Tín dụng trung, dài hạn ở Ngân hàng đầu tư và phát triển (BIDV) Thanh Hoá - Thực trạng và giải pháp

Lời nói đầu Sự đổi mới hoạt động đầu tư và nâng cao hiệu quả của hoạt động này trong thời kỳ đất nước ta đang tiến hành sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hóa đất nước có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, vừa là yêu cầu thực tế khách quan, vừa mang tính cấp bách đảm bảo cho nền kinh tế nước ta phát triển. Trong chiến lược phát triển kinh tế, Đảng ta đã chỉ rõ “Chính sách tài chính quốc gia hướng vào lĩnh vực tạo vốn, sử dụng vốn có hiệu quả trong toàn xã hội, tăng nhanh sản phẩm xã hội và thu nhập

doc70 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1177 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tín dụng trung, dài hạn ở Ngân hàng đầu tư và phát triển (BIDV) Thanh Hoá - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quốc dân...” Thực hiện chủ trương đó và nhằm đổi mới cơ chế quản lý trong lĩnh vực đầu tư, năm 1989 Chính phủ đã có chủ trương về xoá bỏ bao cấp trong đầu tư xây dựng cơ bản, tất cả những dự án sản xuất kinh doanh có khả năng thu hồi vốn trực tiếp đều phải vay vốn tín dụng để đầu tư Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã được Nhà nước giao cho thực hiện việc cho vay các công trình xây dựng cơ bản theo kế hoạch Nhà nước (từ năm 1995 đến nay việc cho vay đầu tư phát triển theo kế hoạch Nhà nước còn có thêm Tổng cục đầu tư và Phát triển nay là Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia và các Ngân hàng thương mại khác thực hiện). Thực hiện hoạt động tín dụng đầu tư đối với các dự án là một trong những mục tiêu quan trọng hàng đầu trong định hướng hoạt động của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển nói chung, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá nói riêng. Trên cơ sở Nghị định của Chính phủ và thể lệ tín dụng trung và dài hạn của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển chủ trương cho các doanh nghiệp trong và ngoài quốc doanh vay vốn tín dụng trung, dài hạn để đầu tư các dự án trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh, dịch vụ theo định hướng phát triển kinh tế của Đảng, Nhà nước, địa phương trong từng thời kỳ. Từ 1995, ngoài các dự án được giao trong kế hoạch, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển còn chủ động huy động vốn dài hạn và tìm các dự án có hiệu quả để đầu tư. Với chức năng nhiệm vụ được giao, trong những năm qua, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá đã và đang tích cực, chủ động, linh hoạt sử dụng các nguồn vốn khác nhau để xem xét cho vay các dự án trung, dài hạn trên nhiều lĩnh vực thuộc các ngành kinh tế khác nhau trong tỉnh với khối lượng tín dụng hàng nghìn tỷ đồng. Phần lớn các dự án được Ngân hàng Đầu tư và Phát triển cho vay, sau khi hoàn thành đi vào hoạt động đã phát huy có hiệu quả, đáp ứng một phần nhu cầu đòi hỏi của nền kinh tế trong sự nghịêp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, góp phần vào việc tăng trưởng của nền kinh tế, kiềm chế lạm phát và giải quyết việc làm cho người lao động. Song, cũng có công trình, dự án khi đi vào hoạt động kém hiệu quả, thậm chí không phát huy được hiệu quả như dự kiến, dẫn tới nợ quá hạn kéo dài ảnh hưởng tới hoạt động của Ngân hàng và nền kinh tế. Điều này sẽ dẫn đến làm chậm sự hoà nhập nền kinh tế của Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới. Vậy, làm như thế nào để hoạt động của tín dụng trung, dài hạn có hiệu quả góp phần đáp ứng được nhu cầu đỏi hỏi của nền kinh tế và mang lại thu nhập cho Ngân hàng. Qua tìm hiểu thực tế tại ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá, với sự hiểu biết của mình bản luận văn này tôi xin trình bày “Tín dụng trung, dài hạn ở Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá - Thực trạng và giải pháp” phạm vi đề tài này nghiên cứu trong thời gian từ năm 1996 đến 2000 và được bố cục theo các nội dung sau : Chương I: Đầu tư và Tín dụng trung, dài hạn của Ngân hàng đối với nền kinh tế. Chương II : Thực trạng tín dụng trung , dài hạn của NHĐầu tư và Phát triển Thanh Hoá. Chương III: Một số đề xuất, kiến nghị nhằm nâng cao chất lương tín dụng trung, dài hạn. Tuy nhiên hoàn thành bản luận văn này trong điều kiện còn có những hạn chế về lý luận cũng như thực tế. Vì vậy bài viết không tránh khỏi những thiếu sót, bản thân tôi rất mong được sự đóng góp ý kiến của các đ/c lãnh đạo chi nhánh, các Thầy, Cô và các đồng nghiệp. chương I đầu tư và tín dụng trung, dài hạn của Ngân hàng đối với nền kinh tế ---------- Theo giác độ kinh tế: Đầu tư là hoạt động sử dụng tiền vốn và tài nguyên trong một thời gian tương đối dài nhằm mục đích thu về lợi nhuận và các lợi ích kinh tế xã hội khác. Đầu tư có hai dạng: Đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp, ở đây ta nghiên cứu đầu tư gián tiếp tức là đầu tư bằng phương thức tín dụng. Đầu tư gián tiếp là đầu tư trong đó người bỏ vốn không trực tiếp tham gia quản lý, điều hành quá trình thực hiện và phân phối kết quả đầu tư. I/ Vai trò, đặc trưng của Đầu tư 1- Vai trò của đầu tư : - Đầu tư cơ bản là nhân tố quan trọng, nó quyết định trình độ phát triển của mỗi nước. Khi đầu tư đúng hướng, có hiệu quả sẽ làm tăng sản phẩm xã hội, thu nhập quốc dân, tăng trưởng nền kinh tế. Đầu tư có tác dụng cải biến cơ cấu kinh tế, nó tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý, khai thác tiềm năng thế mạnh của các thành phần kinh tế và của từng địa phương, từng vùng. Thông qua việc đầu tư để xây dựng mới rồi mở rộng qui mô sản xuất, công suất, ứng dụng, công nghệ mới để không ngừng phát triển, nâng cao TSCĐ. Tạo điều kiện căn bản để có thể tăng được GDP trong thời kỳ sau. Do đó đầu tư ban đầu cho hiện tại là quyết định cho việc phát triển ở tương lai. - Đầu tư là công cụ để Nhà nước điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo ngành. Cơ cấu kinh tế theo ngành là tỷ trọng GDP của mỗi ngành sản xuất xã hội trong tổng số GDP toàn quốc. Gồm 3 lĩnh vực chính: + Ngành công nghiệp + Ngành nông nghiệp + Ngành dịch vụ Năng suất lao động trong ngành công nghiệp và dịch vụ thường cao hơn nhiều so với ngành nông nghiệp. Do đó nếu tỷ trọng của ngành nông nghiệp chiếm đa số, phần lớn trong nền kinh tế quốc dân thì GDP sẽ tăng chậm, dẫn đến tình trạng lạc hậu so với các ngành khác. Vì vậy điều chỉnh cơ cấu kinh tế hiện nay là giảm tỷ trọng nông nghiệp trong GDP nhưng số tuyệt đối vẫn phải tăng lên. Để thực hiện được điều này thì Nhà nước có thể sử dụng nhiều công cụ khác nhau như: Công cụ tài chính, chính sách thuế, chính sách tiền tệ. Lãi suất và đặc biệt là thông qua cơ cấu đầu tư cho từng ngành. - Đầu tư cơ bản tạo điều kiện mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế. Đối với mỗi quốc gia, mỗi khu vực trên thế giới có thế mạnh riêng về vốn, về tài nguyên, về lao động, khoa học kỹ thuật và công nghệ. Sự phân bố này là khồng đều. Để khai thác thế mạnh mỗi bên thì hiện nay xu hướng trên thế giới các quốc gia liên kết với nhau trong hoạt động đầu tư quốc tế, tạo nên những dự án khai thác thế mạnh của mỗi bên. Qua đó các nước giàu có được tài nguyên để sử dụng, có nơi sử dụng vốn đầu tư với khả năng sinh lợi cao hơn. Có thể bán hay chuyển giao công nghệ kỹ thuật, có thị trường tiêu thụ sản phẩm rộng lớn. Đối với những nước nghèo, chậm phát triển thì khai thác được tài nguyên của mình để phát triển kinh tế tạo ra được nhiều việc làm. học tập được các kỹ thuật, công nghệ tiên tiến và kinh nghiệm quản lý theo cơ chế thị trường... Đối với nước ta là một trong số các nước chậm phát triển trên thế giới, sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, cơ sở hạ tầng yếu kém, trình độ sản xuất, quản lý còn lạc hậu, cơ cấu kinh tế chưa hợp lý... để tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vai trò của đầu tư có vị trí rất quan trọng. Nó tạo nên sự phát triển của đất nước, tạo được việc làm cho người lao động, tăng thu nhập quốc dân v.v... Qua đầu tư giúp cho các doanh nghiệp có trách nhiệm hơn trong sản xuất kinh doanh, từng bước nâng cao trình độ quản lý, tiếp thu công nghệ, khoa học kỹ thuật tiên tiến và phải tìm mọi biện pháp xây dựng phương án kinh doanh có hiệu quả. Phải tìm đối tác, khách hàng và có chiến lược phát triển đúng hướng để giải quyết được 3 vấn đề căn bản của thị trường là: Sản xuất cái gì, số lượng và chất lượng sản phẩm như thế nào, và bán ở đâu? Nói tóm lại qua đầu tư các doanh nghiệp phải xác định và thực hiện các biện pháp, phương án kinh doanh có hiệu quả. 2- Đặc trưng của đầu tư: - Tính sinh lời là đặc trưng hàng đầu của mọi hoạt động đầu tư, nhất là đầu tư trong sản xuất kinh doanh. - Đầu tư diễn ra trong thời gian dài, gồm nhiều giai đoạn, nhiều bước. Do vậy nó làm cho một khối lượng đầu tư bị ứ đọng trong công trình và chưa phát huy được hiệu quả khi công trình chưa đi vào sử dụng. - Đầu tư mang tính rủi ro cao. - Đầu tư đòi hỏi khối lượng vốn rất lớn, thời gian thực hiện đầu tư lại kéo dài cho nên tiềm ẩn rất nhiều các rủi ro như: + Rủi ro do các yếu tố tự nhiên + Rủi ro do các yếu tố về kinh tế thị trường như: Lạm phát, suy thoái kinh tế, sự cạnh tranh quá mạnh trên thị trường. + Rủi ro do thanh toán quốc tế như tỷ giá đồng tiền thay đổi. Trong bài viết này tôi xin phép đi sâu vào tín dụng đầu tư của Ngân hàng. II/ Tín dụng trung, dài hạn của Ngân hàng thương mại đối với nền kih tế 1- Ngân hàng Thương mại trong nền kinh tế thị trường: Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu, thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng và cho khách hàng vay vốn để sản xuất kinh doanh. Mục đích hoạt động của Ngân hàng thương mại là để thu lợi nhuận. Từ các hoạt động Ngân hàng truyền thống đến các hoạt động Ngân hàng hiện đại, từ hoạt động chủ yếu nằm trong bảng tổng kết tài sản nội bảng đến việc mở rộng các hoạt động ra ngoài bảng tổng kết tài sản... tất cả đều diễn ra trong một môi trường cạnh tranh ngày càng sâu sắc và khốc liệt, không phải trong phạm vi từng nước, từng khu vực mà còn trải rộng ra một không gian rộng lớn hơn nhiều. Ngân hàng thương mại làm nhiệm vụ bơm vốn từ người cho vay sang người đi vay. ở đây Ngân hàng thương mại không chỉ huy động vốn phần lớn dưới hình thức ngấn hạn và cho vay ngấn hạn, mà do thị trường tiền tệ ngày càng phát triển các Ngân hàng thương mại đi vào kinh doanh tổng hợp, đa năng, làm cả nghiệp vụ huy động vốn và cho vay trung, dài hạn và làm tất cả các nghiệp vụ và dịch vụ ngân hàng. Với sự toàn cầu hoá, khu vực hoá nền kinh tế, cùng với quá trình đổi mới và mở cửa của nền kinh tế nước ta với thế giới bên ngoài đã và đang đặt ra yêu cầu thích ứng của các Ngân hàng thương mại trong quá trình hoạt động trong điều kiện hiện tại và định hướng phát triển trong tương lai, góp phần tích cực vào việc thực hiện thành công sự nghiệp CNH - HĐH đất nước. Tuy nhiên mỗi Ngân hàng đều có những định hướng chủ yếu trong hoạt động của mình. 2- Tín dụng và các vấn đề có liên quan đến hoạt động tín dụng của các Ngân hàng thương mại : Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu nó sang người sử dụng nó, sau một thời gian nhất định được quay về với người sở hữu nó với một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu (bao gồm cả gốc và lãi) Trong nền kinh tế thị trường, do yêu cầu của nền kinh tế về việc xây dựng cơ sở vật chất để phát triển nền kinh tế trong khi đó ngân sách Nhà nước không phải là vô hạn, muốn đáp ứng nhu cầu xây dựng cơ sở vật chất cho nền kinh tế phát triển nhanh, nhất thiết phải có hoạt động tín dụng để nó tập trung vốn tiền tệ nhàn rỗi để trợ giúp cho ngân sách Nhà nước. Thông qua hoạt động tín dụng góp phần kiểm tra kiểm soát nền kinh tế. Trong đó thực hiện hình thức tín dụng Ngân hàng có vị trí hết sức quan trọng, bởi vì hình thức tín dụng Ngân hàng có mối quan hệ rất rộng rãi ở trong nền kinh tế, chủ thể của nó là Ngân hàng, khách thể của nó là tất cả các thành phần kinh tế của nền kinh tế. Đồng thời đối tượng hoạt động của tín dụng Ngân hàng là tiền, vì vậy tín dụng Ngân hàng có ưu điểm đặc biệt của nó. Hiện nay tín dụng Ngân hàng là hoạt động chủ yếu của các Ngân hàng thương mại, nó tạo ra thu nhập cho Ngân hàng, cho Nhà nước, cho xã hội. Nội dung chủ yếu của hoạt động tín dụng tại các Ngân hàng thương mại bao gồm: 2.1. Qui mô tín dụng: Qui mô tín dụng của một Ngân hàng thương mại (khả năng cung cấp tín dụng) thể hiện qua tỷ trọng tín dụng trong tài sản có của Ngân hàng thương mại đó. Một tỷ trọng tín dụng cao trong tài sản có của Ngân hàng thương mại sẽ cho phép Ngân hàng thương mại thu được lợi nhuận cao, vì hiện nay tín dụng vẫn là nghiệp vụ mang lại từ 70-80% thu nhập cho các Ngân hàng thương mại Việt Nam. 2.2. Giới hạn tín dụng: Giới hạn tín dụng tức là định ra các mức độ tham gia vốn tín dụng của Ngân hàng thương mại vào một dự án nào đó, thương vụ nào đó hay vào một hoạt động kinh doanh nào đó của một doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân ở trong nền kinh tế. Giới hạn tín dụng thường lệ thuộc vào các yếu tố sau đây: khối lượng vốn mà Ngân hàng thương mại huy động được. Sự ổn định hay bất ổn định của nền kinh tế. Uy tín và tình trạng tài chính của người vay vốn. Nhu cầu vay vốn của người vay. Mức độ hạn chế hoặc khả năng giúp đỡ của Ngân hàng Trung ương. 2.3. Các loại hình tín dụng: Một Ngân hàng có thể chọn một hoặc nhiều loại hình tín dụng thích hợp, tuỳ theo khả năng về nhân lực và tính chất ổn định của nguồn vốn và tình hình của nền kinh tế, đồng thời Ngân hàng thương mại cũng cần phải nghiên cứu tình hình thực tiễn trên địa bàn để chọn một loại hình tín dụng làm mũi nhọn tài trợ chủ yếu hoặc thực hiện phân tán tín dụng trên nhiều loại tín dụng khác nhau. Hiện nay ta thấy có một số loại hình tín dụng sau: Căn cứ theo thời gian vay vốn là tín dụng ngắn hạn, tín dụng trung và dài hạn. Căn cứ theo phương thức hoàn trả là tín dụng luân chuyển, tín dụng theo món ngoài ra còn căn cứ mục đích vay như tín dụng chứng từ, tín dụng thuê mua, tín dụng tiêu dùng... 2.4. Các lĩnh vực tài trợ của tín dụng: Lĩnh vực tài trợ của tín dụng chính là việc các Ngân hàng chọn lựa và tiến hành chuyên môn hoá việc tài trợ tín dụng cho một ngành sản xuất hay một lĩnh vực chuyên môn nào đó hoặc phân tán tín dụng trên nhiều ngành, nhiều đơn vị doanh nghiệp khác nhau. Tiến hành chuyên môn hoá như vậy sẽ có lợi cho Ngân hàng trong quá trình kinh doanh vì dễ dàng nắm bắt các nhu cầu về tín dụng của lĩnh vực tài trợ, kiểm soát được rủi ro và có thể đưa ra được những sản phẩm thích ứng cả về qui mô và chất lượng phục vụ của Ngân hàng. Trên thực tế hiện nay các Ngân hàng thương mại thường tìm cách đa dạng hoá các lĩnh vực tài trợ, nhưng cũng lựa chọn một lĩnh vực tài trợ nhất định làm thế mạnh để cạnh tranh với các Ngân hàng khác, việc tài trợ có thể sử dụng hình thức tài trợ khép kín cả ngắn, trung và dài hạn. 2.5. Chọn lựa kỳ hạn tín dụng: Kỳ hạn tín dụng dài hay ngắn nó sẽ ảnh hưởng tới thanh khoản và sự rủi ro của kinh doanh tín dụng. Kỳ hạn tín dụng càng dài, mức độ rủi ro càng cao và thanh khoản càng khó khăn. Kỳ hạn tín dụng hoàn toàn phụ thuộc vào chu kỳ sản xuất, khả năng trả nợ của người vay, song chính Ngân hàng cũng phải định ra một kỳ hạn thế nào đó vừa đảm bảo lợi ích của Ngân hàng (ít rủi ro) vừa hấp dẫn người vay. Tính chất của nguồn vốn huy động được với thời gian dài hay ngắn, lãi suất cao hay thấp cũng quyết định việc chọn lựa kỳ hạn tín dụng của Ngân hàng thương mại. 2.6. Rủi ro tín dụng: Rủi ro trong tín dụng có thể do phía khách hàng đem lại, có thể do chính chủ quan của Ngân hàng hoặc có thể do thay đổi về chính sách vĩ mô. Một chính sách tín dụng đúng là một chính sách tín dụng an toàn, ít rủi ro. Sự rủi ro tín dụng có thể dẫn đến tình trạng như: lạm phát, suy thoái kinh tế... Vì vậy trong hoạt động tín dụng các Ngân hàng cần phải xây dựng các biện pháp an toàn, phòng ngừa rủi ro và thực hiện tốt qui trình công nghệ tín dụng. 2.7. Giá cả tín dụng (lãi suất): Lãi suất là tỷ lệ % theo số tiền vay, mà người vay phải tính ra để trả cho Ngân hàng cho vay. Lãi suất thường được tính theo tháng hoặc năm. Lãi suất tín dụng chịu ảnh hưởng của các yếu tố như: lãi phải trả cho người gửi, chi phí quản lý của Ngân hàng, rủi ro tín dụng, chi phí cơ hội để có thể đầu tư vào các khoản khác, sự cạnh tranh của các Ngân hàng khác, quan hệ giữa Ngân hàng với người vay. Có các loại lãi suất như lã suất cố định, lãi suất thay đổi. Việc áp dụng lãi suất nào do người vay và Ngân hàng thoả thuận theo hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước và được ký kết trong hợp đồng tín dụng. ở nước ta hiện nay theo qui định mới nhất thì: mức lãi suất cho vay do tổ chức tín dụng và khách hàng thoả thuận nhưng phải phù hợp với qui định của Ngân hàng Nhà nước về lãi suất cho vay tại thời điểm ký kết hợp đồng tín dụng. Mức lãi suất cơ bản làm cơ sở cho tổ chức tín dụng ấn định lãi suất cho vay đối với khách hàng được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố hàng tháng cộng với biên độ dương đối với từng loại cho vay của tổ chức tín dụng. 3- Tín dụng trung, dài hạn của Ngân hàng thương mạI đối với nền kinh tế: Để thực hiện chiến lược phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước, đồng thời để đổi mới cơ chế quản lý trong lĩnh vực đầu tư và XDCB, từng bước xoá bỏ bao cấp trong đầu tư, nâng cao hiệu quả đầu tư trong các dự án, công trình và hiệu quả đầu tư của toàn nền kinh tế quốc dân. Trong những năm vừa qua Chính phủ, ngành Ngân hàng và một số ngành chức năng khác đã ban hành rất nhiều các loại văn bản có liên quan tới lĩnh vực tín dụng đầu tư của các Ngân hàng thương mại, đặc biệt là Ngân hàng Đầu tư và Phát triển đối với nền kinh tế. Cho đến nay Chính phủ và ngành Ngân hàng cũng đã nhiều lần sửa đổi bổ sung hướng dẫn thực hiện cho phù hợp với tình hình thực tế. Những văn bản mới nhất hiện nay có liên quan đến lĩnh vực này là: NĐ 52/1999/NĐ-CP ngày 8/7/1999 của Chính phủ về Quy chế Quản lý đầu tư xây dựng cơ bản; Nghị định số 43/1999/NĐ-CP về tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, QĐ13/1999/QĐ-TTg ngày 4/2/1999 về công tác tín dụng đầu tư năm 1999; NĐ178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/1999 của Chính phủ về đảm bảo tiền vay của các tổ chức tín dụng; TT số 06/2000/TT-NHNN1 ngày4/4/2000 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn thực hiện NĐ số 178/1999/NĐ-CP; QĐ số 284/2000/QĐ-NHNN1 ngày 25/8/2000 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng. Song, nội dung chính và chủ yếu của các văn bản đó là: - Bên vay: là pháp nhân và cá nhân hoạt động theo pháp luật Việt Nam bao gồm: Doanh nghiệp Nhà nước, công ty cổ phần, công ty TNHH, HTX, doanh nghiệp tư nhân, xí nghiệp liên doanh vốn với nước ngoài, xí nghiệp 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam, cá thể và hộ sản xuất. - Mục đích cho vay: Cho vay vốn tín dụng trung, dài hạn để đầu tư cho các dự án xây dựng mới, mở rộng, cải tạo, khôi phục đổi mới kỹ thuật, ứng dụng khoa học kĩ thuật và công nghệ nhằm mục tiêu khai thác tiềm năng để phát triển kinh tế phù hợp với mục tiêu chính sách phát triển kinh tế xã hội và pháp luật Nhà nước và lợi nhuận. Các dự án được đầu tư phải được xác định có hiệu quả kinh tế, trực tiếp tăng sản lượng hàng hoá, tăng nộp ngân sách, tăng tích luỹ cho doanh nghiệp và thu nhập cho người lao động, hoàn trả vốn vay gốc và lãi cho Ngân hàng đúng thời gian cam kết, phải có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc người bảo lãnh thứ 3 theo qui chế của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. - Cho vay trung, dài hạn: thời hạn cho vay được xác định phù hợp với thời hạn thu hồi vốn của dự án đầu tư, khả năng trả nợ của khách hàng và tính chất nguồn vốn cho vay của tổ chức tín dụng. Thời hạn cho vay trung hạn từ 12 tháng đến 60 tháng; Thời hạn cho vay dài hạn từ trên 60 tháng trở lên nhưng không quá thời hạn hoạt động còn lại theo Quyết định thành lập hoặc Giấy phép thành lập đối với pháp nhân và không quá 15 năm đối với các dự án đầu tư phục vụ đời sống. 4- Vai trò tín dụng trung, dài hạn của Ngân hàng: Thông qua tín dụng đầu tư của Ngân hàng, trên cơ sở mục tiêu định hướng của Nhà nước, của địa phương, Ngân hàng xem xét lựa chọn những phương án có hiệu quả để đầu tư. Đầu tư tín dụng có hiệu quả nó sẽ thúc đẩy mở rộng sản xuất khai thác tiềm năng thế mạnh của doanh nghiệp, từng vùng kinh tế và của địa phương. Nó sẽ trang bị bổ sung nhiều thiết bị công nghệ mới hiện đại, kĩ thuật tiên tiến cho các doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung. Nó làm tăng thêm sản phẩm cho xã hội, tăng thu ngân sách, tăng thêm doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp và thu nhập cho người lao động, thu hút tạo công ăn việc làm cải thiện đời sống cho lực lượng lao động trong xã hội.Từ đó thúc đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Thông qua việc đầu tư tín dụng nó làm cho các doanh nghiệp nâng cao chất lượng trong hạch toán kinh tế, làm lành mạnh tài chính doanh nghiệp. Bởi vì thông qua việc đầu tư tín dụng Ngân hàng cùng với doanh nghiệp xem xét đánh giá tỷ mỷ từng yếu tố, xác định tính toán từng yếu tố chi phí để có giá thành hợp lý. Từ đó xác định nguồn trả nợ, thời gian thu hồi vốn, do vậy thông qua việc đầu tư tín dụng giúp cho các doanh nghiệp xem xét lại tình hình công nợ, phân tích các khoản phải thu, phải trả và tìm biện pháp giải quyết. Mặt khác nó còn tác động với địa phương, các ngành qua cơ cấu nguồn vốn tham gia. Tín dụng đầu tư góp phần lập lại trật tự kỷ cương trong XDCB, nó làm cho chủ các dự án, chủ công trình phải thực hiện và tuân thủ đúng trình tự XDCB, thực hiện đúng mục đích của tín dụng đầu tư, tránh tình trạng hồ sơ dự án không đầy đủ cũng được vay vốn, vốn vay sử dụng sai mục đích... đồng thời cũng thông qua đó góp phần nâng cao trình độ quản lý, trình độ KHKT của cán bộ doanh nghiệp. Tín dụng trung, dài hạn là nguồn trợ thủ đắc lực của doanh nghiệp trong việc thoả mãn các cơ hội kinh doanh. Nó linh hoạt hơn các hình thức huy động vốn dài hạn khác như: trái phiếu, cổ phiếu. Trong điều kiện của nước ta hiện nay cũng như trong thời gian tới nhu cầu về vốn trung, dài hạn cho đầu tư các công trình SXKD mới, hiện đại hoá các cơ sở sản xuất, mở rộng các ngành sản xuất... đang đòi hỏi có một nguồn vốn lớn. Nhưng cho dù các nguồn vốn cung cấp từ đâu để đáp ứng yêu cầu đó, thì việc cung cấp tín dụng thông qua hệ thống các Ngân hàng thương mại nói chung, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển nói riêng dưới hình thức cho vay trung, dài hạn là rất quan trọng. Bởi vì Ngân hàng thương mại có kinh nghiệm trong công tác quản lý, kinh doanh tiền tệ, thẩm định dự án các công trình đầu tư, nắm bắt được thị trường... Do vậy các Ngân hàng thương mại tài trợ vốn trung, dài hạn cho các doanh nghiệp vừa đảm bảo được tính hiệu quả cao trong công tác quản lý vĩ mô về mặt tốc độ, cơ cấu sản xuất, vừa đảm bảo được lợi ích các doanh nghiệp. III.Chất lượng tín dụng trung, dài hạn của ngân hàng thương mại 1- Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn của ngân hàng thương mại: Xuất phát từ chức năng nhiệm vụ của Ngân hàng thương mại cũng như vai trò của tín dụng trung, dài hạn đã trình bày ở phần trên có thể tóm tắt là: Hoạt động của ngân hàng thương mại gắn bó mật thiết với hệ thống lưu thông tiền tệ và hệ thống thanh toán trong nước, đồng thời có mối liên hệ quốc tế rộng rãi. Hoạt động của ngân hàng thương mại đa dạng, phong phú và có phạm vi rộng lớn, trong khi các tổ chức tài chính khác thường hoạt động trên một vài lĩnh vực hẹp và theo hướng chuyên sâu. Ngân hàng thương mại đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế, Ngân hàng là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế: vốn được tạo ra từ quá trình tích luỹ, tiết kiệm của mỗi cá nhân, doanh nghiệp trong nền kinh tế, vậy muốn có nhiều vốn phải tăng thu nhập quốc dân và giảm nhịp độ tiêu dùng. Để tăng thu nhập quốc dân tức là để mở rộng quy mô chiều rộng lẫn chiều sâu của sản xuất và lưu thông hàng hoá, đẩy mạnh sự phát triển của các ngành kinh tế cần thiết phải có vốn, ngược lại khi nền kinh tế càng phát triển sẽ tạo ra nhiều vốn. Ngân hàng thương mại là chủ thể đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh; nhờ có hoạt đông của hệ thống ngân hàng thương mại và đặc biệt là hoạt động tín dụng trung, dài hạn khách hàng có điều kiện hoạt động mở rộng sản xuất, cải tiến may móc công nghệ, tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả kinh tế. Để có thể đáp ứng tốt nhất các yêu cầu của thị trường, khách hàng không những cần nâng cao chất lượng lao động, củng cố và hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế, chế độ hạch toán kế toán... mà còn phải không ngừng cải tiến máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ, tìm tòi sử dụng nguyên vật liệu mới, mở rộng quy mô sản xuất một cách thích hợp. Những hoạt động này đòi hỏi một khối lượng lớn vốn đầu tư nhiều khi vượt quá khả năng vốn tự có của doanh nghiệp. Giải quyết khó khăn này, khách hàng có thể tìm đến ngân hàng để vay vốn thoả mãn nhu cầu đầu tư của mình. Chính vì những lý do trên mà phải cần thiết nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn. Để đánh giá chất lượng tín dụng trung, dài hạn có thể căn cứ vào các chỉ tiêu sau: 2- Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng Trung, dài hạn của NHTM: 2.1. Xét trên giác độ Ngân hàng: 2.1.1 về số lượng khách hàng: Sự gia tăng số lượng khách hàng qua các năm cũng là một chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng trung, dài hạn. Khi số lượng khách hàng ở Ngân hàng tăng lên liên tục và đồng đều qua các năm là một trong các dấu hiệu cho thấy thể hiện lòng tin của khách hàng với Ngân hàng vầ chất lượng công tác tín dụng nói chung và tín dụng trung, dài hạn nói riêng ở Ngân hàng được đảm bảo. 2.1.2. Doanh số cho vay và mức dư nợ: Doanh số cho vay và mức dư nợ luôn luôn tăng lên năm sau cao hơn năm trước cho thấy chất lượng tín dụng tín dụng trung, dài hạn được đảm bảo. - Tổng dư nợ trung, dài hạn so với nguồn vốn huy động so với nguồn vốn cho vay trung, dài hạn: Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ hiệu quả sử dụng của đồng vốn huy động lớn. Chỉ số này so sánh khả năng cho vay của Ngân hàng với vốn huy động. - Dư nợ hữu hiệu (có khả năng sinh lời)/ Tổng dư nợ: chỉ số này đánh giá chất lượng tín dụng. Nếu chỉ số càng cao thì chất lượng càng tốt. - Tổng dư nợ/ Tài sản có: Chỉ số này phản ánh quy mô tín dụng trong tổng tài sản có. Chỉ số này càng cao chứng tỏ chất lượng công tác tín dụng càng tốt, quy mô hoạt động kinh doanh của Ngân hàng lớn. 2.1.3 Nợ quá hạn trên tổng dư nợ: Đây là chỉ tiêu quan trọng đo lường chất lượng nghiệp vụ tín dụng trung, dài hạn, các Ngân hàng có chỉ số này thấp đã chứng minh được chất lượng tín dụng cao của mình. Thường là chỉ tiêu này được so sánh giữa số dư nợ quá hạn trung, dài hạn trên tổng dư nợ tín dụng trung, dài của Ngân hàng. Nhìn chung hiện nay chỉ tiêu này của một Ngân hàng dưới dưới mức 2% là hợp lý. 2.1.4 Chỉ tiêu về vòng quay vốn: Nếu chất lượng tín dụng tốt tức là khách hàng có khả năng trả nợ đúng hạn hoặc có thể trước thời hạn, qua đó giúp Ngân hàng có thể tăng số vòng quay vốn, đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn của Ngân hàng. 2.1.5 lợi nhuận: Khoản lợi nhuận thu về từ nghiệp vụ tín dụng trung, dài hạn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu nhập của Ngân hàng cũng là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất lượng tín dụng trung, dài hạn. Bởi vì trong nền kinh tế thị trường, các NHTM đều hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận và các khoản lợi nhuận đạt được đều cho thấy trình độ tổ chức, quản lý và chất lượng hiệu quả của nghiệp vụ tín dụng trung, dài hạn. Ngoài các chỉ tiêu trên thì việc đánh giá chất lượng tín dụng trung, dài hạn còn có thể sử dụng một số chỉ tiêu định tính như: Sự tôn trọng và chấp hành các quy chế tín dụng do NHNN và Ngân hàng cấp trên đề ra trong suốt quá trình thực hiện mối quan hệ tín dụng giữa NHTM với khách hàng của mình. 2.2. Xét trên giác độ nền kinh tế mà cụ thể là từ các khách hàng: Muốn đánh giá chất lượng của tín dụng trung, dài hạn từ phía người sử dụng vốn, thì ngoài việc phân tích tình hình tài chính khách hàng trước khi cho vay thì sau khi dự án đã được đưa vào sản xuất, sử dụng điều trước tiên cần làm là: Thực hiện phân tích tình hình kinh tế, tài chính của khách hàng. Quá trình phân tích đó ta sẽ có được các chỉ tiêu về kết quả SXKD của khách hàng như: Sự gia tăng về số lượng sản phẩm sản xuất ra, mức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường, mức lợi nhuận thu được từ sản phẩm đó, đây là tiền đề là cơ sở cho việc thu hồi vốn đầu tư nói chung và nợ vay trung, dài hạn. Các chỉ tiêu khác có liên quan để đánh giá chất lượng tín dụng trung, dài hạn đó là vốn tự có của khách hàng (như mức độ và tốc độ gia tăng vốn tự có, vòng quay của vốn tự có), vòng quay vốn tín dụng, hiệu quả sử dụng vốn... cũng như về tình hình và khả năng thanh toán của khách hàng. Nếu một khách hàng có thu nhập thường xuyên và ổn định từ dự án đầu tư bằng nguồn vốn vay trung, dài hạn của Ngân hàng chứng tỏ nguồn vốn tín dụng trung, dài hạn của Ngân hàng đã được sử dụng có hiệu quả và khoản tín dụng đó chắc chắn sẽ được hoàn trả đúng hạn cả gốc và lãi, tức là chất lượng công tác tín dụng tín dụng trung, dài của Ngân hàng được đảm bảo. Ngoài ra xét trên giác độ kinh tế thì chất lượng của công tác tín dụng trung, dài hạn còn thể hiện sử dụng vốn vay Ngân hàng của khách hàng sử dụng khoản tiền vay có đúng mục đích và đối tượng như đã đề ra khi xin vay hay không, khoản vay có vượt quá hạn mức quy định hay không. Mặt khác, chất lượng tín dụng trung, dài hạn còn được thể hiện ở việc dự án được đầu tư nó tạo ra một khối lượng công ăn việc làm cho người lao động trong xã hội, bởi vì việc đầu tư một dự án bằng nguồn vốn tín dụng trung, dài hạn có hiệu quả sẽ góp phần mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh của khách hàng đó và sẽ thu hút thêm nhiều lao động từ mọi tầng lớp trong xã hội; thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, khai thác tiềm năng thế mạnh từng vùng kinh tế góp phần phân bố lại lực lượng lao động. Đánh giá chất lượng tín dụng trung, dài hạn không chỉ xem xét đánh giá đơn thuần mà qua việc đánh giá phải kịp thời, chính xác, phân tích một cách cụ thể là các chứng cứ quan trọng để trên cơ sở đó Ngân hàng có thể đề ra và thay đổi định hướng, chiến lược của mình. Nếu công tác tín dụng trung, dài hạn trung, dài hạn đạt chất lượng cao nó sẽ đem đến những ý nghĩa kinh tế quan trọng không chỉ đối với Ngân hàng và người được cấp tín dụng mà nó còn có những tác động to lớn đến toàn bộ nền kinh tế quốc dân. 3- Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng trung, dài hạn 3.1. Sự phát triển kinh tế của một quốc gia: Hoạt động của Ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng trung, dài hạn nói riêng đạt hiệu quả cao hay thấp, rủi ro ít hay nhiều đều có quan hệ hữu cơ khăng khít tới sự phát triển kinh tế của một quốc gia. 3.2. Nhân tố luật pháp: Nhân tố luật pháp có vị trí hết sức quan trọng đối với chất lượng hoạt động Ngân hàng, mà đặc biệt là hoạt động tín dụng trung, dài hạn. Luật pháp nó tạo môi trường hành lang pháp lý cho mọi hoạt động của Ngân hàng. Nhân tố luật pháp ở đây bao gồm tính đồng bộ của hệ thống pháp luật, tính đầy đủ và thống nhất của các văn bản dưới luật đồng thời gắn liền với nó là quá trình chấp hành luật pháp và trình độ dân trí trong xã hội. 3.3. Năng lực chất lượng và hiệu quả hoạt động kinh doanh của khách hàng: Các yếu tố của khách hàng có ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng trung, dài hạn là: - Năng lực về vốn, về tài sản của khách hàng có đủ mức vốn tự có của mình để tham gia vào dự án hay không, tiếp đó là nguồn vốn chủ sở hữu tham gia và._.o quá trình SXKD của đơn vị có đủ hay không và nếu có thì ở mức độ nào. - Chất lượng hoạt động SXKD của khách hàng tốt hay xấu. - Tương lai phát triển của khách hàng ở mức độ nào; dự án, phương án SXKD của khách hàng có đủ khả năng để tồn tại và phát triển trong sự cạnh tranh quyết liệt của cơ chế thị trường được hay không. - Mức độ chuyển biến về nhận thức, quan điểm, tâm lý của lãnh đạo doanh nghiệp trong điều kiện cơ chế thị trường ở mức độ nào? Họ đã có đầy đủ ý thức vay trả chưa hay vẫn mang nặng tư tưởng bao cấp, trông chờ nguồn vốn được cấp, được vay ưu đãi. - Trình độ quản trị điều hành, uy tín của người đứng đầu của doanh nghiệp ở mức độ nào, đã đáp ứng được mực độ nào trong nền kinh tế thị trường. 3.4. Nhân tố thuộc chủ quan NHTM: 3.4.1. Chính sách tín dụng; Chính sách tín dụng của Ngân hàng phải phù hợp với đường lối phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nuức đồng thời đảm bảo kết hợp hài hoà giữa quyền lợi của khách hàng và của Ngân hàng. Đối với NHTM một chính sách tín dụng đúng đắn phải đảm bảo khả năng sinh lời của hoạt động tín dụng trên cơ sở phân tán rủi ro, tuân thủ luật pháp và đường lối chính sách của Đảng, đảm bảo công bằng xã hội. Muốn vậy, chính sách tín dụng phải được xây dựng một cách đúng đắn trên cơ sở các căn cứ khoa học. 3.4.2. Công tác tổ chức quản lý của Ngân hàng: Tổ chức quản lý của Ngân hàng cần được cụ thể hoá và xắp xếp một cách khoa học, có tính linh hoạt trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc tín dụng đã được quy định cả về huy động vốn cũng như cho vay và quản lý được cơ cấu tài sản nợ, tài sản có của Ngân hàng. Đây chính là những cơ sở để tiến hành các nghiệp vụ tín dụng lành mạnh. Do hoạt động tín dụng có khả năng rủi ro lớn hơn tất cả các loại hình kinh doanh khác nên cần có sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các phòng ban, bộ phận trong từng Ngân hàng, trong toàn bộ hệ thống Ngân hàng cũng như giữa các Ngân hàng với các cơ quan khác như: Tài chính, pháp lý... thiết lập mối quan hệ giữa các bộ phận trên sẽ tạo điều kiện cho việc quản lý có hiệu quả các khoản vốn tín dụng, phát hiện và giải quyết kịp thời các khoản tín dụng khi cần thiết. 3.4.3. Chất lượng cán bộ tín dụng: Chất lượng cán bộ là yếu tố quyết định đến sự thành bại trong quản lý vốn tín dụng nói riêng và đến hoạt động của Ngân hàng nói chung, nghiệp vụ hoạt động Ngân hàng ngày càng phát triển đòi hỏi chất lượng cán bộ ngày càng cao để đáp ứng với sự phát triển nghiệp vụ. Việc tuyển chọn cán bộ tín dụng phải đảm bảo cả về đạo đức và trình độ chuyên môn và có kinh nghiệm. 3.4.4. Thông tin tín dụng: Là yếu tố cơ bản trong quản lý tín dụng của Ngân hàng. Trong nền kinh tế thị trường ai nắm bắt được nhiều thông tin kịp thời, chính xác hơn, người đó xẽ chiến thắng trong cạnh tranh. Nhờ có thông tin tín dụng mà người quản lý có thể đưa ra những quyết định cần thiết có liên quan đến cho vay, theo dõi và quản lý tài khoản cho vay. Thông tin tín dụng càng nhanh nhạy, chính xác và toàn diện thì khả năng phòng ngừa rủi ro trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng càng lớn. Đáng chú ý là việc thu thập thông tin, phân tích các báo cáo về tình hình tài chính của doanh nghiệp và tổ chức kinh tế sẽ đầy đủ và chính xác thì khả năng rủi ro càng giảm. 3.4.5. Kiểm tra kiểm soát nội bộ: Kiểm tra kiểm soat nội bộ sẽ phát hiện nhanh chóng những thiếu sót trong việc thực hiện các quy trình tín dụng của cán bộ ngân hàng, qua đó có biện pháp xử lý kịp thời ngăn chặn những rủi ro xảy ra đối với hoạt động tín dụng của ngân hàng, nâng cao chất lượng tín dụng. Ngoài các nội dung trên thì trong quá trình cho vay bắt đầu từ khi chuẩn bị cho vay, phát tiền vay, kiểm tra việc sử dụng vốn vay cho đến khi thu hồi được nợ. Quá trình cho vay, chuẩn bị cho vay rất quan trọng, làm tốt khâu này sẽ tạo điều kiện cho vốn tín dụng luân chuyển nhanh, đảm bảo chất lượng tín dụng. iV/ Cơ chế chính sách có liên quan đến việc nâng cao chất lương tín dụng trung, dài hạn. 1- Những qui định chung về cho vay trung, dài hạn tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển: 1.1. Nguyên tắc: - Vốn vay phải sử dụng đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. - Phải hoàn trả nợ gốc và lãi tiền vay đúng hạn đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. - Việc đảm bảo tiền vay phải thực hiệ quy định của Chính phủ và của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. 1.2. Điều kiện vay vốn: Bên vay vốn phải có đầy đủ các điều kiện sau đây: - Có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật. - Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết. - Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp. - Có dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất kinh doanh khả thi, có hiệu quả. Hoặc có dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống khả thi kèm theo phương án trả nợ khả thi. - Thực hiện các quy định về bảo đảm tiền vay theo quy định của Chính phủ và hướng dẫn của thống đốc Ngân hàng Nhà nước. 1.3. Đối tượng cho vay: Là các chi phí cấu thành trong tổng mức vốn đầu tư của dự án đầu tư xây dựng mới, mở rộng, cải tạo, khôi phục, đổi mới kĩ thuật, ứng dụng khoa học công nghệ bao gồm: giá trị vật tư máy móc, công nghệ chuyển giao, sáng chế và phát minh, chi phí nhân công, giá thuê và chuyển nhượng đất đai, giá thuê mua các tài sản khác trong khuôn khổ luật định, chi phí mua bảo hiểm tài sản thuộc dự án đầu tư, chi phí khác... Đối tượng Ngân hàng không cho vay là các dự án không đảm bảo thời gian thi công, không hoàn thành theo đúng kỳ hạn mà không có nguyên nhân đúng đắn. Các dự án không đảm bảo hiệu quả kinh tế, các dự án có tính chất thử nghiệm, các khối lượng phát sinh không có trong dự toán. 1.4. Nguồn vốn cho vay: Các nguồn vốn Ngân hàng sử dụng cho vay trung, dài hạn (cho vay đầu tư các dự án) bao gồm: - Nguồn vốn ngân sách Nhà nước chuyển sang cho vay các dự án, công trình theo kế hoạch Nhà nước từ năm 1990, thu nợ từ các dự án đã đầu tư trước đây, - Vốn tự có và quĩ dự trữ. - Vốn huy động và đi vay trong nước và ngoài nước từ 1 năm trở lên như trái phiếu ngân hàng, kỳ phiếu... - Một phần vốn huy động trong nước có kỳ hạn dưới 1 năm do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước qui định (Chủ yếu dùng cho vay trung hạn thời gian ngắn). - Vốn nhận uỷ thác và vốn tài trợ của các tổ chức kinh tế tài chính, tín dụng, xã hội ở trong nước và nước ngoài. - Nguồn vốn từ các Hiệp định khung tài trợ với ngân hàng nước ngoài do ngân hàng đầu tư và Phát triển Việt nam ký hàng năm. 1.5. Mức cho vay và thời hạn vay: Tổ chức tín dụng căn cứ vào nhu cầu vay vốn của khách hàng, quy định của chính phủ tại Nghị định số 178/1999/NĐ-CP về mức cho vay so với giá trị tài sản làm bảo đảm khả năng hoàn trả nợ của khách hàng vay và khả năng nguồn vốn của mình để quyết định mức cho vay. Mức cho vay đối với một dự án đầu tư của bên vay bằng tổng mức vốn đầu tư của dự án trừ đi vốn tự có tham gia, vốn ngân sách cấp, liên doanh và các nguồn vốn khác đầu tư cho dự án. Theo qui định mới nhất của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước tại quyết định số 284/2000/QĐ-NHNN1 ngày 25/8/2000 thì: Thời hạn cho vay được xác định phù hợp với thời hạn thu hồi vốn của dự án đầu tư, khả năng trả nợ của khách hàng và tính chất của nguồn vốn cho vay của tổ chức tín dụng. - Thời hạn cho vay trung hạn từ 12 tháng đến 60 tháng - Thời hạn cho vay dài hạn từ trên 60 tháng trở lên nhưng không quá thời hạn hoạt động còn lại theo Quyết định thành lập hoặc Giấy phép thành lập đối với pháp nhân và không quá 15 năm đối với cho vay các dự án đầu tư phục vụ đời sống. 1.6. Lãi suất cho vay: - Mức lãi suất cho vay do Ngân hàng và khách hàng thoả thuận phù hợp với qui định của Ngân hàng Nhà nước về lãi suất cho vay tại thời điểm ký kết hợp đồng tín dụng. ở nước ta hiện nay theo qui định mới nhất thì: mức lãi suất cho vay do tổ chức tín dụng và khách hàng thoả thuận nhưng phải phù hợp với qui định của Ngân hàng Nhà nước về lãi suất cho vay tại thời điểm ký kết hợp đồng tín dụng. Mức lãi suất cơ bản làm cơ sở cho tổ chức tín dụng ấn định lãi suất cho vay đối với khách hàng được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố hàng tháng cộng với biên độ dương đối với từng loại cho vay của tổ chức tín dụng. - Lãi suất cho vay ưu đãi được áp dụng đối với các khách hàng được ưu đãi về lãi suất theo qui định của Chính phủ và hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước. - Trường hợp khoản vay bị chuyển sang nợ quá hạn phải áp dụng lãi suất nợ quá hạn theo mức qui định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước tại thời điểm ký hợp đồng tín dụng. 1.7. Giới hạn cho vay: - Tổng dư nợ cho vay đối với một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của Ngân hàng cho vay, trừ trường hợp đối với những khoản cho vay từ các nguồn vốn uỷ thác của Chính phủ, của các tổ chức cá nhân. Trường hợp nhu cầu vốn của khách hàng vượt quá 15% vốn tự có hoặc khách hàng có nhu cầu huy động vốn từ nhiều nguồn thì Ngân hàng cho vay hợp vốn theo qui định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Trong trường hợp đặc biệt, Ngân hàng chỉ được cho vay vượt quá mức giới hạn cho vay theo qui định trên khi được Thủ tướng Chính phủ cho phép với từng trường hợp cụ thể. 2- Qui trình tín dụng đầu tư tại các chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển: Qua 10 năm triển khai thực hiện đầu tư phát triển, trên cơ sở vừa làm vừa đúc rút kinh nghiệm trong công tác quản lý chỉ đạo, điều hành, thẩm định... Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Trung ương đã có nhiều văn bản hướng dẫn và cho đến nay Ngân hàng Đầu tư và Phát triển đang thực hiện qui trình tín dụng đầu tư (qui trình công nghệ) bao gồm các bước như sau: * Bước 1: Tiếp cận khách hàng và tiếp nhận hồ sơ, gồm: - Tiếp cận để lựa chọn khách hàng và dự án - Tìm hiểu khách hàng - Hướng dẫn lập hồ sơ * Bước 2: Ký kết hợp đồng tín dụng. Gồm - Kiểm tra hồ sơ, thẩm định dự án - Quyết định cho vay. - Ký kết hợp đồng tín dụng, khế ước vay vốn * Bước 3: Giải ngân - Kiểm tra khối lượng XDCB hoàn thành để chuẩn bị giải ngân - Phát vốn vay - Kiểm tra sử dụng vốn vay * Bước 4: Thu nợ, thu lãi tiền vay. Gồm - Lập sổ theo dõi - Gửi phiếu báo doanh nghiệp - Điều chỉnh kỳ hạn nợ nếu đủ điều kiện * Bước 5: Kết thúc hợp đồng tín dụng - Tất toán khế ước - Thanh lý hợp đồng tín dụng - Rút kinh nghiệm, đánh giá hiệu quả dự án, doanh nghiệp - Hoàn chỉnh hồ sơ để lưu trữ. Theo qui trình trên, cán bộ tín dụng là người trực tiếp cho vay thu nợ, thu lãi, có quyền hạn và trách nhiệm theo phạm vi trách nhiệm được giao, thường xuyên kiểm tra việc sử dụng vốn vay và yêu cầu doanh nghiệp thực hiện đúng theo hợp đồng tín dụng đã ký kết. Đối với các đơn vị thành viên phải tuân thủ đúng các qui định của Nhà nước về quản lý đầu tư XDCB, qui định của Chính phủ, Bộ kế hoạch đầu tư, Ngân hàng Nhà nước về cơ chế tín dụng đầu tư theo kế hoạch hàng năm; các qui định, qui trình nghiệp vụ của Ngân hàng đầu tư và phát triển trung ương liên quan tới hoạt động tín dụng đầu tư. Không ngừng nâng cao chất lượng tín dụng đầu tư phát triển là nhiệm vụ chung của tất cả cán bộ các bộ phận trong mối quan hệ chặt chẽ tín dụng - thẩm định - kế toán - phòng ngừa rủi ro và xuyên xuốt trong quá trình xét duyệt - giải ngân - thu nợ. Chương II thực trạng tín dụng đầu tư trung, dài hạn tại ngân hàng đầu tư và phát triển thanh hoá ------------ I/ Bối cảnh kinh tế xã hội trên địa bàn tỉnh thanh hoá Thanh Hoá là một tỉnh lớn diện tích tự nhiên là 11,168 km2 trên 3,6 triệu dân. Có 4 vùng kinh tế rõ rệt: Vùng biển, đồng bằng, trung du, miền núi. Giao thông thuận lợi, 80% là sản xuất nông nghiệp. Một số ngành kinh tế phát triển như mía đường, xi măng, nuôi trồng đánh bắt, chế biến hải sản, công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, sản xuất bia, sản xuất giấy các loại, chế biến lâm sản, dịch vụ... Trong những năm qua thực hiện công cuộc đổi mới của Đảng và Nhà nước, hàng năm kinh tế xã hội của tỉnh luôn luôn phát triển, cơ sở hạ tầng từng bước được nâng cao, kinh tế tăng trưởng. 1. Những thuận lợi trong thời gian tới : Qui hoạch tổng thể của tỉnh đến năm 2010 đã được Chính phủ phê duyệt. Xác định Thanh Hoá có sức thu hút mạnh vốn đầu tư. Các lĩnh vực đầu tư lớn được triển khai như khu công nghiệp Lễ môn, khu công nghiệp Nghi Sơn, Cảng nước sâu Nghi sơn, Nhà máy đường Lam Sơn, caỉ tạo nâng cấp Nhà máy xi măng Bỉm sơn, nuôi trồng và đánh bắt chế biến hải sản. Công nghiệp qui mô vừa và nhỏ cũng được mở rộng sản xuất như sản xuất giấy, bao bì, thép, sản xuất vật liệu xây dựng, chế biến lâm sản. Một số doanh nghiệp địa phương liên doanh hoặc gia nhập các công ty Trung ương như cán thép, chế biến lâm sản, hoá chất, thuốc lá... có xu hướng phát triển thu hút được vốn đầu tư, công nghệ mới tiên tiến mở rộng thị trường và tạo thêm việc làm cho người lao động đường. - Việc xắp xếp lại doanh nghiệp cổ phần hoá đang được triển khai thực hiện. - Hạ tầng cơ sở như làm đường, điện, thuỷ lợi, nước sạch, đang được triển khai sôi động. 2. Khó khăn: - Tỷ lệ sản xuất nông nghiệp cao lại thường xuyên bị thiên tai. Điểm xuất phát đi lên thấp, năm 2000 mức tăng trưởng bình quân lại thấp xa hơn so với mức bình quân cả nước. do vậy nền kinh tế chưa có tích luỹ nhiều, thu ngân sách khó khăn. - Các doanh nghiệp địa phương làm ăn chưa có hiệu quả, một số doanh nghiệp quốc doanh còn thua lỗ, chưa có phương án hữu hiệu đầu tư chiều sâu đổi mới công nghệ. - Việc cổ phần hoá các doanh nghiệp thực hiện còn chậm. - Các dự án đầu tư liên doanh liên kết thu hút đầu tư chưa được chuẩn bị sẵn sàng. - Các chủ trương định hướng được thống nhất cao, nhưng việc tổ chức triển khai còn nhiều vướng mắc. Chưa có cơ chế chính sách để gọi vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, khu công nghiệp tập trung. Các chương trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, xây dựng vùng chuyên canh hiệu qủa chưa cao. Các doanh nghiệp vốn tự có rất ít, chưa chủ động xây dựng những dự án đầu tư lớn. Điều này hạn chế rất nhiều đến % vốn tự có tham gia vào dự án. II/ về tình hình hoạt động kinh doanh của ngân hàng Đầu tư và phát triển Thanh Hoá. 1- Mô hình tổ chức của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá : Hơn 40 năm hoạt động và trưởng thành, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển nói chung, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá nói riêng, liên tục có sự thay đổi, bổ sung về chức năng nhiệm vụ... Song, hiện nay về bản chất vẫn là một Ngân hàng thương mại quốc doanh, với vai trò duy nhất hiện nay là Ngân hàng chủ đạo phục vụ cho sự nghiệp xây dựng, đầu tư phát triển. Quá trình hoạt động và trưởng thành của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá gắn liền với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội của địa phương qua các thời kỳ, các giai đoạn cách mạng. Đặc biệt là từ ngày 01/01/1995 theo quyết định 293/QĐ-NHNN ngày18/11/1994 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng Ngân hàng Đầu tư và Phát triển được phép thực hiện các hoạt động của Ngân hàng thương mại. Trong những năm qua, căn cứ vào chức năng nhiệm vụ được giao và tình hình đặc điểm địa bàn hoạt động, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá đã tiến hành sắp xếp ổn định lại mô hình tổ chức, thường xuyên thực hiện tốt công tác quản lý, qui hoạch, đào tạo cán bộ trong chi nhánh để đáp ứng với yêu cầu hiện đại hoá công nghệ Ngân hàng. Hiện nay, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá có 5 phòng, 1 tổ Kiểm soát, 1 tổ Thẩm định Kinh tế - Kỹ thuật và 1 chi nhánh trực thuộc (hiện đang chuẩn bị thành lập thêm 1 chi nhánh mới trong thời gian tới); có 105 cán bộ công nhân viên, trong đó số cán bộ có trình độ đại học, cao đẳng chiếm 70%; Công tác quản trị điều hành được chi nhánh hết sức quan tâm, tạo được sự đoàn kết nhất trí trong nội bộ. Nhằm phát huy được sức mạnh tổng hợp trong chỉ đạo điều hành, chi nhánh đã qui định rõ chức năng nhiệm vụ của từng bộ phận và đến từng loại cán bộ... Có thể nói mô hình tổ chức hiện nay ở Chi nhánh Ngân hàng ĐTvà PT Thanh hoá là phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ; công tác tổ chức, xây dựng nguồn lực và quản trị điều hành là đúng đắn, hiện đã và đang phát huy được sức mạnh trong hoạt động kinh doanh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của một Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường và trong giai đoạn đất nước đang thực hiện sự nghiệp Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá. 2- Tình hình hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển qua các năm: Trong 5 năm qua, thực hiện hoạt động như một Ngân hàng thương mại, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá đã nhanh chóng đổi mới hoạt động Ngân hàng, bám sát mục tiêu, định hướng chiến lược kinh doanh của toàn ngành, cụ thể hoá trong điều kiện thực tế trên địa bàn. Tranh thủ những thuận lợi vượt lên những khó khăn để phấn đấu đạt được các chỉ tiêu kế hoạch với mức tăng trưởng vững chắc cả về số lượng và chất lượng. Hiện nay Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá là một trong những Ngân hàng thương mại hoạt động có hiệu quả, an toàn, tăng trưởng và giữ được vị thế, nâng cao được uy tín nhất trên địa bàn. Hàng năm được Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam xếp loại khá giỏi. Tình hình hoạt động kinh doanh 5 năm (từ 1996-2000) cụ thể như sau: * Về khách hàng: Với chính sách khách hàng đúng đắn, phù hợp với cơ chế thị trường, thực hiện mục tiêu “Bắt đầu từ nhu cầu của khách hàng chứ không phải từ sản phẩm Ngân hàng", “Hiệu quả kinh doanh của khách hàng là mục tiêu hoạt động của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển”, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá đã không ngừng nâng cao chất lượng phục vụ, tranh thủ được khách hàng truyền thống, mở rộng thị trường trong tất cả các thành phần kinh tế. Do vậy khách hàng có quan hệ tiền gửi và khách hàng có quan hệ tiền vay (kể cả bão lãnh) qua các năm đều tăng về số lượng và đảm bảo chất lượng. +Khách hàng có quan hệ tiền gửi: Năm 1996, mới chỉ có 3699 khách hàng chủ yếu là các tổ chức kinh tế; Năm 1997 số lượng khách hàng là 4962; năm 1998 số lượng khách hàng là 7544 tăng 52% so năm 1997. Năm 1999 số khách hàng là 11.930, so năm 1998 tăng 58%; đến 31/12/2000 có số lượng khách hàng là 13.720, so với năm 1999 tăng15%. Trong đó khách hàng là tổ choc kinh tế – xã hội tăng 29%. + Khách hàng có quan hệ tiền vay và bảo lãnh: Từ 224 khách hàng năm 1996 chủ yếu là khách hàng tiền vay. Năm 1997 có 788 khách hàng, so với 1996 tăng 3,5 lẩn. Năm 1998 là 595 khách và Năm 1999 là: 649 khách hàng Tăng 9% so 1998; năm 2000 là 714 khách hàng, so với năm 1999 tăng 10%. * Về nguồn vốn: Từ năm 1996, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá bắt đầu mở rộng huy động vốn, thành lập các bàn tiết kiệm, mở ra nhiều hình thức huy động với lãi suất linh hoạt, cộng với thái độ phục vụ của cán bộ trực tiếp làm công tác này, chi nhánh đã từng bước tăng số dư huy động tiền gửi các loại, đồng thời tranh thủ được các nguồn đi vay khác. Trong 5 năm qua về cơ bản Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá đã có nguồn vốn tương đối dồi dào, đa dạng. Nguồn vốn tự huy động đảm bảo được nguồn vốn cho tín dụng ngắn hạn, trung hạn và dành một phần cho dài hạn, cụ thể như sau: - Năm 1996: Tổng nguồn 145.928 triệu đồng; trong đó nguồn tự huy động là 60.135 triệu đồng, nguồn đi vay là 85.793 triệu đồng. - Năm 1997: Tổng nguồn 251.661 triệu đồng; trong đó nguồn tự huy động 159.187, nguồn đi vay 92.474. - Năm 1998: Tổng nguồn 256.463 triệu đồng; trong đó tự nguồn huy động 172.928 nguồn đi vay 80.049, còn lại là nguồn khác. - Năm 1999: Tổng nguồn 406.131 triệu đồng; trong đó nguồn tự huy động 310.347 triệu đồng. Đặc biệt trong năm 1999 thực hiện chủ chương phát hành trái phiếu tạo nguồn vốn cho đầu tư xây dựng của ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, chỉ trong vòng 20 ngày ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh hoá đã bán được 19.254 triệu đồng trái phiếu thời hạn 1 năm chiếm trên 40%, thời hạn từ 2- 5 năm chiếm 60%. - Năm 2000: Tổng nguồn vốn 630.631 triệu. Trong đó nguồn tự huy động 412.433 triệu đồng (trong dân cư 310.095 triệu, từ tổ chức kinh tế 102.338 triệu); Nguồn đi vay 218.198 triệu đồng. Chi nhánh đã huy động được 30 tỷ đồng có thời hạn 1->5 năm bằng hình thức bán trái phiếu. Như vậy, qua 5 năm nguồn vốn của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh hoá luôn tăng trưởng năm sau cao hơn năm trước, đáng chú ý là nguồn vốn tự huy động đều tăng trưởng nhanh và ổn định không chỉ huy động ngắn hạn mà đơn vị đã thực hiện cả huy động vốn có thời hạn trên một năm, số lượng huy động được đáp ứng yêu cầu sử dụng. * Về sử dụng vốn: Với phương châm và mục tiêu là lấy “Hiệu quả kinh doanh của khách hàng là mục tiêu hoạt động của ngân hàng Đầu tư và Phát triển" và với nguyên tắc "Hoạt động theo luật pháp và những nguyên tắc đạo đức trong kinh doanh" đồng thời được thể hiện chi tiết qua phương châm và khẩu hiệu hành động của từng thời kỳ. năm 1997 kinh doanh của ngân hàng Đầu tư và Phát triển được cụ thể hoá qua khẩu hiệu " An toàn trong tăng trưởng "thì năm 1998 là "Vững chắc trong tăng trưởng, hiệu quả, an toàn". Khẩu hiệu này luôn luôn đã thấm nhuần trong từng cán bộ công nhân viên trong Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá. Kết quả sử dụng vốn qua các năm được thể hiện như sau: (Biểu 01) Các chỉ tiêu về sử dung vốn trong tài sản có từ 1996 - 2000 Đơn vị tính: triệu đồng (Biểu 01) Chỉ tiêu 1996 1997 1998 1999 2000 Tổng tài sản có 158.921 252.363 254.314 322.113 640.652 Cho vay ngắn hạn 76.142 127.148 153.958 175.318 197.925 Cho vay trung hạn 52.399 66.217 47.915 85.984 42.675 Cho vay dài hạn 7.129 11.143 23.923 43.049 256.306 % Nợ quá hạn/ tổng dư nợ 2,0 % 1,56 % 1,03% 0,5% 0,3% * Giá trị bảo lãnh: Bảo lãnh là nghiệp vụ mới, trong 5 năm qua Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá đã và đang mở rộng các hoạt động bảo lãnh như bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện các hợp đồng kinh tế, bảo lãnh thanh toán nhập khẩu thiết bị cho các dự án, nhập khẩu vật tư cho sản xuất, đặc biệt là chi nhánh đã được Ngân hàng trung ương uỷ nhiệm ký hợp đồng bảo lãnh L/C, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trên địa bàn và tăng thêm thu nhập cho Ngân hàng. Số liệu cụ thể qua 5 năm như sau: Năm 1996 tổng giá trị bảo lãnh 1.153 triệu đồng. Năm 1997: 30.450 triệu đồng; năm 1998: 4.828 triệu đồng; năm 1999 tổng giá trị là 18.327 triệu đồng, tăng gấp 3,8 lần so năm 1998; năm 2000 tổng giá trị bảo lãnh là: 36.522 triệu đồng, tăng 2 lần so với năm 1999. * Về hoạt động kế toán, kho quỹ: Công tác kế toán - kho quĩ được duy trì có truyền thống, chất lượng ngày càng nâng cao, tổ chức hạch toán đầy đủ kịp thời ít xảy ra sai sót. Nghiệp vụ thanh toán điện tử luôn đảm bảo chính xác, thuận tiện, an toàn cho khách hàng và Ngân hàng. Trong công tác kho quĩ mặc dù trong những năm qua khối lượng thu, chi tiền mặt và các giấy tờ có giá rất lớn nhưng luôn đảm bảo an toàn và chấp hành tốt các nội qui qui định trong quá trình hoạt động. Ngoài ra trong 5 năm qua chi nhánh đã thực hiện các dịch vụ khác như chuyển tiền, v.v... đã góp phần mang lại lợi nhuận đáng kể hàng năm. * Kết quả kinh doanh: Cùng với việc mở rộng và nâng cao chất lượng mọi mặt hoạt động, công tác quản trị điều hành của đơn vị có nhiều đổi mới, lấy kế hoạch kinh doanh làm công cụ điều hành, công tác kiểm tra kiểm soát làm công cụ quản lý thông qua những giải pháp cụ thể, đặc biệt là công tác tín dụng nhằm nâng cao hiệu quả, chất lượng trong kinh doanh. Qua 5 năm hoạt động kinh doanh, về cơ bản Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá đã đảm bảo được mức doanh thu và lợi nhuận của Ngân hàng trung ương giao; thu nhập đời sống của cán bộ công nhân viên trong chi nhánh ngày được nâng cao và giữ được mức ổn định. Kết quả kinh doanh 5 năm (1996- 2000) Chỉ tiêu 1996 1997 1998 1999 2000 Tổng chi phí 17.640 17.044 23.998 27.533 46.685 Lợi nhuận trước thuế 1.454 7.006 4.342 4.064 5.364 III/ Thực trạng công tác tín dụng trung, dài hạn tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá: Xuất phát từ mục đích ý nghĩa và tầm quan trọng của tín dụng đầu tư trung, dài hạn, những năm qua Ngân hàng Đầu tư và Phát triển thanh Hoá đã nhận thức đầy đủ và tổ chức thực hiện một cách nghiêm túc, đúng chế độ thể lệ qui định. Hoạt động tín dụng trung, dài hạn có hiệu quả. Những kết quả đó thể hiện qua các nội dung sau đây: 1- Thực hiện qui trình thẩm định: 1.1. Khái quát về tình hình thực hiện quy trình tín dụng trong cho vay trung, dài hạn tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá thời gian qua: Công tác thẩm định là khâu quan trọng nhất trong các giai đoạn đầu tư, nó có ý nghĩa rất lớn đối với phát triển kinh tế xã hội, nó không những mang lại hiệu quả kinh tế cho xã hội khi dự án đầu tư có hiệu quả mà còn có ý nghĩa rất lớn đối với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển. Bởi vì thẩm định dự án đầu tư của Ngân hàng chính là việc Ngân hàng tiến hành thẩm định luận chứng kinh tế kĩ thuật của dự án mang tính chất chi tiết nhằm kết luận là dự án có được thực hiện hay không. Nếu kết luận của thẩm định dự án khả thi là tốt thì dự án sẽ được đưa vào kế hoạch tài trợ vốn trung, dài hạn của Ngân hàng. Việc thẩm định dự án của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển là nhằm xác định khả năng trả nợ đích thực của dự án, để Ngân hàng chủ động lựa chọn đầu tư vào những dự án có hiệu quả dưới các hình thức: cho vay, bảo lãnh, đầu tư trực tiếp, mua cổ phần... Rút kinh nghiệm qua những năm trước, từ năm 1996 trở lại đây Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá đã quan tâm chú trọng đúng mức về công tác thẩm định dự án, phân công trách nhiệm rõ ràng cho từng bộ phận, thường xuyên cải tiến phương pháp làm việc. Hiện nay việc thẩm định dự án Giám đốc giao cho Tổ thẩm định KT-KT và Phòng Tín dụng trực tiếp sẽ cho vay dự án, tuy được giao như vậy nhưng mỗi bộ phận có những nội dung chủ yếu trong việc thẩm định. Sau khi tiến hành thẩm định xong, 2 bộ phận này thống nhất lập tờ trình và bảo vệ trước Hội đồng tín dụng. Sau khi Hội đồng thống nhất mới lập tờ trình và bảo vệ với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Trung ương. Hiện nay, tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá trong cả nước nội dung cần phân tích, đánh giá trong thẩm định một dự án đầu tư đang thực hiện bao gồm các bước và nội dung sau: a. Phân tích thị trường: Khi phân tích thị trường cán bộ Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá luôn trú trọng các vấn đề sau : - Đánh giá nhu cầu hiện tại, dự báo nhu cầu tương lai về số lượng, chất lượng, giá cả... trong trường hợp dự kiến xuất khẩu sản phẩm phải đánh giá và dự báo được nhu cầu của thị trường nước ngoài. - Đánh giá khả năng đáp ứng hiện có trên địa bàn, dự kiến tiêu thụ sản phẩm của dự án. Phân tích thị trường trước mắt, thị trường tiềm năng và thị trường mục tiêu. - Dự báo mức độ gia tăng cung cấp trong tương lai của sản phẩm, dẫn tới sự thiếu hụt hay dư thừa so với nhu cầu thị trường. - Nếu mục tiêu đầu tư là xuất khẩu hoặc thay thế hàng nhập khẩu, phải phân tích đánh giá được tình hình xuất hoặc nhập khẩu sản xuất trong thời gian qua và dự kiến khả năng trong tương lai cả về số lượng, chất lượng và giá cả. - Dự báo về số lượng, giá cả sản phẩm bán ra, khả năng cạnh tranh với các nhà sản xuất trong nước và ngoài nước, khả năng thâm nhập thị trường, hướng lựa chọn thị trường. - Phân tích giá thành, giá bán của sản phẩm, so sánh các loạI giá cả này của sản phẩm cùng laọi trên thị trường. - Phân tích các lợi thế trong cạnh tranh của sản phẩm cùng loại trên thị trường. b. Kiểm tra các điều kiện thực thi của dự án: + Vốn đầu tư: - Phân tích, đánh giá mức độ chính xác trong tính toán nhu cầu về vốn đầu tư, dự tính các yếu tố tác động có thể làm thay đổi tổng mức vốn đầu tư (nếu có). - Việc kiểm tra, xác định mức vốn đầu tư của dự án là rất cần thiết. Phải lưu ý phát hiện và hạn chế ngăn ngừa cả hai khuynh hướng của người lập dự án và chủ đầu tư: Một là: Tính toán vốn đầu tư thật cao để tranh thủ vốn, gây nên tình trạng lãng phí, ứ đọng vốn và làm giảm hiệu quả đầu tư của dự. Hai là: Tính toán đầu tư vốn thật thấp để tăng hiệu quả đầu tư một cách giả tạo, dẫn đến quyết định đầu tư sai lệch và gây khó khăn trong quá trình triển khai đầu tư vì thiếu vốn... - Tổng vốn đầu tư cần thiết cho dự án bao gồm: vốn cố định và vốn lưu động. Vì vậy, việc kiểm tra phân tích nhu cầu về vốn đầu tư không chỉ đối với vốn cố định mà còn xem xét, dự tính nhu cầu vốn lưu động ban đầu (đối với dự án xây dựng mới) hoặc nhu cầu vốn lưu động bổ sung (đối với dự án đầu tư mở rộng hay đầu tư chiều sâu) để sau khi hoàn thành đầu tư, dự án có thể đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh. - Trong trường hợp công trình đã có tổng dự toán được lập và phê duyệt đúng qui định của Nhà nước về quản lý giá XDCB thì số liệu về mức vốn đầu tư đưa vào tính toán hiệu quả kinh tế và hiệu quả đầu tư của dự án chính là tổng dự toán được cấp có thẩm quyền phê duyệt. + Nguồn vốn đầu tư và tiến độ bỏ vốn: Chủ đầu tư có thể sử dụng nhiều nguồn vốn để đầu tư dự án. Nguồn vốn đầu tư bao gồm: Vốn tự có, vốn góp, vốn ngân sách, vốn vay... Để đảm bảo dự án có đủ nguồn vốn đầu tư, cần kiểm tra xác định các nội dung sau: - Các căn cứ và biện pháp đảm bảo nguồn vốn đầu tư dự án. - Xác định mức vốn cần cho vay trên cơ sở các số liệu về tổng vốn đầu tư dự án và các nguồn vốn khác đảm bảo chắc chắn sẽ tham gia đầu tư dự án. - Hình thức vốn đầu tư: Bằng tiền VNĐ, ngoại tệ. Bằng hiện vật như tài sản cũ, thiết bị vay trả chậm, nguyên liệu, các dạng khác. - Xác định tiến độ thực hiện chi phí vốn (lịch bỏ vốn). + Phân tích, đánh giá khả năng đầu vào của dự án: - Xác định, kiểm tra trên cơ sở định mức kinh tế kĩ thuật, các nhu cầu và yếu tố đầu vào cho từng loại sản phẩm. Tính toán nhu cầu cần thiết cho sản xuất kinh doanh hàng năm. - Khả năng cung cấp nguyên liệu cho sản xuất kinh doanh. Trên cơ sở phân tích nội dung trên, nêu những thuận lợi và những bất lợi, kiến nghị biện pháp khắc phục (nếu có). + Xem xét đánh giá về năng lực của các đơn vị cung cấp máy móc thiết bị cho dự án. + Khả năng quản lý, kinh doanh của chủ đầu tư trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh loại sản phẩm của dự án. c. Phân tích tài chính và xác định khả năng trả nợ của dự án: + Căn cứ vào công suất thiết kế của công trình, khả năng tiêu thụ sản phẩm của dự án và giá bán sản phẩm, có thể xác định được doanh thu của dự án trong các năm doanh nghiệp còn phải trả nợ vốn vay đầu tư xây dựng công trình. + Kiểm tra các chỉ tiêu đưa vào tính toán chi phí sản xuất của dự án để đánh giá mức độ chuẩn xác của phương án tính toán trong nghiên cứu khả thi._.h sách tín dụng phải thu hút được khách hàng, duy trì và phát triển được khách hàng để mở rộng quy mô hoạt động của một ngân hàng thương mại. Do vậy chính sách tín dụng trung, dài hạn phải chú ý đến chiến lược thu hút khách hàng có sự lựa chọn. Các tiêu chuẩn chính dể lựa chọn khách hàng, như: - Khách hàng có khả năng ổn định và phát triển kinh doanh lâu dài. - Khách hàng có đội ngũ quản lý giỏi, có khả năng thích ứng tốt với môi trường kinh doanh. - Khách hàng có triển vọng chiếm lĩnh thị trường ... - Khách hàng đang có khó khăn nhưng dự án đầu tư thực sự có hiệu quả những doanh nghiệp này Ngân hàng vẫn đầu tư cho dự án đó, thông qua việc đầu tư giúp cho doanh nghiệp thoát khỏi khó khăn và phát triển đi lên. Như vậy để thực hiện quan điểm chỉ đạo gắn công tác tín dụng trung dài hạn với sự tồn tại và phát triển của ngân hàng đầu tư và phát triển. Vừa phục vụ cho đầu tư phát triển vừa hỗ trợ các doanh nghiệp phát huy hiệu quả vốn tín dụng ngắn hạn, hạn chế thấp nhất rủi ro trong hoạt động tín dụng, vừa đảm bảo thu nhập cho ngân hàng. Chi nhánh phải chủ động nắm bất kịp thời chủ trương đầu tư hàng năm của địa phương để xây dựng chiến lược, kế hoạch cho vay trung, dài hạn hàng năm chi tiết đến từng ngành, từng chủ đầu tư, từng dự án. Bên cạnh sự lựa chọn khách hàng, dự án để thực hiện chính sách tín dụng, lãi suất cũng là một chính sách quan trọng của ngân hàng để thu hút khách hàng. Về nguyên tắc mà nói lãi suất cao sẽ hạn chế sự vay vốn của khách hàng, lãi suất thấp sẽ thu hút nhiều khác hàng hơn. Song, chính sách lãi suất phải linh hoạt với từng khoản tín dụng, từng khách hàng và phải đảm bảo kết hợp hài hoà giữa lợi ích của ngân hàng và khách hàng. Với đặc thù của loại hình tín dụng trung, dài hạn có thời hạn kéo dài, vốn của ngân hàng chịu rủi ro rất lớn do nhiều yếu tố lạm phát, thị trường. Để khắc phục tình trạng này ngân hàng nên: + Nghiên cứu áp dụng các hợp đồng tín dụng có lãi suất thả nổi (tức lãi suất thay đổi) để giảm rủi ro cho cả ngân hàng và khách hàng. Tuy nhiên khi áp dụng hình thức này vấn đề cốt lõi là ngân hàng phải có một chiến lược về kinh doanh và một chiến lược dự báo xu thế thị trường. 2- Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án: Thẩm định một dự án đầu tư (TĐDAĐT) gồm nhiều phần như: Sự cần thiết phải đầu tư, công nghệ, nguyên liệu, thị trường, tài chính dự án... Đứng trên giác độ là Ngân hàng, ở đây tôi xin nhấn mạnh vấn đề cơ bản về thẩm định tài chính dự án đầu tư (TĐTCDAĐT). Việc thẩm định này ngoài mục tiêu đánh giá hiệu quả dự án còn nhằm bảo đảm sự an toàn cho các nguồn vốn tín dụng của Ngân hàng. Tuy lâu nay phương pháp TĐTCDAĐT đã được nghiên cứu và vận dụng thích ứng với thực tiễn nền kinh tế nhưng dưới tác động của các quy luật kinh tế thị trường đòi hỏi việc hạch toán kinh doanh phải chặt chẽ, hạn chế thấp nhất rủi ro thì phương pháp thẩm định cũ đã bộc lộ một số thiếu sót sau: - Phương pháp thẩm định cũ còn khá đơn giản, phiến diện không thích hợp với những yếu tố phức tạp đa dạng của môi trường kinh doanh hiện nay. Chẳng hạn: ít chú ý phân tích rủi ro, chưa tính toán đủ chi phí vốn đầu tư, chưa đề cập nhân tố lạm phát... - Phương pháp thẩm định cũ nghiên cứu dự án đầu tư ở trạng thái tĩnh bằng các chỉ tiêu, các con số gộp, tổng cộng, chưa chú ý trạng thái động như quá trình diễn biến của dự án và cũng chưa chú ý đến giá trị của tiền tệ theo thời gian. Trước thực tế này việc nghiên cứu hoàn thiện phân tích TCDAĐT là rất cấp thiết cả về mặt lý luận và thực tiễn. Nội dung chính của việc nghiên cứu phương pháp thẩm định là hệ thống chỉ tiêu làm căn cứ đánh giá hiệu quả tài chính dự án đầu tư. Trong phạm vi luận văn này tôi xin nêu một số vấn đề sau: Một là: Hiệu quả tài chính cũng như bao loại hiệu quả khác, bản chất của nó không chỉ được thực hiện trên một mặt nào đó mà trên nhiều khía cạnh khác nhau, nó là hệ thống chỉ tiêu có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Hệ thống chỉ tiêu đó có thể chia làm 3 nhóm. Một nhóm phản ánh khả năng sinh lợi như doanh thu, lợi nhuận, suất đầu tư... Một nhóm phản ánh mức độ rủi ro của dự án. Một nhóm phản ánh khả năng hoàn vốn từ dự án như hệ số hoàn vốn, điểm hoà vốn, tỷ lệ thu hồi nội tại... Hai là: Sau khi xác định được hệ thống chỉ tiêu cần thiết để thẩm định tài chính DAĐT vấn đề là tính toán các chỉ tiêu như thế nào: + Các chỉ tiêu thẩm định xét cho đến cùng đều được xây dựng, tính toán trên cơ sở lợi ích của dự án. Khi tính toán phải tính đủ các yếu tố cấu thành nên cho mọi loại hình dự án cũng như cho cả các dự án đặc thù. + Cuối cùng việc vận dụng tính toán các chỉ tiêu không thể không chú ý đến tính khả thi. Tiêu điểm của vấn đề là dữ liệu. Các yếu tố cấu thành chỉ tiêu, phương pháp tính toán chỉ tiêu phải đảm bảo dựa trên cơ sở những số liệu có thể thu thập được trong, ngoài dự án hoặc dự kiến một cách tương đối chính xác trong thực tế như giá cả, sản lượng, lãi suất... Ba là: Mặc dù hệ thống chỉ tiêu cũng như cách tính toán là nội dung chính của thẩm định TCDAĐT nhưng điều cuối cùng là phải có phương pháp đánh giá, nhìn nhận để có kết luận xác đáng từ việc phân tích trên. Mỗi chỉ tiêu sẽ có vai trò quan trọng khác nhau chút ít trong từng loại hình dự án. Nói cách khác căn cứ vào từng loại hình dự án mà xem chỉ tiêu nào là quan trọng hơn. Ví dụ như một dự án dài hạn mang lại lợi ích to lớn về mặt xã hội thì NPV không dương vẫn có thể cho vay. 3- Trú trọng phân tích tài chính doanh nghiệp trước khi quyết định cho vay: Đứng trên giác độ Ngân hàng trước các quyết định cho vay trung, dài hạn theo tôi cần quan tâm phân tích các chỉ tiêu tài chính sau: a. Xem xét các chỉ tiêu về cơ cấu vốn của doanh nghiệp: Vốn của doanh nghiệp bao gồm vốn tự có và vốn đi vay. Nguồn gốc và cấu thành hai loại vốn này xác định sự ổn định tài chính và khả năng thanh toán dài hạn của doanh nghiệp (DN), các DN thường muốn sử dụng vốn tự có ít nhất nhưng mang lại hiệu quả cao nhất vì nếu DN chỉ góp một phần nhỏ trong toàn bộ vốn hoạt động thì rủi ro trong kinh doanh chủ yếu do người cho vay gánh chịu. Trong khi đó DN nắm phần lợi rõ rệt vì chỉ bỏ ra một số vốn ít nhưng lại được quyền sử dụng một lượng tài sản lớn mà không phải chia sẻ quyền kiểm soát. Đặc biệt khi mà hoạt động của DN đang phát triển lãi thu được trên tiền vay lớn hơn lãi suất tiền vay, thì DN càng vay càng hiệu quả và khi đó rủi ro đến với người cho vay càng lớn. Ngân hàng luôn muốn mở rộng cho vay nhất là với các DN kinh doanh có hiệu quả song nếu cho vay quá nhiều ngân hàng sẽ trở thành người đỡ đòn rủi ro cho DN. Do đó khi phân tích ngân hàng cần quan tâm đến cơ cấu vốn của DN. *Tỷ số nợ = Nợ phải trả/Tổng nguồn vốn của DN Hoặc * Tỷ số tự tài trợ = Nguồn vốn chủ sở hữu/ Tổng nguồn vốn của DN Tỷ số này cho biết tổng số vốn của DN chiếm bao nhiêu trong tổng số vốn mà DN đưa vào sản xuất kinh doanh. Tỷ số này càng lớn càng tốt, càng có sự bảo đảm cao cho các khoản nợ, nhất là khi DN bị đặt vào tình trạng thanh lý tài sản thì vốn tự có này để bù đắp phần thiếu hụt phát sinh khi chuyển nhượng tài sản. * Tỷ số nợ dài hạn = Số nợ dài hạn/Nguồn vốn chủ sở hữu Tỷ số này cao phản ánh DN phụ thuộc nhiều vào chủ nợ, đó là cấu trúc vốn mạo hiểm. Tỷ số này càng cao thì an toàn trong đầu tư càng giảm. Theo kinh nghiệm ở một số nước, người cho vay chỉ chấp nhận tỷ số này < 1. Nghĩa là tỷ số này càng gần 1 DN càng ít khả năng được vay vốn dài hạn. * Tỷ số tài trợ TSCĐ = Nguồn vốn dài hạn/Giá trị TSCĐ Tỷ số này luôn phải lớn hơn 1 mới mang lại cho DN sự ổn định và an toàn tài chính. Tỷ số này nhỏ hơn 1 có nghĩa DN đang dùng nguồn vốn ngắn hạn để đầu tư dài hạn. Tình hình tài chính của DN không bình thường, việc cho DN vay vốn đầu tư lúc này là quá mạo hiểm. b. Xem xét khả năng trả nợ của doanh nghiệp Khả năng sinh lời là yếu tố chính đo độ bền kinh tế và tài chính của DN, là điều kiện cho sự phát triển trong tương lai của DN. Không có sinh lời hoặc khả năng sinh lời thấp DN không thể tồn tại và phát triển, đồng thời khả năng sinh lời là một trong các nguồn trả nợ chính cho các khoản vay dài hạn. Vì vậy ngân hàng luôn quan tâm đến chỉ tiêu này. Khả năng sinh lời của DN được đánh giá qua nhiều chỉ tiêu. Có thể xem 3 chỉ tiêu chính sau: * Tỷ suất lợi nhuận Lợi tức sau thuế doanh thu Doanh thu thuần * Tỷ suất lợi nhuận Lợi tức sau thuế + Lãi phải trả về tiền vay tổng tài sản Tổng tài sản * Tỷ lệ sinh lời của Lợi tức sau thuế + Trả lãi tiền vay nguồn vốn dài hạn Tổng tài sản Nếu như tỷ suất lợi nhuận doanh thu đo lường hiệu quả hoạt động chung của doanh nghiệp thì tỷ suát lợi nhuận tổng tài sản đo lường thành tựu của doanh nghiệp trong sử dụng tài sản để sáng tạo ra thu nhập một cách độc lập với những hoạt động tài trợ cho những tài sản đó, còn tỷ lệ sinh lời của vốn thường xuyên cho thấy khả năng sinh lời của vốn sử dụng lâu dài trong doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có khả năng sinh lời cao thì rủi ro mất khả năng chi trả càng thấp. Để đánh giá khả năng trả nợ của doanh nghiệp còn có thể được xem xétt qua các tỷ số sau: * Khả năng hoàn trả Vay dài hạn nợ vay Khả năng tự tài trợ Vì nguồn vốn trả nợ dài hạn là khả năng tự tài trợ (Lợi nhuận + khấu hao). Tỷ số này nêu lên thời hạn lý thuyết tối thiểu cần thiết để hoàn trả toàn bộ vốn vay. Tỷ số này càng nhỏ càng tốt. * Khả năng Lợi tức trước thuế + Lãi phải trả về nợ dài hạn thanh toán lãi Lãi phải trả về nợ dài hạn Tỷ số này thường được tính để đánh giá độ an toàn của việc hoàn trả nợ. Số tiền thu được trước khi trả lãi lợi tức và các khoản tiền lãi cố định là số tiền để sẵn sàng để thanh toán tiền lãi cho các khoản nợ vay dài hạn. Thông thường khả năng thanh toán lãi được xem là an toàn, hợp lý nếu doanh nghiệp tạo ra khoản thu nhập gấp hơn hai lần khoản lãi cố định phải trả hàng năm. Trên đây là một số chỉ tiêu tính toán nhưng cũng như khi ta thẩm định tài chính doanh nghiệp, điều quan trọng là tính chính xác của số liệu. Cái khó ở đây là cơ sở của số liệu lấy từ Báo cáo tài chính của doanh nghiệp nhưng báo cáo chỉ phản ánh các sự kiện tài chính trong quá khứ trong khi ta lại quan tâm nhiều hơn đến tình hình tài chính tương lai của doanh nghiệp. Đó là chưa nói đến một số doanh nghiệp còn vì lợi ích riêng của mình mà đưa những thông tin sai vào báo cáo. Do vậy để thực hiện tốt giải pháp này đòi hỏi trình độ của cán bộ tín dụng phải được nâng cao rất nhiều. 4- Đa dạng hoá các phương thức huy động vốn trung, dài hạn: Thực tế hoạt động những năm vừa qua công tác huy động vốn ở chi nhánh có nhiều chuyển biến tích cực, vốn huy dộng có thời hạn trên một năm ngày càng chiếm tỷ trọng cao. Năm 1999, 2000 nguồn vốn tự huy động đã đáp ứng được 100% nhu cầu vốn lưu động, vốn trung hạn bằng VNĐ và một phần vốn cho dài hạn. Để có nguồn vốn tương đối ổn dịnh phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chính sách huy động vốn của chi nhánh phải khắc phục một số điểm sau: - Thói quen sử dụng dịch vụ ngân hàng, gửi tiền vào ngân hàng của đại bộ phận dân cư chưa hình thành một cách phổ biến. Ngay cả dân cư thành thị, hoạt động ngân hàng còn xa lạ với họ. - Mạng lưới ngân hàng còn mỏng, các hình thức huy động vốn chưa đa dạng, chưa phong phú, chưa linh hoạt theo nhu cầu sử dụng và khả năng của từng bộ phận vốn nhàn rỗi. Để có thể tiến tới đảm bảo cho toàn bộ nhu cầu vốn trung, dài hạn (cả bằng VNĐ và USD) chi nhánh thanh hoá chú trọng phát triển các phương thức huy động đã có như tiền gửi có kỳ hạn, tiết kiệm trên một năm, kỳ phiếu ngân hàng, trái phiếu ngân hàng... Đồng thời tiến hành đẩy mạnh huy động nguồn vốn ngắn hạn (có số dư tăng và ổn định) để dành một tỷ lệ cho vay trung và dàI hạn bằng việc đa dạng hoá các hình thức huy động với các điều kiện, lãi suất linh hoạt phù hợp với từng nhóm đối tượng khách hàng, với tính chất của các bộ phận vốn nhàn rỗi trong dân cư. Đổi mới triệt để phong cách phục vụ, xử lý nhanh chóng, chính xác, với giá dịch vụ thấp để cạnh tranh với các ngân hàng khác trên địa bàn để duy trì và mở rộng nguồn vốn tiền gửi của các doanh nghiệp và dân cư. Chuẩn bị các tiền đề, các điều kiện để sớm tham gia vào thị trường chứng khoán, tăng khả năng huy động vốn từ nền kinh tế 5- Tiêu chuẩn hoá cán bộ để nâng cao chất lượng tín dụng: Chất lượng tín dụng phụ thuộc khá nhiều vào chất lượng các công việc từ khâu hoạch định chủ trương, chính sách, đến việc thẩm định dự án, phân tích tài chính doanh nghiệp, ra quyết định đầu tư, kiểm tra sử dụng vốn vay, thu nợ... Thực tiễn cho thấy ngoài những yéu tố khách quan đem lại sự thành công hay thất bại của dự án đều có nhân tố chủ quan của con người với tư cách là chủ thể của các mối quan hệ kinh tế. Đương nhiên ngoài yếu tố chủ quan cố ý vì mục đích tư lợi cũng có yếu tố do trình độ khả năng bất cập không thể hoặc chưa thể làm được. Để có được những cán bộ ngân hàng vừa có "tâm" vừa có "tầm" chi nhánh phải coi trọng việc đào tạo và đào tạo lại lực lượng CB ngân hàng là rất cần thiết và cần đặt ra những tiêu chuẩn CB như sau: - Cán bộ ngân hàng phải có lập trường tư tưởng vững vàng, kiên định với mục tiêu phát triển của ngân hàng đề ra. Mọi cán bộ ngân hàng phải nhận thức đầy đủ vị trí, vai trò của mình trong từng lĩnh vực công tác cụ thể, luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, có ý thức kỷ luật tốt, liêm khiết. - Phải có kiến thức nghiệp vụ chuyên môn vững vàng, nắm bắt kịp thời các chủ trương, chính sách của Nhà nước, ngành, địa phương; biết vận dụng linh hoạt, sáng tạo lý luận đã học vào thực tiễn trong khuôn khổ cho phép của pháp luật. Không ngừng tự trau dồi kiến thức qua văn bản nghiệp vụ của ngành, chi nhánh, sách báo... Để từ đó có sự cập nhật những thông tin liên quan đến hoạt động của ngân hàng. Nếu không làm được những điều này cán bộ ngân hàng sẽ không kiểm soát được chất lượng công tác mà mình đảm nhận. Như vậy ở những vị trí khác nhau những người làm công tác tín dụng cần có thêm những tiêu chuẩn cụ thể sau: * Đối với cán bộ xây dựng chiến lược về tín dụng: - Trước hết phải là người có trình độ lý luận về nghiệp vụ ngân hàng vững vàng, ngoài ra phải là người có kiến thức kinh tế tổng hợp, có phương pháp nghiên cứu khoa học, am hiểu thị trường, giàu kinh nghiệm thực tế, có khả năng tổng hợp phán đoán tốt và phải có khả năng dự báo. Từ đó có thể xây dựng chiến lược tín dụng phù hợp với thực tế, đảm bảo tính khả thi. - Am hiểu pháp luật vì hoạt động tín dụng liên quan đến hầu hết các ngành thuộc mọi thành phần kinh tế. Do vậy cũng liên quan đến hầu hết các ngành luật của hệ thống pháp luật trong nước và quốc tế. Đảm bảo hệ thống chính sách tín dụng không chồng chéo, các quy định phù hợp với hệ thông luật pháp. - Phải có có kiến thức ngoại ngữ, tin học vì đây là cơ sở, phương tiện để tiếp xúc, nắm bắt nhanh nhạy những sự kiện kinh tế mới phát sinh, để lường trước những biến động trong tương lai. Ngoài ra phải am hiểu về marketing ngân hàng, tuy đây là lĩnh vực khá mới mẻ ở nước ta, nhưng có như vậy chính sách tín dụng mới khai thác được triệt để khách hàng hiện có và có chiến lược khai thác khách hàng tiềm năng. * Đối với cán bộ trực tiếp giao dịch với khách hàng: Đây là bộ phận có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng đến những phán quyết tín dụng của chi nhánh. Do vậy, ngoài việc được đào tạo cơ bản về nghiệp vụ ngân hàng, chấp hành nghiêm túc trình tự tác nghiệp tín dụng, họ cần có thêm những tiêu chuẩn sau: - Am hiểu sâu sắc tình hình tài chính, sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Có khả năng dự báo xu hướng phát triển, hoặc phát hiện những rủi ro tiềm ẩn từ khoản vay, từ chính doanh nghiệp. Từ đó tham mưu kịp thời cho lãnh đạo hướng xử lý cụ thể. - Có những hiểu biết nhất định về kinh tế thị trường, pháp luật để tránh tình trạng ngân hàng vô tình thành kẻ tiếp tay cho một số cán bộ doanh nghiệp chiếm đoạt tài sản của Nhà nước. - Phải có trình độ ngoại ngữ, tin học nhất định vì với xu hướng phát triển của xã hội, thì việc cập nhật thông tin mới là vô cùng quan trọng, nó là cơ sở ban đầu cho mọi phán quyết tín dụng. Hơn nữa, ngày càng nhiều nghiệp vụ tín dụng liên quan đến các công ty, ngân hàng nước ngoài do vậy nhu cầu sử dụng thành thạo máy vi tính, biết giao dịch bằng một ngoại ngữ ngày càng trở nên bức thiết. - Chi nhánh nên có kế hoạch bồi dưỡng cán bộ với những nội dung cơ bản như: Nghiệp vụ, pháp luật, tin học, ngoại ngữ... và định kỳ đánh giá nhận xét cán bộ qua đó để phân loại, xắp xếp lại cán bộ. Những cán bộ tín dụng nào không đủ tiêu chuẩn sẽ bố trí cho làm công tác khác. Cùng với việc phân loại cán bộ ngân hàng nên xây dựng chế độ thưởng, phạt công minh nhằm gắn liền lợi ích vật chất với công việc được giao, nâng cao trách nhiệm của cán bộ tín dụng. 6- Phát triển hệ thống thông tin: Trong thời đại ngày nay với sự tiến bộ vượt bậc của khoa học, công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin - tin học, con người có thể khai thác được lượng thông tin vô tận trong thời gian gần như tức thời để phục vụ, hỗ trợ cho mục tiêu hoạt động của mình. Vì vậy nếu không có sự đầu tư quan tâm thích đáng đến công nghệ đầu tư thông tin - tin học thì ngân hàng sẽ rất bất lợi trong cạnh tranh khi môi trường kinh doanh ngày càng được mở rộng và trở nên thống nhất. Những năm gần đây, ban lãnh đạo ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt nam đã giành sự quan tâm đặc biệt cho đầu tư, ứng dụng tin học phục vụ hoạt động của ngành và coi đây là một trong những biện pháp đột phá để tăng khả năng cạnh tranh, sẵn sàng hội nhập và ngày càng khẳng định vị thế của ngân hàng. Tuy nhiên ứng dụng tin học mới chủ yếu để phục vụ công tác thanh toán, kế toán, lưu trữ số liệu hoạt động kinh doanh của ngân hàng mà chưa quan tâm đúng mức đến những thông tin phục vụ tín dụng. Như trên đã nêu tầm quan trọng của thẩm định dự án, phân tích tài chính doanh nghiệp mà trong đó thông tin chính xác là nền tảng của mọi phân tích, đánh giá. Trong tình hình trên việc ngân hàng tự xây dựng cho mình một hệ thống thông tin quản lý, lưu trữ và dự báo riêng là rất cần thiết. Điều đó cho phép ngân hàng có được nguồn thông tin tin cậy, nhanh chóng, do tự mình xây dựng, kết hợp các thông tin nhiều chiều khác để trợ giúp, phục vụ kịp thời yêu cầu công việc. Đây thực chất là hoạt động tổng kết trên diện rộng quá trình thực hiện đầu tư. Nội dung: Hệ thống thông tin này phải được tiến hành thống nhất trong toàn hệ thống ngân hàng đầu tư. Tất cả cán bộ tín dụng đều có nhiệm vụ cập nhật thông tin vào mạng theo những tiêu thức thống nhất về tất cả các dự án, khách hàng ngân hàng đã thẩm định. Trước khi cho vay một dự án mới, cán bộ tín dụng chi nhánh có thể truy nhập vào hệ thống bất cứ lúc nào và đều có được thông tin cơ bản như Chủ trương đầu tư hiện tại của Nhà nước, của ngành, các chỉ tiêu, thước đo, suất đầu tư, thiết bị, công nghệ, khả năng cung cấp nguyên liệu, thị trường tiêu thụ, khả năng cạnh tranh của sản phẩm, giá thành các sản phẩm hiện tại, giá bán, so sánh với hàng nhập khẩu... III/ Kiến nghị Từ chỗ đầu tư tín dụng theo kế hoạch Nhà nước cho khách hàng là doanh nghiệp Nhà nước là chủ yếu không có tài sản thế chấp và không có vốn tự có tham gia vào dự án chuyển sang việc đầu tư cho vay phải có tài sản làm đảm bảo, có bảo lãnh của bên thứ 3 và có vốn tự có tham gia vào dự án 50% (NĐ178/1999/NĐ-CP) mặc dù giả pháp của chính phủ cuối năm 2000 quy định tỷ lệ này là 30% và việc tổ chức TD cho vay không có bảo đảm bằng tài sản thế chấp theo quy định của chính phủ. Với thực trạng doanh nghiệp hiện nay vốn tự có rất thấp, tình hình SXKD khó khăn nên việc thực hiện đầu tư cho dự án rất khó khăn, hơn nữa việc thực hiên quy định đảm bảo tiền vay của chính phủ khó thực hiện được. Từ những lý do trên và những tồn tại rút ra từ hoạt động tín dụng trung, dài hạn của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá, tôi xin kiến nghị như sau: 1. Đối với Nhà nước: - Nhà nước cần tạo lập môi trường pháp lý đầy đủ, ổn định cho hoạt động đầu tư tín dụng của ngân hàng đối với các doanh nghiệp. ở nước ta Luật ngân hàng Nhà nước và luật các tổ chức tín dụng mới ra đời là sự cần thiết khách quan, nhưng việc đưa luật vào cuộc sống đòi hỏi phải có sự linh hoạt và phù hợp với nền kinh tế nước ta hiện nay. Các văn bản dưới luật cần phải được ban hành đầy đủ và đồng bộ từng bước phù hợp với thực tế nền kinh tế trong từng thời kỳ, không thể áp dụng một cách máy móc - nó không những không thúc đẩy sự phát triển mà còn gây cản trở cho sự phát triển. Trước mắt cần ban hành luật kiểm toán để làm cơ sở cho việc nghiên cứu đánh giá tài chính doanh nghiệp một cách chính xác; luật về thé chấp tài sản... Sự đồng bộ, phù hợp của hệ thống pháp luật sẽ tạo ra hành lang pháp lý cho các ngân hàng cũng như doanh nghiệp hoạt động ổn định, mặt khác đảm bảo tính an toàn, hiệu quả cho hoạt động tín dụng ngân hàng. - Nhà nước phải ổn định môi trường vĩ mô của nền kinh tế. Nghĩa là Nhà nước phải xác định rõ chiến lược phảt triển kinh tế, hướng đầu tư một cách ổn định, lâu dài, ổn định thị trường, ổn định giá cả, duy trì tỷ lệ lạm phát ở mức hợp lý phải được coi là nhiệm vụ thường xuyên. Đây là điều kiện để ổn định giá trị tiền tệ, từ đó khuyến khích tiết kiệm, đầu tư, khuyến khích sản xuất. Trên cơ sở đó đảm bảo khả năng thu hồi vốn của ngân hàng. - Chính phủ cần có thái độ rứt khoát sắp xếp lại các doanh nghiệp, chỉ để lại các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, thực sự cần thiết cho quốc tế dân sinh nhằm tạo điều kiện cho đầu tư có trọng điểm, hiệu quả. Đồng thời chỉ đạo các ngành, các cấp có trách nhiệm cấp đủ vốn tự có cho các doanh nghiệp này để nó có đủ khả năng cạnh tranh và vay vốn ngân hàng. Bên cạnh việc sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước phải đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá tạo điều kiện cho các doanh nghiệp khắc phục khó khăn về vốn, có nhiều cơ hội đầu tư nâng cao công suất thiết bị, mở rộng môi trường kinh doanh. Chính phủ nhanh chóng đánh giá tình hình hoạt động của thị trường chứng khoán trong thời gian qua, khắc phục những tồn tại, hạn chế để thị trường này hoạt động có hiệu quả. Bởi vì sự hoạt động của thị trường này sẽ đem lại tính lỏng cao cho các khoản đầu tư của Ngân hàng cũng như doanh nghiệp. Sự phát triển của thị trường chứng khoán là nơi cung cấp dồi dào nguồn vốn cho tín dụng trung, dài hạn của ngân hàng và của doanh nghiệp. 2. Đối với với địa phương: - Trong thời gian tới UBND tỉnh cần có thái độ dứt khoát sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước theo định hướng của chính phủ. - Chủ trương của Chính phủ về cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước là rất đúng đắn, song việc cổ phần hoá hiện nay trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá diễn ra rất chậm do nhiều lý do. Đề nghị UBND tỉnh cần phải tăng cường chỉ đạo và có biện pháp thực hiện tốt hơn nữa. Vì đây là tiền đề tạo ra "hàng hoá" giúp các doanh nghiệp trao đổi và thu hút thị trường vốn, đồng thời giúp các doanh nghiệp này sản xuất kinh doanh có hiệu quả hơn trong việc cho vay chiết khấu các chứng từ có giá, an tâm trong đầu tư qua đó nâng cao được chất lượng tín dụng. - UBND tỉnh khoanh nợ cho các DN lỗ từ trước đồng thời cấp đủ vốn lưu động cho các các dự án đầu tư mà Ngân hàng ĐT và PT đã đầu tư. - UBND Tỉnh chỉ đạo các ngành chấp hành đúng trình tự xây dựng cơ bản. Ngân hàng đầu tư phải là thành viên chính thức của Hội đồng thẩm định dự án của Tỉnh nhất là các dự án có vay vốn tín dụng, đồng thời chỉ đạo các ngành nên phố hợp chặt chẽ với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh hoá trong việc xây dựng chủ trương đầu tư của tỉnh để giúp Ngân hàng chủ động trong việc tham gia đầu tư tín dụng. - Để ghi các dự án vào kế hoạch đầu tư hàng năm, tỉnh cần phải có qui hoạch phát triển cân đối giữa các ngành, các vùng kinh tế một cách kỹ càng, một mặt vừa đảm bảo đầu tư đúng hướng khai thác được tiềm năng thế mạnh của địa phương, mặt khác cần chú ý về cơ cấu đầu tư theo ngành và đảm bảo hiệu quả. Tránh tình trạng đầu tư tràn lan dẫn đến sau đầu tư không có thị trường tiêu thụ sản phẩm. - Có chính sách hỗ trợ về vốn cụ thể, kịp thời cho các doanh nghiệp được hình thành và phát triển từ nguồn vốn vay tín dụng. 3. Đối với ngân hàng đầu tư và phát triển Việt nam: - Có kế hoạch đào tạo nâng cao trình độ mọi mặt của cán bộ tín dụng qua các đợt học tập tập trung ngắn hạn về từng chuyên đề cụ thể như thẩm định dự án, phân tích tài chính doanh nghiệp, các văn bản luật liên quan đến ngân hàng. - Nâng mức uỷ nhiệm trong việc giải quyết cho vay trung, dài hạn ở chi nhánh, qua đó nâng cao hơn trách nhiệm và tạo chủ động linh hoạt cho chi nhánh giải quyết - Xây dựng hệ thống thông tin toàn ngành qua mạng phục vụ công tác thẩm định dự án . - Xây dựng hệ thống các tiêu thức để phân loại, đánh giá khách hàng theo từng ngành kinh tế thống nhất. Căn cứ vào đó các chi nhánh xây dựng chiến lược khách hàng phục vụ nhu cầu kinh doanh của mình. 4. Đối với ngân hàng đầu tư và phát triển Thanh hoá: - Nâng cao hơn nữa vai trò tư vấn của ngân hàng trong lĩnh vực thẩm định dự án. Từ đó có thể tìm kiếm các dự án có hiệu quả để cho vay. - Chủ động nâng cao chất lượng cán bộ tín dụng qua việc học các văn bản, chế độ mới ban hành vào các chiều thứ 5 hàng tuần. - Trong thời gian tới trong khi chờ ngân hàng Trung ương thiết lập và triển khai hệ thống thông tin toàn ngành Ngân hàng Thanh hoá cần đặc biệt chú ý tới công tác thông tin và công tác marketing Ngân hàng. Trong đó công tác thông tin cần phải chú ý tới quá trình thu nhập thông tin, xử lý thông tin (thông tin thực sự có chất lượng). Kết luận Nâng cao chất lượng tín dụng nói chung và tín dụng trung, dài hạn nói riêng là một vần đề vô cùng quan trọng đối với hoạt động của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường, nó không chỉ là vấn đề sống còn của ngân hàng thương mại mà nó còn có ý nghĩa to lớn trong việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Việc củng cố hoàn thiện và nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn là một vần đề đòi hỏi phaỉ thường xuyên và thực hiện nghiêm túc. Qua nghiên cứu về công tác tín dụng trung dài hạn tại ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá trong giai đoạn 1996-2000 và để có cơ sở đánh giá đúng hoạt động tín dụng trung, dài hạn, bản luận văn này đã nêu tóm tắt khái quát về lý luận có liên quan đến hoạt động tín dụng trung dài hạn của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trưòng, đồng thời đánh giá thực trạng tín dụng trung, dài hạn trong 5 năm qua và rút ra những mặt được, chưa được tại ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá. Nội dung chủ yếu đi sâu phân tích công tác thẩm định dự án, việc chấp hành qui trình tín dụng cho vay, thu nợ đối với tín dụng trung, dài hạn. Tuy nhiên mặt được rất nhiều, song cũng còn những tồn tại khó khăn không chỉ do chi nhánh mà còn liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành. Với kiến thức đã được trang bị ở trường và qua tìm hiểu thực tế tôi xin nêu ra một số giải pháp và đề xuất kiến nghị mong muốn sẽ góp phần giải quyết những vấn đề đang đặt ra nhằm nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn đối với ngân hàng thương mại nói chung và Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá nói riêng. Nội dung đề tài tương đối rộng, phức tạp, mặt khác bản thân còn nhiều hạn chế về lý luận, cũng như thực tế nên không tránh khỏi những thiếu sót. Một lần nữa tôi rất mong được sự góp ý của các Thầy, Cô giáo, lãnh đạo chi nhánh và các bạn đồng nghiệp để bản luận văn của tôi được hoàn chỉnh hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa nghiệp vụ ngân hàng thương mại, Ban giám đốc, các bạn đồng nghiệp trong Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá đã giúp đỡ tôi hoàn thành bản luận văn này./. Mục lục Chương I: Đầu tư và tín dụng trung, dài hạn của Ngân hàng đối với nền kinh tế Trang I/ Vai trò, đặc trưng của Đầu tư: 3 1. Vai trò của đầu tư 3 2. Đặc trưng của đầu tư 4 II/ Tín dụng trung, dài hạn của Ngân hàng thương mại đối với nền kinh tế 5 1. Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường 5 2. Tín dụng và các vấn đề liên quan đến hoạt động tín dụng của các Ngân hàng thương mại 5 3. Tín dụng trung, dài hạn của Ngân hàng TM đối với nền kinh tế 8 4. Vai trò tín dụng trung, dài hạn của Ngân hàng 9 III/ Chất lượng tín dụng trung, dài hạn của ngân hàng thương mại 10 1. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn của ngân hàng thương mại 10 2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng Trung, dài hạn của NHTM 11 3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng trung, dài hạn 13 IV/ Cơ chế chính sách có liên quan đến việc nâng cao chất lương tín dụng trung, dài hạn. 15 1. Những quy định chung về cho vay trung, dài hạn 15 2. Qui trình tín dụng đầu tư tại các chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển 17 Chương II: thực trạng tín dụng đầu tư trung, dài hạn tại ngân hàng đầu tư và phát triển thanh hoá I/ Bối cảnh kinh tế xã hội trên địa bàn tỉnh thanh hoá 20 1. Những thuận lợi trong thời gian tới 20 2. Khó khăn 20 II/ Về tình hình hoạt động kinh doanh của ngân hàng Đầu tư và phát triển Thanh Hoá. 21 1. Mô hình tổ chức của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá 21 2. Kết quả hoạt động kinh doanh 5 năm của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh hoá (từ 1996-2000) 22 III/ Thực trạng công tác tín dụng trung, dài hạn tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá 25 1. Thực hiện qui trình thẩm định 25 2. Tình hình hoạt động tín dụng trung, dài hạn đối với các dự án 39 IV/ Những kết quả và tồn tại rút ra từ hoạt động tín dụng trung, dài hạn tại Ngân hàng ĐT và PT Thanh Hoá 47 1. Những kết quả đạt được 47 2. Một số khó khăn tồn tại 50 Chương III: GiảI pháp để nâng cao chất lượng tín dụng trung, dàI hạn tại ngân hàng đt và pt thanh hoá I/ Định hướng hoạt động kinh doanh của Ngân hàng ĐT và PT về tín dụng trung, dài hạn 55 II/ Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn 56 1. Xác định tính chiến lược của chính sách tín dụng trung, dài hạn 56 2. Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án 57 3. Phân tích tài chính doanh nghiệp trước khi cho vay 59 4. Đa dạng hoá các phương thức huy động vốn trung, dài hạn 61 5. Tiêu chuẩn hoá cán bộ để nâng cao chất lượng tín dụng 62 6. Phát triển hệ thống thông tin 64 III/ Kiến nghị 64 1. Đối với Nhà nước 65 2. Đối với địa phương 66 3. Đối với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt nam 66 4. Đối với Ngân hàng Đầu tư và phát triển Thanh hoá 67 Kết luận 68 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28216.doc