Thực trạng và giải pháp phòng ngừa, hạn chế rủi ro trong kinh doanh tín dụng của Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) khu vực 2 - Hai Bà Trưng

Mục lục Lời mở đầu Chương I Hoạt động của ngân hàng trong nền kinh tế thị trường và những rủi ro chủ yếu trong hoạt động kinh doanh tín dụng của các Ngân hàng thương mại. I - Ngân hàng thương mại và vai trò của Ngân hàng thương mại đối với sự phát triển của nền kinh tế. 1. Ngân hàng thương mại. 8 1.1. Sự ra đời của Ngân hàng. 1.2. Định nghĩa Ngân hàng thương mại. 2. Vai trò của Ngân hàng thương mại đối với sự phát triển nền kinh tế. 10 2.1. Ngân hàng là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế.

doc75 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2103 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và giải pháp phòng ngừa, hạn chế rủi ro trong kinh doanh tín dụng của Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) khu vực 2 - Hai Bà Trưng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
2.2. Ngân hàng thương mại là công cụ để nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế. 2.3. Ngân hàng thương mại là cầu nối nền tài chính Quốc gia với nền tài chính Quốc tế. II - Những rủi ro trong kinh doanh của Ngân hàng thương mại. 11 1. Rủi ro. 11 1.1. Rủi ro trong nền kinh tế. 1.2. Rủi ro trong hoạt động Ngân hàng. 1.3. Tác động của rủi ro đến hoạt động kinh doanh Ngân hàng. 2. Các loại rủi ro trong kinh doanh Ngân hàng. 13 2.1. Rủi ro tín dụng. 2.2. Rủi ro về lãi suất. 2.3. Rủi ro hối đoái. 2.4. Rủi ro thanh toán. 2.5. Rủi ro về nguồn vốn. 3. Nguyên nhân gây nên rủi ro tín dụng. 16 3.1. Nguyên nhân bất khả kháng 3.2. Thông tin không cân xứng. 3.3. Sự điều khiển của cơ chế thị trường. 3.4. Môi trường kinh tế. 3.5. Môi trường pháp lý. 3.6. Nguyên nhân từ phía Ngân hàng. 3.7. Nguyên nhân từ khách hàng. 3.8. Các nguyên nhân khác. III - Các biện pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro. 22 1. Biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng. 22 1.1. Xây dựng chính sách tín dụng hợp lý. 1.2. Thực hiện tốt quy trình quản lý tín dụng. 23 1.2.1. Quá trình thẩm định. 1.2.1.1 - Năng lực pháp lý của khách hàng. 1.2.1.2 - Uy tín người vay vốn. 1.2.1.3 - Phân tích tình hình tài chính của khách hàng. 1.2.1.4 - Đánh giá về năng lực điều hành sản xuất kinh doanh của ban lãnh đạo Doanh nghiệp. 30 1.2.1.5 - Đánh giá về tài sản đảm bảo (cầm cố, thế chấp, bảo lãnh) 1.3. Phân tích phấn tán rủi ro. 33 1.3.1 - Không nên tập trung cho vay một vài lĩnh vực, khu vực 1.3.2 - Ngân hàng thương mại không nên dồn vốn đầu tư vào một hoặc vài khách hàng: 1.3.3 - Đa dạng hóa hoạt động kinh doanh 1.3.4 - Cho vay hợp vốn 1.3.5 - Bảo hiểm tín dụng. 1.3.6 - Lập quỹ dự phòng rủi ro 1.4. Duy trì quan hệ khách hàng lâu dài. 35 1.5. Thực hiện tốt các hình thức đảm bảo tín dụng 1.6. Chú trọng đến nghệ thuật cho vay. 2. Biện pháp làm giảm rủi ro lãi suất. 36 3. Các biện pháp làm giảm rủi ro thanh toán. 37 4. Các biện pháp làm giảm rủi ro hối đoái. 39 Chương II Tình hình hoạt động tín dụng - rủi ro tại Ngân hàng công thương khu vực II - Hai Bà Trưng. I- Khái quát về tình hình kinh tế trên địa bàn quận Hai Bà Trưng. 42 II- Vài nét về hoạt động kinh doanh của Ngân hàng công thương khu vực II - Quận Hai Bà Trưng trong thời gian qua. 42 1. Về công tác huy động vốn. 42 2. Về công tác sử dụng vốn. 43 III- Thực trạng kinh doanh tín dụng tại Ngân hàng Công thương khu vực II - Hai Bà Trưng. 44 1. Thực trạng kinh doanh tín dụng tại Ngân hàng công thương khu vực II -Hai Bà Trưng. 44 2. Rủi ro và nguyên nhân gây nên rủi ro tín dụng. 52 3. Những tồn tại rút ra từ thực tế cho vay cần tiếp tục giải quyết. 62 Chương III Những biện pháp để ngăn ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Công thương khu vực II - Hai Bà Trưng - những kiến nghị và đề xuất I - Những giải pháp để ngăn ngừa và hạn chế rủi ro tại Ngân hàng Công thương khu vực II - Hai Bà Trưng. 63 1. Xây dựng chính sách tín dụng. 63 2. Tìm hiểu, phân tích và nhận định về khách hàng. 64 3. Sử dụng các đảm bảo. 65 4. Phân tán rủi ro. 66 II - Những kiến nghị và đề xuất tại Ngân hàng công thương khu vực II Hai Bà Trưng. 66 1. Đối với nhà nước - chính phủ và cơ quan bộ ngành. 66 2. Đối với Ngân hàng nhà nước. 67 3. Đối với các Ngân hàng thương mại. 69 4. Đối với Ngân hàng công thương khu vực II - Hai Bà Trưng. 70 Kết luận 71 Lời mở đầu Sự nghiệp đổi mới nền kinh tế nước ta xuất phát từ các luận cứ khoa học và cách mạng. Trong đổi mới tư duy, nhất là tư duy kinh tế, quá trình đổi mới đã được Đảng và nhà nước ta đề ra từ đại hội IV, đại hội V của Đảng, đòi hỏi phải đổi mới nhiều mặt, nhiều lĩnh vực trong đời sống kinh tế và xã hội. Chuyển đổi từ nền kinh tế tự cung tự cấp sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước, thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, chúng ta đã và đang đạt được những thành quả khá khả quan. Cùng với sự đổi mới tích cực của nền kinh tế, Ngân hàng cũng đã đổi mới về nhiều mặt để đáp ứng nhu cầu đa dạng của nền kinh tế hàng hóa, từ Ngân hàng một cấp chuyển sang Ngân hàng hai cấp: Ngân hàng Nhà nước quản lý vĩ mô về mặt tiền tệ, và Ngân hàng thương mại thực hiện về kinh doanh tiền tệ và làm dịch vụ tiền tệ tín dụng. Kết quả đổi mới Ngân hàng đã góp phần xứng đáng vào kết quả đổi mới chung của nền kinh tế mà nét nổi bật nhất là góp phần đẩy lùi lạm phát, kiềm chế và ổn định lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và dịch chuyển cơ cấu đầu tư theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đó là công lao to lớn mà được Đảng và Nhà nước công nhận. Tuy vậy, bên cạnh sự phát triển của hoạt động Ngân hàng đang còn gặp nhiều khó khăn tồn tại, nhất là khâu tín dụng còn chưa an toàn, gặp nhiều rủi ro, với sự cạnh tranh không lành mạnh trong nền kinh tế hàng hóa đã làm cho thị trường trở nên phức tạp và làm cho kinh doanh tiền tệ của Ngân hàng còn gặp nhiều rủi ro. Nhìn lại hoạt động của hệ thống Ngân hàng nước ta qua các kỳ đổi mới, Ngân hàng thương mại đã gặp rất nhiều rủi ro với nhiều hình thức rất đa dạng, quy mô khá rộng: có sự việc dự đoán được để đề phòng, nhưng có rủi ro xảy ra không lường trước được. Trong nền kinh tế thị trường thì tính chất cạnh tranh càng quyết liệt và như vậy nguy cơ rủi ro đối với Ngân hàng càng nhiều, Rủi ro xảy ra làm thiệt hại cho người gửi tiền, cho chính Ngân hàng và cho toàn bộ hệ thống nền kinh tế. Do đó việc nghiên cứu các giải pháp để ngăn ngừa và hạn chế rủi ro trong kinh doanh tín dụng của Ngân hàng thương mại trở thành yêu cầu bức thiết của hệ thống Ngân hàng Việt nam. Nhận thức và hiểu biết về rủi ro trong kinh doanh tín dụng Ngân hàng là để có khả năng tự vệ, phòng tránh rủi ro ở mức cao nhất để ổn định kinh doanh của hệ thống Ngân hàng nói riêng và góp phần tích cực vào sự ổn định nền kinh tế nói chung. Qua học tập tại Học viện Ngân hàng và nghiên cứu thực tế tại Ngân hàng công thương khu vực II - Hai Bà Trưng, tôi nhận thấy rằng: Trong kinh doanh tiền tệ của Ngân hàng thương mại gặp nhiều rủi ro là điều khó tránh khỏi. Bởi chất lượng và hiệu quả tín dụng phụ thuộc vào 04 yếu tố sau: - Người cho vay - Người đi vay - Môi trường pháp lý - Môi trường kinh tế Thực tiễn hiện nay cho thấy, môi trường pháp lý, môi trường kinh tế chưa được đầy đủ và đồng bộ cũng như các nguyên nhân từ người đi vay, người cho vay đem lại đã gây nên những khó khăn rất lớn trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Tuy vậy những yếu kém trong quá trình quản lý, chấp hành các quy định nghiệp vụ tín dụng về thẩm định dự án, chấp hành các nguyên tắc, điều kiện cho vay đến việc thực hiện các chế độ kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay đã gây hậu quả là đẩy mức dư nợ quá hạn lên qúa giới hạn cho phép. Như vậy khả năng rủi ro rất cao làm ảnh hưởng tới các kế hoạch kinh doanh của Ngân hàng, ảnh hưởng tới lợi nhuận của Ngân hàng, với quy mô rộng lớn thì gây trì trệ nền kinh tế. Ngân hàng thương mại với chức năng kinh doanh tiền tệ, thực hiện nghiệp vụ "đi vay để cho vay" . Do vậy, mục tiêu lớn của Ngân hàng trong kinh doanh phải đảm bảo an toàn vốn và hiệu quả kinh doanh cao. Để thực hiện mục tiêu trên, Ngân hàng thương mại phải tìm mọi biện pháp nhằm phòng ngừa rủi ro, hạn chế rủi ro ở mức thấp nhất. Nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác giám sát và phòng ngừa rủi ro đối với hoạt động kinh doanh tín dụng của ngân hàng thương mại. Tôi chọn đề tài " Các giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong kinh doanh tín dụng của Ngân hàng thưong mại" làm bản luận văn tốt nghiệp của mình. Luận văn này chỉ tập trung giải quyết những vấn đề sau: I. Hoạt động của Ngân hàng trong nền kinh tế thị trường và những rủi ro chủ yếu trong hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng thương mại II. Tình hình hoạt động tín dụng tại Ngân hàng Công thương Khu vực II - Hai Bà Trưng III. Các giải pháp ngăn ngừa và hạn chế rủi ro trong kinh doanh tín dụng của Ngân hàng Công thương khu vực II - Hai Bà Trưng - Những kiến nghị và đề xuất . Do thời gian có hạn, kiến thức và trình độ lý luận còn nhiều hạn chế, mặt khác lại chưa trải qua công tác tín dụng nên bản luận văn này không tránh khỏi những sai sót và khiếm khuyết. Tôi rất mong được sự đóng góp ý kiến, sự giúp đỡ của Thầy, cô giáo, Sự giúp đỡ của Ban lãnh đạo cùng các phòng ban liên quan của Ngân hàng Công thương Khu vực II - Hai Bà Trưng, cùng bạn bè đồng nghiệp để bản luận văn này được đầy đủ và có tính thực hiện cao. Chương I hoạt động của ngân hàng trong nền kinh tế thị trường và những rủi ro chủ yếu trong hoạt động kinh doanh tín dụng của các Ngân hàng thương mại. I - Ngân hàng thương mại và vai trò của Ngân hàng thương mại đối với sự phát triển của nền kinh tế. 1. Ngân hàng thương mại. 1.1. Sự ra đời của Ngân hàng. + Thời trung cổ, mầm mống của Ngân hàng đã xuất hiện, khi mỗi quốc gia có sử dụng đồng tiền làm phương tiện trao đổi và quá trình sản xuất lưu thông hàng hóa hình thành và phát triển, lúc đó có một số người rất cần lượng tiền để sản xuất hàng hóa và có người lại dư một lượng tiền trong quá trình lao động tích luỹ muốn dùng cho vay để kiếm lời. Để làm trung gian cho mối quan hệ này, một số người đã dựa vào chữ tín đứng ra làm dịch vụ trên để thu một lệ phí gọi là lợi tức, nhờ hoạt động này đã tạo điều kiện cho sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển. Ngược lại sản xuất lưu thông hàng hoá phát triển lại làm cho những người có thêm số tiền dư ra nhàn rỗi, đồng thời người làm trung gian cũng tĩch luỹ ngày càng nhiều tiền và như vậy họ trở thành là người buôn tiền. Để có nhiều thuận lợi hơn, nhóm người trung gian này tập hợp nhau lập thành một tổ chức hùn vốn để thực hiện hoạt động kinh doanh và đúng như Mác nói " Từ người buôn tiền đến tín dụng Ngân hàng " Cùng phát triển song song và ra đời trước tín dụng Ngân hàng là tín dụng thương mại. Hai hình thức này đã dựa vào nhau cùng làm điều kiện tương hỗ nhau để phát triển: Tín dụng Ngân hàng giúp khắc phục một số mặt hạn chế của tín dụng thương mại, và tín dụng thương mại thông qua công cụ thương phiếu đã tạo điều kiện cho sự gắn bó giữa thương mại và tín dụng Ngân hàng. 1.2. Định nghĩa Ngân hàng thương mại. Để đưa ra được một định nghĩa về Ngân hàng thương mại, người ta thường phải dựa vào tính chất và mục đích hoạt động của nó trên thị trường tài chính, đôi khi còn kết hợp các tính chất, mục đích và đối tượng hoạt động. Luật Ngân hàng Pháp năm 1941 định nghĩa: "Được coi là Ngân hàng khi những xí nghiệp hay cơ sở nào thường xuyên nhận của công chúng dưới hình thức ký thác hoặc hình thức khác các số tiền mà họ dùng cho chính họ vào các nghiệp vụ chiếu khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính”. Luật Ngân hàng ấn độ 1950, được bổ sung 1959 đã nêu: “Ngân hàng là cơ sở nhận các khoản tiền ký thác để cho vay hay tài trợ, đầu tư” Những định nghĩa trên là căn cứ vào tính chất và mục đích hoạt động. Một loạt định nghĩa khác căn cứ vào sự kết hợp với đối tượng hoạt động, ví dụ như Ngân hàng của Đan mạch năm 1930 định nghĩa: “Những nhà băng thiết yếu gồm các nghiệp vụ nhận tiền ký thác buôn bán vàng bạc, hành nghề thương mại và các giá trị địa ốc, các phương tiện tín dụng và hối phiếu, thực hiện các nghĩa vụ chuyển ngân, đứng ra bảo hiểm ...” Mặc dù có nhiều cách thể hiện khác nhau nhưng phân tích khai thác nội dung của các định nghĩa đó, người ta dễ dàng nhận thấy các Ngân hàng thương mại đều có chung một tính chất đó là việc nhận tiền ký thác - tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn để sử dụng vào các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu và các dịch vụ kinh doanh khác của chính Ngân hàng. ở Việt nam, trong bước chuyển đổi sang kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, thực hiện tính nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần theo định hưỡng xã hội chủ nghĩa. Mọi người được tự do kinh doanh theo pháp luật, được bảo hộ quyền sở hữu và thu nhập hợp pháp. Các sở hữu có thể hỗn hợp, đan xen với nhau hình thành các tổ chức kinh doanh đa dạng. Các Doanh nghiệp không phân biệt quan hệ sở hữu đều tự chủ kinh doanh, hợp tác và cạnh tranh với nhau bình đẳng trước pháp luật: Theo hướng đó, nền kinh tế hàng hóa phát triển tất yếu sẽ tạo ra những tiền đề cần thiết và đòi hỏi sự ra đời nhiều loại hình Ngân hàng và và tổ chức tín dụng khác. Để tăng cường quản lý, bước đầu hoạt động của các Ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác, tạo thuận lợi cho sự phát triển nền kinh tế đồng thời bảo vệ lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân, theo điều 20 Luật các tổ chức tín dụng của Việt nam có nêu: “Tổ chức tín dụng là Doanh nghiệp được thành lập theo quy định của luật pháp để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội quy nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán”. Từ định nghĩa chung đó, căn cứ vào tính chất và mục tiêu hoạt động, Luật còn chỉ rõ các loại hình Ngân hàng. 2. Vai trò của Ngân hàng thương mại đối với sự phát triển nền kinh tế. 2.1. Ngân hàng là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế. Ngân hàng thương mại giữ vai trò hết sức quan trọng trong sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Nó đảm bảo cho quá trình tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng của các Doanh nghiệp. Từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng nhanh tốc độ luân chuyển hàng hoá, tốc độ luân chuyển tiền tệ trong nền kinh tế. Ngân hàng thương mại có những tác dụng đó là nhờ ở hoạt động nghiệp vụ của nó, đặc biệt là nghiệp vụ tín dụng, thể hiện: Một là: Tín dụng Ngân hàng góp phần thu hút số tiền nhàn rỗi trong xã hội và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động tín dụng là một hoạt động kinh doanh chủ yếu của các Ngân hàng thương mại. Để thực hiện quá trình kinh doanh, ngân hàng phải có nguồn vốn và trên cơ sở nguồn vốn đó để đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng tăng của sự phát triển kinh tế. Đồng thời các thành phần kinh tế lại xuất hiện hiện tượng thiếu vốn tạm thời cần được giải quyết và sự có mặt của tín dụng Ngân hàng coi như một công cụ để giải quyết mối quan hệ cung cầu tiền tệ. Trong kinh tế thị trường có quan điểm cho rằng vai trò trên của tín dụng Ngân hàng không phải riêng có trong nền kinh tế thị trường có lẽ không ai phủ nhận, nhưng theo chúng tôi thì đó sẽ không chính xác nếu đồng nhất vai trò tín dụng Ngân hàng trong nền kinh tế thì trường - đặc biệt là về mặt định lượng về hiệu quả kinh tế. Hai là: Tín dụng Ngân hàng là đòn bẩy kinh tế quan trọng thúc đẩy quá trình mở rộng quan hệ lưu thông hàng hóa. Để tăng thêm thu nhập kinh tế quốc dân cần phải mở rộng quy mô chiều sâu lẫn chiều rộng của sản xuất và lưu thông hàng hóa. Để đẩy mạnh sự phát triển của các ngành kinh tế cần thiết phải có vốn. Khi đầy đủ vốn cung cấp cho nền kinh tế thì nền kinh tế phát triển. Khi nền kinh tế phát triển sẽ tạo ra càng nhiều vốn và như vậy, Ngân hàng thương mại là chủ thể chính đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh. Vốn được tạo ra từ nghiệp vụ huy động vốn, huy động vốn nhàn rỗi từ quá trình tích luỹ, tiết kiệm của mỗi cá nhân, các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế. Bằng vốn huy động thông qua nghiệp vụ tín dụng, Ngân hàng thương mại đã cung cấp vốn cho nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu vốn một cách kịp thời cho quá trình tái sản xuất. Nhờ có hệ thống Ngân hàng thương mại hoạt động tốt mà các doanh nghiệp có điều kiện mở rộng sản xuất, cải tiến máy móc công nghệ, tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả kinh tế. 2.2. Ngân hàng thương mại là công cụ để nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Ngân hàng thương mại hoạt động có hiệu quả thông qua các hoạt động nghiệp vụ kinh doanh của mình bằng hoạt động tín dụng và thanh toán giữa các nghiệp vụ của Ngân hàng thương mại đã góp phần mở rộng khối lượng tiền cung ứng, tính toán và điều chỉnh lượng tiền cung ứng thông qua các chỉ số lãi suất, tỷ lệ dự trữ bặt buộc và nghiệp vụ thị trường mở khác. Như vậy Ngân hàng thương mại đã thực hiện việc dẫn dắt các luồng tiền, tập hợp và phân chia vốn của thị trường, điều khiển chúng một cách có hiệu quả. Thực thi vai trò điều tiết gián tiếp vĩ mô: “Nhà nước điều tiết Ngân hàng, Ngân hàng dẫn dắt thị trường" . 2.3. Ngân hàng thương mại là cầu nối nền tài chính Quốc gia với nền tài chính Quốc tế. Ngày nay, trong mối quan hệ kinh tế với sự hợp tác bình đẳng đôi bên cùng có lợi giữa các quốc gia trên thế giới và khu vực, đang được phát triển rất đa dạng kể cả nội dung và hình thức, cả chiều sâu lẫn chiều rộng. Đầu tư vốn ra nước ngoài và kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hóa là hai lĩnh vực hợp tác kinh tế quốc tế mà vốn là nhân tố quyết định đầu tư cho việc phát triển thực hiện quá trình này. Ngân hàng thương mại với tư cách là một tổ chức kinh tế đặc thù trong kinh doanh tiền tệ thông qua hoạt động tín dụng, sẽ là trợ thủ đắc lực về vốn cho các nhà đầu tư và kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hóa. Vì như vậy, nền kinh tế của nước này, nước khác đã hòa nhập chung với nền kinh tế thế giới. Việc phát triển kinh tế của mỗi quốc gia luôn gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế thế giới và là một bộ phận cấu thành nên sự phát triển đó. II - Những rủi ro trong kinh doanh của Ngân hàng thương mại. 1. Rủi ro. 1.1. Rủi ro trong nền kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là động lực thúc đẩy sản xuất phát triển, cạnh tranh hoàn hảo thực hiện tốt chức năng kinh tế xã hội như: Sử dụng tối ưu các nguồn lực, khuyến khích tiến bộ công nghệ, thoả mãn tối ưu nhu cầu người tiêu dùng, phân phối thu nhập theo hướng nâng cao hiệu quả, kiểm soát tiềm lực kinh tế và chính trị, đảm bảo quyền tự do hoạt động cá nhân. Song kết quả cuối cùng của cạnh tranh là có người thắng và cũng có kẻ bại. Như vậy, rủi ro đã đến với những người không thành công trong việc kinh doanh trong môi trường kinh tế cạnh tranh mà thất bại nhiều hơn thành công. Chính đặc trưng này của cạnh tranh đã tạo ra sự biến động đầy bất trắc trong lĩnh vực kinh doanh. Sự đa dạng hóa trong kinh doanh có tác động lớn đến hoạt động của doanh nghiệp và rủi ro cũng gắn liền với kinh doanh. Trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thì rủi ro đến từ nhiều phía, có thể do chủ quan hoặc khách quan của các nhà kinh doanh. Song có thể nói rằng: Trong từng thời kỳ xã hội khác nhau thì rủi ro có những loại khác nhau và mức độ thiệt hại do ruỉ ro gây nên cũng khác nhau. Các tác động chính gây nên rủi ro cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong nền kinh tế nói chung là: + Nền kinh tế bất ổn định: thâm hụt ngân sách quá lớn, lạm phát quá cao dẫn đến trì trệ nền kinh tế. + Chính trị - xã hội của đất nước bị biến động 1.2. Rủi ro trong hoạt động Ngân hàng. Trong nền kinh tế thị trường, kinh doanh và rủi ro là hai phạm trù cặp đôi mà hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại cũng không nằm ngoài hai cặp phạm trù này, mà còn rất nhạy cảm. Hầu hết các nghiệp vụ của Ngân hàng thương mại đều dẫn tới rủi ro. Do vậy hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại luôn chứa đựng những nguy cơ rủi ro tiềm ẩn. Rủi ro trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại là sự kiện xẩy ra ngoài ý muốn và ảnh hưởng đến hoạt động, gây tổn thất cho Ngân hàng thương mại. 1.3. Tác động của rủi ro đến hoạt động kinh doanh Ngân hàng. * Thứ nhất: về chi phí: Rủi ro gây tăng vượt của giới hạn các khoản chi phí dịch vụ Ngân hàng. Trong hoạt động các nghiệp vụ của Ngân hàng thương mại để thực thi được cần chi ra một lượng chi phí hoạt động nhất định bao gồm: Chi trả lãi cho người gửi tiền, lãi tiền vay cho các tổ chức tín dụng, tiền lương của cán bộ Ngân hàng, chi phí mua sắm TSCĐ khác. Rủi ro xảy ra sẽ làm tăng chi phí và như vậy sẽ ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. * Thứ hai: là thua lỗ: Sự thua lỗ được biểu hiện dưới hình thức không đạt được thu nhập như dự kiến mà chi vượt quá dự toán, thu không đủ bù chi. Nguyên nhân dẫn đến thua lỗ do Ngân hàng không phân tích hoặc phân tích không hết các yếu tố cần cho các hoạt động được thực thi, Dự toán sai các đối tượng cho vay và đầu tư hoặc do hoàn cảnh ngẫu nhiên không thuận lợi cho Ngân hàng. Các rủi ro vốn xảy ra dẫn đến sự thua lỗ của Ngân hàng. Rủi ro làm chi vượt dự toán trong khi thu nhập không thể bù đắp được. * Thứ ba: tổn thất: + Uy tín: Tất cả các hoạt động kinh doanh của Ngân hàng đều biểu hiện quan hệ hai chiều: khách hàng tốt thì Ngân hàng cho vay, Ngân hàng uy tín cao trên thị trường thì khách hàng đến xin vay. Như vậy khi rủi ro xảy ra từ các nguyên nhân khác nhau và sẽ có nguyên nhân do từ Ngân hàng: đạo đức cán bộ thoái hóa, trình độ quản lý không phù hợp với hiện tại ... Như vậy làm cho uy tín sẽ giảm sút mà trong nền kinh tế thị trường thì chữ “Tín" là quan trọng nhất. + Mất vốn: Vốn của Ngân hàng chủ yếu là từ vốn huy động từ tiền nhàn rỗi của các tổ chức và cá nhân. Vốn tự có của Ngân hàng chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng nguồn vốn kinh doanh. Như vậy rủi ro xẩy ra lớn sẽ gây mất vốn của Ngân hàng làm cho vốn tự có của Ngân hàng không được tăng thêm mà còn giảm sút. Mà vốn tự có là yếu tố quan trọng trong quan hệ ban đầu với khách hàng. 2. Các loại rủi ro trong kinh doanh Ngân hàng. 2.1. Rủi ro tín dụng. + Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra do khách hành không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ theo các điều khoản đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. Đây là loại rủi ro lớn nhất và thường xuyên xảy ra trong hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng thương mại. Nó có muôn hình muôn vẻ với nhiều hình thái, cung bậc khác nhau. Chúng luôn tiềm ẩn trong suốt quá trình trước, trong và sau khi cho vay mà biểu hiện ra bên ngoài là: Món vay không thu hồi được, nợ quá hạn, nợ khó đòi, mất vốn... Hoạt động cho vay là hoạt động chủ yếu nhất của Ngân hàng thương mại, do đó đưa tới thu nhập chủ yếu của Ngân hàng (Việt nam hiện nay, nghiệp vụ cho vay mang lại thu nhập chiếm 90 % tổng thu nhập của các Ngân hàng). Nhưng đồng thời cũng chứa ẩn nhiều rủi ro nhất. Những rủi ro này gây ra những thiệt hại nặng nề, có khi dẫn tới phá sản. 2.2. Rủi ro về lãi suất. Lãi suất là “là chi phí để vay hoặc giá phải trả để thuê vốn trong một thời gian nào đó “. Như vậy lãi suất cũng là một loại giá cả. Trong cơ chế thị trường, giá cả luôn biến động theo quan hệ cung cầu nên lãi suất chịu tác động của quy luật này. Như ta biết, lãi suất Ngân hàng được lập trên cơ sở lạm phát của nền kinh tế và áp dụng theo công thức sau: LSHuy động = M’TNR + MLP LSCho vay = LShđ + M’CP + M’RR Nhìn vào công thức ta thấy: Chỉ số lạm phát (MLP) biến đổi hàng ngày, hàng giờ của nền kinh tế, còn chỉ số lãi suất phụ thuộc vào tính chủ quan của con người: Sự thống nhất, về thời gian... Và như vậy sự biến đổi không đồng bộ đó đã dẫn tới rủi ro lãi suất mà Ngân hàng phải gánh chịu đó là làm giảm tiền lãi và thu nhập của Ngân hàng. Rủi ro lãi suất cũng bắt nguồn từ mối quan hệ qua lại của tài sản có, tài sản nợ và các hợp đồng ngoại bảng. Cơ cấu tài sản có, tài sản nợ sẽ quyết định tình thế rủi ro lãi suất. Tình thế rủi ro lãi suất này phụ thuộc vào mức độ cân đối giữa tài sản có và tài sản nợ: Điển hình là Ngân hàng dùng tài sản nợ ngắn hạn với lãi suất thay đổi để đầu tư vào tài sản có dài hạn hơn với lãi suất cố định. Khi lãi suất ngắn hạn tăng mà lãi suất dài hạn vẫn giữ nguyên thì Ngân hàng sẽ gặp phải rủi ro. Ngoài ra rủi ro lãi suất có thể xảy ra do trình độ thấp kém, bị thua thiệt trong việc cạnh tranh lãi suất với thị trường. 2.3. Rủi ro hối đoái. “Tỷ giá hối đoái là giá cả của một đồng tiền tính ra một đồng tiền khác“. Rủi ro hối đoái là rủi ro xuất hiện trong nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối do sự biến động về tỷ giá giữa các đồng tiền mà có sự bất lợi gây nên thua lỗ cho nhà kinh doanh ở các trạng thái sau: * Về thị trường ngoại hối.(Net long position) Khi Ngân hàng có dư dật về ngoại tệ: Cho vay ngoại tệ > huy động ngoại tệ thì khi giá ngoại tệ đó giảm thì Ngân hàng gặp rủi ro. * Vị thế đoản. (Net shot position) Khi Ngân hàng huy động ngoại tệ nhiều hơn cho vay thì khi giá ngoại tệ đó tăng, Ngân hàng sẽ gặp phải rủi ro. Như vậy, một trạng thái ngoại hối dù ở thế trường hay thế đoản đều có nguy cơ gây tổn thất cho các Ngân hàng. Khi phân biệt tình hình lãi, lỗ ngoại hối theo vị thế ngoại hối, người ta so sánh lỗ, lãi thực tế xảy ra so với mức lãi, lỗ dự kiến, qua đó đánh giá chất lượng quản lý rủi ro tỷ giá hối đoái của một Ngân hàng. 2.4. Rủi ro thanh toán. Rủi ro thanh toán là loại rủi ro riêng của Ngân hàng, do Ngân hàng không duy trì được thường xuyên một tài sản có “tính lỏng” cao dẫn đến mất khả năng chi trả thường xuyên cho khách hàng. Rủi ro thanh toán nảy sinh do những nguyên nhân sau: + Do mất cân bằng giữa nguồn vốn và sử dụng vốn, nguồn vốn dư thừa quá lớn, trong khi đó thị trường đầu ra hạn hẹp. Nên một số Ngân hàng đã dùng vốn huy động ngắn hạn để cho vay trung, dài hạn quá mức, dẫn đến thiếu hụt khả năng thanh toán cuối cùng. + Đến hạn, các khoản vay khó thu hồi được, uy tín của Ngân hàng giảm sút, người gửi tiền hay người đi vay thường phản ứng trước những khó khăn của Ngân hàng bằng cách sử dụng hạn mức tín dụng để đảm bảo có tiền cho những nhu cầu về sau hoặc rút hết số dư tiền gửi vì sợ có thể không rút được. Trong trường hợp Ngân hàng mất khả năng thanh toán, vốn tự có của Ngân hàng không có khả năng bù đắp hết tất cả các khoản mất mát, thiệt hại, Ngân hàng dễ rơi vào tình trạng vỡ nợ hay phá sản. 2.5. Rủi ro về nguồn vốn. Rủi ro về nguồn vốn thường xảy ra dưới hai hình thức: + Rủi ro do thừa vốn: Ngân hàng thương mại thông qua hình thức “đi vay để cho vay” nhằm kiếm lợi nhuận, còn vốn tự có “chỉ là cái đệm chống đỡ sụt giá của các tài sản có”. Khi nguồn vốn của Ngân hàng bị ứ đọng có nghĩa là Ngân hàng huy động vào mà không cho vay ra được hay cho vay ra quá ít, lợi nhuận không đủ bù đắp chi phí thì Ngân hàng sẽ gặp rủi ro. + Rủi ro do thiếu vốn: Do việc chuyển hoán của các kỳ hạn sử dụng vốn và nguồn vốn không nhịp nhàng dẫn đến việc Ngân hàng không đáp ứng được nhu cầu cho vay, đầu tư hoặc nhu cầu thanh toán của khách hàng. Điều này cũng dẫn đến rủi ro cho Ngân hàng. 3. Nguyên nhân gây nên rủi ro tín dụng. Qua kết quả thống kê và nghiên cứu tổng hợp cho thấy các nguyên nhân chủ yếu gây nên rủi ro tín dụng của Ngân hàng bao gồm: 3.1. Nguyên nhân bất khả kháng Các thiệt hại đôi khi nảy sinh từ nguyên nhân thiên tai như: bão lụt, hạn hán, hoả hoạn và động đất. Những thay đổi về nhu cầu của người tiêu dùng hoặc kỹ thuật một ngành công nghiệp có thể làm sụp đổ cả cơ đồ của một hãng kinh doanh và đặt người đi vay từng làm ăn có lãi vào thế thua lỗ. Một cuộc đình công kéo dài, việc giảm giá để cạnh tranh hoặc mất một người quản lý giỏi có thể làm thiệt hại nghiêm trọng đến khả năng chi trả tiền vay của người đi vay. 3.2. Thông tin không cân xứng. Trong quá trình hoạt động, Ngân hàng thực hiện nghiệp vụ Nợ và Có chuyển vốn từ người gửi tiền sang người đi vay tiền - Toàn bộ giao dịch này sẽ suôn sẻ nếu các bên tham gia đều có những thông tin và hiểu biết đầy đủ về nhau. Song một thực tế còn tồn tại là: một bên thường không biết tất cả những gì cần biết về phía bên kia và sự không cân bằng về thông tin mà mỗi bên có được như vậy được gọi là “ thông tin không cân xứng". Việc thiếu thông tin trong các giao dịch này sẽ đưa đến “ sự lựa chọn đối nghịch" và “ rủi ro đạo đức". Chọn lựa đối nghịch xảy ra trước khi diễn ra giao dịch. Bản chất vấn đề là thay vì lựa chọn những người trả được nợ để cho vay, nhà Ngân hàng - mặc dù không mong muốn - song vì thông tin không cân xứng - đã chọn người tích cực vay nhất để cho vay, nhưng lại là người có khả năng tạo ra kết cục không trả được nợ, gây rủi ro cho Ngân hàng. Thông tin không cân xứng có thể dẫn đến rủi ro về đạo đức sau khi giao dịch. Đó là hiện tượng người vay do thiếu đạo đức, thực hiện những hoạt động trái với cam kết sau khi nhận được khoản tiền vay, đưa đến việc khó có thể hoàn trả món vay, gây rủi ro cho Ngân hàng. Thông tin không cân xứng trên thị trường tài chính đẫn tới sự lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đuức đã đặt các Ngân hàng trước nguy cơ rủi ro cao. Muốn hoạt động kinh doanh có hiệu quả, thu được lợi nhuận, tránh tình trạng kinh doanh thua lỗ, nợ khê đọng dẫn đến phá sản, các Ngân hàng phải thật tỉnh táo để có những nguồn thông tin cân xứng nhằm vượt qua được sự lựa chọn đối nghịch và rủi ro về đạo đức. 3.3. Sự điều khiển của cơ chế thị trường. Cơ chế thị trường, với quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu, quy luật giá cả... là bàn tay vô hình điều khiển mọi hoạt động của các doanh nghiệp và quyết định sự sống còn của các doanh nghiệp. Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp. Ngân hàng muốn tồn tại và phát triển thì hoạt động phải sinh lời. Bởi vậy, cũng như tất cả các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh khác, muốn tồn tại và phát triển, Ngân hàng phải giải quyết được các mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình kinh doanh: mâu thuẫn về giá cả (lãi suất), về mức cung cầu của vốn, về các sản sản phẩm dịch vụ cung ứng cho khách hàng... Trong quá trình giải quyết mâu thuẫn, các ngân hàng cạnh tranh nhau quyết liệt và tất yếu có ngân hàng thắng lợi và có ngân hàng chịu rủi ro thất bại. Lịch sử ngân hàng đã ghi lại nhiều trường hợp ngân hàng phá sản và các cuộc khủng hoảng ngân hàng: Từ năm 1930 đến 1933: làn sóng phá sản ngân hàng đã tràn từ áo, Đức, Anh sang Mỹ, sự đổ bể của hàng loạt các ngân hàng như ngân hàng Bankhaus Herstatt của Đức (1974), ngân hàng quốc gia Franklin - ngân hàng đứng thứ 12 của Mỹ (1974), bài học đắt giá của Ngân hàng Baring, một ngân hàng có tên tuổi ra đời từ 1762 bị đổ vỡ vào năm 1995, và gần đây cơn ác mộng Daiwa chi nhánh của Ngân hàng Nhật bản tại Newyord - thua lỗ tới 1,1 tỷ USD, hay sự sụp đổ của hệ thống quỹ tín dụng đô thị năm 1989 ở Việt nam đã cho ta thấy sự khắt khe đến mức nào của kinh tế thị trường. Ngoài ra, cần xét đến mối quan hệ với khách hàng, khi ngân hàng đóng vai chủ nợ - dùng nguồn vốn huy động được đem cho các doanh nghiệp và cá nhân cần vốn vay - Thực tế cho thấy trong điều kiện kinh tế thị trường, các doanh nghiệp là khách hàng vay vốn và giao dịch với ngân hàng cũng thường gặp phải những rủi ro nhất định mà hậu quả là sự phá sản của doanh nghiệp không còn là hiện tượng riêng có của một nền kinh tế ổn định hay không ổn định, hoặc của một nước phát triển hay đang phát triển. Tất nhiên ở đây còn có yếu tố liên quan tới năng lực tài chính, năng lực điều hành, năng lực xử lý thông tin và nghiệp vụ trong quá trình sản x._.uất và kinh doanh của các chủ thể tham gia hoạt động kinh tế. Nền kinh tế là một "cơ thể sống". Sự rủi ro vỡ nợ của một hay một số khách hàng trong một ngành nào đó có thể ảnh hưởng lớn đến các ngành có liên quan. Mặt khác, trong mối quan hệ với khách hàng - khi ngân hàng đóng vai trò đi vay (nhận tiền gửi) - ngân hàng cũng cần phải tôn trọng quy luật cạnh tranh. Hiện nay người gửi tiền không đơn thuần gửi tiền nhằm bảo quản tiền mà là sinh lời. Họ đã có độ nhạy cảm rất cao với thị trường và cạnh tranh cho phép họ lựa chọn hình thức, nơi gửi tiền sao cho có lợi nhất. ảnh hưởng của nhóm khách hàng này đối với ngân hàng là rất lớn. Thậm chí gây phá sản ngân hàng . Với sự phát triển của khoa học kỹ thuật và điện tử tin học, với việc quốc tế hóa các thị trường tài chính, công nghệ ngân hàng phát triển ngày một tinh vi và hiện đại. Hơn nữa, với việc đa dạng hóa các sản phẩm và dịch vụ ngân hàng và đa năng hóa các tổ chức trung gian tài chính, thị trường tài chính tiền tệ ngày càng sôi động và cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt. Để tồn tại và phát triển, buộc lòng các ngân hàng thương mại phải tìm mọi cách để đứng vững trong cuộc cạnh tranh khốc liệt này. 3.4. Môi trường kinh tế. Có ảnh hưởng đến sức mạnh tài chính của người đi vay và thiệt hại hay thành công đối với người cho vay. Sự hưng thịnh hay suy thoái của chu kỳ kinh doanh cũng ảnh hưởng tới lợi nhuận của người vay và do vậy tạo nên niềm vui hay gây nên nỗi lo lắng cho người đi vay tiền. Trong giai đoạn kinh tế hưng thịnh, người vay hoạt động tốt do lợi nhuận thu được tương đối cao, nhưng trong giai đoạn khủng hoảng khả năng hoàn trả của người đi vay bị giảm sút. Tuỳ vào mức độ nghiêm trọng và cường độ của khủng hoảng mà việc ảnh hưởng lên các cá nhân và các doanh nghiệp sản xuất lưu thông cũng như lên khả năng thanh toán các khoản nợ của họ ở mức khác nhau: mức độ khủng hoảng càng cao, sức mua của người tiêu dùng càng giảm sút gây ra hiện tượng hàng hóa bán ra và lợi nhuận của doanh nghiệp lưu thông cũng giảm theo, đồng thời lượng tồn kho của các doanh nghiệp sản xuất cũng vì thế mà tăng lên một cách miễn cưỡng gây ảnh hưởng tới lợi nhuận của họ. Lạm phát cũng có ảnh hưởng bất lợi đến công việc kinh doanh: giá cả nguyên vật liệu, năng lượng, lao động... làm cho các cá nhân và doanh nghiệp khó khăn về tài chính dẫn đến nhu cầu tín dụng tăng. Và không giống như lợi tức, nợ không giảm trong các giai đoạn suy thoái. Nó cố định về số lượng. Nợ không thay đổi tương ứng với sức mua của đồng tiền vì vậy đã trở nên gánh nặng đối với người đi vay, kết quả là không trả được nợ. Thiểu phát cũng có bất lợi đến công việc kinh doanh: chỉ số tăng giá thấp hơn so với lãi suất cho vay làm cho các doanh nghiệp cầm chừng trong vay vốn phát triển sản xuất điều đó dẫn tới tốc độ tăng trưởng tín dụng chậm, hoạt động ngân hàng chững lại, thâm hụt cán cân vãng lai, giá trị sản xuất công nghiệp, mức lưu chuyển hàng hóa, thu ngân sách, đầu tư xây dựng cơ bản giảm, nền kinh tế trì trệ, các doanh nghiệp không có cơ hội để hoạt động sản xuất kinh doanh thu lợi nhuận, trong khi đó vẫn phải duy trì các chi phí cố định và cuối cùng là không trả được nợ. 3.5. Môi trường pháp lý. Trong kinh doanh các yếu tố pháp lý có tác động đến hoạt động kinh doanh bao gồm hệ thống luật, hệ thống các biện pháp bảo đảm cho pháp luật được thực thi và sự chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật của các chủ thể tham gia hoạt động kinh doanh và các ngành có liên quan. Hoạt động kinh doanh luôn chịu sự tác động của 3 yếu tố tạo thành một môi trường pháp lý nói trên. Các yếu tố này có quan hệ đan xen và tác động đến hoạt động kinh doanh một cách tổng thể chứ không riêng rẽ, hay nói một cách khác chúng mang tính chất đồng bộ cao. Nếu các yếu tố này tách rời nhau sẽ không tồn tại một môi trường pháp lý đồng bộ và khi đó sự tác động riêng lẻ của một hay hai yếu tố sẽ tạo nên một nội dung khác, một ảnh hưởng khác, thậm chí gây nên ách tắc hoặc thua lỗ không đáng có hoặc tạo những kẻ hở cho người khác lợi dụng. Ví dụ, nếu thiếu yếu tố chấp hành pháp luật thì hệ thống pháp luật và các văn bản hướng dẫn trở nên một hành lang pháp lý vắng vẻ thuần tuý không có tác dụng. Sự đồng bộ ở đây bao gồm: sự đồng bộ giữa hệ thống pháp luật và các văn bản dưới luật cũng như các văn bản hướng dẫn thực hiện các luật; sự đồng bộ giữa các nghành, các cấp liên quan trong quá trình thực thi pháp luật và các văn bản hướng dẫn; sự đồng bộ (hoặc phù hợp) giữa hệ thống pháp luật với những biến đổi trong đời sống kinh tế xã hội... Với những điều kiện kinh tế xã hội nhất định có một hệ thống luật pháp tương ứng. Nền kinh tế thị trường đòi hỏi các yếu tố pháp lý phải rất rõ ràng và chặt chẽ đảm bảo cho hoạt động kinh doanh - đặc biệt là hoạt động kinh doanh tiền tệ, tín dụng - đi theo một quỹ đạo nhất định nhằm hạn chế rủi ro. Trong giai đoạn đầu chuyển sang cơ chế mới, rất nhiều cơ sở kinh doanh tiền tệ ngoài hệ thống ngân hàng quốc doanh đang “ăn nên làm ra” thì hàng loạt có nguy cơ vỡ nợ, đe doạ phá sản... hẳn là có nhiều nguyên nhân, song một nguyên nhân cơ bản là do chưa chuẩn bị được môi trường pháp lý thích ứng với môi trường kinh tế. Nói cách khác, hoạt động kinh tế bị hụt hẫng do thiếu các “ luật chơi“. Nhận định trên đã cho thấy mức độ quan trọng của môi trường pháp lý đối vơí hoạt động ngân hàng. Cùng với môi trường kinh tế, môi trường pháp lý tạo nên môi trường cho vay của các ngân hàng thương mại. Môi truờng cho vay có thể ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực, có thể hạn chế hay làm tăng thêm rủi ro đối với hoạt động kinh doanh tín dụng của ngân hàng thương mại. Qua các phân tích trên, ta thấy ngân hàng - trong sự phát triển nội tại của mình, trong mối quan hệ với các ngân hàng khác, trong mối quan hệ với khách hàng cho dù đóng vai trò là chủ nợ hay là người nhận nợ - đều bị chi phối, điều tiết của cơ chế thị trường. 3.6. Nguyên nhân từ phía Ngân hàng. + Chính sách tín dụng chưa hợp lý, thể lệ cho vay có những sơ hở để khách hàng lợi dụng chiếm đoạt vốn của ngân hàng. + Cán bộ Ngân hàng chưa chấp hành đúng quy trình cho vay, như không thẩm định đầy đủ chính xác về khách hàng trước khi cho vay, cho vay không có dự án khả thi, cho vay khống, thiếu tài sản đảm bảo, cho vay vượt tỷ lệ an toàn, quyết định cho vay thiếu thông tin sát thực. + Quá chú trọng về lợi tức, đặt mong ước về lợi tức cao hơn các khoản cho vay lành mạnh, mà không quan tâm rủi ro của vốn vay. + Cán bộ tín dụng vi phạm đạo đức kinh doanh, như thông đồng với khách hàng lập hồ sơ giả để vay vốn rồi vay ké. Xâm tiêu khi giải ngân hoặc khi thu nợ... 3.7. Nguyên nhân từ khách hàng. + Người vay vốn gặp phải bất trắc trong kinh doanh, như sự biến động về thị trường tiêu thụ, thị trường cung cấp. + Người vay sử dụng vốn vay sai mục đích. + Người vay vốn lâm vào tình trạng khó khăn về tài chính do yếu tố khách quan hoặc chủ quan, dẫn đến thiếu hoặc không có khả năng thanh toán. + Người vay không thực hiện nghĩa vụ trả nợ: Chết, mất tích, hoặc cố ý chây ỳ không trả nợ... + Các tài sản đảm bảo bị mất giá, giảm giá, khó phát mại hoặc phát mại được nhưng không tương ứng mức phải thu hồi. 3.8. Các nguyên nhân khác. Ngoài các nguyên nhân trên đưa đến rủi ro cho hoạt động của ngân hàng còn có những nguyên nhân khác như: Chính sách kinh tế vĩ mô của Chính phủ, các biến động về kinh tế chính trị trên thế giới và những nguyên nhân do trộm cắp, tham nhũng... Như chúng ta đã biết, Chính phủ dùng các chính sách kinh tế vĩ mô: chính sách tài khóa, tiền tệ, thu nhập, kinh tế đối ngoại... cùng các công cụ của hệ thống chính sách này tác động vào tổng sản phẩm quốc dân, việc làm, lạm phát, tỷ giá hối đoái... nhằm giảm bớt những giao động của chu kỳ kinh doanh trong mỗi thời kỳ. Qua nghiên cứu phân tích và thực tế cho thấy rằng bất kỳ sự thay đổi nào trong chính sách kinh tế vĩ mô đều dẫn đến sự thay đổi của lãi suất, tỷ giá hối đoái, điều kiện mở rộng hay thu hẹp tín dụng... Đây là những nhân tố gây nên tính bấp bênh trong kinh doanh tiền tệ, ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động của ngân hàng thương mại. Thực ra sử dụng hệ thống chính sách này là việc kết hợp giữa bàn tay hữu hình của Chính phủ với bàn tay vô hình của thị trường. Quá trình thực hiện sự kết hợp này có lúc rất nhịp nhàng và hữu hiệu song cũng có lúc đã làm gia tăng tính bấp bênh và rủi ro vốn có của hình thức hoạt động kinh doanh tiền tệ. Thực tế đã chứng minh rằng sự thất bại của việc điều hành chính sách kinh tế vĩ mô, trong khuôn khổ định hướng phát triển kinh tế quốc gia, phụ thuộc rất nhiều vào thực tiễn điều chỉnh của từng giai đoạn đối với hoạt động của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính ngân hàng nói riêng. Vấn đề tế nhị là giải quyết trên nguyên tắc đảm bảo lợi ích cho toàn bộ nền kinh tế, song có lúc không tránh khỏi là đưa các ngân hàng thương mại vào tình trạng bị động. Và rủi ro, tổn thất đối với các ngân hàng thương mại cũng là điều không thể tránh khỏi. Trong điều kiện kinh tế mở cửa dưới nhiều hình thức và phương diện, những biến động lớn về kinh tế chính trị trên thế giới có ảnh hưởng tới các quan hệ kinh tế đối ngoại của một nước mà biểu hiện là cán cân thanh toán, tỷ giá hối đoái... biến động đưa đến sự biến động của giá cả hàng hoá xuất nhập khẩu, lãi suất, mức cầu tiền tệ... Đây là những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động của các ngân hàng thương mại, gây nên rủi ro, đe doạ sự an toàn trong hoạt động của các ngân hàng thương mại, nợ thiếu sòng phẳng. III - Các biện pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro. 1. Biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng. 1.1. Xây dựng chính sách tín dụng hợp lý. Chính sách tín dụng của một ngân hàng thương mại là một hệ thống các biện pháp nhằm mở rộng hay thu hẹp hoạt động cho vay của một ngân hàng thương mại, nhằm 3 mục tiêu chủ yếu là: lợi nhuận cao, sự an toàn và sự lành mạnh. Đây là cơ sở để quản lý cho vay, đảm bảo hiệu quả của vốn tín dụng, chính sách cho vay cần quy định cụ thể trong việc xem xét các loại khách hàng có thể cho vay, tiêu chuẩn ngân hàng có thể cho vay. Chính sách tín dụng là kim chỉ nam bảo đảm cho hoạt động tín dụng đi đúng quỹ đạo. “Cơ cấu và chất lượng tín dụng của một ngân hàng phản ánh chính sách tín dụng của ngân hàng đó". Để có hiệu quả, chính sách tín dụng phải được soạn thảo bằng văn bản, phải rõ ràng nhằm vào các mục tiêu và sách lược để đạt được mục tiêu đó: tạo ra các khoản tín dụng lớn có khả năng thu hồi, đảm bảo khả năng sinh lời trong đầu tư vốn tín dụng, phát triển tín dụng phù hợp với nhu cầu thị trường. Quy mô và hình thức cho vay cần phải được xem xét trong mối quan hệ với khả năng thanh toán của khách hàng: Thực tế cho thấy chính sách tín dụng phải được thay đổi theo từng thời kỳ nhằm phản ánh thực tế và phải luôn được duy trì như một “công cụ kiểm tra". Chính sách tín dụng của một ngân hàng cần bao quát các vấn đề sau: - Giới hạn về mặt địa lý, lĩnh vực đầu tư tín dụng. - Thể thức cho vay. - Giới hạn kỳ hạn nợ, thời hạn cho vay. - Tiêu chuẩn khách hàng và tài sản đảm bảo. - Tiêu chuẩn tài chính tối thiểu khách hàng cần phải có. - Mức cho vay một khách hàng, một nhóm khách hàng. - Thẩm quyền và thủ tục thanh lý thu hồi nợ. Tuỳ theo đặc điểm, quy mô hoạt động của từng ngân hàng để xây dựng chính sách tín dụng phù hợp. Căn cứ vào các chế độ, thể lệ về tín dụng mà ngân hàng TW đã thống nhất ban hành, các ngân hàng thương mại sẽ cụ thể hóa chính sách này trong quá trình xây dựng chính sách, thủ tục cho vay phù hợp với đặc điểm hoạt động và tính chất khách hàng của mình. 1.2. Thực hiện tốt quy trình quản lý tín dụng. Quy trình quản lý tín dụng có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động của ngân hàng, một ngân hàng mạnh là ngân hàng có quy trình quản lý tín dụng chặt chẽ và có hiệu quả. Quy trình quản lý tín dụng chia làm 4 giai đoạn: quá trình thẩm định, giám sát khách hàng vay, thu nợ và tiên đoán được rủi ro trong quá trình cho vay. 1.2.1. Quá trình thẩm định. Quá trình này được bắt đầu từ khi nhận dơn xin vay cho đến khi phát tiền vay, trong giai đoạn này chú ý đến mục tiêu kinh doanh, các nguyên tắc tín dụng đã quy định, đây là giai đoạn khởi đầu nên mức độ rủi ro phụ thuộc nhiều vào việc xem xét, lập hồ sơ vay vốn, đánh giá tài sản thế chấp, quyết định cho vay và giám sát khi cho vay. Mục tiêu kinh doanh hàng đầu của các ngân hàng thương mại là lợi nhuận. Để phòng ngừa, hạn chế rủi ro các ngân hàng thương mại đã áp dụng nhiều biện pháp cơ bản, có vị trí quan trọng số một là phải phân tích đánh giá một cách toàn diện khách hàng trước khi cho vay. Nếu khách hàngđược đánh giá tốt, có triển vọng phát triển trong tương lai vv… Thì sẽ được ngân hàng cho vay. Để có thể phân tích đánh giá khách hàng. Ngân hàng thường dựa vào các tài liệu mà ngân hàng yêu cầu khách hàng cung cấp. Ngoài ra ngân hàng còn đưa vào các thông tin khác như: việc phỏng vấn trực tiếp người vay, thông tin qua hồ sơ lưu trư về người vay tại ngân hàng. Thông tin từ các doanh nghiệp có quan hệ kinh tế với người vay, thông tin của trung tâm CIC, vv... 1.2.1.1 - Năng lực pháp lý của khách hàng. Khách hàng vay vốn phải có tư cách pháp nhân, đây là điều kiện tiên quyết để ngân hàng xem xét cho vay nhằm xác định trách nhiệm trước pháp luật về việc trả nợ vay cho ngân hàng. Đối với các tổ chức kinh tế, khi đánh giá tư cách pháp nhân ngân hàng phải dựa vào các “tiêu chuẩn" đó là: Phải có quyết định thành lập của cấp có thẩm quyền, có giấy phép kinh doanh, có tài sản riêng thuộc quyền quản lý hay sở hữu, được nhân danh tổ chức mình tham gia các hoạt động kinh tế thông qua người đại diện hợp pháp. Muốn đánh giá tư cách pháp nhân của tổ chức kinh tế, ngân hàng thường đòi hỏi khách hàng phải cung cấp cho ngân hàng các tài liệu như: quyết định thành lập doanh nghiệp, giấy phép kinh doanh do cấp có thẩm quyền cấp, quyết định bổ nhiệm giám đốc hay những tài liệu chứng minh quyền điều hành hợp pháp của lãnh đạo doanh nghiệp đối với công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân hay HTX. Đối với cá nhân phải là những người có đầy đủ năng lực pháp lý và năng lực hành vi. 1.2.1.2 - Uy tín người vay vốn. Đây là yếu tố kết sức quan trọng mà ngân hàng cần phải đánh giá. Phần lớn các thông tin về khách hàng đều đã được ngân hàng biết đến. Đối với một khách hàng cũ, những giao dịch trước đó của ngân hàng với họ sẽ đưa lại một lượng lớn thông tin về tính trung thực, các nguồn tài chính và năng lực của khách hàng, thông tin về tính nghiêm túc trong việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ, tính ổn định trong sản xuất kinh doanh. Đối với khách hàng mới, phần nhiều phụ thuộc vào sự giới thiệu, vào các doanh nghiệp khác có quan hệ với khách hàng đó, vào thông báo thực trạng từ ngân hàng khác. Trong trường hợp khách hàng và doanh nghiệp, cán bộ tín dụng của ngân hàng phải tìm hiểu và trả lời chính xác các câu hỏi: Doanh nghiệp đã tồn tại được bao lâu? Kết quả hoạt động kinh doanh trong quá khứ và hiện tại như thế nào? Doanh nghiệp đó làm ăn đứng đắn hay có biểu hiện hành vi nhất thời, lừa đảo? ... Với khách hàng thuộc liên doanh, các công ty cổ phần, công ty TNHH thì bản chất, uy tín và sự nhạy bén trong kinh doanh của các hội viên và các giám đốc là tối quan trọng. 1.2.1.3 - Phân tích tình hình tài chính của khách hàng. Khách hàng có tiềm lực tài chính mạnh là cơ sở quan trọng đảm bảo tính tự chủ trong hoạt động kinh doanh, đảm bảo khả năng cạnh tranh trên thị trường và đảm bảo khả năng hoàn trả các khoản nợ trong tương lai. Đây cũng là căn cứ quan trọng nhất để ngân hàng xem xét có cho vay hay không? Mức cho vay là bao nhiêu?... Các tiêu chuẩn mà ngân hàng có thể sử dụng để phân tích đánh giá về tình hình tài chính của khách hàng là các “Tỷ lệ tài chính". Phân tích tỷ lệ tài chính là một trong nhiều phương pháp có thể sử dụng hỗ trợ cho công tác phân tích và tìm hiểu các báo cáo tài chính của khách hàng trong quá trình đánh giá tín dụng. Tỷ lệ là một chỉ số toán học so sánh một yếu tố với một yếu tố khác. Tỷ lệ được lập bởi việc tập hợp hai số liệu hoặc nhóm số liệu, tạo ra một mối quan hệ nào đó. Sự tăng hay giảm của các con số. Tỷ lệ được tạo ra từ các số liệu mà ta thấy từ bảng tổng kết tài sản, từ các tài liệu kế toán khác, trong một vài năm (quý) sẽ cho thấy các xu hướng. Xu hướng nghịch không thuận lợi sẽ giúp cho việc tìm hiểu, kiểm tra phải được thực hiện theo phương pháp nào để rồi khuyến nghị khách hàng tiến hành các biện pháp điều chỉnh đảm bảo cho việc kinh doanh có lãi và đảm bảo khả năng trả nợ của khách hàng, việc phân tích các xu hướng của tỷ lệ tài chính chủ yếu sẽ giúp ngân hàng nắm bắt sâu sắc tình hình nội tại của khách hàng. Khi đánh giá các chỉ tiêu ngân hàng phải so sánh kỳ này với kỳ trước, so sánh số thực tế với kế hoạch để thấy được mức độ phát triển của doanh nghiệp. So với các tiêu chuẩn chung cũng như tiêu chuẩn riêng của ngành để đánh giá doanh nghiệp trong mối quan hệ với các doanh nghiệp khác, trên cơ sở đó đánh giá chính xác tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính và xu hướng phát triển của doanh nghiệp, tạo điều kiện lựa chọn chính xác đối tượng đầu tư. So sánh mức độ trung bình của các thông số giữa ngành này với ngành khác để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn giữa các ngành. Nội dung và ý nghĩa của các chỉ tiêu mà ngân hàng cần phân tích, đánh giá là: a - Các chỉ tiêu đánh giá về khả năng chuyển hóa tài sản thành tiền (tức là chuyển hóa tài sản có tính "lỏng" cao, để đảm bảo khách hàng có khả năng thanh toán): + Khách hàng có tiềm lực tài chính mạnh là cơ sở quan trọng đảm bảo tính tự chủ trong hoạt động kinh doanh. * Các chỉ tiêu đánh giá về khả năng chuyển hoá tài sản thành tiền - Tỷ lệ khách hàng khả năng thanh toán hiện thời (K1) Tài sản có lưu động K1 = ³ 1 Tài sản nợ lưu động Tỷ lệ này là một tỷ lệ thường được sử dụng niều nhất. Nó kiểm tra khả năng doanh nghiệp có thể bảo đảm khả năng thanh toán các hợp đồng ngắn hạn được không ? với giả thiết rằng nếu các khoản nợ đó có thể đến hạn phải thanh toán, tỷ lệ này ³ 1. Nhìn chung, khả năng kinh doanh lâu dài của một doanh nghiệp phụ thuộc vào khả năng nhanh chóng thanh toán các khoản nợ của doanh nghiệp đó. Việc doanh nghiệp không có khả năng thanh toán sẽ đặt tương lai của doanh nghiệp vào tình trạng nguy hiểm. Bất cứ một doanh nghiệp nào cũng phải luôn có tài sản để thanh toán cho các khoản nợ lưu động. - Tỷ lệ thanh toán nhanh.(K2) Vốn bằng tiền K2 = ³ 1/2 Giá trị các khoản nợ đến hạn Đây là một tỷ lệ bổ sung cho tỷ lệ thanh toán hiện thời (K1) như một biện pháp ổn định ngắn hạn và khả năng thanh toán của doanh nghiệp cũng như tỷ lệ K1, tỷ lệ này đánh giá khả năng thực hiện nhanh chóng các cam kết của doanh nghiệp. Điểm khác nhau, giữa K1 và K2 là tốc độ thanh toán. Đây là cách kiểm tra nghiêm ngặt hơn về khả năng thanh toán vì nó cho rằng hàng trong kho thuộc loại tài sản lưu động lưu chuyển chậm. Vì vậy trong K2 không tính đến hàng hóa có trong kho. Nếu hệ số này ³ 1, doanh nghiệp có khả năng thanh toán nhanh. Qua thực tiễn thấy rằng nếu doanh nghiệp có tỷ lệ K2 ³ 0.5 thì đều có khả năng thanh toán ngay các khoản nợ đến hạn. - Tỷ lệ thanh toán cuối cung (K3). Đây là chỉ tiêu bổ sung, làm căn cứ để cán bộ tín dụng xem xét có thể cho doanh nghiệp vay được hay không, khi khả năng tháng toán hiện thời, khả năng thanh toán nhanh chưa đủ tiêu chuẩn để xem xét cho vay. Tài sản có lưu động Tài sản thiếu chờ xử lý Chênh lệch tỷ giá và tỷ số giá chưa xử lý K3 = Nợ ngắn hạn Ngân hàng và TCKT khác + Các khoản phải trả Nếu hệ số K3 > 1: tình hình tài chính của doanh nghiệp rất xấu, toàn bộ tài sản của doanh nghiệp cũng không đủ để trả nợ. - Số ngày hàng nằm trong kho (N1) Giá trị hàng hoá nằm trong kho 360 N1 = x = (ngày) Giá trị hàng hoá thực hiện 1 Tỷ lệ này được sử dụng để tính tốc độ hàng hóa được quay vòng hàng năm. Nó tính được mức độ nhanh chóng và hiệu quả mà một doanh nghiệp có thể bán hàng và từ đó tạo khả năng thanh toán của doanh nghiệp. - Số ngày tồn đọng của hàng thành phẩm (N2) Giá trị hàng thành phẩm 360 N2 = x = (ngày) Giá trị sản lượng hàng hoá thực hiện 1 Tỷ lệ này phải được xem xét kết hợp với tỷ lệ số ngày hàng tồn đọng trong kho. Tỷ lệ này dùng để tính số ngày trung bình cần thiết để một doanh nghiệp thực hiện được việc bán hàng thành phẩm. - Số ngày thu nợ phải thu (N3) Các khoản phải thu 360 N3 = x = (ngày) Giá trị hàng hoá bán chịu 1 b - Các chỉ tiêu đánh giá về tình hình kinh doanh: - Tỷ lệ lãi gộp so với doanh thu bán hàng (L1) Lãi gộp 100 L1 = x = (%) Doanh thu tiêu thụ 1 Đây là một tỷ lệ tài chính được sử dụng khá rộng rãi. Tỷ lệ này được lập dựa trên khoản mục kinh doanh bán hàng trong báo cáo doanh thu. Nó biểu thị mức lãi trên một đồng doanh thu. Khi đánh giá ta phải xem xét tỷ lệ đó ở các thời điểm trong các quý, các năm để thấy được xu thế vận động của nó. - Tỷ lệ doanh lợi vốn tự có (L2) Lãi ròng 100 L2 = x = (%) Vốn tự có 1 Lãi ròng là lãi thu được từ hoạt động kinh doanh sau khi trừ thuế và không bao gồm lãi thu từ các hạng mục đặc biệt khác. Tỷ lệ này là thước đo của công tác quản lý để sinh lãi nhằm trả cho các chủ sở hữu của doanh nghiệp. - Tỷ lệ Doanh lợi tài sản có: (L3) Lãi ròng 100 L3 = x = (%) Tổng tài sản có (trung bình) 1 Tỷ lệ này là một thước đo rất quan trọng của khả năng sinh lời và phương pháp quản lý có hiệu quả. Nó cho phép tính con số lãi mà doanh nghiệp đang thu được từ các tài sản có được sủ dụng để tạo ra khoản lãi đó. - Tỷ lệ lãi tái đầu tư (L4) Lợi nhuận - Thuế - Lãi cổ phần + Khấu hao L4 = Tài sản có hữu hình Đẳng thức tử số là lợi nhuận thu được trong một thời gian, hiện được giữ lại cho công việc kinh doanh như làm vốn lưu động, sau khi trừ thuế và lãi cổ phần đã trả hoặc sẽ trả và cộng thêm các khoản khấu hao. Tỷ lệ này trước tiên liên quan đến khả năng trả nợ lâu dài của doanh nghiệp. Trừ khi vốn vẫn còn lại trong kinh doanh, lượng tiền của doanh nghiệp sẽ bị ảnh hưởng lớn vì khi tiền (Tiền mặt, Tiền gửi) được sử dụng để mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, đối phó với nạn lạm phát và những bất trắc khác, kết quả sẽ là nguy cơ của việc mất khả năng trả nợ sẽ tăng. - Tỷ lệ khả năng thanh toán lãi vay (L5) Lợi nhuận ròng - lãi nợ vay L5 = Lãi nợ vay Tỷ lệ đó thể hiện khả năng sử dụng tiền lãi thực hiện của khách hàng để thanh toán lãi vay. - Hệ số tài trợ (T) Nguồn vốn hiện có của Doanh nghiệp T = Tổng số nguồn vốn Doanh nghiệp đang sử dụng Hệ số này cho phép đánh giá khả năng cân đối tài chính của doanh nghiệp để đáp ứng các khoản nợ phải trả, đánh giá khả năng tự chủ về tài chính của chủ doanh nghiệp cao hay thấp. Khi phân tích ta phải so sánh: nếu hệ số kỳ này lớn hơn kỳ trước 0,5 là tốt. - Số vòng quay toàn bộ vốn: (V) Doanh thu tiêu thụ V = Tổng số vốn Chỉ tiêu này thể hiện khả năng quay vòng vốn của doanh nghiệp, qua đó mà xem xét hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp, nhất là vốn vay. Đồng thời ngân hàng phải đánh giá các yếu tố có liên quan đến bản thân doanh nghiệp: giá cả, chất lượng hàng hóa, chất lượng lao động, khả năng cạnh tranh, khả năng khai thác của doanh nghiệp trong tương lai, trang thiết bị với tính hiện đại và hiệu quả của nó? Vv ... Qua những yếu tố đó mà đánh giá lượng hàng hóa, giá thành, giá bán. Để xem doanh nghiệp thực sự có lãi không? Mức sản xuất nên ở mức nào ? Từ đó mà ngân hàng quyết định có cho vay hay không và mức cho vay là bao nhiêu? Ta có thể tóm lược phương pháp phân tích như sau: Ta gọi: Q: Là mức hoạt động tĩnh bằng đơn vị sản phẩm. V: Chi phí khả biến của một đơn vị sản phẩm. F: Tổng số các khoản phải trả cố định. P: Giá bán của một đơn vị sản phẩm. Như vậy khi xem xét các dự án (phương án hay kế hoạch) sản xuất kinh doanh ta lần lượt tính: - Tổng chi phí của doanh nghiệp: C = V.Q + F - Doanh số của doanh nghiệp: V = P.Q - Số chênh lệch trên chi phí khả biến (chênh lệch giữa doanh số và các khoản phải trả khả biến tương ứng). M = (P - V).Q - Kết qủa kinh doanh ròng của Doanh nghiệp được các định(R) R = (P - V) . Q - F Trong đó: - P - Là giá bán một đơn vị sản phẩm. - Q - Là sản lượng - V - Là chi phí khả biến của một đơn vị sản phẩm - F - Tổng số các khoản phải trả cố định. 1.2.1.4 - Đánh giá về năng lực điều hành sản xuất kinh doanh của ban lãnh đạo Doanh nghiệp. Phụ thuộc rất nhiều vào tư chất và năng lực điều hành của lãnh đạo doanh nghiệp. Khi xem xét phân tích ngân hàng cần đánh giá họ về năng lực chuyên môn, năng lực tài chính và uy tín của người lãnh đạo. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay cần khẳng định tư cách đạo đức họ như thế nào?. Có nhạy bén nắm bắt được những có hội mới không? Có thực hiện các điều chỉnh kịp thời trong kinh doanh không? Có uy tín trong nội bộ và uy tín với các bạn hàng khác không? Có kiến thức, có kinh nghiệm trong quản lý không?... 1.2.1.5 - Đánh giá về tài sản đảm bảo (cầm cố, thế chấp, bảo lãnh) Đối với tài sản đảm bảo cần đánh giá một cách chính xác giá trị, xác định hiện trạng, sự hoàn hảo của tài sản được dùng làm đảm bảo. Trong quá trình tính toán cần tính đến yếu tố rủi ro của tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh đó. Sau khi cho vay cần được theo dõi chặt chẽ các tài sản đảm bảo của đơn vị vay vốn nhất là trong các trường hợp đơn vị vay đang ở trong tình trạng sát nhập, phá sản, đang có tranh chấp... * Giám sát khách hàng vay, theo dõi rủi ro có thể xảy ra đối với các khoản vay, Giám sát khách hàng hàng vay nghĩa là giám sát quá trình sử dụng tiền vay của khách hàng. Phát hiện và xử lý kịp thời những khoản nợ có vấn đề, những khoản nợ có nhiều khả năng không thu hồi được là biện pháp hữu hiệu góp phần hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng. Công tác giám sát có thể tiến hành dưới nhiều hình thức: - Kiểm tra định kỳ theo các báo cáo quyết toán tài chính của doanh nghiệp. - Kiểm tra thường xuyên, đột xuất tại cơ sở của khách hàng. - Kiểm tra việc đánh giá tài sảnthế chấp theo giá trị và hiện vật ở thời điểm hiện tại. - Theo dõi tình hình ngành sản xuất của người vay. - Kiểm tra thông qua các thông tin thu thập được từ các nguồn khác nhau. Việc theo dõi nợ của khách hàng phải được tiến hành một cách thống nhất và có hệ thống theo nội dung đã được quy định trong chế độ, thể lệ cho vay. Việc cho vay, các khoản nợ có vấn đề cũng như kết quả kiểm tra nợ cần được thông báo kịp thời cho các cấp lãnh đạo có liên quan để có biện pháp xử lý kịp thời theo đúng chức năng, nhiệm vụ đã được phân cấp. Mục tiêu của giám sát các khoản nợ cuả khách hàng: - Tuân thủ chính sách thủ tục cho vay. - Những nhược điểm trong quy trình cho vay. - Năng lực, trình độ của cán bộ tín dụng. - Giá trị tái sản thế chấp, sự đảm bảo của hồ sơ tín dụng. - Tính hiện thực về khả năng trả nợ của khách hàng. - Hồ sơ phân tích tình hình tài chính và hoạt động sản xuất kinh doanh mới nhất của khách hàng. - Tính phù hợp của quỹ dự phòng tổn thất khi quỹ này được thành lập. * Xếp hạng rủi ro tín dụng: Xếp hạng rủi ro tín dụng của khách hàng đựoc dựa trên mức độ tín nhiệm và khả năng thực hiện nghĩa vụ trả nợ của họ. Mục đích của việc xếp hạng khách hàng theo mức độ rủi ro tín dụng để: - Cho phép ngân hàng tạo lập một ý kiến về điều kiện chung của mục cho vay. - Phát hiện nhanh hơn yếu tố tín dụng bất lợi hay chệch hướng khỏi chính sách đã đặt ra cho một khách hàng hoặc một hạng mục cụ thể. - Xác định rõ khi nào cần tăng sự giám sát hoặc tăng các hoạt động điều chỉnh cụ thể. - Tạo khả năng cho ban giám đốc của ngân hàng có được đánh giá tổng thể về chất lượng chung các hạng mục tín dụng ngân hàng. Điều này đòi hỏi việc tiến hành sếp hạng rủi ro phải chính xác và nhất quán. Thông thường, xếp hạng rủi ro tín dụng nằm trong các mức rủi ro cơ bản. Có thể mô tả các cấp độ như sau: + Rất mạnh: khả năng thực hiện nghĩa vụ tài chính của khách hànglà vững chắc, đảm bảo việc trả nợ như đã thoả thuận. Chỉ cần có sự giám sát đều đặn. + Mạnh: Khả năng thực hiện các nghĩa vụ của khách hàng là mạnh song có một số khía cạnh yếu. Chỉ cần có sự theo dõi và giám sát đều đặn. + Có thể chấp nhận được: Khả năng đáp ứng các nghĩa vụ tài chính của khách hàng là vững chắc, rủi ro tín dụng chung ở mức chấp nhận được, nhưng có một vài khía cạnh yếu kém trên thực tế về rủi ro tín dụng, cần có sự giám sát và kiểm soát. + Dưới mức chuẩn: khả năng đáp ứng các nghĩa vụ tài chính của khách hàng ở mức mạo hiểm do những yếu kém lớn trên một vài khía cạnh về rủi ro tín dụng, nhưng sự yếu kém có vẻ có khả năng được sửa chữa. Tiềm tàng rủi ro này yêu cầu mức độ giám sát và hành động cao để đảm bảo tình hình không xấu đi. + Rủi ro cao: Khách hàng đang trong tình trạng rủi ro cao kinh niên (liên tục thua lỗ trong kinh doanh, khó khăn trầm trọng về khả năng thanh toán) và ngân hàng đang cố gắng cải thiện hoặc từ bỏ mối quan hệ để tránh thua lỗ tiềm tàng. + Khó đòi lãi: Khách hàng có rủi ro cao kinh niên, việc đòi được lãi và các khoản phí không rõ ràng, có khả năng mất nợ gốc. + Khê: Khách hàng là một rủi ro cao kinh niên. Có khả năng mất nợ gốc, lãi và các khoản phí sau khi đã nỗ lực hết sức đưa ra những biện pháp có thể. Ngân hàng nên xếp hạng rủi ro tất cả các khách hàng vay. Song không được thông báo cho khách hàng cấp độ rủi ro của họ trong mọi trường hợp. Nên đánh giá lại ngay lập tức cấp độ rủi ro của khách hàng khi có bất kỳ sự xuống cấp về khả năng tín dụng trở nên rõ ràng và nếu thích hợp, phải đánh xuống cấp khách hàng. Tóm lại, quá trình xếp hạng rủi ro là rất quan trọng trong việc định vị một khoản vay trong khung cảnh ruỉ ro tín dụng. Việc này nhằm kiểm soát thận trọng rủi ro tín dụng và tối đa hóa lợi ích đối với ngân hàng từ mối quan hệ của nó với khách hàng. Việc tiến hành xếp hạng rủi ro với mọi đối tượng khách hàng một cách đồng nhất và chính xác là việc làm không thể thiếu được. Muốn làm tốt khâu này ngoài công tác kiểm tra do cán bộ tín dụng tiến hành, các ngân hàng thương mại cần bố trí một tổ chức kiểm soát trong nội bộ. Chức năng của tổ chức này phụ thuộc vào phạm vi, mức độ hoạt động cho vay. Yêu cầu của tổ chức này là: - Nhân viên của tổ chức này là người không liên quan đến hoạt động cho vay, thu nợ. - Có phạm vi và chương trình giám sát phù hợp đặc điểm hoạt động của từng ngân hàng. - Cán ._.cán bộ tín dụng chưa đồng đều, còn bất cập trong cơ chế thị trường trong khi thực hiện nhiệm vụ có một số cán nộ tín dụng thực hiện chưa đúng quy trình, chưa tuân thủ nguyên tắc, điều kiện trong thể lệ tín dụng khi cho vay chưa thẩm định sát. Các phương án kinh doanh của khách hành vay vốn. Do vậy nợ vay không trả đúng hạn, phải chuyển nợ quá hạn. Thực tế có cán bộ tín dụng cho vay đối với nhiều đối tượng, nhiều ngành mà họ không có chuyên môn. Do đó họ không hiểu rõ đặc trưng của từng ngành sản xuất, không biết các tiêu chuẩn về sản phẩm, thời gian sản xuất. Vì vậy khi thẩm định các phương án sản xuất kinh doanh họ sẽ gặp nhiều khó khăn và không tránh khỏi sai lầm dẫn đến xác định sai vòng quay vốn, sai chu kỳ hạn nợ. Ngoài ra khi cho vay đối với những Doanh nghiệp do mình phụ trách nhiều năm hoặc với những khách hành quen biết thì cán bộ tín dụng có thể xem nhẹ công tác thẩm định, không kiểm tra sát sao tình hình sử dụng vốn vay của Doanh nghiệp mà dẫn đến tình trạng nợ quá hạn. Tất cả những điều sai lầm đó sẽ dẫn đến sự rủi ro tín dụng của Ngân hàng. Như vậy tình hình nợ quá hạn của Ngân hàng công thương khu vực II Hai Bà Trưng là tương đối lớn, ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Nguyên nhân gây nên nợ quá hạn cũng rất đa dạng, phức tạp. Ngoại trừ những nguyên nhân đã phân tích ở trên còn có một số nguyên nhân nữa cũng ảnh hưởng lớn đến việc gia tăng nợ quá hạn. Đó là do chính sách quản lý của nhà nước thường xuyên thay đổi, chưa đồng bộ, luật pháp chưa quy định rõ cơ quan có thẩm quyền trong việc phát mại tài sản. Chế độ thể lệ của ngành nhìn chung còn chưa kịp diễn biến của thị trường, chưa đặt người ban hành quy chế vào vị trí người trực tiếp cho vay nên còn thiếu thực tế như các điều kiện đặt ra trong thông tư 01/TT-LB của Liên bộ Ngân hàng - Tư pháp - Tài chính và quyết định 217/QĐ của Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam nên rất khó cho hoạt động của Ngân hàng và khách hàng. Mặt khác hệ thống thông tin phòng ngừa rủi ro hoạt động còn kém hiệu quả, chậm phát hiện nên chưa giúp được cho các tổ chức tín dụng trong phòng ngừa rủi ro. Trước tình hình nợ quá hạn ngày một gia tăng, lãi chưa thu ngày càng lớn, Ngân hàng Công thương khu vực II - Hai Bà Trưng đã đưa ra nhiều biện pháp tình thế nhằm củng cố chất lượng và hiệu quả công tác tín dụng, từng bước giảm nợ quá hạn xuống mức bình quân chung của toàn hệ thống. 3. Những tồn tại rút ra từ thực tế cho vay cần tiếp tục giải quyết. + Tồn tại lớn nhất của Ngân hàng hiện nay là chưa xử lý dứt điểm được các khoản nợ quá hạn, nhất là khoản nợ khó đòi. Vấn đề này là do thực trạng của nền kinh tế trong điều kiện chuyển sang kinh tế thị trường, một số Doanh nghiệp do năng lực quản lý và tiếp cận thị trường kém nên làm ăn không có hiệu quả, không thu hồi được vốn đầu tư và dẫn đến không có khả năng trả nợ Ngân hàng. Hệ thống luật chưa ổn định và chưa sát với tình hình thực tế cho nên một số cá nhân đã lợi dụng vào những sơ hở đó để làm ăn phi pháp, bị các đối tác nước ngoài lừa gạt dẫn đến mất khả năng thanh toán. Đầu năm 1999 30/6/2000 Nợ quá hạn/ tổng dư nợ 4,5% 4% Do việc phát mại tài sản thế chấp rất khó khăn, vì vậy một số khách hàng có nợ quá hạn tỏ ra chây ỳ... Cho nên việc phát mại tài sản thế chấp thành tiền để thu nợ gốc và lãi là một cách hết sức nan giải. + Tình hình thực tế công tác tín dụng Ngân hàng diễn ra tại chi nhánh và các chi nhánh khác đã tác động đến tâm lý cán bộ tín dụng lo lắng, sợ nợ quá hạn. Mặt khác một số cán bộ tín dụng còn chưa nắm chắc thể lệ tín dụng, sự vươn lên học tập còn yếu kém, tiếp cận thị trường chưa nhanh nhạy. Công tác kinh doanh ở các phòng giao dịch hoạt động nói chung còn kém hiệu quả. + Cán bộ làm công tác kiểm tra, kiểm soát về kiến thức nghiệp vụ còn bất cập, chưa làm được nhiệm vụ một cách đầy đủ ở các nghiệp vụ trong chi nhánh. Chương III Những biện pháp để ngăn ngừa và hạn chế rủi ro –tín dụng tại Ngân hàng Công thương khu vực II – Hai Bà Trưng - những kiến nghị và đề xuất I - Những giải pháp để ngăn ngừa và hạn chế rủi ro tại Ngân hàng Công thương khu vực II – Hai Bà Trưng. Sự nghiệp đổi mới và phát triển thủ đô và đất nước ngày càng khẳng định vai trò quan trọng hệ thống Ngân hàng nói chung và hoạt động của Ngân hàng Công thương khu vực II - Hai Bà Trưng nói riêng. Trong điều kiện hiện nay nhu cầu về vốn sản xuất kinh doanh và phát triển các dịch vụ trong nền kinh tế lớn là đòi hỏi hết sức khách quan đối với ngành Ngân hàng. Để có thể tồn tại và phát triển trong cạnh tranh, thực sự phát huy vai trò của Ngân hàng thương mại quốc doanh thì đối với Ngân hàng Công thương khu vực II - Hai Bà Trưng hiện nay thì một mặt sử dụng những biện pháp ngăn ngừa và hạn chế rủi ro xẩy ra trong hoạt động tín dụng. Ngay từ những ngày đầu năm 2000, trước khi tình hình nợ quá hạn ngày một tăng thì giám đốc Ngân hàng Công thương khu vực II - Hai Bà Trưng đã có chủ trong đưa công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm soát và chấn chỉnh hoạt động Ngân hàng là nhiệm vụ trọng tâm của công tác đầu năm và cả năm 2000 nhằm thực hiện tốt chỉ thị số 14/CT-NH của Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam và các biện pháp cấp bách đảm bảo chất lượng hoạt động tín dụng. Công văn số 756/CV-NH của Ngân hàng nhà nước về kế hoạch và biện pháp chấn chỉnh hoạt động Ngân hàng và công văn của Ngân hàng công thương Việt Nam về kế hoạch triển khai và biện pháp chấn chỉnh hoạt động kinh doanh trong hệ thống Ngân hàng công thương Việt Nam sau thanh tra. Đã thành lập đoàn thanh tra, kiểm tra Ngân hàng trong quý I. Qua đối chiếu nói chung thì Ngân hàng chưa có biểu hiện gì sai sót lớn, đặc biệt là không có việc vay khách hàng để sử dụng cá nhân làm thất thoát vốn. Phần lớn sử dụng vốn vay đều đúng mục đích. Tuy nhiên trong tín dụng còn có một số thiếu sót xẩy ra do việc sản xuất kinh doanh của khách hàng gặp rủi ro, ít hiệu quả. Cán bộ tín dụng chưa thực hiện đầy đủ công tác kiểm tra, vì vậy một số khách hàng vay vốn thua lỗ, dẫn đến nợ quá hạn. Đúc rút kinh nghiệm thực tế trong những năm và việc thực hiện chế độ thể lệ tín dụng, chỉ thị, công văn của Ngân hàng cấp trên nhằm ngăn ngừa và hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng tại Ngân hàng công thương khu vực II Hai Bà Trưng. 1. Xây dựng chính sách tín dụng. Trong nền kinh tế thị trường, Ngân hàng Công thương khu vực II - Hai Bà Trưng cũng như mọi Doanh nghiệp khác để có thể tồn tại và phát triển thì phải hoạt động có hiêu quả. Song trong điều kiện thu nhập của Ngân hàng đều là từ hoạt động kinh doanh tín dụng, hiệu quảkinh doanh tín dụng của Ngân hàng phụ thuộc rất lớn vào chính sách tín dụng. Chính sách tín dụng hợp lý là chính sách sách có tính đến các yếu tố tăng trưởng của nền kinh tế của ngành, diễn biến của thị trường tài chính, dự đoán được các hiện tượng kinh tế như lạm phát, biến động giá vàng, ngoại tệ... việc mở rộng tín dụng phải luôn bám sát các mục tiêu phát triển kinh tế của thủ đô, xây dựng chính sách khách hàng phù hợp với điều kiện thị trường, của khách hàng cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến mở rộng tín dụng không hợp lý dễ gây nên hậu quả nợ quá hạn tăng lên. 2. Tìm hiểu, phân tích và nhận định về khách hàng. Trong thủ tục vay vốn, Ngân hàng đã yêu cầu khách hàng phải xuất trình các giấy tờ cần thiết có liên quan đến năng lực pháp lý như giấy phép kinh doanh, quyết định thành lập của cơ quan có thẩm quyền quyết định bổ nhiệm giám đốc, kế toán trưởng (nếu là Doanh nghiệp) hàng tháng, hàng quý khách hàng phải gửi đến các báo cáo về hoạt động sản xuất kinh doanh, kết quả tài chính, kế hoạch vay vốn. Trong những năm qua, cán bộ tín dụng của Ngân hàng công thương khu vực II - Hai Bà Trưng đã căn cứ vào các tài liệu khách hàng cung cấp cùng với kiểm tra thực tế để có được những thông tin cơ bản về khách hàng làm cơ sở phán quyết mức vốn vay cho khách hàng, cán bộ tín dụng có thể biết được mục đích sử dụng vốn vay, hiệu quả có thể do việc đầu tư của khách hàng tình hình tài chính của khách hàng và xem xét việc thế chấp cầm cố tài sản của khách hàng. Việc xem xét tìm hiểu khách hàng, cán bộ tín dụng chỉ dừng lại ở mức làm cơ sở để cấp tín dụng được hay không và sẽ đáp ứng nhu cầu cho khách hàng là bao nhiêu chứ chưa tính tới khi gặp khó khăn bất thường, hoạt động sản xuất kinh doanh bị ngưng trệ, dự án không phát huy được hiệu quả. Tình hình tài chính của Doanh nghiệp có khả năng đến đâu trong việc trả nợ Ngân hàng. Đây cũng là một trong những khe hở dễ rủi ro tín dụng xuất hiện, việc kiểm tra trong và sau khi cho vay của cán bộ tín dụng chưa được coi trọng đúng mức, việc phana tích hoạt động kinh doanh của khách hàng chưa thường xuyên, chưa đầy đủ trên các phương diện làm cho một số khoản vay trở nên kém hiệu quả. Để khắc phục những yếu điểm trên đây, trong đề án chấn chỉnh hoạt động tín dụng Ngân hàng đã nêu rõ các trường hợp nhất thiết phải thẩm định là: Các món vay và người vay ở ngoài địa bàn tư nhân, cá thể vay từ 50 triệu VNĐ trở lên tất cả các Doanh nghiệp (quốc doanh và ngoài quốc doanh) đều phải thẩm định lần đầu về các nguyên tắc trong điều kiện vay vốn. Từng món vay hoặc từng dự án đều phải được thẩm định đầy đủ về quy chế, cơ chế pháp luật liên quan, tính pháp lý của hồ sơ vay vốn, tìm khả thi của phương án và đặc biệt là khả năng thu hồi vốn vay, kể cả trường hợp rủi ro bất khả kháng phục hồi bằng nguồn nào? 3. Sử dụng các đảm bảo. Ngân hàng coi việc đảm bảo tín dụng là một yêu cầu cần thiết khách quan, là một nguyên tắc kinh doanh tín dụng, thực hiện thời gian qua ở Ngân hàng Công thương khu vực II - Hai Bà Trưng đã áp dụng các hình thức đảm bảo tín dụng chủ yếu là hình thức thế chấp cầm cố. Đối với cho vay kinh tế ngoài quốc doanh thì hầu hết các món vay đều được đảm bảo bằng các hình thức đảm bảo thế chấp hay cầm cố. Do việc sử dụng các đảm bảo tín dụng, Ngân hàng Công thương khu vực II- Hai Bà Trưng đã mở rộng được khối lượng tín dụng cấp cho khách hàng phục vụ cho vay mục tiêu phát triển kinh tế của thủ đô và khi sử dụng các hình thức này, Ngân hàng yên tâm hơn khi cấp vốn cho khách hàng, đồng thời thúc đẩy khách hàng nâng cao trách nhiệm của mình hơn nữa trong việc sử dụng vốn vay của Ngân hàng. Việc sử dụng đảm bảo tín dụng trong cơ chế quản lý theo kế hoạch hoá trước đây chỉ là hình thức Ngân hàng thường xuyên xem xét đến các yếu tố vật tư đảm bảo trước lúc cho vay cũng như sau khi cho vay, nhưng sự đảm bảo này chỉ được tính toán trên giấy tờ. Thực chất nó chỉ giúp cho Ngân hàng đánh giá một phần khả năng tài chính cho Doanh nghiệp. Còn về mặt pháp lý, Ngân hàng không có quyền hạn nào đối với tài sản đảm bảo vốn vay. Trong cơ chế thị trường, vấn đề cho vay có tài sản đảm bảo được đặt ra một cách nghiêm túc giữa khách hàng và Ngân hàng, họ có thể lựa chọn hình thức sử dụng đảm bảo sao cho thuận tiện và có lợi cho cả hai bên và nhờ vậy nó tạo điều kiện cho việc thu nợ của Ngân hàng được thực hiện tốt hơn. Tuy nhiên việc thực hiện các đảm bảo tín dụng tại Ngân hàng công thương khu vực II - Hai Bà Trưng còn bộc lộ những thiếu sót làm cho việc đảm bảo vốn kinh doanh của Ngân hàng gặp không ít khó khăn. Việc đánh giá chất lượng và giá trị tài sản làm đảm bảo gặp khó khăn và nhiều khi chưa chính xác vì các tài sản đảm bảo rất đa dạng và nhiều loại, nhận thức khác nhau, nó có nhiều yếu tố kỹ thuật mà Ngân hàng còn thiếu kinh nghiệm để đánh giá chính xác. Thế chấp những tài sản thường khó phát mại, việc phát mại tài sản khi khách hàng kinh doanh thua lỗ thường rất khó khăn không trả được nợ thì Ngân hàng cũng chưa có biện pháp hữu hiệu để thu hồi vốn. Một mặt do khách quan là giá trị tài sản thế chấp chủ yếu là đất đai, nhà cửa mà thị trường trong thời gian qua lại xuống giá liên tục và rất khó bán để thu hồi nợ. Mặt khác,việc phát mại tài sản không đơn giản như nếp nghĩ trước đây của cán bộ tín dụng vì nó liên quan đến nhiều cơ quan chức năng mà ngay các điều trong bộ luật dân sự, trong thông tư 01/TT-LB và quyết định 217/QĐ-NH1 ngày 17/8/1996 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam cũng chưa giải quyết thoả đáng được. 4. Phân tán rủi ro. Mục tiêu chủ yếu của Ngân hàng khi thực hiện giải pháp này là tránh tập trung vốn quá lớn cho một khách hàng. Hạn chế tác dụng của rủi ro đến hoạt động kinh doanh nói chung, kinh doanh tín dụng nói riêng. Trong quá trình cho vay, Ngân hàng Công thương khu vực II - Hai Bà Trưng đã tôn trọng và chấp hành đầy đủ quy định về mức vốn cho vay ghi cụ thể trong pháp lệnh Ngân hàng. Trong trường hợp sử dụng đảm bảo tín dụng, mức vốn vay không quá 70% giá trị tài sản thế chấp, cầm cố. Thực tế trong những năm qua Ngân hàng Công thương khu vực II - Hai Bà Trưng đã mở rộng phạm vi hoạt động và nhờ đó mà đa dạng hoá các hoạt động của Ngân hàng. Bên cạnh các biện pháp trên, Ngân hàng Công thương khu vực II - Hai Bà Trưng cũng rất chú trọng trong việc thực hiện dự trữ với mức độ thích hợp và đã đảm bảo được khả năng thanh toán, chi trả cho mọi khách hàng khi họ yêu cầu. II - Những kiến nghị và đề xuất tại Ngân hàng công thương khu vực II - Hai Bà Trưng. 1. Đối với nhà nước, chính phủ và cơ quan bộ ngành. Hoạt động kinh doanh tín dụng Ngân hàng là một dạng kinh doanh đặc biệt mang tính tổng hợp, gắn liền với các điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội của đất nước. Do đó, việc tạo lập môi trường kinh tế, pháp lý đầy đủ và đồng bộ hoạt động kinh doanh Ngân hàng có ý nghĩa rất to lớn trong việc thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước. Thực tế trong thời gian qua do cơ chế chính sách thay đổi thường xuyên (chính sách xuất nhập khẩu, chính sách về đất đai...) làm cho môi trường kinh doanh không ổn định, ảnh hưởng đến chiến lược kinh doanh của các Doanh nghiệp, làm đảo lộn chính sách tín dụng của các Ngân hàng thương mại. Nổi cộm nhất là việc thế chấp đất đai để vay vốn Ngân hàng. Khi ban hành nghị định 18/CP ngày 31/12/1995 của chính phủ đã ảnh hưởng nhiều đến các Ngân hàng thương mại có nhận thế chấp đất. Vì vậy để đảm bảo an toàn cho các tổ chức tín dụng, cần chỉnh sửa nghị định 18/CP quy định chi tiết, thi hành pháp lệnh về quyền và nghĩa vụ của các tổ chức trong nước được giao đất, thuê đất. Môi trường pháp lý cho kinh doanh tiền tệ, tín dụng Ngân hàng chưa đầy đủ, đồng bộ. Nhà nước chưa có luật về sở hữu, chưa có cơ quan nào chịu trách nhiệm cấp chứng thư sở hữu tài sản và quản lý quá trình dịch chuyển sở hữu tài sản. Nhưng điều kiện cho vay đặt ra là việc thế chấp tài sản phải có đầy đủ giấy tờ pháp lý. Pháp lệnh kế toán thống kê hiệu lực bắt buộc các Doanh nghiệp thực hiện chế độ hạch toán thống kê kịp thời, chính xác. Trong điều kiện hiện nay, nếu các Ngân hàng thương mại không chịu thực hiện một trong các điều kiện cho vay sẽ bị xử phạt hành chính theo nghị định 18/CP ngày 24/6/1996 của Chính phủ. Vì vậy để tạo điều kiện cho Ngân hàng hoạt động theo đúng pháp luật và có hiệu quả, ngăn ngừa và hạn chế rủi ro trong kinh doanh tín dụng, đề nghị nhà nước sớm hoàn thiện và ban hành các đạo luật về xử lý phát mại tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh, xử lý công việc của các Doanh nghiệp thua lỗ, phá sản giải thể, đồng thời tăng cường biện pháp quản lý nhà nước đối với các Doanh nghiệp, quy định chặt chẽ các biện pháp kinh tế hành chính buộc Doanh nghiệp chấp hành đúng pháp lệnh kế toán thống kê, chế độ kiểm toán bắt buộc. Cần có biện pháp củng cố các doanh nghiệp quốc doanh bằng các biện pháp kinh tế vĩ mô, đó là các chính sách về đầu tư và việc cấp đủ vốn cần thiết phục vụ cho kinh doanh. Bởi vì hiện nay hầu hết các doanh nghiệp quốc doanh có rất ít vốn để SXKD, trong khi đó nhu cầu vốn lại quá lớn vượt quá khả năng tài chính của mình, vốn vay Ngân hàng là nguồn vốn chủ yếu tại các doanh nghiệp này. Đây là áp lực rất khó khăn cho Ngân hàng trong việc đầu tư vốn. Triển khai bộ luật dân sự về nội dung thế chấp tài sản thì liên bộ Ngân hàng, tài chính, tư pháp đã ra được thống tư liên bộ số 01/TTLB ngày 3/7/1996, nhưng hiện nay chỉ có Ngân hàng nhà nước ban hành quyết định 217/QĐ-Ngân hàng hướng dẫn cụ thể nên thực tế tại địa phương rất khó triển khai và do còn một số nội dung chưa phù hợp dẫn đến việc thực hiện tại Ngân hàng cơ sở có lúc còn vi phạm. Vậy đề nghị các bộ chỉnh sửa bổ sung nội dung thông tư 01/TTLB cho phù hợp với thực tế và có hướng dẫn cụ thể cho các ngành có liên quan bảo vệ quyền lợi hợp pháp của Ngân hàng trong việc xử lý thu hồi nợ. Nhà nước cần quy định rõ chức năng của các cơ quan có thẩm quyền về việc thành lập các cơ quan bảo hiểm, giao dịch bảo đảm...để đảm bảo xử lý một cách nhanh chóng, kịp thời trong việc thanh lý và phát mại tài sản để thu hồi nợ. Đề nghị bộ tài chính cho Ngân hàng thương mại được lập quỹ rủi ro trước khi nộp thuế để bù đắp các tổn thất trong kinh doanh hoặc cho phép các Ngân hàng thương mại được đánh giá lại chất lượng tín dụng, có nghĩa là tự bù đắp lỗ lãi trong kinh doanh trước khi nộp các khoản ngân sách để được thực sự có vai trò tự chủ tài chính. Bấy lâu nay, Ngân hàng thương mại không được quyền xử lý các khoản nợ kinh doanh tổn thất. Các nghiệp vụ kinh doanh có lãi vẫn tích đọng từ năm này qua năm khác càng ngày càng lớn hơn, phản ánh tình hình tài chính trên bản cân đối Ngân hàng thiếu lành mạnh. 2. Đối với Ngân hàng nhà nước. Thực trạng hoạt động hiện nay của Ngân hàng, do điều kiện thông tin chưa kịp thời, chưa đầy đủ và các biện pháp ngăn chặn rủi ro còn bị hạn chế. Nên chăng cần nghiên cứu loại bỏ quy định một khách hàng được vay vốn tại nhiều tổ chức tín dụng (thể lệ tín dụng ngắn hạn). Trường hợp nếu cần vẫn cho phép một khách hàng được vay vốn tại nhiều tổ chức tín dụng thì cần kiện toàn tổ chức và hoạt động của hệ thống thông tin tín dụng (CIC). Đi đôi với việc hoàn thiện quy chế tham gia cung cấp số liệu của các tổ chức tín dụng, đảm bảo kịp thời, chính xác và tin cậy. Coi đây quyền lợi và nghĩa vụ của các tổ chức tín dụng. Khi các tổ chức tín dụng cho vay khách hàng khác địa bàn thì bắt buộc phải sử dụng thông tin của trung tâm thông tin tín dụng cung cấp. Ngân hàng nhà nước cần rà soát các văn bản chồng chéo, thiếu đồng bộ, không còn phù hợp với thực tế. Đồng thời nghiên cứu để tiến tới có thể trình nhà nước ban hàng thông tư hướng dẫn để nâng cao hiệu lực văn bản trong ngành và các cấp, nhằm đảm bảo an toàn cho các tổ chức tín dụng. Ngân hàng nhà nước cần kiến nghị chính phủ quy định rõ trách nhiệm hành chính, kinh tế, pháp lý của khách hàng trong quan hệ vay trả. Khẳng định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ của người vay phải trả nợ đầy đủ các gốc lẫn lãi. Bảo vệ lợi ích và quyền lợi của người cho vay. Ngân hàng nhà nước cần tạo điều kiện thuận lợi cho các Ngân hàng thương mại ngày càng được hoạt động theo cơ chế thị trường, thực sự độc lập tự chủ trong kinh doanh. Có như vậy các Ngân hàng thương mại mới thực sự chủ động trong phòng ngừa rủi ro có thể xẩy ra. Ngân hàng nhà nước cần tăng cường công tác thanh tra kiểm soát với chất lượng cao, đưa ra những kiến nghị có sức thuyết phục giữa phòng ngừa và xử lý rủi ro. Tăng cường và nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ làm công tác thanh tra, nhằm giúp các NHTM xử lý kịp thời những tồn tại trong quá trình kinh doanh, tránh những sai sót trong việc chấp hành chế độ, quy chế về kinh doanh tiền tệ. Lấy phòng ngừa làm chính yếu giống như phòng cháy hơn chữa cháy. Phải coi trọng tổ chức hoạt động thanh tra, kiểm soát trong nội bộ làm khâu hoạt động thường xuyên giúp cho Ngân hàng khắc phục được những thiếu sót kịp thời. Quản lý chặt chẽ về mặt nhà nước đối với các Ngân hàng thương mại trên tất cả các công cụ sẵn có của mình như lãi suất, hạn mức tín dụng. 3. Đối với các Ngân hàng thương mại. Trong nền kinh tế, các Ngân hàng thương mại thực hiện đa dạng hoá kết hợp với chuyên môn và duy trì quan hệ khách hàng lâu dài trên cơ sở đã qua dàng lọc, lựa chọn. Việc lựa chọn khách hàng phải chính xác, phải dựa trên cơ sở tìm hiểu, phân tích hoạt động và đánh giá toàn diện về khách hàng. Mỗi lần cho vay vốn phải xác định tính khả thi của dự án, khả năng thu hồi vốn cho vay, kể cả trong trường hợp rủi ro bất khả kháng thì thu hồi vốn bằng nguồn vốn nào. Các Ngân hàng thương mại hoạt động trong cơ chế thị trường có sự quản lý nhà nước. Vì vậy, để có thể nâng cao chất lượng tín dụng đồng nghĩa với việc giảm tối đa trường hợp rủi ro xẩy ra. Trong giai đoạn hiện nay, đòi hỏi các Ngân hàng thương mại phải thực hiện nghiêm túc chỉ thị số 14/CT-Ngân hàng của Thống đốc Ngân hàng nhà nước về các biện pháp cấp bách để đảm bảo chất lượng tín dụng. Công văn số 756/CV-NH3 của Ngân hàng nhà nước về việc chấn chỉnh hoạt động Ngân hàng. Ngày nay hệ thống pháp luật nước ta ngày càng được hoàn thiện. Vì vậy trong tín dụng Ngân hàng, nếu chỉ căn cứ vào các định chế của ngành ban hành để thực hiện thì chưa đầy đủ. Trong thực tế, thời gian qua nợ quá hạn tăng, lãi treo dâng cao, khả năng dẫn đến rủi ro vẫn thường xẩy ra là do nguyên nhân khi thẩm định dự án, vốn vay chưa xác lập các yếu tố pháp luật liên quan. Nên khó giải toả hàng hoá, tài sản thế chấp để thu hồi vốn. Để khắc phục phần nào khuyết điểm này, thì trong công tác đào tạo ngoài kiến thức chuyên môn, ta cần phải có biện pháp nâng cao kiến thức về pháp luật cho cán bộ Ngân hàng nói chung và cán bộ tín dụng nói riêng. Mặt khác, trình độ cán bộ tín dụng hiện nay còn chưa đáp ứng kịp nhu cầu phát triển của Ngân hàng trong hiện tại và tương lai. Kinh doanh trong cơ chế thị trường, đòi hỏi cán bộ tín dụng không chỉ giỏi về chuyên môn, mà còn phải có sự thông hiểu về toàn diện và phải có đạo đức nghề nghiệp. Do đó, Ngân hàng cần có chương trình đào tạo lại cán bộ, đồng thời bản thân mỗi người phải có ý thức tự trao dồi kiến thức để nâng cao trình độ, rèn luyện tu dưỡng phẩm chất đạo đức. Đồng thời các Ngân hàng phải lựa chọn, sắp xếp, bố trí cán bộ tín dụng phù hợp với khả năng, trình độ quản lý của từng người để họ có thể phát huy được hiệu quả. Bên cạnh đó, cần tăng cường hơn nữa hoạt động kiểm soát nội bộ, thực hiện thường xuyên giám sát, kiểm tra thực hiện các quy chế và quy trình hoạt động tín dụng, để sớm phát hiện và có biện pháp kịp thời. Để phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, Ngân hàng cần mở rộng quan hệ tín dụng với mọi thành phần kinh tế, dẫn đến khối lượng hồ sơ rất lớn. Do vậy Ngân hàng cần phải nhanh chóng đưa chương trình quản lý hồ sơ vay vốn của khách hàng vào lưu trữ, xử lý trên hệ thống mạng vi tính. Có như vậy, mới bảo quản và cung cấp kịp thời, đầy đủ các thông tin cần thiết giúp cho các cán bộ tín dụng trong việc kiểm tra đánh giá chính xác khách hàng, để có quyết định cho vay đúng. 4. Đối với Ngân hàng công thương khu vực II - Hai Bà Trưng. * Về bộ máy tổ chức: Để phát huy khả năng về trình độ chuyên môn của từng cán bộ công nhân viên của Ngân hàng thì Ngân hàng phải có chương trình thẩm tra nghiệp vụ chuyên môn cùng với năng lực sẵn có khác nhau của mỗi người để có một tổ chức bộ máy tốt. Ngoài ra có chương trình hỗ trợ khuyến khích cán bộ học tập thường xuyên để nâng cao tay nghề, nghiệp vụ, nhất là cán bộ tín dụng. Cải tiến công tác bình xét thi đua khen thưởng một cách hợp lý và chính xác. Có chính sách cụ thể để gắn trách nhiệm và quyền lợi của cán bộ với kết quả công tác. Động viên và phát huy sức mạnh tổng hợp của tổ chức Đảng, Công đoàn và Đoàn thanh niên trong việc giáo dục bồi dưỡng tư tưởng đạo đức cách mạng và quan tâm đến cán bộ công nhân viên về cả tinh thần và vật chất. Từ đó nâng cao tình đoàn kết từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài, đồng thời đòi hỏi mọi người phải có trách nhiệm và nghĩa vụ đóng góp sức mình một cách tích cực đầy đủ trách nhiệm vào sự nghiệp chung của ngành, của chi nhánh. Góp phần nâng cao uy tín đối với khách hàng trong nước cũng như phần nâng cao uy tín đối với khách hàng trong nước cũng như ngoài nước của Ngân hàng công thương Việt Nam. * Tiếp tục thực hiện tốt nội dung chỉ đạo công tác chấn chỉnh hoạt động Ngân hàng nhằm giải quyết nhanh dứt điểm những tồn tại trong công tác tín dụng. Phát huy vai trò hoạt động có hiệu quả của hội đồng tín dụng. Đề ra các biện pháp cụ thể cho từng món vay, những vướng mắc trong quá trình thực hiện phải được bàn bạc kỹ để tìm hướng khắc phục. Kiên quyết giảm được nợ quá hạn khó đòi, không để nợ quá hạn khó đòi phát sinh tăng lên. Chủ động tích cực lựa chọn, tìm kiếm khách hàng, những dự án có hiệu quả đủ điều kiện cho vay để đầu tư tăng dư nợ tín dụng một cách chắc chắn. * Thường xuyên chú trọng công tác kiểm tra, kiểm soát nhằm phát hiện kịp thời những sai sót của mặt nghiệp vụ, đảm bảo an toàn tài sản, tránh rủi ro trong công tác tín dụng. * Nên chăng cho cán bộ tín dụng học hỏi, nghiên cứu thêm về chiều sâu của công tác thẩm tra, thẩm định các dự án của các lĩnh vực. Để thẩm định tốt cán bộ tín dụng phải hiểu tương đối về lĩnh vực đó, về kỹ thuật và công nghệ của từng dự án. kết luận Trong những năm qua, với việc thực hiện chính sách - đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng và Nhà nước, nhờ đó nước ta bước đầu có sự phát triển khởi sắc và đã đạt đợc một số thành tựu nhất định trên mọi lĩnh vực đời sống - kinh tế - chính trị - xã hội. Để phù hợp với nhu cầu đổi mới, phát triển đất nước, toàn bộ hệ thống Ngân hàng nước ta nói chung và các Ngân hàng thương mại nói riêng cần phải có sự đổi mới trong công tác tổ chức, quản lý và hoạt động kinh doanh. Thực tiễn đã cho thấy rằng, muốn vươn lên để khẳng định vai trò vị trí của mình trong hệ thống Ngân hàng thương mại quốc doanh, các Ngân hàng thương mại đã và đang phấn đấu vượt những khó khăn, thử thách trước sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Như chúng ta đã biết sự ra đời, tồn tại và phát triển của Ngân hàng luôn gắn liền với bối cảnh lịch sử, thực trạng của mỗi quốc gia nhất định. Do đó trong cơ chế thị trường, các Ngân hàng thương mại là những Doanh nghiệp đặc biệt vì tài sản trong kinh doanh của các Ngân hàng thương mại đều phụ thuộc vào khách hàng. Vì thế rủi ro của khách hàng cũng là sự rủi ro của các Ngân hàng. Bởi vậy, để có thể tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường của nền kinh tế nước ta hiện nay, các Ngân hàng thương mại cần phải có các chủ trương, biện pháp đúng đắn nhằm tránh né đề phòng và hạn chế tới mức tối đa những trường hợp rủi ro xẩy ra. Đặc biệt là rủi ro tín dụng vì các Ngân hàng thương mại hiện nay hoạt động tín dụng là chủ yếu và sự rủi ro tín dụng luôn chiếm tỷ trọng lớn trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Hơn nữa rủi ro trong kinh doanh tín dụng của Ngân hàng hết sức đa dạng, phức tạp và xuất phát tờ nhiều nguyên nhân, nó luôn là người bạn đồng hành trong kinh doanh của Ngân hàng. Vì sự rủi ro đó là một trong những nguyên nhân làm cho các Ngân hàng phải thu hẹp phạm vi hoạt động kinh doanh và thậm chí có thể dẫn đến phá sản. Nhằm hạn chế những thiệt hại do rủi ro gây ra, các nhà quản lý Ngân hàng cần quan tâm đến việc nghiên cứu, đánh giá những nguyên nhân dẫn đến rủi ro nói chung và nguyên nhân xẩy ra tín dụng nói riêng. Vì sự quan tâm đúng mức đến vấn đề này, nó thể hiện ý nghĩa thiết thực to lớn và lâu dài đối với kinh doanh Ngân hàng. Bởi lẽ trên cơ sở tìm ra số giải pháp nhằm phòng ngừa, hạn chế rủi ro đã và đang có thể xẩy ra. Có nghĩa là tạo rào cản đối với các rủi ro. Qua nội dung đã trình bày trong bản luận văn này chúng ta có thể rút ra một vài giải pháp nhằm phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong kinh doanh tín dụng Ngân hàng. Để đáp ứng nhu cầu kinh doanh tín dụng của Ngân hàng có hiệu quả kinh tế cao trong nền kinh tế thị trường hiện nay, bên cạnh việc áp dụng tổng hợp các biện pháp trong công tác quản lý nghiệp vụ Ngân hàng, đồng thời cần phải áp dụng linh hoạt các giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro. Vì đó là một trong những cách tốt nhất nhằm hạn chế rủi ro trong kinh doanh tín dụng của Ngân hàng thương mại. Tuy nhiên khi đề cập đến sự rủi ro trong kinh doanh tín dụng của Ngân hàng nói chung và các Ngân hàng thương mại nói riêng thì trong nội dung của bản luận văn này tôi đã trình bày những chỉ mới đề cập đến một vài khía cạnh của toàn cảnh rủi ro trong ngành Ngân hàng. Nhưng mong rằng với những giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong kinh doanh tín dụng của Ngân hàng thương mại đã được đề cập trong bản luận văn này, tôi tin tưởng rằng ở vào một hoàn cảnh nhất định trong thực tế hiện nay, có thể góp một phần không nhỏ trong việc hoàn thiện những giải pháp nhằm giúp cho các Ngân hàng thương mại có thể tham khảo và nghiên cứu áp dụng vào công việc kinh doanh của Ngân hàng. Vì vậy việc áp dụng các biện pháp nhằm phòng ngừa và hạn chế rủi ro xây ra, là một trong những tiền đề giúp cho các Ngân hàng đạt hiệu quả kt cao trong kinh doanh. Một mặt tạo điều kiện cho các Ngân hàng thu hút nhiều khách hàng, tăng trưởng số lượng tín dụng, góp phần tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá Thủ đô và Đất nước. Mặt khác, đạt được mục tiêu kinh doanh tín dụng của Ngân hàng đã đặt ra và tiến tới từng bước cải thiện đời sống cán bộ, công nhân viên trong ngành. Tuy nhiên, do thời gian quá eo hẹp, nguồn tư liệu tham khảo, nghiên cứu nhằm phục vụ cho đề tài không nhiều, vả lại với tôi cũng là bước đầu làm công tác nghiên cứu khoa học, bản thân còn hạn chế kiến thức, nhận thức, với kinh nghiệm trong việc phân tích, xử lý dữ liệu cũng như nội dung và hình thức trình bày. Do vậy, trong bản luận văn này chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, tôi thiết mong được thầy, cô giáo và bạn bè đồng nghiệp đóng góp ý kiến để bản luận văn được hoàn chỉnh hơn. Nhân đây, tôi xin chân thành được bày tỏ lòng biết ơn vô hạn đến thầy giáo hướng dẫn Tô Ngọc Hưng, đến Quý cơ quan Ngân hàng công thương khu vực II - Hai Bà Trưng đã giúp đỡ tôi hoàn thành bản luận văn này. Tài liệu tham khảo 1- Ngân hàng thương mại và xí nghiệp trong nền kinh tế thị trường. 2- Những vấn đề cơ bản về Ngân hàng trong nền kinh tế thị trường. 3- Luật Ngân hàng Nhà nước và luật các tổ chức tín dụng. 4- Văn kiện đại hội Đảng cộng sản Việt nam lần thứ VI, VII, VIII. 5- Tạp chí thông tin Ngân hàng 98, 99 và sáu tháng đầu năm 2000. 6- Thông tin của Ngân hàng Công thương Việt nam. 7- Hệ thống các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ của Ngân hàng nhà nước và Ngân hàng Công thương Việt nam. 8- Báo cáo tổng kết của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Khu vực II Hai Bà Trưng 1998, 1999 và 6 tháng đầu năm 2000. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28201.doc
Tài liệu liên quan