương ứng tăng lên 9,09%, năm 2004 tăng 1.9nghìn tỷ đồng và tăng 26,39%, năm 2005 tăng 13,19% tương ứng tăng 1,2 nghìn tỷ đồng. 2.2. Vốn đầu tư XDCB của Ngân sách Nhà nước theo ngành kinh tế Trong thời gian qua, đầu tư cho các ngành kinh tế tiếp tục tăng, tập trung hơn cho lĩnh vực kết cấu hạ tầng kinh tế chiếm khoảng 64%. Trong đó tập chung chủ yếu cho ngành giao thông, bưu điện và ngành nông nghiệp. Hạ tầng xã hội chỉ chiếm khoảng 35% trong đó chủ yếu tập trung cho lĩnh vực giáo dục đào tạo, nhà ở, công cộng, cấp nước, dịch vụ. Khoa học công nghệ, văn hoá thể thao cũng được đầu tư hơn qua các năm. Trong tương lai cần tập trung đầu tư nhiều hơn cho khoa học công nghệ và y tế- xã hội. Điều này được thể hiện qua Bảng 5 Bảng 5. Cơ cấu vốn đầu tư XDCB từ NSNN theo ngành kinh tế(%) chỉ tiêu 1996-2000 2001-2005 Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Tổng số 100 100 100 100 100 100 100 1. Hạ tầng kinh tế 63,5 64 64,9 63,7 63,7 63,8 63,9 - CNghiệp, XD 9,5 9,5 10,2 9,5 9,4 9,3 9,2 - NN, TL,LN, TSản 23,3 25 25 24,7 24,9 25,1 25,3 - GThông, bưu điện 30,7 29,5 29,7 29,5 29,4 29,4 29,4 2. Hạ tầng xã hội 34,7 35 34,8 35,3 34,9 35 35,1 Nhà ở, công cộng 11,6 11 11 11,0 11 11 11 KHCN, Môi trường 1,9 2 2 2,0 2 2 2 Giáo dục, Đào tạo 7,2 7,8 7,3 7,8 7,9 8 8 Ytế, xã hội 6,4 6,5 6,4 6,5 6,5 6,6 6,5 VH, TTin, TThao 3,3 3,4 3 3,2 3,4 3,6 3,8 Quản lý Nhà nước 4,3 4,3 5,1 4,8 4,1 3,8 3,8 3. Các Ngành khác 1,8 1 0,3 1,0 1,4 1,2 1 Nguồn: Vụ Tổng hợp KTQD - Bộ Kế hoạch &Đầu Tư Bảng 6: Vốn đầu tư XDCB từ NSNN theo ngành kinh tế Đơn vị: Nghìn tỷ đồng(Giá năm 2000) Chỉ tiêu 1996-2000 2001-2005 2001 2002 2003 2004 2005 Quy mô Tốc độ Pt Quy mô Tốc độ PT Quy mô Tốc độ PT Quy mô Tốc độ PT Quy mô Tốc độ PT Quy mô Tốc độ PT Quy mô Tốc độ PT ._.1. Hạ tầng KT 79.74 - 142.46 178.66 23.6 - 24.3 102.97 26.1 107.41 32.5 124.52 36 110.77 CNXD 11.93 - 21.15 177.28 3.7 - 3.62 97.84 3.84 106.08 4.7 122.39 5.2 4.26 Nông-lâm- ngư nghiệp 29.26 - 55.65 190.19 3.7 - 3.62 97.84 3.84 106.08 4.73 123.18 5.19 109.73 Giao thông-bưu điện 38.55 - 65.67 170.35 10.78 - 11.23 104.17 12.02 107.03 14.96 124.46 16.58 110.82 2. Hạ tầng XH 43.57 - 77.9 178.79 12.63 - 13.45 106.49 14.27 106.09 17.82 124.88 19.8 111.11 Nhà ở công cộng, cấp nước 14.57 - 24.49 168.09 4 - 4.19 104.75 4.5 107.39 5.6 124.44 6.02 107.50 KHCN, điều tra cơ bản,MT 2.39 - 4.45 186.19 0.73 - 0.762 104.38 0.82 107.61 1.02 124.39 1.13 110.78 GD-ĐT 9.04 - 17.36 192.04 2.65 - 2.97 112.08 3.23 108.75 4.07 126.01 4.51 110.81 Y tế XH 8.04 - 14.47 179.98 2.32 - 2.48 106.90 2.66 107.25 3.36 126.32 3.37 100.29 VHTT-TT 4.14 - 7.57 182.85 1.09 - 1.22 112.93 1.39 113.93 1.83 131.65 2.14 116.94 QL NN 5.4 - 9.57 177.22 1.85 - 1.83 98.92 1.68 91.80 1.93 114.88 2.14 110.88 3. Các ngành khác 2.26 - 2.226 98.50 0.11 - 0.38 345.45 0.57 150 0.61 107.02 0.56 91.81 Nguồn: Vụ Tổng hợpKTQD - Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nhận xét: Qua bảng số liệu 6 có thể thấy vốn đầu tư XDCB từ NSNN cho các vùng đều có xu hướng tăng và tăng liên tục. Có thể thấy trong giai đoạn 2001-2005 vốn này tăng hơn so với giai đoạn 1996-2000. Cụ thể là trong lĩnh vực hạ tầng kinh tế trong giai đoạn 2001-2005 tăng lên 78,66 %, tương ứng là tăng 62,72 (nghìn tỷ); trong lĩnh vực hạ tầng xã hội tăng 78,79%, tương ứng là tăng 34,33 (nghìn tỷ), các ngành khác thì không tăng mà lại giảm Nếu xét riêng từng năm trong giai đoạn 2001-2005 thì có thể thấy như sau: + Trong lĩnh vực hạ tầng kinh tế: năm 2002 tăng 2,97% so với năm 2001 tương ứng tăng 0,7 nghìn tỷ đồng, năm 2003 tăng 1,8 nghìn tỷ đồng tương ứng tăng lên 7,41%, năm 2004 tăng 6,4 nghìn tỷ đồng và tăng 24,52%, năm 2005 tăng 10,7% tương ứng tăng 3,5 nghìn tỷ đồng + Trong lĩnh vực hạ tầng xã hội: năm 2002 tăng 6,49% so với năm 2001 tương ứng tăng 0.82 nghìn tỷ đồng, năm 2003 tăng 0.82 nghìn tỷ đồng tương ứng tăng lên 6,09%, năm 2004 tăng 3.55 nghìn tỷ đồng và tăng 24,88%, năm 2005 tăng 11,1% tương ứng tăng 1.98 nghìn tỷ đồng + Trong các ngành khác thì lại có xu hướng biến động 2.3. Vốn đầu tư XDCB từ Ngân sách Nhà nước theo phân cấp quản lý. Nếu như thời kỳ trước, tỷ trọng nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản của nhà nước phân cho Trung ương luôn cao hơn địa phương (khoảng gần 60%) thì đến giai đoạn hiện nay, đặc biệt là năm 2004, cơ cấu này có sự thay đổi mạnh mẽ. Sự quản lý nhà nước đối với nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản luôn thấp hơn so với địa phương. Hiện nay, nhà nước chỉ quản lý khối lượng vốn đầu tư đối với công trình quan trọng của nhà nước. Năm 2001 Trung ương quản lý 58,7% khối lượng vốn; năm 2002 là 49,5%; năm 2003 là 43,2%; năm 2004 là 37%. Thể hiện sự phân cấp rõ rệt trong phân cấp quản lý hoạt động đầu tư, nhà nước không ôm đồm quản lý quá nhiều mà dành ngân sách cho địa phương quản lý. Điều này góp phần làm cho việc sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản trở nên năng động hơn, các địa phương quyết định đầu tư vào những lĩnh vực, vào những nơi mà địa phương mình có được thế mạnh, giảm bớt được sự đầu tư không cần thiết. Qua đó nhà nước cũng giảm nhẹ được sự quản lý của mình đối với khối lượng vốn đầu tư xây dựng cơ bản, tránh được sự đầu tư chồng chéo gây lãng phí không cần thiết. Bảng 7: Vốn đầu tư XDCB từ NSNN theo phân cấp quản lý Năm Tổng số Trung ương Địa phương Vốn (tỷ) % Vốn (tỷ) % Vốn (tỷ) % 2001 37.000 100 15.618 42,2 21.386 57,8 2002 40.400 100 19.998 49,5 20.402 50,5 2003 47.000 100 22.184 43,2 24.816 52,8 2004 61.000 100 22.570 37,0 38.430 63,0 2005 71.500 100 23.759 33,23 47.741 66,67 Nguồn: Vụ Tổng hợp - Bộ Kế hoạch và Đầu tư II. CƠ CHẾ QUẢN LÝ Vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước cho đầu tư phát triển được phân làm 2 loại: Vốn đầu tư XDCB và vốn đầu tư cho các mục tiêu khác (hỗ trợ vốn cho DNNN, thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia.....), trong đó phần lớn vốn giành cho XDCB. Do mục đích sử dụng, vốn này được quản lý theo cơ chế khác nhau. Tuy nhiên do tính chất quan trọng của vốn đầu tư xây dựng cơ bản nên ở đây chỉ tập trung vào cơ chế quản lý vốn đầu tư XDCB từ ngân sách Nhà nước. Trong thời kỳ kế hoạch hoá tập trung, công tác đầu tư xây dựng cơ bản chỉ được thực hiện trong khu vực Nhà nước, bằng hình thức cấp phát vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước. Đổi mới cơ chế quản lý đầu tư được thực hiện từ đầu những năm 80 nhằm đạt hiệu quả đầu tư cao hơn, bắt đầu bằng Quyết định số 80/HĐBT và sửa đổi bổ sung điều lệ quản lý XDCB số 232 ngày 6/6/1981. Theo quyết định này, vốn ngân sách Nhà nước chỉ cấp phát theo kế hoạch được duyệt cho các công trình phúc lợi công cộng, cơ sở hạ tầng kỹ thuật và một số công trình của Nhà nước có qui mô lớn, thời gian thu hồi vốn dài. Đây là đổi mới đáng kể, bước đầu thu hẹp đối tượng sử dụng vốn ngân sách. Để tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý đầu tư, Chính phủ đã ban hành Nghị định 385/CP ngày 7/11/1990 kèm theo điều lệ sửa đổi và bổ sung điều lệ quản lý XDCB. Theo đó, lần đầu tiên công tác kế hoạch hoá đầu tư được đề cập toàn diện, Nhà nước quản lý thống nhất về kinh tế- kỹ thuật đối với công tác XDCB, bảo đảm đầu tư đúng hướng, phân định rõ quản lý vốn đầu tư với quản lý xây dựng, phân cấp quản lý vốn và xây dựng. Nghị định cũng nhấn mạnh khâu chuẩn bị đầu tư, phân cấp quyền thẩm định, xét duyệt các luận chứng kinh tế và thẩm quyền quyết định dự án đầu tư. Qua đó đã hạn chế việc xé lẻ một công trình thành nhiều hạng mục, xác định rõ chủ đầu tư ngay từ khi lập luận chứng kinh tế kỹ thuật. Việc thực hiện dự án được thực hiện thông qua phương thức giao thầu, gắn trách nhiệm của chủ đầu tư với kết quả thực hiện. Ngân hàng đầu tư phát triển là cơ quan có chức năng thẩm định lần cuối cùng các dự toán đối với các công trình sử dụng vốn ngân sách, nhận vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước để thanh toán cho các đơn vị nhận thầu xây lắp và quyết toán công trình. Sau 4 năm thực hiện, cơ chế trên đây đã bộc lộ nhiều vấn đề không còn phù hợp, được tiếp tục bổ sung, sửa đổi tại Nghị định số 177/CP ngày 20/10/1994 với các điểm đổi mới sau: + Qui định rõ ràng về quản lý đầu tư và xây dựng, công trình xây dựng, chủ đầu tư, tổng mức đầu tư, chuẩn bị đầu tư đến thực hiện dự án được. + Kế hoạch hoá đầu tư trở thành công cụ quản lý của Nhà nước, trong đó công tác quy hoạch phát triển ngành và lãnh thổ là căn cứ quan trọng để xét duyệt, thẩm định dự án đầu tư của Nhà nước và của các thành phần kinh tế khác. + Tuỳ theo tính chất, qui mô dự án đầu tư được phân thành 3 nhóm A, B, C, trong đó phân cấp thẩm quyền ra quyết định đầu tư cho từng nhóm. + Vốn ngân sách nhà nước được sử dụng để đầu tư theo kế hoạch nhà nước đối với những dự án cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội và dự án trọng điểm khác không có khả năng trực tiếp thu hồi vốn. + Việc cấp vốn và thanh toán căn cứ theo giá trị khối lượng thực hiện được nghiệm thu nhưng phải nằm trong phạm vi kế hoạch, có ghi trong hợp đồng kinh tế và trong tổng mức dự toán của dự án được duyệt. + Xây dựng và tổng hợp kế hoạch đầu tư hàng năm cũng như 5 năm phải phản ánh mọi nguồn vốn đầu tư của tất cả các thành phần kinh tế. Nghị định 177/CP là bước quan trọng trong đổi mới cơ chế quản lý đầu tư xây dựng thống nhất cho mọi thành phần kinh tế, đặc biệt cho dự án sử dụng vốn NSNN. Việc cấp phát vốn ngân sách được thực hiện thông qua Tổng Cục Đầu tư và phát triển ở trung ương và Cục đầu tư phát triển tại địa phương. Tuy nhiên trong quá trình tổ chức đã nảy sinh một số nhược điểm như: + Chưa làm rõ nguồn vốn đầu tư nhà nước. + Sự phân định trách nhiệm quản lý về đầu tư và xây dựng của các cơ quan quản lý nhà nước chưa đầy đủ, cụ thể. + Tiêu thức và tiêu chuẩn về qui mô phân loại dự án nhóm A, B, C chưa hợp lý, dẫn đến số lượng dự án nhóm A, B quá lớn gây khó khăn cho việc chỉ đạo kế hoạch đầu tư hàng năm, triển khai kế hoạch đầu tư năm chậm, ảnh hưởng đến cấp phát và giải ngân vốn ngân sách cho đầu tư XDCB. Mặt khác chưa tạo quyền chủ động cho các địa phương, ngành tham gia quyết định đầu tư. Trung ương gặp khó khăn trong quản lý đầu tư xây dựng vì thiếu thông tin, chưa thu hút được vốn và khuyến khích các thành phần kinh tế khác tham gia đầu tư XDCB + Đề cao vai trò của Hội đồng tư vấn các cấp, qua đó giảm nhẹ vai trò, trách nhiệm của các cấp ra quyết định trước Nhà nước. Những khiếm khuyết của cơ chế quản lý vốn đầu tư theo Nghị định 177/CP được sửa đổi và bổ sụng bằng Nghị định 42/CP ngày 16/7/1996, Nghị định 92/CP ngày 23/8/1997 và mới nhất là tại Nghị định số 52/CP ngày 8/7 1999. Theo đó nghị định này đã làm rõ hơn những nội dung sau: + Chính phủ đã đẩy mạnh phân cấp thẩm quyền quyết định dự án đầu tư, giao quyền chủ động nhiều hơn cho các Bộ, ngành, chính quyền tỉnh/thành phố, chính quyền các cấp, các Tổng Công ty trong việc quyết định các dự án đầu tư dựa vào quy mô vốn, đặc điểm lĩnh vực đầu tư. Nghị định 52/CP nhấn mạnh việc phân cấp thẩm quyền ra quyết định đầu tư dự án sử dụng vốn ngân sách nhà nước. Theo đó, cơ quan ra quyết định phải căn cứ vào quy hoạch phát triển ngành, qui hoạch phát triển kinh tế- xã hội của địa phương và kế hoạch vốn ngân sách đã được duyệt, cũng như chịu trách nhiệm về hiệu quả đầu tư. + Qui mô về vốn của các dự án nhóm A, B, C đã được điều chỉnh ở mức cao hơn, các thủ tục về đầu tư đã được cải thiện và hoàn thiện hơn. + Nhấn mạnh và hoàn thiện hơn cơ chế kế hoạch hoá trong đầu tư xây dựng. + Cơ chế điều hành kế hoạch đã có những đổi mới theo hướng tích cực hơn, như phân cấp ra quyết định bố trí kế hoạch hàng năm theo loại dự án đồng bộ với phân loại quyết định đầu tư. + Cơ chế cấp phát vốn được thực hiện thống nhất theo hai phương thức đấu thầu xây dựng và chỉ định thầu. Để tăng cường hiệu quả sử dụng vốn và chất lượng thực hiện các dự án, Chính phủ đã ban hành Nghị định 43/CP về Qui chế đấu thầu, được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 93/CP ngày 23/8/1997 và mới đây Nghị định 88/CP ngày 1/9/1999 và mới đây nhất là Luật đấu thầu 2005 có hiệu lực từ 1/7/2006. Theo đó đã phân cấp triển khai đấu thầu cho các Bộ, ngành, chính quyền địa phương, Tổng Công ty. Thực hiện đấu thầu có ý nghĩa quan trọng đối với các dự án có nguồn vốn Nhà nước, đặc biệt từ vốn ngân sách, nhằm mục đích chọn các nhà thầu có năng lực với giá cả hợp lý, tránh lãng phí nguồn vốn đầu tư còn rất hạn hẹp. Trong quản lý vốn đầu tư, cơ chế huy động và phân bổ các nguồn vốn đầu tư có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Khâu quan trọng này được thực hiện dựa trên chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong từng giai đoạn phát triển, bao gồm các kế hoạch ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Trước năm 1996, các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng được đưa vào kế hoạch chung với các dự án của toàn xã hội nên được thực hiện thiếu hệ thống và thiếu tập trung. Vì vậy, tháng 6/1996 Chính phủ đã phê duyệt “Chương trình đầu tư công cộng” 5 năm từ 1996-2000, đánh dấu một bước chuyển biến đáng kể trong kế hoạch hoá đầu tư XDCB theo hướng có mục tiêu, có lựa chọn thứ tự ưu tiên nhằm thực hiện một cách hiệu quả mục tiêu kinh tế- xã hội đã đề ra. Theo đó, Chương trình đầu tư công cộng là một bộ phận của kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản toàn xã hội. Mục tiêu lớn nhất và quan trọng nhất của CTĐTCC là xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội nhằm thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong từng giai đoạn cụ thể. Phạm vi của chương trình được xác định rõ ràng. Đối với các dự án được đưa vào danh mục của chương trình không có khả năng thu hồi vốn sẽ được cấp phát vốn không hoàn lại, một số có khả năng thu hồi một phần vốn được hỗ trợ một phần và đối với loại có khả năng thu hồi vốn hoàn toàn được Nhà nước đầu tư dưới hình thức tín dụng Nhà nước. Chương trình đầu tư được xây dựng trong 5 năm, huy động nhiều nguồn vốn khác nhau, trong đó vốn nhà nước là quan trọng. Quản lý đầu tư xây dựng và quản lý vốn đầu tư Nhà nước của chương trình thực hiện theo các cơ chế hiện hành, tránh chồng chéo, thiếu đồng bộ trong tổ chức thực hiện. Đây được coi là một cơ chế mới nhằm quản lý tốt hơn nguồn vốn đầu tư nói chung và nguồn vốn nhà nước nói riêng. Tóm lại: Vốn đầu tư XDCB từ Ngân sách Nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng trong thực hiện nhiệm vụ đầu tư của Nhà nước trong giai đoạn vừa qua. Do tính chất quan trọng của nguồn vốn này, việc sử dụng đúng mục đích, hiệu quả cao được coi là mục tiêu hàng đầu. Từ năm 1990 đến 1998, cơ chế quản lý đầu tư XDCB đã được sửa đổi, bổ sung nhiều lần. Qua các lần bổ sung, sửa đổi, cơ chế quản lý đầu tư XDCB đã có nhiều nét đổi mới, thể hiện qua các điểm chính sau: + Phạm vi, đối tượng sử dụng vốn NSNN cho XDCB được thu hẹp rất nhiều. + Thực hiện quản lý thống nhất về đầu tư và xây dựng. Khuyến khích và thu hút vốn đầu tư của các thành phần kinh tế khác. + Bước đầu áp dụng các công cụ kế hoạch hoá XDCB, đưa qui hoạch phát triển kinh tế- xã hội, qui hoạch ngành, lãnh thổ làm căn cứ. + Phân cấp thẩm quyền quyết định đầu tư, phân cấp bố trí kế hoạch, thực hiện qui chế đấu thầu qua đó hạn chế xé lẻ dự án, chú trọng đến nhà đầu tư có năng lực, chú trọng tới hiệu quả sử dụng vốn và chất lượng dự án XDCB. + Thủ tục đầu tư được cải tiến đáng kể, từ khâu chuẩn bị đến thực hiện và quyết toán, đưa vào sử dụng. - Bên cạnh đó cơ chế quản lý trên vẫn còn tồn tại như: + Sửa đổi, bổ sung thiếu đồng bộ, hay thay đổi dẫn đến thiếu nhất quán trong thực hiện, gây khó khăn cho các cơ quan quản lý nhà nước và các nhà đầu tư. + Đổi mới cơ chế quản lý đầu tư chưa đi đôi với nâng cao năng lực, trình độ quản lý, khả năng điều hành, phối hợp của cơ quan quản lý nhà nước trung ương và địa phương nên tác động của đổi mới chưa cao, gây nhiều tiêu cực. + Đổi mới cơ chế quản lý chưa tạo sự bình đẳng giữa các nhà đầu tư của các thành phần kinh tế. Các qui định nhìn chung vẫn tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các DNNN trong thực hiện các dự án đầu tư XDCB từ ngân sách nhà nước. III. TÌNH HÌNH QUẢN LÝ VĐT XÂY DỰNG CƠ BẢN TỪ NSNN TRONG THỜI GIAN QUA 1. Trong công tác lập quy hoạch 1.1. Quy trình lập quy hoạch Hiện nay, quy trình quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội theo ngành nghề, lĩnh vực và vùng lãnh thổ phải dựa trên điều kiện thực tế của đất nước và số liệu điều tra nhu cầu thị trường trong và ngoài nước cũng như các mục tiêu phát triển đã đề ra ở chiến lược mà thể hiện ở chủng loại, cơ cấu sản phẩm và dịch vụ trên những nét lớn để đáp ứng nhu cầu phát triển. Bước 1:Quy hoạch phát triển vùng kinh tế phải đi trước một bước làm cơ sở, làm chỗ dựa cho việc xây dựng phát triển ngành kinh tế- xã hội của tỉnh; thành phố. Bước 2: Trên cơ sở quy hoạch phát triển vùng kinh tế đã được xây dựng thì mới được triển khai xây dựng quy hoạch phát triển các ngành kinh tế- xã hội và quy hoạch các ngành kinh tế- xã hội không được làm ảnh hưởng đến quy hoạch chung của các vùng kinh tế đã được phê duyệt. Bước 3: Xây dựng quy hoạch đô thị và nông thôn. Đây chỉ là một nội dung của quy hoạch phát triển vùng, được cụ thể hoá, chi tiết hoá quy định việc bố trí; sắp xếp các cụm dân cư, các khu thương mại, các khu hành chính, văn hoá, xã hội, các khu vực hoạt động công cộng vì vậy quy hoạch đô thị (nông thôn) sẽ được tiến hành sau khi có quy hoạch vùng hoặc quy hoạch ngành được xây dựng, hoặc có thể được tiến hành song song nhưng phải trên cơ sở có đầy đủ thông tin về quy hoạch vùng và quy hoạch ngành. Song không được làm phá vỡ các cân đối đã được quy định trong quy hoạch vùng, quy hoạch ngành được phê duyệt. Bước 4: Quy hoạch xây dựng sẽ được tiến hành sau cùng. Phạm vi của quy hoạch xây dựng là bố trí, sắp xếp mặt bằng xây dựng dự án nhằm đảm bảo cho dự án khi xây dựng xong được nghiệm thu đưa vào sử dụng thì không làm ảnh hưởng đến quy hoạch vùng, quy hoạch ngành, quy hoạch đô thị đã được phê duyệt mà ngược lại, quy hoạch xây dựng phải phát huy được quy hoạch tổng hợp của các loại quy hoạch trên. 1.2. Nội dung của quy hoạch Bản chất của quy hoạch là cụ thể hoá chiến lược về mặt không gian và thời gian (Quy hoạch là bức tranh toàn cảnh của nền kinh tế- xã hội được thể hiện rõ nét hơn cả về không gian và thời gian). Các cấp độ của quy hoạch - Theo mức độ đề cập: + Quy hoạch tổng thể + Quy hoạch chi tiết Cả hai loại quy hoạch này đều được xây dựng cho nền kinh tế quốc dân, cho ngành, cho vùng. - Theo nội dung: + Quy hoạch sử dụng không gian: (Quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch đô thị, quy hoạch nông thôn....). Trong tương lai cần tiến hành một cách công khai, ổn định, hạn chế các hiện tượng tiêu cực hoặc lạm dụng để đầu cơ trong thị trường bất động sản. Ở nước ta quy hoạch sử dụng không gian, đặc biệt là quy hoạch đô thị chưa được chú ý đúng mức, quy hoạch sử dụng đất thì lại không ổn định và điều này gây lãng phí ghê gớm cho nền kinh tế. + Quy hoạch phát triển ngành: Ở nước ta quy hoạch phát triển ngành lại được chú ý quá mức, gần như ngành nào cũng có và hầu hết quy hoạch ngành lại dược xây dựng trong điều kiện tĩnh và đóng cửa, không tính được những biến động trên thị trường thế giới và đó chính là nguyên nhân dẫn đến nhiều doanh nghiệp; nhiều sản phẩm được hình thành theo quy hoạch nhưng không thể có sức cạnh tranh trên thị trường nếu không được Nhà nước bảo hộ. + Quy hoạch vùng lãnh thổ (Có 8 vùng: vùng Đông Bắc; vùng Tây Bắc; vùng Đồng Bằng Sông Hồng; vùng Bắc Trung Bộ, vùng Duyên hải miền Trung; vùng Tây Nguyên; vùng Đông Nam Bộ; vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long). Quy hoạch vùng lãnh thổ phải bám sát phân cấp: việc xây dựng và thực hiện quy hoạch ở cấp nào thì dựa chủ yếu vào tiềm lực của cấp đó và chính quyền cấp trên có trách nhiệm phối hợp điều hoà quy hoạch của chính quyền cấp dưới trực tiếp. 2. Trong việc phân bổ và sử dụng vốn Sơ đồ1. Qui trình lập kế hoạch vốn và thanh toán vốn đầu tư các dự án đầu tư do trung ương quản lý (1) (1) ChÝnh phñ Bé tµi chÝnh (2) (7) (3) Bé/ Ngµnh (6) (4a) Kho b¹c Nhµ n­íc T.¦ (4) (6) (5) (4b) Chñ ®Çu t­ Kho b¹c Nhµ n­íc c¬ së (8) (7) (1) Chính phủ giao chỉ tiêu kế hoạch đầu tư hàng năm (2) Bố chí kế hoạch vốn chi tiết cho từng dự án, gửi Bộ Tài Chính (3) Bộ Tài chính có ý kiến đề nghị điều chỉnh lại trong trường hợp không đúng quy định (4) Bộ thông báo kế hoạch khối lượng chi tiết cho chủ đầu tư (4a) Bộ thông báo kế hoạch thanh toán vốn cho KBNNTƯ (4b) KBNNTƯ thông báo cho KBNN cơ sở nơi chủ đầu tư mở tài khoản (5) Chủ đầu tư mở tài khoản (lần đầu), lập kế hoạch thanh toán vốn đầu tư hàng quí (6) KBNN lập kế hoạch chi hàng quí với Bộ Tài chính (7) Bộ Tài chính chuyển tiền theo kế hoạch chi hàng quí đã duyệt (8) Thanh toán vốn đầu tư. Hàng năm, chính phủ giao chỉ tiêu kế hoạch đầu tư hàng năm cho các Bộ, Ngành có liên quan và cho bộ Tài chính. Sau đó các Bộ/Ngành có liên quan được giao chỉ tiêu sẽ tiến hành bố trí kế hoạch vốn chi tiết cho từng dự án và gửi bộ Tài chính. Sau khi nhận được kế hoạch bố trí vốn chi tiết, Bộ Tài chính sẽ có ý kiến điều chỉnh lại trong trường hợp không đúng quy định. Đối với những dự án đã được duyệt kế hoạch bố trí vốn chi tiết thì các Bộ/Ngành liên quan sẽ tiến hành thông báo lại cho chủ đầu tư. Còn về phía Bộ Tài chính, Bộ sẽ thông báo kế hoạch thanh toán vốn cho KBNNTƯ, và KBNNTƯ thông báo cho KBNN cơ sở. Chủ đầu tư lập kế hoạch thanh toán vốn đầu tư hàng quý tại KBNN cơ sở. Dựa trên kế hoạch này, KBNN lập kế hoạch chi hàng quý với Bộ Tài chính. và Bộ Tài Chính sẽ tiến hành chuyển tiền theo kế hoạch chi hàng quý đã duyệt. Khi tiền đã được chuyển xuống cho KBNN cơ sở thì KBNN sẽ tiến hành thanh toán cho chủ đầu tư. Sơ đồ2. Qui trình lập kế hoạch vốn và thanh toán vốn đầu tư các dự án đầu tư do địa phương quản lý ChÝnh phñ (1) (1) (2) (3) Bé Tµi chÝnh UBND TØnh (4a) Së Tµi chÝnh (4) (4b) (6) Kho b¹c Nhµ n­íc c¬ së (5) Chñ ®Çu t­ (7) (8) (1) Chính phủ giao chỉ tiêu kế hoạch hàng năm (2) UBND Tỉnh bố trí kế hoạch vốn chi tiết cho từng dự án, gửi Bộ Tài chính (3) Bộ Tài chính có ý kiến đề nghị điều chỉnh lại trong trường hợp không đúng qui định (4) UBND thông báo kế hoạch khối lượng chi tiết cho chủ đầu tư (4a) Bộ thông báo kế hoạch thanh toán vốn cho Sở tài chính (4b) Sở Tài chính thông báo kế hoạch thanh toán cho KBNN tỉnh (5) Chủ đầu tư mở tài khoản (lần đầu), lập kế hoạch thanh toán vốn đầu tư hàng quí. (6) KBNN lập kế hoạch chi hàng quí với sở tài chính (7) Sở Tài chính chuyển tiền theo kế hoạch chi hàng quí đã duyệt (8) Thanh toán vốn đầu tư. Hàng năm, chính phủ giao chỉ tiêu kế hoạch đầu tư hàng năm cho UBND các tỉnh và cho bộ Tài chính. Sau đó UBND các tỉnh được giao chỉ tiêu sẽ tiến hành bố trí kế hoạch vốn chi tiết cho từng dự án và gửi bộ Tài chính. Sau khi nhận được kế hoạch bố trí vốn chi tiết, Bộ Tài chính sẽ có ý kiến điều chỉnh lại trong trường hợp không đúng quy định. Đối với những dự án đã được duyệt kế hoạch bố trí vốn chi tiết thì UBND các tỉnh sẽ tiến hành thông báo lại cho chủ đầu tư. Còn về phía Bộ Tài chính, Bộ sẽ thông báo kế hoạch thanh toán vốn cho Sở Tài chính, và Sở Tài chính sẽ thông báo lại cho KBNN cơ sở. Chủ đầu tư lập kế hoạch thanh toán vốn đầu tư hàng quý tại KBNN cơ sở. Dựa trên kế hoạch này, KBNN lập kế hoạch chi hàng quý với Sở Tài chính. và Sở Tài Chính sẽ tiến hành chuyển tiền theo kế hoạch chi hàng quý đã duyệt. Khi tiền đã được chuyển xuống cho KBNN cơ sở thì KBNN sẽ tiến hành thanh toán cho chủ đầu tư. Như vậy sự khác nhau cơ bản giữa quy trình lập kế hạch và thanh toán vốn đầu tư đối với các dự án đầu tư do địa phương và trung ương quản lý là: Các Bộ/Ngành có liên quan sẽ tiến hành bố trí kế hoạch vốn chi tiết cho từng dự án (Đối với các dự án do trung ương quản lý) còn đối với các dự án do địa phương quản lý thì là UBND tỉnh 3. Trong công tác thẩm định Hiện nay, đối với những dự án đầu tư sử dụng vốn Ngân sách Nhà nước phải được thẩm định những nội dung sau Điều 27 Nghị đinh số 52/1999/NĐ-CP ngày 08 tháng 07 năm 1999 của Chính phủ. : - Sự phù hợp với quy hoạch phát triển ngành, lãnh thổ, quy hoạch xây dựng đô thị, nông thôn. - Chế độ khai thác sử dụng tài nguyên quốc gia (nếu có) - Các ưu đãi, hỗ trợ của Nhà nước mà dự án dầu tư có thể được hưởng theo quy chế chung. - Phương án công nghệ và quy mô sản xuất, công nghệ sử dụng. - Phương án kiến trúc, việc áp dụng các quy chuẩn xây dựng, tiêu chuẩn xây dựng - Sử dụng đất đai, tài nguyên, bảo vệ môi trường sinh thái, kế hoạch tái định cư (nếu có). - Phòng, chống cháy nổ, an toàn lao động và các vấn đề của dự án. - Các vấn đề rủi ro của dự án có thể xảy ra trong quá trình thực hiện làm ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư. - Đánh giá tổng thể về tính khả thi của dự án. - Thẩm định các điều kiện tài chính, giá cả, hiệu quả đầu tư và phương án hoàn trả vốn đầu tư của dự án. 4. Trong công tác đấu thầu 4.1. Nội dung quản lý Nhà nước về đấu thầu. Điều 66 chương V, luật Đấu thầu năm 2005, có hiệu lực từ ngày 1/07/2006 - Ban hành, phổ biến, hướng dẫn và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật và chính sách về đấu thầu. - Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức làm công tác đấu thầu. - Tổng kết, đánh giá, báo cáo tình hình thực hiện hoạt động đấu thầu. - Quản lý hệ thống thông tin về đấu thầu trên phạm vi cả nước bao gồm tờ báo về đấu thầu, trang thông tin điện tử về đấu thầu và hệ thống mạng đấu thầu quốc gia. - Hợp tác quốc tế về đấu thầu. - Kiểm tra, thanh tra, giải quyết kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trong đấu thầu và xử lý vi phạm pháp luật về đấu thầu theo quy định của luật Đấu thầu và quy định của luật có liên quan. 4.2. Trách nhiệm và quyền hạn của các cơ quan có liên quan. Trách nhiệm và quyền hạn của Chính phủ, thủ tướng Chính phủ Điều 67 chương V, luật Đấu thầu năm 2005, có hiệu lực từ ngày 1/07/2006 1. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về đấu thầu trong phạm vi cả nước. 2. Thủ tướng Chính phủ thực hiện trách nhiệm và quyền hạn sau đây: a. Chỉ đạo công tác thanh tra, giải quyết các kiến nghị trong đấu thầu theo quy định của luật này và quy định của pháp luật về thanh tra. b. Quy định cơ quan, tổ chức thẩm định giúp người có thẩm quyền trong qúa trình xem xét, phê duyệt các nội dung về đấu thầu. c. Quyết định các nội dung về đấu thầu quy định tại điều 60của Luật Đấu thầu đối với các dự án đầu tư theo Nghị quyết của Quốc hội d. Thực hiện trách nhiệm và quyền hạn khác theo quy định của Luật Đấu thầu và quy định của pháp luật có liên quan. Trách nhiệm và quyền hạn của Bộ Kế hoạch và Đầu tư Điều 68 chương V, luật Đấu thầu năm 2005, có hiệu lực từ ngày 1/07/2006 1. Chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện thống nhất quản lý nhà nước về đấu thầu. 2. Thẩm định kế hoạch đấu thầu, kết quả lựa chọn nhà thầu các gói thầu thuộc các dự án thuộc thẩm quyền xem xét, quyết định của Thủ tướng Chính phủ quy định tại điểm c khoản 2 Điều 67 của Luật Đấu thầu. 3. Xây dựng và quản lý tờ báo về đấu thầu, trang thông tin điện tử về đấu thầu và hệ thống mạng đấu thầu quốc gia. 4. Làm đầu mối giúp Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ hợp tác quốc tế về lĩnh vực đấu thầu. 5. Tổ chức các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức làm công tác đấu thầu. 6. Tổng kết, đánh giá, báo cáo tình hình hoạt động đấu thầu 7. Giải quyết theo thẩm quyền các kiến nghị trong đấu thầu. 8. Chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan trong việc kiểm tra, thanh tra về đấu thầu trên phạm vi cả nước. 9. Thực hiện các nhiệm vụ khác về đấu thầu được Chính phủ giao. Trách nhiệm và quyền hạn của bộ, cơ quan ngang bộ và uỷ ban nhân dân các cấp Điều 69 chương V, luật Đấu thầu năm 2005, có hiệu lực từ ngày 1/07/2006 Trong phạm vi quyền hạn, nhiệm vụ của mình, bộ cơ quan ngang bộ, uỷ ban nhân dân các cấp có trách nhiệm và quyền hạn sau đây: 1. Thực hiện quản lý công tác đấu thầu. 2. Tổ chức các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức làm công tác đấu thầu. 3. Tổng kết và đánh giá tình hình thực hiện hoạt động đấu thầu. 4. Thực hiện báo cáo về hoạt động đấu thầu theo quy định của Chính phủ. 5. Giải quyết kiến nghị của đấu thầu theo quy định của Luật này. 6. Kiểm tra, thanh tra về đấu thầu. 7. Xử lý vi phạm pháp luật về đấu thầu đối với các tổ chức và cá nhân liên quan đến hoạt động đấu thầu. 8. Trường hợp Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Chủ tịch uỷ ban nhân dân các cấp là người có thẩm quyền thì còn phải thực hiện trách nhiệm theo quy định tại điều 60 của luật Đấu thầu. 5. Trong công tác giám sát, kiểm tra. Nhằm tăng cường chỉ đạo, thanh tra và kiểm tra công tác xây dựng cơ bản, Chính Phủ và các Bộ đã kiện toàn hơn bộ máy của thanh tra Chính phủ và thanh tra các Bộ, ngành, địa phương. Năm 2005 Chính phủ đã ban hành nhiều Nghị định liên quan đến hoạt động thanh tra, như Nghị định số 41/2005/NĐ- CP ngày 25/3/2005 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành luật thanh tra; các Nghị định về tổ chức và hoạt động của các cơ quan thanh tra. Mạng lưới các cơ quan thanh tra quản lý đầu tư và xây dựng của Chính phủ bao gồm hệ thống các tổ chức thanh tra từ trung ương đến địa phương như: Thanh tra Chính Phủ, thanh tra các tỉnh, thành phố, Thanh tra các Sở, ban ngành trực thuộc tỉnh, thành phố... trong những năm qua đã có sự phối hợp hoạt động tích cực, xây dựng chương trình và tổ chức thực hiện việc thanh tra, kiểm tra mốt số dự án theo sự chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, góp phần đưa công tác quản lý đầu tư và xây dựng dần đi vào nề nếp. Ngay từ đầu năm 2005, Thủ tướng chính phủ đã chỉ đạo ngành thanh tra (công văn số 124/VPCP-VI ngày 10/01/2005) tập trung thanh tra, kiểm tra về đầu tư xây dựng, trọng tâm là các công trình, dự án lớn hoặc các công trình, dự án có dấu hiệu tiêu cực như: Dự án mua sắm và đổi mới trang thiết bị của Tổng công ty Than Việt Nam, Tổng công ty Xi măng Việt Nam; việc mua sắm động cơ, phụ tùng thay thế máy bay của Tổng công ty hàng không Việt Nam; Dự án xây dựng đường Hồ Chí Minh do công ty xây dựng số 1- Bộ Xây Dựng thực hiện; Dự án giao thông nông thôn giai đoạn II (vốn vay WB); Dự án kiên cố hoá kênh mương, thủy lợi; Dự án cụm tuyến dân cư vùng Đồng bằng Nam Bộ; các dự án xây dựng trường học; các dự án đầu tư xây dựng công trình truyền hình và Đài phát thanh địa phương IV. ĐÁNH GIÁ 1. Những thành tựu đạt được 1.1. Trong công tác lập quy hoạch 1.1.1. Hầu hết các ngành, lĩnh vực và địa phương đã xây dựng quy hoạch phát triển, đồng thời đã từng bước rà soát lại các quy hoạch được duyệt. Đối với quy hoạch phát triển vùng: Đã xây dựng quy hoạch tổng thể kinh tế- xã hội của 8 vùng kinh tế lớn, rà soát bổ sung quy hoạch phát triển 3 vùng kinh tế trọng điểm và xây dựng các đề án phát triển các lãnh thổ, khu vực quan trọng và các đảo Quy ho¹ch vïng T©y B¾c, §«ng B¾c, Vïng §ång B»ng S«ng Hång, B¾c Trung Bé, Duyªn H¶i Nam Trung Bé, T©y Nguyªn, §«ng Nam Bé, §ång b»ng S«ng Cöu Long; quy ho¹ch 3 vïng kinh tÕ träng ®iÓm: B¾c Bé, miÒn Trung, Nam Bé. X©y dùng c¸c ®Ò ¸n ph¸t triÓn d¶i biªn giíi ViÖt - Trung, quy ho¹ch ®¶o Phó Quèc; c¸c khu vùc vÞnh Cam Ranh, V¨n Phong- §¹i L·nh; khu Chu Lai, Dung QuÊt... Đối với quy hoạch các tỉnh, thành phố: Đã xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế- xã hội của 61 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (3 tỉnh mới tách đang tiến hành xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế- xã hội). Hiện nay, một số tỉnh, thành phố đang tiến hành rà soát, điều chỉnh quy hoạch và tiến hành quy hoạch các huyện, các vùng chuyên môn hoá sản xuất, các cụm công nghiệp. Đối với quy hoạch ngành và lĩnh vực: Đã lập quy hoạch phát triển một số lĩnh vực kết cấu hạ tầng sản xuất và xã hội: quy hoạch phát triển các khu đô thị mới DÇu khÝ, ®iÖn, dÖt- may, giÊy, da- giÇy, r­îu, bia, n­íc gi¶i kh¸t, thuèc l¸, xi m¨ng, than, ho¸ chÊt, thÐp, c¬ khÝ, söa ch÷a vµ ®ãng tµu thuû, xe ®¹p, vËt liÖu næ c«ng nghiÖp, s÷a, dÇu thùc vËt, nhùa. Quy ho¹ch ph¸t triÓn du lÞch, b­u chÝnh viÔn th«ng, s©n bay, c¶ng biÓn, ®­êng bé, ®­êng s¾t; quy ho¹ch tæng thÓ ph¸t triÓn ®« thÞ trªn ph¹m vi c¶ n­íc, quy ho¹ch ph¸t triÓn c¸c khu ®« thÞ míi; quy ho¹ch cÊp n­íc ®« thÞ. Quy ho¹ch m¹ng l­íi c¸c tr­êng ®¹i häc, m¹ng l­íi c¬ së d¹y nghÒ, ph¸t triÓn thÓ dôc thÓ thao, m¹ng l­íi kh¸m ch÷a bÖnh,._.n tích, rà soát, xem xét đánh giá từng khoản nợ; xác định rõ nguyên nhân và trách nhiệm từng cá nhân, tập thể đối với từng khoản nợ từ đó xác định cách xử lý. - Rà soát lại các khoản nợ, xác định đúng thực tế vốn đang nợ. - Xác định nguyên nhân chậm giải ngân, thanh toán để dư nợ. - Xác định cá nhân, tập thể và trách nhiệm của họ trực tiếp, gián tiếp đến phần nợ. - Kiên quyết thực hiện nguyên tắc mà Chính phủ đề ra trong báo cáo của Chính phủ trước kỳ họp thứ 6 Quốc hội khoá XI ngày 25-10-2004 “từ nay về sau, những tập thể, cá nhân để xẩy ra tình trạng nợ đọng phải có trách nhiệm bố trí nguồn vốn để trả nợ”. Thứ năm: Trên cơ sở phân tích, xem xét từng khoản nợ, cần có biện pháp nhanh chóng giải ngân, thanh toán bảo đảm cho hoạt động của các công ty xây dựng, nhà thầu được liên tục giải quyết ách tắc cho các doanh nghiệp về vốn. Đây là mong đợi của không chỉ các nhà thầu mà hàng vạn người lao động tại các doanh nghiệp trong ngành xây dựng. 4. Nghiên cứu bổ sung cơ chế, chính sách, nâng cao trách nhiệm các nghành, các cấp trong quản lý đầu tư từ nguồn vốn NSNN Để góp phần khắc phục được những tồn tại đã nêu phần trên thì cần có sự nghiên cứu bổ sung các cơ chế chính sách liên quan đến đầu tư cũng như nâng cao trách nhiệm của các ngành, các cấp trong quản lý vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước. Sau đây là một số giải pháp chủ yếu: Thứ nhất: Tiếp tục rà soát, nghiên cứu bổ sung, hoàn chỉnh đồng bộ các cơ chế chính sách trong quản lý đầu tư đặc biệt là vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước. Trước hết, cần tổ chức nghiên cứu, bổ sung cơ chế chính sách theo hướng loại bỏ dần tình trạng khép kín, tách chức năng quản lý nhà nước với chức năng quản lý xây dựng trong từng Bộ, Ngành, tỉnh, thành phố... ở tất cả các khâu. Hai là: Bộ Kế hoạch và Đầu tư cùng vơi các Bộ, Ngành liên quan nhanh chóng dự thảo quy chế quản lý đầu tư sử dụng vốn ngân sách nhà nước trình Chính phủ theo hướng: - Người ra quyết định đầu tư không kiêm nhiệm chủ đầu tư; thực hiện đấu thầu chọn chủ đầu tư, tư vấn quản lý dự án; xây dựng và ban hành tiêu chí, tiêu chuẩn làm chủ đầu tư, ban quản lý dự án kèm theo chức năng và trách nhiệm cụ thể cho từng chức danh công việc; tăng cường sử dụng các tổ chức tư vấn giám sát độc lập trong quá trình thực hiện dự án, đặc biệt đối với các dự án lớn. - Các tổ chức tư vấn thiết kế, các nhà thầu xây dựng, các tư vấn giám sát không thuộc cùng Bộ, tỉnh, thành phố. - Từng bước hình thành tổ chức tư vấn độc lập. - Xây dựng lộ trình xoá bỏ tình trạng khép kín hiện nay. Thứ hai: Kiên quyết tập trung đầu tư cho các công trình, dự án trọng điểm để nhanh chóng đưa vào sử dụng, phát huy hiệu quả kinh tế. Các Bộ, Ngành, địa phương cần rà soát và xây dựng chương trình đầu tư bằng vốn ngân sách cho thật hiệu quả, đúng đối tượng; vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước và nguồn vốn tín dụng ưu đãi sẽ tập trung hỗ trợ cho chương trình giống cây con, cho việc đổi mới và áp dụng các công nghệ hiện đại vào chuyển dịch cơ cấu sản xuất; ưu tiên cân đối vốn cho các cơ sở hạ tầng cần thiết thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong từng vùng, từng ngành. Thứ ba: Nâng cao trách nhiệm của các Bộ, các ngành các cấp trong việc xây dựng và điều hành thực hiện kế hoạch đầu tư phát triển từ nguồn vốn ngân sách nhà nứơc. Một là: Trên tầm vĩ mô, Chính phủ chỉ đạo xây dựng chương trình đầu tư dài hạn (5 năm) dựa vào bảng cân đối tổng hợp về nguồn vốn huy động tron kỳ kế hoạch. Chương trình đầu tư đó được cụ thể hoá từng năm, dựa vào cân đối nguồn vốn hàng năm; đặc biệt là nguồn vốn nhà nước, để xác định mục tiêu đầu tư; tránh tình trạng mục tiêu thì nhiều trong khi khả năng nguồn vốn hạn chế, làm mất cân đối ngay từ khâu kế hoạch. Chính phủ chỉ đạo các Bộ, Ngành và địa phương cần thực hiện có hiệu quả các giải pháp chống dàn trải, thất thoát, lãng phí vốn đầu tư; hoàn thiện các chế tài để xử lý nghiêm khắc những người lợi dụng chức vụ; quyền hạn để tư lợi trong công tác quản lý đầu tư; đôn đốc các Bộ, Ngành và địa phương thực hiện các kiến nghị do các cơ quan thanh tra nêu ra và đã được cấp có thẩm quyền kết luận để thực hiện. Hai là: Đối với các Bộ tham mưu tổng hợp (như Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài Chính, Ngân hàng Nhà nước) cần tăng cường dự báo về khả năng huy động nguồn vốn, xây dựng định hướng các cơ chế chính sách đầu tư; tổ chức kiểm tra, giám sát chặt chẽ quy trình đầu tư xây dựng, quy trình và thủ tục giải ngân, nhất là nguồn vốn ngân sách và có nguồn gốc từ ngân sách. Có trách nhiệm bảo đảm nguồn vốn của ngân sách theo tiến độ đầu tư trong kế hoạch được duyệt Ba là: Đối với các Bộ, Ngành và Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân tỉnh, thành phố; theo sự phân cấp quản lý về đầu tư và xây dựng hiện hành, cần đảm bảo thực hiện đầy đủ chức năng quản lý ngành trong lĩnh vực đầu tư phát triển; chịu trách nhiệm về quy hoạch, về chủ trương đầu tư; phân cấp cho các cơ sở trong Bộ, trong ngành, trong tỉnh, thành phố quản lý, sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước và các nguồn vốn của Nhà nước. Thứ tư: Qui định trách nhiệm cụ thể về vai trò tham ưu cũng như quản lý của các cơ quan từ Chính phủ đến các doanh nghiệp trong việc quản lý đầu tư và vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước. Để khắc phục được những tồn tại đã nêu ở trên, một số giải pháp sau cần được thực hiện: Một là: Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý liên quan đến quản lý đầu tư. Sớm chuẩn bị nghị định về quản lý đầu tư thống nhất và ban hành trong đầu năm 2005 thay cho các văn bản cũ còn có điểm chưa phù hợp hoặc chồng chéo với các văn bản khác để thích ứng với cơ chế mới. Chính phủ sớm thông qua nghị định về lập và quản lý quy hoạch để làm căn cứ cho việc nâng cao chất lượng của công tác xây dựng và quản lý quy hoạch phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch vùng lãnh thổ, địa phương và quy hoạch ngành, lĩnh vực và quy hoạch sản phẩm, dịch vụ quan trọng nhất. Hai là: Nâng cao ý thức trách nhiệm và phẩm chất đạo đức cho đội ngũ cán bộ công chức, kết hợp với việc đẩy mạnh sinh hoạt công khai, dân chủ ở cơ sở và công tác thanh tra, giám sát của cả hệ thống chính trị, của cơ quan quản lý, của nhân dân, cũng như thực thi các chế tài đủ mạnh để đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực, tham nhũng. Ba là: Nhanh chóng hình thành quy trình chặt chẽ và công khai về xây dựng, phê duyệt và quản lý các quy hoạch, dự án đầu tư, phân bổ kế hoạch đầu tư, quản lý nguồn vốn trong các ngành, các cấp từ trung ương đến các Bộ, Ngành, địa phương, các ban quản lý dự án; tăng cường tính công khai dân chủ với sự tham gia giám sát của cộng đồng. Bốn là: Thường xuyên và công khai báo cáo về quá trình thực hiện đầu tư trong tất cả các giai đoạn, ở tất cả các ngành, các cấp để nhân dân, các cơ quan dân cử, các tổ chức chính trị xã hội có điều kiện giám sát, kiểm tra chéo, để xử lý kịp thời và đúng mức theo pháp luật các sai phạm và biểu dương thích đáng các gương tốt trong việc thực thi nhiệm vụ đầu tư ở các ngành, các cấp. 5. Đổi mới cơ chế giám sát, thanh tra kiểm toán đối với hoạt động đầu tư từ nguồn vốn NSNN. Luật ngân sách nhà nước cũng như các văn bản pháp quy liên quan đến đầu tư từ nguồn vốn ngân sách nhà nước đã quy định rất chặt chẽ quy trình, cơ chế quản lý từ khâu sáng kiến dự án, lập kế hoạch, xét duyệt, thẩm định kế hoạch, dự án đến khâu cấp phát quản lý vốn và quyết toán. Nói chung về quy trình thủ tục đại bộ phận các cơ quan đơn vị liên quan đều tuân thủ một cách nghiêm túc. Tuy nhiên như trong báo cáo của Chính phủ về quản lý đầu tư do Bộ trưởng Võ Hồng Phúc trình bày trước kỳ họp thứ 6 Quốc hội khoá XII ngày 25-10-2004 nhiều khi còn mang tính hình thức, đầu tư còn dàn trải, theo cảm tính, thất thoát còn lớn, hiện tượng tiêu cực, tham nhũng xảy ra, nguồn vốn ngân sách nhà nước chưa được sử dụng có hiệu quả.... Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra, kiểm toán còn nhiều bất cập, chưa đủ chủ động trong việc phát hiện, ngăn ngừa các hiệntượng tiêu cực trong đầu tư, sử dụng vốn ngân sách nhà nước. Vì vậy, trong hoàn thiện cơ chế quản lý vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước cần thiết phải đổi mới cơ chế giám sát, kiểm tra, kiểm toán đối với hoạt động này. Thứ nhất: Đổi mới công tác kiểm tra đối với hoạt động đầu tư từ nguồn vốn ngân sách nhà nước. Kiểm tra là chức năng chủ yếu của quản lý, đặc biệt là đối với quản lý tài chính. Nó có vai trò đặc biệt quan trọng: - Là vũ khí để đảm bảo chất lượng công việc, chống tiêu cực thất thoát trong đầu tư. - Ngăn ngừa, phát hiện các sai sót trong lập kế hoạch dự toán đầu tư, bảo đảm chất lượng đầu tư, chống tiêu cực, tham nhũng. - Thúc đẩy việc khai thác, sử dụng hợp lý và có hiệu quả nguồn vốn ngân sách nhà nước thực hiện mục tiêu nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội. - Bảo đảm thi hành đúng đắn, nghiêm túc các quy định của nhà nước trong đầu tư, sử dụng vốn ngân sách nhà nước. - Góp phần thúc đầy việc thực hiện kỷ cương, trật tự trong đầu tư và sử dụng nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, làm lành mạnh hoá các quan hệ tài chính. Theo tinh thần nghị định 07/2003/NĐ-CP của Chính phủ và Thông tư 03/2003/TT-BKH của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cơ chế kiểm tra về vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước được đổi mới theo các nội dung sau đây: Một là: Thực hiện kiểm tra ngay từ khâu sáng kiến dự án đầu tư, lập kế hoạch đầu tư. Dự án đầu tư phải phù hợp với chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế xã hộ của Ngành, địa phương, đơn vị, phải có thị trường. Trong khâu này cần kiểm tra tính cần thiết cũng như phân tích, xem xét thị trường của dự án. Điều đó hạn chế được việc đầu tư không phù hợp, đầu tư không có thị trường. Phương thức thực hiện kiểm tra ở đây: - Cơ quan kiểm tra cơ sở, nơi phát sinh sáng kiến dự án, tiến hành kiểm tra khi đưa vào kế hoạch. - Dân kiểm tra. Những dự án xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, xã hội, thực hiện dịch vụ công cần có sự công khai cho dân biết, thực hiện dân kiểm tra tính cần thiết, khả thi của dự án, của vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước. Quy chế dân chủ cơ sở phải được thực hiện ngay từ khâu này. Bảo đảm sự kiểm tra của dân cần thiết thực hiện trưng cầu dân ý qua thăm dò bỏ phiếu kín... Nhờ vậy, cơ chế “dân biết,dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” được bảo đảm thực hiện đối với nguồn vốn từ ngân sách nhà nước. Hai là: Thực hiện kiểm tra trong suốt quy trình kế hoạch hóa. Vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước được thực hiện theo quy trình kế hoạch hoá nghiêm ngặt. Trong quá trình lập dự toán kế hoạch, xét duyệt, thẩm định, phê duyệt kế hoạch cần phải có sự kiểm tra chặt chẽ. Việc kiểm tra trên khâu này được xem xét trên các khía cạnh: - Khối lượng công việc được đầu tư - Định mức chi phí. Định mức chi phí là vấn đề nhạy cảm, dễ lợi dụng để tiêu cực. Trong thực tế đầu tư, định mức quy định, và thực tiễn nhiều khi không thống nhất. Sự không thống nhất này thường bị lợi dụng để vụ lợi. Do vậy cần có sự kiểm tra chặt chẽ nhằm bảo đảm định mức đúng, phù hợp với điều kiện từng thời điểm. Nó bảo đảm cho việc chống tiêu cực trong đầu tư từ nguồn vốn ngân sách nhà nước. - Giá cả vật tư, thiết bị khi lập dự toán, kế hoạch đầu tư. Các dự án đầu tư từ ngân sách nhà nước thường xuyên thay đổi, điều chỉnh, bổ sung. Trong nhiều nguyên nhân có sự thay đổi giá cả thực tế và trong dự toán kế hoạch. Do vậy cần có sự kiểm tra chặt chẽ nội dung này. Nhằm hạn chế sự điều chỉnh, bổ sung gây khó khăn cho cả chủ đầu tư lẫn nhà thầu. Ba là: Thực hiện kiểm tra trong khâu thi công, kiểm tra chất lượng vật liệu, công trình theo thiết kế, kiểm tra quyết toán. Bốn là: Kết hợp, phối hợp kiểm tra tất cả các khâu trong quy trình đầu tư, từ cơ sở đến các cơ quan có liên quan. Thứ hai: Đổi mới công tác giám sát quá trình thi công thực hiện đầu tư từ ngân sách nhà nước. Một là: Thực hiện giám sát ngay từ khâu bố trí đầu tư và bảo đảm tuân thủ theo quy hoạch, kế hoạch được duyệt. Hai là: Giám sát khi chuẩn bị đầu tư. Sự giám sát này bảo đảm quá trình thi công được liên tục, không ứ đọng vốn, vốn được sử dụng linh hoạt. Ba là: Giám sát quá trình thực hiện đầu tư. ở đây cần lưu ý: - Giám sát vật tư thiết bị thi công. - Giám sát thực hiện quy trình kỹ thuật đầu tư, thi công, bảo đảm chất lượng công trình. - Giám sát quá trình giải ngân theo tiến độ thi công thực hiện công trình. Bảo đảm sự giải ngân vốn phù hợp với tiến độ thi công, chống ứ đọng vốn, chống bỏ dở công trình. - Giám sát và đánh giá sau thực hiện đầu tư. ở đây cần xem xem việc khai thác, vận hành dự án để đánh giá hiệu quả dự án, hiệu quả vốn đầu tư. Bốn là: Trong cơ chế giám sát cần kiên quyết thực hiện: - Khi dự án chưa làm rõ hiệu quả và tính khả thi. Không phê duyệt. - Không điều chỉnh dự án, nội dung đầu tư khi chưa có sự giám sát chặt chẽ và phân tích kỹ các yếu tố, điều kiện thay đổi. - Không cấp phát vốn tuỳ tiện khi chưa có sự phân tích, giám sát chặt chẽ nghiêm sự tuân thủ quy chế. Thứ ba: Đổi mới hoạt động thanh tra trong đầu tư xây dựng từ nguồn vốn ngân sách nhà nước. Chống thất thoát, tham nhũng đặc biệt là trong đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước đòi hỏi chính quyền các cấp, các ngành phải kiên quyết trong việc xử lý tập thể và cá nhân sai phạm. Theo đó một số giải pháp cần thực hiện. Một là: Thực hiện tốt kế hoạch 05-KH/TW ngày 10-9-2003 của Bộ Chính trị về quản lý, sử dụng đất đai và theo ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại công văn số 12/CVCP-VI ngày 12-01-2004 cần kết hợp tốt thanh tra với chống tham nhũng, chống lãng phí thực hành tiết kiệm. ở đây thanh tra về quản lý sử dụng đất đai cần lưu ý những nội dung chủ yếu sau: - Xem xét về quy hoạch đất. - Xem xét về việc đền bù, giải toả cho dân. Hiện tượng công trình đang thi công, dân cản trở, gây khó khăn khiếu kiện về công việc đền bù, giải toả chưa thoả đáng làm ảnh hưởng đến tiến độ thi công, hiệu quả vốn đầu tư.... đang thường xuyên xảy ra, trở thành vấn đề bức xúc hiện nay. Hai là: Phát huy vai trò thanh tra nhân dân, trong hoạt động đầu tư từ quyết định đầu tư đến phê duyệt, kế hoạch đầu tư, thực hiện dự án đầu tư. Ba là: Kết hợp cơ quan thanh tra các cấp, các loại hình thanh tra đối với hoạt động đầu tư từ ngân sách nhà nước. Bốn là: Cần thay đổi nhận thức đối với công tác thanh tra. Coi đây là công việc quản lý nhằm chống tiêu cực, tham nhũng, chống thất thoát, lãng phí tài sản nhà nước. Do vậy nó phải được thực hiện thường xuyên, liên tục. Tuy nhiên không làm ảnh hưởng đến tiến độ cũng như chất lượng công trình thi công kết hợp thanh tra thường xuyên với thanh tra đột xuất, thanh tra toàn diện với thanh tra cục bộ. Cần phải có thái độ cương quyết, nghiêm túc trung thực, thẳng thắn trong công tác thanh tra. Thứ tư: Tăng cường hoạt động kiểm toán đối với đầu tư từ nguồn vốn ngân sách nhà nước. Để mở rộng quy mô và nâng cao chất lương công tác kiểm toán, phát huy tốt vai trò của kiểm toán Nhà nước trong việc nâng cao hiệu quả quản lý tài chính, đặc biệt là quản lý vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước cần thực hiện một số vấn đề sau: Một là: Cần nhanh chóng hoàn thiện cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động của kiểm toán nhà nước cũng như xác lập địa vị pháp lý thích đáng của cơ quan kiểm toán nhà nước. Theo hướng này đề nghị Quốc hội sớm xây dựng Luật Kiểm toán nhà nước. Hai là: Tạo điều kiện thuận lợi để kiểm toán Nhà nước được báo cáo quyết toán các dự án đầu tư từ ngân sách nhà nước. Nếu có thể thực hiện kiểm toán cả dự toán kế hoạch và quyết toán. Ba là: Nâng cao nhận thức và thực hiện đầy đủ, nghiêm túc quy chế lập, thẩm tra, dự toán ngân sách nhà nước, phương án phân bổ ngân sách Trung ương và phê chuẩn quyết toán NSNN ban hành theo Nghị quyết 387/2003/NQ-UBTVQH ngày 17-3-2003 và quy chế xem xét, phê chuẩn quyết toán ngân sách địa phương ban hành theo Nghị định 73/2003/NĐ-CP ngày 23-6-2003 của Chính phủ. 6. Đổi mới thủ tục hành chính, cơ chế đấu thầu, công tác cán bộ trong quản lý đầu tư và VĐT từ NSNN. Thứ nhất: Đổi mới thủ tục hành chính trong quản lý đầu tư và vốn đầu tư ngân sách Nhà nước. Nhằm quản lý chặt chẽ hoạt động đầu tư cũng như vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp quy quy định trình tự thủ tục lập kế hoạch, thẩm định, quyết định đầu tư. Đặc biệt trong quản lý vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước thủ tục về xét duyệt vốn, cấp phát vốn, hoàn trả, thu hồi, quyết toán... được quy định rất chặt chẽ. Tuy nhiên, theo yêu cầu cải cách thủ tục hành chính trong thực tế còn nhiều bất cập Thực hiện chương trình cải cách nền hành chính quốc gia, thủ tục hành chính trong đầu tư và quản lý vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước đã được đổi mới, hoàn thiện ở nhiều khâu, nhiều cấp. Tuy nhiên để đáp ứng yêu cầu mới cần thiết phải tiếp tục đổi mới thủ tục hành chính trong quản lý vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước. Trước mắt theo tôi cần tập trung đổi mới thủ tục hành chính ở một số khâu chủ yếu sau: Một là: Đổi mới thủ tục trong khâu đề xuất sáng kiến dự án đầu tư, lập kế hoạch đầu tư. Hiện nay, từ khi địa phương, cơ sỏ.... có sáng kiến đầu tư để được quyết định đưa vào kế hoạch đầu tư còn nhiều thủ tục. Tôi cho rằng để gọn nhẹ, đơn giản về thủ tục, các đơn vị có sáng kiến đầu tư, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế- xã hội chủ động ghi vào kế hoạch kinh tế quốc dân theo quy trình kế hoạch quy định. Hai là: Nghiêm chỉnh chấp hành quy trình kế hoạch Ngân sách Nhà nước. ở đây cần chống các khuynh hướng: - ỷ lại, trông chờ cấp trên. - Bao biện, làm thay cấp dưới. Qua đó bảo đảm cho công tác kế hoạch hoá ngân sách nhà nước được chính xác, xát thực. Ba là: Đổi mới thủ tục trong khâu cấp phát vốn. Việc cấp phát vốn đầu tư liên quan đến nhiề cơ quan đơn vị. Để vốn được cấp phát phải có thủ tục xác nhận khối lượng, chất lượng thi công của đơn vị thi công (nhà thầu), của chủ đầu tư, của cơ quan quản lý đầu tư phát triển. Vì vậy cần đơn giản hoá thủ tục giữa cơ quan quản lý đầu tư phát triển với chủ đầu tư và nhà thầu theo hướng: - Tiền vốn được đi thẳng từ Kho bạc Nhà nước về cơ quan thực hiện đầu tư (Nhà thầu). - Thủ tục xác nhận giữa nhà thầu và cơ quan quản lý được thực hiện theo phương thức “một cửa”. Bốn là: Đổi mới thủ tục trong khâu thanh quyết toán khi dự án đầu tư được hoàn thành. Đây đang là điểm bức xúc hiện nay. Nhiều công trình đã hoàn thành, có vốn song không thanh quyết toán được. Nguyên nhân là do thủ tục chưa hoàn tất. ở đây cần lưu ý trong công tác quản lý vốn đầu tư, theo dõi, giám sát công trình, thủ tục đối chiếu, đánh giá phải được thực hiện thường xuyên, liên tục từng khâu, từng công việc, từng bộ phận. Qua đó đi đển tổng thể công trình dự án. Điều đó bảo đảm gọn nhẹ trong trong hoạt động quản lý. Các số liệu phản ánh chính xác hơn. Đặc biệt trách nhiệm của cá nhân, đơn vị được thể hiện rõ ràng, cụ thể hơn. Thứ hai: Đổi mới cơ chế quản lý tuyển chọn nhà thầu dự án đầu tư từ nguồn vốn ngân sách nhà nước. Trong quản lý đầu tư, đặc biệt là đầu tư từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước vấn đề tuyển chọn nhà thầu có ý nghĩa rất quan trọng. Nhà thầu là đơn vị thực hiện dự án đầu tư. Chất lượng công trình, hiệu quả vốn đầu tư phần rất lớn phụ thuộc vào nhà thầu. Nhà thầu có đủ năng lực tài chính, kỹ thuật, lao động phù hợp với yêu cầu kỹ thuật, quy mô công trình dự án sẽ tạo điều kiện cho tiến độ thi công thực hiện dự án tiến hành được liên tục, đồng vốn được sử dụng có hiệu quả. Ngược lại là nguyên nhân thất thoát vốn. Thực tiễn đã chỉ ra rằng hơn 70% dự án công trình hiệu quả thấp nguyên nhân chính là do chọn nhà thầu không hợp lý đồng thời thường dẫn đến tham nhũng, tiêu cực. Có 2 hình thức chủ yếu để lựa chọn nhà thầu: - Hình thức chỉ định thầu. Theo hình thức này, chủ đầu tư căn cứ vào yêu cầu, mục tiêu, điều kiện thực hiện để chỉ định nhà thầu hợp lý. - Hình thức đấu thầu. Đây là hình thức lựa chọn theo cơ chế cạnh tranh. Nó cho phép tìm được nhà thầu phù hợp với yêu cầu, mục tiêu, điều kiện thực hiện dự án đầu tư. Hiện nay chỉ trừ những dự án đặc biệt quan trọng, liên quan đến bí mật, an ninh quốc gia, còn tất cả đều thực hiện chọn thầu theo hình thức đấu thầu. Nhà nước có quy định rất chặt chẽ về đấu thầu. Tuy nhiên trên thực tế, trừ những công trình dự án lớn, yêu cầu kỹ thuật cao... Còn các dự án sử dụng vốn ngân sách nhà nước loại nhỏ việc đấu thầu mang tính chất hình thức. Nguyên nhân chủ yếu là các nhà thầu có sự thoả hiệp trong đấu thầu. Mặt khác các dự án đầu tư thường được điều chỉnh, bổ sung trong quá trình thực hiện dự án. Do vậy giá bỏ thầu thấp, nhiều trường hợp thấp hơn giá dự toán, song nhà thầu vẫn thực hiện và tìm cách điều chỉnh, bổ sung. Từ thực tế trên trong đổi mới cơ chế quản lý đấu thầu, bảo đảm khai thác triệt để yếu tố cạnh tranh, lựa chọn được nhà thầu hợp lý hạn chế tham nhũng, tiêu cực trong đấu thầu, cần thực hiện một số vấn đề chủ yếu sau đây: Một là: Tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về đấu thầu, đảm bảo tính đồng bộ của văn bản pháp quy. Để đảm bảo tính đồng bộ, cần tiếp tục nghiên cứu hoàn chỉnh pháp lệnh đấu thầu. Trên cơ sở các văn bản quy phạm pháp luật về đấu thầu của Nhà nước đã ban hành, các Bộ tuỳ theo tình hình cụ thể cần ra các văn bản hướng dẫn thực hiện cho phù hợp (như quy định về cơ quan được uỷ quyền phê duyệt hồ sơ mời thầu thay cho người có thẩm quyền, quy trình thực hiện đấu thầu, báo cáo đánh giá, biểu mẫu....) Hai là: Cần có sự kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ các nhà thầu kể cả qua hồ sơ dự thầu và qua thực tế. Tránh tình trạng thoả hiệp, mua hồ sơ... của các nhà thầu. Ba là: Khi phân tích lựa chọn nhà thầu cần có sự cân nhắc nhiều yếu tố. Thường khi chọn thầu các chủ đầu tư chỉ tập trung vào giá thầu. ở đây cần xem xét kỹ các điều kiện thực hiện đầu tư như kỹ thuật, công nghệ, lao động. Đặc biệt cần lưu ý là nếu giá thấp quá sẽ không cho phép đáp ứng được yêu cầu chất lượng công trình. Thực tế chỉ rất rõ vấn đề này. Do vậy giá chỉ là một yếu tố để chọn nhà thầu. Bốn là: Nhằm bảo đảm cho việc đấu thầu khách quan, lựa chọn được nhà thầu đáp ứng được các yêu cầu thi công thực lực dự án, kiên quyết xoá bỏ các trường hợp điều chỉnh thiết kế, bổ sung trong quá trình thực hiện dự án. Năm là: Luật hoá các hoạt động đấu thầu theo hướng cụ thể, đồng bộ. Trong đó cần có chế tài với tính răn đe, trừng trị mạnh đối với tính răn đe, trừng trị mạnh đối với các tiêu cực, vi phạm trong đấu thầu. Điều này cho phép nâng cao trách nhiệm của các cán bộ liên quan đến đấu thầu các dự án sử dụng vốn ngân sách Nhà nước, hạn chế những tiêu cực, tham nhũng trong đấu thầu. Thứ ba: Đổi mới công tác cán bộ quản lý đầu tư từ ngân sách nhà nước. Như đã biết, cán bộ công chức có vai trò quyết định mọi mặt. Những thất thoát, kém hiệu quả của vốn đầu tư từ Ngân sách Nhà nước vừa qua, ngoài các nguyên nhân đã nêu, công tác cán bộ có vai trò quan trọng. Việc đổi mới công tác cán bộ nói chung và cán bộ quản lý vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước nói riêng theo tôi cần tập trung giải quyết một số điểm sau đây: Một là: Bảo đảm yêu cầu chất lượng đối với cán bộ công chức thực hiện quản lý vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước: - Về chuyên môn, cần bố trí cán bộ công chức được đào tạo chính quy đúng chuyên môn, phần việc đảm nhiệm. - Về bản lĩnh chính trị phải đảm bảo yêu cầu năng động, trung thực. Những cán bộ gia đình có con em nghiện hút... tuyệt đối phải đưa ra khỏi lĩnh vực quản lý vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước. Yêu cầu về “Hồng” và “Chuyên” đối với cán bộ công chức thực hiện quản lý đầu tư từ nguồn vốn ngân sách nhà nước phải được nhận thức cụ thể, không lý luận chung chung. Hai là: Thường xuyên đào tạo lại, đặc biệt là tập huấn, bồi dưỡng những quy định mới của pháp luật liên quan đến đầu tư và quản lý vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước. Cần đặc biệt cập nhật thông tin về chế độ, chính sách.... Cho cán bộ công chức thực hiện quản lý vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước. Ba là: Tạo lập cơ chế hợp lý về trách nhiệm và thù lao cho cán bộ công chức quản lý vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước. - Đổi mới chế độ tiền lương, thưởng nhằm bảo đảm cho cán bộ, công chức thực hiện quản lý vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước, có thu nhập hợp lý, ổn định, thoả đáng. Điều đó tạo cho họ sự yên tâm trong công tác, tâm huyết với trách nhiệm thực thi công vụ. - Có chế tài về trách nhiệm mang tính răn đe mạnh, đặc biệt là chế tài về kinh tế. Điều đó hạn chế hành vi tiêu cực của đội ngũ cán bộ công chức quản lý vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước. Bốn là: Quy định rõ trách nhiệm và nghĩa vụ của từng cán bộ công chức quản lý vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước. Cần thiết cụ thể hoá về trách nhiệm và nghĩa vụ cho từng cán bộ công chức trong công tác quản lý vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước. Loại bỏ cơ chế xin - cho trong quản lý vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước Thứ tư: Triển khai thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở trong các cơ quan, đơn vị liên quan đến việc thực hiện đầu tư từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước. Điều này cho phép thực hiện “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” trong đầu tư từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước. K ẾT LUẬN ==================== Đầu tư xây dựng cơ bản là hoạt động đầu tư vô cùng quan trọng, tạo ra hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ cho sự phát triển kinh tế- xã hội; là tiền đề cơ bản để thực hiện công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. Hiệu quả của hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản được thể hiện trên mọi lĩnh vực của nền kinh tế xã hội, đó là hiệu quả tài chính, công ăn việc làm, trình độ cán bộ, công nghệ quốc gia và vấn đề bảo vệ môi trường. Trong hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản có rất nhiều vấn đề gây ảnh hưởng đến hiệu quả của việc sử dụng vốn cần phải xem xét. Do đó, để đạt được mục tiêu của Đảng đã đề ra nhằm đưa đất nước đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại hoá; tiến nhanh, tiến mạnh lên chủ nghĩa xã hội trong khi đó tỷ lệ huy động vốn cho hoạt động đầu tư còn rất thấp mà hiệu quả sử dụng vốn chưa cao, tình trạng lãng phí, thất thoát đặc biệt là trong lĩnh vực sử dụng nguồn vốn Ngân sách Nhà nước đang là vấn đề nổi cộm. Do đó, nhiệm vụ cấp thiết là phải tìm ra được những biện pháp nhằm ngăn chặn hiện tượng thất thoát; lãng phí và việc sử dụng vốn kém hiệu quả. Bên cạnh đó là tìm ra những giải pháp nhằm sử dụng có hiệu quả hơn nữa nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách Nhà nước. Em hy vọng rằng qua việc nghiên cứu đề tài: “Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ Ngân sách Nhà nước” sẽ góp phần nào vào việc nâng cao hiệu quả quản lý đầu tư xây dựng cơ bản nói chung và đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách Nhà nước nói riêng Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn cô giáo Nguyễn Thị ái Liên đã trực tiếp hướng dẫn để em hoàn thành bài viết này. TÀI LIỆU THAM KHẢO ==================== 1.Giáo trình 10. Kinh tế Đầu tư: Trường Đại học Kinh tế quốc dân 20. Giáo trình Lập và quản lý dự án: Trường Đại học Kinh tế quốc dân 2. Sách: 10. "Quản lý chi tiêu công": Thư viện Bộ Kế hoạch và Đầu tư 20. "Quản lý tài chính trong đầu tư xây dựng cơ bản": Thái Bá Cẩn 4. Tạp chí Xây dựng 10. "Cơ quan quản lý xây dựng tại địa phương cần bám sát thực tiễn và thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ" - T.giả: Nguyễn Hồng Quân - Số 450/tháng 08/2005 - Công ty in Đường sắt. 20. "Cần tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính trong công tác cấp phép xây dựng" - T.giả: Hoàng Thọ Vinh - Số 450/tháng 08/2005 - Công ty in Đường sắt. 30. "Quản lý chất lượng công trình xây dựng trước hết là quản lý năng lực con người" - T.giả: Nguyễn Văn Liên - Số 448/ tháng 06/2005 - Nơi phát hành: Công ty in Đường Sắt. 40. "Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý dự án đầu tư xây dựng" - T.giả: Trần Trịnh Tường - Số 446/tháng 04/2005 - Nơi phát hành: Công ty in Đường Sắt. 50. "Tăng cường hơn nữa công tác quản lý Nhà nước về đầu tư và xây dựng" - T.giả: Bùi Văn Yêm - Số 434/tháng 04/2004 - In tại công ty in Tiến Bộ. 60. "Nâng cao hiệu qủa quản lý nhà nước ngành xây dựng" - T.giả: Bùi Sĩ Hiển - Số 415/tháng 09/2002 - In tại xưởng in Nhà xuất bản xây dựng. 70. "Chống tiêu cực, lãng phí, thất thoát trong đầu tư xây dựng hiện nay" - T.giả: Tạ Duy Hiển - Số 409/tháng 03/2002 - In tại xưởng in nhà xuất bản xây dựng. 80. "Công tác lập, xét duyệt, quản lý và triển khai thực hiện quy hoạch xây dựng tại Đà Nẵng" - T.giả: UBND thành phố Đà Nẵng - Số 427/ tháng 09/2003 - In tại công ty in Tiến Bộ. 5. Tạp chí thanh tra 10. "Còn nhiều sai phạm trong đầu tư xây dựng cơ bản- Đâu là nguyên nhân" - T.giả: Kiều Công - số 05/2006 - Nơi phát hành: công ty in Công đoàn 167 Tây Sơn- Hà Nội. 20. "Những ghi nhận về hoạt động của thanh tra Giao thông vận tải trong 5 năm qua" - T.giả: Trần Văn Trường -Số 05/2006 - Nơi phát hành: công ty in Công Đoàn 167 Tây Sơn- Hà Nội. 30. "Phải gắn hoạt động thanh tra với công tác đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí" - T.giả: Võ Thanh Tòng - Số 06/2005 - In tại công ty in Công Đoàn 167 Tây Sơn- Hà Nội. 6. Tạp chí Thanh tra Tài chính: 10. "Tăng cường công tác giám sát, kiểm tra đối với phân định nguồn thu & các khoản chi giữa các cấp của Ngân sách địa phương theo tinh thần của Luật Ngân sách 2002" - T.giả: Nguyễn Thị Chắt - Số 45/ tháng 03/2006 - Nơi phát hành: Công ty in Ba Đình- Hà Nội. 20. "Thanh tra Bộ Kế hoạch- Đầu tư: Nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước" - T.giả: Minh Nguyệt - Số 44/ tháng 02/2006 - Nơi phát hành: Công ty in Ba Đình- HN 30. "Con người- 2 yếu tố để hạn chế thất thoát, lãng phí vốn đầu tư của Nhà nước" - T.giả: Nguyễn Thị Chắt - Số 44/tháng 02/2006 - Nơi phát hành: Công ty in Ba Đình- Hà nội. 40. "Một số giải pháp nâng cao công tác quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản" - T.giả: Triệu Vũ Hoàng - Số 39/ tháng 09/2005 - Nơi phát hành: Công ty in Ba Đình. 50. "Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và vai tròn của thang tra tài chính" - T.giả: Hoài Thu - Số 42/ tháng 12/2005. 7. Báo cáo: 10. "Báo cáo nâng cao hiệu quả đầu tư" - Nguồn: Vụ Tổng hợp KTQD- Bộ Kế hoạch và Đầu Tư 20. Báo cáo “Tình hình triển khai nghị quyết 36/2004/QH11”- Nguồn: Vụ Tổng hợp KTQD - Bộ Kế hoạch và Đầu tư. 8. Kế hoạch Kinh tế xã hội 5 năm 2006-2010: Nguồn: Vụ Tổng hợp KTQD- Bộ Kế hoạch và Đầu tư. DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT Từ viết tắt Viết đầy đủ XDCB Xây dựng cơ bản NSNN Ngân sách Nhà nước UBND Uỷ ban nhân dân HĐBT Hội đồng bộ trưởng CTĐTCC Chương trình đầu tư công cộng ODA Hỗ trợ phát triển chính thức FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài MỤC LỤC Trang ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36400.doc
Tài liệu liên quan