Tổ chức công tác Kế toán chi phí sản xuất & tính giá thành sản phẩm tại Công ty Vận tải ô tô số 3

Lời mở đầu Trong giai đoạn hiện nay nền kinh tế đất nước là nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần. Thực hiện chính sách mở cửa để từng bước phát triển, hội nhập nề kinh tế Thế giới. Trong nền kinh tế này, các đơn vị cá nhân, doanh nghiệp tổ chức kinh tế khác được tự do sản xuất, tự do kinh doanh và tự do cạnh trạnh trong các mặt hàng đã đăng ký. Để tồn tại và phát triển vững mạnh, mỗi doanh nghiệp phải tuân thủ đúng các quy luật cung cầu, giá cả cạnh tranh. Đặc biệt phải tính đến hiệu

doc51 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1138 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tổ chức công tác Kế toán chi phí sản xuất & tính giá thành sản phẩm tại Công ty Vận tải ô tô số 3, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quả sản xuất kinh doanh. Điều này buộc các đơn vị phải linh hoạt chủ động tính toán đầu ra bao nhiêu, đầu vào bao nhỉêu. Từ đó có sức mạnh cạnh tranh trên thị trường mà phải đảm bảo có lãi. Đặc biệt nghành giao thông vận tải, và cả những vận tải tư nhân. Vì vậy giá cước vận chuyển hàng hoá luôn luôn biến động. Vậy muốn đảm bảo kinh doanh có lãi đòi hỏi người lãnh đạo phải năng động sáng tạo, khai thác nguồn vận chuyển hàng hoá kịp thời đúng thời gian quy định. Các cán bộ nghiệp vụ quản lý phải đi sâu, đi sát thông tin chính xác và kịp thời. Là sinh viên khoa kế toán trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân tôi nghiên cứu đề tài "Tổ Chức Công Tác Kế Toán Chi Phí Sản Xuất và Tính Giá Thành Sản Phẩm Tại Công Ty Vận Tải ô Tô Số 3”. Chuyên đề này bao gồm 3 chương: Phần I: Một số vấn đề lý luận chung về tổ chức kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại DN kinh doanh vận tải. Phần II: Tình hình thực tế về kế toán chi phí sản xuất kinh doanh và tính giá thành sản phẩm tại Công ty vận tải ô tô số 3. Phần III: Một số ý kiến nhằm hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất kinh doanh và tính giá thành sản phẩm tại công ty vận tải ô tô số 3. Phần I Một số vấn đề lý luận chung về tổ chức kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại doanh nghiệp kinh doanh vận tải I. Sự cần thiết phải tổ chức kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở doanh nghiệp kinh doanh vận tải 1. Đặc diểm của hoạt động kinh doanh dịch vụ vận tảo và ảnh hưởng của nó tới công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. *Khái niệm: Vận tải được hiểu là nghành sản xuất vật chất đặc biệt, thực hiện việc di chuyển hàng hoá, hành khách từ nơi này đến nơi khác và được đo bằng tấn/ km đối với hàng hoá vận chuyển và người/ km đối với vận tải hành khách. *Từ khái niệm trên của ngành vận tải có thể rút ra đặc điểm sau trong lĩnh vực hoạt động kinh doanh của ngành này: Doanh nghiệp vận tải quản lý quá trình hoạt động theo nhiều khâu khác nhau như giao dịch hợp đồng vận chuyển hàng hoá, hành khách. Kế hoạch tác nghiệp cần phải cụ thể hoá cho từng ngày, từng định kỳ ngắn lái xe và phương tiện làm chủ yếu ở bên ngoài doanh nghiệp. Vì vậy quá trình quản lý phải rất cụ thể, phải xây dựng được chế độ vật chất rõ ràng vận dụng cơ chế hợp lý. Phương tiện vận tải là những TSCĐ chủ yếu và quan trọng không thể thiếu trong quá trình thực hiện vân tải. Việc khai thác vận tải phụ thuộc nhiều vào cơ sở hạ tầng đường xá, cầu phá và điều kiện địa lý của từng vùng. *ảnh hưởng của nó tới công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. Do tính chất đặc thù của các doanh nghiệp vận tải và các doanh nghiệp sản xuất vật chất đặc biệt, vì vậy sản phẩm sản xuất ra không mang hình thái vật chất nên đơn vị đo lường của sản phẩm vận tải khác với đơn vị đo lường thông thường: Tấn/ km đối với hàng hoá vận chuyển và người/ km đối với hành khách. Do đặc điểm kinh doanh của các doanh nghiệp vận tải là không có sản phẩm dở dang nên giá thành sản phẩm vận tải là thể hiện bằng toàn bộ hao phí về lao động sống cần thiết và lao động vật hoá thực tế phát sinh tính cho toàn bộ sản lượng sản phẩm vận tải hoàn thành trong kỳ. Từ những tính chất và đặc điểm trên ta có: Giá thành đơn vị sản phẩm vận tải là chi phí vận tải tính cho một đơn vị sản phẩm vận tải hoàn thành. Giá thành vận tải là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh công tác quản lý của doanh nghiệp vận tải, thông qua chỉ tiêu giá thành có thể xác định được hiệu quả của việc sử dụng nguồn nhân tài, vật lực trong doanh nghiệp cũng như đánh giá một cách có cơ sở các biện pháp tổ chức quản lý, kỹ thuật mà doanh nghiệp đã thực hiện trong quá trình hoàn thành các dịch vụ cho khách hàng. 2. Nhiệm vụ của kế toán chi phí sản xuất. Để quản lý tốt kế toán kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành vận tải cần phải thực hiện các nhiệm vụ sau: - Ghi chép, tính toán phản ánh số hiện có và tình hình luân chuyển tài sản, vật tư, tiền vốn, quá trình tập hợp, tính toán phân bổ chi phí và kết quả kinh doanh từng hoạt động vận tải một cách hợp lý và chính xác. - Kiểm tra tình hình thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch kinh tế, tài chính kế hoạch thu nộp và thanh toán, kiểm tra, kiểm soát chi phí giá thành vận tải và kết quả kinh doanh. - Cung cấp thông tin phục vụ cho việc điến hành hoạt động kinh doanh vận tải, tạo điều kiện cho người quản lý quyết định đúng đắn trong kinh doanh. II. chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm 1. Chi phí sản xuất và phân loại chi phí sản xuất ở các doanh nghiệp. 1.1 Khái niệm chi phí sản xuất Chi phí sản xuất là toàn bộ hao phí về lao động sống và lao động vật hoá và các chi phí cần thiết khác mà doanh nghiệp phải chi ra trong một thời kỳ nhất định, biểu hiện bằng tiền. Để thực hiện các hoạt động của mình, các doanh nghiệp phải có ba yếu tố cơ bản: Tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động. Các yếu tố này tham gia vào quá trình sản xuất có sự khác nhau và hình thành nên các chi phí tương ứng: Chi phí khấu hao tư liệu lao động, chi phí nguyên vật liệu, chi phí nhân công.Trong điều kiện tồn tại nền kinh tế thị trường thì những chi phí này được biểu hiện bằng thước đo tiền tệ. Hoạt động trong doanh nghiệp thường bao gồm nhiều khâu, nhiều lĩnh vực khác nhau như: Hoạt động sản xuất, thực hiện công việc lao vụ. Hoạt động thu mua, dự trữ hàng hoá. Hoạt động bán hàng: Luân chuyển tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, cung cấp lao vụ, dịch vụ Hoạt động khác như đầu tư tài chính, nghiệp vụ bất thường, … Trong các doanh nghiệp sản xuất thì chi phí bỏ ra cho khâu sản xuất được gọi là chi phí sản xuất. Thực chất chi phí sản xuất ở các doanh nghiệp là sự chuyển dịch vốn của các doanh nghiệp vào đối tượng tính giá nhất định, nó là vốn của doanh nghiệp bỏ vào qúa trình sản xuất. Trong điều kiện nền kinh tế hàng hóa và cơ chế hạch toán kinh doanh mọi chi phí đều được biểu hiện dưới hình thái tiền tệ. Vì vậy, chi phí sản xuất trong doanh nghiệp là chi phí về lao động sống và lao động vật hóa cũng được biểu hiện bằng tiền. Chi phí tiền công là biểu hiện bằng tiền của hao phí lao động sống, chi phí khấu hao TSCĐ, chi phí nguyên liệu, vật liệu, nhiên liệu là biểu hiện bằng tiền của hao phí về lao động vật hóa. Như vậy, nếu xét về mặt lượng thì chi phí sản xuất phụ thuộ vào hai yếu tố là: + Khối lượng lao động và tư liệu sản xuất đã chi ra trong một thời kỳ nhất định + Giá cả của các tư liệu sản xuất đã tiêu hao trong quá trình sản xuất và tiền lương của đơn vị lao động hao phí. Như vậy, trong điều kiện hiện nay, việc đánh giá chính xác chi phí sản xuất không những là tất yếu khách quan mà còn là vấn đề được coi trọng góp phần giúp doanh nghiệp tính đúng giá cả nhằm bảo toàn vốn theo yêu cầu của chế độ quản lý kinh tế mới hiện nay. Chi phí sản xuất của doanh nghiệp phát sinh thường xuyên trong suốt quá trình tồn tại phát triển của doanh nghiệp. Nhưng để phục vụ cho việc quản lý và hạch toán kinh doanh chi phí sản xuất phải được tính toán tập hợp cho từng thời kỳ: hàng tháng, hàng quý hoặc hàng năm phù hợp với kỳ báo cáo. Để chính xác toàn bộ chi phí bỏ ra trong kỳ. Thực chất là tập hợp CPSX theo các đối tượng tập hợp chi phí và hạch toán vào giá thành sản phẩm theo từng khoản mục chi phí. 1.2 Phân loại chi phí sản xuất Chi phí sản xuất của doanh nghiệp bao gồm nhiều khoản chi có nội dung, công dụng và mục đích sử dụng không như nhau, vì vậy, để phục vụ cho công tác quản lý nói chung và kế toán nói riêng, cần phải phân loại CPSX theo tiêu thức thích hợp. *Phân loại CPSX theo nội dung, tính chất của chi phí Theo cách phân loại này, những khoản chi phí có chung tính chất, nội dung kinh tế được xếp chung vào một yếu tố, không phân biệt chi phí đó phát sinh ở đâu và dùng vào mục đích gì trong sản xuất kinh doanh. Toàn bộ CPSX kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm các yếu tố sau: - Chi phí nguyên liệu, vật liệu: bao gồm toàn bộ các loại nguyên vật liệu (NVL) chính, NVL phụ, nhiên liệu... doanh nghiệp sử dụng cho hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ. - Chi phí nhân công: Bao gồm toàn bộ số tiền công phải trả, tiền trích BHXH, BHYT, KPCĐ của công nhân và nhân viên hoạt đông sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp. - Chi phí khấu hao tài sản cố định: Bao gồm toàn bộ số tiền trích khấu hao tài sản cố định sử dụng cho sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp - Chi phí dịch vụ mua ngoài: bao gồm toàn bộ số chi phí khác dùng cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. - Chi phí khác bằng tiền: bao gồm toàn bộ số chi phí khác dùng cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ngoài bốn yếu tố đã nêu ở trên Cách phân loại này có tác dụng quan trọng đối với việc quản lý chi phí của lĩnh vực sản xuất: Cho phép hiểu rõ cơ cấu, tỷ trọng từng yếu tố chi phí là cơ sở để phân tích, đánh giá tình hình thực hiện dự toán chi phí sản xuất, làm cơ sở cho việc dự trù hay xây dựng kế hoạch cung ứng vật tư tiền vốn, huy động sử dụng lao động... *Phân loại chi phí sản xuất theo mục đích công dụng của chi phí Căn cứ vào mục đích, công dụng của chi phí trong quá trình sản xuất kinh doanh, những chi phí có chung công dụng kinh tế được xếp vào một khoản mục chi phí . - Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp : Bao gồm chi phí về nguyên vật liệu chính, nguyên vật liệu phụ, nhiên liệu được sử dụng vào mục đích trực tiếp sản xuất sản phẩm, không tính vào khoản mục này những chi phí NVL sử dụng vào mục đích sản xuất chung và những hoạt động ngoài sản xuất. - Chi phí nhân công trực tiếp: Bao gồm chi phí về tiền công, tiền trích BHXH, BHYT, KPCĐ của công nhân trực tiếp sản xuất, không tính vào khoản mục này số tiền công và số tiền trích BHXH, BHYT, KPCĐ của công nhân quản lý chung và nhân viên bán hàng. Chi phí sản xuất chung: Là chi phí dùng vào việc quản lý và phục vụ sản xuất chung tại bộ phận sản xuất ( phân xưởng, đội trại ...), bao gồm các điều khoản sau: +Chi phí nhân viên phân xưởng +Chi phí vật liệu + Chi phí dụng cụ sản xuất + Chi phí khấu hao tài sản cố định +Chi phí dịch vụ mua ngoài +Chi phí khác bằng tiền Phân loại CPSX theo mục đích và công dụng kinh tế có tác dụng phục vụ cho việc quản lý chi phí theo định mức, là cơ sở cho kế toán tập hợp CPSX và tính giá thành sản phẩm theo khoản mục, là căn có để phân tích tình hình thực hiện kế hoạch đầu vào của quá trình sản xuất, kinh doanh ở doanh nghiệp. * Phân loại CPSX theo đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh ở doanh nghiệp - Chi phí ban đầu: là các chi phí doanh nghiệp phải lo liệu, mua sắm, chuẩn bị từ lúc đầu để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh - Chi phí luân chuyển nội bộ: Là các chi phí phát sinh trong quá trình phân công và hiệp tác lao động trong nội bộ doanh nghiệp, chẳng hạn: Giá trị lao vụ sản xuất phụ cung cấp cho các phân xưởng chính, giá trị bán thành phẩm tự chế được sử dụng làm vật liệu trong quá trình chế biến Phân loại CPSX thành chi phí ban đầu theo yếu tố và chi phí luân chuyển nội bộ có ý nghĩa rất quan trọng đối vơí quản lý vĩ mô cũng như đối với quản trị doanh nghiệp. CPSX kinh doanh ban đầu theo yếu tố là cơ sở để lập và kiểm tra việc thực hiện dự toán CPSX kinh doanh theo yếu tố, là cơ sở để lập các kế hoạch cân đối trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân cũng như ở từng doanh nghiệp ( Cân đối giữa dự toán chi phí với kế hoạch cung cấp vật tư, kế hoạch lao đông tiền lương, kế hoạch khấu hao tài sản cố định..) Là cở sở để xác định định mức tiêu hao vật chất và tính thu nhập quốc dân của doanh nghiệp, nghành và toàn bộ nền kinh tế. *Phân loại CPSX căn cứ vào mối quan hệ của chi phí với quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm và quá trình kinh doanh -Chi phí cơ bản: Là các chi phí có liên quan trực tiếp quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm, như chi phí nguyên liệu, vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công sảne xuất sản phẩm: Khấu hao tài sản cố định dùng trực tiếp vào sản xuất, chế tạo sản phẩm. - Chi phí chung: Là các chi phí dùng vào tổ chức, quản ký và phục vụ sản cuất có tình chất chung. Thuộc loại này có chi phí quản lý ở các phân xưởng ( đội, trại ) sản xuất và chi phí quản lý doanh nghiệp Cách phân loại này giúp các nhà quản trị koanh nghiệp xác định được phương hướng và các biện pháp tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm. Đối với chi phí cơ bản là các chi phí liên quan trực tiếp đến quá trình công nghệ sản xuất sản phẩm, thiếu chúng thì không thể sản xuất, chế tạo được sản phẩm, vì vậy không thể cắt bỏ một loại chi phí cơ bản vào mà phải phấn đấu giảm thấp các định mức tiêu hao vật liệu, lao động, khấu hao... hoặc cải tiến công nghệ, hợp lý hoá sản xuất , tìm kiếm vật liệu thay thế,... Ngược lại, đối với chi phí chung cần phải triệt để tiết kiệm, hạn chế và thậm chí loại trừ các chi phí không cần thiết, tăng cường quản lý chi phí chung theo dự toán tiêu chuẩn và chế độ chi tiêu. * Phân loại chi phí sản xuất theo mối quan hệ và khả năng quy nạp chi phí vào các đối tượng kế toán chi phí - Chi phí trực tiếp : Là những chi phí chỉ quan hệ trực tiếp đến việc sản xuất mội loại sản phẩm, một công việc, lao vụ hoặc một hoạt động, một địa điểm nhất định và hoàn toàn có thể hạch toán, quy nạp trực tiếp cho sản phẩm, công việc, lao vụ,... đó. - Chi phí gián tiếp : Là chi phí có liên quan đến nhiều sản phẩm , công việc, lao vụ, nhiều đối tượng khác nhau nên phải tập hợp, quy nạp cho từng đối tượng bằng phương pháp phân bổ gián tiếp. Cách phân loại này có ý nghĩa thuần túy đối với kỹ thuật hạch toán. Trường hợp có phát sinh chi phí gián tiếp, bắt buộc phải áp dụng phương pháp phân bổ, lựa chọn tiêu thức phân bổ phù hợp. *Phân loại chi phí trong mối quan hệ với khối lượng hoạt động Chi phí sản xuất được chia làm 2 loại: - Chi phí khả biến (biến phí): Là những chi phí thay đổi về tổng số tỷ lệ với sự thay đổi của mức độ hoạt động. Khối lượng ( hay mức độ) hoạt động có thể là số lượng sản phẩm hoàn thành, số giờ máy hoạt động,... - Chi phí bất biến : Là những chi phí không thay đổi về tổng số dù có sự thay đổi trong mức độ hoạt đông của sản xuất hoặc khối lượng sản phẩm, công việc lao vụ sản xuất trong kỳ. Phân loại chi phí thành chi phí khả biến và chi phí bất biến có tác dụng lớn đối với quản trị kinh doanh, phân tích điểm hoà vốn và phục vụ cho việc ra quyết định quản lý cần thiết để hạ giá thành sản phẩm tăng hiệu quả kinh doanh. Ngoài các cách phân loại như trên còn có thể phân loại chi phí theo thẩm quyền ra quyết định. Như vậy, mỗi cách phân loại chi phí sản xuất kinh doanh có ý nghĩa riêng của nó, đồng thời bổ sung cho nhau nhằm quản lý tốt, hạch toán đầy đủ, chính xác chi phí sản xuất góp phần quản lý tài sản, vật tư lao động, tiền vốn của doanh nghiệp có có hiệu quả và đề ra được những biện pháp phấn đấu hạ giá thành sản phẩm. 2. Giá thành sản phẩm và các loại giá thành sản phẩm. 2.1 Khái niệm giá thành sản phẩm Giá thành sản phẩm (công việc, lao vụ) là CPSX tính cho một khối lượng hoặc một đơn vị sản phẩm ( Công việc, lao vụ ) do doanh nghiệp sản xuất đã hoàn thành. Giá thành sản phẩm (GTSP) là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh kết quả sử dụng tài sản , vật tư, lao động và tiền vốn trong quá trình sản xuất, cũng như tính đúng đắn của các giải pháp tổ chức, kinh tế, kỹ thuật và công nghệ và doanh nghiệp đã sử dụng nhằm năng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, hạ thấp chi phí và tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Giá thành còn là một căn cứ quan trọng để xác định giá bán và xác định hiệu quả cuả hoạt động sản xuất. Đối với mỗi loại sản phẩm sản xuất ra nếu giá bán không thay đổi thì lợi nhuận thu được càng cao khi giá thành sản xuất của nó càng thấp, vì vậy phấn đầu hạ thấp giá thành sản phẩm là mục tiêu và cũng là nhiệm vụ quan trọng của các doanh nghiệp sản xuất. Phấn đấu hạ thấp giá thành cũng là tiền đề giúp cho các doanh nghiệp tăng tích luỹ, là cơ sở nâng cao đời sống công nhân viên, tăng khoản đóng góp cho Nhà nước. 2.2 Các loại giá thành sản phẩm Giá thành sản phẩm là một trong những chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hiệu quả hoạt động SXKD của doanh nghiệp. Việc tính toán giá thành hợp lý là một căn cứ để xác định giá bán sản phẩm nhằm đảm bảo thu được lợi nhuận. Để giúp cho việc nghiên cứu và quản lý tốt giá thành sản phẩm, kế toán cần phải phân biệt các loại giá thành. Có 2 loại giá thành chủ yếu sau: 2.2.1 Phân loại giá thành theo cơ sở số liệu và thời điểm tính gía thành Căn cứ vào cơ sở số liệu và thời điểm tính gía thành , giá thành sản phẩm được chia thành 3 loại: - Giá thành kế hoạch: Là giá thành sản phẩm được tính trên cơ sở chi phí sản xuất kế hoạch và sản lượng kế hoạch. Việc tính giá thành kế hoạch do bộ phận kế hoạch của doanh nghiệp thực hiện và được tiến hành trước khị bắt đầu quá trình sản xuất ,chế tạo sản phẩm, giá thành kế hoạch là mục tiêu phấn đấu của doanh nghiệp, là căn cứ để so sánh, phân tích , đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch hạ giá thành của doanh nghiệp. - Giá thành định mức: Giá thành định mức là giá thành sản phẩm được tính trên cơ sở các định mức chi phí hiện hành và chỉ tính cho đơn vị sản phẩm. Việc tính giá thành định mức cũng được thực hiện trước khi tiến hành sản xuất, chế tạo sản phẩm. Giá thành định mức là công cụ quản lý định mức của doanh nghiệp là thước đo chính xác để xác định kết quả sử dụng tài sản, vật tư, lao động trong sản xuất, giúp cho đánh giá đúng đắn các giải pháp kinh tế kỹ thuật mà doanh nghiệp đã thực hiện trong quá trình hoạt động sản xuất nhằm năng cao hiệu quả kinh doanh. - Giá thành thực tế: Giá thành thực tế là gía thành sản phẩm được tính trên cơ sở sổ liệu chi phí sản xuất thực tế dã phát sinh và tập hợp được trong kỳ cũng như sản lượng sản phẩm thực tế đã sản xuất trong kỳ. Giá thành thực tế chỉ có thể tính toán được sau khi kết thúc quá tình sản xuất, chế tạo sản phẩm và được tính toán cho cả chỉ tiêu tổng giá thành và giá thành đơn vị. Giá thành thực tế là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh kết quả phấn đấu của doanh nghiệp trong việc tổ chức và sử dụng các giải pháp kinh tế kỹ thuật tổ chức và công nghệ... để thực hiện quá trình sản xuất sản phẩm, là cơ sở để xác định kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đối với Nhà nước cũng như các đối tác liên doanh liên kết. 2.2.2 Phân loại giá thành theo phạm vi tính toán: Theo cách phân loại này, có 2 loại giá thành -Giá thành sản xuất: Giá thành sản xuất của sản phẩm bao gồm các chi phí sản xuất, chế tạo sản phẩm ( chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung) tính chi sản phẩm, công việc hay lao vụ đã hoàn thành - Giá thành toàn bộ của sản phẩm tiêu thụ : Bao gồm giá thành sản xuất và chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp tính cho sản phẩm tiêu thụ. 3. Mối quan hệ giữa CPSX và tính GTSP: Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm có mối quan hệ mật thiết với nhau. Chi phí sản xuất là cơ sở để tính toán, xác định giá thành sản phẩm. Cả chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm đều là những chi phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra. Việc sử dụng tiết kiệm chi phí sản xuất có ảnh hưởng trực tiếp đến giá thành sản phẩm. Tuy vậy giữa chúng có sự khác nhau: - Chi phí sản xuất gắn liền với kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp - Giá thành sản phẩm luôn gắn liền với một loại sản phẩm, công việc, lao vụ, dịch vụ đã hoàn thành. - Chi phí sản xuất không chỉ liên quan đến sản phẩm , công việc , lao vụ ,dịch vụ đã hoàn thành mà còn liên quan đến cả sản phẩm hỏng, sản phẩm làm dở dang cuối kỳ trước được chuyển sang kỳ hiện tại. Ta có sơ đồ mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thàn sản phẩm: CPSX dở dang đầu kỳ CPSX phát sinh trong kỳ Tổng giá thành sản phẩm hoàn thành CP SX dở dang cuối kỳ Khi giá trị sản phẩm dở dang đầu kỳ và cuối kỳ bằng nhau hoặc các ngành sản xuất không có sản phẩm dở dang thì tổng sản phẩm bằng tổng chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ. 4. Đối tượng tập hợp CPSX và đối tượng tính giá thành Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành đóng một vai trò hết sức quan trọng trong công tác hạch toán kinh doanh, nó ảnh hưởng đến việc xác định kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó việc xác định đúng đắn đối tượng tập hợp CPSX và đối tượng tính giá thành là vấn đề then chốt quyết định đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. 4.1 Đối tượng tập hợp CPSX Đối tượng tập hợp CPSX ( hay đối tượng tập hợp chi phí ) là phạm vi, giới hạn để tập hợp CP nhằm đáp ứng kiểm soát chi phí và tính giá thành sản phẩm. Giới hạn (phạm vi ) để tập hợp CPSX có thể là: + Nơi phát sinh chi phí: Phân xưởng, đội trại sản xuất, bộ phận chức năng. +Nợi gánh chịu chi phí: Sản phẩm, công việc hoặc lao vụ do doanh nghiệp đang sản xuất, công trình, hàng mục công trình, đơn đặt hàng... Việc xác định đối tượng kế toán CPSX thực chất là xác định nơi gây ra chi phí và đối tượng chịu chi phí. Để xác định được đúng đối tượng tập hợp chi phí phải căn cứ vào yếu tố sau: * Dựa vào tính chất sản xuất và quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm. Với mỗi doanh nghiệp tuỳ thuộc vào đặc điểm quy trình công nghệ, tính chất sản xuất thì đối tượng kế toán kế toán chi phí sản xuất là khác nhau: + Với doanh nghiệp có quá trình công nghệ sản xuất giản đơn, không chia thành các giai đoạn cụ thể rõ ràng thì đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là toàn bộ quy trình công nghệ + Với doanh nghiệp có quy trình công nghệ sản xuất phức tạp, liên tục thì đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là từng giai đoạn công nghệ. + Với doanh nghiệp có quy trình sản xuất song song thì đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là từng chi tiết sản phẩm. * Dựa vào đặc điểm tính chất sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp hay còn gọi là loại hình sản xuất. Mỗi doanh nghiệp tổ chức sản xuất khác nhau thì đối tượng tập hợp chi phí sản xuất cũng khác nhau: +Nếu doanh nghiệp sản xuất hàng loạt thì đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là theo loạt hàng hay theo đơn đặt hàng. + Nếu doanh nghiệp sản xuất khối lượng lớn như mặt hàng cố định, chu kỳ sản xuất lặp đi lặp lại thì đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là từng loại sản phẩm. * Dựa vào cơ cấu tổ chức sản xuất trong doanh nghiệp: nếu doanh nghiệp sản xuất theo phân xưởng thì tập hợp chi phí sản xuất theo phân xưởng, còn không thì toàn doanh nghiệp là một đối tượng tập hợp chi phí sản xuất . * Dựa vào yêu cầu quản lý, trình độ , khả năng quản lý của doanh nghiệp. Nếu yêu cầu quản lý càng cao, trình độ và khả năng quản lý của nhân viên càng tốt thì đối tượng tập hợp chi phí càng cụ thể ,chi tiết và ngược lại. Như vậy việc xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất chỉ có trên cơ sở phân tích các căn cứ này mới đảm bảo tính khoa học và hợp lý. Việc xác định đối tượng tập hợp chi phí là khâu đầu tiên quan trọng của công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất Việc xác định đối tượng kế toán CPSX theo đúng đối tượng qui định có tác dụng tích cực cho việc tăng cường quản lý sản xuất kinh doanh và chi phí sản xuất kinh doanh , cho công tác hạch toán kinh tế ( Nội bộ và toàn đơn vị), phục vụ kịp thời cho công tác tính giá thành sản phẩm, dịch vụ. 4.2 Đối tượng tính giá thành Đối tượng tính giá thành là các loại sản phẩm, công việc, lao vụ doanh nghiệp sản xuất, chế tạo và thực hiện tính được tổng giá thành và giá thành và giá thành đơn vị Việc xác định đối tượng tính giá thành ở từng doanh nghiệp cụ thể phải dựa vào rất nhiều nhân tố cụ thể : -Đặc điểm tổ chức sản xuất và cơ cấu sản xuất -Quy trình công nghệ sản xuất, chế tạo sản phẩm -Đặc điểm sử dụng sản phẩm, nửa thành phẩm. - Các yêu cầu quản lý, yêu cầu cung cấp thông tin cho việc ra quyết định trong doanh nghiệp -Khả năng và trình độ quản lý, hạch toán Kỳ tính giá thành là thời kỳ bộ phận kế toán cần tiến hàng công việc tính giá thành cho các đối tượng tính giá thành . Xác định kỳ tính giá thành thích hợp sẽ giúp cho công việc tính giá thành sản phẩm khoa học, hợp lý hơn, đảm bảo cung cấp thông tin số liệu về giá thành thực tế sản phẩm thực tế sản phẩm lao vụ trung thực, kịp thời. Tuỳ từng đặc đIểm tổ chức sản xuất và quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm mà doanh nghiệp lựa chọn cho mình một kỳ tính giá thành khác nhau: Doanh nghiệp tổ chức sản xuất nhiều chu kỳ sản xuất ntgắn xen kẽ liên tục thì kỳ tính giá thành thích hợp là cuối mỗi tháng. Doanh nghiệp tổ choc đơn chiếc hoặc hàng loạt theo đơn đặt hàng thì kỳ tính giá thành thích hợp là cuối mỗi tháng. Các loại sản phẩm nông nghiệp do tính chất thời vụ và chu kỳ sản xuất dàI cho nên kỳ tính giá thành là hàng năm. Như vậy xác định đúng kỳ tính giá thành và lựa chọn phương pháp tính giá thành thích hợp với tong loại hình doanh nghiệp giúp cho việc tính giá thành được chính xác, hợp lý hơn. 4.3 Mối quan hệ giữa đối tượng kế toán tập hợp chi phí và đối tượng tính giá thành Giữa đối tượng kế toán tập hợp chi phí và đối tượng tính giá thành có mối quan hệ thật chặt chẽ vơí nhau, điều đó thể hiện số liệu CPSX đã tập hợp được trong kỳ theo đối tượng là cơ sở và là căn cứ để tính giá thành sản phẩm cho từng đối tượng tính giá thành có liên quan. Chúng giống nhau ở bản chất chung vì đều là phạm vị giới hạn để tập hợp chi phí sản xuất và cùng phục vụ cho công tác quản lý, phân tích kiểm tra chi phí và giá thành . Song giữa chúng có những đIểm khác nhau. Xác định đối tượng tập hợp chi phí là xác định phạm vi, nơI phát sinh chi phí để tập hợp chi phí phát sinh trong kỳ( như phân xưởng, công việc.). Xác định đối tượng tính giá thành là xác định nơI gánh chịu chi phí tức là có liên quan đến kết quả của quá trình sản xuất ( như sản phẩm, công việc, lao vụ hoàn thành.). Một đối tượng tập hợp chi phí sản xuất có thể bao gồm nhiều đối tượng tính giá thành và ngựơc lại một đối tượng tính giá thành lại có thể bao gồm nhiều đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất 5. Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm 5.1 Phương pháp tập hợp chi phí vận tải. Tập hợp chi phí vận tải là phương pháp hay hệ thống các phương pháp dùng để tập hợp chi phí vận tải phát sinh trong phạm vi, giới hạn của đối tượng tập hợp chi phí đã lựa chọn. Nội dung chủ yếu của phương pháp tập hợp chi phí vận tải là căn cứ vào đối tượng tập hợp chi phí đã xác định để mở các sổ hoặc thẻ chi tiết phản ánh các khoản chi phí vận tải phát sinh đã được phân loại tổng hợp theo từng đối tượng cụ thể. Căn cứ vào nội dung chi phí vận tải, kế toán xác định phương pháp tập hợp chi phí gồm: 5.1.1 Phương pháp tập hợp chi phí trực tiếp . Chi phí trực tiếp là các khoản chi phí có liên quan trực tiếp đến đối tượng tập hợp chi phí và có thể hạch toán trực tiếp cho từng đối tượng. Vì vậy, hàng ngày khi các khoản chi phí trực tiếp phát sinh liên quan trực tiếp đến đối tượng nào kế toán phải căn cứ vào chứng từ chứng minh cụ thể từng khoản chi phí để hạch toán trực tiếp cho đối tượng đó trên các tài khoản kế toán hoặc sổ kế toán chi tiết. 5.1.2 Phương pháp tập hợp và phân bổ chi phí sản xuất chung Chi phí sản xuất chung là những chi phí liên quan đến nhiều đối tượng, cần phải tập hợp để phân bổ cho các đối tượng theo tiêu chuẩn hợp lý. Ngoài ra, chi phí sản xuất chung không đơn thuần là chi phí quản lý, phục vụ mà đó là những chi phí cấu thành nên giá thành dịch vụ. Theo phương pháp này, hàng ngày khi kế toán nhận được các chứng từ về các khoản chi phí phát sinh liên quan đến nhiều đối tượng chịu chi phí, phải tập hợp số liệu vào sổ kế toán chi phí chung, cuối tháng phân bổ cho các đối tượng chịu chi phí theo tiêu chuẩn thích hợp. Tức là: Trình tự tập hợp và phân bổ chi phí sản xuất chung như sau: Bước 1: Tập hợp các chi phí liên quan đến nhiều đối tượng. Căn cứ vào các chứng từ phát sinh chi phí, kế toán ghi sổ chi tiết chi phí sản xuất chung. Cuối tháng tổng hợp số liệu từ sổ chi tiết chi phí sản xuất chung theo tổng số và có phân tích theo từng nội dung chi phí. Bước 2: Lựa chọn tiêu chuẩn phân bổ hợp lý và phân bổ từng nội dung chi phí. Dựa vào đặc điểm cụ thể về tổ chức sản xuất kinh doanh dịch vụ, tổ chức quản lý và tính chất sản phẩm để lựa chọn tiêu chuẩn phân bổ. Tiêu chuẩn phân bổ hợp lý đối với dịch vụ vận tải thường là tổng chi phí trực tiếp. Chi phí vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và phân bổ theo tiêu chuẩn doanh thu vận tải. Tính toán phân bổ chi phí chung theo công thức sau: Chi phí chung phân bổ cho từng đối tượng = Tổng chi phí cần phân bổ Tổng tiêu chuẩn phân bổ x Tiêu chuẩn phân bổ từng đối tượng 5.2 Phương pháp giá thành vận tải. Phương pháp tính giá thành là phương pháp sử dụng số liệu chi phí sản xuất, dịch vụ đã tập hợp được trong kỳ để tính toán tổng giá thành và giá thành đơn vị theo từng khoản mục chi phí quy định cho các đối tượng tính giá thành doanh nghiệp căn cứ vào đặc điểm tổ chức sản xuất, quy trình công nghệ, đặc điểm sản phẩm, yêu cầu quản lý sản xuất và quản lý giá thành, mối quan hệ giữa đối tượng kế toán tập hợp chi phí với đối tượng tính giá thành để lựa chọn phương pháp tính giá thành thích hợp cho từng đối tượng tính giá thành. Trong kinh doanh vận tải thường áp dụng các phương pháp tính giá thành sau: 5.2.1 Phương pháp tính giá thành giản đơn (Phương pháp tính giá thành trực tiếp). Phương pháp này được áp dụng rộng rãi trong các doanh nghiệp kinh doanh vận tải có quy trình công nghệ giản đơn như vận tải ô tô, vận tải thủy đường không. Cuối cùng, trên cơ sở số liệu về chi phí vận tải đã được tính trong kỳ và trị giá nhiên liệu còn ở phượng tiện vận tải đầu và cuối kỳ để tính giá thành theo công thức: Chi phí nhiên liệu còn ở phương tiện đầu kỳ Chi chí vận tải phát sinh trong kỳ Giá thành sản phẩm = + - Chi phí nhiên liệu còn ở phương tiện cuối kỳ Tổng giá thành Khối lượng vận tải hoàn thành Giá thành đơn vị = Trường hợp nhiên liệu hao khoán cho lái xe, cuối kỳ không xác định trị giá nhiên liệu còn ở phượng tiện giá thành sản phẩm là toàn bộ chi phí vận tải tập hợp được trong kỳ. 5.2.2 Phương pháp tính giá thành định mức Phương pháp này được áp dụng với những doanh nghiệp đã có các định mức kinh tế kỹ thuật tương đối ổn định và hợp lý, chế độ quản lý theo định mức đã được kiện toàn và có nền nếp trình độ tổ chức và nghiệp vụ chuyên môn kế toán tương đối cao đặc biệt là thực hiện tốt chế độ hạch toán ban đầu. Nội dung cơ bản của phương pháp tính giá thành định mức bao gồm: + Căn cứ vào định mức kinh tế kỹ thuật hiện hành và dự toán ch._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docK0600.doc
Tài liệu liên quan